Các bài suy niệm LỄ CHÚA GIÁNG SINH - Năm B
Lời Chúa:
* Lễ Đêm: Is 9,1-6; Tt 2,11-14; Lc 2,1-14
* Lễ Rạng Đông: Is 62, 11-12; Tt 3,4-7; Lc 2,15-20
* Lễ Ban Ngày: Is 52, 7-10; Dt 1, 1-6; Ga 1,1-18
Tài liệu về Lời Chúa
***********************************************
Cách đây hơn 20 thế kỷ, một biến cố đã xảy ra và đã làm cho cuộc sống của nhân loại được phong phú. Đúng thế. Vào một đêm đông, một hài nhi nhỏ bé đã được sinh ra trong tăm tối. Nhưng rồi ba mươi năm sau, người ta lại thấy Ngài xuất hiện đi trên các nẻo đường như một ánh lửa khác thường của nhân loại. Ngài đã mời gọi thay đổi cả thế giới. Ngài đã lật đổ mọi thứ nặng nề trì trệ của cơ chế cũng như của tôn giáo.
Đối với Ngài, không có những bức hàng rào ngăn cách những gia đình, dòng tộc, phe nhóm và quốc gia. Ngài khơi dậy nơi mọi người sự ân cần của tình thương. Ngài đã nói năng thân mật với Thiên Chúa cao cả như một người con. Nơi nào Ngài đến, thì hệ thống đẳng cấp bị sụp đổ. Người nghèo được vui mừng. Người bệnh tật và bất hạnh thấy được bảo đảm. Người cuối hết trở thành kẻ thứ nhất. Ngài đã tái sinh ông nhà giàu dính cứng trong tiền bạc bất chính, người đàn bà hư hỏng, nhà thông luật nặng hình thức và thậm chí cả viên sĩ quan của nhà vua. Một sự sống chưa từng có đã bừng lên nơi những con người này, để nhờ đó, biến đổi cả cuộc sống xã hội và xây dựng một thế giới mới đầy tình thương.
Và như chúng ta đã biết: Ngọn lửa nhân bản và yêu thương ấy đã chỉ có một thời. Những kẻ quyền hành của thế giới cũ đã liên minh chống lại Ngài. Hài nhi sinh ra trong hang đá Bêlem năm nào đã bị đóng đinh trên thập giá. Ngài đã chết sau ba giờ hấp hối, vì đã muốn biến đổi thế giới, vì đã muốn khai sinh một nhân loại mới. Dọc theo các thế kỷ, từ đó cho đến nay, nhiều người đã quên mất Ngài, thậm chí trong số đó có cả những người mang danh hiệu Kitô hữu.
Thế nhưng, tinh thần của Đức Kitô không ngừng lây lan trong tâm hồn chúng ta, hay như một người Hồi giáo đã nói: Con người mang một cái bệnh gọi là bệnh Giêsu, thì không bao giờ có thể lành được. Ngày nay cũng vậy, Ngài có những người bạn nhiệt tình của mình. Tôi nghĩ đến những người trong đêm giáng sinh thay vì đi dự một tiệc rượu, đã tới thăm viếng những người đau yếu, nghèo túng và chia sẻ với họ một phần quà nho nhỏ. Tôi nghĩ đến những ông bác sĩ sau khi tốt nghiệp, thay vì mở phòng mạch tại thành phố, thì đã đi phục vụ không công tại những nơi xa xôi heo lánh. Tôi nghĩ đến những người dâng hiến cả cuộc đời cho những kẻ phong cùi cay cực. Thay vì lãng quên hay chạy trốn, họ đã tiến lại gần và tự hiến. Họ đã là những phản ánh trong sáng nhất cho tình thương của Ngài.
Thế nhưng tới đây thì một câu hỏi được đặt ra: Vậy thì Thiên Chúa ở đâu cho chúng ta tìm kiếm, hay Ngài chỉ còn là một kỷ niệm xa xưa? Cựu Ước kể lại rằng, đang khi Đavit dự tính xây cất một đền thờ cho Thiên Chúa, thì Ngài đã viếng thăm tiên tri Nathan và nói với ông: Ta chẳng bao giờ ở trong nhà kể từ ngày Ta đem con cái Israel ra khỏi Ai Cập. Chính ta sẽ xây cho Đavit một ngôi nhà. Nhà của Đavit và vương quốc của Đavit hằng tồn tại trước mặt Ta.
Như thế chúng ta thấy Thiên Chúa không phải chỉ ở trong các đền thờ mà còn ở trong chính con người. Hay như thánh Gioan đã viết: Thiên Chúa đã làm người và ở giữa chúng ta. Vậy thì Ngài đã thực sự hiện diện nơi bản thân chúng ta hay chưa, và hơn thế nữa chúng ta đã thực sự tìm gặp được Ngài nơi những người chung quanh, nhất là nơi những người anh em bệnh tật, đau khổ và nghèo túng hay chưa?
Ngôi Lời là ánh sáng thật
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Máng cỏ luôn làm cho chúng ta rúng động, vì đứng trước máng cỏ là đối diện với một Tình Yêu, một Tình Yêu mở ra bao la bát ngát. Cha đã mở ra bằng cách sai Con xuống thế làm người. Con đã mở ra bằng cách vâng phục ý Cha. Thánh Thần đã mở ra bằng cách tác động nơi lòng Đức Trinh Nữ.
Máng cỏ giúp ta gặp được Tình Yêu của Ba Ngôi, Tình Yêu không lùi bước trước sự khép kín của nhân loại.
Đến Bêlem, chúng ta bắt gặp một Tình Yêu khiêm tốn. Thiên Chúa đã cúi xuống để tặng trao cho con người. Con Thiên Chúa làm người sinh nơi hang súc vật, không một chút hào quang: Ngài sinh ra trong đêm tối; không một chút quyền lực: Ngài là trẻ thơ khóc oe oe. Đấng siêu việt nay chịu giới hạn bởi thời gian. Đấng Tuyệt Đối lại mang một thân xác hữu hạn.
Tình Yêu khiêm tốn không làm chúng ta bị choáng ngợp. không ban bố một cách cha chú, nhưng biết gõ cửa và chờ đợi.
Thiên Chúa giàu sang đã trở nên nghèo để chúng ta được trở nên giàu có (2Cr 8,9).
Hơn hai ngàn năm đã trôi qua kể từ khi Ngôi Lời đặt chân trên trái đất. Ngài đã thắp lên ánh sáng trong bóng đêm. Ngài chính là Ánh Sáng chiếu soi mọi người (Ga 1,9). Tiếc thay nhiều người đã chọn bóng tối, vì bóng tối dễ chịu hơn, đồng lõa hơn (Ga 3,19). Bóng tối ở ngoài tôi và bóng tối ở trong tôi.
Ngôi Lời đã đến nhà của Ngài, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận (Ga 1,11).
Đức Giêsu còn phải nhập thể cho đến tận thế.
Truyền giáo là làm cho Ngài được sinh ra ở đây, hôm nay, trong dòng văn hoá truyền thống của dân tộc, trong những biến chuyển của đất nước thời mở cửa, trong thế giới đã bước qua năm 2000.
Sống mầu nhiệm Nhập Thể là trở nên một Maria khác, đón nhận Đức Giêsu vào đời mình, cưu mang Ngài, và sinh Ngài cho thế giới.
Cuộc sinh hạ nào cũng bắt trắc và đau đớn. Xin thắp lên một ngọn nến từ Ánh Sáng của Ngôi Lời. Xin gom lại trăm triệu ngọn nến để đẩy lui bóng tối trên mặt đất.
Gợi Ý Chia Sẻ
Ngôi Lời đã làm người và đã sống ở đời. Mầu nhiệm Nhập Thể có làm bạn yêu đời và yêu phận người của bạn hơn không?
Làm sao để Chúa Giêsu được sinh ra trong môi trường bạn đang sống?
Cầu Nguyện
Giữa giá rét của mùa đông, xin cho con gặp Chúa.
Giữa những long đong và bấp bênh của phận người, xin cho con gần Chúa.
Giữa cảnh nghèo khó và trơ trụi, xin cho con thấy Chúa đi với con và hiểu con.
Lạy Chúa Giêsu bé thơ nằm trong máng cỏ, xin cho con cảm được sự bình an của Chúa, ngay giữa những âu lo hàng ngày.
Xin cho con đón lấy cuộc đời con với bao điều không như ý.
Và cuối cùng, xin cho con dám sống như Chúa vì Chúa đã dám sống như con.
Lc 2,1-14
Đêm nay, tại các nhà thờ trên khắp thế giới vang lên lời ca của các thiên thần trong đêm Giáng Sinh năm xưa:
“Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
Bình an dưới thế cho người Chúa thương”
Lời hát của các thiên thần chính là sứ điệp của Chúa từ trời cao gửi xuống. Lời hát này nối kết đất với trời. Lời hát này ràng buộc Thiên Chúa với con người.
Tại sao “Vinh danh Thiên Chúa trên trời” phải đi liền với “Bình an dưới thế cho người Chúa thương”? Thưa vì Thiên Chúa yêu thương con người. Thiên Chúa tự ràng buộc mình với con người.
Vì yêu thương nhân loại, Con Thiên Chúa đã xuống thế làm người. Vì yêu thương nhân loại, Ngài tự nguyện trở nên một trẻ thơ yếu ớt. Vì yêu thương nhân loại, Ngài tự nguyện làm con của loài người, sinh ra bởi một người phụ nữ. Vì yêu thương nhân loại, Ngài đã muốn trở nên một thành viên trong gia đình nhân loại, có một gia đình như những người khác.
Thiên Chúa đã tự nguyện làm một người như chúng ta, Thiên Chúa tự đồng hóa với con người đến nỗi từ nay ai khinh miệt một con người là khinh miệt chính Chúa, ai bạc đãi một con người là bạc đãi chính Chúa, ai hà hiếp một con người là hà hiếp chính Chúa. Ai xúc phạm đến con người là xúc phạm đến Chúa.
Hang đá Bêlem là một lời mời gọi tha thiết và cấp thiết cho tương lai nhân loại. Thiên Chúa hóa thân làm một trẻ sơ sinh để mời gọi ta hãy biết tôn trọng sự sống. Thiên Chúa sinh ra làm một trẻ thơ yếu ớt để mời gọi ta hãy biết yêu thương những người bé nhỏ, yếu hèn. Thiên Chúa sinh ra trong cảnh nghèo nàn để mời gọi ta hãy biết nâng đỡ những người nghèo khổ. Thiên Chúa sinh làm con Đức Mẹ Maria để mời gọi ta hãy biết kính trọng phụ nữ. Thiên Chúa sinh ra trong một gia đình để mời gọi ta hãy biết bảo vệ những truyền thống tốt đẹp đem lại hạnh phúc cho gia đình.
Lời mời gọi này có tính chất quyết định không những cho hạnh phúc chóng qua mà còn cho hạnh phúc vĩnh cửu của con người.
Vì ai tôn trọng con người là tôn trọng chính Chúa. Ai phục vụ con người là phục vụ chính Chúa. Như lời Chúa dạy: mỗi lần ta cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới ăn mặc, viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc, là ta làm cho chính Chúa (x. Mt 25).
Như thế, lễ Chúa Giáng Sinh là lễ của phẩm giá con người. Chúa xuống trần để nâng cao phẩm giá con người. Chúa làm người để con người được kính trọng. Con người cao quý vì đã được nâng lên làm con Thiên Chúa.
Như thế, lễ Giáng Sinh là lễ của niềm vui. Vui vì con người được Thiên Chúa yêu thương. Vui vì con người được nâng lên địa vị cao trọng. Hôm nay khi đọc Kinh Tin Kính đến câu: “Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế”, ta hãy quỳ gối trước tình yêu thương cao cả của Chúa dành cho ta. Quỳ gối để suy niệm sự cao cả của con người vì được Chúa yêu thương.
Vì thế, để mừng lễ Chúa Giáng Sinh cho đúng ý nghĩa, tôn thờ Thiên Chúa vẫn chưa đủ, ta còn phải yêu thương kính trọng con người. Dịp lễ Giáng Sinh, chỉ đến viếng hang đá thôi chưa đủ, ta còn phải đến viếng những nhà tranh vách đất, giúp dựng lại những túp lều xiêu vẹo. Chỉ đến viếng Chúa Giêsu bé thơ thôi chưa đủ. Ta còn phải đến viếng những trẻ em bị bỏ rơi, vực dậy những tuổi thơ bất hạnh. Chỉ cảm thương Thánh Gia trong hang đá nghèo nàn thôi chưa đủ. Ta còn phải cảm thương những anh chị em nghèo khổ, thiếu may mắn ở quanh ta.
Chỉ khi nào tất cả mọi người được yêu thương, ta mới có thể mừng lễ Giáng Sinh thật sự vui tươi. Chỉ khi nào tất cả mọi người bé nhỏ, yếu ớt, nghèo hèn được kính trọng, ta mới có thể hát vang lời ca:
“Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
Bình an dưới thế cho người Chúa thương”
Trong tâm tình yêu mến và kính trọng, tôi xin gửi tới tất cả anh chị em lời cầu chúc đầy bình an và ân sủng của Chúa Hài Nhi Giáng Sinh. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho người Chúa thương. Khi hát câu này bạn có ý thức mối liên hệ chặt chẽ giữa Thiên Chúa với con người không?
2) Tại sao Chúa Giêsu đòi buộc ta phải yêu mến con người nếu ta thực sự yêu mến Chúa?
3) Lễ Giáng Sinh này, bạn sẽ làm việc cụ thể nào để thực sự mừng đón Chúa đến?
Ga 1,1-18
Thánh Gioan Tông Đồ định nghĩa: “Thiên Chúa là tình yêu”. Thiên Chúa đã bày tỏ tình yêu của Ngài bằng nhiều cách dưới nhiều hình thức khác nhau. Nhưng Thiên Chúa với hình ảnh ta khó thấy được và nhiều khi không nhận ra những công trình tình yêu của Ngài. Yêu nhiều rồi cũng có lúc phải nói ra. Thiên Chúa quá yêu thương con người nên sau cùng đã gửi Con Một của Ngài xuống trần để tỏ cho ta biết tình yêu Thiên Chúa. Con Một Thiên Chúa chính là Lời của Chúa ngỏ với nhân loại. Vì thế ta hãy vào hang đá Bêlem để lắng nghe được Lời Chúa nói với ta. Chúa Giêsu bé thơ không nói bằng âm thanh vật lý, nhưng Ngài nói bằng âm thanh của trái tim. Lời của Ngài là lời của tình yêu. Qua bản thân Ngài, qua ánh mắt Ngài, qua khung cảnh hang đá, ta sẽ nghe được tiếng thì thầm của Thiên Chúa. Tiếng thì thầm đó là tiếng nói của tình yêu dưới nhiều sắc mầu khác nhau.
Đó là tiếng nói của tình yêu dâng hiến. Bêlem theo tiếng Do Thái có nghĩa là nhà bánh. Chúa Giêsu tự nguyện trở thành tấm bánh nuôi dưỡng chúng ta. Ngài nằm trong máng cỏ như một lương thực mời gọi đoàn chiên đến để được bổ dưỡng. Lương thực đó không phải là lương thực vật chất nuôi xác, nhưng là lương thực thiêng liêng nuôi dưỡng tâm hồn. Ngày nay, tuy nạn đói cơm bánh đã bớt phần gay gắt, nhưng lại xuất hiện những cơn đói mới: đói văn hóa, đói sự an ủi chia sẻ, và nhất là đói khát đời sống thiêng liêng. Chúa Giêsu chính là tấm bánh bẻ ra cho thế giới mới, đáp ứng những cơn đói mới của thế giới.
Đó là tiếng nói của tình yêu khiêm nhường. Tình yêu chân thực là tình yêu khiêm nhường. Tình yêu hạ mình vì người yêu. Chúa Giêsu đã hạ mình thẳm sâu. Từ trời xuống đất. Từ địa vị Thiên Chúa xuống địa vị làm người. Khiêm nhường nên nhường hết không gian cho con người. Những không gian rộng lớn, cao sang thuộc về con người. Chúa chỉ thu mình trong một góc nhỏ nghèo hèn của chuồng bò. Nhường không gian cho con người ăn nói. Còn Chúa chịu im lặng, thu nhỏ trong câm nín.
Đó là tiếng nói của tình yêu đi tìm. Tình yêu của Thiên Chúa luôn đi những bước trước. Yêu con người khi con người chưa biết yêu Chúa. Tha thứ cho con người trước khi con người xin lỗi. Đi tìm con người trước khi con người quay về. Cuộc đi tìm thật vất vả. Chúa phải bỏ trời cao, phải mặc thân phận yếu hèn, phải chịu khổ sở, phải chịu nhục nhã, phải chịu chết mới tìm được con người.
Đó là tiếng nói của tình yêu hy sinh. Vì yêu nên Chúa chấp nhận hết những thiệt thòi về phần mình. Chịu đói nghèo, chịu bị xua đuổi, chịu khổ nhục. Trẻ thơ Giêsu rét mướt nằm trong máng cỏ nói với ta điều gì nếu không phải là tình yêu, yêu đến độ chấp nhận tất cả.
Đó là tiếng nói của tình yêu kết hợp. Cứ dấu này các ngươi nhận biết Ngài, đó là một em bé sơ sinh nằm trong máng cỏ. Vâng, kỳ diệu thay tình yêu Thiên Chúa. Vì yêu nên đã kết hợp trọn vẹn với con người. Trở nên một với con người. Chấp nhận hết những gì của con người. Chấp nhận đói khát, khổ sở, nghèo nàn. Chấp nhận cả những bấp bênh, bất trắc của kiếp người.
Lời Thiên Chúa đang ngỏ với ta qua Hài Nhi nằm trong máng cỏ. Hãy đến bên hang đá để nghe được tiếng nói của Thiên Chúa. Hãy mở rộng trái tim để đón nhận được tình yêu của Thiên Chúa. Trong bóng tối hận thù, ích kỷ, ghen ghét của thế giới, tình yêu Chúa là ánh sáng xé tan đêm tối. Hãy để ánh sáng tình yêu Chúa soi chiếu tâm hồn ta. Hãy đón nhận ánh sáng tình yêu của Chúa, để đến lượt chúng ta, chúng ta đem ánh sáng tình yêu của Chúa chiếu soi vào môi trường chung quanh ta. Để cho thế giới bớt tối tăm. Bấy giờ Lời của Chúa, Lời tình yêu sẽ vang dội khắp thế giới.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Bạn nghe thấy gì qua tiếng nói thinh lặng của Hài Nhi Giêsu trong máng cỏ?
2) Yêu thương, ngỏ lời mà không được lắng nghe và đáp lại. Bạn cảm thấy thế nào nếu rơi vào tình trạng đó? Bạn có hiểu được lòng Thiên Chúa khi ngỏ lời yêu thương với bạn không?
3) Còn nhiều người chưa nghe được lời yêu thương của Chúa. Bạn có sẵn sàng làm sứ giả đem lời tình yêu của Chúa đến với họ không?
4) Để làm sứ giả tình thương, bạn cần những đức tính nào?
ĐÊM ÁNH SÁNG
Đêm Giáng sinh chìm trong lớp lớp bóng tối dày đặc.
Bóng tối tự nhiên của một đêm mùa đông ảm đạm. Bóng tối cay đắng của đêm dài nô lệ khi đất nước chìm trong ách thống trị ngoại bang. Bóng tối âm thầm nhẫn nhục của những kiếp người nghèo hèn lam lũ. Bóng tối âm u trong túp lều lúc nhúc súc vật hôi tanh. Bóng tối u mê của tội lỗi nhơ nhớp.
Giữa màn đêm dày đặc, Hài nhi Giêsu xuất hiện như một làn ánh sáng rực rỡ.
Đó là ánh sáng tình yêu.
Tình yêu vốn là một ngọn lửa vừa chiếu sáng vừa sưởi ấm. Hài nhi Giêsu là kết tinh tình yêu của Thiên chúa dành cho nhân loại. Tình yêu đã đi đến tận cùng vì đã trao ban cho nhân loại món quà cao quí nhất không gì có thể so sánh được. Trao ban Đức Giêsu là cho tất cả, không còn có thể cho thêm gì nữa. Đức Giêsu là hiện thân của tình yêu Thiên chúa đi tìm con người. Thiên chúa đã hạ mình thẳm sâu để xuống gặp con người. Thiên chúa đã tìm thấy con người trong những khốn cùng tột độ của nó. Thật lạ lùng, Thiên chúa quá yêu thương đến độ kết hợp với sự khốn cùng của nhân loại. Thiên chúa đã cưới lấy bản tính nhân loại. Bóng đêm nhân loại nhận được ánh sáng của Thiên chúa. Bóng đêm khổ đau nhận được ánh sáng yêu thương. Anh sáng Thiên chúa soi sáng kiếp người tăm tối. Ánh sáng Thiên chúa sưởi ấm cho nhân loại lạnh lẽo.
Đó là ánh sáng niềm tin.
Anh sáng Giáng sinh chiếu toả trên những tâm hồn thiện chí. Đêm nhân gian vẫn còn mê đắm. Nhưng vẫn có những tâm hồn thiện chí tỉnh thức. Đó là những tâm hồn bé nhỏ nghèo hèn. Đó là những cuộc đời khiêm tốn sống âm thầm trong bóng tối. Đó là những người nghèo của Thiên chúa. Đó là thánh Giuse, Đức Maria. Đó là Ba Vua. Đó là các mục đồng. Khiêm nhường nên các ngài sẵn sàng đón nhận thánh ý Thiên chúa. Tỉnh thức nên các ngài nhạy bén đón nhận những dấu chỉ Thiên chúa gửi đến. Thiện chí nên các ngài hăng hái lên đường ngay khi nhận được tín hiệu. Đơn sơ nên các ngài nhận được ánh sáng. Hê rô đê và Giê ru sa lem chìm trong mê đắm nên ngôi sao đã tắt. Trái lại "vinh quang của Chúa chiếu toả chung quanh các mục đồng". Và ngôi sao xuất hiện dẫn đường cho Ba Vua. Anh sáng đã bao phủ các ngài. Anh sáng đã dẫn đưa các ngài đến bên máng cỏ. Anh sáng đã khiến các ngài nhìn thấy "một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ" và các ngài đã tin.
Đó là ánh sáng hi vọng.
Hài nhi Giêsu là hạt giống bé bỏng Thiên Chúa gieo vào thế giới. Những tâm hồn thiện chí là mảnh đất phì nhiêu. Những người nghèo của Thiên chúa âm thầm kiên trì chờ đợi. Những tâm hồn thiện chí như Ba Vua ngước mắt lên trời tìm kiếm. Niềm khao khát đã được đáp ứng. Đã đến mùa Thiên chúa gieo hạt. Hạt mầm thần linh gieo vào xác phàm sẽ thần hoá cả nhân loại. Hạt giống Giêsu sẽ triển nở thành cây cao bóng cả cho muôn loài trú ngụ. Mặt trời bé nhỏ Giêsu sẽ trở thành mặt trời chính ngọ soi chiếu đêm tối nhân gian. Anh bình minh Giêsu hứa hẹn một ngày mới chan hoà ánh sáng. Với Hài nhi Giêsu, một thời đại mới khởi đầu: những người bé nhỏ được nâng lên, những người nghèo hèn được kính trọng. Giê su chính là hạt mầm hi vọng Thiên chúa gieo vào thế giới.
Đó là ánh sáng Tin mừng.
Được thắp lửa, những tâm hồn thiện chí trở thành những ngọn đuốc, không chỉ sáng lên niềm vui, niềm tin, niềm hi vọng, mà còn chia sẻ ánh sáng với những người chung quanh. "Họ kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này". Tin mừng được loan đi. Niềm vui lan tới mọi tâm hồn. Anh sáng bừng lên phá tan đêm tối.
Hài nhi Giêsu như mầm cây vừa nhú. Mầm cây cần bàn tay ân cần chăm bón để vươn thành cổ thụ cành lá xum xuê. Hài nhi Giêsu như ngọn nến đem ánh sáng vào đêm tối. Ngọn nến cần được nhiều bàn tay liên đới chuyền nhau cho ánh sáng lan rộng.
Xin cho con được trái tim của các mục đồng biết mở lòng ra đón nhận ánh sáng và biết đem ánh sáng của Chúa đi khắp nơi, để đêm tối trần gian được ngập tràn ánh sáng huy hoàng của Chúa.
Noel: Lễ nhập cuộc
ĐGM Vũ Duy Thống
(NÚT VÒNG XOAY – Trg. 35)
Đi qua trường Kinh Tế Tài Chính 4 bên cạnh Đại Chủng Viện hôm qua, tình cờ nghe được mẩu đối thoại giữa mấy cô gái. Có tiếng hỏi: “Noel, bồ có đi đâu không?”. Có tiếng đáp: “Không, mình ở nhà”. Và khi tiếng đáp vừa mới dứt đã có tiếng ai đó xen vào: “Noel mà lại ở nhà à? Người ta phải ra đường chứ!”.
Vâng! Noel người ta ra đường thật. Từ Đại Chủng Viện tới đây mặc dù đường đi chỉ có mấy bước, nhưng tôi vẫn bị kẹt xe bởi những con đường lớn đều chật ních những người là người. Dường như cả thành phố đều ở trên đường. Kẻ đi người lại, đông ơi là đông. Vì thế, tiếp cận với Tin Mừng Giáng Sinh đêm nay, tôi bỗng thấy thánh Giuse và Đức Maria cũng đang ở trên đường, đường dong duổi cho cuộc đăng ký hộ khẩu kiểm tra dân số. Những điều tai nghe mắt thấy ấy đã tự nhiên gợi lên hình ảnh Noel là một lễ nhập cuộc.
1) Noel là lễ của sự nhập cuộc.
Nếu trong Mùa Vọng, tín hữu đã sống lại niềm trông mong đợi chờ Chúa của Dân thánh, lấy kinh nghiệm thao thức của họ làm kinh nghiệm thức tỉnh cho mình, và lấy tâm tình dọn dẹp đường lối của họ làm tâm tình chuẩn bị cõi lòng của mình, thì hôm nay không còn úp mở nữa, vị Thiên Chúa được trông chờ ấy chính là Thiên Chúa nhập cuộc.
Khác với lối nhìn của Cựu Ước vốn coi Thiên Chúa là “Đấng khôn tả”, nên muốn tả về Ngài người ta chỉ dám dùng đường lối phủ định nghĩa là thêm chữ “vô cùng” vào sau mỗi phẩm tính muốn dành cho Ngài. Và cũng khác với lối nhìn của ngày xa xưa vốn coi Thiên Chúa là “Đấng đáng sợ”, nếu lơ mơ đến gần Ngài sẽ phải mất mạng như chơi. Đàng này, vị Thiên Chúa được chờ mong lại đến thật sát thật gần. Người hóa thân làm người ở giữa chúng ta.
Người nhập cuộc trong lịch sử chung của toàn thể nhân loại cũng như trong lịch sử riêng của đời Người. Sự nhập cuộc ấy đã được lịch sử cắm mốc thời gian rõ ràng là “thời Hoàng đế Cêsarê Augustô” và được cấp sổ đỏ không thể chối cãi là “thành Bêlem xứ Giuđêa” như Phúc Âm ghi lại. Sự nhập cuộc ấy đã làm nên lý lịch trích ngang của Đấng Cứu Thế. Người có một gia đình, đã được cưu mang chín tháng như bất cứ ai để cuối cùng mở lòng mẹ bước ra chào đời và sống đời như bao người khác.
Thánh Kinh vẫn quen gọi đây là cuộc “Thiên Chúa viếng thăm Dân mình”, nhưng cuộc viếng thăm này lại rất đặc biệt, không chỉ diễn ra trong chốc lát, cũng không thể được lặp lại trong lần khác nữa. Người là vua vinh quang trên trời đã nhận lấy kiếp người giòn mỏng để khởi đầu sự nhập cuộc. Người là Thiên Chúa thật đã nhập thể trở nên con người thật với tiểu sử riêng rõ nét. Người là Thiên Chúa thật đã nhập thế giữa lòng thế giới với lịch sử chung nhân loại rõ ràng. Đó là sự nhập cuộc.
2) Và nhập cuộc là chấp nhận vòng quay nghiệt ngã của cuộc sống.
Trong bài đọc thứ nhất, qua lăng kính của Isaia, Thiên Chúa được xưng tụng là “Chúa hùng dũng”, thế mà Người đã hóa nên con người yếu đuối trong hình hài một thơ nhi bé bỏng.
Dẫu được gọi là “Thủ Lĩnh bình an”, nhưng chính Người khi xuống thế đã nhập cuộc vào những xáo trộn của cuộc đời, để chẳng được an thân sinh ra trong nhà của mình. Hoàng đế Rôma chỉ là thụ tạo, nhưng lại nắm quyền ra lệnh khai sổ nhân danh khiến Thủ Lĩnh đích thực là Người lại phải chịu sinh ra trên đường đăng cai hộ khẩu. Hộ khẩu dẫn tới “hậu khổ”! Người ta dòng dõi vua chúa sinh ra được bọc vải điều nơi lầu vàng gác tía giữa đông đảo kẻ hầu người hạ, còn Người lại tự nguyện sinh ra nghèo khó nơi hang đá trong máng cỏ bò lừa. Người là “Cha vạn thuở”, bản thân Người là căn nguyên vạn vật, thân thế Người là cội nguồn nhân sinh, muôn vật muôn loài đều phải nhờ Người mới có, thế mà hôm nay Người lại chịu sinh ra trong thời gian bởi một người phụ nữ với tiến trình trưởng thành tuần tự bình thường. Người là “Cố Vấn kỳ diệu”, nhưng khi sinh ra làm người hôm nay chẳng thấy Người cố vấn cho ai, mà ngược lại xem ra Người đã “cố mà vấn vào đời mình” những gì là bình thường nhất nếu không muốn nói là hèn mạt nhất của kiếp phận nghèo khổ.
Rõ ràng là Người đã nhập cuộc trong quỹ đạo của một đời người giữa những người đời. Nhập cuộc như thế cũng có nghĩa là ăn đời ở kiếp giữa đời với những hệ quả muôn thuở của cuộc đời. Nếu cuộc đời luôn bằng phẳng có lẽ đã không có kiểu nói diễn tả “bụi trần”, và nếu cuộc đời luôn hạnh phúc có lẽ cũng chẳng phải lắm điều đặt chuyện “đời là bể khổ” làm chi. Chẳng bi quan cũng thấy cuộc đời không luôn ổn định. Thế mà Chúa đã yêu thương đón lấy cuộc đời ấy, để chính khi hóa thân làm người là cùng lúc Người dấn thân vào trong những bấp bênh bồng bềnh bó buộc của cuộc sống.
3) Để cứu độ trần thế và con người.
Nếu nhập cuộc chỉ có nghĩa là hòa vào dòng chảy cuộc đời thì có lẽ chẳng có lễ Noel. Nhưng sở dĩ có lễ Noel là bởi vì Chúa nhập cuộc để cứu độ trần thế và con người.
Người nhập thế để làm gì? Thưa để đem trần thế vào lại “trật tự nguyên thủy” như nét đẹp ban sơ của trần thế ngày sáng tạo mà tội lỗi đã làm hư đi. Nên Noel còn gọi là “Ngày sáng thế mới”. Đêm Noel là đêm đất trời giao duyên trong hôn phối nhiệm mầu của ơn cứu độ.
Người nhập thể để làm gì? Thưa để đem con người về với ơn cứu độ. Người là Emmanuel của một Thiên Chúa không đến rồi đi, không ở rồi về mà là một “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, một Thiên Chúa đến ăn đời ở kiếp với nhân loại để nâng nhân loại lên ngang tầm với vinh quang của Người. Thảo nào, các thiên thần đã hát: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm”. Và cũng chính vì thế các Giáo phụ Đông phương đã bảo: “Thiên Chúa làm người cho người được làm con Thiên Chúa”. Như vậy, Noel chính là lễ của một sự nhập cuộc tuyệt vời cũng như chữ Noel đến từ danh xưng Emmanuel đã làm nên Thánh lễ đêm nay.
Thiên Chúa nhập cuộc để đem ơn cứu độ. Đó là Tin Mừng trọng đại cho toàn dân, nên sứ điệp của đêm nay là hãy nhập cuộc cùng với Noel.
Nhập cuộc tức thời là hãy mở lòng mình ra mà đón Chúa sinh vào, và nhập cuộc dài hơi là biết sinh Chúa ra bằng một đời sống tín hữu gương mẫu. Đừng để Noel trở thành dịp phô trương đời sống hoặc phô bày đam mê như trong báo Công An tuần qua đăng tải về một Việt kiều tổ chức sinh nhật của mình một cách trụy lạc. Đừng để Noel qua đi mà lòng mình vẫn còn trĩu nặng ước muốn quyền hành hoặc tình cảm ghét ghen. Và nhập cuộc lớn hơn cả chính là biết cùng với Chúa mà cưu mang xây dựng, cảm thông nâng đỡ những anh chị em túng quẫn hoặc đau khổ vốn không thiếu trong đời, cho dẫu chính khi nhập cuộc như thế mình phải hy sinh đi theo quỹ đạo của nhập cuộc.
Noel nhập cuộc là thế, là Tin Mừng sống động, là chan hòa sự sống. Nhưng Noel bao giờ cũng là lễ của niềm vui, của bàn tay nắm lấy bàn tay, của bước chân tiếp nối bước chân dấn thân vào đời phục vụ cho hạnh phúc con người. Niềm vui và hạnh phúc là điều người ta thường cầu chúc trong đêm Noel. Chân thành kính chúc cộng đoàn một Noel tràn đầy niềm vui: thứ niềm vui cứu độ, quên mình, nhập cuộc; và hạnh phúc dẫy đầy: thứ hạnh phúc không phải chờ đến xa xôi mai hậu, nhưng đã bắt đầu đêm nay bằng cách biết tiếp nhận Chúa sinh vào và biết sinh Chúa ra trong quyết tâm nhập cuộc của mình.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Cảnh sát thành phố Los Angeles ở Mỹ đã từng lùng sục mọi hang cùng ngõ hẻm tối tăm để tìm một em nhỏ tên Thad. Nhiều người ở Mỹ và Canađa đã góp tiền, thực phẩm để tặng cho em khi người ta chuyển đến “Cơ quan Bảo vệ Trẻ em Thành phố” một bức thư đầy lỗi chính tả của em. Em viết như sau:
“Thưa Ông “dà” Noen, Giáng Sinh này xin ông giúp đỡ bố mẹ con. Bố con không còn đi làm nữa. Bây giờ nhà con không có nhiều thức ăn. Mẹ con phải cho chúng con ăn những thức ăn đáng lẽ mẹ ăn…
Con muốn được lên “chời” để ở chung với các thiên thần. Ông mang con lên “chời” nhé. Bố mẹ con sẽ không phải mua đồ ăn cho con nữa. Điều đó sẽ làm cho bố mẹ con “xung xướng”. Xin Ông mang cho bố con một chỗ làm và ít thức ăn…
Con sẽ không ngủ đâu. Khi Ông cho bố con một việc làm và cho mẹ con ít thức ăn, con sẽ đi với Ông và bảy tuần lộc… Con gởi lời chúc Giáng Sinh vui vẻ đến Bà Noen và các chú lùn nữa.
Ký tên: Thad.
Người ta vẫn chưa tìm ra em Thad y như rất nhiều người Do Thái đã không tìm ra trẻ Giêsu nghèo khó năm xưa. Họ đâu dám đi ra ngoài vì sợ trời lành, họ không dám đến những khu nhà tối tăm, bẩn thỉu vì sợ dơ quần áo. Họ giống như những người giàu thời đại chúng ta chỉ muốn ở yên trong nhà, tự mãn với những nệm êm, chăn ấm, với những bữa tiệc, những cây thông đủ ánh đèn màu, với những chương trình tivi hấp dẫn. Những người giàu ấy sẽ phải khóc vì không nhận được ơn bình an và ơn cứu độ của Chúa Hài Đồng.
Chúng ta không cần tìm kiếm ở đâu xa xôi, vì Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta. Quả thức, Thiên Chúa không phải chỉ làm người giả hiệu, mà Ngài đã cắm lều ở giữa chúng ta. Để nhận ra điều đó, chúng ta hãy bước đến hang đá. Hẳn nhiên đó chỉ là biểu tượng. Nhưng là một biểu tượng nhắc nhớ một biến cố lịch sử duy nhất. Một cảnh sống nghèo nàn, thanh bạch đến thiếu tất cả, giữa một đêm tối không đèn, không đóm, nơi một góc trời không tên không tuổi. Hai người bạn trẻ, hai người lao động đơn sơ nằm nhờ trên đống rơm giữa những con vật hiền lành. Một hài nhi mới sinh trong một cuộc hành trình bất đắc dĩ. Nhưng Thiên Chúa đó! Thiên Chúa không yêu thương chúng ta từ trời cao. Ngài đã đến cắm lều ở giữa chúng ta, trong da thịt Đức Giêsu Nazarét. Điều mà không ai có thể tưởng tượng ra, đó là Thiên Chúa liên đới trọn vẹn với số phận mạt kiếp của chúng ta. Thiên Chúa đang ở giữa chúng ta, như là một người nghèo nhất tại Bêlem trước khi trở thành người rốt hết trên thập giá. Giáng Sinh nhắc nhớ cuộc gặp gỡ thân tình có một không hai đó giữa Thiên Chúa và con người như một huyền nhiệm, như một trao đổi kỳ diệu.
Và như vậy, thưa anh chị em, chúng ta thấy Thiên Chúa “người” hơn chính chúng ta. Ngài ở dưới đất. Đừng đi tìm Ngài trên khung trời cao! Chúng ta là như vậy đó: Khi tình yêu quá lớn, nghĩa là quá khiêm tốn thì chúng ta lại không dám nhận ra, không dám chấp nhận. Chúng ta không chấp nhận để cho Thiên Chúa yêu thương chúng ta đến mức Ngài đến gặp chúng ta trong huyền nhiệm Nhập Thể của Ngài. Nhưng dù chúng ta có muốn hay không, thì từ nay Thiên Chúa đã đi vào cuộc sống của ngõ hẹp, của chuồng chiên bò, của hang đá, máng cỏ.
Và nếu Thiên Chúa đã tự hạ gần gũi như vậy, tầm thường như vậy, thì không có gì xảy ra trong đời thường của chúng ta lại ở ngoài ánh sáng thần linh của Thiên Chúa, “ánh sáng cho nhân loại, ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và ánh sáng ấy là sự sống”. Khi đất này đã được sự hiện diện yêu thương của Thiên Chúa trong Đức Giêsu bao trùm, thì đất này đã là túp lều của Con Thiên Chúa nhập thể. Mọi đóng góp cho đất này đã trở thành nơi ở, chẳng những ở được mà còn ở tốt cho Thiên Chúa và cho con cái loài người của Ngài, là một điều không ai được khước từ nếu không muốn phủ nhận niềm tin của mình và mầu nhiệm Giáng Sinh. Không có con người nào là con người bị loại ra ngoài tình yêu của chúng ta nếu chúng ta không muốn cho đức ái chỉ là chữ viết trên giấy. Không có cảnh đời nào là cảnh đời chúng ta phải chạy trốn, nếu chúng ta thật sự muốn sống lòng cậy trông của mình. Chúng ta thường đi gặp Chúa ở ngoài cuộc sống cụ thể, hằng ngày, trong khi Thiên Chúa đã nhập thể làm người trong cuộc sống cụ thể hằng ngày đó.
Chính vì thế mà những người Mỹ, những người Canađa, những cảnh sát ở thành phố Los Angeles vẫn chưa tìm ra được em Thad khi họ nhận được bức thư em gởi cho ông già Noen. Bởi em Thad là hiện thân của bao nhiêu em bé và gia đình nghèo đói trên trái đất này, nơi Thiên Chúa đã làm người và cư ngụ ở giữa chúng ta trong những gia đình, những em bé khốn khổ đó.
Anh chị em thân mến, tôi không tin là chúng ta có thể gặp được Chúa trong nhà thờ nếu đã không gặp cho được Ngài trong cuộc sống qua một khuôn mặt nào đó, như khuôn mặt của các em bé mồ côi, khuôn mặt của những ông già bà cụ cô thân cô thế, khuôn mặt của những con người ốm đau, bệnh tật, của những người nghèo đói, của những người bị bỏ rơi, bị loại trừ, thiếu vắng tình thương… Bởi vì, đối với chúng ta, cụ thể mà nói, quê hương này là nơi Thiên Chúa làm người để anh em đồng bào chúng ta không phân biệt giai cấp, được làm con Chúa; là nơi Thiên Chúa hẹn gặp chúng ta; là nơi chúng ta phải gặp Ngài qua chứng từ về ánh sáng, để nhờ ánh sáng anh em đồng bào chúng ta sẽ nhìn thấy Ánh sáng của Tình thương, Ánh sáng của sự sống.
NGÀY CHÚA GIÁNG SINH
Việc truyền tin Chúa Giêsu nhập thể đã là lạ lùng vì tính cách trái ngược giữa vẻ khiêm hạ bên ngoài với sự cao cả bên trong. Tính cách trái ngược này lại còn lạ lùng và nổi bật hơn nơi việc Người sinh ra.
1. Chúa Giáng sinh.
Việc Giáng sinh không xảy ra tại Nagiarét như thường tình, nhưng là tại Bêlem, và không phải do một lời nói chính thức của thiên thần mà bằng mmột biến cố hoàn toàn trần thế, nghĩa là do sắc chỉ của Hoàng Đế Rôma. Như vậy Chúa Giêsu ngay từ ngày mở mắt chào đời đã tỏ ra phục luỵ quyền hành thế trần, như một kẻ yếu thế phải chịu khuất phục kẻ mạnh hơn. Tuy nhiên, đó là công việc của Thiên Chúa, vì người ta sẽ thấy rằng ở đây hành động của con người không ai ngờ lại phục vụ cho kế hoạch của Thiên Chúa. Hoàng đế Augustô ra lệnh kiểm tra nhân số trong đế quốc lớn lao của ông để gom thế giới lại thành một, biết rõ quân số, bảo đảm được sự thu thuế mà ông cần dùng tới với những chương trình vĩ đại của ông. nhưng thực tế, quyền năng thế tục đó bên ngoài hình như kìm kẹp Chúa Giêsu, thì chỉ là dụng cụ của quyền năng Thiên Chúa và qua đó, chương trình Cứu độ được hoàn thành.
Như vậy Chúa Giêsu đã giáng sinh tại Bêlem trong thành cảu Đavít, như Tin mừng đã nhấn mạnh điều đó. Chính nơi đây, Đavít khi còn là mục đồng, được gọi về hiến Thánh, thì giờ đây, cũng chính ở đây, người con đích thực của Đavít lại sinh ra, Đấng chăn chiên thực sẽ chăn dẫn bầy chiên Thiên Chúa, Ngài là Đấng được ưu tuyển ngay trong bản chất thâm sâu của Ngài và như Đấng Messia, Đấng Thiên tử, Đấng được xức dầu.
Sắc lệnh của Hoàng đế Augustô còn kéo theo một hậu quả khác, đó là việc giáng sinh của Chúa Giêsu được tác thành và lồng vào lịch sử thế giới. Người ta xác định được nơi chốn và thời kỳ xảy ra việc đó. Đây là một biến cố lịch sử đích thực (chứ không phải là chuyện hoang đường hay thần thoại) có chỗ đứng trong không gian và thời gian. Bên cạnh Hoàng đế Augustô, muốn mang lại cho thế giới cơm no áo ấm, với thứ hoà bình của Rôma, thì Chúa Giêsu đúng là vị Cứu tinh thực sự của vũ hoàn vì đã mang đến bình an của Thiên Chúa.
Tuy thế, ở Bêlem, không còn chỗ cho Ngài, nên phải sinh trong chuồng bò lưà. Khi nói Chuá không có chỗ trong quán trọ, điều đó có thể hiểu là, thực sự thì những người lang thang, không còn chỗ ở trong quán đó. Nhưng cũng có ý nói, và đúng hơn, quán trọ là nơi những người khách lạ tạm trú, thì không phải là nơi xứng hợp đối với mầu nhiệm Thánh Chúa sinh ra. Vậy Chúa sẽ đến thế trần, không mái nhà, trong cảnh đơn côi và nghèo nàn của chuồng bò lừa. Nôi của Ngài là cái máng khô, đục vào ngay trong tảng đá để cho bò lừa ăn. Tin mừng đặc biệt nhấn mạnh tới việc Hài nhi được bọc trong khăn. Cho thấy rằng bên cạnh cảnh nghèo hèn còn có nhân tính hoàn toàn, cùng với tất cả sự yếu đuối của tính con người.
Con đầu lòng của Thiên Chúa, hay nói cho gọn là Con Một Thiên Chúa đã đến thế gian này như là một trẻ nhỏ. Khung cảnh thật đơn giản, thanh bạch, nghèo hèn. Sự đơn giản và nghèo hèn này ai sánh được; tuy vậy, lại chẳng có biến cố nào đáng kể hơn, và tất cả mọi phú túc sẽ được trao cho Đấng vừa sinh ra. Trước nhan Chúa, đâu cần vẻ hào nhoáng bên ngoài với tất cả những gì liên hệ tới nó. Mà phải trái lại, cái vẻ bên ngoài càng lui đi thì mới càng thấy rõ vẻ lớn lao bên trong. Tất cả những gì phồn vinh, giả tạo, khoa trương, chỉ có bên ngoài thôi thì đi ngược lại bản tính của Chúa Giêsu ngay từ giờ đầu tiên của ngày Giáng sinh của Ngài cho tới lúc cuối cùng với cái chế nghéo hèn và trần trụi trên cây thập tự.
2. Loan báo tin Chúa Giáng sinh.
Các mục đồng là những người đầu tiên nhận được sứ điệp. Israel là dân của các mục tử và Chúa Giêsu chính là Đấng chăn giữ nhân loại mới. Những hạng quyền quý sao hiểu được vẻ cao trọng này, người giàu thì chạy theo của cải, còn người thông thái thì lại hiểu sai về sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Vì thế những người được gọi đầu phải là những người chăn chiên khiêm hạ, nghèo nàn, và là ít học chốn quê mùa.
Nội dung của sứ điệp là một lời loan tin vui tóm trong ba danh hiệu: Đấng Cứu Thế, Đấng xức dầu và là Chúa. Ngài là Đấng Cứu thế, vì Ngài đến giải phóng những người không thể tự giúp mình khỏi cảnh đau thương. Ngài là Đấng xức dầu vì bản tính nhân loại của Ngài đã được thánh hiến bằng dầu Thánh của Thiên Chúa: Ngài trở thành Tư tế, tiên tri và Vua cả. Và Ngài là Chúa vì mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Ngài.
Thật là một dấu chỉ lạ lùng: Các ngươi sẽ thấy một Hài nhi đặt nằm trong máng cỏ. Điều nhỏ bé sẽ biểu thị vẻ lớn lao, yếu hèn –vẻ quyền năng và nghèo khổ– cảnh giàu sang. Việc Chúa Giêsu sinh ra làm đảo lộn những cái chúng ta đã biết cho tới khi đó, và làm biến đổi các thực tại thần thiêng nhờ các phạm trù khác và ứng dụng chúng vào các quy luật khác.
Sứ điệp kết thúc bằng ca khúc của các Thiên thần gồm hai phần, mà mỗi phần gồm ba yếu tố song song với nhau. Ở phần thứ nhất ta thấy có trời, vinh danh và Thiên Chúa. Phần hai có thế trần, hoà bình và con người.
Thiên Chúa ở trên trời sẽ đón nhận danh dự và vinh quang, vì vinh quang của Ngài vẫn dấu kín, sẽ bộc lộ nhờ Con Ngài. Còn chính Chúa Giêsu, mà mọi tác động của Ngài đều mang dấu vô biên sẽ có thể thực sự tôn vinh Thiên Chúa mà không một tạo vật nào có thể làm được. Bây giờ ở dưới thế, bình an sẽ ngự trị vì trời và đất giao hoà trong ơn thánh. Và tất cả những điều ấy có được là do lòng từ ái của Thiên Chúa ban cho nhân loại nhờ Thiên Chúa Nhập Thể.
Như vậy bài ca của các Thiên Thần là điệp ca trang trọng của Thánh vịnh về đời sống Chúa Giêsu, bài ca mang nặng ý nghĩa của một biến cố vĩ đại đang được thực hiện trên sân khấu cuộc đời này. Hơn cả một lời cầu chúc hay lời nguyện xin. Chúc tụng Thiên Chúa đó là một lời loan báo và cũng là một lời tuyên ngôn vệ một sự kiện: vinh danh dâng lên Thiên Chúa và an bình ban xuống nhân loại. Giờ cứu độ đã điểm, công việc cứu rỗi đã bắt đầu vì Chúa hoàn vũ đã sinh ra.
Và đây là kết quả đầu tiên, các mục đồng quyết định đón nhận lời loan báo trong niềm tin và đi theo lời đó. Sau khi tìm kiếm, họ đã thấy Đức Maria, Thánh Giuse, và Hài nhi. Sự kiếm tìm đã không bõ công; họ đã ngạc nhiên, đầy thán phục.
Qua sự im lặng, người Mẹ trẻ đã cho thấy sự hân hoan được diễn tả trong bài Thánh ca ngợi khen của Mẹ nay nhường chỗ cho một sự suy niệm đầy an bình, và việc các mục đồng trở về với đời sống thường nhật quen thuộc giúp chúng ta nhận ra được là việc khám phá ra Chúa không có nghĩa là phải có sự thay đổi hoàn cảnh bên ngoài, nhưng là sự biến đổi sâu xa trong lòng.
Vì thế, trong cảnh trí này, nổi bật một sự mâu thuẫn:
Chúa Giêsu bị che dấu nay lại tỏ hiện, bị hạ xuống, nhưng rồi được tôn vinh; trao cho hai tạo vật yếu đuối săn sóc, nhưng được các thiên thần canh giữ; yếu hèn thực đó, nhưng lại là vị cứu tinh nhân loại. Hoàn toàn là người trong mọi sự, nhưng rạng ngời ánh quang của Thiên Chúa.
Trình thuật Kinh thánh nhấn mạnh trên sự mâu thuẫn này là giới thần thiêng đã đi sâu vào sự thấp hèn của nhân loại, nhưng qua đó lại chiếu ngời lên để tôn vinh Thiên Chúa.
ĐƯỜNG VỀ BÊLEM (2,1-7)
Trong đế quốc Rôma có những cuộc kiểm tra dân số định kỳ nhằm hai mục đích: vừa để đánh thuế, vừa để tìm ra những ai đang ở tuổi làm nghĩa vụ quân sự. Dân Do Thái được miễn nghĩa vụ quân sự, vì thế việc kiểm tra dân số ở xứ Palestine chỉ có mục đích chính là đánh thuế. Về những cuộc kiểm tra dân số, chúng ta có được những thông tin xác đáng về những gì đã được thực hiện tại Ai Cập, và gần như chắc chắn rằng những gì đã được thực hiện tại Ai Cập cũng thực hiện tại Syri và tại Giuđê, một phần của tỉnh Syri. Những thông tin về các cuộc kiểm tra dân số được tìm thấy trong các tài liệu viết trên giấy chỉ thảo phát hiện được trong các lớp cát bụi tại các thành thị, làng mạc Ai Cập hoặc dưới lớp cát sa mạc. Các cuộc kiểm trong dân số như vậy cứ 14 năm diễn ra một lần. Chúng ta có được cái tài liệu kiểm tra dân số từ năm 20 SCN đến 270 SCN. Nếu chu kỳ 14 năm được giữ đúng ở Syri thì việc kiểm tra dân số đề cập ở đây hẳn đã diễn ra vào năm thứ 8 TCN, đó chính là năm Chúa Giêsu được sinh ra. Có thể Luca đã có một chút lầm lẫn, Quiriniô chỉ thực sự làm tổng đốc xứ Syri vào năm 6 TCN, nhưng ông đã từng cầm quyền tại các miền đó từ năm 10 TCN đến 7 CTN, và việc kể trên đã diễn tiến trong chính thời kỳ thứ nhất này. Các nhà phê bình thường đặt câu hỏi: có phải mọi người đều phải về sinh quán của mình để đăng ký không? Ở đây chúng ta nắm được chính sắc lệnh của nhà nước từ Ai Cập như sau: “Gaius Vibius Maximus, tổng trấn xứ Ai Cập truyền lệnh: Xét rằng đã đến kỳ làm sổ từng nhà, nên cần bắt buộc hết thảy những ai, đã vì bất cứ lý do gì mà hiện đang cư trú ngoài địa phận mình, phải trở về quê nhà, để có thể thi hành lệnh kiểm tra dân số theo qui định, và cũng để có thể chăm lo việc cày cấy đất ruộng mình”. Nếu đó là trường hợp tại Ai Cập thì cũng chính là trường hợp tại Giuđê là nơi còn giữ kỹ những gia phả dòng tộc và đàn ông phải về bản doanh của bộ tộc mình. Đây thêm một bằng cớ giúp ta hiểu biết hơn về sự chính xác của Tân Ước.
Con đường từ Nazarét tới Bêlem dài 128 dặm, những tiện nghi cho khách trọ rất sơ sài. Quán trọ bên phương Đông thời bấy giờ giống như từng dãy chuồng ngựa của cửa mở ra một cái sân chung. Mỗi khách trọ từ liệu thức ăn cho mình, chủ quán chỉ cung cấp đồ ăn cho súc vật và một bếp lửa để nấu nướng. Có đông người quá nên không còn chỗ cho Giuse và Maria, thế nên con trai của Maria đã sinh ra nơi khoảng sân chung đó. Khăn bọc hài nhi là một cái tã. Trước tiên người ta bọc hài nhi trong tấm vải vuông rồi quấn bằng dài chung quanh mình nhiều vòng. Chữ được dịch là máng cỏ, nơi để súc vật ăn, có thể đó là một chuồng bò hoặc một máng cỏ. Việc quán trọ không còn chỗ tượng trưng cho những gì xảy ra cho Chúa Giêsu. Chỉ một nơi chỗ cho Chúa Giêsu là thập giá. Ngài tìm một lối vào trong những tấm lòng chật chội của loài người mà không tìm được, và Ngài vẫn cứ tiếp tục tìm kiếm, mặc dù vẫn cứ bị chối bỏ.
MỤC ĐỒNG VÀ THIÊN SỨ (2,8-20)
Một điều lạ lùng là câu chuyện cho chúng ta biết lời báo tin đầu tiên của Chúa được gửi đến cho các người chăn chiên. Vào thời bấy giờ, giới mục đồng bị những người chính thống coi khinh. Họ không có đủ khả năng để giữ trọn các chi tiết của bộ luật nghi lễ, họ không thể giữ đúng các nghi thức rửa tay tỉ mỉ và các luật lệ khác. Họ quá bận bịu săn sóc bầy chiên, vì thế, giới chính thống coi họ rất thấp kém. Sứ điệp của Chúa trước tiên đã đến với họ là những người đơn sơ nơi đồng ruộng. Nhưng nhóm mục đồng này có lẽ là những mục đồng đặc biệt. Trong Đền Thờ, sáng và chiều đều có một con chiên không tì vết làm của lễ dâng lên Chúa. Để lúc nào cũng sẵn có của lễ toàn vẹn và không tì vết ấy, các quan chức cai quản đền thờ nuôi riêng những bầy chiên của họ, và các bầy chiên này được chăn ở gần Bêlem. Cho nên chúng ta có thể tin là nhóm mục đồng đó đang coi giữ những bầy chiên dành làm của lễ trong Đền Thờ. Thật ý nghĩa biết bao khi nhóm người coi sóc bầy chiên của Đền Thờ lại là những người đầu tiên được ngắm xem chiên của Thiên Chúa là Đấng xoá tội lỗi thế gian.
Chúng ta đã biết khi một bé trai được sinh ra thì các nhạc sỹ địa phương tụ tập lại nhà để chúc mừng bằng một khúc nhạc đơn sơ. Chúa Giêsu đã sinh trong một chuồng bò ở Bêlem, vì thế chi tiết đã không được thực hiện. Thật vô cùng ý nghĩa khi đoàn ca sỹ trên trời thay thế các ca sỹ dưới đất và các thiên sứ đã hát những bản ca ngợi Chúa Giêsu là những bản nhạc mà các ca sỹ trần gian không hát nổi.
Qua những lời Kinh Thánh này, chúng ta phải suy tưởng đến vẻ đơn sơ thanh bạch trong sự giáng sinh của Con Thiên Chúa. Chúng ta dễ nghĩ rằng nếu Con Thiên Chúa ra đời, thì chắc Ngài sẽ sinh ra trong một đền đài hay một dinh thự. Ngày xưa, ở Châu Âu, có một ông vua thường khiến triền thần lo ngại vì ông hay cải trang để trà trộn vào dân chúng. Khi quần thần yêu cầu ông đừng làm thế vì lý do an ninh, thì ông trả lời “Trẫm không thể trị dân nếu trẫm không biết nhân dân ta có một Thiên Chúa hiểu thấu đời sống chúng ta, vì Ngài đã sống cuộc đời như chúng ta, không đòi hỏi gì khác hơn một đời sống bình thường.
Từ nhiều thế kỷ nay, những bài Phúc Âm tường thuật về cuộc đời thơ ấu của Chúa đã kích thích trí tưởng tượng thi nhân và nuôi dưỡng lòng đạo đức của bao tâm hồn đơn sơ. Còn ngày nay chúng làm đối tượng cho những sự phân tích tinh vi và óc tưởng tượng huyền hoặc của một số trí khôn phức tạp đã tìm cách hạ thấp chúng xuống cho ngang với tầm mức của mình. May mắn thay, có một khoa học nghiêm chỉnh vẫn duy trì những bài tường thuật ấy ở trình độ mà Giáo Hội từ xưa nay vốn đặt chúng. Bài tường thuật của thánh Luca kể lại một sự kiện. Ngài kể lại một cách giản dị không vẽ vời thêu dệt, khả dĩ giúp ta chiêm thờ được. Ở đó người ta không nhận thấy một cách tỏ tường như trong những bản văn khác, cái mối ưu tư của tác giả là làm sao đặt việc Chúa Giáng Sinh trong tương quan với những gì đã được loan báo bởi Cựu Ước. Nhưng người ta bắt gặp cái tư tưởng tiêu biểu của thánh sử Luca: là Đức Giêsu Kitô là Cứu Chúa. Hôm nay, trong thành Đavít, một vị Cứu Tinh đã sinh ra cho các ngươi. Ta thử đứng thật sát đoạn văn đơn sơ mà tuyệt vời này để rút ra một vài nét về ý nghĩa của danh xưng ‘Cứu Chúa’.
* Chúa Giêsu là Cứu Chúa đã được hứa hẹn. Đó là lý do tại sao Người được mô tả là phát sinh từ dòng dõi Đavít, ít ra về mặt pháp lý, và điều đó rất quan trọng trong xã hội Do Thái.
* Chúa Giêsu sinh ra bởi một Trinh Nữ. Thánh Mátthêu cho ta biết thánh Giuse đã nhận Maria làm bạn trăm năm trong hoàn cảnh nào.
* Chúa Giêsu là một con người. Người là Con Thiên Chúa, nhưng cũng là người thật. Người đã bắt đầu cuộc sống và sự sống Người đã nẩy nở trong lòng Maria. Sinh ra bởi một người phụ nữ, như thánh Phaolô nói, Người không tách rời khỏi lịch sử, là lịch sử của mọi người. Người không giả bộ làm người; Người là người thật.
* Chúa Giêsu được loan báo cho người nghèo khó, cho người chăn chiên, nghĩa là người đến trong nhân loại thông thường nhất, giữa hạng người không có thời giờ để lo sao cho có nhiều tiện nghi, hạng người bám vào phận sự hàng ngày cốt sao cho được sống mà thôi.
* Người mang tới sứ điệp vinh quang và bình an, nghĩa là người đến tái lập trong linh hồn con người cái ý thức rằng Thiên Chúa là Chúa, Người tập hợp loài người lại và bảo họ rằng Chúa yêu thương tất cả mọi người, vì thế họ là anh em với nhau.
Ngoài ra, chúng ta hãy nêu lên trong bài tường thuật này một sắc thái căn bản mà con người thời đại ta đang cần, đó là sự thờ phượng.
+ Thờ phượng, ấy là đức tuân phục của Maria và Giuse đến Bêlem, khi nhận ra ý Chúa qua một biến cố, là cuộc kiểm tra dân số.
+ Thờ phượng, ấy là công bố rằng: Hài Nhi chính là Đức Kitô Chúa Tể. Sự sợ hãi của bọn mục đồng có thể tan biến khi viếng máng cỏ, nhưng Hài Nhi gần gũi với họ đó, vẫn là Thiên Chúa. Ta hãy nghĩ tới Thánh Thể; bí tích ấy làm cho Thiên Chúa trở nên gần gũi ta, và một sự tục hóa thiếu suy nghĩ có khuynh hướng coi thường. Một cộng đoàn họp mặt cử hành Thánh Thể nâng cao con người trong lời ngợi khen và tạ ơn.
Ánh sáng nào soi chiếu trong ta? (Ga 1,1-18)
Bài mở đầu Phúc Âm thánh Gioan phong phú đến nỗi đã làm đề tài cho không biết bao sách vở dày cộm. Nếu đọc với sự chăm chú và niềm kính trọng như khi người ta bước qua ngưỡng cửa một người mời mình vào nhà, thì người ta hô hấp ngay cái bầu không khí của toàn cuốn Phúc Âm thánh Gioan. Ở đây ta thấy sự đối nghịch giữa ánh sáng và bóng tối, ta gặp đề tài chứng tá và sự rao giảng về việc con người được nâng lên hàng làm con Thiên Chúa nhờ Con Một Người đã đến và ngự giữa chúng ta. Danh từ ánh sáng lặp đi lặp lại nhiều nhất. Tương tự như ánh sáng đối với sinh vật, Thiên Chúa là nguồn chân lý và sự sống cho con người. Người là ánh sáng ở một trình độ cao hơn ánh sáng tự nhiên bội phần. Ánh sáng này cũng là một hồng ân Chúa ban cho vũ trụ vật chất, trở nên dấu hiệu của cái thực tại thiêng liêng cao trọng là làm cho con người đạt tới một trình độ ở đó nó có thể nói tới Chân Lý sung mãn, đến sự sống vĩnh cửu. Lễ Giáng Sinh khởi đầu một tấn bi kịch. Tấn bi kịch ấy đặc biệt là của dân Do Thái, song còn tiếp tục diễn ra nơi mỗi người. Ánh sáng đã đến nơi người nhà của mình, nhưng nhiều người đã không tiếp nhận ánh sáng. Bóng tối đã không thể và hiện không thể nào thắng được nó nhưng bóng tối vẫn là một mối đe dọa đáng sợ giữa lòng nhân loại. Ánh sáng Đức Kitô đến tiêu diệt tối tăm như thế nào?
1) Đức Kitô đánh tan mê muội.
Tự mình chúng ta hầu như không biết gì về Thiên Chúa. Đấng Con Một ngự trong lòng Chúa Cha, chính Ngài đã mặc khải Thiên Chúa. Không có Chúa Giêsu Kitô, chúng ta sẽ sống trong một sự vô minh dày đặc. Không trực giác nào về Chúa, dù đẹp đẽ nhất, đã có thể vượt qua ranh giới của con người, bởi vì cái cốt yếu nằm bên kia ranh giới ấy. Trí khôn nhân loại nào đã dám nói đến việc trở nên con cái Thiên Chúa như Phúc Âm bao giờ đâu? Một câu hỏi: chúng ta có tỉnh táo để không cho bóng tối che mờ ánh sáng chăng? Đâu là những điều thu hút tư tưởng và khả năng yêu thương của ta? Người Kitô hữu ngày nay khám phá lại được tầm quan trọng của cái thực tại trần thế. Nhưng họ có lưu tâm đủ về đòi hỏi tôn giáo sâu xa mà chỉ trong Đức Kitô mới tìm được giải đáp hay không? Thời đại ta, hay đúng hơn Giáo Hội chúng ta cần phải nhớ rằng không có Đức Kitô, mà ta phải tìm kiếm như một cùng đích, thì mê muội như một màn sương mù sẽ lại phủ xuống trên thế gian. Ánh sáng tiếp tục chạm trán với tối tăm và cái giá trị vẫn còn sống động trong Giáo Hội, và trong đời sống mỗi người chúng ta, ấy là giá trị chiêm niệm.
2) Đức Kitô soi sáng cho ta biết đánh giá con người.
Khi tuyên bố mọi người đều được gọi làm con Thiên Chúa, Đức Kitô mở ra cái bề sâu của những tương quan liên kết con người với nhau. Những tương quan ấy có một định luật là bác ái, là tình yêu. Tình yêu anh em giữa người và người làm nên sợi dây đỏ rực, tỏa sáng nếu được đặt dưới luồng điện của tình yêu Thiên Chúa.
Ai yêu anh em, kẻ ấy ở trong ánh sáng (lGa 2,10). Một tình yêu đích thật giữa người Kitô hữu với nhau và của người Kitô hữu với mọi người, đó phải là ánh sáng mà họ có sứ mệnh mang đến cho thế gian hôm nay. Trong mức độ mà nó tinh tuyền, nó sẽ gặp phải sức chống đối của tối tăm, nhưng kẻ nào đón nhận nó, sẽ đi trên con đường trở nên con cái Chúa.
Tại miền Nam nước Pháp, có một máng cỏ khá nổi tiếng. Trong số các nhân vật đứng và quì nơi máng cỏ này, du khách thường chú ý tới một con người nhỏ bé với hai bàn tay trống trơn và mở rộng, nhưng gương mặt lại để lộ một vẻ ngạc nhiên khó mà diễn tả nổi. Vì thế, người ta đã đặt cho nhân vật này cái tên gọi là Ngạc Nhiên. Dân địa phương thường giải thích về sự ngạc nhiên của anh bằng một mẩu chuyện như sau:
Hôm đó, tất cả các nhân vật nơi máng cỏ, kể cả mấy chú bò lừa đều tỏ ra khó chịu đối với anh, bởi vì anh không có gì để mang tặng cho Chúa Hài nhi, ngoài hai bàn tay trống trơn của mình. Và thế là họ bắt đầu xỉ vả anh:
- Mày không biết xấu hổ hay sao? Mày đến thăm Chúa Hài nhi mà không mang theo gì cả ư?
Thế nhưng, anh không để lộ một phản ứng nào, ngoài cặp mắt mở to và chăm chú nhìn vào Hài nhi Giêsu. Những lời rủa xả vẫn cứ tiếp tục trút xuống trên anh, đến nỗi Mẹ Maria phải lên tiếng bênh vực cho anh.
Quả thực, mặc dù đã đến với Chúa Hài nhi bằng đôi bàn tay trằng, thế nhưng anh đã mang tới một món quà cao đẹp nhất, đó là sự ngạc nhiên của anh. Điều này có nghĩa là Tình Yêu bao la của Thiên Chúa đã chiếm trọn tâm tư anh. Và Mẹ Maria đã kết luận như sau:
- Thế giới này sẽ kỳ diệu biết bao nếu như luôn có những người giống anh, biết ngây ngất và ngạc nhiên trước quyền năng và tình thương vô biên của Thiên Chúa.
Thực vậy, chúng ta thường nói:
- Ngạc nhiên là khởi đầu của mọi khám phá.
Có biết ngạc nhiên, có biết đặt câu hỏi, người ta mới đưa ra những giả thuyết, người ta mới tìm tòi, khảo sát và khám phá. Sự tiến bộ của loài người bắt nguồn từ chính sự ngạc nhiên ấy.
Trong lãnh vực siêu nhiên cũng vậy. Thiên Chúa đã ban cho con người khả năng biết ngạc nhiên để rồi từ đó khám phá ra quyền năng và tình thương của Thiên Chúa. Đúng thế, khi nhìn ngắm những kỳ công trong vũ trụ, cùng với trật tự lạ lùng của nó, chúng ta không khỏi ngạc nhiên và thán phục.
Từ chỗ ngạc nhiên và thán phục này, chúng ta phải đi đến một kết luận, đó là có Thiên Chúa và Ngài là Đấng quyền năng và thương xót, đã dựng nên, an bài sắp xếp và bảo tồn mọi sự. Hay như một câu danh ngôn đã bảo:
- Thiên nhiên là một cuốn sách vĩ đại, mà mỗi trang, mỗi dòng, mỗi chữ đều nói cho chúng ta biết về Thiên Chúa.
Vũ trụ này là một cuốn sách được mở ra để mời gọi con người tìm đọc lời ngỏ đầy yêu thương của Thiên Chúa.
Tiếp đến, khi nhìn vào lịch sử nhân loại, cũng như cuộc đời riêng tư, chúng ta cũng không khỏi ngạc nhiên trước biết bao ơn sủng mà Ngài đã trao ban, để rồi chúng ta sẽ khám phá ra bàn tay của Thiên Chúa luôn hướng dẫn và dìu dắt nhân loại, cũng như mỗi người chúng ta trên vạn nẻo đường đời.
Và giờ đây trước máng cỏ Bêlem, nếu thực sự biết ngạc nhiên, chúng ta sẽ khám phá ra tình thương bao la của Thiên Chúa. Thực vậy, lời hứa từ thuở ban sơ, hôm nay đã được thực hiện, Thiên Chúa đã tỏ bày tình thương của Ngài bằng cách trao ban cho chúng ta chính Con Một của Ngài, hay nói theo kiểu thánh Phaolô: Thiên Chúa bước xuống phận con người, để con người tiến lên ngôi Thiên Chúa.
Trước máng cỏ Bêlem, bằng cặp mắt đức tin hẳn chúng ta sẽ phải ngạc nhiên vì tình yêu Thiên Chúa đã dành cho chúng ta, để rồi từ sự ngạc nhiên ấy, chúng ta sẽ tin tưởng và phó thác cho tình yêu của Ngài. Khi gặp những sự may mắn, chúng ta dâng lên Ngài lời cảm tạ đã đành, mà ngay cả lúc khổ đau và đắng cay, chúng ta vẫn có thể nhận ra dấu ấn tình yêu của Ngài. Trong mọi sự, người biết ngạc nhiên sẽ luôn luôn nhận ra tình yêu của Thiên Chúa, bởi vì tất cả đều là hồng ân.
Ước gì trong Mùa Giáng Sinh này, chúng ta hãy đến bên hang đá máng cỏ, ngạc nhiên trước tình thương tuyệt vời của Thiên Chúa, để rồi dâng lên Ngài tâm tình cảm mến tri ân.
Vì sao gọi lễ cử hành hôm nay là “Đêm Thánh”? Nói cho ngay, về lịch sử, ta không có cơ sở nào để khẳng định rằng Hài Nhi Giêsu đã chào đời vào ban đêm. Đành rằng chúng ta có bản trình thuật kể chuyện các mục đồng canh giữ súc vật trong đêm tối và họ nghe sứ điệp từ trời báo tin về cuộc sinh hạ của Đấng Cứu Thế, nhưng tự nó, bản trình thuật ấy cũng không phải là bằng chứng cho phép ta kết luận rằng Đức Giêsu đã sinh ra vào ban đêm. Thế nhưng, truyền thống Kitô giáo vẫn luôn cho rằng cuộc chào đời hồng phúc này của Đấng Cứu Thế đã diễn ra trong một đêm tối. Người Đức thậm chí hội nhập niềm xác tín ấy vào chín tên gọi của lễ mừng: Weih-nacht (Đêm Thánh). Vì sao?
Đêm tối, đối với con người, vẫn có hai khía cạnh. Nó mang một ý nghĩa kép, một ý nghĩa “hàm hồ”- cũng như hầu hết mọi yếu tố khác trong cuộc đời này. Đêm tối gợi lên một cái gì thâm u, huyền bí, là thời gian mà không ai có thể làm việc- như Đức Giêsu nói đến trong Thánh Kinh. Đêm tối được cảm nhận gần như là sự chết. Đêm tối là bất định, bất quyết và hiểm nguy. Đêm tối là trùng khơi mịt mù. Vì thế, trong cảnh vực tôn giáo, đêm tối mang đầy ý nghĩa biểu tượng. Trong Thánh Kinh, đêm tối tượng trưng cho thời gian bất tín và tội lỗi, thời gian Chúa đến thăm và phán xét. Vì thế, Kitô hữu phải là con cái của ban ngày, họ phải chiếu sáng như những vì sao trong bóng đêm – để không bị bất ngờ bởi vị thẩm phán đến thình lình như kẻ trộm giữa đêm khuya. Chúng ta phải tỉnh thức, chúng ta không được ngủ say, chúng ta phải trỗi dậy và bước đi như thể đang bước đi giữa ánh sáng ban ngày.
Nhưng trong cảm nhận của con người, cũng được hàm chứa trong Thánh Kinh, đêm tối còn có một khía cạnh khác nữa. Đêm tối là lúc thinh lặng và rút lấy sức mạnh. Đó là lúc chỉ còn mình với mình, sẵn sàng đợi chờ và cho phép mọi sự triển nở, lớn lên. Chính vào lúc nửa đêm mà người ta nghe tiếng kêu: “Kìa chàng rể đến!”. Đêm tối trong Thánh Kinh còn là thời gian của những giấc mơ hướng vọng trời cao. Đêm tối là thời gian thoát ly khỏi những ràng buộc của nhịp sống ban ngày, nên đó là thời gian cầu nguyện – vì thế, Đức Giêsu đã trải qua những đêm trắng cầu nguyện cùng Cha. Đêm tối được nhìn nhận như công trình của Thiên Chúa – và tác giả Thánh vịnh có thể thốt lên: “Ngày là của Chúa, đêm cũng là của Chúa…” (Tv 74,16). Daniel (3,71) kêu gọi đến bóng đêm chúc tụng Thiên Chúa – và theo tác giả Thánh vịnh, “đêm này kể lại với đêm kia” sứ điệp về vinh quang Thiên Chúa (19,3), cũng như trời xanh mênh mông nhắc cho ta về sự vĩ đại của Ngài.
Tại sao chúng ta có thể cảm nhận về đêm tối theo những chiều hướng khác nhau như thế? Chúng ta kinh nghiệm đêm tối như một sự bắt đầu, như một cái gì đó vẫn còn bất định, nhưng cái đến sau đêm tối thì hết sức rõ ràng: đó là một bình minh rực rỡ! Tuy nhiên, sự bắt đầu và những khả năng ẩn chứa trong sự bắt đầu ấy thường rất bấp bênh – như một lời hứa nghe thật hay nhưng chưa được thực hiện, như một triển vọng to lớn nhưng chưa hiện thực, như một kế hoạch tuyệt vời nhưng chưa được triển khai… Tất cả đều còn đó ý nghĩa hàm hồ: vừa đầy hứa hẹn lại vừa đầy đe doạ, dự phóng sẵn đó rồi mà mục tiêu còn quá xa xôi và không chắc sẽ có ngày hoàn tất…
… Nhưng nếu có một đêm tối mà cái khởi điểm vô định lại mang sẵn trong mình nó sự chắc chắn hoàn thành, nếu có một đêm tối mang sẵn trong mình nó mối bảo đảm khải thắng, nếu có một đêm tối mở ra lời hứa song đồng thời cũng là lời hứa được lấp đầy … thì đêm ấy hẳn phải là Đêm Thánh. Đêm! Vì chỉ mới khởi đầu thôi. Đêm Thánh! Vì đây là một khởi đầu hồng phúc và tất thắng. Với một đêm như thế, chúng ta phải thốt lên: Ôi, Đêm Thiêng! Đêm Thánh! Như bài ca nào đó đã trở thành bất hủ: “Đêm Thánh vô cùng. Giây phút tưng bừng…”.
Không phải tình cờ mà vào thế kỷ thứ tư, lễ này được đặt vào đúng thời điểm mà thiên nhiên – cách riêng mặt trời – bắt đầu lại chu kỳ của nó. Thời ấy, người ta gán sự bắt đầu của “Mặt Trời Công Chính” (danh hiệu của Đấng Cứu Độ chúng ta theo sấm ngôn) cho ngày natalis solis invicti của dân ngoại, tức lễ mừng sinh nhật “thần mặt trời bất khuất”.
Một gán ghép vô cùng chính xác! Vì đây là phút giờ thánh thiêng. Đức tin cho các Kitô hữu biết rằng: Đây là sự khởi đầu. Thiên Chúa, từ ánh sáng chói lọi ‘khủng khiếp’ của Ngài, đã đến với chúng ta – thật lặng lẽ, thật êm dịu. Ngài đó, Thiên Chúa đó, đã âm thầm bước vào cõi dương trần khốn khổ của chúng ta. Ngài đã làm người, và Ngài bắt đầu một kiếp người y như chúng ta: rất bé nhỏ, rất mong manh, yếu ớt, bất lực. Ngài là tương lai vô cùng thăm thẳm mà chúng ta không bao giờ có thể tự mình vươn tới được – bởi vì, trên con đường gập ghềnh của cuộc sống mình, ta càng sấn đến, chân trời ấy càng lùi xa. Nhưng chính Ngài đã đến với ta, đã đến ở giữa ta – vì nếu chẳng vậy, ta sẽ không bao giờ có thể đến được với Ngài.
Ngài đồng hành với chúng ta trên con đường chúng ta đi về với Ngài – nhờ đó, con đường chúng ta đi chắc chắn có một đích điểm hồng phúc. Kỳ thực, đích điểm ấy đã hoá nên khởi điểm của chúng ta rồi. Thiên Chúa đã ở bên ta. Lời ân phúc vĩnh cửu của Ngài đã ở giữa chúng ta. Lời ấy gieo bước hành trình với ta, cảm nghiệm niềm vui nỗi buồn của ta, sống cuộc sống và chết cái chết của ta. Ngài đã cứu chuộc ta, bằng con đường san sẻ chính số phận của ta. Ngài lấy khởi điểm của ta làm khởi điểm của Ngài. Ngài bước đi trên con đường định mệnh của ta và – qua đó – mở định mệnh ấy ra tới tầm vô hạn của Thiên Chúa. Và bởi vì Ngài dứt khoát chấp nhận chúng ta, bởi vì Ngôi Lời Thiên Chúa sẽ không bao giờ ngừng là người, nên khởi điểm này – của ta và của Ngài – là khởi điểm của những lời hứa không thể xóa nhoà, và sự bắt đầu lặng lẽ của Ngài trong đêm tối ấy đã làm cho nó trở thành Đêm Thánh Thiêng!
Cử hành Giáng Sinh là cử hành mầu nhiệm Đêm Thánh ấy. Con tim chúng ta phải lắng đọng, thanh thoát, và phải mở rộng ra như quả tim của một trẻ thơ chưa hề biết khép lại trước bất cứ khả tính nào của hiện hữu mình, nhưng hoàn toàn sẵn sàng đón nhận tất cả…
Chúng ta phải dám ôm lấy sự yên lặng thâm u này vào tận đáy hồn mình bằng cách không chạy trốn vào công việc làm ăn, vào những cuộc chè chén hay những câu chuyện gẫu lê thê mà ta dùng để tránh né chính mình và tránh né mầu nhiệm phủ xuống trên mình (bởi vì – do lạ lẫm – chúng ta đâm ra hoảng sợ trước mầu nhiệm của tình yêu vô hạn ấy). Đêm Thánh là đêm mà cả cuộc sống của chúng ta cũng trở thành thánh thiêng; chúng ta không được phép xúc phạm đến Đêm Thánh bằng những cuộc vui quá đỗi trần tục. Tính cách chân tình, giản dị, hồn nhiên – vốn hoàn toàn phù hợp với Lễ này – cũng phải giữ cho được sự trong suốt trước mầu nhiệm khôn tả, mầu nhiệm làm cho người ta thân tình sâu xa với nhau và trao cho họ lời hứa xuân xanh mãi mãi.
Lễ Giáng Sinh phải được cử hành như nó đáng được cử hành, nếu không, nó sẽ tha hoá thành một lễ hội thuần tuý trần tục. Trong thinh lặng của Đêm Thánh cô tịch này và trong lòng dạt dào cảm mến, chúng ta chấp nhận rút vào trong đáy lòng mình tất cả những con người, những sự vật, những loay hoay căng thẳng vốn thường dễ che khuất không cho ta nhìn cái vô cùng – chỉ khi ấy chúng ta mới có thể cử hành Lễ Giáng Sinh đúng nghĩa. Đôi khi, ít nhất là trong một khoảnh khắc ngắn ngủi nào đó, người ta dập tắt những ánh sáng trần tục vốn che khuất không cho phép mình nhìn thấy sao trời, và người ta đặt mình trước sự hiện diện kỳ diệu khôn tả của Thiên Chúa, sự hiện diện “lên lời” bằng chính cái thinh lặng của nó, và ta chỉ có thể ‘nghe’ được nếu biết lắng nghe. Chúng ta hãy cảm nhận như khi một mình bước đi dưới bầu trời đêm đông đầy sao; Chúng ta vẫn nghe bịn rịn nhớ nhung hơi ấm của người thân và của tất cả những gì quen thuộc dưới mái nhà mình, nhưng phía trên đầu chúng ta là bầu trời, và trong sự yên ắng ấy của màn đêm (sự yên ắng mà vào những lúc khác có thể làm cho chúng ta kinh sợ), chúng ta bắt gặp sự hiện diện lặng lẽ của mầu nhiệm vô cùng: mầu nhiệm hiện hữu của mình, mầu nhiệm vừa đầy ắp tình yêu cứu độ vừa lớn lao khôn dò.
Giáng Sinh là Đêm Thánh! Cái tương lai vô cùng đã đi vào trong thời gian của chúng ta rồi. Ánh sáng chói loà của nó vẫn còn tràn ngập chúng ta. Và ta nghĩ chắc hẳn Chúa đã ra đời vào một đêm tối! Dù gì đi nữa thì đó cũng là đêm, một đêm hồng phúc, một đêm ngập tràn hơi ấm và ánh sáng, một đêm rất tuyệt diệu và rất thực – bởi không gì chắc chắn bằng ngày vĩnh cửu mà đêm này cưu mang trong mình nó. Tuy nhiên, đêm này chỉ là Đêm Thanh, Đêm Thánh cho chúng ta nếu chúng ta đón nhận sự yên lặng thánh của đêm này vào trong trái tim mình, nếu trái tim chúng ta thức tỉnh.
Sự yên lặng và cô tịch ấy nào quá gay go! Cái khó, nếu có, là cái khó chung của mọi điều cao cả: nó vừa thật đơn giản vừa rất lớn lao! Không khó, vì dĩ nhiên cái cô tịch vốn nằm sẵn trong ta. Trong trái tim ta vốn có một vùng sâu kín của riêng mình, một vùng mà không ai có thể dò dẫm tới ngoại trừ Thiên Chúa. Nơi sâu thẳm ấy thực có đó. Vấn đề là chúng ta ngu ngơ sợ hãi và tránh né nó – ta sợ, vì không ai và không gì quen thuộc trên đời này có thể đi theo mình nếu mình bước chân vào vùng đất ấy! Nào, đừng sợ nữa, hãy lặng lẽ bước vào và đóng cửa lại phía sau mình. Hãy lắng nghe giai điệu vô ngôn vang lên trong yên ắng của màn đêm cô tịch.
Ở đó, linh hồn ta tấu lên với Thiên Chúa khúc ca trầm lắng nhất và nồng nàn nhất. Và ta tin chắc rằng Ngài đang nghe mình rất rõ. Vì khúc ca ấy không còn phải kiếm tìm đến một Thiên Chúa trên trùng khơi thăm thẳm chẳng thể nào dò tới được. Chúa đã giáng sinh rồi, Ngôi Lời đã trở thành xác phàm, nên Ngài đang ở ngay đây – và lời nói thầm thì nhất trong đáy lòng ta, lời nói tỏ tình, sẽ được Ngài lắng nghe rất rõ. Và những ai đã bước vào trong cõi cô tịch của lòng mình như thế, ngay cả dù tối tăm thăm thẳm, nhất định sẽ nghe được tiếng thầm thì yêu thương của Ngài. Nào, đừng sợ đêm tối nữa, và hãy lắng hồn xuống. Nếu không, chúng ta sẽ chẳng nghe gì. Vì tiếng nói cuối cùng chỉ cất lên trong sự yên lặng của đêm tối – đêm tối đời ta – qua sự xuất hiện hồng phúc của Ngôi Lời. Ngài đã đến rồi đây.
Đêm Thánh vô cùng…
Giây phút tưng bừng…
Chúa giáng trần - Ga 1,1-18
"Từ nguyên thủy đã có Ngôi Lời, và Ngôi Lời vẫn ở với Thiên Chúa, và Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa." Chưa từng có một lời văn nào diễn tả về cuộc nhập thể của Chúa Giêsu một cách hào hùng và trang trọng như thế. Một Thiên Chúa toàn năng đã mặc lấy xác phàm loài người chúng ta. Ngài là sự sống và là ánh sáng thế gian (Gn 1,4). Thánh Gioan nói cho ta biết trong và qua Chúa Giêsu, Thiên Chúa mặc khải cho chúng ta về tình yêu của Ngài đối với nhân loại. Thế nhưng ở ngay giữa đoạn Thánh Kinh huyền nhiệm đó, chúng ta đọc thấy câu, "Ngài đã đến nhà các gia nhân Người và đã không được đón nhận." Sau đó, Thánh Gioan lại tiếp, "Chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang Người nhận được bởi Chúa Cha, như của Người Con Một đầy ân sủng và chân lý" (Gn 1,14). Ở đây, Thánh Gioan nhấn mạnh về mầu nhiệm tình thương bao la của Thiên Chúa. Cho dù có bị chối từ, Ngài vẫn đến để trao ban tình thương cho chúng ta. Thánh Gioan đã viết tiếp rằng những ai đón tiếp Ngài thì Ngài ban cho họ được quyền làm con Thiên Chúa.
Ở đây, chúng ta hãy tự đặt ra cho mình một câu hỏi, "Làm sao để chúng ta có thể được quyền làm con Thiên Chúa? là công dân Nước Trời?" Câu trả lời chúng ta tìm thấy ngay trong Phúc Âm.
"Hãy để những trẻ nhỏ đến cùng Thầy," Chúa Giêsu đã phán với các môn đệ. "Nước Thiên Chúa thuộc về những kẻ giống như chúng. Hãy tin Ta, nếu ai không đón nhận Nước Thiên Chúa giống như chúng thì chẳng được vào Nước Trời" (Lc 18,16-17). Thật đáng tiếc là trong cuộc sống thực tế, chúng ta đang phải cảm nghiệm những cực đoan của xã hội. Mừng Giáng Sinh không có nghĩa là chúng ta được giải thoát khỏi cái thế giới đầy hỗn độn này. Hôm nay chúng ta tụ tập nơi đây để chia sẻ niềm vui và nỗi khổ của nhau. Chúng ta không thể phủ nhận sự hiện diện của những thử thách và gian nan trong cuộc sống của mỗi cá nhân. Có lẽ một số các bạn bây giờ đang phải khổ não phiền muộn. Một số người trong chúng ta đang suy tư về sự hiện hữu của mình. Các nước đang chiến tranh với nhau. Nhiều người đang phải đói khổ. Những tên khủng bố đang ngầm phá. Các nước lớn đang dự trữ vũ khí nguyên tử để hăm dọa nhau. Thế nhưng giữa những điều tiêu cực đó, sứ điệp của Giáng Sinh nói với chúng ta rằng Thiên Chúa sẽ toàn thắng và sự dữ không thể thắng được Ngài. Không bao giờ!
Trong giây phút linh thiêng của ngày Lễ Giáng Sinh, các bạn hãy để cho tâm hồn mình mở rộng để bình an của Chúa đổ tràn vào. Hãy trở nên những trẻ nhỏ. Hãy thưa tiếng "Xin Vâng" với Thiên Chúa. Ngài sẽ làm tất cả. Ngài sẽ tẩy rửa và chữa lành chúng ta, và ban cho chúng ta sự sống mới. Ngài còn chỉ cho chúng ta con đường công chính dẫn đến ơn cứu độ. Ngài sẽ ban cho chúng ta sức mạnh để chúng ta có thể chu toàn nhiệm vụ của chúng ta.
Khi chúng ta còn đang nói về câu truyện Giáng Sinh, thì có lẽ chúng ta còn phải tưởng nghĩ đến một phần của câu truyện Giáng Sinh nữa là phần Đức Maria đang ngồi trên lưng con lừa đi bên cạnh Thánh Giuse trên con đường gồ ghề lởm chởm từ Galilêa đến Giuđêa. Khi đến Bethlehem, thì cả hai đều phải đối diện với một sự tủi khổ đó là cái nghèo. Chuyện xảy ra cách đây hai ngàn năm cũng đang xảy ra ngày nay. Nếu các bạn có tiền, các bạn có thể tìm được chỗ ở khách sạn, cho dù khách sạn đó có ghi câu "hết chỗ" (No Vacancy). Thánh Giuse và Đức Mẹ đều không có tiền nên cả hai đã đi ra cánh đồng và ở trọ trong một hang bò lừa. Sau khi sinh ra, Gia Đình Thánh Gia còn chưa được ổn định. Vua Hêrôđê đã lùng bắt Chúa Giêsu để giết, và cả ba Đấng Thánh lại phải chạy trốn sang Ai-Cập. Những chuyện bất công, lừa dối, giết chóc, kiêu căng, nghèo khổ... tất cả đều có đầy đủ trong câu truyện Giáng Sinh. Giáng Sinh không chỉ là một cuộc vui mừng đượm bằng những cây thông, gói quà, kẹo ngọt... nhưng là một sứ điệp rằng Chúa Giêsu đã xuống thế gian với chúng ta để chia sẻ cho chúng ta tình yêu bao la của Ngài. Tình yêu của Ngài ở với chúng ta trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời.
Xin các bạn hãy lãnh nhận lấy Chúa Hài Đồng để Ngài ban cho các bạn sức mạnh và tình yêu để các bạn có thể chia sẻ những ơn ấy cho người khác.
Xin kính chúc tất cả các bạn được an hưởng một mùa Giáng Sinh đầy tràn ơn bình an và hạnh phúc của Chúa Hài Đồng!
Câu hỏi gợi ý:
1. Nếu bạn khám phá ra cha bạn - một người rất giàu có - đã xếp đặt để mẹ bạn sinh bạn ra trong một chuồng bò hay chuồng heo của nhà ai đó, bạn sẽ nghĩ thế nào về cha của bạn? Bạn lý giải thế nào về việc Thiên Chúa đã quan phòng để Đức Giê-su, Con Ngài, ra chào đời trong một chuồng bò?
2. Đặt mình vào địa vị của Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se, bạn sẽ nghĩ và nói thế nào về Thiên Chúa khi hai Ngài phải rời Na-da-rét vào Bê-lem, không tìm được chỗ trọ, và phải sinh con trong chuồng bò?
3. Tại sao Thiên Chúa lại để cho Đức Giê-su phải chịu đau khổ, nhục nhã từ khi sinh ra đến lúc chết? Thiên Chúa ghét và muốn hành hạ Con của Ngài chăng? Nếu không, phải lý giải thế nào về sự kiện ấy?
Chia Sẻ
1. Con Thiên Chúa cao sang lại sinh ra trong cảnh tột hèn kém
Chúng ta thử tưởng tượng xem một vị hoàng đế trần gian nếu biết trước đứa con mình sinh ra sẽ là vị cứu tinh của trần gian, thì hoàng đế ấy sẽ chuẩn bị cho người con ấy chào đời như thế nào? Chắc chắn ông sẽ chuẩn bị cho con mình một nơi thật xứng đáng, với quần áo, tã lót, chăn mền... thật sang trọng. Và cũng tạo những điều kiện thuận lợi nhất cho người mẹ sẽ sinh ra con mình. Chính vì tưởng rằng Thiên Chúa trên trời cũng suy nghĩ như mình, nên người Do Thái thời Đức Giê-su đã tưởng Đấng Cứu Thế sẽ phải sinh ra trong cung vàng điện ngọc. Nhưng họ không ngờ Thiên Chúa suy nghĩ khác hẳn với cách nghĩ của họ!
Theo Tin Mừng, Đức Giê-su đã sinh ra trong hang bò lừa. Đã là chỗ nuôi và chứa sức vật đương nhiên phải hôi tanh và bẩn thỉu. Chắc chắn Giu-se và Ma-ri-a phải hết sức ngỡ ngàng khi thấy Thiên Chúa đối xử với mình, nhất là với Đấng Cứu Thế hài nhi như vậy! Nhục nhã thay cho Đấng Cứu Thế! Bất kỳ ai biết mình chào đời trong một chỗ tối tăm và nhục nhã tận cùng như thế đều không tránh được mặc cảm cho rằng cuộc đời mình cũng sẽ tối tăm và nhục nhã như thế!? Trước sự thật phũ phàng trước mắt, chắc hẳn phải có lúc hai ông bà nghi ngờ rằng: liệu lời thiên sứ nói với mình về đứa trẻ mình sinh ra có thật hay không? Nghi ngờ để rồi lại tự nhủ, tự an ủi, tự tìm lấy lý do để cố mà tin cho vững hơn! Thực tế thật phũ phàng, nhưng đó lại chính là thánh ý của Thiên Chúa. Muốn cứu thế giới khỏi những nhơ nhớp của tội lỗi, Con của Ngài cũng phải nhập thể từ chốn nhơ nhớp nhất của trần thế! Muốn đưa con người lên thật cao, Thiên Chúa nhập thể phải xuống cho thật thấp, thấp đến tận cùng!
2. Cách xếp đặt của Thiên Chúa… thật hết sức nghịch lý!
Thật là nghịch lý và không thể hiểu nổi cách Thiên Chúa đối xử với người Con độc nhất và hết sức yêu quí của Ngài, và với hai người đặc biệt mà Ngài chọn để hạ sinh, bảo vệ và nuôi dưỡng người Con ấy! Giu-se và Ma-ri-a đang sống yên lành tại Na-da-rét, những tưởng đứa con trong bụng nàng sẽ ra đời tại nhà mình ở làng ấy. Chắc hẳn chàng và nàng đã mua sắm đồ này vật nọ để chuẩn bị cho xứng đáng với chức vị cao cả của đứa bé sắp chào đời! Nào ngờ chiếu chỉ kiểm tra dân số của Hoàng Đế Rô-ma đã đảo lộn tất cả, đã đẩy đôi trai gái đức hạnh - chỉ biết nghĩ đến thánh ý Thiên Chúa - vào một cuộc phiêu lưu bất ngờ đầy gian khổ!
Từ làng Na-da-rét vùng Ga-li-lê thuộc miền Bắc Do Thái, chàng và nàng phải vượt qua vùng Sa-ma-ri đầy đồi núi của miền Trung để về tận làng Bêlem vùng Giuđê thuộc miền Nam Do Thái. Đường chim bay đo theo tỷ lệ xích trên bản đồ cũng phải là 120 cây số, đường ngòng ngoèo trong thực tế hẳn phải trên 150 cây. Thời ấy có lẽ hai người phải dùng một con la để di chuyển. Hành trình chắc chắn vất vả! Điều nghịch lý nhất nằm ở chỗ Thiên Chúa lại quan phòng cho ngày phải di chuyển ấy xảy ra khi Ma-ri-a mang thai đến thời kỳ sinh nở. Sau một hành trình vất vả như thế, khi tới nơi những tưởng Thiên Chúa sẽ dành cho Con của Ngài một chỗ để sinh nở tương đối xứng đáng, nhưng khốn thay... tất cả mọi người mọi nơi đều từ chối! Nếu hai ông bà có tiền, chắc hẳn không đến nỗi! Chưa sinh ra, Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể đã phải đối diện với sự ích kỷ và tính coi trọng tiền bạc hơn tình nghĩa của con người! Không kiếm được chỗ để trọ và sinh con, hai ông bà đành trọ và sinh con trong chuồng súc vật!
Kết quả của những nghịch lý ấy là gì? ai phải khổ đây? Cả gia đình gồm 3 người Giu-se, Ma-ri-a và Giê-su là khổ nhất. Phải chăng Thiên Chúa ghét và muốn đày đọa gia đình này? Chắc chắn không phải! - Có thể nói đây là gia đình quan trọng nhất, được Thiên Chúa quan tâm, ưu ái đặc biệt nhất! Vì thế, nếu đã xảy ra như vậy - đương nhiên là do sự quan phòng vô cùng khôn ngoan của Thiên Chúa - thì ắt hẳn đây phải là cách có lợi nhất cho đại cuộc cứu chuộc nhân loại. Như vậy, vì đại cuộc, Thiên Chúa buộc những “người của Ngài” phải hy sinh, phải chấp nhận nhục nhã, đau khổ hơn những người khác. Nhưng bù lại, Ngài sẽ ân thưởng cho “người của Ngài” vinh quang, hạnh phúc cao quí nhất!
3. Nghịch lý... nhưng lại rất hợp lý và khôn ngoan
Như vậy ta thấy Thiên Chúa coi hạnh phúc hay đau khổ, vinh quang hay nhục nhã chóng qua trong hiện tại không quan trọng bằng hạnh phúc hay đau khổ, vinh quang hay nhục nhã lâu dài trong tương lai. Nếu phải chịu khổ hay chịu nhục một chút trong hiện tại để rồi được hạnh phúc hay vinh quang lâu dài trong tương lai, thì ai khôn ngoan cũng đều sẵn sàng chấp nhận. Còn nếu được hưởng hạnh phúc hay vinh quang thật ngắn ngủi trong hiện tại để rồi phải chịu đau khổ và nhục nhã lâu dài trong tương lai, thì chỉ có người ngu mới chấp nhận! Những cha mẹ thật sự yêu thương con cái sẵn sàng chọn lựa để con cái mình phải đau khổ hay chịu nhục nhã một chút hầu về sau chúng được hạnh phúc và vinh quang lâu dài. Bạn chưa tin ư? Này nhé, giả như bạn phải chọn lựa cho bạn hoặc cho con cái bạn giữa ba khả thể sau đây, thì bạn chọn khả thể nào: một là đau khổ hiện tại 1 mà hạnh phúc tương lai 10, hai là đau khổ hiện tại 2 mà hạnh phúc tương lai 100, và ba là đau khổ hiện tại 3 mà hạnh phúc tương lai 1.000? Chắc chắn bạn sẽ chọn khả thể thứ ba. Thiên Chúa cũng chọn lựa cho những người Ngài đặc biệt yêu thương tương tự như vậy. Chính vì thế, Ngài sẵn sàng để Đức Giê-su, Người Con độc nhất mà Ngài yêu quý nhất phải chịu đau khổ và nhục nhã ngay từ khi chào đời đến giây phút cuối cùng của cuộc đời để cứu chuộc nhân loại, hầu cuối cùng, trong vĩnh cửu, Đức Giê-su trở thành người hạnh phúc và vinh quang nhất không ai sánh bằng!
Nếu ta biết nhìn bằng con mắt đức tin và khôn ngoan như thế, thì việc Đức Giê-su phải chịu đau khổ và nhục nhã từ khi sinh ra cho đến hết cuộc đời sẽ trở thành một sự kiện bảo đảm, một căn cứ để hy vọng, và một niềm an ủi lớn lao cho ta khi ta gặp phải những đau khổ lớn lao trong cuộc đời. Khi Thiên Chúa dành cho chúng ta đau khổ hay nhục nhã trong hiện tại, thì điều đó không có nghĩa là Ngài ghét bỏ ta. Trái lại có thể là Ngài đang dành cho ta một ưu đãi, một sự yêu thương đặc biệt mà ta có quyền chấp nhận hay từ chối. Nếu tự nguyện chấp nhận thì hạnh phúc và vinh quang của ta sẽ rất lớn, và lớn thế nào tùy thuộc vào chất lượng sự tự nguyện của ta và mức độ đau khổ ta sẵn sàng đón nhận. Nếu từ chối, ta sẽ bỏ lỡ một cơ hội quí báu mà Thiên Chúa vì yêu thương đã dành cho ta, vì “những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta!” (Rm 8,18).
Vậy, người thường hay kẻ không tin kêu ca về nghịch cảnh, về đau khổ mình phải chịu thì không có gì là lạ. Nhưng người Ki-tô hữu, người mang danh theo Chúa, người có lý tưởng tông đồ, người được Chúa chọn, được mang danh là “người của Ngài”, mà lại than vãn khi gặp nghịch cảnh thì quả là... vẫn còn sống theo tính xác thịt, như thánh Phao-lô đã phiền trách: “Tôi không thể nói với anh em như với những con người sống theo Thần Khí, nhưng như với những con người sống theo tính xác thịt, như với những trẻ nhỏ trong Đức Ki-tô. Tôi đã cho anh em uống sữa chứ không cho dùng thức ăn, vì anh em chưa chịu nổi. Nhưng bây giờ anh em cũng vẫn còn không chịu nổi, vì anh em còn là những con người sống theo tính xác thịt” (1Cr 3,1-3).
Cầu nguyện
Lạy Cha, Đức Giê-su sinh ra thật nhục nhã và sống một cuộc đời đầy đau khổ, nhưng đã sống lại trong vinh quang và trở thành Chúa Tể trời đất. Qua sự việc ấy con mới hiểu được giá trị của đau khổ. Đúng lý ra khi gặp đau khổ, nhục nhã, trái ý… con phải vui mừng vì biết khi cho phép xảy ra như vậy là Cha thương con cùng một cách như Cha đã từng thương Đức Giê-su và bao vị thánh của Cha. Đúng ra con nên nói “con được đau khổ” chứ không phải “con bị đau khổ”!
Đã biết bao nhiêu đêm như đêm nay đã đến với đời mỗi người chúng ta. Thế mà cứ mỗi lần nhìn thấy hang đá, ngắm những trang trí lạ mắt, ánh sáng rực rỡ lung linh, tiếng đàn tiếng hát du dương hớn hở, chung quanh ai nấy ăn mặc, trang điểm xinh đẹp thì tâm hồn chúng ta lại dâng trào niềm vui khôn tả. Chính lúc ngây ngất sung sướng đó, mỗi người chúng ta không thể không đưa mắt chiêm ngắm Chúa Hài đồng xinh xắn mà thương mến mà thầm ước.
Và có lẽ, trong giây phút linh thiêng trang trọng này, ai cũng tự hỏi mình phải làm gì cho Chúa hài đồng vui lòng đây, mình nên dâng cái gì quí nhất đây để tỏ lòng yêu Chúa. Chắc mọi người nghĩ ra nhiều việc hay, tưởng tượng nhiều quà quí hiếm để tiến dâng. Nhưng câu chuyện sau đây muốn trình bày cho chúng ta thấy một món quà Chúa ưa thích nhất:
Số là đúng cái đêm Chúa sinh ra như đêm nay, các thú vật chung quanh Bêlem đều tới mừng Chúa và mỗi con đều dâng Chúa một món quà nhỏ: Chị bò cái dâng sữa, anh Lừa hà hơi sưởi ấm, cậu Khỉ biếu Chúa mấy trái nho, chú Sóc biểu diễn một điệu nhảy đẹp mắt, Bé Vàng khuyên hát một bài du dương, cậu Bướm tình nguyện làm đồ chơi. Chúa Hài đồng vui vẻ nhận tất cả. Đang lúc các thú vui thích quây quần bên Chúa thì chàng Cáo xuất hiện. Mọi thú đều ghét cáo vì nó gian manh xảo quyệt. Chúng chặn đường không cho Cáo đến gần Chúa. Thấy thế, Chúa can thiệp và ra hiệu cho Cáo vào. Cáo đến quỳ bên Chúa thì thầm nói với Chúa một hồi. Thấy Chúa thích thú đến độ đặt hai tay trên đầu cáo tỏ dấu ưng nhận và chúc lành. Riêng Cáo hớn hở, vui tươi lễ phép đứng lên cáo biệt rồi đi thẳng. Những con vật khác tức tối, tò mò hỏi Chúa Cáo đã dâng gì cho Ngài mà Ngài thích thú như vậy. Mỉm cười Chúa đáp:”Cáo đã dâng cái mà ta thích nhất: Đó là những tội lỗi của nó”.
Nghe thế ai mà chẳng bỡ ngỡ vì tưởng gì chứ tội lỗi ai mà chẳng có, lại có rất nhiều. Nhưng có lẽ ai cũng thắc mắc tại sao Chúa lại ưa cái thứ quỉ quái xấu xa đó? Có gì lạ đâu, cứ nhìn vào máng cỏ nghèo hèn, rồi nhìn vào thân phận yếu đuối của ta mà Chúa đã bỏ trời cao xuống trần mang lấy để gánh chịu mọi hậu quả của tội lỗi mà cứu thoát chúng ta. Vì khi ai biết cho Chúa mọi tội lỗi của mình thì người đó đã nhận ra sự hy sinh cao cả và tình yêu vô biên của Chúa.
Và rồi chúng ta tự hỏi cái gì trên cõi đời này làm cho con người phải điêu đứng khổ sở, phải lo lắng bối rối, phải ray rứt hối hận? Dĩ nhiên, tất cả bởi tội mà ra. Hơn nữa, khi Ngôi Hai xuống thế làm người là Ngài mong muốn chúng ta được an vui, hạnh phúc đích thực, nhưng chỉ còn một trở ngại ngăn cản cuối cùng là tội lỗi. Vì thế ai muốn có sự bình an thật thì phải dâng tội cho Chúa vì chỉ có Chúa mới tẩy xóa được chúng và giúp con người trở nên bạn hữu của Ngài.
Vậy khi dâng tội cho Chúa tức là chúng ta dâng trót cuộc đời còn lại của mình để cố gắng chừa cải ăn năn, để chỉ ước muốn làm điều đẹp lòng Chúa. Đổi lại, Chúa sẽ ban cho mỗi người chúng ta một tặng phẩm quí giá: Đó là sự anbình vui tươi của đêm thánh hôm nay đem lại cho mọi người thiện tâm thiện chí.
Trời vừa rạng sáng, sao vừa biến và người khách cuối cùng vừa từ giã, mẹ Maria xếp lại đống rơm và Hài nhi thiu ngủ… Bỗng, cánh cửa của chuồng bò kẹt mở. Một người đàn bà xuất hiện, áo rách rưới, da nhăn nheo đến độ khuôn mặt tóp lại trông dễ sợ. Thấy bà, Mẹ Maria sợ như thể một mụ phù thủy mang xui xẻo đến. May thay, Hài nhi thiếp ngủ, bò lừa đang nhai rơm yên lành. Còn Mẹ Maria không ngớt theo dõi. Mỗi bước chân của bà già đối với Mẹ Maria hình như dài cả thế kỷ. Bà ta vẫn tiếp tục bước và đã đến bên máng cỏ. Bất chợt Bé Giêsu mở mắt nhìn và mẹ Maria hết sức ngạc nhiên khi thấy đôi mắt Con Mẹ và đôi mắt của bà già sao mà giống nhau như thể ánh lên cùng một niềm hy vọng. Đoạn bà già thò bàn tay khẳng khiu vào bọc áo tồi tàn mò tìm một vật gì cất rất kỹ. Mẹ Maria vẫn lo lắng quan sát và các con vật vẫn thản nhiên. Cuối cùng, bà ta hình như đã tìm được và lôi ra khỏi bọc một vật dấu trong bàn tay, rồi trao lại cho Hài nhi. Không biết quà tặng là cái gì và bà già là ai mà có vẻ bí hiểm. Mẹ Maria chỉ thấy chiếc lưng còng cúi xuống khá lâu trên chiếc nôi. Rồi bà già đứng thẳng dậy như trút được một gánh nặng trên hai vai, khuôn mặt rạng rỡ như tìm lại được vẻ trẻ trung cách kỳ diệu. Sau đó, bà ta từ từ rời khỏi nơi Hài nhi và biến mất vào đêm tối. Bây giờ mẹ Maria mới thấy được món quà tặng của bà già và biết rõ bà ta là ai. Thì ra, bà già ấy chính là Eva vừa trao lại cho Hài nhi một trái táo nhỏ. Trái táo của tội nguyên tổ. Và trái táo đó rạng ngời trong đôi tay xinh xắn của Hài nhi như một quả địa cầu của thế giới vừa mới được tái tạo nhờ Hài nhi.
Vậy có thể nói rằng ngay từ khi Ngôi Lời đã hóa thành nhục thể đến ở giữa trần gian thì tất cả mọi tạo vật, kể cả tội nguyên tổ, đều được biến đổi, thăng hoa, ẩn chứa hồng ân cứu độ, phản ảnh tình thương của Thiên Chúa. Đặc biệt, đối với con người nhờ việc Ngôi Hai mặc lấy bản tính của họ nên họ được vinh dự lớn lao là trở thành tạo vật mới đầu tiên ở trong Chúa hài đồng.
Tuy nhiên, bất cứ một cuộc biến đổi nào muốn đi tới thành công mỹ mãn đều phải trải qua ba giai đoạn then chốt này: Một là xác định rõ hướng đi; hai là hợp tác chặt chẽ; ba là kiên trì theo đuổi đến cùng. Nhất là cuộc biến đổi hóa thần từ một bản tính yếu đuối tội lỗi thành một bản tính thần thiêng cao vời lại càng đòi buộc con người nhiều hơn nữa nếu con người muốn hóa thần thành công.
Thứ nhất là hướng đi. Đã là con người ai cũng cảm thấy thân phận mình thật mỏng dòn, yếu đuối, hay hướng chiều theo đam mê sa đọa, lúc nào cũng cảm thấy ray rứt bất an, luôn khao khát tìm kiếm mà không bao giờ được thỏa mãn. Tất cả những biểu hiện đó là do tội nguyên tổ gây ra, khiến con người cứ chìm đắm trong bến mê, thất vọng. Khi phải sống trong một tình trạng khốn khổ đó mà có ai đủ khả năng giải thoát con người khỏi bóng tối đến với ánh sáng, từ bị luận phạt giam tù đến chỗ tự do, từ đau khổ đến bến bờ hạnh phúc, chắc chắn người ta không bao giờ để tuột mất cơ hội ngàn vàng. Đó là Ngôi Hai giáng trần, một hướng đạo tài năng, một ánh sao lạ dẫn đường chỉ lối cho nhân loại được cứu thoát.
Thứ hai là hợp tác. Khi đã xác định được hướng đi mà muốn thành công, hai bên phải biết hợp tác để cùng hành động và hỗ trợ cho nhau. Về phía Chúa, nguyên việc xuống thế, mặc lấy thân phận hư hèn của con người cũng đã đủ để nói lên tình thương và thiện ý của Ngài là muốn cứu thoát tất cả mọi người. Do đó, Ngài không từ chối bất cứ việc gì, ngoại trừ tội lỗi, để giúp con người đi tới hạnh phúc, nên Ngài đã không ngần ngại phó mạng sống và quyền năng của Ngài cho con người sử dụng. Còn về phía con người muốn đón nhận hồng ân cứu rỗi và hạnh phúc vĩnh cửu Chúa ban, đương nhiên phải biết hợp tác với Ngài bằng cách nhiệt tâm, tin tưởng, vâng theo những sự chỉ dẫn của Ngài. Nói khác đi, con người muốn được cứu thoát phải biết tiếp nhận Chúa như là bạn đường, như là khách quí mời vào trọ trong nhà mình để yêu mến, phục vụ Ngài tận tình chu đáo. Tất nhiên, khi có Chúa ở cùng, con người phải từ bỏ mình cùng với những xấu xa, coi ma quỷ như kẻ thù không đội trời chung…
Cuối cùng khi đã quyết chí lên đường theo Chúa để có thể đi đến cuối con đường của hạnh phúc đích thực được thì phải có lòng kiên trì bền vững luôn. Đây là một điều kiện then chốt vì con đường đến với Chúa và cùng đi với Ngài không phải là một con đường thoải mái, dễ dàng, nếu không có chí sắt đá, không có lòng kiên định thì khó mà đi trọn vẹn. Bởi vì, tin tưởng và chấp nhận đi theo Chúa không phải một vài lần là được mà phải chấp nhận suốt đời và cũng không phải lúc nào đời người đều bình yên lặng gió mà là luôn có trở ngại thử thách đủ thứ. Vì thế, chỉ có những ai bám chặt vào Chúa thì kẻ đó mới đến đích bình an.
Chúa vì thương con người đã làm một cuộc đổi đời kỳ lạ từ trời xuống đất, từ Chúa thành người để cứu vớt và đưa con người lên hàng thần thánh. Còn con người muốn được hóa thần phải biết đổi đời từ tối thành ánh sáng, từ hư hèn thành bất diệt.
Trong đêm Giáng sinh, sứ thần Chúa đã hát vang trên cánh đồng Bêlem:
- Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
Bình an dưới thế cho người thiện tâm.
Vào buổi sáng ngày Chúa nhật Phục sinh, Chúa Giêsu đã hiện ra và chào chúc các môn đệ:
- Bình an cho các con.
Ngài cũng đã xác quyết:
- Thầy ban bình an của Thầy cho các con.
Vậy sự bình an mà Chúa trao ban cho chúng ta là sự bình an như thế nào?
Trước hết đó phải là sự bình an trong tâm hồn qua việc giải thoát chúng ta khỏ sự kìm kẹp của tội lỗi, giao hòa chúng ta với Chúa. Thực vậy, sự bình an bên ngoài chỉ có thể được xuất phát từ bên trong, từ tâm hồn, từ cõi lòng mà thôi. Bao lâu chúng ta còn sống trong tội lỗi, trong sự thù địch với Chúa, thì chúng ta còn băn khoăn, còn lo lắng, Chính sự bình an nội tâm này sẽ phản chiếu trên khuôn mặt và trên cuộc sống, làm cho chúng ta được vui mừng và hạnh phúc, dù hiện tại có gặp phải những túng cực và khổ đau. Chính trong chiều hướng ấy, Chúa Giêsu đã phán hứa:
- Phúc cho những ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.
Cũng trong chiều hướng này, Ngài đã xuống thế làm người để cứu chuộc chúng ta. Ngài đã giải thoát chúng ta khỏi sự kìm kẹp của tội lỗi. Ngài đã bắc lại nhịp cầu đa gẫy, nối liền trời với đất. Ngài đã hòa giải chúng ta với Thiên Chúa. Ngài đã trả lại cho chúng ta địa vị làm con cái Chúa.
Tuy nhiên, sự bình an nội tâm không phải là một quà tặng từ trời rơi xuống, mà hơn thế nữa, nó còn phải là kết quả của những cố gắng cộng tác với ơn thánh, những nỗ lực tìm kiến và xây dựng nơi chính bản thân mình, bởi vì sự bình an chỉ có cho những người thiện tâm mà thôi.
Sự bình an nội tâm này còn là nền tảng để chúng ta vun trồng một cách tốt đẹp những mối liên hệ với người chung quanh từ gia đình đến xã hội.
Trước hết là gia đình.
Như chúng đã biết gia đình ngày nay đang lâm vào một cuộc khủng hoảng trầm trọng. Nó như một cây đã bị cắt mất rễ, thì làm sao sống nổi. Gia đình là trái tim nhân loại. Nếu trái tim này mà bị đau yếu, thì làm sao nhân loại được khỏe mạnh. Gia đình phải là sợi dây liên kết đầy yêu thương, phải là nơi cho sự bình an ngự trị, bằng cách quên đi va tha thứ, nhường nhịn và chịu đựng lẫn nhau theo tinh thần Phúc Âm.
Một khi tâm hồn chúng ta đã ổn định qua việc hòa giải với Chúa, thì chắc chắn gia đình chúng ta cũng sẽ được êm ấm qua việc yêu thương nhau. Lúc đó sự bình an sẽ chiếu sáng qua mọi biên giới.
Và như vậy chúng ta đã bước vào lãnh vực xã hội.
Các cụ ta ngày xưa đã bảo:
- Phải tu thân, tề gia, rồi sau đó mới trị quốc và bình thiên hạ.
Cũng trong chiều hướng áy, Đức Hồng Y Feltin đã nói:
- Đây là lúc người tín hữu phải rời bỏ tháp chuông, phải rời bỏ quốc gia nhỏ bé của mình để hướng tới cộng đồng thế giới, bởi vì tất cả đều là anh em với nhau, cùng có chung một người cha và cùng được dựng nên theo hình ảnh Ngài. Như thế, mọi cuộc chiến tranh đều là những cuộc huynh đệ tương tàn, anh em sát hại lẫn nhau và làm cho máu Đức Kitô phải đổ ra một lần nữa, vì chúng ta đều là những chi thể của Ngài.
Thế nhưng ngày nay, viễn ảnh một cuộc chiến tranh thẳm khốc với những vũ khí tốt tân là như một cơn mộng dữ, luôn ám ảnh và đè nặng trên con người, cùng với nó là những sự tàn phá khủng khiếp nhất. Những phương tiện tự nhiên như hòa đàm, thương nghị mà thôi chưa đủ, chúng ta còn phải cần đến những phương tiện siêu nhiên, đó là sụ cầu nguyện và một cuộc sống được đổi mới theo tinh thần của Chúa.
Có một thi sĩ đã kể lị giấc mơ của mình như sau:
Bấy giờ Thiên Chúa ngự trên tòa và những người quyền thế nhất trần gian bắt đầu xuất hiện. Ngài hỏi Maisen:
- Con đã trao cho dân chúng những gì?
- Lạy Chúa, con trao cho họ những giới luật.
- Và họ đã làm chi?
- Họ đã phạm tội.
Ngài hỏi Napoléon, vị vua bách chiến bách thắng:
- Ngươi đem lại cho dân chúng những gì?
- Lạy Chúa, con đem lại cho họ vinh quang.
- Và họ đã làm chi?
- Họ đã bị tủi nhục.
Sau cùng, Ngài hỏi Đức Kitô:
- Con mang đến cho trần gian những gì?
- Con đã mang đến sự bình an.
- Và họ đã làm chi?
Đức Kitô không trả lời. Ngài úp mặt vào lòng bàn tay bị mang dấu đanh và Ngài đã khóc.
Đó là một giấc mơ, nói lên một sự thật. Ngày nay hơn bao giờ hết, Chúa Giêsu cũng khóc và giơ hai bàn tay mang những dấu đanh cho chúng ta chiêm ngưỡng, là như dấu ấn của sự hòa bình mà Ngài đã kiến tạo, đã xây dựng.
Hãy trở nên những chiến sĩ hòa bình, khởi đi từ tâm hồn bằng cách tẩy trừ tội lỗi, cho đến gia đình bằng một cuộc sống yêu thương và tha thứ, để rồi lan rộng ra ngoài xã hội, bằng sự hòa giải và cảm thông, để ở mọi nơi và trong mọi lúc, con người luôn được hưởng sự bình an mà Chúa Hài nhi đã đem đến nơi máng cỏ Bêlem.
“Thiên Chúa là Tình yêu: chính bản chất của Thiên Chúa là Tình yêu. Khi thời gian đã viên mãn, qua việc sai Con Một Ngài và Thánh Thần của Tình yêu, Thiên Chúa đã bày tỏ bí mật sâu xa nhất của mình: chính bản thân Ngài là một sự trao đổi đời đời của tình yêu Cha, Con, Thánh Thần, và Ngài muốn chúng ta thông phần vào tình yêu này”.
Hôm nay chúng ta cử hành biến cố vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại: Sinh nhật của Chúa Giêsu Kitô. Sự Giáng sinh của “Đấng Cứu Chuộc thế giới là trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và nhân loại, và chúng ta không thể được cứu độ nhờ Danh nào khác dưới gầm trời này”.
Sự Nhập Thể đó được diễn tả trong bài Phúc âm hôm nay: “Và Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta”. Theo tiếng Hy Lạp chữ “cư ngụ giữa chúng ta” có nghĩa là: “Thiên Chúa cắm lều của Ngài ở giữa chúng ta”. Biến cố vĩ đại này của Thiên Chúa đi vào lịch sử nhân loại trong con người của Hài Nhi Giêsu được gọi là sự Nhập Thể: Thiên Chúa mang lấy thân xác con người.
Nhà huyền bí Kitô giáo An Độ, Sadhu Sundar Singh, đã diễn tả mầu nhiệm Nhập thể của Chúa Giêsu Kitô qua câu chuyện được kể lại sau đây:
Xưa kia một ông vua có vị cố vấn, the Vizier, một người rất hiểu biết và thánh thiện. Đang khi hành hương trên đất thánh ở Palestine, the Vizier đã bị xúc động sâu xa vì câu chuyện của Chúa Giêsu Kitô. Ông đã xin trở thành một Kitô hữu, đã tin vào Đấng Cứu Thế, là Đấng đã đến thế gian để cứu chuộc những con người tội lỗi.
Khi trở về, vua đã thắc mắc và hỏi ông rằng: “Nếu tôi muốn làm bất cứ điều gì, tôi truyền lệnh cho đầy tớ của tôi thì việc đó được thi hành ngay lập tức. Vậy tại sao vị vua của các vua có thể cứu nhân loại bởi một lệnh truyền lại phải đích thân đến trần gian này và nhập thể làm người để làm gì?” Ông cố vấn xin vua cho một ngày ân huệ trước khi trả lời câu hỏi. Ông cho mời một người thợ mộc rất tài giỏi vào và yêu cầu phải làm một con búp bê, rồi mặc quần áo vào giống y đứa con trai một tuổi của nhà vua, và hôm sau phải mang nó đến cho ông.
Hôm sau, vua và ông cố vấn đang chèo thuyền đi chơi chung với nhau, vua yêu cầu ông phải trả lời câu hỏi. Cùng lúc đó, người thợ mộc cũng đã đến và đứng ở trên bờ sông với con búp bê hình nộm con trai của vua. Đứng dưới thuyền, vua trông thấy và nghĩ rằng đó là con trai của mình. Theo như những hướng dẫn đã được ông cố vấn dặn dò trước, người thợ mộc để cho con búp bê hình nộm rơi xuống nước. Thấy vậy, vua bèn lao xuống để cứu đứa bé đang bị chết chìm. Sau một lúc, ông có vấn mới nói: “Thưa đức vua, ngài không cần phải nhẩy xuống nước. Ngài ra lệnh cho quần thần làm không được sao? Tại sao chính ngài phải đích thân nhẩy xuống vậy?” Vua suy nghĩ một lát rồi trả lời: “Đó chính là câu trả lời tại sao, để cứu nhân loại, Thiên Chúa toàn năng đã nhập thể hóa thành con người thay vì thực hiện nó chỉ bằng một lời truyền mà thôi.
“Ngôi Lời trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta”. Giáo Hội dùng từ “Nhập Thể” để nói lên sự kiện Con Thiên Chúa đã mặc lấy bản tính loài người, để thực hiện ơn cứu độ ngay trong bản tính đó. “Nơi Chúa Kitô, chân lý của Thiên Chúa đã được bày tỏ cách trọn vẹn”. “Với sự Nhập Thể của Người, một cách nào đó Con Thiên Chúa đã nên một với mọi người”. Đó là cách biểu lộ tuyệt hảo tình yêu Thiên Chúa đối với con người.
Với mầu nhiệm xuống thế làm người, Thiên Chúa đã chia sẻ tất cả nhân tính của chúng ta, để chúng ta cũng được mời gọi tham gia vào thần tính của Ngài như Công đồng Vatican II quả quyết: “Người bày tỏ cho con người thấy bản chất đích thực của chính mình và khám phá ra ơn gọi cao cả của mình”.
Thánh Phaolô khuyên dạy chúng ta sống ơn gọi này theo gương Chúa Giêsu: “Anh chị em hãy có với nhau những tâm tình đã có nơi Chúa Giêsu Kitô: Ngài, với thân phận thần linh, đã không khư khư giữ lấy bậc ngang hàng với Thiên Chúa. Nhưng Ngài đã để mình ra hư vô, nhận lấy thân phận nô lệ và trở thành giống như một người. Và khi cư xử như một người, Ngài còn hạ mình hơn nữa bằng cách vâng phục cho đến chết, và chết trên thập giá”.
“Vương quốc Fanxica là một đất nước thái bình, thịnh vượng. Nhà vua và hoàng hậu lại có diễm phúc sinh được hai hoàng tử khôi ngô tuấn tú, văn võ song toàn và có khí phách dũng cảm của bậc anh hùng. Hai vị hoàng tử này lại thương yêu hòa hợp với nhau, đêm ngày gắn bó với nhau như hình với bóng.
Trong khi đó, vua nước láng giềng là một người cực kỳ nham hiểm và ác độc. Ông này nuôi mối căm thù với vua Fanxica bằng một mối thù truyền kiếp. Lòng căm thù của ông lại càng dâng cao khi thấy vua Fanxica có hai hoàng tử khôi ngô tuấn tú, vũ dũng hơn người, trong khi mình thì không có lấy một mụn con. Vì thế, ông rắp tâm hạ sát hai vị hoàng tử kia cho bằng được.
Vua độc ác biết hai vị hoàng tử thường hay vào rừng săn bắn, nên vua cho người mai phục, giăng bẫy bắt được hoàng tử em. Sau khi hay tin em mình bị mất tích trong rừng, hoàng tử anh một mình một ngựa xông xáo vào rừng tìm em. Không ngờ chính anh cũng bị vua độc ác giăng bẫy bắt được. Tên vua độc ác giam hai anh em vào hai ngục tối biệt lập nên hai hoàng tử không hề hay biết gì về người kia.
Theo thông lệ hằng năm, vào dịp sinh nhật của vua, vua cho tổ chức những cuộc quyết đấu giữa những con ác thú, để chúng phanh thây xé xác nhau làm trò vui cho quan quân và dân chúng. Năm nay, thay vì cho ác thú đấu nhau, nhà vua ác độc bắt hai tù nhân vạm vỡ khỏe mạnh, mỗi người mang một bộ da sư tử trên mình, đeo thêm mặt nạ sư tử, và buộc họ phải quyết đấu cho đến khi một trong hai người phải chết. Ai sống sót sẽ được trả tự do.
Cả đấu trường hò la vang dậy khi quân lính dẫn hai đấu thủ mặc lốt sư tử bước ra. Với thanh mã tấu trên tay, hai con người lốt sư tử xông vào nhau chiến đấu vô cùng ác liệt như hai ác thú say mồi. Đám đông cổ võ hò la vang trời dậy đất. Cuộc chiến kéo dài hơn cả tiếng đồng hồ mà vẫn bất phân thắng bại. Cả hai đấu thủ mệt nhoài, mình mẩy hai người đều đầy thương tích máu me… Nhưng không ai chịu nhường ai. Mỗi người đều dốc hết toàn lực để hạ đối thủ, để dành sự sống, để được trả tự do, để khỏi làm nô lệ suốt đời. Chỉ có chiến thắng hay là chết. Cuối cùng bằng sức mạnh và sự khéo léo, đấu thủ cao người hơn đã vung đao chém xoạc mặt đối phương, làm rơi mặt nạ sư tử, để lộ ra một khuôn mặt rất thân quen!
Anh kinh hoàng tột độ! Thanh mã tấu trên tay rơi xuống. Anh giật bỏ mặt nạ của mình ra. Hai anh em ồ lên kinh ngạc. Họ bàng hoàng nhận ra nhau. Không ai xa lạ, họ chính là anh em ruột thịt. Họ lao vào nhau, ôm chầm lấy nhau khóc nức nở. Họ đâu ngờ rằng đối thủ mà họ quyết tâm tiêu diệt cho bằng được lại là người anh em rất thân yêu.
Nước mắt tuôn tràn hòa chung với máu. Hai con người bầm dập, mình mẩy đầy máu me ôm nhau khóc tức tưởi. Khóc vì đã coi nhau như kẻ thù, đã đấu tranh với nhau như ác thú; khóc vì đã gây cho nhau bao vết thương đau. Họ vẫn đứng đó, ôm nhau khóc tức tưởi trước hàng ngàn cặp mắt bàng hoàng kinh ngạc của mọi người”.
Chính ma quỉ thù nghịch của Thiên Chúa đã gây nên mọi thứ tội lỗi trên trần gian. Ma quỉ đã đeo cho con người đủ thứ mặt nạ ác thú để chém giết lẫn nhau, và không còn nhận ra nhau là con cái Thiên Chúa nữa.
Chúa Giêsu Giáng sinh, Nhập Thể xuống trần gian để lột mặt nạ ác thú ra khỏi con người, để họ nhận ra nhau là con cái Thiên Chúa, là anh chị em với nhau. Ngài đến để cứu chúng ta thoát khỏi vòng tội lỗi, cạm bẫy gian tà của ma quỉ, khỏi lòng hận thù oán ghét nhau như Công đồng Vatican II diễn tả: “Tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta đã thể hiện trong việc Con Một Thiên Chúa đã được Chúa Cha sai đến thế gian, để một khi hóa thân làm người, Người tái sinh và đoàn tụ toàn thể nhân loại nên một bằng cách cứu chuộc họ”.
Bước vào thế kỷ 21, chúng ta đã chứng kiến những cuộc khủng bố và chiến tranh tàn bạo với những vũ khí tinh vi và kỹ thuật cao hơn. Ước gì chúng ta không đầu hàng bạo lực và oán thù. Nhưng sẽ là những sứ giả của hòa bình và tình yêu. Niềm vui Giáng sinh chính là niềm vui được giải thoát khỏi sự hận thù do ma quỉ mưu đồ.
"Và sự này làm dấu cho các ngươi: các ngươi sẽ gặp thấy một hài nhi mình vấn tã, đặt nằm trong máng cỏ."
Trong cuộc sống hằng ngày, ai trong chúng ta cũng nhận biết tầm quan trọng của các dấu hiệu. Có hai loại dấu hiệu: một loại là tự nhiên và một loại khác là qui ước. Khói và ánh sáng cùng sức nóng là dấu hiệu tự nhiên của lửa. Đèn đường xanh đỏ hay các bảng chỉ đường là những dấu hiệu qui ước của luật lưu thông. Khuôn mặt tươi vui là dấu hiệu của một con người hạnh phúc. Thân xác sống động của một người cũng là dấu hiệu của sự hiện diện toàn vẹn của cả người ấy với hồn thiêng bất tử. Cái bắt tay hay nụ hôn là dấu hiện của tình thân ái. Ngôn ngữ cũng là một loại dấu hiệu để con người trao đổi tâm tình và kiến thức với nhau. Và có lẽ ngôn ngữ là loại dấu hiệu quan trọng bậc nhất trong các liên hệ giữa con người với nhau. Chúng ta không thể có một liên hệ thân mật với ai, nếu chúng ta không nhận biết các dấu hiệu và ngôn ngữ của người ấy.
Thiên Chúa cũng dùng các dấu hiệu để thiết lập và hàn gắn tương quan yêu thương với con người chúng ta.
Thực vậy, Thiên Chúa đã dựng nên chúng ta giống hình ảnh Người, nghĩa là cho chúng ta có lý trí và ý chí tự do để chúng ta có thể yêu thương và đón nhận tình thương. Người đã cho con người sống trong liên hệ yêu thương mật thiết với Người, và chỉ trong liên hệ này con người mới tìm được hạnh phúc đích thực và viên mãn. Vì tội tổ tông, mối tương quan yêu thương giữa Thiên Chúa và con người đã bị tổn thương. Nhưng một lần nữa vì yêu thương, Thiên Chúa đã quyết định cứu chuộc con người, nghĩa là Người muốn hàn gắn lại liên hệ yêu thương giữa Người và nhân loại.
Để thực hiện việc hàn gắn lại mối tương quan yêu thương giữa Thiên Chúa và nhân loại còn gọi là việc cứu độ nhân loại, Thiên Chúa đã chọn dân Do Thái làm dân riêng trong thời Cựu Ước để chuẩn bị cho việc xuất hiện của Đấng Cứu Thế. Thiên Chúa đã bày tỏ ý định yêu thương này cho dân Do thái qua các tổ phụ và ngôn sứ do chính Người tuyển chọn. Về điều này, thánh Phaolô viết: "Đã lắm phen cùng nhiều kiểu, xưa kia Thiên Chúa đã nói với cha ông nơi các tiên tri" (Dt 1,1). Những tổ phụ và ngôn sứ - những người được chọn để chuyển thông ý định cứu chuộc của Thiên Chúa trong thời Cựu Ước - cùng với chính dân tộc Israel vì vậy chính là những dấu hiệu Thiên Chúa đã dùng để bắt đầu việc gầy dựng lại mối tương quan yêu thương với nhân loại chúng ta. Họ đã là những sứ giả của Thiên Chúa.
Thánh Phaolô viết tiếp: "Vào thời sau hết, tức là những ngày này, Người đã nói với ta nơi một Người Con, mà Người đã đặt làm Đấng thừa tự tất cả mọi sự, và cũng nhờ Ngài mà Người đã làm ra các thế giới: Ngài là phản ảnh của vinh quang, là ấn tượng của bản lĩnh Người, và cầm giữ cả vạn vật bằng lời quyền năng của Ngài, sau khi đã thi hành việc thanh tẩy tội lỗi, Ngài đã lên ngự bên hữu Đấng oai nghi chốn cữu trùng, trổi hơn thiên thần vạn bội, bời khác với họ, Ngài đã thừa hưởng một Danh khôn ví"(Dt 1,2-4)
Thời sau hết mà thánh Phaolô nói đến ở đây chính là thời Tân Ước kể từ khi Chúa Giêsu là Ngôi Lời của Thiên Chúa đã "hóa thành xác phàm và ở giữa chúng ta" (Ga 1,14). Đây là một biến cố trọng đại nhất trong lịch sử ơn cứu độ. Và đây chính là ý nghĩa sâu xa nhất của đại lễ Giáng Sinh mà chúng ta cử hành hôm nay.
Khác với các tổ phụ và các ngôn sứ trong thời Cựu Ước là những dấu hiệu hay những sứ giả Thiên Chúa dùng để chuẩn bị để trao ban Đấng Cứu Thế cho nhân loại, Chúa Giêsu là chính Đấng Cứu Thế, là Trung Tâm của lịch sử nhân loại, là Dấu Hiệu của Sự Hiện Diện Đích Thực của Thiên Chúa ở giữa nhân loại, là chính Ơn Cứu Độ, và là chính Sự Bình An mà con tim nhân loại hằng mong mỏi đợi chờ.
Chính Thiên Chúa đã long trọng công bố sự kiện vô cùng trọng đại này cho nhân loại qua các lời thiên thần nói với những mục đồng trong đêm Chúa giáng sinh như sau:
"Đừng sợ! Này ta đem tin mừng cho các ngươi về một niềm vui to tát, tức là niềm vui cho toàn dân: là hôm nay, đã sinh ra cho các ngươi Vị Cứu Chúa, tức là Đức Kitô Chúa, trong thành của Đavít. Và sự này làm dấu cho các ngươi: các ngươi sẽ gặp thấy một hài nhi mình vấn tã, đặt nằm trong máng cỏ" (Lc 2,10-12)
Như vậy, dấu hiệu của Sự Hiện Diện Đích Thực của Thiên Chúa ỡ giữa nhân loại là "một hài nhi mình vấn tã, đặt nằm trong máng cỏ".
Đây thật là một mầu nhiệm siêu việt của Thiên Chúa Tình yêu, một mầu nhiệm vượt quá mọi suy tưởng và mơ ước của con người.
Ai dám nghĩ đến việc Thiên Chúa toàn năng nay biến thành một hài nhi nhỏ bé yếu đuối? Đấng Tạo Hóa mà muôn vật phải phục tùng nay phải lệ thuộc sự săn sóc chăm nom của đôi bạn trẻ Giuse và Maria. Chúa Tể Muôn Loài nay phải sinh ra trong cảnh nghèo hèn tận cùng của máng cỏ Bêlem.
Nhưng đó chính là đường lối của Thiên Chúa, đường lối của Tình yêu Nhập Thể - một tình yêu sẽ mãi mãi liên kết Thiên Chúa với nhân loại và với từng người nơi Chúa Giêsu.
Vì thế, từ biến cố giáng sinh mà chúng ta kỷ niệm hôm nya, đón nhận và yêu thương "một hài nhi mình vấn tả, đặt nằm trong máng cỏ" là đón nhận và yêu thương chính Thiên Chúa làm người, là đón nhận và yêu thương chính Thiên Chúa làm người, là đón nhận tình yêu nhập thể và hồng ân cứu độ của Thiên Chúa. Đón nhận và yêu thương con người với niềm tin yêu hướng về Thiên Chúa là đón nhận và yêu thường chính Chúa, như Chúa Giêsu đã phán: "Quả thật, Ta bảo các ngươi: những gì các ngươi đã làm cho một người trong các anh em hèn mọn nhất này của Ta, là các ngươi đã làm cho chính Ta" (Mt 25,40)
Tất cả những cố gắng sống đạo của chúng ta gồm cả việc tổ chức mừng đại lễ giáng sinh hôm nay sẽ trở thàny vô ích nếu chúng không giúp ta nhận ra dấu hiệu sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời chúng ta để đón nhận và mến yêu Người, để đươc Người ban ơn cứu độ.
Ý nghĩa đích thật cho cuộc sống hiện tại và hạnh phúc vĩnh hằng đời sau của chúng ta tùy thuộc ở sự chấp nhận hay chối bỏ các dấu hiệu của Chúa trong cuộc đời chúng ta.
Ngày xưa, Chúa Giêsu đã chọn tỏ mình ra cho Đức Mẹ, thánh Cả Giuse và các mục đồng trong đêm giáng sinh đầu tiên nơi "một hài nhi mình vấn tã, đặt nằm trong máng cỏ". Ngày nay, trong mỗi thánh lễ, Người tiếp tục tỏ mình cho chúng ta yêu mến tôn thờ và kết hợp với Người nơi bí tích Thánh thể.
Ngày xưa, bạo vương Hêrôđê đã tìm giết Chúa Giêsu bằng cách giết hài nhi vô tội để củng cố ngai vàng trần thế của ông. Ngày nay, người ta tiếp tục giết Chúa Giêsu qua việc giết các bé thơ vô tội ngay khi các em còn trong lòng mẹ qua tội ác phá thai để củng cố lối sống ích kỷ buông thả vô trách nhiệm của họ.
Chúng ta sẽ chọn noi gương Mẹ Maria, thánh Giuse và các mục đồng để đón nhận và yêu mến Chúa Hài Nhi qua các nỗ lực bảo vệ và bênh vực quyền sống các thai nhi hay chọn thái độ của bạo vương Hêrôđê qua lối sống ích kỷ buông thả vô trách nhiệm với những tội xúc phạm đến phẩm giá và sự sống con người.
Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, xin dạy chúng con noi gương Mẹ Maria nhận biết các dấu chỉ của sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời chúng con. Xin Chúa cho chúng con tin nhận Chúa hiện diện đích thực trong bí tích Thánh Thể như xưa Chúa đã ngự nơi hang đá Bêlem, để chúng con thêm lòng sùng ái và sốt sắng kếp hợp cùng Chúa. Xin Chúa cho chúng con nhận biết Hội thánh chính là Nhiệm Thể Chúa, để chúng con tha thiết mến yêu và vâng phục mọi giáo huấn chân thực của Hội thánh. Xin Chúa cho chúng con cảm mến niềm vui và bình an sung mãn của Chúa, qua việc nhận biết, yêu mến và phụng sự Chúa nơi những người xung quanh chúng con, cách riêng là những người "hèn mọn nhất". Amen
Chúng ta vừa nghe thánh Luca thuật lại cuộc giáng sinh của Chúa Giêsu, chúng ta hãy nhìn vào hang đá thì sẽ thấy được sự khó nghèo của Con Thiên Chúa giáng trần làm người: chỉ có một vài mục đồng đến viếng thăm, và một vài con lừa hà hơi sưởi ấm cho hài nhi Giêsu, tất cả chỉ có thế, nghèo nàn khổ cực hơn cả người cùng cực thế gian, nhưng đó chính là niềm vui của các tâm hồn thiện chí và là sự cứu độ của toàn thể nhân loại.
Đêm nay, chúng ta hân hoan long trọng mừng Đấng Cứu Độ của chúng ta là Chúa Giêsu đã giáng trần, đó là một tin vui trọng đại, tin vui cho muôn người, tin vui này được các sứ thần của Thiên Chúa loan báo cho các mục đồng: “Anh em đừng sợ. Này tôi loan báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng sẽ là niềm vui cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành Đa-vít. Người là Đấng Kitô, là Đức Chúa”.(Lc 2, 10-11)
Đêm nay được gọi là “Đêm Thánh” vì Con Thiên Chúa là Đấng Thánh đã giáng trần cứu độ nhân loại khỏi tội lỗi; đêm nay cũng được gọi là “Đêm Bình An” vì chính sự giáng trần của Con Thiên Chúa là sự bình an cho mọi tâm hồn thiện chí biết xây dựng hòa bình cho anh em.
Vinh danh Thiên Chúa trên trời
Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.
Lời ca khen hát mừng của các sứ thần trong ngày Chúa Giêsu giáng sinh vẫn còn đó, vang lên trong mọi tâm hồn của người tín hữu, và biến thành lời ca vang chúc bình an trên môi miệng của chúng ta với ước mong rằng, tất cả mọi người đều làm sáng danh Thiên Chúa và đem bình an cho tha nhân trong cuộc sống của mình.
Vinh danh Thiên Chúa trên trời
Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.
Lời ca chúc mừng này biến chúng ta trở thành những mục đồng đi đến thăm viếng Chúa Giêsu khó nghèo nơi các trại mồ côi, an ủi những người bị tù ngục và những tâm hồn đau khổ vì bị bạc đãi trong xã hội này.
Đêm nay, ngoài đường vắng bóng người mặc áo quần lụa là, vì họ đang quây quần vui vẻ nâng ly rượu với bạn bè trong những nhà hàng sang trọng; nhưng đây đó dưới gầm cầu, bên góc xó hàng hiên của ngôi nhà to lớn bên đường có những em bé Giêsu đang nằm co ro vì lạnh vì đói và không nhà để trở về vì không có hộ khẩu...
Chúa Giêsu đã giáng trần cách đây hơn hai ngàn năm, và hôm nay, mỗi ngày Ngài đều giáng trần trong tâm hồn của chúng ta, để qua chúng ta, Ngài được an ủi nơi những người bất hạnh, như sứ điệp hòa bình mà các thiên thần đã loan báo: Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.
Sứ điệp này đang ở trước mặt anh chị em, trong hang đá lộng lẫy ánh đèn nhấp nháy sáng lóe tia hy vọng, như mời gọi chúng ta hãy tỏa sáng lên tình yêu của Thiên Chúa trong cuộc sống của mỗi người, bởi vì Con Thiên Chúa giáng trần không phải như ánh sao xẹt ngang bầu trời rồi tắt ngúm, nhưng là “ánh sao sáng vĩnh cửu” đầy hy vọng soi sáng tâm hồn người thất vọng, chiếu sáng người đang ở trong bóng đêm tội lỗi thấy đường để quay về với sự thiện vốn có của mình...
Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.
Ngôi Lời đã làm người và cư ngụ giữa chúng ta, đó là lời rao giảng đầy xác tín của thánh Gioan tông đồ mà chúng ta vừa nghe trong bài tin mừng hôm nay.
Ngôi Lời ấy chính là Chúa Giêsu Kitô, Đấng mà tối hôm qua chúng ta long trọng, hân hoan và phấn khởi mừng kỷ niệm ngày Ngài giáng trần và ở giữa chúng ta, nhưng với đức tin Kitô giáo, chúng ta đi xa hơn nữa để nhìn thấy và chiêm ngắm Đấng vì Yêu mà trở thành xác phàm như chúng ta.
1. Chiêm ngắm Ngôi Lời trong hang đá
Không ai thấy được Thiên Chúa cũng như không ai được đưa tay đụng chạm đến Ngài, nhưng nhờ Ngôi Lời mà chúng ta biết được Thiên Chúa Cha là Đấng đã yêu thương nhân loại là dường nào.
Hôm nay chúng ta chiêm ngắm em bé Giêsu nhỏ xíu đang nằm trong hang đá, em bé Giêsu tội nghiệp ấy chính là hình ảnh của Thiên Chúa Cha là Đấng vô hình, và là hình ảnh tuyệt đẹp của con người hữu hình. Trẻ Giêsu đang nằm đó, chúng ta nhìn và suy nghĩ đến hang đá Bêlem xưa kia, trời lạnh cực điểm mà không có mảnh chiếu che thân, chúng ta tội nghiệp cho Mẹ Maria và thánh cả Giuse là một gia đình nghèo đáng thương hại.
Đấng tạo dựng đất trời đang nằm trong hang đá đó chính là Đấng mà muôn dân trông đợi, Ngài đã đến nhưng người nhà không chấp nhận, xua đuổi Ngài ra nơi chuồng bò, và chỉ có những người vô danh tiểu tốt đến thờ lạy Ngài là vua vũ trụ...
2. Chiêm ngắm Ngôi Lời nơi Thánh Thể
Ngôi Lời là Thiên Chúa mà chúng ta đang ngắm nơi hang đá được trang hoàng lộng lẫy đẹp mắt ấy, chút xíu nữa đây trên bàn thờ, trong hình bánh rượu sẽ trở thành Bánh Thánh Máu Thánh nuôi sống linh hồn chúng ta.
Một Thiên Chúa làm người nằm trong hang đá Bêlem cũng là Thiên Chúa đang ngự trên bàn thờ nơi bí tích Thánh Thể, đã trở thành tình yêu dâng hiến và chia sẻ: dâng hiến chức phận Thiên Chúa và chia sẻ thân phận làm người với nhân loại tội lỗi...
Chiêm ngắm Chúa Giêsu Thánh Thể để nhìn thấy được tình yêu không bến bờ mà Ngài đã dành cho chúng ta, trong suốt cuộc sống của Ngài ở trần gian và sau khi về trời, chính tình yêu ấy đã làm cho gia đình hòa thuận yêu thương, chính tình yêu ấy đã làm cho xa hội phát triễn trong hòa bình, chính tình yêu ấy là mẫu gương đại đồng nhân loại sống hợp tác và tương trợ lẫn nhau...
Chúa Giêsu vẫn cứ khiêm tốn và nghèo mãi nơi hang đá Bêlem cũng như nơi bí tích Thánh Thể, không có hang đá Bêlem nghèo nàn thì cũng không có đồi Calvê trơ trọi thê lương, nhưng chính cái nghèo khó và thê lương ấy đã trở nên nguồn sống cho những ai tin vào Ngài nơi bí tích Thánh Thể, đó chính là mầu nhiệm mà hôm nay chúng ta mừng kính: mầu nhiệm Ngôi Hai Thiên Chúa làm người và mầu nhiệm Ngôi Hai cứu chuộc...
3. Ngắm Chúa Giêsu nơi tha nhân
Mừng lễ Chúa Giêsu giáng sinh là mừng tình yêu cứu độ của Thiên Chúa dành cho nhân loại qua Con Một của Ngài là Chúa Giêsu, ngắm nhìn Hài Nhi trong hang đá chúng ta nhớ đến những em bé nghèo khó trên khắp thế giới sống trong cảnh khó nghèo; chúng ta cũng nhớ đến những người phải lìa xa quê hương ruột thịt để lánh nạn chiến tranh cường hào ác bá; chúng ta cũng suy nghĩ đến biết bao Giêsu đang bị bạc đãi trên khắp thế giới vì chính kiến, vì hận thù và vì đức tin...
Ngắm nhìn Chúa Giêsu nơi tha nhân là cốt lõi của tình yêu và giáo huấn của Ngài để lại cho nhân loại -qua Giáo Hội- bởi vì chúng ta không thể sống mầu nhiệm tình yêu bằng cách thờ ơ với tha nhân, và chúng ta cũng không thể trở nên một chứng nhân cho tình yêu nếu tâm hồn chúng ta vắng bóng Chúa Giêsu Thánh Thể.
Lễ giáng sinh rồi cũng qua đi nhưng ơn cứu độ vẫn tồn tại cho đến tận thế; hang đá lộng lẫy rồi cũng được cất vào kho nhưng những người nghèo khó bất hạnh vẫn còn đó, trước mắt chúng ta, đó là một thực tại không thể làm ngơ, là người Kitô hữu chúng ta phải làm gì để Chúa Giêsu tiếp tục mỗi ngày sinh ra trong tâm hồn những con người bất hạnh ấy, đó chính là sứ điệp giáng sinh của mỗi người trong chúng ta.
Câu hỏi gợi ý:
- Bạn có thói quen tặng thiệp, quà Noel cho người nghèo không?
- Mỗi lần Noel đến, bạn có nghĩ rằng bạn sống tốt thêm Noel năm ngoái không?
- Mỗi lần tặng thiệp, quà Noel cho bạn bè, bạn có nghĩ rằng mình là một thiên thần đem tin vui cho mọi người không?
Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.
LỄ ĐÊM GIÁNG SINH - A,B,C
Is 9:1-6; Tt 2:11-14; Lc 2:1-14
Sứ Điệp Hòa Bình: Đêm Noel Giữa Thế Chiến Thứ Nhất
LM. Đào Trung, OP
Năm 2005, có một bộ Phim nổi tiếng được thực hiện tại Pháp mang tên "Đêm Noel Hạnh Phúc" (Joyeux Noel) tái hiện lại một đêm Noel Thanh Bình hiếm hoi năm 1914, trong cuộc thế chiến thứ nhất.
Hôm ấy, vào lúc gần nửa đêm 24-12-1914. Ngay trong cuộc chiến khốc liệt giữa quân đội Đức và phe đồng minh. Bỗng có tiếng chuông giáo đường từ xa vọng tới, tiếng chuông báo hiệu thánh lễ Nửa Đêm của thánh đường nào đó. Tiếng chuông khiến đôi bên đều tạm ngưng tiếng súng, một sự thinh lặng bao trùm cả không gian. Những người lính cố lắng tai theo dõi tiếng chuông đang ngân nga, và ngước mắt lên trời cầu nguyện. Có lẽ họ đang tưởng nhớ đến khung cảnh ấm cúng của gia đình mình, nghĩ đến bữa "réveillon" với người thân bên lò sưởi, và nhớ đến con gà tây truyền thống.
Thế rồi điều kỳ diệu đã xảy ra. Một binh sĩ nào đó bỗng cất lên tiếng hát từ chiến hào. Anh hát lên bản thánh ca "Đêm Thánh Vô Cùng".
"Silent night, holy night - All is calm, all is bright.
Round upon Virgin, Mother And Child.
Holy Infant so tender and mild.
Sleep in heavenly peace - Sleep in heavenly peace".
Và không ai bảo ai, từ khắp các chiến hào khác những binh sĩ đang là đối thủ của nhau, cùng hòa theo bản thánh ca bất hủ ấy. Họ là những người Anh, Scotland, Pháp và Đức. Một vài sĩ quan của các bên rời chiến hào, tiến về phía trước và bắt tay nhau. Họ thống nhất tất cả sẽ tạm ngưng cuộc chiến.
Sau đó đến lượt các chiến binh khác. Tất cả những người lính của các bên đều tạm gác súng, giơ cao bàn tay không vũ khí, họ rời chiến hào tiến ra vành đai trắng. Họ ôm lấy nhau, gửi cho nhau những lời cầu chúc và những món quà giáng sinh. Họ góp nhau phần nhu yếu phẩm của mình để tổ chức chung bữa tiệc nhỏ mừng ngày ra đời của Ngôi Lời giáng thế. Họ chuyền tay nhau điếu xì gà của Anh, uống chung những ly rượu vang của Pháp, và whisky của Anh. Chưa bao giờ những điếu thuốc và ly rượu lại ấm áp tình người đến thế.
Đạo diễn của bộ phim, ông Christian Carion kể rằng: "Tôi thực sự xúc động và bất ngờ khi đọc những tài liệu lịch sử viết về cuộc thế chiến thứ nhất, đề cập đến biến cố có thật này. Nhất là khi được đọc một vài đoạn trích từ các lá thư của những người lính có mặt trong cuộc chiến. Họ bị chính phủ cưỡng bách ra chiến trường, vì người ta không cho họ có chọn lựa khác".
Trong thư có người viết: "Tôi thấy khuôn mặt của anh ấy cũng giống khuôn mặt của tôi. Chúng tôi tiến đến gần nhau, tay trong tay, mặt đối mặt, và nhận ra chúng tôi là anh em của nhau". Một người lính khác đã kể lại trong lá thư gửi người yêu mình rằng: "Anh đã nhìn thấy những giọt nước mắt trên khuôn mặt đồng đội. Anh nhận ra chính anh trong khuôn mặt của kẻ thù".
Khi thực hiện bộ phim, ông Christian Carion nói lên ý muốn của mình, đó là ước muốn cổ động cho hòa bình, cho tình người. Và chia sẻ một chi tiết khá lý thú trong quá trình làm phim. Để bộ phim có giá trị, ông đã mời các diễn viên thuộc các quốc tịch khác nhau tham gia. Khi đóng các đoạn phim cuộc chỉến , các diễn viên ngồi ăn theo quốc tịnh của mình. Người Anh ngồi riêng, người Pháp ngồi riêng, người Đức ngồi riêng. Thế nhưng sau khi diễn cảnh "Đêm Noel Hạnh Phúc" rối, các diễn viên ấy ngồi ăn chung với nhau, và cười đùa với nhau cách vui tươi và thoải mái.
Bộ phim được nhiều người khen ngợi vì đã làm sáng lên ước vọng hòa bình ngay giữa cảnh chiến tranh, và đề cao tình người được phát triển giữa những kẻ thù trong các chiến hào.
Với niềm tin, chúng ta nhận ra trong biến cố này, sứ mệnh của Con Thiên Chúa, vị Hoàng Tử Bình An. Nó gợi cho chúng ta nhớ đến lời ca của thiên sứ trong ngày giáng sinh "Bình an dưới thế cho người thiệm tâm". Bởi vì sứ mệnh của Ngôi Hai Thiên Chúa chính là hòa giải đất với trời, là nối kết các tâm hồn, và làm cho những kẻ xa lạ trở thành bạn hữu thân quen.
Và như thế, chúng ta nhận ra một lời kêu mời trong
mùa Noel: Hãy phá đổ những hàng rào ngăn cách giữa con người, những bức tuờng
phân cách chúng ta với nhau, hãy đến với nhau trong tình thân ái của những người
anh em một nhà, vì tất cả đều là con một Cha trên trời, và tất cả đã được Thiên
Chúa yêu thương cứu độ.
ĐÊM NHẬP THỂ
Lm An Hạ, OP
Đức Giêsu đã đến lần thứ nhất trong khiêm cung, nghèo hèn. Chính. Trong thân phận giới hạn đó, Người lại muốn làm chứng cho mọi người thấy chiều kích vô biên của Thiên Chúa trong giới hạn tầm thường của một phàm nhân.
VÔ BIÊN TRONG HỮU HẠN
Thiên Chúa không biết đến bất cứ giới hạn nào. Người siêu việt trên tất cả. Bởi vậy thật là kỳ diệu, khó hiểu khi Người chấp nhận giới hạn như bất cứ thụ tạo nào. Khi xuống trần làm người, Thiên Chúa đã mặc lấy tất cả chiều kích thời gian và không gian. Chính thánh sử Luca đã cho thấy chiều kích thời gian:"Thời ấy, hoàng đế Augusto ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ. Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên được thực hiện thời ông Quirinô làm tổng trấn xứ Xyria" (Lc 2:1-2). Nghĩa là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, cũng bắt đầu hiện hữu nơi trần gian vào một thời gian nhất định. Thời gian sẽ đóng khung cuộc đời của Người như bất cứ ai. Đấng không hề có khởi điểm lại chấp nhận bị vây hãm trong vòng thời gian chật hẹp như chúng ta. Không một thứ triết học nào có thể hiểu nổi sự kết hiệp kỳ diệu ấy.
Chiều kích không gian cũng khắt khe không kém. Đức Giêsu đã được sinh ra trong "thành vua Đavít" (Lc 2:4). Hình ảnh huy hoàng này chỉ gợi nhớ lời hứa Chúa thực hiện cho nhà Đavít. Thực tế thật là bi thảm. Chúa đã sinh ra "trong máng cỏ" (c.7), giữa cảnh bơ vơ, hất hủi, "vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ" (c.7). Một Thiên Chúa làm bá chủ toàn thể vũ trụ, chỉ tìm được một nơi sinh ra kém một người bình thường ! Thật là bất lực, yếu đuối !
Từ Thiên triều tráng lệ, Chúa lao thẳng xuống cảnh nghèo hèn. Cảnh tượng thật trái ngược. Chúa đến qui tụ "những người chăn chiên sống ngoài đồng" (c.8), sống "bên lề xã hội" (Kinh thánh Tân Ước: 1995). Xuất hiện như thế, làm sao Đấng Messia có thể hấp dẫn nổi những tâm hồn vẫn ngưỡng vọng một anh hùng cái thế, giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ Rôma ? Nhưng chính trong khung cảnh trần trụi đó, Đức Giêsu đã mạc khải tất cả nguồn ơn cứu độ, vì "sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối" (2Cr 12:9).
Đời sống những người chăn chiên không còn êm ả bình thường nữa, vì "họ kinh khiếp hãi hùng" trước cảnh tượng "sứ thần đứng bên họ và vinh quang của Chúa chiếu tỏa chung quanh" (c.9). Họ không hiểu chuyện gì xảy ra. Tất cả đều ngoài sức tưởng tượng. Như thế là bàn tay Thiên Chúa đã can thiệp vào lịch sử nhân loại ư ? Làm sao họ có thể chuẩn bị sẵn sàng ? Giữa lúc họ kinh hoàng, lạc lõng như thế, sứ thần trấn an ngay: "Anh em đừng sơ"(c.10). Chính đời sống đơn sơ nghèo hèn đã chuẩn bị cho anh em xứng đáng đón nhận "tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavít, Người là Đấng Kitô Đức Chúa" (c.11). Thế mới hiểu được tại sao Chúa nói: "Phúc cho anh em là những kẻ khó nghèo, vì nước Thiên Chúa là của anh em" (Lc 6:20).
Sống ngoài luật Do thái, họ không hề biết đến giấc mơ huy hoàng của một Đấng Messia oai hùng. Từ cảnh tượng nghèo hèn, họ cũng chỉ tìm gặp được Chúa trong cảnh nghèo hèn. Sứ thần cho họ một dấu chỉ phi dấu chỉ: "Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng co" (c.12). Có một cái gì đó quá quen thuộc với cuộc sống hằng ngày của những người chăn chiên, làm sao tạo nổi dấu chỉ ? Nhưng chính sự nghèo khó mới là dấu chỉ lớn lao nhất cho sức mạnh cứu độ của Thiên Chúa. Nếu sống giữa cảnh xa hoa tráng lệ, chắc chắn những người chăn chiên đó không thể nghe muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa rằng: "Vinh danh Thiên Chúa trên trời, Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương" (c.14).
Tâm hồn họ tràn ngập niềm vui, vì Đấng đã từng làm vinh danh Thiên Chúa, nay trở thành nguồn bình an cho toàn thể nhân loại, trong đó họ là những người đầu tiên đón nhận vinh dự đó. Nói khác, "cuộc giáng sinh của Đức Giêsu là bảo chứng của ơn bình an ấy." (Kinh thánh Tân Ước 1995) Người sẽ nối kết trời đất trong một hòa điệu tuyệt vời. Nguồn bình an ấy chỉ có thể kiếm thấy nơi một mình Đức Giêsu, vì "Người thật là Đấng cứu độ trần gian" (Ga 4:42). Như thế Đấng Messia Thiên Chúa sai đến còn oai hùng hơn anh hùng cái thế theo quan niệm trần tục của Do thái nhiều, vì Người đến giải phóng toàn thể nhân loại khỏi nô lệ tội lỗi.
TIN MỪNG HÔM NAY
Tiếp nối công cuộc cứu độ, Hội Thánh hôm nay cũng đang nhập thể vào cuộc sống nhân loại để "biến đổi lịch sử và thế giới" (Kilcourse:1993). Mặc dù sống theo tinh thần khó nghèo, Hội Thánh luôn phấn đấu chống lại nghèo khó. Tinh thần khó nghèo đã không trở thành một khẩu hiệu mị dân. Trái lại vì khó nghèo nên Kitô hữu mới được giải thoát để có thể dễ dàng dấn thân nhập thể như Chúa Kitô. Chẳng hạn biết bao tổ chức bác ái Công giáo đã giải thoát hàng triệu người khỏi cảnh cùng cực khổ đau. Trận lụt miền Trung vừa qua, đồng bào cũng đã đón nhận được những viện trợ tinh thần và vật chất từ những người sống mầu nhiệm Đức Kitô nhập thể. Kitô hữu không bao giờ là khách bàng quan trước những anh em đau khổ. Trái lại, "vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và những ai đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Kitô, và không có gì thực sự là của con người mà lại không gieo âm hưởng trong lòng ho" (GS 1).
Kitô hữu đã chia sẻ thực sự đến tận cùng tất cả nỗi khổ đau nhân loại. Đối với nhiều người, đau khổ có thể là "kỳ đã cản mũi". Nhưng đối với Kitô hữu, đau khổ lại là lời mời gọi tìm dung nhan Thiên Chúa. Sở dĩ vì "chúng ta được dựng nên trong Đức Kitô Giêsu, để sống mà thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta"(2 Ep 2:10). Nghĩa là trước khi nhập thể cùng với Đức Kitô, "chúng ta là tác phẩm của Thiên Chúa" (c.10), được nhào luyện trong ngọn lửa tình yêu Thánh Linh.
Đó là lý do tại sao Hội Thánh không ngừng hoạt động cho hạnh phúc nhân loại trên mọi lãnh vực và cấp độ, dù phải đổ máu. Chẳng hạn, Giáo hội không ngừng tranh đấu cho quyền sống của những trẻ sơ sinh, người nghèo, người bị áp bức, cho hòa bình thế giới. Biết bao nhiêu Kitô hữu đang âm thầm hi sinh cho các người đau khổ trong các trại cùi, cô nhi viện, các xóm nghèo lao động v.v. Cùng nhập thể với Đức Giêsu, Kitô hữu sẽ làm cho cả nhân loại "thấy một ánh sáng huy hoàng" (Is 9:1) là Đức Kitô, để "đem ơn cứu độ đến cho mọi người." (Tt 2:11) "Vì chúng ta trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi, ngày Đức Kitô Giêsu là Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng cứu độ chúng ta xuất hiện vinh quang."(c.13) Đúng ra, "những món quà đó phải nhắc nhớ đến Đức Giêsu, món quà Thiên Chúa gởi cho nhân loại." (ĐGH Gioan Phaolô II:CWNews 23/12/2002)
Ngày nay hình ảnh Chúa Hài Nhi Giêsu không còn xuất hiện trên những tấm thiệp hay những món quà Giáng Sinh. Nhân vật chính đã biến khỏi sân khấu cuộc đời. Thiên hạ bận rộn và quay cuồng với việc sắm sửa cuối năm. Mấy ai dừng lại để tìm ra ý nghĩa truyền thống Giáng sinh tốt đẹp hôm nay ? Nhưng đây là thời gian "các Kitô hữu nên cầu nguyện gấp đôi, và chuẩn bị cử hành lễ Giáng Sinh với 'sự thinh lặng nội tâm', theo gương Đức Maria và thánh Giuse, và bắt chước các ngài 'sẵn sàng đón nhận thánh ý Thiên Chúa" (ĐGH Gioan Phaolô II:CWNews 23/12/2002) như một luồng sáng chiếu soi cuộc đời đầy tăm tối hôm nay.
CÁI ÐÊM HÔM ẤY ...
Lc 2:1-14
Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật, OP
Ðêm tối và đứa trẻ
Ðêm nay,
bầu trời cũng tối như mọi đêm,
cũng lặng lẽ và giá lạnh như những đêm đông khác.
Ðêm nay,
mỗi người vẫn ngủ yên trong mái nhà của mình,
hay miên man với những thú vui của mình.
Ðêm nay,
mỗi người vẫn có những dự tính phải lo toan,
hay vẫn oằn vai dưới gánh nặng cuộc sống.
Và cũng đêm nay,
một đứa trẻ vừa mới chào đời tại một hang đá bên ngoài thành phố,
bởi vì cha mẹ của đứa trẻ "không tìm được chỗ trong quán trọ."
Cùng lúc ấy, những người chăn chiên đang canh giữ đàn vật tại cánh đồng được nghe lời loan báo: "Hôm nay, Ðấng cứu độ anh em đã ra đời trong thành vua Ða-vít, Người là Ðấng Ki-tô, là Ðức Chúa."
Quả thật, "trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ", yếu đuối như bất cứ đứa trẻ nào khác, chính là Con Thiên Chúa làm người.
Chính trong đứa trẻ này, "Thiên Chúa đã nhảy ra khỏi tàu" (ÐHY Etchegaray), Người đã từ vĩnh cửu bước vào trong thời gian, đã từ vô cùng đi vào hữu hạn.
Thiên Chúa làm người có nghĩa là giữa Thiên Chúa vĩnh cửu và con người hữu hạn đang thành hình một cộng đổng nhân vị, một tương giao thâm sâu vượt trên mọi thứ tương giao khác. Qua trẻ thơ bé nhỏ và yếu đuối này, cộng đổng nhân vị giữa Thiên Chúa và loài người đạt tới tầm mức cao cả nhất của sự hòa hợp: Thiên Chúa đón nhận con người vào trong cuộc sống thần linh, con người được đối diện trực tiếp với Thiên Chúa. Hay nói cách khác, đó là một cộng đổng mà "một trái tim cạnh một trái tim" (K. Rahner). Con người được nghe tiếng thì thầm của Thiên Chúa, lời tình yêu, và Thiên Chúa đón nhận toàn bộ cuộc sống của con người với tất cả những khỗ đau và phiền muộn của thân phận này.
Như thế, giữa đêm đông giá lạnh của trần gian, Thiên Chúa đã đến để thắp lên ngọn lửa vĩnh cửu, ngọn lửa đem lại hơi ấm và ánh sáng.
Giữa đêm đông của cô đơn và đam mê, giữa đêm đen của chia rẽ và hận thù, Thiên Chúa đã đến để xóa tan mọi hiềm khích và nghi ngờ. Người đã đến để trao tặng bình an và bắt đầu công cuộc quy tụ tất cả thành một. Người đã đến để lập một trật tự mới, trật tự trong quy tụ và bình an.
Giữa bóng tối của lầm lạc và tuyệt vọng, Thiên Chúa đã đến để vạch ra một con đường, bởi vì trẻ sơ sinh bé nhỏ ấy là một con người cao cả, Con Người đích thực. Nơi Con Người ấy, nhân loại bắt đầu một đời sống mới, hướng nhìn về tương lai phía trước với hy vọng và mục đích rõ ràng. Nơi Con Người ấy, nhân loại được "làm người", tức là trở thành con người đúng nghĩa, trở thành con Thiên Chúa.
Giữa bóng tối của khỗ đau và đợi chờ, Thiên Chúa đã thực hiện toàn bộ những lời hứa trong Cựu Ước. Người can thiệp vào lịch sử nhân loại cách dứt khoát để cứu độ những kẻ là Dân của Người.
Qua trẻ sơ sinh nằm trong máng cỏ, Thiên Chúa đã bắt đầu cuộc gặp gỡ chung cuộc với nhân loại: trước hết qua những người chăn chiên, và sau đó, qua những hiền sĩ từ phương Ðông đến. Cái hang đá tầm thường này trở thành điểm gặp gỡ, đổng thời cũng là nơi khởi đầu cho một hành trình rất dài: hành trình của chính đứa trẻ, hành trình của toàn thể nhân loại tiến về với Thiên Chúa là Cha.
Ðêm nay,
một đêm ngắn ngủi nhưng lại rất dài,
một đêm như mọi đêm,
nhưng lại là vĩnh cửu, là khởi đầu của Lịch Sử.
Thiên Chúa, Người vẫn thế
Cho đến ngày nay, vẫn còn không ít người lấy làm ngạc nhiên khi đọc lại lời loan báo của sứ thần với những người chăn chiên: ""Anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ"". Tại sao Thiên Chúa lại xuất hiện trong khung cảnh tầm thường và khó nghèo như thế ?
Quả thực, con người phải luôn cố gắng giữ mình để khỏi choáng váng trước những "cách thế" của Thiên Chúa. Mỗi biến cố do Thiên Chúa đề xuất phải được đón nhận trong lòng tin chứ không phải chỉ bằng lý luận. Con người phải luôn sẵn sàng tìm hiểu điều Thiên Chúa muốn dạy bảo qua từng hoàn cảnh, đôi khi rất khó tưởng tượng.
Thiên Chúa vẫn thế, Người thường xuất hiện ở những nơi người ta ít chờ đợi Người nhất. Người thực hiện những kỳ công theo cách thế riêng của Người. Chỉ có Thiên Chúa mới đưa ra những sáng kiến lạ lùng, và chỉ những ai có tinh thần trẻ trơ mới có thể hiểu được.
Tuy vậy, không phải Thiên Chúa muốn hù dọa con người hay làm cho họ bị choáng ngợp. Chính Người là Tình Yêu, tình yêu đích thực. Tình yêu ấy luôn thực hiện những điều tốt đẹp cho con người. Và cũng tình yêu ấy luôn có những cách thế phù hợp để tự bày tỏ chính mình, đổng thời bày tỏ những điều lớn lao, vượt trên mọi thứ suy luận phàm trần.
Như thế, trong khung cảnh êm đềm của ngày lễ Giáng Sinh, sứ điệp của Thiên Chúa chính là tình yêu được trao tặng cho nhân loại, đặc biệt cho những thành phần vốn bị xã hội coi thường, những thành phần bị gạt ra bên lề, chẳng hạn như những người chăn chiên đang ngủ đêm tại cánh đổng.
Do đó, Con Trẻ Bê-lem trở thành một bài học về những sáng kiến diệu kỳ của Thiên Chúa, Con Trẻ ấy cũng là một mẫu gương cho bất cứa ai muốn gặp gỡ Thiên Chúa. Thiên Chúa vẫn đến với con người trong những cái bình thường, bình thường đến nỗi họ không nhận ra. Nhưng đằng sau cái bình thường ấy, lại là những điều quá lớn lao mà chưa bao giờ họ ngờ tới.
Tiếng nói cuối cùng
"Thiên Chúa đã đến, Người hiện diện, hoàn toàn khác với những điều chúng ta mong muốn. Trong biến cố này, mọi chuyển động đều hướng về một đích điểm duy nhất, và tận điểm đã được xác định rõ ràng. Chúng ta được kêu mời, cùng với cả trần gian, đến chiêm ngưỡng khuôn mặt của chính Thiên Chúa với tất cả nét huy hoàng rực rỡ. Công bố mầu nhiệm
Giáng Sinh chính là bày tỏ cho toàn thế giới biết rằng, qua Ngôi Lời nhập thể, Thiên Chúa đã nói lên tiếng nói cuối cùng, tiếng nói thâm sâu và tuyệt vời. Lời ấy đã được gieo vào giữa lòng nhân loại và không thể bị lấy mất được, bởi vì đó là một hành động dứt khoát của Thiên Chúa, và bởi vì chính Thiên Chúa vẫn đang hiện diện giữa thế giới. Lời ấy chính là một lời tâm sự, một lời reo vui có ý nghĩa là: "Ôi trần gian, Ta mến thương ngươi ! Ôi con người, Ta yêu mến ngươi ! ...""
(Theo K.Rahner)
Đánh Thức Những Tiềm
Năng
(Lc 2,1-14)
Giuse Nguyễn Cao Luật, OP
Một sự kiện có vẻ như bình thường
Đọc bản Tin Mừng lễ Giáng Sinh theo thánh Luca, người ta nhận thấy có những hoạt động khác nhau:
Câu chuyện xảy ra tại một địa điểm rất bé nhỏ trong toàn bộ một cuộc kiểm tra dân số trên toàn quốc. Con người ta tổ chức những việc lớn lao và rầm rộ, còn Thiên Chúa lại đến giữa loài người một cách khiêm tốn và âm thầm. Trong khi các viên chức đang lo kiểm tra về dân số tại từng địa phương, thì tại máng cỏ Bêlem xảy ra một sự kiện lịch sử: một Con Trẻ ra đời.
Và từ sự kiện hầu như quá tầm thường này, lại khởi đầu từ một cuộc sắp xếp lại toàn bộ trật tự thế giới. Việc sắp xếp này vượt ra khỏi mọi quy tắc điều hành và chính trị, với sự chứng kiến của những người bị coi là hèn kém trong xã hội, đó là những mục đồng, những kẻ đang qua đêm ở những cánh đồng. Qua những con người này, tất cả nhân loại được loan báo về Tin Mừng Bình An.
Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón tiếp (Ga 1,11).
Nhân loại vẫn sắp xếp chương trình theo những tính toán của mình. Mọi sự như nằm trong tầm kiểm soát của họ. Thế nhưng, có những sự kiện vượt ra khỏi những toan tính của họ ; Thiên Chúa đến trần gian trong một nơi không ai để ý, vào lúc người ta không ngờ. Thiên hạ vẫn mải mê với những công việc của mình, không có chỗ nào cho Đấng Cứu Thế trong các căn nhà. Nhưng chính sự kiện có vẻ như tầm thường ấy lại có tính cách quyết định, có ảnh hưởng trên toàn lịch sử.
Đúng vậy, chính nhờ một con trẻ mà thế giới được khai sinh và tái khởi đầu.
Theo nguyên ngữ, trẻ em là người “không nói được”. Chúng không thể ra lệnh, không thể tuyên bố điều gì ; ngược lại, vị hoàng đế “ra chiếu chỉ”.
Để ổn định trật tự thế giới, hoàng đế Xêda Âugusto truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ. Còn Con Trẻ Giêsu đảo lộn thế giới để rồi thiết lập trật tự hòa bình. Thay vì kiểm tra, Người qui tụ nhân loại chung quanh mình.
Vương quốc Thiên Chúa không giống các vương quốc trần gian: Thiên Chúa đã thiết lập vương quốc của Người nhờ một Con Trẻ, mà lời nói không phải là mệnh lệnh hay kiểm tra, nhưng sẽ là “tình yêu và bình an”.
Một trẻ thơ đã ra đời
Khẳng định như thế không có nghĩa nào khác hơn là công bố cho trần gian biết rằng có một con người đã xuất hiện, một con người không như mọi người: đó là Đức Giêsu Kitô.
Đó là một con người đã can đảm và kiên trì thuyết phục nhân loại về tính cách thần thiêng của Người cũng như của chính họ. Người đã thành công trong việc giúp con người nhận ra Người là Con Thiên Chúa, và nhờ Người, tất cả nhân loại đều được mời gọi trở thành những người con.
Đó là một Con Người, xuyên qua những đau đớn tột cùng, đã có ý tỏ mình ra là Đấng Cứu Thế, Đấng Giải Phóng.
Đúng thế, hình ảnh con trẻ được bọc trong khăn, nằm trên máng cỏ gợi lên hình ảnh thân thể của Đấng chịu đóng đinh, được cuốn giải băng và nằm trong mộ. Con trẻ được sinh ra trong đêm Noel cũng chính là Đấng sẽ chịu chết và sẽ sống lại vào ngày Vượt Qua, đem lại chiến thắng trên sự chết.
Đứng trước máng cỏ, con người lại hướng về Thánh Thể, về Đấng đã tự nhận là “Bánh Ban Sự Sống”, và thân thể Người chính là lương thực nuôi trần gian.
Hôm nay, chính Đấng Phục sinh được sinh ra. Noel đã là dấu chỉ của mầu nhiệm Phục Sinh.
Con Trẻ được sinh ra, nhưng đã “có” từ trước muôn đời, trước khi vũ trụ được hình thành: “Người ở giữa thế gian, thế gian nhờ người mà có” (Ga 1,10).
Con Trẻ đó cũng là Lời Sáng Tạo, là ánh sáng huy hoàng của Thiên Chúa giữa trần gian, là nguồn mạch sự sống, hôm nay đã mang lấy hình hài “con người” và ở giữa nhân loại.
Một trẻ thơ đã ra đời – bình thường như những sinh hoạt khác của con người, bình thường như những đứa trẻ khác – nhưng lại khởi đầu cho những sự mới mẻ, cho một giai đoạn mới, giai đoạn có tính cách quyết định đối với vận mệnh của mỗi người cũng như cả lịch sử nhân loại.
Bởi vì, nguồn gốc của đứa trẻ này thật lạ lùng, và những hoạt động sau này cũng thật lạ lùng.
Xin một phút thinh lặng
Cần phải thinh lặng để chiêm ngắm, để lắng nghe những điều kỳ diệu hàm chứa trong mầu nhiệm này. Đó là sự thinh lặng của người mẹ đang ngắm nhìn đứa con mới sinh ra: đứa con ấy chính bà đã cưu mang và giờ đây đã được sinh ra.
Đó là sự thinh lặng của người cha đang vui mừng về một chương trình lớn lao với sự góp phần nhỏ bé của mình: trước mặt xã hội, ông là cha của đứa trẻ, và ông sẽ là người hướng dẫn đứa trẻ bước vào cuộc đời.
Thinh lặng
Với các mục đồng, và tất cả mọi người.
Thinh lặng.
Một khởi đầu rất đỗi dịu dàng và âm thầm.
Và chính trong sự thinh lặng ấy
lại mở ra những điều lớn lao.
Chính từ trong đêm đen thinh lặng, đã bùng lên ánh sáng chói lòa, ánh sáng đồng nghĩa với giải thoát, với tự do. Một máng cỏ với con trẻ đã phá vỡ cái tầm thường của cuộc sống, phá vỡ bóng tối của tử thần.
Bởi vì trong sự thinh lặng này là sự khởi đầu bao hàm những khả năng kỳ diệu: “Người đã cho chúng ta quyền để trở nên...”
Trong Đức Giêsu nhập thể, nhân loại được đánh thức với những khả năng tiền tàng mà lâu nay bị bỏ quên, bị vùi dập trong bóng tối, bị đè nặng dưới ách tội lỗi.
Sống là sinh ra, là bắt đầu.
Đó là khả năng lớn nhất con người nhận được từ Đức Giêsu Giáng Sinh. Con người phải sinh lại từ Thiên Chúa để sống một đời sống mới trong Đức Giêsu. Họ sẽ tiến bước trong Nguồn Ánh Sáng. Như Đức Kitô, họ sống giữa trần gian, “không phải là do khí huyết, cũng không phải là do ý muốn tự nhiên của con người, hoặc do ý muốn của phái nam”.
Trong họ, bắt đầu một cuộc sáng tạo, đó là bình minh đầu tiên của mọi buổi bình minh.
Như vậy, trước máng cỏ, chúng ta sẽ phải thinh lặng để nhận định rõ ràng về cơ may Đức Giêsu đem lại cho chúng ta. Đó là một đời sống mới với tất cả vẻ cao quý của nó. Đó là một nhân loại có tính “người” hơn … Rất nhiều tiềm năng trong chúng ta, trong xã hội, đã bị quên lãng, và hôm nay, Đức Giêsu xuất hiện để đánh thức những tiềm năng ấy, tạo điều kiện thuận lợi để chúng phát triển, để vươn lên.
Cùng với Đức Giêsu Giáng Sinh,
chúng ta bắt đầu
cuộc hành trình mới
để làm người, và làm con Thiên Chúa
trong tin tưởng và hy vọng.
Thiên Chúa tình thương
(Lc 2,1-14)
Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
Một thiếu phụ theo chồng về quê quán để khai sổ gia đình, và khi về tới nơi thì sinh con đầu lòng, nhưng vì không tìm được nơi trú ngụ, đành phải vào tá túc trong một cái hang, nơi tạm trú của chiên bò. Cái cảnh tượng thảm thương đó, thực ra ở thời nào mà chẳng có, ở nơi nào mà chẳng xảy ra. Và ở một nơi nào đó trên thế giới, có khi là ngay tại Nữu Ước, một thành phố nổi tiếng là giàu có vào bậc nhất, chứ không cần phải nói tới xứ Ấn Độ vẫn mang tiếng là nghèo và lắm kẻ lang thang. Ở một nơi nào đó, vào ngay giờ này, vẫn có những bà mẹ sinh con ở đầu đường xó chợ, bên cạnh những vũng sình lầy, bên cạnh những đống rác, không có được một cái tã sạch để bọc con, không có một máng cỏ để đặt con nằm, và cũng chẳng có một con bò hay con lừa nào thở hơi ấm cho.
Những cảnh tượng như thế vẫn xảy ra hằng ngày, nhưng không mấy ai thèm để ý, nói chi đến chuyện viết thành sách hay đăng trên báo, bởi vì nếu viết thì lấy đâu cho đủ giấy và có viết cũng chẳng ai thèm đọc. Vậy mà biến cố xảy ra ở Bê-lem cách đây hai ngàn năm lại đã được ghi chép vào lịch sử, được nhắc tới không ngừng, và hằng năm, khắp nơi trên hoàn cầu, nhân loại hân hoan nô nức cùng kỷ niệm, có gì đã khiến lịch sử phải ghi lại biến cố đó ? và tại sao nhân loại lại mặc cho biến cố đó một ý nghĩa trọng đại như thế ? Hẳn là vì con trẻ sinh ra đêm ấy tại Bê-lem không giống như các con trẻ khác, và đêm giáng sinh ấy đã mở ra một kỷ nguyên mới cho loài người.
Đúng thế, đoạn Tin Mừng hôm nay thánh Lu-ca thuật lại một cách rất đơn sơ biến cố vĩ đại nhất trong lịch sử loài người, đó là biến cố Thiên Chúa giáng sinh làm người, mà đêm nay, khắp nơi trên mặt đất, đều mừng lễ kỷ niệm, trong muôn tiếng đàn ca vang dội, muôn ánh đèn chiếu sáng tưng bừng. Giữa cảnh náo nhiệt hân hoan bên ngoài mà bất cứ ai cũng cảm thấy, dầu có tín ngưỡng hay không, nhưng đối với người Công giáo cần phải hồi tâm lại trước máng cỏ để suy niệm về mầu nhiệm giáng sinh.
Gọi là mầu nhiệm giáng sinh, vì sự kiện Chúa sinh ra tại hang đá Bê-lem không phải chỉ là một sự kiện lịch sử như bất cứ một sự kiện lịch sử nào khác, nhưng là một mầu nhiệm, phải có con mắt đức tin chúng ta mới nhìn thấy hết ý nghĩa của nó. Thánh Gio-an tông đồ đã diễn tả mầu nhiệm nhập thể bằng một câu vắn tắt: “NGÔI LỜI ĐÃ THÀNH XÁC THỊT, LÀM NGƯỜI VÀ Ở GIỮA CHÚNG TÔI”. Mầu nhiệm nhập thể chính là niềm tin một Đấng vừa là người hoàn toàn mà cũng vừa là Thiên Chúa nữa. Con trẻ non nớt yếu hèn nằm khóc trong hang đá Bê-lem kia, đức tin dạy cho chúng ta biết: đó là Ngôi Hai Thiên Chúa, là Thiên Chúa. Thực sự, đây là một phép lạ của tình thương, và chỉ có tình thương mới làm nổi: Thiên Chúa cao sang vì quá yêu thương loài người, đã chiếu cố hạ mình xuống ngang hàng với thụ tạo, để trở nên một người như chúng ta, chung sống giữa chúng ta. Tình yêu san bằng mọi chênh lệch, phá bỏ mọi hàng rào ngăn cách, để gần nhau, đồng hóa với nhau.
Chúa yêu thương con người nên đã làm người, Ngài đã đến để chung sống với chúng ta, đồng hành với chúng ta, chia sẻ cuộc đời với chúng ta.
Ngài là Thiên Chúa nhưng đã trở thành anh em với chúng ta. Chúa yêu thương anh em nhân loại của mình bằng một trái tim nhân loại, nhưng đó không phải là một tình yêu tầm thường, ích kỷ mà là tình yêu phục vụ và dâng hiến, tình yêu cứu sống, và đây cũng là bài học Chúa dạy chúng ta.
Có một tác giả đã nói rằng: “Trái tim không phải là một món hàng để mua bán, nhưng là một món quà để trao tặng”. Một trái tim không biết ban tặng là một trái tim chết, sự giàu có hay nghèo nàn chỉ có thể phân biệt con người thành giai cấp, thứ bậc: có người giàu tiền rừng bạc bể, có người nghèo không một đồng xu dính túi, thế nhưng mỗi người chỉ có một trái tim, và người ta không thể cân lường được trái tim. Do đó, quà tặng xuất phát từ trái tim có giá trị không phải là ở nơi món quà nhưng là ở trái tim được gói ghém trong món quà. Một ánh mắt trong sáng, một nụ cười thông cảm, một lời nói ủi an, một bàn tay nâng đỡ…đó là bao nhiêu trái tim mà con người có thể trao tặng cho nhau, và đó cũng có thể là món quà cao quý nhất mà bao nhiêu người xung quanh đang chờ đợi nơi chúng ta.
Lạy Chúa, Chúa đã sinh xuống trần gian làm người như
chúng con, Chúa cũng có một trái tim như chúng con, trái tim Chúa là một món quà
luôn được ban tặng cho mọi người, xin Chúa ban cho chúng con trái tim nồng nàn
để biết rung động trước những đau buồn của những người xung quanh, và luôn sẵn
sàng mở rộng để trao ban, dù chỉ là một chia sẻ nhỏ mọn, vì tin rằng tất cả
những gì chúng con làm cho người khác là làm cho chính Chúa.
THIÊN CHÚA ĐÃ ĐOÁI THƯƠNG DÂN NGƯỜI
(Thánh lễ nửa đêm)
Fr. Jude Siciliano, op. 2006
Thưa quí vị,
Chuyện kể rằng: Có 2 người uống rượu với nhau. Một người vốn tính lạc quan, người kia bi quan. Khi đã ngà ngà say, người lạc quan chỉ chai rượu nói: “Vui vẻ đi anh, chúng ta còn nửa chai nữa.” Người bi quan buồn rầu đáp: “Vui thế nào được, sắp hết rượu đến nơi rồi.” Chẳng hiểu tôi thuộc về hạng người nào? Lạc quan hay bi quan? Vì chưa chi đã nhìn thấy Giáng sinh đi qua. Sự náo nhiệt của ngày lễ sắp hết. Thế là một mùa đáng nhớ nữa rơi vào kỷ niệm.
Đúng vậy, đêm nay những món quà cuối cùng được thuê gói giấy, đóng hộp và gửi đi. Các bữa tiệc mừng tại văn phòng, trường học, công sở đã vãn. Bánh kẹo, thịt khô, rượu mùi, tạp hoá trang hoàng đã được đặt mua xong và sẵn sàng cho lễ hội ngày mai. Gia đình, bạn bè, khách khứa đã lo liệu xong quần áo, giày dép, mũ nón để đi thăm hỏi thân nhân, họ hàng, làng xóm, láng giềng hoặc du ngoại. Sau thánh lễ nửa đêm, ai nấy đều buồn ngủ. Nhưng vẫn cố gắng hoãn đến chiều ngày lễ lúc đó sẽ làm một giấc ngon, còn bây giờ chưa thể bỏ rơi cuộc vui mừng lễ, đón tiếp khách khứa. Tuy nhiên, rồi sẽ đế lúc tan tiệc rã đám. Người ta sẽ thu gom hang đá, cây thông, đồ vật trang hoàng cất đi cho mùa Noel sang năm, phế thải quăng ra đường cho phu quét rác dọn đi. Chừng hai ba ngày nữa chạy ra các cửa tiệm mở sớm để mua hàng hoá đại hạ giá dành cho sang năm. Dĩ nhiên, cũng hai ba ngày nữa các hoá đơn sẽ dồn dập bay tới và chúng ta méo mặt lo liệu tiền bạc trả các công ty, chậm trễ sẽ chịu lãi suất cao hơn. Cuối cùng mọi người mệt nhoài, nhưng hài lòng về một lễ Giáng sinh đã qua. Chúng ta nghỉ ngơi và chờ đợi ngày đi làm như bình thường. Câu chuyện đúng như vậy không, thưa quí vị?
Nhưng xin nhớ, những hoạt động đó là của thế gian, những nhà kinh doanh buôn bán, ngân hàng kiếm lời. Còn đối với tín hữu, chúng ta nhìn Giáng sinh bằng thái độ khác, nghiêm chỉnh hơn. Các lễ hội, sinh hoạt phụng vụ đối với tâm hồn tín hữu mang ý nghĩa sâu xa, bền vững hơn. Chúng ta vừa trải qua bốn tuần lễ Mùa Vọng, đón chờ, khao khát Chúa đến thăm. Chẳng lẽ lại có thái độ hời hợt như vậy sao? Không, Giáng sinh không chấm dứt vào chiều 25 hoặc 26/12 nó chỉ là khởi đầu và kéo dài tới 2 tuần lễ nữa, chứ không phải một hoặc hai ngày. Nó giúp chúng ta ý thức và đáp trả lòng tốt của Thiên Chúa, Đấng đã tưới gội ơn lành xuống thế gian. Nó nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng mỗi tín hữu chứ đâu phải lễ hội mua vui chóng qua? Nó khích lệ đôi mắt chúng ta nhìn rõ những biểu hiện khác nhau của vinh quang Thiên Chúa trên trần gian.
Do đó, mùa Giáng sinh là thời gian chúng ta ý thức Thiên Chúa bày tỏ quyền năng và ơn lành cho loài người. Chóp đỉnh của nó là lễ Chúa chịu phép rửa mà các tín hữu đông phương mừng như lễ sinh nhật mới. Các bài đọc suốt hai tuần này đồng hành với tâm trí tín hữu, ban khả năng cho họ chìm sâu vào mầu nhiệm Giáng Sinh và Thiên Chúa tỏ mình cho nhân loại. Tháng 7/1969 phi hành gia Neil Armstrong và hai người bạn đổ bộ lên mặt trăng. Cả thế giới nín thở chờ đợi và theo dõi các hoạt động của họ. Khi hoàn thành sứ vụ, trở về trái đất, lập tức họ được tôn vinh anh hùng nhân loại. Người ta tổ chức ăn mừng linh đình, diễu hành phố xá, hình ảnh xuất hiện trên mặt báo chí toàn cầu. Thiên hạ nhảy múa, hò reo. Nhưng chỉ hai tháng sau, chẳng ai còn nhớ tới họ nữa và chuyến đi “nổi tiếng” của họ cũng rơi vào quên lãng.
Tuy nhiên, có một trẻ thơ sinh ra trong nghèo đói tối tăm hơn hai ngàn năm trước, thì nay lại được nhớ đến, ca tụng và ăn mừng muôn thủa. Niềm vui ngày em sinh ra tràn ngập mọi tâm hồn. Nơi em chào đời, làng nhỏ Bethlem, đi vào ký ức như một kỷ vật không thể quên. Thử hỏi tại sao ? Câu trả lời chỉ có thể là lợi ích thiêng liêng em mang đến cho trần gian. Armstrong và các bạn bất quá đem được mấy kg bụi đất mặt trăng về. Nhưng quà của Chúa Hài Đồng thật vô giá: Đời sống thần linh. Cho nên nhân loại vui mừng không kể siết, người ta kỷ niệm năm này qua năm khác mà vẫ chưa no thoả, cơ hồ như tồn tại vĩnh hằng. Vậy thì hời hợt thế nào được?
Bài đọc một đêm nay, Isaia nói rõ việc này hơn: “Đoàn dân đang lần bước giữa tối tăm, đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vòng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi… Họ mừng vui như người ta hỷ hoan trong mùa gặt. Vì cái ách đè lên cổ dân, cây gậy đập xuống vai họ và ngọn roi của kẻ hà hiếp, đều bị Ngài bẻ gẫy, đập tan.” Chúng ta đã từng ngớ ngẩn cậy dựa vào ánh sáng thế gian và phải thất vọng. Chúng ta đã tin tưởng vào quyền lực, tiền tài, kỹ thuật, văn minh, tưởng chừng như chúng sẽ đem lại hạnh phúc nhưng đã nhầm. Thế giới với nạn khủng bố, kỳ thị, ghen ghét, đố kỵ, thực ra là đúng như lời vị tiên tri: “mảnh đất tối tăm.” Hơn nữa những thứ mà chúng ta coi như tự do hạnh phúc, thì Isaia nói thực tế chỉ là “ách trên vai, gậy trên lưng, roi vào mình…” Bởi vì thế gian chẳng bao giờ lắng nghe tiếng êm dịu của hoà bình. Ngược lại, liên tục gây hấn và chiến tranh hoặc dùng ngôn ngữ của vị tiên tri: “giày lính nện xuống rần rần, áo choàng đẫm máu”. Nghe kỳ lạ không quý vị ? Vậy chúng ta chẳng thể bảo vị tiên tri cổ lỗ, lỗi thời. Ong mô tả điều chúng ta chứng kiến hàng ngày chung quanh mình, cả hai bình diện thế giới và đời sống cá nhân ! Có ai không phải vật lộn ? Có ai không phải đấu tranh ? Thiêng liêng, kinh tế, văn hoá, chính trị? Thực ra Isaia tường thuật những nhiễu nhương của thời ông, trên đất nước ông. Nhưng cũng là của thời chúng ta, trên thế giới hiện nay. Cho nên chúng ta được nhắc nhớ rằng: đừng tự cao tự đại. Người ta chẳng có khả năng tháo gỡ những khó khăn ấy mà phải cậy nhờ vào Hoàng tử hoà bình, Cố vấn kỳ diệu, Thần linh dũng mạnh, người Cha muôn thủa như tuyển dân Dothái ngày xưa vậy. Thiên Chúa đã nhìn thấy những nhọc nhằn, khổ nhục của chúng ta và đã gửi Đấng “quyền bính bao la, hoà bình vô tận” đến cứu giúp. Chẳng vì công nghiệp chúng ta nhưng chỉ vì “yêu thương nồng nhiệt Đức Chúa các đạo binh sẽ thực hiện cứu vớt”. Tuy nhiên, không phải bằng đường lối chúng ta chờ đợi mà bằng đường lối riêng của Ngài, theo thượng trí và khôn ngoan vô cùng.
Vì vậy nếu không có ánh sáng Chúa soi dẫn, chúng ta chắc chắn không thể đáp trả chính xác tiếng Ngài mời gọi, lại rơi vào bóng tối và thảm cảnh lầm lạc thế gian. Thực tế, các kinh sư, tư tế, ký lục Do thái xưa đã mắc vào con đường ấy. Ngày nay cũng vậy thôi, nếu chúng ta không biết cầu xin và tỉnh thức. Chè chén vui chơi tối ngày thì làm thế nào tranh thủ được ơn Chúa? Xin nhắc lại rằng: Ngài không đến trong đường lối rực rỡ vinh quang với kèn đồng, lửa cháy, sấm sét, binh hùng tướng mạnh mà trái lại, bé nhỏ nghèo hèn. Hôm qua chúng ta gọi là “quy luật Belem”. Thánh Phaolô viết trong bài đọc 2 rằng: “An sủng dạy chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này.” Thánh nhân còn thêm: “Người đã tự hiến để cứu chuộc chúng ta cho thoát khỏi mọi điều bất chính và để thanh luyện chúng ta, khiến chúng ta thành dân riêng của Người, một dân hăng say làm việc thiện.”
Thánh Luca rõ ràng hơn khi mô tả Thiên Chúa xuất hiện giữa nhân loại trong vóc dáng một hài nhi nghèo khổ. Thánh nhân mở mắt cho chúng ta xem thấy và chiêm ngắm Hoàng tử Hoà bình nằm trong máng cỏ: “Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ.” Thế đấy, Thiên Chúa đến với nhân loại như vậy và sẽ còn đến nữa, đến nữa trong đường lối bé nhỏ, khiêm hạ, nghèo hèn. Chắc chắn chúng ta chẳng gặp Ngài nếu cứ ăn ở huyênh hoang kênh kiệu, đầy kiêu căng tự mãn.
Phúc Âm đêm nay có nguy cơ nhàm chán. Câu truyện kể đi thuật lại nhiều lần khiến có người thuộc lòng. Thượng vị La mã ra chiếu chỉ kiểm tra dân số. Thánh Giuse và Đức Mẹ trở về quê cũ Belem. Đức Mẹ đang mang thai. Không có chỗ trong quán trọ. Đức Mẹ sinh con tại hang chiên cừu. Đặt con nằm ở máng cỏ bò lừa… Chuyện quá quen thuộc khiến người ta đọc như cái máy ghi âm mà chẳng hiểu chi. Thực ra Thiên Chúa đã sử dụng thượng vị La mã làm công cụ để thực hiện chương trình của mình. Thượng vị kiêu ngạo truyền biến thần dân của ông thành con số để dễ bề đánh thuế. Ngõ hầu có tiền cung cấp cho các đạo binh to lớn của Đế quốc và ăn chơi thoả thích. Nhưng Thiên Chúa lại có kế hoạch khác. Và dùng Caesar để thực hiện. Phúc Âm tả đúng câu châm ngôn cổ xưa: “Thượng Đế hành động trong những đường lối mầu nhiệm.” Xét trong lịch sử, khi thời thế trở nên tồi tệ, Thiên Chúa giơ tay can thiệp để cứu vớt dân lành. Chẳng thế lực nào ngăn cản hay phá vỡ nổi. Luca thuật lại cuộc kiểm tra nữa của đế quốc Rôma. Thiên Chúa xuống thế làm người và được liệt kê như một con số trong các con số nô lệ của đế quốc. Ngài cư ngụ giữa nhân loại như vậy đó. Còn chúng ta tranh giành nhau địa vị, cấp bậc. Thử hỏi có xứng đáng làm môn đệ Chúa ? Xin nhớ các Thiên sứ không về phe với Roma, những kẻ cầm quyền bằng sức mạnh áp bức. Các vị loan báo Thiên Chúa uy linh đã đến với nhân loại và ngự giữa loài người. Nhưng ở đâu ? Một tỉnh nhỏ nghèo nàn Palestine, một chấm nhỏ trên bản đồ đế quốc mà Caesar giữ trong phòng chiến lược. Cố vấn kỳ diệu của Isaia cư ngụ chỗ nào ? Chiếc ao tù gọi là Bethlem. Ngài sống ở đâu? Miền Galilea mà các lãnh đạo tôn giáo ở Giêrusalem khinh bỉ, coi như nước sôi đỗ, nửa đạo nửa đời, không đáng lưu tâm. Vậy thì Thiên Chúa dũng mãnh làm chi ở đó ?
Các chuyên viên Kinh Thánh giải thích rằng, khi nói đến Bethlem người ta gợi nhớ Đavit, ông vua vĩ đại của Israel. Một ông vua mục tử chăn dắt dân riêng của Thiên Chúa trong hoà bình và công lý. Dưới triều đại Đavít kẻ què được nâng đỡ, người nghèo được cho ăn, kẻ ngoài lề được trọng vọng, bà goá, trẻ mồ côi được bênh đỡ. Cho nên khi thiên sứ báo tin, các mục đồng hiểu ngay Thiên Chúa đã đoái thương dân Ngài. Thượng Đế đã để ý đến kẻ vô danh tiểu tốt và thân hành xuống chăn dắt họ bằng ánh sáng huy hoàng bao bọc khắp vùng. Sẽ chẳng còn số phận hẩm hiu trong thế giới được Thiên Chúa cai trị. Chẳng ai ngoài tầm săn sóc của Chúa. Mọi người được tôn trọng, chứ không riêng gì giai cấp được ưu đãi của đền thờ hay cung triều Caesar. Thiên sứ không báo Tin Mừng riêng cho họ nhưng cho mọi kẻ thiện tâm.
Vậy thì đêm nay chúng ta không chỉ cử hành trong hân hoan ngày Chúa giáng sinh, nhưng tất cả mọi kẻ sinh lại trong Lời Chúa. Lời đã cưu mang chúng ta theo ý Thiên Chúa và đã hạ sinh chúng ta trên trái đất này. Đó là Tin Mừng chúng ta đã nghe các Thiên sứ loan báo, cũng là niềm vui cho toàn dân. Tất cả chúng ta đã từng sống trong bóng đêm tối tăm, hôm nay được nhìn thấy ánh sáng vĩ đại. Tất cả chúng ta đã từng đi lưu đày trong vùng đất u sầu. Nhưng Thiên Chúa đã trở thành một con người như chúng ta và sống giữa loài người để có thể dẫn dắt mọi linh hồn về cùng Chúa Cha. Cuộc đời Chúa Kitô chính là thể hiện tình yêu của Thiên Chúa cách cụ thể bằng xương thịt, máu huyết nhân loại.
Chúng ta đáp trả ra sao ? Liệu chúng ta bằng lòng
sống cuộc đời Thiên Chúa bày tỏ đêm nay ? Tức khước từ ích kỷ, tham lam, quyền
lực, giàu sang để mặc lấy tâm tình trẻ thơ Giêsu? Chúng ta thờ lạy “Cố vấn kỳ
diệu, Thiên Chúa dũng mãnh” nơi Hài nhi mới sinh. Chúng ta noi gương “người Cha
muôn thủa” bằng yêu mến và săn sóc kẻ nghèo khó, đơn côi, goá bụa. Chúng ta dấn
thân phục vụ “Thủ lãnh Hoà bình” bằng tiêu diệt hận thù dưới bất cứ hình thức
nào, lời nói, việc làm. Xin đừng lựa chọn ghi tên vào sổ “kiểm tra” của Caesar,
nhưng vào sổ các con cái Thiên Chúa, công dân Nước Trời hầu được hướng dẫn bằng
ánh sáng huy hoàng đêm nay. Amen.
Ơn cứu độ Thiên Chúa tỏ hiện nơi việc thiện của chúng ta
Lc 2:1-14
Lm. Jude Siciliano, OP (FX Trọng Yên, OP chuyển ngữ)
Trong hoạt cảnh Giáng Sinh luôn có cảnh Thiên Thần ca hát ngoài đồng. Thiếu nhi thuộc lòng lời của Thiên Thần "Anh em đừng sợ...". Sau khi thiên thần bảo những người chăn chiên đừng sợ, rồi thiên thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”
Anh chị em có thấy sự thay đổi trong câu hát đó không? Trước kia chúng ta thường hát “… bình an dưới thế cho người thiện tâm”. Câu này có vẻ nói các mục đồng thuộc về những “người thiện tâm”. Và như vậy có nghĩa là tin mừng đấng cứu chuộc được sinh ra là cho những ai đã sẵn sàng đón nhận; nghĩa là “người thiện tâm” rồi.
Nhưng, lúc Chúa Giêsu sinh ra các mục đồng là những người không quan trọng mấy. Mục đồng là những người có đời sống thấp hèn. Dân chúng không ai coi họ là những người đạo đức. Nay họ ở chỗ này, mai ở chỗ khác, và nếu có gì bị mất mát thì họ có thể bị nghi là là kẻ cắp.
Vì thế nếu bây giờ chúng ta trình bày cảnh lễ Giáng Sinh, chúng ta nên hãy dùng câu ca hát mới của thiên thần “… Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.” Vì câu này mới đem lại đúng ý nghĩa trong phúc âm của thánh Luca. Trong suốt phúc âm thánh Luca, những người bé nhỏ nhất lại là những người nhận được tin mừng. Các mục đồng có thể là những người trước tiên nhận được tin mừng về việc Thiên Chúa đang thực hiện công việc cho loài người. Nhưng lúc họ nghe tin là lúc họ đang “sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn gia súc”. Họ không phải là những người đang cầu nguyện, hay đang đọc Kinh Thánh. Dù vậy thình lình họ trông thấy vinh quang của Chúa chiếu tỏa chung quanh họ. Trong phúc âm này, những người bị xã hội ruồng bỏ lại nhận được ơn cứu rỗi, khi họ nghe biết được đó là tin vui và họ mừng rở hân hoan đón nhận.
Thiên Chúa là nguồn gốc của mọi sự tốt lành. Ngài yêu thương tất cả chúng ta, như đã nói ở phúc âm trong lễ Giáng Sinh đêm nay. Một lần nữa, Thiên Chúa đến mời gọi tất cả chúng ta.
Bài trích sách ngôn sứ Isaia đọc đêm nay là một bài thơ tuyệt vời. Những lời văn đẹp đẽ ấy không che đậy những đau khổ bên trong, mà còn nhấn mạnh những đau khổ ấy là khác. Ngôn sứ đang nói với “đoàn dân lần bước trong tăm tối…” “những kẻ sống trong bóng tối…” vì cái ách đè trên mình “theo” cây gậy của đốc công đập xuống trên vai họ. Lời văn thơ này nhấn mạnh những đau khổ của một dân tộc đang bị tù đày.
Nhưng, hoàn cảnh của họ đang thay đổi, họ “đã thấy một ánh sáng huy hoàng”. Thiên Chúa đang đến với họ và “Người đã tặng ban cho họ boa nổi hỷ hoan”. Thật đáng vui mừng khi được sự cứu rỗi của Thiên Chúa! Nếu Thiên Chúa cứu chúng ta khỏi sự đau khổ ngay bây giờ, chúng ta nên nhớ ơn Thiên Chúa để khi nào chúng ta “đi và sống trong tăm tối” chúng ta được an ủi nhờ sự cứu rỗi chúng ta đã được hưởng.
Chúng ta đang vui mừng về sự cứu rỗi của Thiên Chúa trong quá khứ, và trong đêm hôm nay. Mọi sự tăm tối âm u đang tản mát, vì ánh sáng cứu độ đã đến. Trẻ hài nhi sinh ra là dấu chỉ Thiên Chúa đang hoạt động cứu rỗi chúng ta. Chúng ta cần phải nhớ điều này, nhất là những lúc tăm tối âm u trở lại, và chúng ta cảm thấy chúng ta không đáng được hưởng ơn cứu rỗi ấy. Điều chúng ta vui mừng đêm nay không phải là ơn Thiên Chúa ban cho chúng ta, hay vì chúng ta là những người thiện tâm, nhưng chính do bởi Thiên Chúa có thiện ý đối với chúng ta trong sự giáng sinh của hài nhi mà ngôn sứ Isaia đã hứa. Những gì là tăm tối âm u đã trở thành hân hoan vui mừng như lời ca trong thánh vịnh “Hãy hát mừng Đức Chúa một bài ca mới”.
Những cụm từ “cứu rỗi”, “cứu chuộc”, “Nước Trời”, “ơn cứu độ” là những cụm từ trừu tượng, khó hiểu khó thấy được đối với những người không có đức tin và ngay cả với những Kitô Hữu đạo đức. Cựu Ước là sách nói về ơn cứu độ. Thiên Chúa có thiện ý đưa tay cứu chúng ta ra khỏi cảnh tù đày, và luôn tha thứ người tội lỗi. Nhưng, đêm nay chúng ta lại mừng vui thêm tình thương Thiên Chúa cho chúng ta biết ơn cứu độ ấy sâu đậm chừng nào.
Thánh Phaolo viết vắn tắt về ơn cứu đội trong thơ gởi cho Titô “quả thế, ân sủng của Thiên Chúa đã được biểu lộ…” Nếu ân sủng cứu độ khó hiểu được thì đây “Chúa Giêsu Kitô” chính là sự hiện diện của ân sủng đó, Một Thiên Chúa vĩ đại, là Đấng cứu độ chúng ta… “Vì chúng ta, Người đã tự hiến để cứu chuộc chúng ta thoát khỏi mọi điều bất chính…” Vậy Chúa Giêsu biểu lộ ơn cứu độ như thế nào? Những người bị ách nặng nề của tội lỗi sẽ được “thanh luyện” khiến chúng ta thành dân riêng của Người, “một dân hăng say làm việc thiện”. Nhờ sự đổi mới đó, chúng ta đã thể hiện là “ân sủng của Thiên Chúa đã được biểu lộ”.
Giáng Sinh Niềm Vui Cho Mọi Người
Lc 2:1-14
V.Kỳ, OP
Hàng năm, cứ mỗi độ đông về kèm theo tiết trời se lạnh, mọi người có vẻ như thu mình lại trong những chiếc áo ấm. Nhưng trong sâu thẳm tâm hồn mỗi người không dấu nổi sự háo hức, mong đợi những cánh thiệp, những món quà hoặc kỳ nghỉ mát đó đây.
Giáng sinh mang lại niềm vui cho mọi người. Trong dịp này, trẻ em trông mong nhận được quà từ tay ông già Noel; các thanh niên, thiếu nữ có cơ hội tặng quà cho nhau để thổ lộ tình cảm; con cái bày tỏ lòng hiếu thảo với cha mẹ; bạn bè, đồng ngiệp trao cho nhau những cánh thiệp kèm lời chúc, mong ước, tình cảm tốt đẹp nhất. Các cửa hàng bày bán đủ thứ: hang đá, cây thông, dây kim tuyến, đèn màu và thiệp noel v.v.. Trên nhiều tuyến đường, các quán ăn hầu như phục vụ khách hàng thâu đêm. Đặc biệt nơi nhà thờ được trang trí hang đá, cờ, ngôi sao, đèn màu rực rỡ. Nhiều tốp thanh niên nam nữ, người già và trẻ em luân phiên chụp ảnh, chiêm ngắm, rảo quanh tận hưởng niềm vui Giáng sinh. Đối với người Kitô hữu, chúng ta được mời gọi đón nhận niềm vui Giáng sinh không chỉ dừng lại ở những phần quà hay kỳ nghỉ mà phải vượt lên mọi điều mắt thấy, tai nghe để đi vào niềm vui của mầu nhiệm Giáng sinh: ngày Hài Nhi Giê-su sinh ra.
Giáng Sinh – dấu chỉ của tình yêu
Tình yêu vốn là một ngọn lửa vừa chiếu sáng vừa sưởi ấm. Hài Nhi Giêsu là nhịp cầu liên kết tình yêu giữa Thiên Chúa và nhân loại. Tình yêu đã đi đến tận cùng và trao ban cho nhân loại món quà cao quí nhất không gì có thể sánh được. Trao ban Đức Kitô là trao ban tất cả. Đức Giêsu là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa đi tìm con người. Thiên Chúa đã tìm thấy con người trong những nỗi đau khốn cùng tột độ của họ. Thật lạ lùng ! Thiên Chúa quá yêu thương đến độ hòa mình với sự khốn cùng của nhân loại. Thiên Chúa đã mặc lấy bản tính nhân loại nên “bóng đêm” nhân loại nhận được “ánh sáng” của Thiên Chúa. Những người khổ đau, yếu đuối, tội lỗi, bị Xã hội bỏ rơi đã nhận được ánh sáng yêu thương của Thiên Chúa qua Hài Nhi Giêsu. Ánh sáng Thiên Chúa đã soi sáng kiếp người tối tăm. Ánh sáng Thiên Chúa sưởi ấm cho nhân loại lạnh lẽo.
Giáng Sinh – dấu chỉ của niềm tin
Giáng sinh chiếu tỏa trên những tâm hồn thiện chí. Đêm nhân gian vẫn còn trong mê đắm. Nhưng vẫn có những tâm hồn thiện chí tỉnh thức. Đó là những tâm hồn bé nhỏ nghèo hèn, những cuộc đời khiêm tốn sống âm thầm trong bóng tối. Họ là những người nghèo của Thiên Chúa. Qua thánh sử Luca, chúng ta biết được họ là thánh Giuse, Đức Maria và các mục đồng (x. Lc 2,8-20). Nhờ khiêm nhường nên họ sẵn sàng đón nhận thánh ý Thiên Chúa. Nhờ tỉnh thức nên họ nhạy bén đón nhận những dấu chỉ Thiên Chúa gửi đến. Vì có tâm hồn đơn sơ nên họ nhận được ân sủng: “vinh quang của Chúa chiếu tỏa chung quanh” (Lc 2,9). Trong khoảnh khắc ngỡ ngàng, sứ thần đã loan báo cho họ: “Người là Đấng Kitô Đức Chúa” (Lc 2,11). Vì thiện chí nên họ hăng hái lên đường ngay khi nhận được tín hiệu: “Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ” ( Lc 2, 12) và họ đã tin.
Giáng Sinh - dấu chỉ của hy vọng
Hài Nhi Giêsu là hạt giống bé bỏng Thiên Chúa gieo vào thế giới. Những tâm hồn thiện chí là mảnh đất phì nhiêu. Những người nghèo của Thiên Chúa âm thầm kiên trì chờ đợi, nhưBa Vua ngước mắt lên trời tìm kiếm. Và niềm khao khát đã được đáp ứng. Đó là Hạt mầm Giêsu sẽ trở thành cây cao bóng cả cho muôn loài trú ngụ. Mặt trời Giêsu sẽ trở thành mặt trời chính ngọ soi chiếu đêm tối nhân gian. Ánh bình minh Giêsu hứa hẹn một ngày mới chan hòa ánh sáng và niềm vui. Với Hài Nhi Giêsu, một thời đại mới khởi đầu: những người bé nhỏ được nâng lên, những người nghèo hèn được kính trọng. Giêsu chính là hạt mầm hy vọng mà Thiên Chúa đã gieo vào thế giới.
Ước gì mỗi người chúng ta hãy để cho Mầu Nhiệm Giáng
sinh thắp sáng trong tâm hồn. Mầu Nhiệm Giáng sinh ấy không chỉ sáng lên niềm
vui, niềm tin, niềm hy vọng, mà còn chia sẻ ánh sáng của Hài Nhi Giêsu với những
người chung quanh, như những mục đồng: “họ kể lại điều đã được nói với họ về Hài
Nhi này” (Lc 2,17). Như vậy, Giáng sinh mới là niềm vui cho mọi người.
Tâm Hồn Giáng Sinh
Thỏ Trắng - người mang tên số 9
Đêm Noel rộn rã với những bài hát vui, những cảnh vui. Giữa những ồn ào tấp nập này, tôi cảm nhận một sự thức tỉnh nơi chính mình. Với tâm trạng này, tôi đến với Chúa Giêsu. Tôi gặp Người trong hang đá. Tôi nhìn Người và Người nhìn tôi. Sự gặp gỡ bằng cái nhìn thân thương này khiến tôi cảm được rằng: Chúa Giêsu không buồn vì tôi đến với Người bằng cả con người của tôi. Trái lại Người hòa điệu tâm hồn của tôi trong tâm hồn Người. Nhờ vậy, tôi cảm nghiệm giá trị đích thật của sự chia sẻ.
Tôi thấy việc đầu tiên Chúa Giêsu đã thực hiện khi xuống trần gian là chia sẻ với những người đau khổ, nghèo hèn, đói rét. Cả những con người đang chìm đắm trong nỗi cô đơn, hay bị Xã hội loại trừ. Ngài đã chào đời bằng tiếng khóc của một hài nhi bé bỏng yếu đuối. Bước vào đời trong thân phận nghèo: không nhà cửa, không địa vị, không tài sản. Bằng sự chia sẻ đầy khiêm tốn, Đức Giêsu đã làm chứng Người là Con Thiên Chúa từ trời cao giáng trần.
- Bằng sự chia sẻ thân phận đầy hy sinh, Đức Giêsu đã cho thấy tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại là thiết thực đến mức nào.
- Bằng sự chia sẻ dấn thân quên mình, dám chấp nhận bước vào cõi khổ của kiếp người, Đức Giêsu đã nâng con người lên địa vị làm con Chúa, đưa họ về Thiên Chúa Tình Yêu.
- Bằng sự chia sẻ đầy thân thương, Đức Giêsu đã ở giữa dân nghèo, cùng với dân nghèo, phấn đấu cho một cuộc đời tự do hơn, công bình hơn, nhân bản hơn, nhân phẩm hơn, nhân đạo hơn.
Từ kinh nghiệm trên đây, tôi cho rằng: Sự chia sẻ nghèo hèn của tôi như là một việc bé nhỏ nhưng mang lại một ý nghĩa. Nếu Chúa Giêsu thực hiện ngay đêm Giáng sinh, thì việc chia sẻ đó cũng cần được chúng ta thực hiện với anh em, khi kỷ niệm Giáng sinh của Người.
Người ta thường nói: Hồn đất nước, hồn sông núi, hồn dân tộc, hồn thời đại. Nói Hồn là để chỉ sự sống và những giá trị cao quí nhất làm nên sự sống một nước, một dân, một thời. Hồn sống đạo cũng được hiểu theo hướng đó.
Thực vậy, hồn sống đạo chính là chia sẻ sự sống của Chúa Giêsu Kitô với mọi người. Tình yêu thương của Chúa Giêsu là một tình yêu thương được diễn tả bằng chia sẻ những khổ cực của những kẻ bị đọa đày, và bằng sự phục vụ, tha thứ, thăng tiến con người .
Hồn Phúc Âm là chân lý của Chúa Giêsu, một chân lý nhân sinh soi cho lương tâm chúng ta thấy: Cội nguồn của ta là Thiên Chúa Tình yêu, đời của ta, dù thế nào đi nữa, vẫn được Chúa yêu thương, đợi chờ, miễn là chúng ta biết đi tìm Chúa và biết chia sẻ Tin Mừng với người khác.
Hồn Phúc Âm là tin cậy và thực thi thánh ý Chúa Cha theo gương Đức Giêsu. Nhờ vậy chúng ta dâng cuộc đời phục vụ, chia sẻ, hy sinh của chúng ta trong thánh lễ thờ phượng Thiên Chúa.
Hồn Phúc Âm là đi theo hướng dẫn của Thần Linh Đức Kitô, để có những đổi mới và sáng tạo trong việc chia sẻ với đồng bào, đất nước trên mọi chặng đường lịch sử.
Nếu Chúa muốn những đổi mới và sáng tạo sẽ được thực
hiện theo tinh thần khiêm tốn, khó nghèo và chia sẻ nơi hang đá Belem, thì chúng
ta hãy sẵng sàng với tâm hồn tạ ơn ca tụng Chúa.
ÐƯỜNG NÀO CHO CHÚA ÐẾN
Đỗ Lực - 2006
“Ðêm đông lạnh lẽo Chúa sinh ra đời . . .”
Tiếng hát vang vọng vào tận cõi lòng tôi.
Chúa sinh vào nửa đêm,
lúc tối tăm nhất một ngày hăm bốn tiếng.
Ðêm huyền nhiệm.
Ðêm kinh hoàng.
Ðêm tưng bừng.
Ðêm thanh bình.
Con Thiên Chúa được Trinh Nữ Maria rất thánh sinh ra nửa đêm tại Bêlem, giữa tiết đông băng giá. Chúa đến trần gian trong một thời khắc kinh dị nhất đêm trường .
Nếu như thế chưa đủ gây kinh hoàng , thì hai yếu tố sau đây cũng làm tăng sợ hãi trong lòng người. Người sinh ra trong một miền đất xa lạ và trong giá buốt. Ðây là lúc chúng ta mừng ngày Ngôi Lời vĩnh hằng sinh vào lịch sử nhân loại. Một thời gian đầy bóng tối (NỬA ÐÊM), bất an (BÊLEM ... một miền đất xa lạ) và khó chịu (GIÁ BUỐT). Ðó là thời gian nhân loại khao khát ánh sáng, sự an toàn và ấm cúng, Chân lý, Công chính và Bình an. Tóm lại, thời gian toàn dân mong đợi ƠN CỨU ÐỘ.
Bất cứ thời điểm đen tối nhất nào trong cuộc đời cũng chính là thời điểm nhớ Thiên Chúa đi vào trần gian lúc đen tối nhất trong ngày. Dù khó phóng tầm nhìn vượt trên sự tăm tối tới đâu, vẫn cần phải nhớ Thiên Chúa đã sinh vào cuộc đời chúng ta. Tham dự thánh lễ nửa đêm, chúng ta chào mừng ánh sáng vĩnh hằng đến phá tan bóng tối. Trong phụng vụ, chúng ta ca ngợi và cảm tạ Thiên Chúa đã sai Ðức Giêsu Kitô đến cứu độ nhân loại.
Khi dâng Thánh Lễ Nửa Ðêm, chúng ta có thể can đảm chào mừng CÔNG LÝ đến dẹp tan bóng tối trong đời ta. Có thể được an ủi trong sự BÌNH AN vì Thiên Chúa hiện diện vào những thời kỳ chúng ta đau khổ nhất. Chúng ta có thể được an vui vì CHÂN LÝ trao ban cho chúng ta vào những giai đoạn lung lay nhất trên hành trình về nhà Cha . . . Chúng ta nhớ . . . Emmanuel . . .Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta !
Thánh Augustinô khuyên cộng đoàn hành động để đền ơn Chúa Kitô đã phá vỡ đêm đen thế gian: “Vì Chúa Kitô là chân lý, bình an và công lý, hãy cưu mang Người trong đức tin, sinh Người trong hành động, để điều gì cung lòng Mẹ Maria đã làm cho thân thể Chúa Kitô, tâm hồn bạn có thể làm cho luật Chúa Kitô.”[i] Như thế, chúng ta có thể trở thành khuôn đúc Chúa Kitô cho mọi người. Làm sao khi nhìn vào chúng ta, mọi người có thể thấy khuôn vàng thước ngọc của Chúa Kitô trong cuộc sống đầy xáo trộn và khủng hoảng hôm nay ?
Mới sinh ra, Chúa đã mạc khải một khuôn mẫu đặc biệt kéo dài suốt cuộc đời và sứ vụ của Người. Những điều nhìn thấy nơi Hài Nhi Giêsu, cũng sẽ thấy nơi Con Người Giêsu sau này. Người đã đi vào những khung cảnh tăm tối và những nẻo đường gồ ghề, bụi bặm với những hạng người vô học, nghèo đói, tội lỗi, bệnh tật v.v. Ngay cả khi sống lại, Người cũng không xuất hiện nơi Ðền Thờ Giêrusalem với những người học thức, quyền thế đạo đời. Trái lại Người đến với dân quê, những phụ nữ đang than khóc, những người đàn ông nhát như cáy đang co mình trong phòng kín, những người không có vị thế trong đạo, không có ảnh hưởng chính trị, không được giáo dục nhiều.
Ðêm Giáng Sinh khai mở một thời đại mới, thời đại mạc khải về tình yêu quảng đại và nhân hậu của Thiên Chúa. Ðức Kitô sinh trong căn nhà của những người tội lỗi, những căn nhà dẫn tới những hầm mộ tăm tối. Người đã phá tung ngục tử thần để đem lại sự sống và phục sinh cho những bộ xương khô là chúng ta.
“Ngôi Lời đã trở thành người phàm và cư ngụ giữa chúng ta.”[ii] Người đã hiện hữu trong thân phận đầy giới hạn của kiếp người. Người hiện diện để mọi người thấy Thiên Chúa rất quan tâm và ưu ái đối với con người. Ưu ái đến nỗi Người muốn họ hiệp thông sâu xa với mình. Nhập Thể là đường lối tuyệt diệu nhất để nối kết con người với Thiên Chúa. Tới một khoảnh khắc nào đó, Ngôi Lời Thiên Chúa đã nhận lấy xác phàm để cứu độ chúng ta, mặc dù Người đã hiện hữu từ muôn đời.
Bây giờ, Người trở thành người phàm để hiện hữu một cách cụ thể và sống động bên chúng ta. Nhờ đó, Người có thể gần gũi mạc khải và đối thoại với mọi người một cách thân mật nhất. Nơi Ngôi Lời Nhập Thể, Thiên Chúa đạt tới tột đỉnh mạc khải về tình yêu. Từ nay, lịch sử nhân loại được bẻ lái sang hẳn một hướng khác. Thay vì bị tiêu diệt, số phận nhân loại sẽ được quyết định bằng cuộc chiến thắng của lịch sự cứu độ.[iii] Nhân phẩm sẽ đạt tới tột đỉnh và bản tính nhân loại sẽ được khai mở tuyệt đối vào cuộc hiệp thông tình yêu với Thiên Chúa. Trong Ðức Kitô, tình yêu Thiên Chúa và tha nhân sẽ đạt đến mức hiệp thông cao nhất nơi một ngôi vị Thiên nhân và tình yêu tha nhân đạt tới phẩm vị tối thượng.[iv] Tất cả chỉ vì Thiên Chúa đã hiện hữu như con người và hiện diện giữa những khổ đau của kiếp người hôm nay.
Mầu nhiệm Thiên Chúa làm người cho thấy việc làm người là một vinh dự, sự sống của cong người đáng quý, và những vi phạm với sự sống là đáng nguyền rủa. Theo một thống kê trên VN Express: Mỗi năm Việt Nam có khoảng 1 triệu 4 trăm ngàn thai nhi bị giết, trong đó 500 ngàn trẻ có mẹ là vị thành niên [v]. Chúng ta đoán trong số này có bao nhiêu người mẹ Công Giáo, đã đồng lõa giết con, giết đứa trẻ vô tội khiến chúng không được nhìn thấy mặt trời. Đó là một tội ác. Chớ gì trong năm ”sống đạo” này, họ biết lắng nghe lời nhắn nhủ của HĐGMVN trong thư mục vụ 2006, số 10: “Trong tư cách Kitô hữu sống đạo, anh chị em hãy cương quyết không để cho “văn hóa sự chết” lôi cuốn mình, không chấp nhận những hình thức xúc phạm đến sự sống và phẩm giá con người, nhất là can đảm nói “không” với tệ nạn phá thai và li dị vốn là những tệ nạn luôn luôn để lại hậu quả bi thảm cho gia đình cũng như cho xã hội và Giáo Hội”.
Khi hát mừng mầu nhiệm Giáng Sinh, chúng ta được mời gọi chung nhịp vận hành Nhập Thể sâu xa với Chúa Cứu thế, để khám phá thấy tất cả những gì Ngôi Lời đã làm cho chúng ta . Nhờ đó, chúng ta có thể đem lại hoa trái đích thực là sự sống và tình yêu cho mọi người. Chúng ta cần mở lòng đón nhận Ðấng đang ngự đến như ÐứcTrinh Nữ Maria. Với tất cả tấm lòng đơn sơ, Mẹ đã xướng lên kinh Magnificat. Làm sao chúng ta có thể cùng với Mẹ hát lên bài ca và làm chứng cho mọi người biết về lòng thương xót của Thiên Chúa qua biến cố Nhập Thể hôm nay ? Ngôi Lời làm người để chúng ta khám phá ra khuôn mặt anh em giữa chúng ta. Giữa chúng ta không còn ai xa lạ, nhưng tất cả đều thấm đượm tình thân và sống chết có nhau . . .
Lạy Chúa, xin cho chúng con dám sống như con người, nhất là với những đồng bào cùng khổ nhất, để Chúa Kitô Nhập thể vào dân tộc và trở thành sức mạnh giải thoát quê hương chúng con. Amen.
[i] Sermon 192:2.
[ii] Ga 1:14.
[iii] x. Karl Rahner, Encyclopedia of Theology, The Concise Sacramentum Mundi, ed. by Rahner, K., New York: 1975, tr. 691.
[iv] ibid.
[v]Thông tin ngày 11-11-2006 trên VN Express