Các bài suy niệm CHÚA NHẬT - Lễ Mình và Máu Thánh Chúa Kitô - Năm B
Lời Chúa: Xh 24,3-8; Dt 9,11-15; Mc 14,12-16.22-26
Tài liệu về Lời Chúa
***********************************************
Có một mẩu chuyện kể lại rằng: Trước khi từ giã mái nhà Nagiarét để lên đường rao giảng Phúc Âm, Chúa Giêsu đã hỏi Đức Mẹ: Thưa Mẹ, Mẹ muốn con để lại gì cho Mẹ sau những năm Mẹ đã giúp đỡ và an ủi con? Đức Mẹ đã trả lời: Mẹ chỉ mong được đứng cạnh con dưới chân thánh giá vào ngày thứ sáu hầu kết hiệp với hy lễ của con.
Đúng thế, kết hiệp với hy lễ của Đức Kitô cũng chính là điểm cao đẹp nhất mà người tín hữu chúng ta phải thực hiện. Để hiểu được điều đó, chúng ta hãy nhìn lên bàn thờ và chúng ta sẽ thấy những gì? Trước hết vị linh mục thượng phẩm chính là Chúa Giêsu. Sau khi thiết lập và cử hành thánh lễ đầu tiên vào chiều thứ năm tuần thánh, Ngài còn tiếp tục hiện diện và cử hành trong mỗi thánh lễ. Bởi vì nếu không có Chúa Giêsu thì cũng chẳng có thánh lễ. Và như sách giáo lý đã dạy, qua bàn tay linh mục chính Chúa Giêsu cử hành thánh lễ và dâng lên Chúa Cha của lễ tinh tuyền, bởi vì Đức Chúa Giêsu là linh mục đời đời theo dòng Melchisédech.
Bên cạnh Chúa Giêsu là vị linh mục, đã lãnh nhận bí tích Truyền Chức Thánh. Nhờ ngài mà bánh rượu sẽ trở nên Mình và Máu Thánh Đức Kitô. Nhờ ngài mà thánh lễ được cử hành ở khắp mọi nơi trên mặt đất này. Như chúng ta đã thấy trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu đã truyền chức linh mục cho các môn đệ, rồi trong dòng thời gian, các môn đệ lại truyền chức cho những người khác, như vậy quyền dâng tiến hy lễ và truyền phép được chuyển thông cho đến tận cùng thời gian. Vị linh mục rao giảng Lời Chúa, tha thứ tội lỗi và nhất là cử hành thánh lễ.
Thế nhưng, trong thánh lễ chúng ta không chỉ dừng lại ở đó để rồi có một thái độ thụ động, mơ mộng hay ngủ gục. Chúng ta không xem lễ như xem một vở kịch, một cuốn phim, nhưng chúng ta thực sự tham dự bằng cách kết hiệp tâm tình với những lời vị linh mục đọc và những việc vị linh mục làm. Và dưới một góc độ nào đó thì trong thánh lễ chúng ta cũng là những người cử hành, những người dâng tiến.
Để chuẩn bị cho con mình trong thánh lễ mở tay, có một bà mẹ đã cẩn thật trồng một đám lúa mì. Sau khi đã thu hoạch, bà xay thành bột rồi làm thành những chiếc bánh. Và trong ngày con bà cử hành thánh lễ đầu tiên, thì chính bà đã đem những tấm bánh ấy đến nhà thờ để dâng tiến.
Hơn thế nữa, trong ngày chịu phép rửa tội, chúng ta cũng đã được xức dầu để thánh hiến cho Thiên Chúa và như thế chúng ta cũng được tham dự vào chức vụ linh mục của Chúa Giêsu, và chúng ta gọi đó là chức linh mục cộng đồng của mọi người tín hữu, khác với chức linh mục thừa tác của những người được tuyển chọn qua bí tích Truyền Chức Thánh. Bởi đó trong thánh lễ chúng ta cũng thi hành chức vụ linh mục, chúng ta cộng tác với Chúa Giêsu, chúng ta góp phần bằng của lễ cuộc đời chúng ta, đó là những lao công vất vả và những hy sinh gian khổ chúng ta gặp phải. Chúng ta đừng bao giờ nghĩ rằng: cử hành thánh lễ là việc của Chúa Giêsu và các linh mục chứ không phải là việc của tôi. Bởi đó tôi có thể nghĩ đến những chuyện khác trong khi tham dự thánh lễ. Có ý thức vai trò của mình, chúng ta mới tham dự thánh lễ một cách sống động và việc tham dự sống động này mới thực sự đem lại lợi ích cho chúng ta.
Máu cần thiết cho sự sống. Thiếu máu nhiều bệnh nhân sẽ khó sống. Hiến máu đã cứu được nhiều người thoát chết. Hiến máu là tặng ban sự sống. Đó là hình ảnh cuộc hiến mình của Đức Kitô trên thập giá. Trong bữa tiệc ly, Đức Kitô cho biết Người sẽ đổ máu ra để cứu thế giới khi Người cầm chén rượu và nói: “Tất cả các con hãy cầm lấy mà uống. Này là chén Máu Thầy, Máu giao ước mới, sẽ đổ ra cho các con và mọi người được tha tội”. Máu để cứu sống, máu để thiết lập giao ước, máu để tha tội, tất cả những ý nghĩa này đã được tiên báo trong Cựu ước.
Máu để cứu sống được diễn tả bằng hình ảnh con Chiên Vượt Qua. Để cứu dân Do Thái ra khỏi ách nô lệ Ai Cập, Chúa truyền cho người Do Thái giết một con chiên còn trong sạch, lấy máu bôi lên cửa. Đêm hôm ấy, thiên thần Chúa đến trừng phạt người Ai Cập, nhà nào có máu chiên bôi trên cửa sẽ được cứu thoát. Để tưởng niệm việc được cứu sống và được giải thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập, từ đó, hằng năm vào đúng ngày ấy, người Do Thái vẫn giữ tập tục giết chiên mừng lễ. Lễ đó gọi là lễ Vượt Qua. Con chiên bị giết gọi là con chiên Vượt qua. Khi hiến mình đúng vào dịp lễ Vượt Qua, Đức Giêsu trở thành Chiên Vượt Qua mới. Máu Người đổ ra cứu linh hồn ta khỏi nô lệ tội lỗi và khỏi chết. Các thánh Giáo phụ cắt nghĩa rằng: Miệng ta là cửa linh hồn. Người rước Mình Máu Thánh Chúa vào miệng cũng như bôi máu chiên lên cửa nhà, sẽ được cứu sống và được giải thoát khỏi nô lệ tội lỗi.
Máu giao ước được diễn tả qua nghi lễ ông Môsê cử hành dưới chân núi Sinai. Bài đọc thứ nhất hôm nay thuật lại: “Ông Môsê sai các thanh niên trong dân Israel tiến dâng những lễ toàn thiêu, và ngả bò tơ làm lễ hiệp thông tế Chúa. Ông lấy một nửa phần máu, đổ vào những cái chậu, còn nửa kia thì rảy lên bàn thờ. Ông lấy cuốn sách giao ước đọc cho dân nghe. Họ thưa: Tất cả những gì Chúa đã phán, chúng tôi sẽ thi hành và sẽ tuân theo. Bấy giờ, ông Môsê lấy máu rảy trên dân và nói: Đây là máu giao ước Chúa đã lập với anh em”. Đó là giao ước cũ hay là Cựu ước.
Tại Việt Nam cũng như tại các nước Á Đông có tục “uống máu ăn thề”. Khi muốn giao kết với nhau, mỗi người lấy một chút máu của mình hòa chung vào một chén rượu. Sau đó mọi người chia nhau cạn chén. Việc uống máu ăn thề nói lên sự đồng tâm nhất trí. Những người cùng uống chung chén rượu pha máu trở nên ruột thịt với nhau, cùng sống cùng chết với nhau. Đức Giêsu đổ máu ra để lập một giao ước mới giữa loài người với Thiên Chúa. Máu Đức Giêsu giao hòa con người với Thiên Chúa và con người với nhau. Máu giao ước đó làm cho con người trở thành con cái ruột thịt của Thiên Chúa và trở nên anh em ruột thịt với nhau. Đó là máu giao ước.
Máu để tha tội được dùng nhiều trong Cựu ước. Khi dâng lễ đền tội, người ta cũng xả thịt một con vật dâng cho Thiên Chúa. Thày cả lấy máu con vật vảy lên tội nhân để ban ơn tha tội. Khi ta rước Mình Máu Thánh Chúa, ta cũng được tha tội vì Máu Chúa không vảy lên thân xác, nhưng vảy vào linh hồn ta.
Những ý nghĩa mà máu súc vật trong Cựu ước tượng trưng nay được hoàn thành viên mãn trong Máu Đức Kitô.
Nhân loại đang rên xiết trong ách nô lệ đã được Người giải thoát. Nhân loại đang xa lìa Thiên Chúa và bất hòa với nhau đã được Người giao hòa thành một gia đình thương yêu thuận hòa, sống chết có nhau. Nhân loại đang sống trong tội lỗi được Máu Người tẩy sạch mọi vết nhơ.
Chúng ta được ân phúc dường ấy là nhờ Người đã tự hiến mạng sống vì ta. Dòng Máu Người đổ ra đến đâu đem lại sự sống đến đấy. Dòng Máu Người lan tới đâu thì ban ơn tha tội đến đấy.
Mừng lễ Mình Máu Thánh Chúa, ta hãy cảm tạ tình yêu vô biên của Người đã hiến mình, đổ máu để cứu chuộc ta.
Mừng lễ Mình Máu Thánh Chúa, ta hãy đáp lại tình yêu của Người bằng cách siêng năng đến lãnh nhận và siêng năng đến thờ lạy Đức Giêsu ngự trong phép Thánh Thể.
Mừng lễ Mình Máu Thánh Chúa, ta hãy noi gương Người, biết quên mình, hiến thân phục vụ đồng loại.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Bạn có tham dự Thánh lễ và chịu lễ sốt sắng không?
2) Mỗi khi chịu lễ, bạn có cảm nghiệm được Đức Giêsu ngự trong bạn không?
3) Yêu mến Chúa trong phép Thánh Thể, bạn có muốn nên giống Người, biết hiến thân phục vụ đồng loại không?
4) Trong Kinh Thánh, máu có những ý nghĩa nào?
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ - Achille Degeest)
Chúng ta biết rằng niềm tin vào Thánh Thể đã khai mào cho nhiều cách hiểu khác nhau về sự hiện diện của Đức Kitô trong bánh và rượu. Các cách hiểu khác nhau này đôi khi đã là nguồn chia rẽ giữa các Giáo Hội. Đó đây, chúng còn là một trong nhiều cản trở mà hướng đại kết phải cố gắng vượt qua. Người ta sẽ thích đọc đoạn văn dưới đây, tuy không có tính cách chính thức, nhưng đã đánh dấu một giai đoạn quan trọng trong bước hiệp nhất giữa Giáo Hội Công giáo và Anh giáo. Đây là một trích đoạn trong bản tuyên ngôn chung về học thuyết Thánh Thể ban ngày 7-9-1971 do uỷ ban quốc tế Anh giáo-Công giáo- La mã.
Sau khi đã nói rằng: “Chúng tôi ao uớc diễn tả trong tài liệu này sự đồng nhất mà chúng tôi đã đạt được”, Uỷ ban nói tiếp:
“Việc hiệp thông với Đức Kitô trong Thánh Thể giả thiết Ngài hiện diện thật sự, được biểu lộ dưới hình thức bánh và rượu. Bánh và rượu này trở nên Mình và Máu Ngài trong mầu nhiệm này. Nhưng sự hiện diện thật sự Mình và Máu Đức Kitô chỉ có thể hiểu được trong bối cảnh công cuộc cứu độ, nhờ đó Ngài tự hiến bản thân Ngài, và cũng nhờ đó Ngài ban cho những kẻ thuộc về Ngài, ơn giao hoà, bình an và sự sống. Một đàng ơn huệ Thánh Thể xuất phát từ Mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô, nhờ đó ý định cứu độ của Thiên Chúa đã được thực hiện cách dứt khoát. Đàng khác mục đích của Thánh Thể là thông ban cho thân thể Ngài là Giáo Hội, sự sống của Đức Kitô chịu đóng đinh và sống lại, đến nỗi các chi thể của Ngài luôn được kết hiệp với Đức Kitô và với nhau một cách trọn vẹn hơn nữa.
Những lời của Đức Giêsu nói trong bữa Tiệc ly: “Hãy cầm lấy mà ăn, này là Mình Ta” không cho phép ta tách biệt ơn huệ sự hiện diện với tác động của bữa ăn bí tích. Các yếu tố không hẳn chỉ là những dấu chỉ đơn thuần: Mình và Máu Đức Kitô hiện diện thực sự đấy và cũng được thực sự trao ban là để khi lãnh nhận chúng, các tín hữu được liên kết trong sự hiệp thông với Đức Kitô, Chúa chúng ta.
Theo quy luật phụng vụ cổ truyền, lời nguyện truyền phép dẫn đến việc tín hữu rước lễ. Nhờ lời nguyện tạ ơn này, 1 lời kinh tin tưởng dâng lên Chúa Cha, bánh và rượu nhờ tác động của Chúa Thánh Thần mà trở nên Mình và Máu Đức Kitô, cho nên khi rước lễ, chúng ta ăn thịt và uống máu Đức Kitô.
Vị Thiên Chúa đến gặp gỡ dân Ngài nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần, chính là vị Chúa quang vinh. Trong nghi lễ tạ ơn, chúng ta hưởng trước các niềm vui của thế giới sẽ đến. Nhờ tác động biến đổi của Thần linh Thiên Chúa, bánh rượu của trần thế trở nên man-na bởi trời và rượu mới, bữa tiệc cánh chung cho người mới. Các yếu tố của tạo thành thứ nhất trở nên bảo chứng và của đầu mùa cho trời mới đất mới.
Từ đoạn văn khá cô đọng về mặt đạo lý trên, ta hãy ghi nhớ các điều này:
- Mình và Máu Đức Kitô thật sự hiện diện trong bánh và rượu Thánh Thể.
- Việc hiệp lễ Thánh Thể nối kết lại với Đức Kitô và với nhau.
- Việc hiệp lễ Thánh Thể ngay từ bây giờ đã hướng chúng ta vào một định mệnh: Định mệnh liên kết chúng ta với Thiên Chúa. Việc kết hiệp này bắt đầu từ hôm nay sẽ đạt tới mức viên mãn khi thời gian kết thúc.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
“Lúc đó tôi biết thế nào tôi cũng chết, nhưng tôi muốn con tôi được sống”. Đó là lời của bà Suzanna sau khi được cứu trong trận động đất ở Armêni vào tháng 12/1987. Trong số hàng ngàn người bị vùi lấp dưới đống gạch, có hai mẹ con bà Suzanna may mắn còn sống sót. Cô con gái bốn tuổi đòi uống nước. Tìm đâu ra nước khi hai mẹ con không có lối ra? Tình mẫu tử đã gợi lên cho bà một ý nghĩa táo bạo, đó là rạch ngón tay mình chảy máu để cho con mút. Đứa bé đã đỡ khát nhờ máu người mẹ. Nó đã sống cho đến khi cả hai mẹ con được cứu.
Câu truyện trên giúp chúng ta hiểu phần nào bí tích Thánh Thể. Chúa Giêsu đã chết để chúng ta được sống. Ngài chấp nhận chịu đổ máu qua cái chết thập giá và Ngài lấy Thịt Máu Ngài làm lương thực nuôi sống chúng ta.
Chính trong bối cảnh lễ Vượt Qua của người Do Thái, Chúa Giêsu đã thiết lập bí tích Thánh Thể, bí tích của Giao Ước mới: Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho các môn đệ, đó là cử chỉ thuộc nghi thức bữa tiệc Vượt Qua (x.Xh 12,26-27). Nhưng lời mời gọi: “Các con hãy cầm lấy mà ăn, này là Mình Thầy”, Chúa Giêsu đã biến đổi ý nghĩa của cử chỉ thuộc lễ Vượt Qua cũ, và làm cho nó trở thành cử chỉ của riêng Ngài. Cả lời Chúa phán trên chén rượu cũng vậy: “Này là chén Máu Thầy, Máu Giao Ước mới sẽ đổ ra cho nhiều người được tha tội”. Lời này đã gợi lại Giao Ước Sinai, nhưng ở đây giao ước không còn được niêm ấn bởi máu chiên bò, mà là máu của chính Con Một Thiên Chúa, máu có hiệu lực thanh tẩy tội lỗi (Bđ. 2)
Hơn nữa, nếu trong lễ Vượt Qua, người ta cùng ăn thịt con chiên chịu sát tế, thì cử chỉ Chúa Giêsu bẻ bánh, trao cho, ám chỉ thân xác Chúa bị xâu xé, hiến cho người khác, và lời nói: “Máu Giao Ước mới sẽ đổ ra cho nhiều người…” lại càng làm nổi bật ý nghĩa hy tế của lễ Vượt Qua mới, tức là Bàn Tiệc Thánh Thể. Nói cách khác, dưới hình thức bánh rượu, Chúa Giêsu đã thể hiện trước, đã cảm nếm trước cuộc vượt qua của chính Ngài, tức là cuộc khổ nạn và Phục Sinh sẽ xảy ra hôm sau. Ngài biến cái chết thành hy lễ cứu độ đem là sự sống, thành quà tặng và lương thực siêu nhiên cho tất cả những ai tin vào Ngài. Nhờ đó, các môn đệ Chúa Giêsu khi ăn bữa tiệc này, đã được dự phần vào Giao Ước mới, được hiệp thông với Ngài trong biến cố chết và sống lại, được cùng với Ngài đi từ cõi chết vào cõi sống muôn đời. Và cũng từ đó, qua muôn thế hệ, mỗi lần cử hành Thánh Thể, một mặt Giáo Hội tái diễn và hiện tại hoá cuộc hiến tế của Chúa Giêsu để nhớ đến Ngài; mặt khác, Giáo Hội lại hướng về tương lai, hướng tới ngày Chúa đến trong vinh quang để đưa chúng ta vào dự bàn tiệc Nước Trời, bàn tiệc viên mãn đã được khơi mào từ Bàn Tiệc Thánh Thể hôm nay.
Theo lời Chúa truyền dạy: “Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” (1Cr 11,24b), mỗi ngày và đặc biệt trong ngày Chúa Nhật, Giáo Hội cử hành Thánh Thể để nhắc con cái mình nhớ đến tình yêu của Đấng đã hiến mạng sống vì nhân loại, Đấng ấy vẫn đang hiện diện để trao ban cho nhân loại bánh sự sống là chính Mình Máu Ngài. Vì thế, khi tham dự Thánh Lễ, tôi không hiện diện như khán giả xem một vở kịch, cũng không phải chỉ nhớ đến một kỷ niệm trong quá khứ không liên hệ gì đến cuộc sống thực tế, nhưng là hiệp thông sự sống với Chúa Kitô, là chia sẻ hy tế thập giá của Ngài và cùng với Ngài tôi hiến dâng thân mình làm lễ tế sống động đẹp lòng Thiên Chúa (x. Rm 12,1). Do đó, khi tham dự Thánh Lễ, tôi không lập đi lập lại những cử chỉ, những động tác theo thói quen, nhưng tôi hiến dâng cho Chúa niềm vui nỗi buồn, những lo âu và hy vọng, những tâm tư thao thức của tôi. Nói chung là tất cả những gì đan dệt nên cuộc sông đời thường đều có thể trở thành hy lễ dâng lên Thiên Chúa, những hy lễ như dấu chỉ tình yêu của tôi nhằm đáp trả Đấng đã yêu thương đến nỗi hiến ban chính Con Một yêu dấu cho tôi.
Mặt khác, Thánh Thể không chỉ tạo mối tương quan ân tình giữa Chúa và cá nhân tôi, nhưng còn mờ rộng, bao trùm mọi người. Thật vậy, bí tích Thánh Thể đã được Chúa Giêsu thiết lập trong bầu khí thân tình của một bữa ăn từ giã. Tấm bánh Chúa Giêsu đã cầm và phân chia cho các môn đệ chính là bánh của bữa ăn hằng ngày nơi Ngài sống. Chén rượu cũng vậy, và bánh ấy, rượu ấy, đã được biến đổi thành Mình Máu Ngài. Do đó mầu nhiệm Thánh Thể còn là mầu nhiệm chia sẻ, chia sẻ để mọi người cùng ăn cùng uống trong tình huynh đệ, và chính việc chia sẻ này đã được Chúa Giêsu dùng như dấu chỉ các môn đệ làm để nhớ đến Ngài: Hai môn đệ đi Emmau đã nhân ra Đấng Phục Sinh và chính lúc Ngài “cầm lấy bánh chúc tụng, đoạn bẻ ra trao cho hai ông…” (Lc 24,30-31).
Ý thức chia sẻ đòi buộc mỗi người chúng ta không được đóng khung nhưng buổi cử hành Thánh Thể bên trong nhà thờ, nhưng phải sống mầu nhiệm Thánh Thể, mầu nhiẹm yêu thương ngay trong cuộc đời mỗi ngày. Chúng ta cũng không thể cử hành Thánh Thể một cách trung thực, nếu chúng ta sống dững dưng ích kỷ, bưng tai bịt mắt trước nhưng anh em đói khát khốn cùng, đòi khát cơm bánh vật chất, nhất là đói khát công lý và tình thương.
Giờ đây, chúng ta sắp cùng nhau chia sẻ Bàn Tiệc Thánh Thể, chia sẻ Mình Máu Chúa Kitô, Đấng đã hiến cả cuộc đời mình nên của lễ tình yêu. Xin Chúa giúp chúng ta, một khi đã hiệp thông với Ngài, thì cũng biết thông hiệp với anh em bằng cuộc sống yêu thương phục vụ, Có như thế, Bàn Tiệc Thánh Thể sẽ trở nên điểm hẹn diệu kỳ, nơi đây chúng ta được nối kết với Chúa Kitô, thông chia cùng một sự sống với Ngài. Nơi đây, chúng ta nối kết với mọi người anh em, để cùng nhau xây dựng một thế giới công bằng, yêu thương, đang lúc chờ đợi Bàn Tiệc hạnh phúc vĩnh cửu trong vinh quang Nước Trời.
Một linh mục Mỹ, cha Frank Ramsberger đi viếng đất thánh. Cha muốn khảo cứu, đặc biệt những nơi Chúa Giêsu đã sống, đã làm việc, đã chịu nạn, chết và sống lại từ cõi chết. Cha làm thân với một cậu trai tên Yosef, người có bộ mặt nâu của một người chăn cừu Ả-rập. Cậu bé giúp lễ cho cha, dạy cha một vài từ ngữ Ả-rập khó.
Khi vị linh mục sắp sửa từ biệt để đến một vùng khác của đất thánh, ngài nói với Yosef: “Có ít con trai và con gái được đặc ân sống trên mảnh đất Đức Giêsu đã sống. Con biết rằng Con Thiên Chúa đã sống như một cậu con trai, một người đàn ông, đã đi đứng trên những con đường này và đã thở bầu không khí này. Cái đó không giúp con yêu Người hơn sao?
Yosef trả lời một câu đầy ý nghĩa: “Cha chẳng cần phải sống ở đây để yêu Chúa, vì bây giờ Chúa ở khắp nơi trên thế giới. Ngày nay mỗi một nơi đều là đất thánh. Bất cứ nơi nào chúng ta ở, chúng ta ở trên đất của Chúa Giêsu.
Có bao giờ bạn nghĩ như vậy không? Pilsen (thay thế bằng tên họ đạo của cha) là một phần đất thánh. Đức Giêsu ở ngay đây, ngay lúc này.
Đây là ý tưởng về ngày lễ Mình Thánh Chúa. Thân thể Đức Kitô. Chúng ta nhắc lại thứ năm tuần thánh. Lúc đầu tiên Người nói những lời này: “Đây là Mình Ta… đây là Máu Ta”. Hôm nay chúng ta mừng lễ, về việc những lời trên được lặp lại trên khắp thế giới mỗi ngày, về việc Đức Giêsu hiện diện trên mọi bàn thờ khắp thế giới. Đức Kitô ở nơi đây. Đây là đất thánh Pilsen (tên họ đạo thành phố) là đất thánh.
Đây là Betlehem. Đức Giêsu sinh ra tại đây trong mỗi Thánh Lễ. Đây là Nazareth. Đức Giêsu lớn lên ở đây trong đời sống chúng ta. Chúa Giêsu làm phép lạ ở đây, phép lạ thiêng liêng: Người chữa chúng ta khỏi phong cùi tội lỗi. Người chừa những người què thiêng liêng để họ có thể bước đi trên đường lối của Người. Người mở mắt cho những ai không thấy được những sự thiêng liêng. Đức Giêsu tha thứ tội lỗi tại nơi đây trong tòa cáo giải.
Quan trọng nhất, ngôi Thánh đường này là “Căn phòng rộng trên lầu” trong Tin Mừng hôm nay, ở đó Đức Giêsu đã nói lời truyền phép đầu tiên. Không có nơi nào Thánh hơn nơi này.
Đây cũng là Cana, Đức Giêsu tham dự đám cưới trong nhà thờ này. Người dự đám tang nơi quê hương Người. Người ở ngay đây, khi chúng ta an táng một người thân yêu. Đây là Đền Thờ Giêrusalem. Đức Giêsu giảng dạy ở đây qua vị linh mục của Người, qua các thầy cô giáo lý, qua cha mẹ của các con em. Chúa Giêsu hiện diện trong làng, trong nhà thờ, ngoài phố, ngoài cánh đồng, trên bờ hồ, trên đỉnh đồi, và ngôi nhà ở đất thánh. Người cũng hiện diện trong nhà của chúng ta.
Hôm nay là ngày của Chúa Cha, trên đất thánh Đức Kitô tôn kính Cha trên trời của Người. Trong phương cách giới hạn của chúng ta, chúng ta hãy tôn kính Cha mình. Bạn hãy nói với cha bạn như Đức Giêsu thường nói với Cha Người rằng: Bạn yêu Người, bạn quý mến những gì Cha bạn làm cho bạn.
Vâng, bạn và tôi thực sự đang sống trên đất thánh, vì Thiên Chúa làm người sống tại nơi đây ở giữa chúng ta: Mình Thánh Chúa Kitô ở với chúng ta.
Xin Chúa chúc lành bạn.
Năm 1263, một linh mục người Đức cử hành Thánh Lễ ở nhà thờ kính Thánh Christiana. Lúc bẻ bánh, đột nhiên, linh mục thấy Mình Thánh không còn là hình bánh, mà đã biến thành Thịt và Máu thực. Những giọt máu loang ra thấm ướt tấm khăn Thánh trên bàn thờ. Linh mục vội gấp khăn lại, nhưng gấp tới đâu, máu thấm ra tới đó, máu thấm qua 25 lần vải. Vị linh mục vừa cảm động vừa sợ hãi đến mức không tiếp tục Thánh Lễ được.
Ngài tới yết kiến Đức Giáo Hoàng Urbanô và kể lại sự kiện ấy. Đức Giáo Hoàng sai một Giám Mục đến rước Mình Thánh cùng tấm khăn đẫm máu về Tòa Thánh đặt ở nhà thờ chánh tòa cho giáo dân thờ kính. Năm sau, (1264) vào ngày mồng 8 tháng 9, Người ra sắc dụ lập lễ kính Thánh Thể trong toàn Giáo Hội như chúng ta mừng kính hôm nay.
Đã có nhiều phép lạ về Thánh Thể. Chắc Chúa Giêsu muốn củng cố niềm tin của chúng ta vào bí tích này, cho chúng ta hiểu rõ ý định của Người khi lập phép Thánh Thể, đó thực là của nuôi linh hồn chúng ta, cần thiết cho linh hồn cũng như đồ ăn cần cho thân xác. Đó thực là Thịt và Máu của Chúa, dù mắt thường không nhận rõ thực tại này.
Trong Thánh Lễ, linh mục làm những cử chỉ Chúa đã làm trong bữa Tiệc ly, cũng đọc những lời Chúa đã đọc: “Các con làm việc này để nhớ đến Thầy”. Làm việc này là việc gì? Là cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng bẻ ra và phân phát cho mọi người.
Bí tích Thánh Thể là trung tâm đời sống Kitô hữu. Trước hết vì ở đây cử hành mầu nhiệm Cứu độ. Chúa Giêsu đã chết để cứu chuộc nhân loại. Người chết vì yêu thương chúng ta. Ngoài việc chết một lần trong lịch sử, Chúa còn dùng Thịt và Máu nuôi dưỡng ta, để biểu lộ Tình yêu của Chúa, để ta thông hiệp với sự sống vô biên của Chúa, của một vị Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta cho đến muôn đời. Những thực tại này được thể hiện trong bí tích Thánh Thể, trong Thánh Lễ. Sống cuộc sống thế trần chúng ta cốt đem sự sống tới cho loài người và bí tích Thánh Thể chính là suối nguồn sự sống. Chúng ta cần năng tiếp xúc với nguồn sống đó, chúng ta mới có sự sống để có thể chuyển thông sự sống ấy cho người khác.
Trong Thánh Lễ, chúng ta được đón nhận Lời Chúa và tiếp nhận Mình Chúa vào tâm hồn. Lời Chúa đã thành cụ thể đi vào tâm hồn ta khi ta tiếp nhận Mình Chúa. Chúa đã hiến mạng sống cho mọi người và trao ban chính mình cho chúng ta như là bánh sự sống, vì lẽ đó, tiệc Thánh Thể là nhiệm tích Mình và Máu Đức Kitô, nhiệm tích của sự hiện diện đích thực của Đức Kitô. Chính Thánh Linh đã làm cho Đức Kitô thực sự có mặt và hiến ban trong Bánh và Rượu (Conseil oecuménique năm 1974).
Tiệc Thánh Thể còn là cuộc họp mặt của các tín hữu. Muốn được Ơn Chúa, chúng ta phải hiệp nhất với nhau. Thánh Thể là dấu hiệu hiệp nhất rõ ràng và vững chắc: chỉ có một tấm bánh, một chén rượu chia ra cho mọi người. Trong chúng ta đều lưu hành một của ăn và một thức uống, đều có chung một nguồn sống. Từ Thánh Lễ đi ra, chúng ta ý thức mình là một phần chi thể, là Thịt Máu Đức Kitô, chúng ta mang Đức Kitô trong mình. Trong khi đó, người anh chị em bên cạnh ta cũng là phần chi thể Máu Thịt Đức Kitô như ta. Còn gì gần gũi hơn và thân thiết hơn thế.
Lạy Chúa, nhờ bí tích Thánh Thể, chúng con được hòa nhập vào sự sống Thánh thiện của Chúa. Nhờ hiến lễ Tạ Ơn, chúng con cũng được tôn vinh Thiên Chúa; nhờ Tiệc Thánh, chúng con được hiệp nhất với nhau trong Ngài. Chúng con xin cảm tạ Ngài.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Phúc Âm kể lại: Đang khi ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra trao cho các môn đệ và nói: Này là Mình Thầy, các con hãy cầm lấy mà ăn. Rồi Người cầm lấy chén rượu và nói: Này là Máu Thầy, các con hãy cầm lấy mà uống. (Mt 26,26-29; Lc, 22,14-20). Chúa đã lập Bí Tích Thánh Thể và Chúa dặn dò các môn đệ: Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy. Tiệc Thánh Thể này được chính Chúa Giêsu tiên báo trong tiệc cưới Cana, được hứa ban cho dân ở Caphanaum, được thiết lập trong Tiệc Ly và đã được chính Chúa cử hành đầu tiên tại làng quê Emmau. Bốn khung cảnh này hòa quyện đan kết với nhau thật tuyệt đẹp trong ngày lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô.
Thánh Thể là sự sống của Giáo Hội, là lương thực thiêng liêng cho đời sống và là bảo đảm cho hạnh phúc trường cửu của người tín hữu chúng ta.
Thánh Thể là mối hiệp nhất giữa Thiên Chúa với con người, và giữa con người với nhau.
Thánh Thể chính là Tặng Phẩm Thần Linh mà Thiên Chúa trao cho nhân loại.
Lịch sử cứu độ là lịch sử hồng ân và là lịch sử tình yêu tự hiến của Thiên Chúa. Cao điểm của lịch sử này là Thập Giá Đức Kitô.Thập Giá là tột đỉnh hy sinh của Thiên Chúa. Thập Giá biểu lộ tình yêu điên rồ của Thiên Chúa. Thập Giá cũng là tột đỉnh hy sinh của Đức Kitô, Đấng đã hạ mình vâng phục Chúa Cha cho đến chết và chết trên Thập Giá. Thập giá là cao điểm tình yêu tự hiến của Chúa Kitô.
Tình yêu sâu thẳm và khôn dò của Thiên Chúa biểu lộ nơi Thập Giá Đức Kitô là tình yêu vượt thời gian. Tình yêu tự hiến của Đức Kitô biểu lộ bằng cái chết cũng vượt thời gian. Chúa Kitô chỉ tự hiến một lần, tự hiến trọn vẹn thay cho mọi lần.Chúa đã biểu lộ điều này trong bữa Tiệc Ly. Từ đó, Bí Tích Thánh Thể là nguồn mạch của đời sống Giáo Hội, là trọng tâm và là tột đỉnh của sinh hoạt Giáo Hội. Thánh Thể làm nên Giáo Hội.Không có Thánh Thể thì không có Giáo Hội. Giáo hội là thân mình gồm nhiều người ăn cùng một bánh là thân mình Đức Kitô (1Cor 10,17).
Giáo hội luôn định tín rằng: dù chỉ một miếng bánh nhỏ, khi đã được Truyền Phép, vẫn chứa đựng cả thân xác, linh hồn và thần tính của Đức Kitô.Chúng ta có Đức Kitô nguyên vẹn và cụ thể. Chính Chúa Thánh Thần Kitô- hóa bánh rượu, làm cho bánh rượu trở nên Mình và Máu Chúa Kitô. Khi Linh mục, thừa tác viên của Giáo hội, thay mặt Chúa Kitô đọc Lời Truyền Phép. Lời Truyền Phép mà Linh mục đọc không phải là một câu thần chú có một ma lực biến bánh và rượu thành Mình và Máu Chúa Kitô, giống như Linh mục có quyền trên Chúa Kitô, khiến Chúa đến thì Ngài phải đến. Lời Truyền Phép chính là Lời Chúa Kitô, Lời mà Chúa Kitô muốn nói qua môi miệng của Linh mục. Chúa Kitô đã chọn một số người để họ lập lại y nguyên Lời Truyền Phép của Ngài. Chính Chúa Thánh Thần lấp đầy “khoảng cách” giữa Linh mục và Đức Kitô, khiến Lời Truyền Phép trở nên “công hiệu”, làm cho nội dung của Lời trở thành hiện thực. Sau Truyền Phép bánh không còn là bánh mà là Mình Thánh Chúa, rượu không còn là rượu mà là Máu Thánh Chúa.Đã có một sự thay đổi, sự thay đổi ấy là thay đổi bản thể hay “biến thể”. Đây là công việc của Chúa Thánh Thần, chứ không phải là công việc của người phàm, dù người ấy là Linh mục. Vì ý thức điều đó, Giáo hội thiết tha khẩn cầu trước lúc Linh mục Truyền Phép:
“Chúng con nài xin Cha đổ ơn Thánh Thần xuống mà thánh hóa của lễ này, để biến thành Mình và Máu của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con” (Kinh Nguyện Thánh Thể II).
“Lạy Cha, chúng con tha thiết nài xin Cha, cũng nhờ Chúa Thánh Thần, mà thánh hóa của lễ chúng con dâng hiến Cha đây, để trở nên Mình và Máu Đức Giêsu Kitô, con Cha, Chúa chúng con” (Kinh Nguyện Thánh Thể III).
“Lạy Cha, xin cho Chúa Thánh Thần đoái thương thánh hóa những của lễ này, để biến thành Mình và Máu Đức Giêsu Kitô Chúa chúng con” (Kinh Nguyện Thánh Thể IV).
Chúa Thánh Thần làm cho Chúa Kitô hiện diện thực sự giữa chúng ta, trong hình bánh và rượu. Điều đó không có nghĩa là Đức Kitô không hiện diện thực sự bằng những cách khác, như hiện diện qua lời Kinh Thánh, hiện diện trong Giáo hội, hiện diện nơi những người nghèo khổ, hiện diện giữa hai hoặc ba người họp nhau cầu nguyện (Mt 18, 20). Tất cả những cách hiện diện đó đều là hiện diện thực. Có điều khác là: Đức Kitô không đồng hóa với lời Kinh thánh, Lời Kinh thánh được đọc lên không là bản thân Đức Kitô; Đức Kitô cũng không đồng hóa với người nghèo,vì người nghèo không là bản thân Đức Kitô, dù Ngài đã nói: “Ta đói các ngươi cho ăn, Ta khát các ngươi cho uống …” (Mt 25, 35-36). Trái lại nơi Bí Tích Thánh Thể, sau Lời Truyền Phép, bánh và rượu là Đức Kitô, là bản thân Ngài, là bản thể Ngài, là Mình và Máu Ngài.Trong Bí Tích Thánh Thể, sự hiện diện của Đức Kitô có một chiều sâu hữu thể mà không nơi nào có. Sự hiện diện đích thực và đặc biệt này của Đức Kitô là kết quả của một sự thay đổi mà tác động thay đổi chính là công việc của Chúa Thánh Thần làm khi Linh mục đọc Lời Truyền Phép.
Bí Tích Thánh Thể là sáng kiến của tình yêu. Tình yêu luôn có những sáng kiến bất ngờ và kỳ diệu. Thiên Chúa đã yêu thế gian nổi ban chính Con Một … (Ga 3,16) và Con Một là Đức Giêsu đã yêu cho đến cùng, đã lập Bí tích Thánh Thể để ở với con người luôn mãi.
Bông lúa và trái nho là những sản phẩm thông thường và cần thiết nhất mà ruộng đất cống hiến cho con người. Bánh và rượu có thể tầm thường, nhưng laị là những gì gần gũi và cần thiết nhất cho cuộc sống con người hàng ngày. Chúa Giêsu đã muốn trở nên những gì cần thiết và gần gũi đó. Người muốn bánh và rượu trở nên thịt máu của Người. Từ bông lúa bị nghiền nát, từ chùm nho bị ép, nghĩa là từ cuộc khổ nạn và cái chết trên Thập Giá, Đức Giêsu đã trở thành tấm bánh, thành ly rượu đem lại sự sống đời đời cho nhân loại. Vật chất đã trở thành biểu tượng cho sự hiện diện thần linh.
Mình và Máu Chúa Kitô là hồng ân vô giá, chúng ta đón nhận để có sự sống thần linh của Chúa. Tham dự Thánh Lễ tích cực, trọn vẹn là cách tốt nhất thể hiện lòng yêu mến Chúa. Thỉnh thoảng trong ngày, trong tuần, chúng ta nên quỳ gối trước Thánh Thể, chúng ta có thể học được nhiều điều từ Bí Tích Tình Yêu.
Suy Niệm
Đại lễ Vượt qua gần đến. Chúa Giêsu ước ao ăn lễ Vượt qua lần cuối với các môn đệ trước khi chịu khổ hình (Lc 22,15). Ngài đã tiên liệu nơi tổ chức bữa tiệc. Một căn phòng rộng rãi trên lầu, đã chuẩn bị sẵn sàng. Các môn đệ chỉ phải lo những gì cần cho bữa ăn: bánh không men, rượu, chiên và rau đắng. Thế nhưng chỉ mình Chúa Giêsu biết Ngài sẽ làm gì trong bữa tiệc Vượt qua này.
Bữa tiệc cuối là thánh lễ đầu tiên của Chúa. Vẫn bánh đó, vẫn rượu đó trên bàn tiệc. Nhưng đối với các môn đệ, thật là bất ngờ. Khi Chúa Giêsu bẻ bánh, trao cho họ và nói: “Anh em hãy cầm lấy, đây là Mình Thầy”. Ngài còn mời họ uống rượu và nói: “Đây là Máu Thầy, Máu giao ước, đổ ra vì muôn người.”
Như thế bánh rượu đã được biến đổi tận căn để trở thành Mình Máu Chúa. Ăn bánh và uống rượu trở nên hành vi thông hiệp vào cái chết sắp đến của Thầy.
Ngay hôm sau, trên núi Sọ, máu Chúa đã đổ, và tấm thân Chúa bị nát tan. Hy lễ núi Sọ chỉ diễn ra một lần, nhưng ảnh hưởng trên cả dòng lịch sử.
Bữa tiệc ly chỉ diễn ra một lần, nhưng Chúa muốn nó được lặp lại cho đến tận thế: “Hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy” (Lc 22,19).
Mỗi thánh lễ là một bữa tiệc ly, vị linh mục lặp lại cử chỉ và lời nói của Chúa.
Mỗi thánh lễ là một tưởng nhớ hy tế thập giá. Cái chết cứu độ năm xưa, nay trở thành hiện tại để đem đến sự sống cho tín hữu thuộc mọi thời.
Rước lễ là gặp gỡ Đấng hy sinh chịu chết, là kết hợp với Đấng đã yêu đến cùng.
Ta được mời gọi sống như Đấng ta lãnh nhận, nghĩa là bẻ ra, chia sẻ, phục vụ và hiến trao.
Ta không thể tiếp tục sống ích kỷ và khép kín, khi ngày ngày rước lấy Đấng đã chết vì muôn người.
Rước lễ không phải chỉ là nhận Chúa vào miệng, mà là để Chúa chiếm lấy mọi ngõ tối của đời mình, nhờ đó đời ta được hoàn toàn biến đổi.
Nhiều khi có một khoảng cách quá xa giữa thánh lễ và đời thường của người Kitô hữu.
Thực sự gặp Chúa dưới hình bánh rượu sẽ đưa ta gặp Chúa nơi những người nghèo khổ, vì họ cũng là sự hiện diện thật sự của Chúa (x. Mt 25, 35).
Mặt khác, càng say mê phục vụ con người, ta càng cảm thấy nhu cầu rước lấy Đấng phục vụ.
Khi dự lễ, bạn hãy đem theo hy lễ đời mình để kết hiệp với Hy lễ của Chúa.
Gợi Ý Chia Sẻ
Nhiều bạn trẻ dự lễ ngày Chúa Nhật chỉ vì sợ mắc tội. Họ chán xem lễ”. Theo ý bạn, những nguyên nhân nào đưa đến thái độ này? Có cách nào giải quyết không?
Rước lễ có thể trở thành một thói quen nhàm chán, vô nghĩa, nặng phần hình thức. Theo ý bạn, làm thế nào để việc rước Chúa thực sự đem lại lợi ích cho chúng ta?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con một tâm hồn theo hình ảnh Tấm Bánh Thánh:
Một tâm hồn trong trắng, cố tránh cả những ô uế nhỏ mọn để luôn xứng đáng với Chúa.
Một tâm hồn khiêm hạ tìm chiếm chỗ nhỏ bé, nhưng luôn luôn muốn bày tỏ một tình yêu lớn lao.
Một tâm hồn đơn sơ, không biết đến những phức tạp của ích kỷ, và tìm hiến dâng mà không đòi lại.
Một tâm hồn lặng lẽ, hạnh phúc khi thấy sự quảng đại của mình không được người khác biết đến.
Một tâm hồn nghèo khó, chỉ làm giàu cho mình nhờ chiếm được chính Chúa.
Một tâm hồn luôn hướng về tha nhân, quan tâm đến những nhu cầu và ước muốn của họ.
Một tâm hồn luôn kết hiệp với Chúa, và múc lấy nguồn sống từ nơi Chúa.
Mỗi khi chiêm ngắm Thánh Thể Chúa, tôi không ngừng ngỡ ngàng trước tình yêu của Người. Tình yêu ấy vô cùng cao cả nhưng lại rất đỗi đơn sơ. Đơn sơ như hình ảnh tấm bánh.
Tấm bánh, tình yêu gần gũi.
Sao Chúa không hoá thân làm viên kim cương quý giá mà lại làm một tấm bánh? Tấm bánh bình thường, quen thuộc quá. Từ khi kinh tế phát triển, bánh càng ngày càng xuống giá, bớt được quý trọng.
Tuy bình thường, nhưng bánh vẫn là lương thực cần thiết cho con người. Cũng như khí trời, như nước, bánh đi vào sinh hoạt hằng ngày của con người. Bình thường lắm nhưng không có không được.
Chúa trở thành tấm bánh để gần gũi với loài người, để đi vào sinh hoạt đời thường của con người. Con người có thể đến với Chúa dễ dàng, không e ngại, sợ sệt. Chỉ là một tấm bánh vừa tầm tay mọi người. Chỉ là một tấm bánh sẵn sàng đáp ứng nhu cầu của con người. Thật khiêm nhường mà đầy ý nhị. Thật đơn sơ nhưng cũng thật sâu xa vì tấm bánh nói lên tình yêu tự hiến.
Tấm bánh, tình yêu tự hiến.
Bánh sẽ chẳng còn ý nghĩa nếu chỉ để trưng bày cho người ta chiêm ngắm. Bánh chỉ có ý nghĩa khi được sử dụng. Được sử dụng là bị bẻ ra, bị nghiền nát, bị tan biến, bị tiêu hoá. Vì thế, trở thành tấm bánh là chấp nhận chịu đau đớn, chịu huỷ hoại. Đây không phải là một chấp nhận bất đắc dĩ, vì tấm bánh bao giờ cũng mời mọc tiêu thụ.
Khi xưng mình là bánh bởi trời, Chúa Giêsu bày tỏ một tình yêu tha thiết, sẵn sàng chịu nghiền nát, tan biến, chịu chết cho nhân loại. Chúa chịu chết cho ta được sống. Chúa chịu huỷ hoại cho ta được lành lặn các thương tích. Chúa bé nhỏ đi cho ta được lớn mạnh.
Tấm bánh bị tiêu hoá để thực hiện một tình yêu hiệp thông.
Tấm bánh, tình yêu hiệp thông.
Chúa Giêsu tha thiết với sự hiệp thông. Người không ngừng mời gọi con người đến sống thân mật với Người. Người tự nhận mình là cây nho và mời gọi mọi người hãy trở thành cành nho gắn kết với cây nho.
Hôm nay, Người còn chủ động trở thành tấm bánh để hoà vào từng giòng máu, từng thớ thịt của con người trong một kết hiệp sâu xa. Người tự tiêu huỷ mình để trở thành thịt máu của con người. Không còn sự kết hợp nào sâu xa khăng khít hơn nữa.
Tấm bánh gợi lên một bàn tiệc tại đó anh em quây quần trong tình thương, chia sẻ lương thực và chia sẻ tâm tình. Không còn gì đẹp hơn. Chính Chúa Kitô tự hiến mình để quy tụ chúng ta. Chính Chúa Kitô bị bẻ ra để cho tình huynh đệ nhân loại được mặn mà thắm thiết.
Với những gợi ý như thế, Chúa hướng dẫn tôi trong tình yêu mến, trong cử hành và trong cách sống Bí tích Thánh Thể.
Yêu mến Bí tích Thánh Thể là gì nếu không phải là trở nên hiền lành khiêm nhường, sống gần gũi với những người nhỏ bé nghèo hèn?
Cử hành Bí tích Thánh Thể là gì nếu không phải là chấp nhận hao mòn, quên mình, thiệt thòi vì Chúa và vì anh em?
Sống Bí tích Thánh Thể là gì nếu không phải là xây dựng tình đoàn kết, tình huynh đệ với những người sống quanh ta, trong mọi môi trường cuộc sống?
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, con cảm tạ tình yêu vô biên của Chúa. Con chúc tụng ngợi khen Chúa muôn đời. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Khi dâng lễ, tấm bánh có gợi lên cho bạn điều gì về tình yêu của Đức Giêsu không?
2) Khi bạn rước lễ, bạn có cảm nghiệm được tình yêu của Chúa không?
3) Phép Thánh Thể thôi thúc bạn làm gì?
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Một cuốn phim mang tựa đề: “Cậu bé Marcellino” kể lại câu chuyện sau đây:
Ở cổng nhà dòng nọ có cậu bé bị bỏ rơi, một thầy dòng đã đem về nhà dòng nuôi. Với thời gian, cậu bé lớn lên, khôn ngoan và tinh nghịch. Vốn tính nghịch ngợm, cậu bé bị cấm không được leo lên kho trên gác. Nhưng vì tò mò, ngày nọ Marcellino đã leo lên kho trên gác. Cậu sửng sốt khi thấy có một người khổng lồ bị treo trên Thánh giá. Nghĩ rằng người này đang đói, nên ngay đêm đó, Marcellino đã lẻn vào bếp ăn cắp bánh và rượu đem lên cho người bị treo trên Thánh giá. Từ đó, ngày ngày cậu bé cứ âm thầm tiếp tế lương thực cho con người khốn khổ ấy. Thế rồi, một ngày nọ người khổng lồ ấy xuống khỏi Thánh giá, đến bên cạnh cậu bé và hỏi:
- “Con thích điều gì nhất”.
Cậu bé đáp:
- “Con muốn được thấy mẹ con”.
Người khổng lồ liền nói:
- “Con hãy nhắm mắt lại và ngủ say”.
Ngày hôm sau, các tu sĩ trong nhà không thấy Marcellino nữa, họ đi tìm khắp nơi và cuối cùng thấy cậu bé đã chết trong vòng tay của Chúa Giêsu trên Thánh giá.
Anh chị em thân mến, đối với Marcellino trong câu chuyện trên, bánh và rượu là ngôn ngữ cậu bé dùng để nói với Chúa Giêsu: “Con yêu mến Chúa”, “Con muốn được săn sóc Chúa, nuôi dưỡng Chúa”. Còn đối với Chúa Giêsu, bánh và rượu Ngài ban qua Bí tích Thánh Thể là dấu chỉ của tình yêu hiến thân để trở thành lương thực nuôi sống chúng ta, và Ngài muốn chúng ta mở rộng tâm hồn để đón nhận.
Mở rộng tâm hồn đón nhận Ngài trong Thánh Thể, con người mới có thể mở rộng trái tim và đôi bàn tay để đón nhận Ngài nơi tha nhân. Chúa Giêsu là Bánh từ trời xuống để lôi kéo họ về với Thiên Chúa. Chia sẻ sự sống thần linh nơi bàn tiệc Thánh Thể, người tín hữu được mời gọi chia sẻ cơm bánh hằng ngày với tha nhân. Và kỳ diệu thay, chính khi chia sẻ với tha nhân, người tín hữu cảm nhận được sự sống trường sinh và hạnh phúc đích thức tràn ngập tâm hồn.
Thưa anh chị em, Bí tích Thánh Thể là Bí tích của Tình Yêu. Vì yêu thương chúng ta, Chúa Giêsu đã có một sáng kiến lạ lùng là lấy chính Thịt Máu của Ngài làm của ăn của uống để nuôi sống chúng ta. Chính Chúa Giêsu đã khẳng định: Chính Ngài là của ăn và của uống Chúa Giêsu ban hoàn toàn khác với manna và mạch nước trong sa mạc: “Ai ăn bánh này sẽ được sống đời đời”. Chúa Giêsu không nhằm thoả mãn cái đói cái khát thể xác. Thế nên, Ngài xác quyết: “Thịt Tôi thật là của ăn, Máu Tôi thật là của uống”. Vậy Bánh Ngài ban chính là Thịt Máu Ngài. Cụm từ “Thịt Máu” ở đây không những bao gồm tất cả những gì nuôi sống linh hồn con người để đưa đến sự sống vĩnh cửu, mà còn ám chỉ đến Mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa. Con Thiên Chúa đã nhập thể mang lấy xác phàm trong thân phận con người và đã đổ máu ra trên Thập giá để cứu chuộc nhân loại. Ngài đã chấp nhận trở thành của ăn của uống là những cái thường tình nhất của cuộc sống chúng ta để đưa chúng ta đến sự sống vĩnh hằng.
Vì lý do đó, Thánh Phaolô đã nhấn mạnh đến việc hiệp thông với Chúa Giêsu Thánh Thể là kết hiệp mật thiết với chính Chúa Kitô, nghĩa là đồng hoá với Ngài, nên giống Ngài trong tư tưởng, ngôn ngữ và cuộc sống: “Ai ăn Thịt Tôi và uống Máu tôi, người ấy sẽ ở trong Tôi và Tôi ở trong người ấy”. Không bí tích nào giúp chúng ta sống “với Chúa, nhờ Chúa và trong Chúa” bằng bí tích Thánh Thể. Từ đó, Thánh Phaolô dám khẳng định: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20).
Từ việc kết hợp với Chúa Giêsu Thánh Thể sẽ đưa chúng ta đến việc hiệp nhất với các anh chị em tín hữu. Vì liên kết với Chúa Kitô, nên chúng ta cũng liên kết với nhau để làm thành một thân thể duy nhất trong Chúa Kitô, điều mà Thánh Phaolô gọi là “Nhiệm thể Chúa Kitô”. Ăn Thịt và uống Máu Chúa Kitô là lãnh nhận một động lực mạnh mẽ nhất để dẹp bỏ và xua tan những mối bất đồng, những mâu thuẫn sâu xa nhất để chỉ còn trở nên với Chúa Kitô một thân xác và một linh hồn. Sự hiệp nhất của cộng đoàn Kitô hữu trong Bí tích Thánh Thể có sức mạnh thu phục những khách bàng quan, những người xa lạ đến với Giáo Hội, như các tín hữu thời sơ khai đã từng chinh phục và đem lại ảnh hưởng lớn lao cho thế giới ngoại giáo: Họ nói với nhau: “Kìa xem coi họ (các tín hữu Kitô) yêu thương đoàn kết với nhau biết chừng nào!” (x.Cv 2,42-47).
Anh chị em thân mến, “Phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa”. Tất cả chúng ta đều được mời đến dự tiệc Thánh Thể. Thế nhưng có khá đông người tham dự Thánh lễ mà không tiếp rước Mình Máu Thánh Chúa. Phải chăng Thánh lễ đối với họ chỉ còn là một nghi thức và bổn phận phải làm, chứ không còn là sự sống được trao ban và lãnh nhận? Hoặc phải chăng vì thấy việc rước lễ xem ra không có hiệu quả trong đời sống, nên họ thất vọng và không muốn rước lễ nữa? “Phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa”. Chẳng lẽ được mời đến dự tiệc mà chẳng ăn uống gì, chỉ ngồi đó “nhìn miệng” các thực khách, rồi ra về mà lòng vẫn u sầu và bụng vẫn đói meo? Thiết tưởng không phải vô ích khi khẳng định lại điều này: Chẳng bao giờ chúng ta đến với người khác thực sự, nếu không kết hợp thâm sâu với Chúa Kitô.
Đức Cha Helder Camera, Tổng Giám Mục Giáo phận Récite ở Braxil, đã chia sẻ kinh nghiệm thống nhất đời sống hoạt động và chiêm niệm của ngài thế này: “Mỗi sáng, tôi được nuôi dưỡng bằng Đức Kitô trong Bí tích Thánh Thể, rồi suốt ngày, tôi gặp gỡ Đức Kitô nơi anh chị em tôi. Cũng một Chúa Giêsu ở trên bàn thờ và ngoài đường phố”. Có lẽ chúng ta dễ quên chân lý này: Hiệp nhất với Chúa Kitô phải đưa đến sự hiệp nhất với anh em. Nói cách khác, hiệp nhất với Chúa Kitô đang hiện diện ẩn dấu nơi anh chị em mình, nhất là nơi những người nghèo đói và bất hạnh (x.Mt 25). Và chúng ta cũng hay quên rằng: Hiệp nhất sự sống phải được thể hiện trong sự hiệp nhất lối sống. Lối sống của Chúa Giêsu Thánh Thể là lối sống của tình yêu tự hiến để cho nhân loại được sống, là phục vụ đến hy sinh mạng sống để làm giá cứu chuộc muôn người.
Được nuôi dưỡng cùng một Bánh Thánh –là Thịt Máu Chúa Giêsu- chúng ta được mời gọi chia sẻ chén cơm hằng ngày cho anh em và dấn thân hoạt động cho một trật tự công bằng, huynh đệ, cho cuộc sống ấm no hạnh phúc của mọi người trên thế giới hôm nay.
Đã bao thế kỷ trôi qua, Giáo Hội Công giáo không ngừng đào sâu niềm tin vào sự hiện diện của Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể. Dẫu có gặp muôn vàn thử thách, dẫu phải đương đầu với bao chỉ trích, người tín hữu vẫn kiên vững trong niềm tin không lay chuyển, bởi chính họ biết rõ Thánh Thể đã đem lại cho họ những gì trong cuộc hành trình thiêng liêng của cuộc đời.
Mỗi thánh lễ là một lễ kính Mình Máu Thánh Chúa. Nhưng ngày lễ trọng được ấn định hàng năm phải là một dịp đặc biệt để chúng ta suy niệm cách sâu sắc hơn về một chân lý vốn được gọi là suối nguồn, là đỉnh cao của đời sống người Kitô hữu, đó là Bí tích Thánh Thể.
Đã hẳn, trong Bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu ở đó để thực hiện lời hứa: Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế.
Nhưng trước hết sự hiện diện ấy nhằm tái diễn hy tế thập giá của Ngài. Thực vậy, Bí tích Thánh Thể không phải là một hy tế mới và độc lập, thay thế hay bổ túc cho hy tế thập giá, nhưng là lặp lại hy tế chỉ diễn ra một lần trên thập giá. Cũng một lễ vật, cũng một Đấng đã tự hiến đời mình thuở xưa trên thập giá, còn nay hiến tế qua tác vụ của linh mục trong thánh lễ. Có khác chăng là khác trong cách thức biểu lộ mà thôi.
Như dân Do Thái hằng nhớ lại những kỳ công Thiên Chúa, đặc biệt là hai biến cố: Thiên Chúa giải phóng dân khỏi ách nô lệ Ai Cập và không ngừng ban lương thực của Ngài cho dân suốt dọc theo những nẻo đường sa mạc. Trong thánh lễ, Giáo Hội cũng nhớ lại cuộc vượt qua của Đức Kitô và việc Ngài ban Thánh Thể cho dân mới trên đường lữ hành trần thế.
Thực vậy, tiếp nối Manna trong hoang địa, Thánh Thể trở nên lương thực, trở nên của ăn đàng cho Israel mới là Giáo Hội. Nhưng Manna mới chỉ là hình ảnh tượng trưng, chứ không thể nào sánh ví được với Bí tích Thánh Thể. Bởi vì cũng như bao lương thực trần gian khác, Manna vẫn để con người lại đó với cơn đói và nỗi khát khao vĩnh cửu. Manna chỉ cho người ta sống tạm để khỏi chết chứ không giúp người ta khỏi chết đời đời. Chính thân thể vinh hiển của Đức Kitô mới thực là bánh ban sự sống: Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời.
Chúa Giêsu đã trở nên bánh khi hiến mình làm lễ tế dâng lên Chúa Cha. Chúa Cha đã chấp nhận lễ hy tế ấy bằng cách tôn vinh Chúa Giêsu và đưa vào trong vinh quang của Ngài. Ngài nhận lễ vật mà Chúa Giêsu thay cho loài người dâng tiến, để rồi ban lại cho loài người như của ăn thánh. Từ của ăn thánh ấy, loài người kín múc sự sống để thông hiệp với Thiên Chúa… Và trong bữa tiệc ấy, Thiên Chúa hòa niềm vui của Ngài với tiếng cười của nhân loại. Những ai đón nhận của ăn thánh ấy sẽ được lôi kéo vào trong quỹ đạo của tình yêu Thiên Chúa và lưu lại trong Ngài: Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì sẽ ở lại trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy. Người ăn uống Mình Máu Chúa sẽ thuộc về Chúa từ đời này và mai này thuộc về Ngài mãi mãi.
Như thế, Thánh Thể thực hiện trước bữa tiệc cánh chung trong nước trời, sẽ được cử hành trong niềm vui rượu mới. Và như thế Thánh Thể là dấu chỉ cho đời sống vĩnh cửu đã khởi sự và là bảo chứng cho sự sống lại trong ngày sau hết.
Chúa Giêsu thiết lập Bí tích Thánh Thể trong bối cảnh của lễ Vượt Qua của người Do Thái, một đại lễ lớn nhất của dân tộc. Đại lễ này tưởng niệm lại hành động can thiệp đầy quyền năng của Thiên Chúa, trong việc dẫn dắt dân Người thoát khỏi ách nô lệ ở Ai Cập. Bữa ăn Vượt Qua là một nghi lễ long trọng. Bữa ăn tưởng niệm lại một việc trong quá khứ, và đang khi cử hành việc tưởng niệm đó thì quyền năng của Thiên Chúa lại được tái hiện.
Chúa Giêsu nói: “Các con hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy”. Mỗi khi chúng ta cử hành Bí tích Thánh Thể thì quyền năng và tình yêu của Chúa Giêsu lại được tái hiện. Nhưng không chỉ như thế, chính Chúa Giêsu lại hiện diện thật sự ở giữa chúng ta.
Trong khi đó, nhiều người Công giáo lại không ý thức đủ. Họ đi tham dự thánh lễ mà lại đến trễ, về sớm. Vài người lại nói chuyện với nhau hay chỉ nhìn ngắm kẻ khác. Nhiều người vào trong nhà thờ mà không tỏ sự tôn kính Chúa Giêsu Thánh Thể đang hiện diện trong Nhà Tạm. Nhiều người không rước lễ và hầu như không còn để ý đến việc đó nữa. Nhiều người ăn vận trang phục bất xứng, thứ trang phục mà họ không dám mặc khi đến thăm một người bạn. Trong khi xếp hàng lên rước Mình Thánh Chúa Giêsu, một số người thay vì tập trung vào việc chuẩn bị đón Chúa ngự vào tâm hồn mình thì lại đưa mắt nhìn quanh khắp cả nhà thờ.
Tại sao lại xảy ra tình trạng đáng buồn như vậy? Thật là tốt đẹp khi Giáo hội khuyến khích các tín hữu thường xuyên rước lễ và tạo điều kiện dễ dàng cho việc này. Nhưng cũng vì thế mà xảy ra tình trạng người giáo dân ơ hờ, trễ nải đối với Chúa Giêsu Thánh Thể. Cũng có một số tín hữu chịu ảnh hưởng của Tin lành cho rằng Bánh Thánh chỉ là biểu tượng của Chúa Giêsu mà thôi. Nhưng Chúa Giêsu không nói: “Đây là biểu tượng của Mình Thầy”. Chúa nói cách rõ ràng: “Đây là Mình Thầy”.
Ước gì đại lễ kính Mình Thánh Chúa Giêsu Kitô hôm nay giúp mọi tín hữu Công giáo ý thức hơn về sự hiện diện thật sự của Chúa Giêsu Kitô trong Bí tích Thánh Thể. Ước gì ngày lễ hôm nay canh tân tâm tình biết ơn của chúng ta đối với quà tặng vô giá, mà Chúa Giêsu ban cho chúng ta là chính Thịt Máu Chúa. Càng ý thức hơn về sự hiện diện thật sự của Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể, chúng ta càng có thêm sức mạnh để tiến bước trên hành trình đức tin của mình.
Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa vì quà tặng vĩ đại Chúa đã ban cho con là Bí tích Thánh Thể. Xin Chúa giúp con luôn xác tín vào sự hiện diện của Chúa Giêsu trong bí tích này và hết lòng tôn sùng mến yêu.
Để cổ động cho việc cầu nguyện chung trong gia đình, linh mục Pê-tanh đã nói: “Gia đình nào cầu nguyện chung với nhau thì sẽ sống hiệp nhất với nhau”. Việc cầu nguyện chung trong gia đình sẽ củng cố mối dây hiệp nhất mọi thành phần với nhau mỗi ngày một thêm bền chặt. Dù không muốn nói ngược lại linh mục Pê-tanh và không muốn làm giảm giá trị của việc cầu nguyện chung trong gia đình, nhưng cha Gioan Tô-mát, dòng Tên đã nhấn mạnh một khía cạnh khác, cũng quan trọng không kém, đó là việc dùng cơm chung với nhau thì sẽ sống hiệp nhất với nhau.
Bữa ăn chung trong gia đình có một tầm quan trọng và ý nghĩa đặc biệt của nó mà ngày nay nhiều người đã bỏ quên hoặc không quan tâm cho đủ. Không phải bất cứ người xa lạ nào cũng có thể ngồi vào bàn ăn dùng bữa chung trong gia đình. Một người nào được mời dùng bữa với gia đình là dấu chỉ được chấp nhận vào tình thân với gia đình đó, người được mời đến dùng bữa với gia đình là người được gia đình đó quý mến. Bữa ăn tạo dựng sự hiệp thông và yêu thương thân thiết ngày càng bền chặt hơn.
Bữa ăn chung trong gia đình làm cho mọi thành phần vợ chồng, cha mẹ, con cái, anh chị em được hiệp nhất với nhau, được dịp chia sẻ những niềm vui, những quan tâm lo lắng của nhau. Nếu quan sát thêm chúng ta sẽ thấy vai trò của mỗi người được biểu lộ cách rõ ràng trong bữa ăn chung. “Một gia đình dùng bữa chung với nhau sẽ sống hiệp nhất với nhau”, lý tưởng là như thế, nhưng không phải tất cả mọi người, mọi gia đình ngày nay đều có thể thực hiện được lý tưởng cao đẹp này. Nhiều gia đình đã bỏ mất dịp tốt này, mọi người vội vàng lo cho mình có chút gì vào bụng rồi mau chóng đi lo công việc riêng, mọi người không còn xếp đặt công việc để có thể tham dự bữa cơm chung trong gia đình nữa, nhưng mỗi người xếp đặt đời sống theo một sở thích riêng hay một nhu cầu riêng. Cha mẹ lo làm việc xếp đặt đời sống chạy theo công việc nên không còn quan tâm đến việc ăn cơm chung với con cái; phần con cái bận việc với bạn bè hay công việc riêng của mình nên cũng chẳng màng chi đến bữa cơm chung. Mỗi người trong gia đình đều có lý do riêng để không ăn cơm chung với nhau, nhiều gia đình ngày nay tan vỡ có lẽ vì hai lý do: không cầu nguyện chung với nhau và không ăn cơm chung với nhau. Chúng ta hãy nhìn lại gia đình mình và kiểm điểm theo hai nguyên tắc căn bản trên: cầu nguyện chung và dùng cơm chung.
Chúa Giêsu cũng dùng một bữa ăn, bữa ăn tối cuối cùng với các môn đệ để thiết lập Bí tích Thánh Thể. Chúa đã làm cho bữa ăn cuối cùng này không phải là bữa ăn chứng tỏ tình bạn như trước đây, cũng không phải là bữa ăn để Ngài tự tỏ mình ra như một Môsê mới bằng cách ban phát Manna mới cho họ qua việc hóa bánh ra nhiều, nhưng là bữa ăn liên kết tình bạn và tình yêu.
Chính vì thế thánh Gioan đã viết: “Ngài đã yêu thương các môn đệ của Ngài và đã yêu thương họ đến cùng”. Yêu thương đến cùng có nghĩa là yêu thương đến tột bực. Tột bực tình yêu của Ngài ở đây là việc lập Thánh Thể. Thực vậy, Chúa Giêsu đã ghi dấu đặc biệt của Ngài nơi bữa tiệc này, để từ nay Ngài trở thành nơi gặp gỡ tình yêu giữa chúng ta với Ngài và giữa chúng ta với nhau.
Vì thế, Thánh Thể được gọi là bí tích của sự hiện diện. Chúa Giêsu vừa báo trước cho các môn đệ là Ngài sẽ giã từ thế gian để về cùng Cha. Ngài sẽ phải xa cách họ luôn sao? Không, trong tình yêu thương, Ngài đã tìm ra một phương thế để ở lại với các môn đệ và qua mọi thời gian, ở lại với tất cả những ai tin vào Ngài. Phương thế tuyệt diệu đó là Bí tích Thánh Thể, nhờ đó Ngài hiện diện thực sự và trải dài sự hiện diện đó đến tận cùng thời gian qua mọi người để ban cho họ những điều tốt lành.
Đây là một mầu nhiệm đức tin, bởi vì lý trí chúng ta không hiểu được, giác quan chúng ta không cảm nhận được, chỉ có đức tin dạy cho chúng ta biết: Chúa hiện diện thật sự trong Bí tích Thánh Thể, nên khi rước lễ là chúng ta ăn Mình Chúa và uống Máu Chúa, là lương thực vừa giúp chúng ta sống khỏe, sống mạnh, sống tốt đẹp ở đời này vừa bảo đảm cho sự sống lại và cuộc sống vĩnh cửu, như Chúa đã quả quyết: “Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi thì Tôi sống trong người ấy, và Tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết và được sống đời đời”. Như vậy, người ăn Mình Chúa và uống Máu Chúa sẽ thuộc về Chúa ngay từ đời này và mai ngày thuộc về Ngài mãi mãi. Thánh Thể là dấu chỉ cho đời sống vĩnh cửu đã khởi sự, và là bảo chứng cho sự sống lại ngày sau hết. Vì vậy, chúng ta hãy siêng năng rước lễ để chúng ta được kết hiệp với Chúa Kitô, và sự kết hiệp đó đưa chúng ta đến sự hiệp thông với nhau, tức là yêu thương nhau. Đúng ra phải như vậy, nhưng thực tế có được như vậy không? Có lẽ nhiều người Kitô hữu quên mất điều này: hiệp thông với Chúa Kitô phải đưa đến sự hiệp thông với nhau.
Tóm lại, khi dâng thánh lễ là chúng ta cùng tham dự bàn tiệc Thánh Thể, chia sẻ Mình Máu Chúa Kitô, Đấng đã hiến cả cuộc đời mình nên của lễ tình yêu. Xin Chúa cho chúng ta một khi đã được hiệp thông với Chúa, thì cũng biết hiệp thông với nhau bằng cuộc sống yêu thương phục vụ để cùng nhau xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn.
Hôm nay, mừng kính Mình và Máu thánh Đức Kitô, chúng ta cùng nhau dừng lại để chia sẻ một vài ý nghĩ đơn sơ về bí tích Thánh thể.
Trước hết, bí tích Thánh thể là dấu chỉ của tình Chúa.
Thực vậy, khi yêu thương ai, chúng ta muốn được ở gần người đó để hàn huyên tâm sự, như ca dao đã bảo:
- Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo,
Thất bát sông cũng lội,
Tứ cửu tam thập lục đèo cũng qua.
- Yêu nhau chẳng quản xa gần,
Mấy sông cũng lội, mấy ngàn cũng qua.
Hiểu theo chiều hướng này, thì Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta bằng một tình yêu không bờ không bến, vì Ngài không phải chỉ đi qua vài ba ngọn đồi, lội qua dăm bảy con suối để đến với chúng ta. Trái lại, Ngài đã đi con đường dài nhất, con đường từ vô biên đến hữu hạn, con đường từ trời xuống đất, con đường từ một Thiên Chúa toàn năng đến một kẻ nghèo hèn, để trở thành một Emmnuel, nghĩa là một Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Ở cùng chúng ta hơn ba chục năm mà thôi chưa đủ, Ngài lại còn muốn ở cùng chúng ta mãi mại, cho đến tận cùng thời gian qua bí tích Thánh thể.
Tuy nhiên, Ngài không phải chỉ ở bên cạnh chúng ta, đi bên lề cuộc sống chúng ta như một kẻ xa lạ. Trái lại, Ngài còn muốn thấm nhập và trở nên một với chúng ta.
Bởi đó, mỗi khi lên rước lễ, chúng ta sẽ được kết hiệp và gắn bó mật thiết với Chúa. Sự kết hiệp và gắn bó này còn mật thiết hơn cả tình bè bạn, tình cha mẹ, tình vợ chồng, bởi vì chúng ta sẽ trở nên một với Ngài.
Giọt nước hòa tan trong rượu thế nào, chúng ta cũng sẽ được hòa tan trong Chúa như vậy. Thanh sắt nung trong lửa, sẽ nóng và đỏ như lửa thế nào, chúng ta cũng sẽ được trở nên giống Chúa như vậy.
Ngoài ra, khi yêu thương ai, ngoài việc muốn được ở gần người đó, chúng ta còn cố gắng làm cho người đó được hạnh phúc: nào là thư từ, nào là quà cáp, nào là thăm hỏi…
Nếu hiểu theo chiều hướng này, thì Chúa Giêsu cũng đã yêu thương chúng ta bằng một tình yêu không bờ không bến bởi vì Ngài đã xuống thế để làm gì nếu không phải là để giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi và án phạt đời đời.
Rồi suốt cả cuộc đời, Ngài đã thực hiện biết bao nhiêu hành động yêu thương. Ngài đã cúi xuống xoa dịu những đớn đau, chữa lành mọi bệnh tật, xua trừ ma quỉ. Hơn thế nữa, Ngài còn chết trên thập già để cứu độ chúng ta như lời Ngài đả phán:
- Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu.
Bằng đó mà thôi cũng chưa đủ, Ngài còn theít lập bí tích Thánh thể để trở nên của ăn nuôi sống linh hồn và đảm bảo cho chúng ta cuộc sống vĩnh cửu:
- Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì sẽ được sống đời đời.
Một người Cha trước khi chết thường trối lại cho con cháu bản chúc thư. Những người yêu nhau trước khi đi xa, thường trao tặng cho nhau những kỷ vật. Cũng vậy, là một người cha, Đức Kitô trước khi chịu chết, đã trối lại cho các môn đệ cũng như cho mỗi người chúng ta một bản chúc thư, đó là giới luật yêu thương. Là một người tình, Đức Kitô trước khi ra đi, đã trao tặng cho chúng ta một kỷ vật, đó là thịt máu Ngài.
Và như thế, bí tích Thánh thể chính là dẩu chỉ tình yêu bao la mà Chúa Giêsu đã dành cho chúng ta.
Tiếp đến, bí tích Thánh thể còn là dấu chỉ của tình người.
Thực vậy, nhìn vào một bữa ăn, một bàn tiệc, chúng ta tìm thấy ngay được dấu chỉ của sự yêu thương và hiệp nhất.
Tiên vàn, những người ngồi cùng bàn đều có một mẫu số chung nào đó. Có thể là chia sẻ một niềm vui như đi tự tiệc cưới. Có thể là chia sẻ một nỗi buồn như đi ăn đám giỗ. Có thể là chia sẻ một băn khoan lo lắng như bữa tiệc trước khi tính toán và bắt đầu một công việc quan trọng.
Ngoài ra, khi quây quần chung quanh một bàn ăn, chúng ta còn chia sẻ với nhau một nguồn sống, là những thức ăn do lao công vất vả của nhiều người làm nên. Chính những thức ăn này sẽ được tiêu hóa và trở nên thịt máu, trở nên một phần cơ thể chúng ta. Bởi đó, chúng ta thường phải tránh đi những bất hòa, xích mích trong bữa ăn: trời đánh còn tránh bữa ăn.
Chúa Giêsu cũng đã thiết lập bí tích Thánh thể dưới hình thức một bữa ăn, một bàn tiệc. Chính vì thế, ý nghĩa của sự yêu thương và hiệp nhất cần phải được nổi bật, bởi vì chúng ta cùng ăn một của ăn thiêng liêng muôi sống linh hồn, như thánh Phaolô đã viết:
- Mặc dù chúng ta tuy nhiều, nhưng cùng chia sẻ một tấm bánh và làm nên một thân thể Đức Kitô.
Hơn thế nữa, nơi bàn tiệc Thánh thể, mọi người đều bình đẳng vì tất cả đều là con cái Chúa, không còn phân biệt già hay trẻ, sang hay hèn…Các tín hữu sơ khai đã ý thức được chân lý căn bản này, họ đã biến nghi thức bẻ bánh, hay bàn tiệc Thánh thể trở nên nơi qui tụ cho tình thương. Họ mang rượu bánh đến góp chung để dâng lễ, để nuôi sống linh mục và tu sĩ, cũng như để giúp đỡ những người nghèo.
Tình bác ái huynh đệ này không phải chỉ đóng khung trong khi tham dự nghi thức bẻ bánh, mà còn được nối tiếp trong cuộc sống, vì trong cuộc sống, họ đã góp chung tiền bạc, tài sản để cho các tông đồ phân phối theo nhu cầu.
Từ những xác quyết trên, chúng ta đi tới hai kết luận. Kết luận thứ nhất, vì bí tích Thánh thể là dấu chỉ của tình Chúa, nên chúng ta hãy siêng năng tham dự thánh lễ và nhất là rước lễ mỗi khi có thể, để đáp trả những yêu thương Ngài đã dành cho chúng ta.
Kết luận thứ hai, vì bí tích Thánh thể là dấu chỉ của tình người, nên chúng ta hãy cố gắng sống bác ái. Không phải chúng ta chỉ hòa giải và yêu thương trong thánh lễ, trong nhà thờ, mà còn phải hòa giải và yêu thương trong cuộc sống, bởi vì cuộc sống ngập tràn tình bác ái chính là một thánh lễ nối dài, và những hy sinh chúng ta vui lòng chịu vì người khác sẽ là những lễ vật xuất phát từ lòng cuộc đời, chúng ta dâng tiến Chúa.
Vào tháng 12 năm 1987 một cơn động đất lớn đã xảy ra ở xứ Armênia thuộc Liên Xô cũ giết chết hằng ngàn người. Trong số những người bị chôn dưới đống gạch vụn có 2 mẹ con bà Suzanna. Mẹ con may mắn nằm lọt vào trong một khoảng trống nhỏ. Tất cả lương thực họ có chỉ là một hũ mứt nhỏ. Nhưng chẳng bao lâu hũ mứt cũng hết sạch. Lúc đó đứa con 4 tuổi kêu lên: “Mẹ ơi con khát quá”. Bà Suzanna không biết tìm đâu ra nước cho con. Nhưng tình máu mủ đã gợi cho bà một sáng kiến táo bạo: bà dùng một miếng kính vỡ cắt đầu ngón tay mình cho máu chảy ra và đưa vào miệng đứa con cho nó mút. Một lúc sau nó lại kêu khát, bà lại cắt một đầu ngón tay nữa. Cứ như thế cho đến khi người ta cứu 2 mẹ con ra. Sau khi ra ngoài, bà mẹ cho biết rằng: “Lúc đó tôi biết thế nào tôi cũng chết. Nhưng tôi muốn con tôi sống”
Câu chuyện trên thật cảm động. Nhưng vẫn không cảm động bằng việc Đức Giêsu tự hiến dâng thịt máu mình cho chúng ta. Bà Suzanna đã lấy máu của mình nuôi con khi bà biết rằng chắc chắn bà sẽ chết. Thay vì chết cách vô ích. Bà đã hy sinh dòng máu của mình để cho đứa con được sống. Đó là sự hy sinh trong một tình thế bó buộc. Còn Đức Giêsu thì không có gì bắt buộc cả: Ngài đến trần gian để chết cho loài người. Càng ngày Ngài càng tiến gần đến cái chết. Tuy nhiên bất cứ lúc nào Ngài cũng có thể thoát khỏi cái chết ấy. Dù vậy Ngài vẫn cương quyết đi đến cái chết và cương quyết lấy thịt máu mình làm lương thực nuôi sống loài người chúng ta. Thật đúng là: “Không có tình yêu nào cao trọng cho bằng tình của người dám chết cho người mình yêu thương”. Điểm thứ hai khác biệt giữa bà Suzanna với Đức Giêsu là: việc bà Suzanna hy sinh máu mình cho đứa con chỉ xảy ra một lần; còn việc Đức Giêsu ban thịt máu Ngài cho chúng ta xảy ra hằng ngày, như lời Ngài đã truyền dạy “Chúng con hãy làm việc này để nhớ đến Ta”. Mỗi lần Giáo hội dâng Thánh lễ là mỗi lần việc hy sinh của Đức Giêsu được lập lại, lập lại không chỉ như một tưởng niệm mà lập lại với tất cả hiệu quả có nó. Hiệu quả ấy là như lời Đức Giêsu đã nói: “Ai ăn Thịt Ta và uống máu Ta thì sẽ được sống muôn đời”.
Một điều đáng buồn là lòng chúng ta đã thành chai đá trước tấm lòng của Chúa mà lẽ ra phải khiến chúng ta hết sức cảm động. Ngày nay ở phương Tây, số giáo dân Pháp, chỉ còn có 10% giáo dân dự lễ Chúa Nhật. Còn bên Việt Nam chúng ta, số người bỏ lễ Chúa Nhật cũng càng ngày càng nhiều. Trong số những kẻ còn đi lễ thì nhiều người đứng ngoài Nhà thờ, vừa dự lễ vừa trò chuyện và hút thuốc. Hình như rất nhiều người đi lễ chỉ vì sợ phạm tội trọng.
Khi Nữ Tu Têrêxa Calcutta sang Liên Xô xin mở trụ sở bác ái, Bà đã gặp các vị lãnh đạo chính quyền và đã được đồng ý nhanh chóng. Tuy nhiên khi bà xin cho có Linh mục tại những trụ sở đó thì các vị ấy đã ngần ngại. Lúc Mẹ Têrêxa giải thích: Nguồn sức mạnh của các Nữ Tu chúng tôi là do Mình Thánh Chúa. Nhờ mỗi ngày được rước Mình Thánh Chúa nên các Nữ Tu chúng tôi có sức hy sinh quên mình để phục vụ những người nghèo khổ. Do đó cần phải có Linh mục để mỗi ngày dâng Thánh Lễ và cho chúng tôi rước lễ. Mẹ Têrêxa và các nữ tu của Bà là những người đã cảm nghiệm được Lời Chúa phán khi lập phép Mình Thánh Chúa “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì sẽ được sống muôn đời”.
Hôm nay lễ Mình và Máu Thánh Chúa Giêsu. Chúng ta ôn lại tình yêu bao la của Đức Giêsu khiến Ngài chịu chết vì chúng ta và trước khi chết đã ban Mình và Máu Ngài làm thương thực nuôi linh hồn chúng ta.
Nhưng chúng ta cũng nhận thấy sự giảm sút lòng sốt săng của chúng ta đối với việc dự lễ và rước lễ. Chúng ta thờ ơ với một thứ lương thực quý giá mà Chúa đã ban. Chúng ta bỏ mất biết bao ơn ích do việc rước lễ mà nhiều người đạo đức rất quý chuộng.
Giờ đây chắc chúng ta biết mình phải làm gì:
- Trước hết, là những người làm cha mẹ, làm ông bà, chúng ta hãy nhắc nhở và khuyến khích con cháu mình thường xuyên tham dự Thánh Lễ và Rước lễ sốt sắng.
- Phần chúng ta, mỗi khi dự lễ và Rước Lễ, chúng ta hãy cố gắng sốt sắng. Đừng làm một cách máy móc theo thói quen, nhưng hãy đặt hết tâm tình vào đó.
Để kết thúc, xin trích đọc sau đây tâm tình của một người đã biết cách dự lễ và rước lễ sốt sắng: “Mỗi Thánh Lễ, tôi lại cảm thấy có điều gì đó cần thống hối cách đặc biệt. Mỗi Thánh Lễ, tôi lại thấy mình muốn đặt lên đĩa Thánh một chút cố gắng riêng tư, đau khổ, mơ ước, thao thức… Tôi không đi dự Thánh Lễ với hai bàn tay trắng, nhưng với lễ vật là chính cuộc đời tôi. Trong mỗi Thánh Lễ, Lời Chúa lại tác động đến tôi, những lời nói đã nghe nhiều lần tôi nhớ rằng Ngài đã trở nên tấm bánh bẻ ra cho tôi, và tôi cũng phải trở nên tấm bánh bẻ ra cho anh chị em tôi”.
Du khách đến Huế không thể quên được Nam Giao, cũng như đến Bắc Kinh không thể bỏ qua Điện Trời. Chính tại nơi đây, hàng năm nhà vua sẽ tế Trời thay cho toàn dân.
Tại Huế, Điện Thái Hòa, cửa Ngọ Môn và đàn Nam Giao cũng nằm ngay trên một đường Thẳng. Điện Thái Hòa là nơi vua quan lo việc triều chính. Cửa Ngọ Môn quay về hướng nam. Khi mặt trời lên tới đỉnh đầu, lúc 12 giờ trưa, tức là giờ Ngọ, thì hình và bóng sẽ trở nên đồng nhất.
Từ Điện Thái Hòa, vua sẽ qua cửa Ngọ Môn, tiến về phương nam đển lên đàn Nam Giao thay dân tế Trời. Sau khi ăn chay nằm đất, vua sẽ bước lên tế đàn hình vuông tượng trưng cho đất, rồi mới tiến lên tế đàn hình tròn, tượng trưng cho Trời. Chính tại nơi đó, vua sẽ long trọng thay mặt toàn thể con dân tế Trời.
Vua trần gian thay dân tế Trời bằng những của lễ vật chất. Vua vũ trụ, Đức Giêsu Kitô dùng chính thân xác và linh hồn của Người để tế lễ cho Thiên Chúa.
Vua trần gian thay dân tế Trời rồi trở lại với công việc triều chính. Vua Giêsu khi tế lễ cho Thiên Chúa lại dùng chính thân xác mình làm của ăn của uống nuôi toàn dân.
“Này là Mình Ta, các con hãy cầm lấy mà ăn… Này là Máu Ta các con hãy cầm lấy mà uống”. Tiệc Thánh Thể này đã được chính Đức Giêsu tiên báo trong tiệc cưới Cana, đã được Người hứa ban cho dân ở Caphanaum, đã được Người thiết lập ở Giêrusalem trước khi bước vào cuộc khổ nạn, và đã được chính Người cử hành đầu tiên tại làng quê hẻo lánh Emmau. Bốn khung cảnh này hòa quyện, đan kết với nhau tuyệt đẹp trong ngày lễ Mình Máu Thánh Chúa.
Thánh Thể chính là trung tâm đời sống người tín hữu Kitô.
Thánh Thể chính là mối hiệp nhất giữa Thiên Chúa với con người, và giữa con người với nhau.
Thánh thể chính là món quà Thiên Chúa trao tặng cho nhân loại.
Thánh Thể chính là lương thực thiêng liêng cho cuộc sống người tín hữu.
Thánh Thể chính là bảo đảm cho hạnh phúc trường cửu của chúng ta.
Mầu nhiệm tình yêu này vượt quá tầm trí mọn của con người. Đức Giêsu đã tự hiến trọn vẹn cho chúng ta, đến nỗi Người không thể cho chúng ta điều gì hơn thế nữa.
Thánh Thể chính là sáng kiến táo bạo nhất của Thiên Chúa đang yêu. Trước khi giã từ cõi thế. Người không còn gì quý hơn để ban tặng cho con người. Người đã trao ban cả thân xác, để thấm nhập vào xác thân con người. Yêu là cho đi, là cho hết, cho cả cuộc đời.
Trên một ngọn đồi ở gần Cape Town, Nam Phi, ngay bên dưới ngọn núi Table nổi tiếng, có một khẩu súng mỗi ngày đều được bắn vào mỗi buổi trưa. Ngọn đồi đó được biết đến như là ngọn đồi Đánh Dấu. Việc bắn súng đã từng phục vụ cho một mục đích tốt đẹp. Nó báo hiệu có một con tàu trên đường đi tới hoặc rời khỏi Ấn Độ, đã đến bến cảng, với đầy hàng hóa, và được cung cấp thực phẩm và thức uống. Kết quả là một cuộc trao đổi đẹp đẽ. Có sự tiếp nhận và có sự cho đi.
Nhưng cảnh đó diễn ra từ trước đây rất lâu. Hiện nay, mục đích này không còn tồn tại nữa. Tuy nhiên mỗi ngày, khẩu súng đó vẫn còn được bắn một cách nghiêm túc, mặc dù bây giờ, tiếng súng bắn nhỏ hơn, như một lễ nghi không có nội dung. Việc bắn súng này đã từng mang một ý nghĩa thật đẹp. Hiện nay, ý nghĩa này không còn nữa. Hầu hết người dân địa phương đều không để ý tới tiếng súng đó. Người ta nói với các du khách “nếu giữa trưa, bạn nghe thấy môt tiếng nổ lớn, thì đừng lo lắng gì cả. Đó chỉ là tiếng súng thôi”.
Tuy nhiên, lễ nghi đó vẫn còn có một mục tiêu. Hầu hết mọi người đều biết về câu chuyện phía sau lễ nghi đó. Nếu câu chuyện này bị mất đi, thì lễ nghi đó sẽ lại càng trở nên nghèo nàn hơn.
Phép Thánh Thể cử hành một sự kiện tuyệt vời – ân sủng mà Đức Giêsu đã thay mặt chúng ta thực hiện bằng chính sự sống của Người. Mỗi lần chúng ta cử hành Phép Thánh Thể, là chúng ta kể lại câu chuyện này. Nhưng giống như bất cứ điều gì được lập đi lập lại, có một nguy cơ là điều đó có thể trở thành một thứ lễ nghi mà thôi.
Trong Phép Thánh Thể, Đức Giêsu nuôi dưỡng chúng ta bằng bánh ban sự sống. Nhưng điều đó không có nghĩa là sự giao thông một chiều. Khi được đón nhận Đức Giêsu, Người chờ đợi chúng ta có một gì đó để đáp trả lại – không phải là cho bản thân Người, mà cho nhau. Nhưng thông thường, việc đón nhận Phép Thánh Thể lại không tạo ra được hiệu quả đáng lẽ phải có – hiến thân phục vụ người khác một cách vô vị lợi.
Chúng ta vẫn tiếp tục công bố về bánh và chén, “Đây là mình Thầy, hiến thân vì anh em… Đây là máu Thầy, đổ ra vì anh em”. Tuy nhiên, dường như Phép Thánh Thể ít có hiệu quả trên con người. Chúng ta không nhìn thấy người nào chịu hiến mạng sống của mình, trong việc phục vụ người khác. Người nào ăn bánh và uống chén này mỗi ngày, thì thường đang được sống cuộc sống trung tâm của mình.
Đối với người Do thái, sự ghi nhớ không chỉ là kể lại. Đó là trình bày cho mỗi thế hệ về những sự kiện mang tính cách giải quyết trong quá khứ. Cũng tương tự như vậy, Phép Thánh Thể không chỉ là giới thiệu về Mình và Máu Đức Kitô, mà còn loan báo và tưởng nhớ về cái chết ban sự sống của Người.
Phép Thánh Thể là trung tâm của tất cả mọi sự. Nhưng không bao giờ có thể tách rời Phép Thánh Thể ra khỏi sự thanh tẩy bản thân. Có hai chân lý được nối kết với nhau – chúng ta được hiệp thông với Đức Giêsu, để có thể hiệp thông với người khác.
Thật là một điều đáng tiếc, nếu Phép Thánh Thể chỉ là một lễ nghi, một thứ lễ nghi trống rỗng. Ở đây, Đức Giêsu hiến thân cho chúng ta, để đến lượt mình, chúng ta có thể hiến thân cho anh em.
Trong ý nghĩa yêu thương, trước giờ biệt ly, Chúa Giêsu muốn để lại cho loài người một vật kỷ niệm. Người đời trước khi đi xa, thường lưu lại cho người thân thích một món đồ nào đó để ghi nhớ: một cuốn sách, một khăn tay, một tấm hình, một cái áo, một chiếc nhẫn v.v… Đối với Chúa Giêsu, những vật đó hay bất cứ vật nào cũng đều tầm thường quá, hời hợt quá, không đủ nói lên tấm lòng yêu thương nồng nhiệt của Chúa đối với nhân loại. Kỷ vật Chúa muốn lưu lại cho loài người phải hết sức đặc biệt, đó là chính bản thân Chúa.
Nhưng bản thân bằng xương bằng thịt của Chúa lại sắp sửa bị bắt và bị giết chết. Do đó, Chúa đã thực hiện ý muốn trên bằng một thể thức vô cùng linh diệu, là lưu lại bản thân dưới hình thức nhiệm mầu. Chúa lấy bánh và rượu biến đổi thành Mình và Máu Ngài: “Này là Mình Thầy”, “Này là chén Máu Thầy”. Với những lời ấy, Chúa Giêsu đã lập Phép Thánh Thể. Rồi Chúa còn truyền cho các môn đệ: “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”, tức là Chúa ban quyền cho các môn đệ được làm việc cao quý này để tưởng niệm đến Ngài.
Như thế, trong bữa tiệc ly và cũng là thánh lễ đầu tiên do Chúa Giêsu cử hành, Chúa đã thiết lập Bí tích Thánh Thể và ban quyền chức linh mục cho các tông đồ. Từ đó trở đi, cho tới ngày nay, và cho tới tận thế, trong thánh lễ, khi linh mục trịnh trọng lặp lại những lời của Chúa Giêsu: “Này là Mình Thầy”, “Này là chén Máu Thầy”, tức thì bánh không còn là bánh, rượu không còn là rượu nữa, nhưng là Mình và Máu Chúa Kitô. Đây là một chân lý cao siêu vượt quá sự hiểu biết của trí khôn loài người. Bởi vì trước và sau khi linh mục đọc lời truyền phép, chúng ta có nhìn xem, đụng chạm tới hay nếm bánh và rượu chưa truyền phép và đã truyền phép, chúng ta chẳng thấy có gì khác nhau. Nhưng theo đức tin thì lại khác xa nhau một trời một vực: một đàng là Mình Máu Thánh Chúa Kitô, một đàng là một tấm bánh nhỏ bé, một chút rượu tầm thường. Vì thế, chúng ta gọi đây là một bí tích và là một mầu nhiệm đức tin.
Như vậy, trong tình yêu và vì tình yêu, Chúa Giêsu đã tìm ra một phương thế để ở lại với các môn đệ; và qua mọi thời gian, ở lại với tất cả những ai tin vào Ngài. Vì thế, Thánh Thể được gọi là bí tích của sự hiện diện. Dưới hình bánh và hình rượu, Chúa Giêsu hiện diện luôn mãi với loài người nơi trần gian. Thánh thể còn là bí tích của sự hiệp nhất. Trước hết, Thánh Thể làm cho chúng ta kết hiệp mật thiết với Chúa Kitô, bởi vì Ngài đến với chúng ta dưới hình bánh hình rượu, làm cho chúng ta sống bằng chính sự sống của Ngài. Đồng thời, khi kết hiệp chúng ta với Chúa Kitô, thì thánh thể cũng kết hiệp chúng ta với nhau: được qui tụ chung quanh một bàn ăn, chúng ta cùng uống một chén, chia sẻ cùng một của ăn, chúng ta sống bằng chính mầu nhiệm của tình thương, chúng ta càng hiệp nhất với nhau còn hơn là con cái của một gia đình.
Thánh Thể còn là bí tích của sự chia sẻ: Bí tích Thánh Thể đã được Chúa Giêsu thiết lập trong bầu khí thân tình của một bữa ăn từ giã. Tấm bánh Chúa Giêsu đã cầm và phân chia cho các môn đệ cũng như chén rượu Ngài đã trao cho các môn đệ là để họ cùng ăn cùng uống trong tình huynh đệ; và chính việc chia sẻ này đã được Chúa dùng như dấu chỉ cho các môn đệ làm để nhớ đến Ngài. Cũng vậy, ý thức chia sẻ đòi buộc mỗi người không được đóng khung những buổi cử hành Thánh Thể bên trong nhà thờ, nhưng phải sống mầu nhiệm Thánh thể, mầu nhiệm yêu thương ngay trong cuộc sống mỗi ngày. Chúng ta cũng không thể cử hành Thánh Thể một cách trung thực nếu chúng ta sống dửng dưng, ích kỷ, không quan tâm đến những anh chị em chung quanh. Nếu chúng ta nghèo của cải vật chất, chúng ta hãy chia sẻ, hãy cho tình thương, sự thông cảm, vị tha, bác ái dưới mọi hình thức với hết mọi người.
Tóm lại, về Phép Thánh Thể, chúng ta hãy nhớ: Thánh Thể là một bí tích. Trong Thánh Thể, có Chúa Giêsu thật sự. Vì thế, sau khi truyền phép, không còn bánh và rượu trên bàn thờ nữa. Chúng ta hãy siêng năng tham dự thánh lễ. Mỗi lần dâng thánh lễ là chúng ta cử hành việc Chúa lập Phép Thánh Thể. Đàng khác, chúng ta hãy cố gắng rước lễ mỗi khi tham dự thánh lễ, bởi vì rước lễ làm cho chúng ta kết hiệp với Chúa Kitô và hiệp nhất với nhau; tăng thêm sức mạnh cũng như nghị lực cho chúng ta trên đường lữ thứ trần gian; và bảo đảm sự sống đời đời của chúng ta. Như thế, bàn tiệc Thánh Thể trở nên điểm hẹn diệu kỳ, nơi đó, chúng ta được nối kết với Chúa Kitô và nối kết với nhau, để cùng nhau xây dựng một thế giới công bằng và tốt đẹp hơn.
Câu hỏi gợi ý:
1. Tại sao Đức Giêsu lập bí tích Thánh Thể khi ăn mừng lễ Vượt Qua, và Ngài cũng tử nạn và phục sinh vào dịp đại lễ này? Điều đó có ý nghĩa gì?
2. Khác với lễ vật bị đốt cháy hoàn toàn trong hy lễ toàn thiêu, con chiên bị sát tế vào dịp lễ Vượt Qua lại trở nên của ăn cho con người. Bạn có nhìn thấy tương quan giữa hy lễ thập giá và bí tích Thánh Thể không?
3. Đức Giêsu không chỉ chịu đau khổ và chết cho con người, mà còn trở nên của ăn cho họ. Bạn có thấy đó là mẫu gương để chúng ta bắt chước không?
Suy tư gợi ý:
1. Sự trùng hợp giữa ba biến cố quan trọng
Đã đến thời điểm Đức Giêsu phải sát tế chính bản thân mình làm lễ hy sinh toàn thiêu để thờ phượng Thiên Chúa và đền tội thay cho toàn thể nhân loại. Thời điểm ấy trùng vào dịp mừng lễ Vượt qua hàng năm của người Do Thái. Và cũng nhân dịp này Đức Giêsu lập bí tích Thánh Thể, ngay trong bữa tiệc mừng lễ Vượt Qua với các tông đồ. Sự trùng hợp giữa ba biến cố này - lễ Vượt Qua, việc lập bí tích Thánh Thể, và cuộc tử nạn phục sinh của Đức Giêsu - ắt phải có một ý nghĩa rất lớn, và ba biến cố này ắt phải liên hệ với nhau rất mật thiết. Chúng ta hãy tìm hiểu.
2. Lễ Vượt Qua của người Do Thái
Đại lễ này bắt nguồn từ biến cố Thiên Chúa giải phóng dân Do Thái khỏi ách thống trị của Ai Cập, xảy ra trước Đức Giêsu khoảng 1250 năm (x. Xh 7,8-15,21). Nhờ sự can thiệp giải phóng của Thiên Chúa, dân Do Thái được vượt từ cảnh nô lệ qua tự do. Đức Giêsu cũng đến để giải phóng con người, làm cho họ vượt từ ách nô lệ tội lỗi và ma quỉ qua tình trạng tự do của con cái Thiên Chúa, từ tình trạng chết trong tội lỗi qua tình trạng sống trong ân sủng, từ đau khổ qua hạnh phúc. Ngài thực hiện sự giải phóng đó bằng cả cuộc đời của một vị Thiên-Chúa-Nhập-Thể, đặc biệt bằng cuộc tử nạn và phục sinh của Ngài. Cuộc tử nạn và phục sinh này cũng là một cuộc vượt qua: vượt từ cõi chết qua cõi sống, từ tình trạng hay hư nát qua tình trạng bất diệt. Như vậy, cuộc vượt qua của dân Do Thái qua Biển Đỏ là biến cố đi trước làm hình bóng hay ẩn dụ cho cuộc vượt qua của Đức Giêsu, cũng là cuộc vượt qua của những ai tin vào Ngài: vượt từ cảnh nô lệ tội lỗi qua cảnh tự do của con cái Thiên Chúa. Vì thế, việc Đức Giêsu chọn thời điểm mừng lễ Vượt Qua để thực hiện cuộc tử nạn và phục sinh của mình bao hàm một ý nghĩa hết sức sâu xa.
3. Hy tế toàn thiêu và hy tế chiên vượt qua
Để cứu chuộc và giải phóng nhân loại, Đức Giêsu phải trả giá bằng đau khổ tột cùng và chết thê thảm như một của lễ vật bị sát tế dâng lên Thiên Chúa. Để hiểu được sự đau khổ và cái chết của Đức Giêsu là một hy tế thờ phượng Thiên Chúa Cha và đền tội nhân loại, và để hiểu được việc lập bí tích Thánh Thể như một của ăn tâm linh mà Đức Giêsu để lại khi bị sát tế như một lễ vật, chúng ta cần hiểu ít nhiều về lễ hy sinh toàn thiêu và lễ sát tế chiên Vượt Qua của người Do Thái.
Ngày xưa - ít nhất kể từ ông Nôê trở về sau (x. St 8,20) - dân Do Thái thờ phượng Thiên Chúa bằng cách dâng lên Ngài những hy lễ toàn thiêu. Theo tập tục được đặt ra sau này từ thời Môsê, thì người muốn dâng hy lễ toàn thiêu phải đặt tay trên con vật khi nó bị giết để nói lên mình là người chủ muốn dâng lễ vật ấy. Vị tư tế lấy máu của con vật rẩy quanh bàn thờ. Rồi con vật được chặt ra thành mảnh. Vị tư tế đặt các mảnh thịt lên bàn thờ để thiêu hủy hoàn toàn, chứ không phải thiêu cho chín để sau đó đem ăn. Ý nghĩa của lễ toàn thiêu là con người muốn biểu lộ sự toàn phục của mình đối với Thiên Chúa, là Chúa Tể của vũ trụ, có toàn quyền sinh sát trên toàn thể tạo vật. Đáng lẽ con người phải tự sát tế chính mình, nhưng nếu như thế, con người sẽ phải chết, là điều Thiên Chúa không muốn. Vì thế, con người dùng một con vật nào đó tượng trưng cho sinh mạng của mình để giết và thiêu cháy hoàn toàn. Điều này muốn nói lên lòng thành của con người, không tiếc với Thiên Chúa điều gì, vì tất cả đều thuộc về Ngài. Lễ vật toàn thiêu vừa để thờ phượng và tạ ơn Thiên Chúa, vừa để đền tội và xin ơn cho mình.
Nhưng trước ngày giải phóng dân Do Thái khỏi ách nô lệ Ai Cập, Thiên Chúa truyền dạy một hình thức sát tế mới được thực hiện vào các dịp đại lễ Vượt Qua hàng năm. Cách hy tế mới khác với cách cũ ở chỗ: trong hy tế cũ - tức hy lễ toàn thiêu - thì lễ vật bị thiêu hủy hoàn toàn, còn trong hy lễ Vượt Qua thì lễ vật cũng bị sát tế, nhưng bị không thiêu hủy hoàn toàn: thịt con vật chỉ được nướng lên để sau đó con người ăn nó (xem Xh 12,3-14). Trong nghi thức sát tế mới này con người cũng được dự phần vào lễ vật, và lễ vật trở thành của ăn nuôi dưỡng con người. Đây chính là hình bóng hay ẩn dụ cho bí tích Thánh Thể mà Đức Giêsu thiết lập vào dịp này.
4. Cuộc tử nạn của Đức Giêsu với hy lễ Thánh Thể
Cuộc tử nạn của Đức Giêsu chính là một hy lễ dâng lên Thiên Chúa Cha. Trong hy lễ này, Ngài vừa là chủ dâng, vừa là tư tế, vừa là lễ vật. Bình thường ba khoản này khác nhau; tuy nhiên, cũng có thể chủ dâng cũng là tư tế, nhưng cả hai người ấy dường như không bao giờ lại là lễ vật. Vì lễ vật là đối tượng bị giết, chịu đau khổ và chết thay cho chủ dâng hay thay cho kẻ có tội phải đền mạng. Trong hy lễ toàn thiêu này, Đức Giêsu tự nguyện làm lễ vật bị sát tế, chẳng những để thờ phượng và tạ ơn Thiên Chúa thay cho con người, mà còn để đền tội cho toàn thể nhân loại, đồng thời xin ơn tha thứ cho họ. Sự tự nguyện khủng khiếp này chỉ có thể phát xuất từ tình yêu cao cả đối với Thiên Chúa và toàn thể con người, đồng thời từ sự toàn phục đối với Thiên Chúa Cha.
Nhưng hy lễ này, Đức Giêsu không muốn thực hiện theo kiểu hy lễ toàn thiêu, trong đó lễ vật hoàn toàn bị thiêu hủy. Kiểu hy tế ấy biểu hiện tính «vì Thiên Chúa» một cách triệt để. Ngài muốn thực hiện hy lễ của Ngài theo kiểu hy lễ chiên vượt qua, trong đó lễ vật ngoài việc dâng hiến cho Thiên Chúa, còn trở nên của ăn cho con người. Kiểu hy tế này mang tính hai chiều: vừa «vì Thiên Chúa» mà cũng vừa «vì con người ». Đó là hai chiều kích căn bản trong việc nhập thể của Ngài và trong Giao Ước Mới do Ngài thiết lập. Khi tự nguyện làm lễ vật bị giết, Ngài chọn chết trên thập giá - là bàn thờ của hy tế này - được cấu tạo bằng hai chiều ngang và dọc, tượng trưng cho hai chiều kích căn bản ấy.
5. Tình yêu Đức Giêsu dành cho con người
Vì thế, trước khi ra đi chịu tử hình thập giá, tự nguyện làm «Con Chiên Vượt Qua» bị sát tế, Đức Giêsu đã lập phép Thánh Thể để lễ vật bị sát tế ấy là chính Ngài trở nên của ăn tâm linh nuôi dưỡng con người. Tôi thật xúc động khi nghĩ đến điều này. Ngài vốn là Thiên Chúa, là Con Thiên Chúa, nhưng Ngài lại yêu thương con người chúng ta vô hạn. Tình yêu của Ngài đối với chúng ta là một đối trọng cho tình yêu của Ngài đối với Thiên Chúa. Và chính Thiên Chúa cũng hài lòng khi thấy Con mình biết chia sẻ cho nhân loại tình yêu mà đáng lẽ phải dành trọn vẹn cho mình. Tại sao? Chính vì Thiên Chúa cũng yêu thương con người. Điều này có phần nào tương tự như người chồng đòi hỏi người vợ phải dành trọn vẹn tình yêu và sự trìu mến cho mình, nhưng lại rất hài lòng khi thấy vợ mình chia sẻ tình yêu và sự trìu mến ấy cho con cái, vì chính người chồng cũng yêu thương con cái không kém gì người vợ. Như vậy, Ba Ngôi Thiên Chúa đã chia sẻ cho chúng ta tình yêu mà đáng lẽ các Ngài phải dành trọn vẹn cho nhau. Điều đó chúng ta thấy được nơi Đức Giêsu.
Ngài đến thế gian không chỉ nghĩ đến việc thi hành thánh ý Chúa Cha, đến việc biểu lộ tình yêu, sự vâng phục đối với Chúa Cha, mà còn nghĩ rất nhiều đến con người, đến việc sáng kiến ra những điều Ngài có thể làm cho con người. Ngài yêu con người, chắc chắn không chỉ vì con người là tạo vật của Thiên Chúa được nâng lên hàng con cái Ngài, mà còn vì thấy con người rất đáng thương, quá đau khổ do tội lỗi. Càng chia sẻ đau khổ với con người, càng cảm nghiệm được sự dày vò khó chịu của đau khổ, Ngài càng yêu thương con người hơn. Tình yêu đầy tính cảm thông đó khiến Ngài không chỉ đau khổ và chết thay cho chúng ta, mà còn mà trở nên của ăn để nuôi dưỡng chúng ta, để ở lại với chúng ta, để có thể ban sức mạnh thần thiêng cho chúng ta, để đời sống chúng ta nên mạnh mẽ, hạnh phúc hơn.
6. Áp dụng tinh thần yêu thương của Đức Giêsu vào đời sống
Thiên Chúa cảm thông và yêu thương chúng ta như vậy, lẽ nào chúng ta lại không cảm thông và yêu thương nhau? Tình yêu của Đức Giêsu có hai chiều kích: yêu Thiên Chúa và thương con người, lẽ nào chúng ta cùng là con người với nhau lại chỉ quan tâm đến Thiên Chúa mà không quan tâm đến nhau? Là một Thiên Chúa yêu thương, chắc chắn Ngài muốn chúng ta yêu thương nhau, quan tâm đến nhau hơn là quan tâm đến Ngài. Tại sao? Vì những người chung quanh chúng ta cần tình yêu và sự quan tâm của chúng ta hơn Ngài rất nhiều. Ngài là Thiên Chúa - Đấng không thiếu thốn sự gì và cũng không hề ích kỷ - Ngài không cần tình yêu và sự quan tâm của chúng ta cho bằng những người chung quanh đang sống với chúng ta. Tại sao chúng ta lại quá quan tâm tới Ngài mà bỏ rơi anh chị em mình? Trong thực tế, chính khi ta yêu thương và quan tâm đến anh chị em mình, là chúng ta yêu mến Thiên Chúa. Nếu yêu mến Thiên Chúa thì hãy bắt chước Đức Giêsu: chẳng những chấp nhận chịu khổ để anh chị em mình đỡ khổ, mà còn trở nên «của ăn» cho anh chị em mình nữa.
Cầu nguyện
Lạy Cha, Đức Giêsu là Thiên Chúa mà lại yêu thương con người như vậy, đang khi chúng con cùng là con người với nhau, cùng chịu đau khổ như nhau, mà chúng con lại không thông cảm với nhau, không yêu thương nhau, không quan tâm tới nhau. Chúng con quá ích kỷ, tình yêu của chúng con quá nghèo nàn. Xin Cha hãy ban tình yêu cho chúng con.
Ðiều Cần Duy Nhất
Ga 6,51-58
An Phong, OP
Hằng ngày hằng giờ, trên khắp thế giới, Giáo hội vẫn không ngừng cử hành bí tích Thánh Thể, để tạ ơn, để xin bình an, để cầu nguyện cho các linh hồn đã qua đời…
Ðời sống đức Tin của Giáo hội, của mỗi người kitô hữu Công giáo luôn gắn liền với bí tích tình thương này.
Thánh Thể quả là một kho tàng phong phú vô tận để nuôi sống đức Tin và đức Mến.
Trong mỗi Thánh lễ, Chúa Giêsu lại đang tiếp tục mời gọi chúng ta "Hãy cầm lấy mà ăn", mời gọi chúng ta đến dự tiệc với Người, mời gọi chúng ta hiệp thông với cuộc tử nạn và chia sẻ sức sống Phục sinh của Người. Như thế, hằng ngày và hằng ngày, qua mỗi Thánh lễ, người kitô hữu được mời gọi để biến đổi cuộc sống của mình trong sức sống của Chúa Giêsu; thánh hóa cuộc sống mình trong Máu Chúa Giêsu; và đưa tất cả cuộc đời mình vào dòng lịch sử ơn cứu độ của Thiên Chúa.
Mời các bạn cùng chia sẻ một chút tâm tình của một kitô hữu trước mầu nhiệm Thánh Thể:
Ngài đã xuống tận đáy lòng con.
Xin cho con chỉ để tâm xuống tận đáy lòng con.
Ngài là thượng khách của lòng con.
Xin cho con bước vào nhà là chính đáy lòng con.
Ngài chọn cư trú trong lòng con.
Xin cho con biết ngồi yên ngay tại đáy lòng con.
Duy Ngài ở lại trong con.
Xin cho con biết chìm sâu, lắng xuống đáy lòng con.
Duy Ngài hiện diện trong con.
Xin cho con biết xóa mình khi Ngài ở bên con.
Khi con đã gặp Ngài.
Con còn là gì nữa ? Và Ngài như thế nào ?
Khi con đã gặp Ngài. Không còn con và Ngài nữa.
Con chẳng là gì cả, và Ngài là tất cả;
Ðây là một huyền nhiệm: chỉ còn Ngài hiện hữu.
(Phỏng theo Swami Abhisiktananda)
Lạy Chúa Giêsu đang ngự trong bí tích Thánh Thể,
Xin cho mỗi người chúng con,
khi được đón rước Chúa,
cũng nhận ra ở đây
một tình thương yêu muốn chia sẻ;
một tình yêu thương
biết quan tâm đến người khác;
một tình yêu thương
chấp nhận bẻ cuộc đời mình ra cho tha nhân.
Sống thân tình với Chúa
Ga 6:51-58
Như Hạ, OP
Thật là khó khi muốn tìm được một người bạn đích thực trong cuộc sống hôm nay. Thế nhưng trong mầu nhiệm Thánh Thể, Ðức Giêsu sẽ mạc khải tình bạn lớn lao nhất và thâm sâu nhất nơi Mình và Máu Thánh Chúa.
TÌNH CHO KHÔNG BIẾU KHÔNG
Quả thực, Ðức Giêsu đã muốn tái nhập thể nơi Thánh Thể để trở thành người bạn thân thiết với mỗi người tín hữu. Tình bạn này thâm sâu đến nỗi khiến Ðức Giêsu muốn trở nên một với họ. Người muốn trở thành đôi bạn chân tình trong cuộc đời dương thế. Người còn muốn phóng cái nhìn người bạn về một tương lai xa đến tận cung lòng Thiên Chúa. Nói khác, Người muốn trở thành nhịp cầu nối đất với trời. Chính vì thế, Người quả quyết: "Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ sống muôn đời." (Ga 6:51) Một lần hạ xuống để nâng toàn thể nhân loại từ lãnh địa tử thần lên nơi hằng sống, từ nơi tối tăm lên nơi đầy ánh sáng thường hằng. Cuộc hành trình từ trời xuống rồi từ hạ giới tới cõi sống muôn đời, Ðức Giêsu luôn đã vẽ ra một con đường thần tiên vô cùng hấp dẫn.
Xuống trần gian, Người không đi lang thang vô định. Cuộc hành trình của Người có dừng lại một nơi. Nơi đó chính là tâm hồn người tín hữu đã đón nhận Mình và Máu Thánh Chúa. Quả thực, "ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy." (Ga 6:56) Ðúng là "mình với ta tuy hai mà một" ! Chính thánh Phaolô đã cảm nghiệm sâu xa chân lý đó khi nói: "Tôi sống nhưng không phải là tôi, mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi." Từ nay mọi việc đều do Ðức Kitô thực hiện trong nhiệm thể. Nhiệm thể chẳng tự mình làm gì, vì chính Ðức Kitô luôn hành động trong nhiệm thể là Giáo hội. Nói khác, nhờ sự sống là Mình và Máu Thánh Chúa, Giáo hội làm cho Ðức Kitô luôn nhập thể và nhập thế.
Chính Thánh Linh đã thực hiện cuộc trao đổi lạ lùng đó. Nếu không có sức mạnh Thánh Linh, Ðức Giêsu đã không thể nhập thể và sống lại được. Cũng chính Thánh Linh đã dẫn Người vào sa mạc để chiến thắng ác thần. Thánh Linh là nguồn hứng cho Tin Mừng giải thoát. Thánh Linh đã khiến moị người đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Chính kẻ thù cũng phải thốt lên: "Chưa thấy ai nói năng giống như ông ấy."
Khi mặc lấy xác phàm dễ chết, Ðức Giêsu đã không nhuốm mùi tử khí. Trái lại, Người đã dùng "gậy ông đập lưng ông," dùng chính xác phàm mỏng dòn để đem lại cảnh trường sinh bất lão cho toàn thể nhân loại. Ngày xưa, nhân loại đã mỏi mắt tìm thần dược để cứu con người khỏi cảnh hư nát. Nhưng con người đã thất bại hoàn toàn. Ðức Giêsu đã xác quyết thần dược đó "chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống." (Ga 6:51) Tại sao thịt lại có thể làm cho thịt sống muôn đời ? Không thể tưởng tượng nổi ! Chính người Do thái cũng thắc mắc: "Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được ?" (Ga 6:52) Nhìn bằng con mắt phàm làm sao thấy Chúa Cha như nguyên nhân sinh ra sự sống nơi Chúa Con, và Chúa Thánh Linh động lực thúc đẩy mọi hành động nơi Chúa Con ? Phải có bao nhiêu ân sủng lớn lao mới có thể tin theo lời Ðức Giêsu quả quyết: "Như Chúa Cha là Ðấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy." (Ga 6:57) Như thế rõ ràng nguyên nhân sau cùng sinh ra sự sống không phải là huyết nhục, nhưng từ nguồn sống là chính Chúa Cha.
Không những là nguyên nhân ban sự sống, Chúa Cha còn chính là nguyên ủy phát xuất sứ mệnh của Chúa Con. Chính nhờ sứ mệnh cứu nhân độ thế, Chúa Con đã nghiễm nhiên trở thành nguồn sống cho nhân loại nhờ cái chết trên thập giá. Ai tin như thế, không những "sẽ được sống muôn đời," (Ga 6:54, 58) mà còn đón nhận cùng một sứ mệnh như Ðức Giêsu. Từ Thánh Thể, hằng ngày Ðức Giêsu vẫn hiện diện và không ngừng sai chúng ta đi làm chứng cho thế giới biết về một nguồn sống, nguồn bình an và niềm vui lớn lao đang hiện diện trên mặt đất. Ðó là lý do tại sao Giáo hội vững mạnh suốt hai mươi thế kỷ qua.
Không những thế, Giáo hội còn rao giảng Tin Mừng khắp tứ phương thiên hạ vì luôn múc từ nguồn sống vô biên là Thịt Máu Ðức Giêsu. Nhiệm thể Người không bao giờ mệt mỏi vì đói khát. Trái lại, Người luôn luôn hiện diện trong Giáo hội như lương thực cung cấp sự sống cho các sứ giả Tin Mừng, vì như Ðức Giêsu quả quyết: "Vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống." (Ga 6:55) Xác quyết đó đủ bảo đảm cho niềm tin vào sự hiện diện đích thực của Ðức Giêsu trong Bí Tích Thánh Thể. Niềm tin đã có ngay từ thời kỳ Giáo hội sơ khai. Thánh Phaolô đã khẳng quyết: "Khi ta nâng chén chúc tụng mà cảm tạ Thiên Chúa, há chẳng phải là dự phần vào Máu Ðức Kitô ư ? Và khi ta cùng bẻ Bánh Thánh, đó chẳng phải là dự phần vào Thân Thể Người sao ?" (1 Cr 10:16) Nếu Thánh Thể chỉ là tượng trưng cho Ðức Giêsu, chắc chắn không thể có việc dự phần sống động và sâu xa như vậy !
GIÁO HỘI: DẤU CHỈ HIỆP NHẤT NHÂN LOẠI
Dự phần vào Mình Máu Thánh Chúa, chắc chắn sẽ cảm nghiệm và ý thức được tất cả hồng ân hiệp nhất với Ðức Giêsu. Ðó chính là lý do tại sao Giáo hội có thể và phải hiệp nhất. "Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể." (1 Cr 10:17) Như thế Thánh Thể là nguyên lý hiệp nhất Giáo hội. Lý do vì mỗi khi chịu lễ, người tín hữu đón nhận tất cả sức mạnh hiệp nhất là Thánh Linh. Chính Ðức Giêsu đổ tràn Thánh Linh để uốn nắn chúng ta trong tình yêu và tạo thành niềm vui vô cùng lớn lao trong cuộc đời chúng ta. Nhờ hiến tế hòa giải, Thánh Linh làm cho chúng ta biết tôn trọng nhau như những phần tử của một thân thể duy nhất. Từ đó, chúng ta mới có thể làm chứng cho thế giới biết Thiên Chúa muốn kết thân với nhân loại. Mặc dầu cùng chia sẻ một thân phận với cộng đồng nhân loại, Giáo hội vẫn không ngừng đón nhận được Thánh Linh như sức mạnh canh tân là từ Bí Tích Thánh Thể. Hiến tế thập giá không ngừng tái diễn trên bàn thờ nhờ sức mạnh Thánh Linh. Từ đó, Giáo hội có thể khám phá ra thánh ý Thiên Chúa trong mỗi thách đố.
Thách đố lớn nhất có lẽ là sự rạn nứt giữa anh em Chính thống và Công giáo. Mới đây bức tường ngăn cách hình như càng dầy và cao hơn. Thế nhưng, theo thần học gia kiêm triết gia Gueorgi Bacalov, giáo sư Ðại học Sofia, trong cuộc viếng thăm Bulgaria vừa qua, ÐGH Gioan Phaolô II đã đi xa hơn "lòng mong đợi." (Zenit 30/05/02) Sự hiện diện của Ðức Thánh Cha đã khiến cho triết gia suy nghĩ: "Phản ứng lạnh lùng ban đầu cũng thay đổi. Không phải vô tình mà vị tu viện trưởng của Tu viện thánh Gioan ở Rila nói những bức tường ngăn cách giữa Công giáo và Chính thống giáo do con người dựng nên, và con người có thể giật sập những bức tường đó xuống." (Bacalov: Zenit 30/05/02) Khi bức tường sập xuống, chắc chắn ánh sáng sẽ chan hòa khắp vũ trụ. Dung nhan Ðức Kitô sẽ chiếu tỏa mãnh liệt hơn nữa.
Dầu vậy, ngay từ bây giờ, dù ở những nơi hẻo lánh nhất, ánh sáng đó vẫn chiếu tỏa mãnh liệt từ Thánh Thể. Thực vậy, "nhiều nơi trên thế giới Kitô hữ đang là hay đang trở thành một 'đoàn chiên' (Lc 12:32). Họ phải đối diện với thách đố, thường sống trong những hoàn cảnh cô lập và khó khăn, mới làm chứng mãnh liệt cho những yếu tố căn tính trổi vượt của mình. Bổn phận tham dự Thánh Lễ mỗi Chúa Nhật là một trong những yếu tố này. Thánh Lễ Chúa Nhật qui tụ các Kitô hữu hằng tuần thành một gia đình Thiên Chúa chung quang Lời và Bánh Hằng Sống, cũng là một liều thuốc rất tự nhiên giúp họ có thể đối đầu với nghịch cảnh trong những lúc bị phân tán như thế." (ÐGH Gioan Phaolô II: Zenit 30/05/02)
Bữa tiệc không bao giờ chấm dứt
(Ga 6,51-58)
Fr. Jude Sicilianô, OP
Thưa quý vị.
Thoạt nghe những lời Chúa Giêsu tuyên bố: "… ăn thịt tôi và uống máu tôi…" chúng ta tưởng tượng Ngài giống như một phụ nữ đang mang thai. Bởi lẽ bà mẹ nào cũng có thể nói như vậy với đứa con còn đang nằm trong dạ mình. Nói chung, trẻ con phải lệ thuộc trực tiếp vào các bà mẹ để tồn tại, nhất là trong thời kỳ còn bú mớm. Cả khi đã trưởng thành rồi vẫn cần cha mẹ bồi dưỡng ít là về phần tâm linh: Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng còn bởi những lời do miệng Thiên Chúa phán ra. Trong trường hợp này chính những lời dạy bảo của cha mẹ giữ vai trò lời Thiên Chúa. Nếu không, phẩm chất đời sống của những người đó chẳng có giá trị bao nhiêu: Cá không ăn muối cá ươn, con không nghe lời bố mẹ trăm đường con hư. Cần phải lắng đọng tâm hồn để suy gẫm bài Phúc âm hôm nay mới thấy được nội dung của nó thấm thía.
Nuôi dưỡng không chỉ có nghĩa vật chất hoặc giai đoạn. Chúng ta cần được liên tục dưỡng nuôi tâm linh suốt cả đời người để có thể đi trọn con đường Chúa đã chỉ. Bằng không thất bại là điều chắc chắn. Nuôi dưỡng Chúa nói tới hôm nay là một bữa tiệc không khi nào chấm dứt. Chúng ta học khôn ngoan, tuổi tác, giới hạn, bệnh tật nơi cha mẹ và tiến trình là suốt đời, thì học nơi Chúa về đàng thiêng liêng cũng không thể có bao giờ cùng tận. Chúng ta phải học nơi Ngài cho đến chết. Khi những đứa con có cha mẹ tốt lành, biết dạy dỗ, biết làm gương, chúng sẽ học suốt đời cho đến tuổi già để có thể khôn ngoan đối phó với mọi hoàn cảnh. Nhưng nếu cha mẹ không biết làm gương, không biết ban lời chỉ bảo cho con cái thì tức khắc chúng sẽ chịu cảnh suy dinh dưỡng tinh thần. Hạnh kiểm xuống cấp thê thảm. Chúng là những con người hạ đẳng. Từ "gia giáo" của Ðông phương bao hàm ý nghĩa đó, và hậu quả có thể kéo dài sang nhiều thế hệ: Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh, đời cha ông ăn khế, đời con cháu ghê răng. Nhiều gia đình ngày nay chịu hậu quả nặng nề vì nền giáo dục kém chất lượng: xì ke, ma túy, trác táng, lêu lổng, trộm cắp, tù tội… nghiên cứu các bảng thống kê tội phạm xã hội nhiều nhà mô phạm sinh ra yếm thế chán nản. Do đó, chúng ta cần đến nội dung nuôi dưỡng của Chúa Giêsu biết bao. Mình Máu Ngài là sự hiện diện không thể thiếu được trong đời sống các tín hữu. Bữa tiệc rất căn bản trong cộng đồng giáo xứ và toàn thể Hội thánh để mọi người có khả năng thăng tiến.
Trong bài đọc I từ sách Ðệ nhị luật, Moisen cũng nhắc lại cho dân tộc Israel: Thiên Chúa đã nuôi dưỡng họ thế nào suốt hành trình sa mạc. Chắc chắn hành trình đó chẳng dễ dãi thú vị như những cuộc du lịch sinh thái ngày nay. Trái lại: "Người đã dẫn anh em đi trong sa mạc mênh mông, khủng khiếp, đầy rắn lửa và bọ cạp, trong miền đất khô cằn không giọt nước." Như vậy con đường thoát khỏi kiếp nô lệ Ai cập rất khó khăn. Con cái của tự do cần được giúp đỡ để ra khỏi ngục tù, thắng vượt gian nan, cám dỗ, bước được những bước chập chững trên đường tiến đến tự do. Họ cần lương thực tiếp sức thì Thiên Chúa đã cho rơi manna và nước uống chảy ra từ đá tảng. Chẳng cần nhiều thông minh lắm cũng có thể hiểu rằng nước và bánh này không phải là bữa tiệc thịnh soạn, nhưng cũng đủ để nâng đỡ họ trong cảnh nhọc nhằn. Nhiều lúc trên đường dương gian của chúng ta cũng tương tự như vậy. Khó khăn lắm mới đủ nghị lực để vượt qua một ngày "khô hạn". Mà có vượt qua được cũng là nhờ "Thánh Thể" Chúa: Một người láng giềng đến an ủi giúp đỡ, một đứa con xa xôi trở về, một đứa cháu ngây thơ líu lo ríu rít, một bản thánh ca bất chợt du dương thánh thót, một buổi cầu kinh sốt sắng đầy ắp tâm hồn, một cuộc thăm viếng mục vụ làm phấn khởi trí khôn… ngàn vạn những cơ hội khác Chúa gởi đến để nên như tấm bánh thiêng liêng, cũng như trong Ðệ Nhị Luật, dân Do thái nhìn lại và họ nhận ra Thiên Chúa nuôi dưỡng họ ngày lại ngày, tháng lại tháng, khi họ cảm thấy chán nản, mệt nhọc. Ðôi khi Chúa còn cho bú mớm như một bà mẹ nuôi con.
Do kinh nghiệm, chúng ta chưa hề chứng kiến một cuộc cai nghiện nào nặng hay nhẹ mới mắc hay lâu năm là dễ dàng. Nó đòi hỏi một tiến trình, như tiến trình dân Do thái vượt sa mạc. Bao nhiêu đồi núi cao phải trèo, bao nhiêu cám dỗ phải đấu tranh vật lộn, bao nhiêu thung lũng phải trầm mình… với một mục tiêu là thay đổi được nếp sống, từ bỏ được tính mê nết xấu. Những lúc ấy chúng ta tưởng như đã chiến đấu một mình. Sự thực không phải vậy, nhìn lại như dân Israel, chúng ta mới thấy bàn tay Chúa dẫn dắt, ban ơn nuôi dưỡng và chỉ đường đưa lối. Tôi đã được chính miệng một người cai nghiện rượu tâm sự: Trăm ngàn lần anh ta quyết định từ bỏ, nhưng cũng trăm ngàn lần bị quỷ lưu linh quật ngã. Sáng sáng anh vẫn thấy mình lè nhè, mặc dầu tối hôm trước đã thề độc với ảnh tượng và vợ con. Sau cùng anh nghe tiếng gọi trong lương tâm: Thoát đi mày, thoát đi để có thể tiến bước đến tự do. Ðúng như dân Do thái nghe tiếng Thiên Chúa gọi ra khỏi kiếp sống nô lệ Ai Cập. Anh thú nhận đó quả là một vụ việc cam go. Cuối cùng anh đã thắng, nhưng nhờ ơn Chúa trợ giúp và lời cầu nguyện của vợ con mỗi ngày. Manna từ trời và nước uống từ đá tảng ! Nếu không có bàn tay Thiên Chúa ban nghị lực mỗi ngày cho anh, thử hỏi anh có thể sống đạm bạc được không ? Và bởi vì chúng ta quá nhiều tự ái, cứ nghĩ mình có thể tự thân thoát khỏi vũng lầy bùn nhơ, cho nên luôn phải được nhắc nhở về nguồn mạch ơn thánh. Ông Môsê đã làm đúng như thế khi ông khuyên nhủ dân tộc Do thái trong những ngày họ sống trong sa mạc. Ông cũng nhắc nhở chúng ta qua bài đọc thánh lễ kính Mình Máu Thánh Chúa hôm nay, để chúng ta vững bước vượt sa mạc gian trần đến đất hứa tự do và thánh đức:
"… Anh em hãy nhớ lại tất cả con đường mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã dẫn anh em suốt 40 năm nay trong sa mạc." Lời đó không phải là câu hỏi nghi vấn nhưng là một câu xác định, như thể ông muốn nói: "Xin hãy nhớ, xin đừng quên Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, Ðấng đã dẫn đưa anh em ra khỏi Ai Cập, miền đất nô lệ…". Hôm nay, chúng ta vui mừng cử hành Thánh Lễ tạ ơn này để chứng tỏ chúng ta cũng không quên muôn vàn đường nẻo Thiên Chúa nuôi dưỡng mình. Lắng đọng tâm hồn để nói lên những lời tưởng nhớ, cảm tạ và tri ân: "Chúng con chúc tụng, tạ ơn Cha thật là chính đáng…" Dĩ nhiên, là những kẻ theo Chúa Kitô, chúng ta đã từng được dưỡng nuôi một cách đặc biệt bằng Mình và Máu Thánh Chúa từ khi mở mắt chào đời cho đến nay. Còn là con trẻ người khác nuôi dưỡng chúng ta, dạy chúng ta cầu nguyện, yêu mến Chúa Kitô. Lớn lên chút nữa thì cũng là lúc họ dạy ta giáo lý, chỉ cho chúng ta Chúa Kitô là ai, làm bạn với Ngài thế nào, tập tễnh vụng về đến gõ cửa nhà Chầu xin Bánh Thánh, ơn thiêng. Khi đau ốm họ săn sóc cho lành bệnh, khi cô đơn họ là những người đồng chí, đồng hành không hề phản bội, khi tăm tối họ là ánh sáng Chúa Kitô, soi lối, mở đường. Tắt một lời chúng ta được Chúa bao bọc, luôn ban manna, bánh từ trời xuống, lương thực hằng sống để chúng ta đủ sức, đủ can đảm vượt qua sa mạc trần gian, bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào, hoàn cảnh nào của cuộc sống.
Hôm nay, chúng ta cử hành sự hiện diện muôn hình vạn kiểu của Thiên Chúa trong cuộc đời người tín hữu, đặc biệt trong bí tích Thánh Thể, Lời của Thiên Chúa được bẻ ra và chia sẻ cho hết mọi người, Chén cũng được truyền tay, uống cạn, để nói lên sự hiệp nhất của chúng ta với Chúa Kitô. Như vậy, hôm nay Thiên Chúa dưỡng nuôi chúng ta bằng một thứ lương thực tuyệt hảo hơn. Bánh cho cuộc lữ hành của chúng ta qua sa mạc gian trần là chính Con Một Thiên Chúa. Bánh này có sức mạnh vô song, khi sa ngã nó nâng chúng ta dậy, khi mệt mỏi, bồi bổ tâm linh, khi đau yếu chữa lành và làm cho mạnh sức, khi an vui là tiếng cười chia sẻ, khi buồn rầu là tiếng khóc ủi an, khi vượt khó là cánh tay nâng đỡ, khi thanh nhàn là ngọn gió ru êm. Chúng ta còn đòi hỏi điều chi hơn ở tình yêu Thiên Chúa ? Ðúng lý, chúng ta phải luôn chạy đến kính viếng Chúa Thánh Thể, bày tỏ tình yêu mến với Ngài, cầu xin và tán tạ hồng ân vô giá Ngài hiện diện giữa nhân loại.
Từ khi tôi chịu chức linh mục, việc phân phát bánh thánh có phần thay đổi nhiều. Lúc ấy tín hữu quỳ ở lan can cung thánh, có khăn vải trắng che tay, tôi cầm bánh thánh giơ cao trước mặt mỗi tín hữu, miệng đọc: Mình Thánh Chúa Kitô. Họ nhắm mắt kính cẩn thưa: Amen. Rồi lè lưỡi rước lễ. Phỏng giữa những năm bảy mươi của thế kỷ trước, nghi lễ thay đổi và tôi nhận ra rằng suy tư của tôi về việc rước lễ cũng phải đổi thay. Lan can cung thánh phân rẽ tôi với tín hữu bị gỡ bỏ, tín hữu được tự do lựa chọn rước lễ trong tay hoặc bằng miệng. Ðôi khi chén thánh cũng được phân phát cho hết thảy mọi người. Thành ra giáo dân cũng là các thừa tác viên Thánh Thể. Họ tiến đến chủ tế, giơ tay, mắt nhìn thẳng vào chủ tế. Hai đôi mắt gặp nhau. Tôi vẫn nói: Mình Thánh Chúa Kitô. Và hy vọng không có chiều kích thần linh nào thay đổi, vẫn là Mình Máu Chúa Kitô. Nhưng có một sự chuyển dịch ý nghĩa rất lớn: Tôi đã tuyên bố giáo dân cũng là Mình Máu Chúa Giêsu ! Chúng ta lãnh nhận chính bản thân mình và hy vọng ngày một trở nên Kitô vẹn toàn hơn ! Sự sống chúng ta vừa tiếp nhận giúp đỡ chúng ta gột bỏ được ích kỷ và chú ý đến tha nhân nhiều hơn, bởi lẽ nó là sự sống chung, sự sống cho người khác: Sự sống cho đi là sự sống lãnh nhận. Do đó, nếu hằng ngày chúng ta xác tín rằng: Bánh rượu là sự hiện diện đích thực của Chúa Giêsu Kitô thì tôi hy vọng từ nay sẽ xảy ra rằng mỗi Kitô hữu là sự hiện diện đích thực của Chúa cho thế gian, bởi họ cũng là Mình Máu Chúa. Amen. Alleluia.
Fr. Jude Sicilianô, OP
Thưa quý vị,
Phúc âm thánh lễ hôm nay thuật lại cuộc bàn tán của các thính giả Do thái khi nghe Chúa Giêsu tuyên bố thịt Ngài là của ăn, máu Ngài là của uống (c. 55). Họ nói: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt của ông ta được ?” Theo kinh nghiệm dân gian, điều thắc mắc xem ra có lý. Chính vì vậy, thánh Gioan kể tiếp: Nhiều môn đệ rút lui, không theo Ngài nữa. Vài kẻ khác phàn nàn: “Lời này chướng tai quá ! Ai mà nghe nổi ?” Sự bất đồng thực ra không chấm dứt vào cuối thế kỷ I trong cộng đoàn thánh Gioan, mà còn kéo dài mãi cho tới ngày nay. Gần đây tôi được một linh mục bạn kể cho nghe câu chuyện về chính ông. Một giáo dân xông vào nhà xứ nhạo cười đức tin của ông. Hắn nói: “Làm thế nào bánh và rượu có thể biến thành Mình và Máu Chúa Kitô mà linh mục tuyên bố hằng ngày ? Có lường gạt không đấy !” Bạn tôi trả lời: “Tôi không bao giờ lường gạt. Chuyện đó có thể và dễ thôi, ngày ngày ông bạn chẳng ăn vào bụng cơm gạo, rau đậu, thịt cá và chúng ta đã trở nên da thịt của ông bạn đó sao ?” Người giáo dân say rượu không chịu thua: “Vậy cái xác to béo của Chúa Giêsu làm sao ở trong tấm bánh nhỏ xíu được ?” Cha xứ trả lời: “Khó gì đâu ! Cả một phong cảnh rộng lớn trước mắt ông bạn chẳng lọt vào tròng mắt nhỏ bé như viên bi của chúng ta sao ?” Người giáo dân ương gàn tiếp: “Thế làm sao một Giêsu lại có thể hiện diện khắp các nhà thờ trong cùng thời gian được ?” “Dễ ợt ! như vậy này !” Linh mục cầm một tấm gương soi giơ lên trước mặt đỏ gay của người thanh niên để hắn nhìn vào, rồi mém tấm gương xuống sàn gạch, tấm gương vỡ tan thành trăm mảnh. Linh mục bảo người tín hữu cúi xuống nhìn xem trăm mảnh vỡ, nói: “Mặt bạn chỉ có một nhưng bây giờ bạn thấy bao nhiêu ?” Người vô tín cúi mặt bỏ đi. Câu chuyện như vậy xem ra không hiếm trong thời đại chúng ta ! Nhất là nơi những thanh niên thiếu nữ va chạm với các môi trường thiếu niềm tin tôn giáo, như trường học, nhà máy, xí nghiệp, công trường, …
Người Do thái tuy ăn bánh vật chất Chúa cung cấp, nhưng lại thấy giáo lý của Ngài quá đáng, khó có thể chấp nhận (dù đó là sự thật). Họ ăn bánh nhưng không có khả năng thâm nhập ý nghĩa mầu nhiệm Chúa gởi gắm vào những tấm bánh đó. Ngay cả chúng ta ngày nay, mặc dù tốn biết bao giấy mực giải thích, vẫn chưa thật lòng tin vào lời Chúa Giêsu. Nếu tin, chắc hẳn chúng ta đã thay đổi nếp sống. Theo dòng lịch sử, vẫn thường nổi lên ý kiến cho rằng Ngài phát biểu như vậy là theo nghĩa biểu tượng, tức hình bóng mà thôi. “Bánh bởi trời” là ngôn ngữ văn chương của nhiều truyền thống thời Chúa Giêsu. Ngài mượn để nhấn mạnh người ta phải hấp thụ sự khôn ngoan mà Ngài đang giảng dạy. Lại còn số người khác thông thạo tiếng Hy lạp cho rằng theo ngôn ngữ thì phải thực sự ăn thịt và uống máu Ngài một cách thể lý chứ không theo kiểu bí tích như Hội thánh xưa nay vẫn chủ trương.
Dù được hiểu thế nào đi nữa, Chúa Giêsu muốn kết hiệp mật thiết với tín hữu, không khoảng cách nào được cho phép. Lấy trên tay, ăn như bánh, uống như rượu và tan biến thành một thực thể. Đám đông Do thái đã ăn bánh vật chất Chúa Giêsu ban thế nào, thì cũng là điều Ngài muốn các tín hữu rước Ngài như vậy vào lòng. Chúng ta phải được nuôi dưỡng bằng chính thân thể Ngài. Ngài chính là bữa tiệc thịnh soạn Thiên Chúa ban cho loài người để được sống muôn đời. Một tác giả người Pháp đã viết: “Le repas des adieux de Jesus va se changer en un festin de présence éternelle”(bữa tiệc ly của Chúa Giêsu đổi thành yến tiệc của sự hiện diện đời đời). Một tư tưởng chân thật và thâm thuý cho những ai yêu mến Thánh thể. Nó chứa đựng tràn trề hy vọng cho những lữ khách trần gian. Ngài là bữa tiệc ban sự sống vĩnh cửu, không phải như những bữa ăn tạm thời nơi trần thế. Ngài ao ước ban Mình Máu Ngài cho chúng ta toàn vẹn và vĩnh cửu. Ngài quá gần gủi với mỗi tâm hồn đến độ trở nên làm một hữu thể, một sự tồn tại. Có lẽ vì thế mà các thính giả cảm thấy lời Ngài là quá đáng chăng ? Bởi lẽ Ngài đã ban tặng như vậy, chúng ta phải làm điều chi đó để đáp trả ?
Giả như Thiên Chúa còn có ý định giữ một khoảng cách nào đó, như các thần linh khác, thì có lẽ Giáo hội được tổ chức khác đi, với nhiều hoạt động hoành tráng hơn, lễ vật thịnh soạn hơn, thịt béo rượu ngon, hương thơm ngào ngạt hơn, như trong Cựu ước. Lúc ấy tín hữu có thể rộng đường hành động, bởi lẽ không nhiều đòi hỏi đáp trả. Nhưng được tiêu hoá Thiên Chúa, tan biến vào Thiên Chúa thì quả là việc vựơt xa trí tưởng tượng của loài người. Rồi phải đáp trả bằng dâng hiến toàn thân làm hy lễ tình yêu cho Thiên Chúa và phục vụ tha nhân hết khả năng, thì đúng loài người không thể làm nổi. Có lẽ vì vậy mà đám đông cằn nhằn sau lưng Chúa Giêsu. Nhưng trong lịch sử Israel, Thiên Chúa đã nuôi sống họ bằng Manna suốt 40 năm trường nơi sa mạc khô cằn và Chúa Giêsu đã nuôi đám đông đói khát bằng hai phép lạ nhân bánh lên nhiều, thì Ngài tặng ban mình làm của ăn, của uống nuôi dưỡng nhân loại trên đường hành hương về Nước trời không phải là vô lý. Tác giả Abbé Paul viết trong cuốn “Les Merveilles de l’amour Miséricordieux” (Phép lạ của tình yêu thương xót): “Trái tim Chúa Giêsu đã thực hiện một kiệt tác của tình yêu, đó là phép Thánh thể. Phép Thánh thể rút ra từ Thánh Tâm Chúa như giòng sông từ nguồn mạch.”(trang 293). Chúng ta lại gặp một tư tưởng lớn hết sức an ủi. Những người có thói quen suy niệm sẽ nhận ra đây là một kho tàng phong phú cho việc chiêm niệm: Nguồn mạch của bí tích Thánh Thể chính là Thánh Tâm Chúa, Thánh Tâm đã bị đâm thâu vì yêu dấu nhân loại, máu cùng nước tuôn trào để làm phát sinh ơn cứu độ, phát sinh các bí tích, đứng đầu là Thánh thể. Nuôi dưỡng bằng thịt máu Chúa không thể có hiệu quả nào khác ngoài sự sống muôn thuở và ở lại vĩnh viễn trong Ngài.(trừ phi chúng ta cố tình đuổi Ngài đi). Và Ngài ở lại trong chúng ta, không như khách trọ nhưng là người cư trú vĩnh viễn. Thức ăn của uống Ngài ban không bao giờ mai một và làm cho kẻ ăn lại đói. Ngược lại, nó làm no thoả cơn đói nhiều mặt của cuộc sống con người.
Lễ trọng hôm nay về của ăn thức uống, đương nhiên cũng về kẻ đói người khát. Thức ăn của uống là để thoả mãn các cơn đói khát của chúng ta. Nhưng thế giới ngày nay tạo nên nhiều kiểu đói khát mà chúng ta chẳng hề hay. Các quảng cáo, các nhà hàng, các tiếp thị, các hãng xưởng liên tục đưa ra xã hội khát vọng mua sắm: Kiểu xe hơi mới nhất với đầy đủ tiện nghi sang trọng, chiếc truyền hình màn phẳng siêu mỏng rỏ nét nhất, điện thoại di động đa chức năng, máy vi tính “Laptop”siêu tốc, quần nhung áo lụa Trung quốc hàng hiệu. Trăm ngàn thứ cám dỗ làm khuynh đảo lòng người, nhất là thanh niên thiếu nữ mới lớn, chưa có kinh nghiệm về cạm bẫy xã hội. Những thuốc “lắc” liều lượng Viagra, dược phẩm có tác dụng trẻ hoá mười năm, hai mươi năm đầy tràn thị trường, … Nhưng khi tiêu xài, thoả mãn rồi, thì lại nảy sinh khao khát khác. Tình trạng kể như vô tận, bởi dục vọng loài người xem ra không hạn định, càng được thoả mãn nó càng đòi hỏi. Tuy nhiên, Thiên Chúa luôn quan tâm đến những nhu cầu của chúng ta, không phải thứ đói khát vừa được liệt kê ở trên, chúng giả tạo nhưng là thứ đói khát căn bản hơn. Tận đáy linh hồn chúng ta có những khát vọng chân thật như tự do, công bằng, yêu và được yêu, hạnh phúc, tín ngưỡng, nhất là được sống mãi mãi. Tác giả Jim Wallace đề nghị nêu lên những điểm sau đây:
Thứ nhất: khao khát thánh thiện hay nói theo kiểu phổ thông là nhân phẩm vẹn toàn. Nó nằm ở tận đáy chiều sâu của con người, Chúa Giêsu đã từng kêu gọi chúng ta thoả mãn khát vọng này: “Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em ở trên trời là Đấng hoàn thiện.”(Mt 5, 48). Chúng ta hãy nhìn kỹ hơn vào khát vọng này dưới ánh sáng của Tin mừng hôm nay. Chúa Giêsu ban tặng bản thân Ngài cho chúng ta làm của ăn thức uống chủ yếu để thoả mãn ước ao vẹn toàn nhân cách của nhân loại. Các phân tích xã hội đồng ý chỉ ra rằng con người tân thời bị vụn vỡ rất nhiều. Họ phân chia linh hồn trong nhiều lãnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, nghệ thuật, bè phái, ý thức hệ. Họ ít còn khả năng sống cho chính mình, vì vậy liên tục tìm kiếm ý nghĩa vẹn toàn cho sự tồn tại của mình. Thực tế, các nhà tâm lý học gọi người thời nay tâm thần phân liệt, nghĩa là yếu đuối, mỏng giòn, dễ tan ra từng mảng vụn, không dễ nhất quán trong công ăn việc làm, quan điểm và nhân cách. Cho nên, thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta: “Chén chúng ta chia sẻ là dự phần vào Máu thánh Chúa Kitô, và bánh chúng ta bẻ ra không phải là tham dự vào Thân thể Người sao ?” Trong bữa ăn này, chúng ta hiệp nhất với Chúa và liên kết với nhau trong sự thánh thiện chung hay nói cách khác, trong sự toàn vẹn của nhân phẩm loài người, triệt tiêu mọi sự chia rẽ do tội lỗi gây ra. Đức giáo hoàng Phaolô VI nói ở Orvieto ngày 11- 08-1964 rằng: “Con người thời nay, cũng như con người hôm qua luôn cần đến Chúa Kitô để thoả mãn khát vọng tự do, trưởng thành và tiến bộ xã hội, hoà bình thế giới và mở rộng các ước mơ của mình. Họ cần Chúa Kitô, bởi vì chỉ mình Ngài mới có thể hoà hợp chúng với chân lý và cuộc sống”. Qua bí tích Thánh thể, điều mà quá khứ Chúa thực hiện cho các giáo dân thì bây giờ Ngài vẫn làm thành hiện tại và sống động nơi mỗi linh hồn chúng ta. Đó là ơn cứu rỗi, sự thánh thiện và tính vẹn toàn nhân phẩm của chúng ta. Khát vọng thứ nhất của nhân loại đã được thoả mãn.
Sự đói khát thứ hai lôi kéo chúng ta đến bàn tiệc Thánh thể là đói khát ý nghĩa đời sống. Không khoái lạc nào, không việc mua bán nào có thể thoả mãn ước vọng này. Hãy nhìn vào những kinh hoàng, những bạo lực, những chiến tranh, những hình thức khác của tàn phá như khủng bố, giết người, thiên tai chúng ta sẽ phải ngạc nhiên đặt câu hỏi: “Tất cả những điều này có nghĩa làm sao ?” Câu trả lời khó mà tìm thấy giữa những hỗn loạn của thế giới, giữa những ồn ào của xã hội loài người. Nhưng giây phút chia sẻ bánh và rượu đã trở thành Mình và Máu Chúa Giêsu cho chúng ta không gian thực tế để nhận ra ý nghĩa của cõi nhân gian này. Bởi vì Mình và Máu thánh Chúa nối kết chúng ta với cuộc sống, cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu. Đấy là ý nghĩa của cuộc đời mỗi người. Nó tập hợp chúng ta thành một dân tộc với một tương lai rõ ràng: Thi hành thánh ý Thiên Chúa trên cõi trần gian. Không có lý tưởng nào cao đẹp hơn. Có thể trong cuộc sống chúng ta chẳng tìm được câu trả lời. Nhưng tiếp xúc với Chúa Kitô chúng ta được Ngài giúp đỡ để nhìn ra ý nghĩa của niềm vui nỗi khổ của mình qua tối tăm của biển đời trần thế.
Tác giả Wallace còn kể ra một loại đói khát nữa liên hệ với thánh lễ hôm nay, là ước mong được thuộc về cộng đoàn, được liên lạc ấm áp với tha nhân. Ước vọng này cũng nằm sâu thẳm dưới đáy con tim mỗi người. Ai ai cũng sợ nỗi cô đơn, trốn tránh những giây phút lẻ loi. Vì thế, người ta ưa tìm đến các tụ điểm, những chỗ ăn chơi như quán trà, cà phê, tửu điếm và trở nên trác táng. Chúa Giêsu giúp đỡ chúng ta tránh xa sự hoang vắng vô bờ nên đã tuyên bố: “Những ai ăn thịt và uống máu tôi thì ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy.” Bữa tiệc thánh chúng ta tham dự hằng ngày nối kết chúng ta, không những với Chúa Giêsu, mà còn với tất cả mọi tín hữu trên thế giới cùng ăn uống hôm nay như chúng ta. Tất cả đều trở thành bạn đồng hành. Tiếng La tinh bạn đồng hành là companio, gồm hai từ ghép lại với nhau: từ com = cum = có nghĩa cùng nhau và panis nghĩa là bánh. Companio là cùng ăn bánh với nhau. Do việc ăn bánh và uống rựơu trên bàn tiệc thánh, Chúa Giêsu dọn cho, chúng ta họp thành một cộng đoàn cùng hành hương về nhà Cha. Chúng ta tuyên bố mình không cô đơn, ngược lại, liên kết với nhau khăng khít như anh em ruột thịt qua phép Rửa tội và Thánh thể. Chúng ta dấn thân phục vụ nhau như thành phần của một thân thể.
Hơn nữa, Mình Máu thánh Chúa còn nối kết chúng ta với những người đã qua đời, những tổ tiên trong đức tin. Họ cũng từng ăn và uống Mình Máu Ngài và hiện đang dự yến tiệc trên thiên quốc. Họ là những đấng thánh. Trong nghĩa này, họ cũng là bạn đồng hành (companio) với chúng ta trên hành trình về quê trời. Họ cầu nguyện cho chúng ta, nêu gương sáng cho mọi người bằng chính đời sống mình. Họ khuyến khích chúng ta bước đi vững chãi trên con đường thánh thiện và cầu mong mọi người đều sum họp. Như thế, mối giây thân ái yêu thương của bí tích Thánh thể ràng buộc chúng ta với Chúa Kitô và các tín hữu khác không hề bị bẻ gãy, dù là sự chết. Nó bền vững muôn đời. Tử thần không thể nuốt chửng chúng ta được, đúng như lời Chúa Giêsu tuyên bố: “Ai ăn bánh này thì sẽ sống muôn đời.” Ước mong các tín hữu cảm nghiệm được thông điệp chân thật của Chúa Giêsu trong thánh lễ hôm nay. Amen.
Thánh Thể Bảo Chứng Của Tình Yêu
(Ga 6: 51-58)
Lm Thomas Trần Ngọc Túy, OP (Tổng hợp theo: Jude Sicilianô)
Kính thưa quý vị,
Một vị khách lạ đến thăm một gia đình nhà quê nghèo khổ. Ngôi nhà lụp xụp và chỉ có một em bé ở nhà, cha mẹ đi làm ruộng hết. Vị khách bước vào nhà, hỏi em bé: “Con có muốn đến ở với ta không ? Nhà ta rộng rãi lắm, lâu đài, dinh thự, sân to, vườn rộng, em tha hồ chạy nhảy, chơi đùa ?”. “Thưa ông, con không muốn. Con ở nhà với cha mẹ thích hơn. Lâu đài dinh thự đâu có to”. “Thế con bảo cái gì to ?”. “Thưa, vua ạ”. “Vậy ta là vua đây, ta bí mật đi thăm dân chúng”. Em bé bất ngờ reo lên: “Thì ra nhà con to nhất nước rồi. Vui quá”. Đó là ý nghĩ của ngày lễ hôm nay, Hội thánh kính Mình Máu Chúa Kitô mà tín hữu rước lấy hằng ngày. Vua cả trên hết các vua. Chúa trọng trên hết các Chúa chắc chắn sẽ biến đổi tín hữu to lớn nhất vũ trụ. To hơn cái lều của cha mẹ em bé, có vua ngồi trong.
Ngày 28 tháng 09 năm 1884, bà thánh Marie Eugenie, sáng lập dòng Đức Mẹ lên trời huấn giáo cho các chị em về sự hiện diện của Thiên Chúa. Theo bà có ba cách Chúa hiện diện: thứ nhất bằng quyền năng. Quyền năng Ngài thẩm thấu hết mọi tạo vật giống như nước đại dương thẩm thấu miếng bọt biển tới từng thớ sợi. Ngay cả quỷ sứ và tội nhân cũng không tránh thoát. Thứ hai, bằng ơn thánh và tình yêu qua bí tích rửa tội và các bí tích khác. Thứ ba, bằng Thánh Thể. Thiên Chúa hiện diện trong hình bánh hình rượu chân thật và sống động y như thuở xưa trước dân Do Thái khi Ngài sinh ra, dâng mình, lớn lên, rao giảng, khổ nạn và chết trên thập tự. Bà cho đây là sự hiện diện ngọt ngào và an ủi nhất. Chúng ta không có lý do để ghen tỵ với người Do Thái xưa ở đất Palestine.
Một chị em hỏi: nhưng chúng con có thấy Chúa nói gì đâu ? Ngài hoàn toàn im lặng khi chúng con quỳ cầu nguyện trước Thánh Thể. Bà thánh trả lời: thì các mục đồng, các đạo sĩ đến thờ lạy Chúa Hài Nhi ở Bêlem có thấy Chúa mở miệng đâu ? Đơn giản vì Ngài chưa biết nói. Bây giờ trong Thánh Thể cũng vậy, Ngài giấu kín nhân tính và thần tính. Nhưng Ngài biết hết, trông thấy hết, cảm nghiệm mọi sự. Chị em không tin ư ? Thế thì chị em tin thế nào được các màu nhiệm khác ?
Thánh Thomas Aquinas cũng có lòng tin sống động về sự hiện diện của Thiên Chúa trong bí tích Thánh Thể, cho nên đã sáng tác ra những lời kinh rất sốt sáng và giầu tưởng tượng như chúng ta vừa trích một hai câu ở trên. Thánh nhân thường chiêm ngắm Thánh Thể với những biết ơn cảm tạ: “Ôi yến tiệc mình và máu thánh Chúa Kitô … Ôi Giêsu, Ngài thương yêu con dường ấy …”. Bí tích Thánh Thể là trường siêu đẳng đào tạo các thánh, các anh hùng, các vĩ nhân, các nhà rao giảng thời danh.
Để ngắm bắt ý nghĩa của ngày lễ, chúng ta hãy rảo qua các bài đọc. Bài đọc một trích sách Đệ Nhị Luật: “Khi ấy, ông Môisê nói với dân Israel rằng: anh em phải nhớ lại tất cả con đường mà Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em đã dẫn anh em đi suốt 40 năm nay trong sa mạc, để bắt anh em phải cùng cực. Như vậy Ngài thử thách lòng dạ anh em … Rồi đã cho anh em ăn manna … Ngõ hầu cho anh em biết rằng người ta không chỉ sống nhờ cơm bánh, nhưng còn sống nhờ mọi lời miệng Đức Chúa phán ra”. Đáng ngạc nhiên là tác giả Đệ Nhị Luật gợi nhớ các kinh nghiệm đáng lý phải ghê sợ và cố quên đi. Vì 40 năm trong sa mạc là 40 năm đói khát, kiệt sức, thất vọng, bại trận, rắn rết, tiêu hao chết chóc đến độ nhiều lần dân chúng nổi loạn kêu ca Thượng Đế và chống lại ông Môisê. Dân Do Thái ngỡ ngàng tại sao Chúa hứa giải phóng, tự do lại phải đi con đường nhọc nhằn này? Nhiều người muốn trở lại Ai Cập, an phận làm nô lệ còn hơn.
Nhưng tác giả Đệ Nhị Luật chỉ coi đó là “thử thách”. Xem họ có vâng lời Thiên Chúa không ? Đây cũng là bài học lớn cho tín hữu ngày nay. Con đường đi tới tự do của ơn thánh không phải là dễ. Muốn từ bỏ Satan, thế gian, tội lỗi nhất định phải trả giá. Giải phóng mình khỏi ích kỷ, tham lam, dâm dục, phù phiếm không phải là một lúc một ngày và dễ dàng như ăn một chiếc bánh ngọt. Nó đòi hỏi cố gắng và kiên trì, hy sinh và khước từ càm dỗ. Hô hào khơi khơi thì dễ lắm, nhưng thực hành quả là cam go. Nhiều linh hồn đã thất bại.
Một hình thức thử thách sa mạc khác có lẽ phổ thông hơn mà đa phần chúng ta phải trải qua. Đó là những khó khăn, thất bại hàng ngày: con cái hư hỏng, gia đình bất hoà, đau yếu liên miên, nợ nần, thất nghiệp, rượu chè, nghiện ngập. Giáo hội gặp nhiều khó khăn khi phải lội ngược dòng với cái ác của xã hội tân thời: ngừa thai, phá thai, tế bào gốc, chết êm dịu. Toàn là rắn rết, bọ cạp, đất cháy, cỏ khô.
Nhưng xin nhớ Đệ Nhị Luật không chỉ liệt kê những hãi hùng, mà còn nhấn mạnh sự hiện diện của Thiên Chúa, qua manna, nước mát từ tảng đá chảy ra. Đức Chúa luôn ở bên dân Do Thái, giúp đỡ tuyển dân vượt qua khó khăn để trở về đất hứa, tới bến tự do chảy sữa và mật ong. Họ không được phép thất vọng và cũng không được phép tham lam.
Ngày nào thu lượm manna đủ cho ngày ấy. Ngày nào họ cũng phải cậy dựa vào Thiên Chúa để có lương thực. Đây là bài học quý giá cho tín hữu, nhất là các tu sĩ, linh mục, trong tình hình hiện nay. Hình như người ta muốn tước quyền Thiên Chúa, chẳng cậy dựa vào ai. Kinh tế thị trường toàn cầu, sản xuất, tiêu dùng quá mức làm cạn kiệt tài nguyên địa cầu. Nhưng chúng ta không được phép thất vọng dù tội lỗi đến đâu. Thiên Chúa vẫn luôn sẵn sàng cứu giúp. Người có lý do để thất vọng nhiều nhất, là Đức Giêsu Kitô, trước thế lực to lớn của thờ, một mình cô thân cô thế với nhóm hèn nhát, vô học, đương đầu với cái chết cầm chắc do xã hội và tôn giáo lúc ấy áp đặt, nhưng chẳng ai đầy lòng trông phó thác bằng Chúa Giêsu. Noi gương ấy, các thánh tử đạo sau này can trường không kém.
Vậy thì không ai được phép thất vọng. Chúng ta còn phải sống bằng lời Thiên Chúa nữa. Lời Thiên Chúa không có từ “tuyệt vọng” vì Ngài cứu giúp và ước ao mọi người được sống hạnh phúc. Câu mở đầu bài Tin Mừng hôm nay viết: “Đức Giêsu nói với người Do Thái rằng: tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ sống muôn đời”. Câu Phúc Aâm này ở trung tâm bài diễn từ về Bánh Hằng Sống. Trước đó Chúa Giêsu làm phép lạ hoá bánh ra nhiều để nuôi năm ngàn người ăn (6, 1-14). Ngài nhân nhiều bánh để chứng tỏ sự thật hiển nhiên. Vào thời Chúa Giêsu, văn hoá coi “thịt máu” là toàn bộ ngôi vị một người. Vậy thì ăn bánh bởi trời chính là “thịt tôi đây cho thế gian được sống” nghĩa là lãnh nhận lấy toàn bộ ngôi vị của Ngài. Những “tri thức ” khiếm khuyết đức tin nói câu văn chỉ có nghĩa bóng mà thôi. Truyền thống phổ thông cũng tin như vậy. Hậu quả là không được tiến bộ về đàng thiêng liêng, họ rước lễ, vào trước Mình Thánh, coi như vào nơi không người, vô tình và nguội lạnh.
Không phải như vậy. Chúa nói tiếp: “Cha ông các ngươi đã ăn manna trong sa mạc và đã chết. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời”. Manna biểu tượng bánh Chúa Giêsu ban. Hình bóng manna mà còn thực đến độ nuôi sống con người, thì bánh Chúa Giêsu ban là thịt máu Ngài lại chỉ là “hình bóng” thì quả thật là vô lý. Làm thế nào “hình bóng” có khả năng ban cho người ta tham dự vào sự sống muôn đời. Liệu “hình bóng” có thể dẫn đưa người ta vào sự sống Thiên Chúa và Thiên Chúa cư ngụ trong linh hồn?
Nhưng nhiều người không hiểu, bỏ đi nói: “Lời này chói tai quá, ai mà nghe nổi”. Nhiều môn đệ cũng bỏ đi. Tuy nhiên, Chúa Giêsu bảo lưu lời nói của Ngài, và thay vì nói với đám đông: quý vị hiểu sai ý nghĩa của tôi, Ngài quay ra hỏi các tông đồ: “Chúng con có muốn bỏ đi không ?”. Chắc chắn các tông đồ cũng ngỡ ngàng, nhưng Phêrô đứng ra nói thay cho các bạn: “Bỏ thầy, chúng con biết theo ai, thầy mới có những lời ban sự sống đời đời”. Chúng ta biết rằng sau này trong bữa tiệc ly, các môn đệ không còn bỡ ngỡ, mà tin thật vào lời Chúa khi Ngài phán: Anh em hãy cầm lấy mà ăn, mà uống, này là thịt máu thầy. Từ đấy Hội Thánh nối tiếp đức tin của các tông đồ. Thánh Phaolô, trong bài đọc hai viết: “Khi ta nâng chén chúc tụng mà cảm tạ Thiên Chúa, há chẳng phải là dự phần vào Máu Đức Kitô ư ? Và khi ta cùng bẻ bánh, đó chẳng phải là dự phần vào Thân Thể Người sao ?”. Dĩ nhiên là thánh nhân tin thật Chúa Giêsu ngự trong bánh rượu sau khi truyền phép mà nơi khác chính thánh nhân dạy lời lẽ: Này là Mình Thầy, ngày là Máu Thầy. Cho tới hôm nay, Hội Thánh vẫn sử dụng công thức đó. Nhiều trăm năm sau, thanh Gioan Kim Khẩu viết: “Khi bạn ngắm nhìn hào quang đặt trên bàn thờ, bạn có thể nói: Nhờ Thân Thể này, tôi không còn là bụi tro nữa, bởi tôi không còn là tù nhân nữa, nhưng là người tự do… Thân Thể này được ban cho chúng ta để lưu giữ và ăn uống, làm dấu chứng tình yêu tha thiết của Ngài”. Chứng cứ rõ ràng nhưng vẫn không tránh khỏi vật lộn với lòng trí không tin. Rất sớm, các Giáo Hội đông phương đã dùng từ “thay đổi hữu thể” (metaousias) để diễn tả mầu nhiệm Mình Máu Thánh Chúa. Thế kỷ 13, công đồng Tridentinô ấn định từ “biến đổi bản thể” (transubtanto) tức thay đổi từ bản thể bánh rượu sang bản thể Chúa Kitô. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI xác định lại ý nghĩa khi nói rằng: “Sự hiện diện của Chúa Kitô trong hình bánh rượu ở ý nghĩa trọn vẹn nhất của từ ngữ đó”.
Vậy đức tin vào bí tích Thánh Thể của Giáo hội y nguyên từ thời tông đồ đến nay. Và chúng ta không nên hiểu theo nghĩa biểu tượng mà thôi. Đó là một sự hiện diện đích thực cả về nghĩa tinh thần lẫn vật chất: “Ai ăn thịt và uống máu tôi sẽ không còn đói khát nữa, nhưng sẽ được sống muôn đời”. Thế giới có nhiều hình thức đói khát lắm. Đói tình yêu, đói hoà bình, đói công lý, đói đoàn kết, đói hạnh phúc, đói ý nghĩa cuộc đời. Và chẳng thứ bánh nước nào thoả mãn trọn vẹn con người cả. Duy chỉ có bánh từ trời mới đủ khả năng ấy. Bánh có thể nuôi sống tâm trí, trái tim, ước muốn thiên hạ đến độ sung mãn. Trong một số Giáo hội đông phương tiên khởi có truyền thống mời lên bàn tiệc thánh. Sau khi nghe lời Chúa, tín hữu được mời gọi lên bàn thờ để “lãnh nhận Đức Giêsu Kitô vào đời sống mình”. Mỗi khi tham dự Thánh Lễ, chúng ta cũng được kêu mời như vậy. Đức Kitô ngự trong mỗi linh hồn không những như vị khách sang trọng, giầu có, nhưng còn như nhà đào tạo chúng ta nên to lớn nhất vũ trụ, tức nên giống Ngài, như em bé bất ngờ kêu lên: Nhà con to nhất nước.
Chúa Nhật tới, chúng ta mừng lễ trái tim Chúa Giêsu. Hai lễ này nối kết với nhau một cách tự nhiên để ban cho Hội Thánh niềm vui và hạnh phúc sau mùa Phục Sinh. Chúa Giêsu trao ban thân mình trọn vẹn trong bí tích Thánh Thể, thì lẽ đương nhiên Ngài cũng ban trọn vẹn trái tim Ngài nữa. Vậy lễ mừng hôm nay là bảo chứng của tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta. Ngài chẳng giữ chi cho mình, kể cả cuộc sống vĩnh cửu trong Nước của Cha Ngài. Ôi màu nhiệm lạ lùng của Tình Yêu Thiên Chúa đối với nhân loại. Amen.
Lời Mời Gọi Chân Tình
Ga 6,51-58
G. Nguyễn Cao Luật, OP
Ăn uống hay là hiệp thông
Có những sự việc diễn ra quá bình thường đến nỗi người ta chẳng còn để ý đến. Chẳng hạn như: ngủ nghỉ, đi lại, nói năng, thở hít ... Chỉ khi nào bị tước mất hay không có, người ta mới ý thức được giá trị vô giá của chúng. Khi bị mất ngủ, người ta hiểu được tầm quan trọng của giấc ngủ. Về việc ăn uống cũng thế.
Theo Kinh Thánh, con người ở thời đầu đã dùng sữa của đoàn vật để nuôi thân, như cách thức ông A-ben đã làm. Thế nhưng, sau lụt đại hồng thuỷ, họ bắt đầu giết các con vật để ăn. Ðiều này được Thiên Chúa cho phép với điều kiện phải làm cho máu chảy hết ra khỏi thịt trước khi ăn. Bởi vì máu chính là sự sống và không ai có quyền trên sự sống. Máu hay sự sống thuộc về Thiên Chúa. Chỉ Người mới có quyền.
Từ ý nghĩa này, con người có bỗn phận phải tôn trọng thụ tạo trong khi ăn uống. Tại một số bộ lạc ở Châu Phi, người thợ săn xin con thú mình sắp giết để nuôi thân tha lỗi cho. Trong một cuốn sách, nhà văn Soljénitsgne đã diễn tả cách tuyệt vời về thái độ này khi nhớ lại bữa ăn duy nhất trong ngày của các tù nhân: "Anh còn nhớ thứ cháo lúa mạch lỏng bỏng, hay thứ xúp chẳng một chút chất béo đó không ? Anh có thể gọi đó là ăn không ? Hoàn toàn không, anh đang hiệp thông, anh dùng món cháo đó như một thứ bí tích ... Anh nhấm nháp chầm chậm đến tận cuối cái thìa gỗ; anh nuốt món cháo đó, nuốt trọn và nghĩ đến hành động ăn ... Và hương vị của nó lan ra khắp cơ thể".
Làm sao con người ngày nay có thể hiệp thông theo cách thức như thế. Từ sau khi ra khỏi Vườn Ðịa Ðàng, con người không còn những của ăn đích thực, họ luôn cảm thấy đói khát, và nếu có cảm thấy no nê, cũng chỉ là giả tạo. Toàn bộ cuộc sống và con người của họ đều khao khát lại được dưỡng nuôi nhờ những của ăn đích thực. Do đó Ðức Giêsu nhấn mạnh: Thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống .
Ngoài ra, Ðức Giêsu cũng dạy con người hãy cầu xin Chúa Cha ban cho bánh ăn mỗi ngày, trong khi chờ tới ngày Thiên Chúa sẽ tái tạo con người như vẻ đẹp nguyên thuỷ: Xin Cha cho chúng con lương thực hằng ngày . Như vậy, Ðức Giêsu cũng cho thấy rằng, các tạo vật, thay vì giết hại lẫn nhau để tự nuôi thân, phải được nuôi dưỡng do chính vị sáng tạo nên mình.
Ðiều này chẳng có gì lạ. Ðể có thể nuôi mình nhờ hoa màu ruộng đất, trước hết đứa trẻ cần được nuôi dưỡng 9 tháng nhờ thân thể và máu của người mẹ. Cũng vậy, đối với nhân loại, để vươn tới những lương thực do Thiên Chúa dọn sẵn cho họ từ khởi đầu, trước hết, họ phải chấp nhận được nuôi nhờ thịt và máu Thiên Chúa của mình. Thánh Thể -được chiêm ngưỡng và lãnh nhận- chính là cuống nhau tái tạo nhân loại, làm cho con người cũ thành con người mới. Nhờ Thánh Thể, con người được trả lại đời sống vĩnh cửu.
Tấm bánh hay là một con người
Ðức Giêsu vừa mới làm phép lạ hoá bánh ra nhiều tại một nơi khô cằn, tức là tại nơi sự chết đang rình rập. Ðức Giêsu đã khơi dậy sự sống, và như vậy Người đã nhắc lại hoạt động xưa kia của Thiên Chúa đã làm cho dân Do-thái thoát khỏi cái đói trong sa mạc. Quả là một sự kiện lạ lùng. Vậy mà những người chứng kiến lại dựa trên phép lạ này để hành động theo cách của mình. Họ định tôn Người làm vua , nhưng Ðức Giêsu đã từ chối. Người đưa ra cho họ một cách hiểu mới về sự việc vừa xảy ra. Người tuyên bố: Tôi là bánh trường sinh từ trời xuống .
Thực là một mặc khải mới mẻ, lạ lùng. Lương thực để nuôi sống nhân loại, làm cho nhân loại được sống thực sự và sống vĩnh viễn không còn là những thứ bánh thông thường, nhưng chính là thân thể, là máu của một ngôi vị sống động. Tất cả những thứ bánh của trần gian, kể cả man-na thời sa mạc, chẳng có giá trị gì so với bánh do Ðức Giêsu ban. Con người đó chính là con người Ðức Giêsu trong mầu nhiệm nhập thể -Ngôi Lời đã làm người-, một con người thực sự với những điều kiện của thân phận làm người.
Tuy vậy, con người này không phải là một hữu thể như bất cứ ai khác, trái lại, đó là Con Người với tất cả ý nghĩa cao cả của nó. Ðây là Con Người luôn hiệp thông với trời cao, là Con Người đã đi xuống, sẽ đi xuống tận cùng để được nâng lên (3,14). Ðây là Con Người từ trời xuống.
Và hơn thế nữa, Con Người từ trời xuống còn có mục đích rõ ràng và cụ thể là hiến mạng sống mình , nói cách khác là sẽ chịu chết. Ðiều này có nghĩa là chỉ trong Ðức Kitô chịu hiến tế, nhân loại mới có thể hiểu được toàn bộ ý nghĩa vinh quang của Tấm Bánh. Tấm Bánh đó chính là Ðức Giêsu, Ðấng trở thành lương thực nuôi dưỡng tâm hồn con người và dẫn đưa họ về sự sống vĩnh cửu.
Do đó, ăn thịt và uống máu không phải là hành vi thể lý, nhưng là thái độ chấp nhận cách vô điều kiện về con người đã tự nộp mình, đã đón nhận cái chết để đem ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại. Ðó là đón nhận trong lòng tin mầu nhiệm sự chết được Ðức Giêsu nói đến như một hổng ân, bởi vì Ðức Giêsu sẽ tự hiến mình chịu chết và sẽ phục sinh.
Như vậy, việc ăn và uống chính là chấp nhận mối tương quan nối kết với Chúa Cha qua Ðức Giêsu. Chính Ðức Giêsu là trung tâm của mối tương giao này. Chính Người là trung gian, hay nói đúng hơn, chính nơi Người, mối tương giao giữa Thiên Chúa và nhân loại được thể hiện chặt chẽ, và đó là sự sống.
Ðức Giêsu có thể công bố điều lạ lùng này vì Người là Con Thiên Chúa. Nhờ lãnh nhận Mình và Máu Người, nhân loại trở thành con Thiên Chúa. Nhờ Người Con duy nhất, nhân loại được ở gần Thiên Chúa, được quy hướng về Thiên Chúa, và được sống, được sống đích thực.
Với diễn từ về Bánh Trường Sinh, Ðức Giêsu trình bày rõ ràng về giao ước mà Thiên Chúa đã hứa. Giao ước này sẽ được thực hiện rõ ràng và trọn vẹn trong cái chết của Ðức Giêsu.
Sự thách thức hay là lời mời gọi
Nghe những lời nói của Ðức Giêsu, người Do-thái coi đó là một sự thách thức. Họ đã không chấp nhận mầu nhiệm nhập thể. Trước mắt họ, Ðức Giêsu chỉ là một con người bình thường như tất cả mọi người, chẳng phải là Ðấng từ trời xuống. Họ không hiểu về thái độ dâng hiến của Ðức Giêsu nên cũng chẳng nhận cái chết của Ðức Giêsu sẽ là nguồn mạch đem lại sự sống. Ðó là cớ vấp ngã do Thập giá.
Thành ra, những lời tuyên bố đầy thiết tha của Ðức Giêsu, thay vì loan báo sự sống, lại trở thành những lời thách thức . Thế nhưng, ngay khi họ muốn tiêu diệt Ðức Giêsu, ngay khi họ giết Người, họ lại đụng phải một thực tại không ngờ từ trời xuống: Người này là Con Thiên Chúa !
Ðối với chúng ta, lãnh nhận Mình và Máu Ðức Giêsu là chấp nhận để cuộc đời mình tan biến trong Ðức Giêsu, trong cái chết của Người. Khi lãnh nhận Mình và Máu Ðức Giêsu, chúng ta được tan biến trong Người chứ không phải Người tan biến trong chúng ta. Chính chúng ta được đưa vào trong tiến trình sự sống của Ðấng đang được ta đón nhận, và nhờ đó, chúng ta đạt tới tầm nhìn về một sự sống mới. Ðây không còn là vấn đề giết lấy mà ăn, nhưng là chia sẻ, là trao đỗi. Ðiều cốt yếu không phải là thực tại thể lý, nhưng là cử chỉ trao tặng, đón nhận, là tiến trình tạ ơn.
Ðó là thực tại đích thực, thực tại duy nhất có thể làm cho con người được sống sâu xa. Thực tại này mở ra một lãnh vực mới không còn dấu vết của thời gian, của sự chết. Thực tại ấy là ân huệ Thánh Thần. Và chúng ta hiểu đây là lời mời gọi chân tình.
Kỷ vật tình yêu
(Ga 6,51-58)
Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
Chúng ta có thể quả quyết: Mỗi thánh lễ đều là lễ “Mình Máu Thánh Chúa”. Nhưng ngày lễ trọng kính Mình Máu Thánh Chúa được Giáo Hội ấn định hằng năm vào ngày Chúa Nhật liền sau Chúa Nhật lễ Chúa Ba Ngôi, phải có lý do. Đúng, đây là cơ hội đặc biệt để chúng ta tìm hiểu và suy niệm cách sâu xa hơn về mầu nhiệm này: một mầu nhiệm đức tin và cũng là mầu nhiệm tình yêu.
Có một đôi vợ chồng trẻ kia mới lấy nhau được hơn hai năm. Trong thời gian đó, họ đã sống với nhau thật hòa hợp hạnh phúc. Mỗi ngày vào buổi sáng trước khi rời nhà đi làm, và chiều tối khi trở về ngôi nhà thân thương, anh chồng không khi nào quên trao cho vợ một cử chỉ âu yếm và một lời nói yêu thương. Nhờ đó tình yêu giữa hai vợ chồng ngày một thêm thắm thiết, hạnh phúc. Nhưng rồi hạnh phúc của đôi vợ chồng đã bị đe dọa. Một hôm, người chồng bị trúng mưa trên đường đi làm về. Sau đó anh bị cảm nặng liệt giường và được người vợ chăm sóc chu đáo. Anh được mang đến bệnh viện khám và điều trị. Bác sĩ chẩn đoán anh bị viêm cuống phổi. Dù được tận tình chữa trị và được chăm sóc chu đáo, nhưng bệnh tình ngày một thêm trầm trọng. Cuối cùng bác sĩ xác định anh bị ung thư màng phổi ác tính vào thời kỳ thứ ba. Khi sắp chết, anh gọi vợ lại gần trăn trối. Anh thều thào nói: “Em yêu quý, có lẽ sắp tới giờ Chúa gọi anh về. Anh đã chuẩn bị tâm hồn và sẵn sàng vâng theo ý Chúa. Anh chỉ tiếc một điều là không được tiếp tục sống bên em nữa. Anh cám ơn em đã đem lại cho anh những ngày chung sống hạnh phúc. Trước khi đi xa, để chứng tỏ tình yêu vĩnh cửu của anh, anh không có gì trối lại cho em ngoài chiếc nhẫn mà hai vợ chồng mình đã trao cho nhau, khi cầm tay kết ước trước bàn thờ Chúa cách đây hơn hai năm. Bây giờ anh xin tặng chiếc nhẫn kỷ vật này cho em, để mỗi lần nhìn chiếc nhẫn này, em biết rằng anh vẫn luôn ở bên em và hằng cầu mong cho em được an vui hạnh phúc”.
Nói xong, anh tháo chiếc nhẫn đang đeo và âu yếm xỏ vào tay vợ, như hai người đã làm cho nhau trong ngày cưới. Sau khi chết, anh được an táng trong một nghĩa trang ở gần nhà. Sau đó, hằng ngày người ta thấy một phụ nữ trẻ, đầu đội khăn tang, tay cầm bó hoa, đi vào nghĩa trang. Chị đứng trước một ngôi mộ cỏ mọc chưa xanh và cầu nguyện cho người chồng quá cố. Trên tay chị ta đeo hai chiếc nhẫn cưới: một chiếc của ngày thành hôn và chiếc kia là kỷ vật của người chồng quá cố để lại cho chị.
Câu chuyện trên có thể giúp chúng ta hình dung một việc làm chứng tỏ tình yêu vô hạn của Thiên Chúa, đó là việc Chúa lập phép Thánh Thể, để lưu lại cho chúng ta một bằng chứng tình yêu vĩ đại. Thực vậy, trước giờ biệt ly, trong bữa ăn cuối cùng với các môn đệ thân yêu, Chúa đã muốn để lại cho con người một kỷ vật, một vật kỷ niệm. Ngài không để lại vàng bạc, vì Ngài biết rằng tiền bạc không nói lên được tình yêu, tiền bạc hay phản lại tình yêu. Ngài không để lại một bức thư từ biệt, vì thư bất tận ngôn, hay một lời nói, vì lời nói như hơi gió, có đó và hay mất đó. Ngài không để lại bất cứ một cái gì, bởi vì đối với Chúa, tất cả mọi thứ ở trần gian này đều tầm thường quá, hời hợt quá, không đủ nói lên tấm lòng yêu thương quá nồng nàn của Ngài đối với nhân loại. Ngài muốn để lại một cái mà thường tình người ta yêu thương hơn cả, kỷ vật Ngài muốn lưu lại cho loài người phải hết sức đặc biệt, đó là chính bản thân Ngài, chính mình Ngài.
Nhưng cái bản thân bằng xương bằng thịt của Chúa lại sắp bị bắt và bị giết chết. Do đó, Chúa phải thực hiện ý muốn trên bằng một thể thức vô cùng linh diệu, là lưu lại bản thân Chúa dưới hình thức nhiệm mầu: Chúa lấy bánh và rượu để biến đổi thành Mình và Máu Chúa, rồi phân phát cho các tông đồ như của ăn của uống thiêng liêng nuôi dưỡng đời sống tâm linh. Đây là một sự việc hàm chứa rất nhiều ý nghĩa yêu thương nhưng cũng mang đầy tính chất đức tin.
Quả thực, đây là mầu nhiệm đức tin. Bởi vì trí khôn chúng ta không hiểu được, giác quan chúng ta không cảm nhận được, chỉ có đức tin dạy cho chúng ta biết: Chúa hiện diện thât sự trong bí tích Thánh Thể. Rước lễ là chúng ta ăn Mình Chúa và uống Máu Chúa, đây là lương thực vừa giúp chúng ta sống khỏe, sống mạnh, sống tốt đẹp ở đời này vừa bảo đảm cho sự sống lại và cuộc sống vĩnh cửu, như Chúa đã quả quyết: “Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi, thì tôi sống trong người ấy, và tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết và được sống đời đời”. Như vậy, người ăn Mình Chúa và uống Máu Chúa sẽ thuộc về Chúa ngay từ đời này, và mai ngày sẽ thuộc về Ngài mãi mãi. Thánh Thể là dấu chỉ cho đời sống vĩnh cửu đã khởi sự, và là bảo chứng cho sự sống lại ngày sau hết. Đó là ý nghĩa mầu nhiệm Thánh Thể chúng ta long trọng mừng kính hôm nay.
Chúng ta hãy ghi nhớ và thực hành hai điều sau: Thứ nhất, chúng ta hãy siêng năng rước lễ. Mỗi khi tham dự thánh lễ là chúng ta đi dự tiệc, có ai đi dự tiệc mà lại không ăn uống chăng ? Thế mà có khá đông người tham dự thánh lễ mà không ăn và uống Mình Máu Chúa. Phải chăng thánh lễ chỉ còn là một nghi thức và bổn phận phải làm, chứ không còn là sự sống được trao ban ? Hay phải chăng vì thấy việc rước lễ xem ra không có hiệu quả trong đời sống, nên chúng ta thất vọng và không muốn rước lễ nữa ? Những mối bận tâm như thế không đủ để chúng ta khước từ nguồn ơn cứu độ là chính Đức Kitô hiện diện trong bí tích Thánh Thể.
Thứ hai, tất cả chúng ta đều tin rằng khi chúng ta rước lễ là chúng ta được kết hiệp với Chúa Kitô. Nhưng sự kết hiệp đó phải đưa chúng ta đến sự hiệp thông với nhau, tức là yêu thương nhau. Đúng ra phải như thế, nhưng thực tế có được như vậy không ? Có lẽ nhiều người Kitô hữu quên mất điều này: hiệp thông với Chúa Kitô phải đưa đến sự hiệp thông với nhau. Đàng khác, thánh lễ là diễn lại cuộc tử nạn của Chúa Giêsu, cho nên bằng chính những hy sinh lớn nhỏ vì yêu thương phục vụ tha nhân, chúng ta làm trọn cử chỉ Thánh Thể thực hiện trong thánh lễ, bởi vì đời ta là một thánh lễ nối dài. Xin Chúa cho chúng ta luôn sống được như thế.
Thánh Thể, Mầu Nhiệm Hiệp Thông Và Chia Sẻ
Ga 6:51-58
Phanxicô Xaviê Trần Đức Tuân, OP
Mình Máu Thánh Chúa Kitô, là hồng ân mà chính Chúa Giêsu Kitô ban tặng cho chúng ta. Trong bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu tiếp tục yêu thương chúng ta cho đến cùng.
Nói đến Hiệp thông Thánh Thể là nói đến sự hiệp thông giữa Thân Mình với các chi thể khác nhau, cũng như sự thông phần và liên kết chặt chẽ trong cùng một Nhiệm Thể duy nhất của Đức Kitô là Giáo Hội. Một tấm bánh được bẻ ra cho nhiều người, để tất cả được thông dự và làm nên một Tấm Bánh. Tấm bánh đó chính là Đức Kitô.
Quả vậy, hiệp thông Thánh Thể đòi hỏi chúng ta trở nên những con người hiệp thông, nghĩa là, biết từ bỏ những cái gì là riêng tư, ích kỷ, tham lam trong đời sống hàng ngày, ngõ hầu xây dựng tình huynh đệ ở mọi nơi chúng con sống, từ trong gia đình, xóm làng cho đến cộng đồng giáo xứ.
Hôm nay cũng là ngày tạ ơn và vui mừng, bởi vì Đức Giêsu Kitô đã muốn ở lại để nuôi dưỡng và ban sức mạnh cho chúng ta, để chúng ta không bao giờ cảm thấy lẻ loi, cô đơn. Thánh Thể là của ăn đàng cho cuộc hành trình của chúng con về đích điểm cuộc sống chân thực là Nước Trời. Xưa Chúa đã đồng hành với hai môn đệ trên đường Emmau, ngày nay Chúa cũng đồng hành và ban sức mạnh cho mỗi người chúng ta, mỗi khi chúng ta rước Mình và Máu Thánh Ngài.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, chúng con hiểu và xác tín về việc Chúa chia sẻ chính thân mình, và khơi nguồn sự sống để xây dựng cho chúng con Mầu nhiệm Hiệp thông, liên kết chúng con nên một như “Chúa và Chúa Cha là một” (Ga 10, 30). Thế nhưng chúng con vẫn chưa sống chia sẻ, rộng mở, khoan dung với những người khác, chúng con chưa quan tâm xây dựng tình hiệp thông huynh đệ với nhau. Chúng con chưa mở cửa lòng, sẵn sàng chia sẻ vật chất, tinh thần với những anh chị em túng thiếu đang cùng sống chung với chúng con, dù hằng ngày chúng con vẫn thông dự vào cùng một Tấm Bánh, một Thân Mình. Xin giúp sức cho chúng con biết sống tinh thần hiệp thông trong từng ngày sống của chúng con.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con tin thật Chúa đang hiện diện giữa chúng con. Chúng con thờ lạy Chúa. Chúng con yêu mến Chúa. Chúa đang có mặt nơi đây và Chúa đang nhìn mỗi người chúng con. Chúa thấy hết những khiếm khuyết, yếu hèn, Chúa thấu suốt tâm hồn của chúng con. Nhưng như xưa, Chúa đã tha thứ tất cả cho Phêrô, dù ông đã ba lần chối Chúa, thì cái nhìn của Chúa lúc này đối với chúng con cũng vẫn là cái nhìn yêu thương, tha thứ và đỡ nâng.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,
Trong giờ chầu này, chúng con muốn cầu nguyện cho mỗi người chúng con biết sống tình hiệp thông ngày một hơn, từ trong gia đình, giáo xứ… khi chúng con yêu mến Chúa trong Bí tích Thánh Thể. Chúng con muốn thực hiện sự hiệp thông này trong từng bậc sống, ơn gọi, và hoàn cảnh cụ thể của chúng con, để diễn tả lòng Tin Cậy Mến vào Chúa qua tha nhân, và trong lòng Giáo Hội. Đó quả thực là cách thế duy nhất để chúng con tham dự và sống Mầu nhiệm Hiệp Thông mà chính Chúa đã thiết lập qua Bí tích Thánh Thể.
Lạy Chúa, Chúa đã tự hiến trở nên của ăn nuôi sống chúng con, xin cho chúng con luôn biết chạy đến với Thánh Thể là nguồn mạch bình an, để chúng con vững bước trên đường về quê trời. Lạy Chúa, xin cho chúng con hiểu biết, yêu mến và sống bí tích Thánh Thể trong cuộc đời mỗi người chúng con. Amen.
Tình yêu nào cho em
(Ga 6:51-58)
Đỗ Lực, OP
Nhân dịp Italy kỷ niệm 30 năm công nhận quyền phá thai, Đức Thánh Cha Bênêđictô đã đón tiếp Phong Trào Italy phò sự sống. ÐTC khẳng định: “Thực tế chúng ta phải nhìn nhận ngày nay bảo vệ sự sống con người thật là khó khăn, vì đã dần dần phát sinh một não trạng coi thường sự sống con người và giao phó sự sống đó cho cá nhân toàn quyền định đoạt.” Thế nhưng việc phá thai “không những không giải quyết các vấn đề đang làm cho nhiều phụ nữ và gia đình đau buồn, nhưng còn khơi sâu một vết thương khác trong xã hội chúng ta. Cần phải làm chứng một cách cụ thể rằng việc tôn trọng sự sống là hình thức công bình và phải được áp dụng trước tiên. Ðối với những người có đức tin, điều này trở thành một mệnh lệnh không thể trì hoãn […] Chỉ Thiên Chúa mới là Chủ sự sống. Người hiểu biết, yêu thương, đòi hỏi và hướng dẫn từng người […] và mỗi người đều từ trong chương trình tạo dựng của Thiên Chúa mà ra. ”[i]
Giữa lúc xã hội coi thường mạng sống con người, chúng ta lại được chính Chúa Giêsu Thánh Thể mạc khải giá trị cao cả của sự sống. Sư sống cao cả đến nỗi Chúa đã phải hy sinh chính mạng sống và còn để lại Mình Máu Chúa hiện diện sống động giữa chúng ta. Lễ Mình Máu Thánh Chúa là cơ hội lớn nhất cho chúng ta tìm hiểu giá trị sự sống và vai trò Giáo hội trong việc bảo vệ sự sống ấy.
BÍ TÍCH TRUYỀN SINH
Sau khi nuôi sống hàng ngàn dân, Chúa Giêsu muốn mọi người thấy phép lạ đó như một lời mời gọi con người vượt qua của ăn vật chất mà tìm kiếm lương thực thiêng liêng nơi Thiên Chúa. Chúa Giêsu ban tặng “thịt tôi cho thế gian được sống.” (Ga 6:51) Sự sống quả là một tặng phẩm tuyệt vời của Thiên Chúa !
“Những gì Chúa Giêsu nói (trong đêm lập Bí Tích Thánh Thể) không phải là lời nói suông, nhưng là một biến cố, một biến cố nằm giữa trung tâm lịch sử thế giới và cuộc sống mỗi người chúng ta.”[ii] Chúa hiện diện thực sự và thường trực để bảo vệ giá trị cao cả của sự sống con người. Dù đã hạ mình làm thân bèo bọt mỏng mảnh của kiếp người, Chúa còn hạ mình thấp hơn nữa trong tấm bánh và giọt rượu để hóa thân làm người lần nữa trong các tín hữu. Ðể thực hiện được biến cố vĩ đại này, Chúa đã phải huy động tất cả sức mạnh Thần Khí để thực sự biến đổi bánh rượu, mà không tiêu hủy chúng.
Bởi đó, Thánh Thể là trung tâm phụng vụ của cộng đoàn Kitô hữu. Thánh Thể nói cho biết Thiên Chúa là ai trong cuộc đời chúng ta. Thánh Thể cũng mạc khải về bản chất con người và trách nhiệm chúng ta trong cuộc sống chung với tha nhân.
Thánh Thể cũng là trung tâm của niềm tin. Thánh Thể đề cao việc Thiên Chúa yêu thương chúng ta đến nỗi đã sai Ðức Giêsu đến cứu sống chúng ta. Thánh Thể tán dương việc Thiên Chúa để cho thân thể Chúa Giêsu bị bẻ ra và máu Người đổ ra cho chúng ta. Thánh Thể nhắc lại việc Thiên Chúa yêu thương chúng ta đến nỗi Thần Khí đã làm cho Ðức Giêsu trỗi dậy từ cõi chết để chúng ta có thể chia sẻ quyền năng và thừa hưởng sự sống vĩnh cửu như lời Chúa đã hứa.
Thánh Thể mạc khải chúng ta được kêu gọi hành động hơn là chỉ rước Mình và Máu Chúa Kitô. Thánh Thể làm sáng tỏ sự thật chúng ta là – phải là – Mình Máu Chúa Kitô hy sinh cho nhau. Thánh Thể cho thấy rõ chúng ta được kêu gọi để trở thành tấm bánh bẻ ra và chén máu đổ ra cho tha nhân, hy sinh cuộc đời để theo đuổi công lý, hòa bình, hòa giải, hòa hợp, tự do, sự sống và tình yêu. Khi công bố cái chết của Chúa trong Bí Tích Thánh Thể, chúng ta phải quyết chí hy sinh cả cuộc đời, tài năng và nỗ lực tiếp nối công cuộc cứu độ của Chúa. Chúng ta được mời gọi chứng tỏ cho mọi người thấy chân giá trị của Bí Tích Thánh Thể khi tuân hành mệnh lệnh Chúa Giêsu bảo chúng ta “làm việc này để nhớ đến” Người. Không phải chỉ cử hành Thánh Thể vào ngày thứ nhất trong tuần, nhưng còn cung cấp, nuôi dưỡng và tha thứ cho nhau để trở thành Thánh Thể cho nhau mỗi ngày trong tuần nữa.
Trong bài đọc hai, thánh Phaolô loan báo cho cộng đoàn Côrintô biết Thánh Thể là nguồn suối và là trung tâm của đời sống. Họ là một trong thân thể Chúa Kitô. Nếu biết đề cao chân lý này, họ nắm vững chìa khóa để nối các khác biệt lại với nhau.Thánh Phaolô làm việc cực nhọc để quy tụ một cộng đoàn đã bị xâu xé vì các lực lượng xa lạ với Thiên Chúa.
Trước công đồng Vatican II, lòng tôn sùng Thánh Thể chủ yếu tập trung vào “sự hiện diện đích thực của Chúa Giêsu trong Bí Tích Thánh Thể. Phần lớn lòng đạo đức hệ tại những lần thăm viếng, chầu, rước kiệu Thánh Thể và làm “giờ thánh,” nơi Chúa Giêsu “đang chờ đợi, kêu gọi và đón chào những ai đến viếng thăm Ngài.”[iii]
Từ công đồng Vatican II, có một sự hiểu biết sâu xa hơn về lòng tôn sùng Bí Tích Thánh Thể gắn liền với Thánh Thể trong Thánh Lễ. Giáo dân hiểu sâu xa hơn về Thánh Lễ với Hội Thánh như nhiệm thể Chúa Kitô. Thánh Thể tạo tác nên Hội Thánh, chứ Hội Thánh không tạo tác nên Thánh Thể. Quả thế, trong đêm bị trao nộp, Đức Giêsu đã nói với các môn đệ: “Đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người” (Mc 14:22-24) quy tụ trong Nước Thiên Chúa. Máu người vô tội đã đổ ra cho tội nhân được tái sinh làm con Thiên Chúa trong lòng Giáo Hội. Thánh Thể đem lại cho chúng ta sự sống mới và tăng cường sức mạnh cho Nhiệm thể Chúa Kitô là Giáo hội.
SỰ SỐNG: MỘT GIÁ TRỊ CAO CẢ
Mỗi Thánh Lễ là một cuộc thánh hiến trọn vẹn của Chúa Kitô cho sự sống nhân loại, vì Chúa hiện diện đích thực, thường tại và hành động để thăng hoa cuộc sống và đổ tràn niềm vui từ cuộc sống vĩnh cửu cho muôn dân. ÐHY Alfonso López-Trujillo nói: “Bí Tích Thánh Thể là Bí Tích của Sự Sống. ‘Ta là Bánh Hằng Sống. Ai ăn bánh này sẽ sống đời đời. Ta sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết.’(x. Ga 6:47-58)[iv] Máu Giao Ước của Người có sức mạnh cứu độ muôn người. Chúa đã phải chết để giành lại sự sống cho con người.
Sự sống thực sự là một giá trị vô cùng cao cả. Thực vậy, “trong Ðức Kitô, chính Thiên Chúa đã được mạc khải là Cha và là Ðấng ban sự sống. Cũng trong Ðức Kitô, con người đón nhận mọi sự như tặng phẩm từ tay Thiên Chúa một cách khiêm tốn và tự do. Họ thực sự chiếm hữu vạn vật khi nhận biết và cảm nghiệm rằng mọi sự đều thuộc về Thiên Chúa, phát xuất từ Thiên Chúa và hướng về Thiên Chúa.”[v] Thiên Chúa là nền tảng và lý do hiện hữu của vạn vật. “Không có Tạo Hóa, tạo vật sẽ biến tan.”[vi]
Nơi Thánh Thể, chúng ta gặp thấy Ðấng tạo thành vạn vật (x. Ga 1:3). Ðỉnh cao trong công cuộc tạo dựng chính là sự sống con người. Bởi thế, Người đã không ngần ngại hy sinh mạng sống để dành lại tất cả cho con người. Ðến ngày tận thế, “Chúa Kitô sẽ trình lên Chúa Cha Vương quốc sự thật và sự sống, thánh thiện và ân sủng, công lý, tình yêu và hòa bình.”[vii] Nhưng làm sao có thể có một Vương quốc lý tưởng như thế, nếu Chúa không tiếp tục hiện diện và hoạt động nơi trần gian ? Ðó là lý do tại sao Người lập Bí Tích Thánh Thể. Không có Thánh Thể, Giáo Hội không thể có sức sống để hoàn thành sứ mệnh cứu độ nhân loại.
Giáo hội hiện diện trên mặt đất như một nhắc nhở con người nhớ tới trách nhiệm đối với Thiên Chúa. Lý do vì “giống Thiên Chúa tận yếu tính và sự sống, con người có liên hệ với Thiên Chúa một cách sâu xa nhất. Con người là một nhân vị được Thiên Chúa tạo dựng để sống trong tương quan với Người. Chỉ khi sống trong tương quan và hướng về Thiên Chúa, con người mới tìm thấy sự sống đích thực.”[viii] Chính trên nền tảng đó, con người mới hiểu tại sao mình có trách nhiệm với sự sống của mình và người khác. Thật vậy, “tương quan với Thiên Chúa đòi phải coi sự sống con người là thánh thiêng và bất khả xâm phạm.”[ix] Khi mất ý thức và xác tín đó, con người khinh thường và hủy diệt sự sống tha nhân và xúc phạm đến Thiên Chúa .
Ngày nay, tội ác tràn ngập trong xã hội đến mức đã ăn sâu vào truyền thống và các cơ chế. Thực tế đó là những tội xã hội. “Tội xã hội là mọi tội chống lại công lý đòi phải có trong tương quan giữa các cá nhân, giữa cá nhân với cộng đoàn, và giữa cộng đoàn với cá nhân nữa. Mọi hành động chống lại quyền con người, bắt đầu là quyền sống, gồm cả sự sống trong bào thai, chống lại sự toàn vẹn thân xác của cá nhân, hay chống lại sự tự do của tha nhân, đều được gọi là tội xã hội.”[x] Tham gia vào các tội xã hội đó có nhiều cách khác nhau và mức độ vi phạm cũng không giống nhau. Trong phạm vi gia đình, tội phá thai dẫn đầu. Ngoài xã hội, tồi tệ và quái đản nhất là tội diệt chủng và đàn áp tự do tôn giáo.
Thực ra, trong gia đình cũng như ngoài xã hội, con người đều được kêu gọi và có bổn phận phục vụ, chứ không phải hủy diệt sự sống.[xi] ÐGH Gioan Phaolô II từng nói: “Quyền sống là quyền trẻ em phát triển trong lòng mẹ từ lúc mới thụ thai; quyền sống trong một gia đình hiệp nhất và môi trường đạo đức để có thể tăng trưởng nhân cách.”[xii] Nhưng hình như cả gia đình và xã hội cấu kết với nhau để phá hủy sự sống từ trong phôi thai. Phá thai “là một tội ác khủng khiếp và đặc biệt làm xáo trộn trầm trọng trật tự luân lý. Ðó không phải là một quyền, nhưng là một hiện tượng đau buồn góp phần nghiêm trọng vào việc gieo rắc não trạng chống lại sự sống, và cho thấy một mối đe dọa nguy hiểm chống lại một cuộc sống chung của xã hội trong công bình và dân chủ.”[xiii]
Làm sao có thể chữa trị não trạng chống lại sự sống đó, nếu không nhờ tới Thánh Thể ? Quả thực,“Bí Tích Thánh Thể dạy các gia đình và thúc đẩy họ bảo vệ sự sống.”[xiv] Nếu biết quy tụ bên Thánh Thể, gia đình sẽ hăng say bảo vệ cũng như tôn trọng sự sống vì khám phá ra Thánh Thể là nguồn mạch và thành trì bảo vệ sự sống. Ðó là lý do tại sao ÐHY Alfonso López-Trujillo khẳng quyết: “Hy tế Thánh Thể là chính hành động của Đức Kitô tiêu diệt sự chết và phục hồi sự sống cho chúng ta. Mỗi khi họp nhau để tham dự Hy lễ này, chúng ta mừng sự sống chiến thắng sự chết, và như thế cũng chiến thắng phong trào phá thai. Phong trào phò sự sống không phải hoạt động cho chiến thắng mà hoạt động từ chiến thắng. Như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nói ở Denver năm 1993, “Đừng sợ. Kết quả của cuộc chiến phò sự sống đã được định đoạt.” Công việc của chúng ta là áp dụng chiến thắng đã được thiết lập vào mọi phương diện của xã hội chúng ta. Cử hành Bí Tích Thánh Thể là nguồn mạch và tột đỉnh của công việc ấy.”[xv]
Thực tế, phong trào phò sự sống gặp rất nhiều khó khăn, có lẽ vì chúng ta còn thiếu đức tin vào Bí Tích Thánh Thể, nguồn mạch sự sống ?
LÒNG MẸ HAY PHÁP TRƯỜNG ?
Không có điều gì chống lại con người cho bằng hủy diệt sự sống con người ngay từ trong lòng mẹ. Lòng mẹ trở thành pháp trường. Nhìn vào tình hình phá thai trên thế giới hôm nay, chúng ta phải bàng hoàng kinh sợ.
Trên toàn thế giới hàng năm có tới 42 triệu trẻ em bị giết trong bụng mẹ. Trung bình một ngày khoảng 115.000 vụ phá thai. Hầu hết các vụ phá thai xảy ra ở các nước nghèo (83%). Nơi các nước phát triển chỉ đạt tỷ lệ 17%. Thế nhưng riêng tại Hoa Kỳ, mỗi năm cũng có khoảng 1.370.000 vụ phá thai (1996). Từ năm 1973 đến 2002, Hoa Kỳ có 42 triệu vụ phá thai hợp pháp.
Tại Việt Nam càng ngày càng có nhiều phụ nữ tìm cách phá thai, vì phá thai được nhà nước coi như sách lược hàng đầu để kiểm soát sinh sản. Bởi thế, Giáo Hội càng phải cam go chiến đấu với não trạng chống sự sống đang thịnh hành tại Việt Nam.
Tỷ lệ phá thai tại Việt Nam cao nhất thế giới. Công khai có 83 vụ phá thai trong 1000 người mang thai. Nếu tính cả việc phá thai lén lút, con số lên tới khoảng 2 triệu trong một năm vụ phá thai, tỷ lệ 111 phần ngàn. Năm 1996 có 1.520.000 vụ phá thai.[xvi] Con số phá thai công khai có khuynh hướng tăng cao trong vòng hai thập niên qua. Tỉ lệ phá thai cao nhất từ năm 1976 và 1987, khi số phá thai công khai tăng gấp 10 lần, từ 70.281 đến 811.176 vụ (Goodkind, 1996). Theo thống kê mới nhất, có 1/3 những phụ nữ mang thai đã phá thai.[xvii]
Còn phụ nữ Việt Nam tại Hải ngoại thì sao ? Chưa có một thống kê chính xác và khoa học về vấn đề này. Nhưng “hiện nay tại Orange County, thủ phủ người Việt tỵ nạn tại Hoa Kỳ, có ít nhất 2 chương trình phá thai miễn phí được quảng cáo trên báo chí Việt ngữ. Và tính trung bình chỉ 1 trung tâm thôi con số những phụ nữ Việt Nam đến để phá thai có khoảng chừng 500 vụ mỗi tháng.”[xviii] Theo một bác sỹ sản phụ khoa hành nghề lâu năm tại Bệnh Viện Fountain Valley, nơi có nhiều sản phụ Việt Nam nhất Orange County, California, “người Việt Nam phá thai nhiều hơn đẻ.”[xix] Trước sự thật ấy, ai còn dám hãnh diện về văn hóa dân tộc nữa không ?
Ai là người chịu trách nhiệm trực tiếp trong việc sát nhân từ trong lòng mẹ, nếu không phải là chính người mẹ ? Còn đâu hình ảnh “lòng mẹ bao la như biển Thái bình”? Truyền thống đạo đức gia đình tới đâu ?
Nhìn vào số phá thai trên thế giới, có lẽ nhiều người càng bi quan hơn khi thấy 35,4% phụ nữ là Tin Lành, 31,3% là Công Giáo. Nói chung phụ nữ phá thai theo Kitô giáo chiếm gần 70%. Trong khi đó, các phụ nữ không có đạo chiếm 23,7% mà thôi.[xx] Những sự kiện đó cho thấy giáo dân còn ít dấn thân theo Chúa Kitô tới mức nào.
Tới đây, cần tìm hiểu tại sao phụ nữ phá thai. Chỉ có 1% phá thai vì bị hãm hiếp hay loạn luân, 6% vì vấn đề sức khỏe của mẹ hay con, và 93% vì những lý do xã hội (nghĩa là có con ngoài ý muốn hay không thuận tiện).[xxi] Nói chung phụ nữ đưa ra ít nhất 3 lý do phá thai: 3/4 nói có con làm cản trở công việc, học hành hay những trách nhiệm khác. Khoảng 2/3 nói không thể nuôi con. Và 1/2 nói không muốn làm mẹ neo đơn hay đang có vấn đề với chồng hoặc bạn tình.[xxii] Nói tóm, phụ nữ phá thai chỉ vì không muốn hy sinh. Tính ích kỷ đã chiếm trọn con người và ảnh hưởng tới quyết định của họ.
Phải chăng đặt vấn đề như thế đã lỗi thời ? Ðây là câu trả lời của ÐGH Bênêđictô XVI: “Trên phương diện luân lý, đánh giá của Giáo Hội về vấn đề ly dị và phá thai là phân minh và thấu đáo: đó là tội nặng, vi phạm phẩm giá con người, kéo theo sự bất công sâu sắc trong quan hệ con người và xã hội, xúc phạm đến Thiên Chúa, Ðấng đảm bảo cho kết ước vợ chồng và Đấng tác thành sự sống.”[xxiii] Nếu ý thức được việc phá thai nặng nề và nguy hại như thế, chắc chắn sẽ không còn ai dám phá thai nữa. Khốn nỗi dù biết là tội nặng, nhiều Kitô hữu vẫn phá thai, bất chấp tiếng nói lương tâm. Chắc chắn chẳng phụ nữ nào vui sướng phải đi đến quyết định phá thai. Thật vậy, theo ÐGH, “ly dị và phá thai là những chọn lựa (…) trong những tình thế khó khăn và nguy kịch. Ðó là nguồn mạch sinh ra đau đớn sâu thẳm nơi những người phải đưa ra quyết định đó. Nó tác động đến những nạn nhân vô tội: đứa trẻ bị giết trong lòng mẹ khi chúng chưa chào đời, trẻ em bị ảnh hưởng bởi ly dị.”[xxiv]
Trước tình hình phá thai trên thế giới, Giáo Hội có thể làm được gì để chữa những vết thương trong tâm hồn phụ nữ và cứu những trẻ em vô tội ? ÐGH cam đoan:“Giáo Hội có bổn phận gần gũi, yêu thương và khéo léo đối với những người như vậy.”[xxv] Giáo Hội đây là ai, nếu không phải là các Kitô hữu ? Bởi vậy, tình trạng phá thai cũng nhắc Kitô hữu ý thức trách nhiệm dấn thân vào phong trào phò sự sống của Giáo Hội.
Hiện nay, có thể tìm thấy một mẫu dấn thân như thế nơi anh Tống Phước Phúc, một nhà thầu Công giáo sống ở Nha Trang. Ngày 13.07.2004, anh thuyết phục một cô gái từ bỏ ý định phá thai chỉ vì cô muốn giữ thể diện gia đình. Thế là anh đã cứu được một mạng người. Trong mấy năm trời, tổng cộng anh đã cứu sống 60 trẻ em thoát cảnh phá thai. Mặc dù găp nhiều khó khăn cả vật chất lẫn tinh thần, anh vẫn luôn phó thác mọi sự trong tay Chúa quan phòng. Hàng ngày anh đi lễ tại nhà thờ chánh tòa Nha Trang lúc 5:00 sáng.[xxvi] Thánh Thể trở thành sức mạnh cho anh vượt qua tất cả trở ngại. Sở dĩ trở thành anh hùng cứu sống nhiều sinh mạng trẻ thơ, vì anh đã tìm được nguồn mạch tình yêu nơi Chúa Giêsu Thánh Thể.
Khi chú giải Kinh thánh về Bí tích Thánh thể, tác giả Hurault viết: “Lịch sử không thể dừng lại. Không phải chỉ có tiến bộ kỹ thuật đẩy ta về phía trước, mà thật ra là những đòi hỏi công lý – phát sinh từ cái chết của một người vô tội (và Thiên Chúa là Ðấng Vô Tội) – không ngừng bắt ta phải xét lại trật tự hiện hành. Cái chết của Chúa Kitô không cho phép chúng ta được yên ổn, không được nghỉ ngơi.”[xxvii] Trong Thánh Lễ hàng ngày, Chúa Giêsu vẫn hy sinh để đẩy mạnh công cuộc tạo dựng nền văn hóa sự sống cho nhân loại.
Tóm lại, Thánh Thể đã đem lại sức sống cho nhân loại. Càng kết hiệp với Chúa Giêsu Thánh Thể, tâm hồn càng tràn đầy nhựa sống và niềm hy vọng. Hơn khi nào, gia đình cần phải đến với Thánh Thể để học hỏi cách sống hạnh phúc và bảo vệ sự sống cho mình và tha nhân.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin cho chúng con luôn kết hiệp mật thiết với Chúa để chúng con có đủ sức mạnh chống lại nền văn hóa sự chết và làm cho nhân loại phục sinh trong tình yêu Chúa. Amen.
đỗ lực 25.05.2008
[i] http://www.zenit.org/article-22571?l=english
[ii] http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/homilies/2006/documents/hf_ben-xvi_hom_20060615_corpus-christi_en.html
[iii] Trích từ một lời nguyện.
[iv] http://www.conggiaovietnam.net/tacgia/PhamXuanKhoi/bitichthanhthevaviec....htm
[v] Toát Yếu Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội, 46.
[vi] Vatican II, Hiến Chế Gaudium et Spes, 36: AAS 58 (1966), 1054.
[vii] Toát Yếu Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội, 57.
[viii] ibid., 109.
[ix] Giáo Lý Công Giáo, 2258.
[x] Toát Yếu Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội, 118.
[xi] x. Vatican II, Gaudium et Spes, 50-51: AAS 58 (1966), 1070-1072.
[xii] Toát Yếu Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội, 155.
[xiii] ibid., 233.
[xiv] http://www.conggiaovietnam.net/tacgia/PhamXuanKhoi/bitichthanhthevaviec....htm
[xv] ibid.
[xvi] http://www.guttmacher.org/pubs/journals/25s3099.html
[xvii] http://www.who.int/reproductive-health/publications/ HRP_ITT_99_2/HRP_ITT_99_2_1.en.html
[xviii] http://www.honnho.org/HNTuTuongHocHoi/35namnhinlai(Duyet).htm
[xix] ibid.
[xx] http://www.abortionno.org/Resources/fastfacts.html
[xxi] ibid.
[xxii] http://erlc.com/article/abortion-statistics
[xxiii] La Croix 05/04/08. Trích lại từ VietCatholic News (Thứ Bảy 05/04/2008 10:20)
[xxiv] Ibid.
[xxv] Ibid.
[xxvi] http://www.vietcatholic.net/News/Clients/ReadArticle.aspx?Id=55068
[xxvii] Nhóm Phiên Dịch CÁC GIỜ KINH PHỤNG VỤ, Kinh Thánh Tân Ước: Lời Chúa Cho Mọi Người 2005: 745
Để được nuôi dưỡng bởi sức sống thần linh
Ga 6: 51-58
Lm. Jude Siciliano, OP (Anh Em Nhà Học Đaminh chuyển ngữ)
Thưa quý vị,
Quý vị có biết có một số người luyện trí nhớ của mình tốt đến nỗi có thể nhớ được một sấp bài đã bị xáo lên? Tôi đã từng chứng kiến các thành viên trong gia đình tôi chơi bài pinốc vào mỗi tối Chúa Nhật. Dù đó không phải là những người luyện khả năng trí nhớ một cách tài tình nhưng người giỏi nhất trong số đó vẫn nhớ được có bao nhiêu con bài đã đánh ra và thậm chí là những con nào! Nếu như nhớ sai, họ có thể thua ván bài đó và khiến ông cậu, một trong những người chơi cùng, phát cáu lên. Hầu hết chúng ta có trí nhớ bình thường và có thể sai lầm, tôi cho là vậy. Có ai chưa từng quên chìa khóa xe? Thế nhưng rốt cuộc thì ngày hôm sau chúng ta lại tìm thấy nó nằm ngay trong túi áo khoác mình mặc.
Trong bài đọc trích sách Đệ nhị luật hôm nay, Môisê nói với dân Israel khi họ tới gần Đất Hứa sau 40 năm dài lang thang vất vả. Ông gợi lại những ký ức của họ, nhắc lại cho họ nhớ Thiên Chúa đã quan tâm săn sóc họ như thế nào trong suốt hành trình của họ. “Hãy nhớ”, ông nhắc họ “hãy nhớ lại Thiên Chúa của anh em”. Ông không yêu cầu họ nhớ lại những niệm thương nhớ hay chung chung trừu tượng. Ông kêu gọi họ nhớ lại những hành động cụ thể Thiên Chúa đã vì họ mà thực hiện. Ông kể ra những việc cụ thể mà Thiên Chúa thực hiện cho họ và nhắc họ nhớ rằng Thiên Chúa nuôi sống họ trong hành trình sa mạc bằng cách ban cho họ manna.
Đâu là điều tốt đẹp mà dân nhớ? Môisê không kêu gọi họ vẽ các bức tranh hay xây dựng lại những thánh tích để mô tả lại nbao năm lưu lạc của họ. Ông muốn họ nhớ lại lòng trung tín của Thiên Chúa trong quá khứ, để rồi họ có thể trung tín với Thiên Chúa sau khi họ bước vào trong Đất Hứa. Chẳng phải những khi gặp khó khăn là lúc chúng ta ý thức hơn về sự phó thác của chúng ta đối với Thiên Chúa đó sao? Chẳng phải chúng ta cầu nguyện nhiều hơn mỗi khi sự việc trở nên khó khăn? Một khi họ định cư trong Đất Hứa, Môisê khuyên dân hãy trung tín với Đức Chúa. Họ không được quên Đức Chúa đã chăm sóc họ ra sao và thiết lập giao ước với họ thế nào. Trong vùng đất mà họ sắp vào, họ phải nhớ rằng họ lệ thuộc vào Đức Chúa và sống theo luật Người. Thật đáng phải có một trí nhớ như thế, nhưng không phải chỉ để chơi đánh bài cho vui.
Việc liên hệ đến manna trong bài đọc một nối chúng ta với bài Tin mừng hôm nay. Những người nghe Đức Giêsu ngay từ đầu đã phản đối kiểu ám chỉ đến việc ăn thịt của Ngài – quý vị cũng chẳng như thế sao? (Thực ra, Ngài nói đến việc ăn thịt của Ngài đến 4 lần!) “Thịt và máu” đó là cách mà người mẹ ám chỉ đến những đứa con của mình. “Chúng là máu thịt của tôi”. Cũng thế, thời Đức Giêsu, đó là cách ám chỉ việc là một con người. Đức Giêsu là cửa ngõ Thiên Chúa bước vào cuộc đời chúng ta như một con người – bằng xương bằng thịt. Những người đang lắng nghe Đức Giêsu không chỉ khó chịu về việc ăn thịt và uống máu của Ngài nhưng họ còn khó khăn trong việc chấp nhận Đức Giêsu là Thiên Chúa làm người.
Thánh Phaolô thì nói với cộng đoàn đang đổ vỡ ở Côrintô. Họ có thể đang có những cử hành phụng đẹp, nhưng lại không sống như thân thể của Đức Kitô. Người giàu có không chia sẻ với người nghèo, và những người yếu đuối không được giúp đỡ. Thánh Phaolô đã thách thức họ trở thành thức ăn họ đang dùng – Thân Mình Đức Kitô. Đó là một thách thức liên lỉ mà chúng ta cần phải nghe: cộng đoàn tín hữu chúng ta đây có phải là dấu chỉ tỏ tường cho thấy chúng ta là Mình và Máu Đức Kitô hay không? Đâu là đấu hiệu chứng tỏ cho người khác thấy chúng ta như thế?
Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta không chỉ bản thân mình trở thánh Đức Kitô mà chúng ta ăn vào, nhưng cả cộng đoàn của chúng ta cũng phải trở nên Thân Mình Đức Kitô. “Tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể”. Bằng cách cùng chung chia của ăn và của uống này, chúng ta thông dự với người khác chặt chẽ hơn thành một Thân mình Đức Kitô.
Thời Trung Cổ, người ta đi từ nhà thờ này đến nhà thờ khác trong dịp lễ này để nhìn vào bánh thánh, hy vọng sẽ được nhận lời cầu. Đó là thời mà họ thường chiêm ngưỡng Thân Mình Đức Kitô hơn là rước lấy. Đại lễ này không phải là một dịp thụ động, một dịp để kính cẩn chiêm ngắm Thánh Thể mà tỏ lòng tôn kính của cá nhân hay cộng đoàn đối với Chúa. Đại lễ chúng ta mừng hôm nay không phải là một lời mời gọi để chỉ nhìn ngắm, nhưng là đón nhận Mình và Máu Đức Kitô để rồi được nuôi dưỡng bởi đời sống thần linh mà chúng ta nhận lãnh được, là Mình và Máu của Đức Kitô cho thế giới.
Nếu lãnh nhận Mình và Máu của Đức Kitô hôm nay, chúng ta có thể tự hỏi mình vài điều. Chẳng hạn như: chúng ta đã làm thế nào để phản chiếu cho thế giới này hình ảnh của Thái Tử Hòa Bình mà chúng ta đón nhận? Chúng ta trở nên giống Đức Kitô ra sao khi cho người đói ăn và chữa lành kẻ bệnh tật. Khi lãnh nhận Mình và Máu của Đức Kitô chúng ta trở nên những gì chúng ta ăn và phải hành động tương ứng như thế.
Hôm nay, khi chúng ta lên hiệp lễ, thừa tác viên Thánh Thể cầm Bánh Thánh, giơ lên trước mặt chúng ta và nói: “Mình Thánh Chúa Kitô; Máu Thánh Chúa Kitô”. Các vị không kêu tên những gì họ đang phân phát cho chúng ta ăn mà còn gọi tên mỗi người chúng ta nữa, vì chúng ta là “Mình Đức Kitô và Máu Đức Kitô”. Nói cách khác, sự hiện diện thực sự thì không chỉ tìm thấy trong giáo hội nhưng nơi mỗi những Kitô hữu đã được rửa tội, được nuôi dưỡng bằng Thánh Thể và trở nên sự hiện hữu thực sự của Đức Kitô trong thế giới này.
Thế giới hiện đại đáng buồn làm cho người ta có quá ít thời gian để bạn bè hay gia đình có thể tụ tập quanh bàn để dùng bữa cùng nhau. Trừ khi chúng ta rất yếu, hay thương tật thì mới có cơ may ngồi ăn chung với nhau như một phương pháp chữa trị. Thường chúng ta bỏ qua một bên những khác biệt nhỏ nhặt với những người ngồi quanh bàn và có thể cảm nghiệm sự chữa lành và trưởng thành trong các mối tương quan. Nếu ở mức độ nhân loại mà còn thế, thì áp dụng vào cộng đoàn đức tin của chúng ta, cộng đoàn quy tụ quanh bàn tiệc Thánh Thể để lắng nghe Sách Thánh, nghe câu chuyện về gia đình chúng ta và cùng bẻ bánh, chia sẻ một chén, sẽ hữu hiệu hơn biết bao nhiêu?