Tư liệu:

Đức Cha Alexandre Paul Marie CHABANON (GIÁO) (1873-1936)

Vị Giám Mục thứ 6 cai quản Giáo Phận Huế (từ 1931-1936)


         

            Đức Cha Alexandre Paul Marie Chabanon, gốc giáo phận Mende, sinh tại Antrenas, gần Marvejols, ngày 7 tháng 7 năm 1873, nhưng lớn lên ở Cambon, xã Saint-Léger de Peyre, nơi song thân của ngài là những nông dân cần cù sở hữu một mảnh đất nhỏ. 

           Ngài là con thứ trong 3 người con: một gái đầu và hai trai. Người con trai út  nhập Dòng Anh Em Trường Kitô (Lasan) và mang tên Thầy Baptiste. Thầy qua đời ở Huế, tại trường Pellerin, cách 25 năm về trước. Người chị, nay cũng đã từ trần, đã sống tại quê nhà và là mẹ của Thầy Vital, người đã theo gót cậu mình vào Dòng Anh Em Trường Kitô. Thầy làm  hiệu trưởng trường Sóc Trăng, ở Nam Kỳ. Thầy đi nghỉ tại Pháp khi Đức Cha Chabanon đến đó và qua đời. 

           Thân mẫu ngài có tiếng là một người rất thông minh và nhất là rất đạo đức. Chính nhờ bà, dĩ nhiên sau Thiên Chúa, chúng tôi không nghi ngờ gì về điều đó, mà vị thừa sai mang ơn về những đặc tính vững chắc của khối óc và con tim chúng tôi biết được.

Quang cảnh giáo phận Mende cách Paris 567 km về phía đông nam,

nơi ĐGH Urbain V (1362-1370) đã từng làm Giám mục cai quản Giáo phận này

           Ngài vào Tiểu Chủng viện lớp septième năm 1884. Một bạn cùng lớp vạch  ra cho chúng tôi gương mặt đầy xây dựng của ngài như sau: 

        “Ở Tiểu chủng viện, Alexandre Chabanon là một mẫu học sinh khôn ngoan, chăm học, điềm tĩnh, ít nói, được mọi người yêu mến. Tháng nào cậu cũng lấy được điểm “ưu” và được cho về  thăm nhà.. Tôi thấy cậu chỉ bị phạt một lần thôi. Đó là ở lớp Première (rhétorique), cậu hoặc người bên cạnh đã quên mang đến lớp một tác giả mà người ta phải chú giải, và cả hai nghe vị giáo sư giải thích trên cùng một cuốn sách, khi bất ngờ họ bị bắt gặp cười ngặt nghẽo (fou rire); điều đã làm cho cậu bị phạt dịch 30 trang sách Tite-Live và bạn cậu dịch 30 trang Tacite”. 

          Cậu có một trí thông minh tốt, vững chắc hơn là toả sáng, một trí phán đoán lành mạnh, và nhất là một sự bền bỉ chuyên cần, làm cho cậu hằng năm lãnh được hầu như mọi phần thưởng. Về sau dễ nhận thấy, qua thư từ của vị thừa sai và vị giám mục cũng như trong các báo cáo phải viết, cậu đã học hành rất giỏi; cậu diễn đạt trong các bài viết một cách dễ dàng và chính xác, với những ký ức văn chương hay, dưới một hình thức không sai lỗi.

          Cậu thi tú tài bán phần năm 1891. Vào tháng 10 cũng năm đó, cậu vào Đại chủng viện Mende trong hai năm. Đây là một chủng sinh gương mẫu về mọi mặt, cần cù, một lòng đạo sâu xa chắc chắn, không ôm đồm các việc sùng kính, nghiêm khắc với chính mình, luôn chu toàn mọi bổn phận, đơn sơ không phô diễn, và bên ngoài xem ra không phải gắng sức. 

          Các đặc tính phi thường này làm cho thầy thường được các chủng sinh đánh giá cao: theo bình thường, thầy Chabanon có lẽ cũng như các bạn đồng môn khác  sẽ chịu phép cắt tóc vào dịp phong chức nhân lễ Chúa Ba Ngôi năm 1893, sau khi hoàn thành hai năm triết; do đặc ân mà chắc chắn không phải thầy tìm cách chiếm đoạt cho được và tôi nghĩ rằng thầy cũng chẳng khoe khoang gì về chuyện này, thầy đã lãnh phép cắt tóc vào dịp Bốn Mùa trước Noel 1892. 

          Thế nên thầy tư tế trẻ tiến vào cung thánh trong bình an và không rộn ràng, trung thành chu toàn những bổn phận của một chủng sinh tốt lành; đó là hoàn toàn hợp lòng hợp ý với ân sủng của ơn gọi linh mục.

          Nhưng Thiên Chúa đã xác định tiếng gọi của Ngài: Chúa nuốn định cho thầy không phải để thánh hoá các linh hồn trong giáo phận Mende, nhưng Ngài muốn sai thầy đi cứu các linh hồn lương dân ở xa phía bên kia đại dương. Khi nào thầy nghe được tiếng gọi đặc biệt đó? Có bao nhiêu thời gian để thầy chín muồi trong cầu nguyện và suy tư?  Người thỉnh sinh truyền giáo này được đưa dẫn cách nào để hướng bước chân về Chủng Viện Hội Thừa Sai Hải Ngoại hơn là về một Hội dòng truyền giáo nào khác ?

Chủng viện Hội Thừa Sai Hải Ngoại Paris

          Gia đình thầy nghĩ thế nào? Các cuộc chiến đấu nào có thể có? Dầu sao, những hy sinh nào đánh dấu sự giã từ cha mẹ thân thương? Về những điều đó, thầy im lặng chẳng bao giờ thổ lộ gì cho ai. Chỉ có Chúa làm chứng và là người tâm sự, đó là một trong những luật sống đời ngài. 

         Dự định của mình, thầy chỉ bộc lộ ra ít tháng trước khi thực hiện cho người bạn cuối cùng của ngài là thầy Tardieu, nay là Giám Mục Đại Diện Tông Toà Quy Nhơn, người mà thầy xét thấy có cùng những khát vọng như nhau. Họ cùng ra đi vào một ngày tháng 9 năm 1893 đến Rue du Bac. Cùng học một lớp ở Tiểu chủng viện, cùng học các lớp ở Đại chủng viện Mende và rồi tại Hội Truyền Giáo Hải Ngoại. 

          Họ lại gặp nhau tại Việt Nam trong hai Miền Truyền Giáo kề cận nhau; và trong cùng một năm, các ngài được nâng lên vinh dự của hàng giám mục. Sự thân tình trìu mến của họ đã được thắt chặt trên ghế nhà trường không bao giờ phai mờ  trong suốt 40 năm cuộc sống tông đồ của các ngài. 

          Người thỉnh sinh truyền giáo ở  Paris vẫn là người chủng sinh ở Mende: một mẫu gương đều đặn, đơn sơ, sống nội tâm và cũng là một người làm việc hăng say. Các đồng bạn và chắc hẳn cả các vị điều hành đều nhìn thấy thầy như là một trong số những người đứng ở tốp đầu các môn học của mình; còn thầy, luôn khiêm tốn, không bao giờ coi mình đáng giá gì. 

          Chính như thế, trung thành chu toàn bổn phận hằng ngày, nhưng mất hút trong đoàn thỉnh sinh đông đúc vào thời đó, thầy đến với chức linh mục ngày 28/6/1896. 

           Cha Chabanon đã nhận bài sai di Miền Truyền Giáo Huế, hồi đó gọi là Bắc Đàng Trong. Ngài rời Paris ngày 26/8 sau đó và lên đường cùng với 8 vị khác, trong số đó có cha Allo, cũng được sai đi Miền Truyền Giáo Huế như ngài. 

          Đức cha Caspar đã đặt vị thừa sai trẻ tại Cổ Vưu, gần Quảng Trị, ở với cha Bonin, là cha sở giáo xứ quan trọng này và Bề trên giáo hạt Dinh Cát.

          Cha Chabanon ở đó nơi trường học tốt lành vừa để học tiếng vừa để khởi sự tìm hiểu các phong tục tập quán của xứ sở, vì cha Bonin là một vị tông đồ lão luyện, nói tiếng Việt rất giỏi và hoàn toàn thông suốt trong cách thực hành các việc đạo việc đời.  

          Vị phó xứ trẻ bắt tay vào việc một cách chuyên chăm và bền chí như bình thường, Các cố gắng của ngài đạt nhiều thành quả tốt đẹp đến nỗi sau 6 tháng, ngài vượt qua kỳ khảo hạch học tiếng Việt cách xuất sắc. Việc tập sự tông đồ của ngài kéo dài trong 3 năm. Sự quý chuộng sâu xa và tâm tình kính mến lúc bấy giờ ngài đã cảm nhận đối với vị thừa sai là người thầy đầu tiên của ngài, ngài vẫn giữ suốt đời. Quả thật cha Bonin là một linh mục gương mẫu và giao tiếp dễ mến làm cho mọi người đều tôn kính  như đã là một bậc tổ phụ.  

         Vào tháng 9 năm 1899, cha Chabanon được bổ nhiệm làm Điều hành (Directeur) Đại chủng viện. Ngài dạy triết học tại đó cho đến tháng 3 năm 1905, rồi được sai đi ra phía bắc của  Miền Truyền Giáo làm cha sở giáo xứ Tam Toà và Bề trên giáo hạt Quảng Bình.

Nhà thờ Tam Toà xưa

      Cho đến 3 năm sau, vào tháng 8 năm 1908, ngài đổi vào giáo xứ Di Loan và Bề trên giáo hạt Đất Đỏ, phía bắc tỉnh Quảng Trị.

Nhà thờ Di Loan xưa

Cũng năm đó, ngài được chọn làm cha Chính bởi Đức Cha Allys là người đã sẵn lòng được tấn phong để cai quản Miền Truyền Giáo. Cha Chabanon nhìn chung đã được xem như một trong những vị có khả  năng nhất và đầy đủ nhất giữa các tay thợ tông đồ. 

          Ở Tam Toà cũng như ở Di Loan, ngài là mẫu gương cho các cha sở. Dầu có một cha phó, ngài không đổ trên vị này công việc chính ngài có thể làm. Ngài không ngừng dạy giáo lý cho các trẻ và ngồi toà giải tội nhiều ngày tròn. Trong nhiệm sở này cũng như ở nhiệm sở kia, ngài phải lo cho một tu viện lớn các nữ tu người Việt; ngài tích cực lo huấn luyện đường thiêng liêng cho họ. 

           Các họ nhánh Loan Lý và Hoà Ninh chỉ có nhà nguyện là những căn trại nghèo nàn mới đóng cửa; ngài đã xây dựng cho họ hai nhà thờ lớn lợp ngói và đẹp đẽ. Ngài cũng đã nới rộng nhà xứ Di Loan, để có thể dễ dàng tiếp đón các thừa sai và các linh mục bản xứ thường đến đó đông đúc để tham khảo ý kiến ngài. 

           Quả thực, ngoài các lo lắng chăm sóc các giáo xứ của chính ngài, ngài còn lo cho toàn giáo hạt gồm 15 giáo xứ, sắp đặt giải quyết các tranh chấp nảy sinh, kiểm tra các sổ sách, khảo hạch các trẻ trước Vỡ lòng và Thêm sức. Chính trong khi thi hành công cuộc mục vụ này rất được ngài ưa  thích,  ngài đã được bổ nhiệm làm Bề trên Đại Chủng viện khoảng giữa năm 1918. 

           Cũng như vào những lần đổi chỗ trước, cha Chabanon chẵng nghĩ ngợi gì, mặc dầu ngài cảm thấy rất cực lòng phải xa những con chiên ngài đã rất gắn bó và chân thành yêu thương; ngài xếp đồ và hết lòng đơn sơ đi vào Huế, đến nhiệm sở mới của ngài.

Nguyện đường ĐCV Huế

          Tại Đại Chủng viện, ngài chỉ duy trì và tiếp tục công trình của các vị tiền nhiệm: quả thực cơ sở này đã được tổ chức từ  nhiều năm dài theo các phương pháp khôn ngoan của Saint-Sulpice, về việc học cũng như đời sống thiêng liêng và tinh thần đang có nơi đó thật tuyệt vời. Cha Chabanon tránh làm đảo lộn bất cứ điều gì trong trật tự đã được thiết lập; nhưng ngài cũng làm việc không kém và còn làm nhiều. 

           Công trình của ngài thực hiện đi vào chiều sâu, không rộn ràng và với tình phụ tử: ngài thực thi một ảnh hưởng thấm nhập (influence pénétrante) các ứng viên cho chức linh mục và ngài được họ yêu mến. Qua những bài huấn đức và hơn nữa qua gương sống của ngài, ngài thúc đẩy họ sống các nhân đức nền tàng của người linh mục: khiêm tốn, siêu thoát, hy sinh, yêu thích cầu nguyện và học hành. 

           Người ta không hề thấy ngài ra mặt bên ngoài (se répandre au dehors); làm việc không mệt mỏi, có thể nói được, ngài chẳng bao giờ rời bàn viết; đồ dùng và tiện nghi trong phòng ngài không khác gì phòng các chủng sinh; chẳng bao giờ người ta nghe ngài than phiền về điều gì hoặc về một ai.  

          Ngài rất khó đối với chính mình: những lần bị sốt (fièvre) thường xuyên vẫn   không làm ngài thay đổi điều gì trong nhịp sống thường ngày. Những lúc đó, người ta vẫn thấy ngài ở phòng ăn, ngồi yên, nghe đọc sách mà chẳng ăn gì, và ở trong lớp, giải thích bài học với một giọng yếu đi mà vẫn chịu khó cầm sách trong đôi tay run rẩy. Bị sốt lâu ngày làm cho bong võng mạc (décollement de la rétine) và làm cho ngài mất hẳn mắt trái năm 1924. Với người viết những hàng này khi bày tỏ tâm tình thông cảm đối với ngài vào dịp này, ngài trả lời cách đầy xây dựng như sau: “Tôi thực hiện câu quotidie morior”  (mỗi ngày tôi phải đối diện với cái chết 1 Cor 15,31). 

          Ngài dạy các môn thần học luân lý và giáo luật một cách thông thạo và rõ ràng. Ngài không lơ là khía cạnh vật chất của trách vụ ngài; ngài thực hiện những sửa sang quan trọng cho những khu nhà khác nhau của cơ sở và xây thêm những khu mới. Trong 13 năm làm Bề trên, ngài vui mừng thấy 35 chủng sinh của ngài lên chức linh mục. 

         Đại Chủng viện không chiếm hết tất cả hoạt động của cha Chabanon, Những bổn phận làm cha Chính địa phận cũng chiếm một phần lớn thì giờ của ngài: những tham khảo trực tiếp hoặc bằng viết, cộng tác điều hành Miền Truyền Giáo, ngài cũng là cha giải tội của các chị em Dòng Kín. 

           Vào năm 1921, Đức Cha Allys còn trao phó cho ngài việc huấn luyện đời tu của Hội Dòng Con Đức Mẹ Vô Nhiễm vừa được Đức Cha thành lập ở cạnh Đại Chủng viện.

Nguyện đường  Dòng CĐMVN Phú Xuân - Huế

          Tu viện này, gồm hoàn toàn người bản xứ, có mục đích chuẩn bị những nhà giáo và y tá cho các trường và các trạm xá của các giáo xứ. Cha Chabanon đã đổ ra nhiều thì giờ và lao nhọc, và ngôi nhà hiện nay rất phát triển, đời sống đạo đức ở đó đã được xây dựng vững chắc, có thật nhiều ơn gọi, nhiều trường và nhiều trạm khám đã được lập nên trong các giáo xứ. 

          Sự hiểu biết rành tiếng Việt đã làm cho cha Chính của Huế được vinh dự làm thành viên của hai ủy ban được hình thành gồm các Đại diện các Miền Truyền Giáo Đông Dương và Xiêm La (Délégués des Missions de l’Indochine francaise et du Siam); một ủy ban lo việc thống nhất sách giáo lý, ủy ban kia lo việc thống nhất các kinh nguyện. Ủy ban các kinh nguyện họp tại Huế vào tháng tư 1924 và cha Chabanon được đặt làm chủ tịch. Vài năm trước đó, ngài đã là đại diện Miền Truyền Giáo Huế tại ủy ban Giáo lý ở Phát Diệm, dưới quyền chủ tịch của Đức Cha Marcou. Trong cuộc họp này hay cuộc họp kia, có nhiều cuộc thảo luận công phu. 

           Rồi Đức Cha Allys mờ mắt dần. Thế nên trong nhiều năm liền cha Chính phải thay ngài đi ban phép Thêm Sức: ngài lợi dụng các tháng hè để thực hiện việc này, hầu chủng viện khỏi phải chịu cảnh vắng ngài. 

          Rõ ràng tất cả các công việc này, bình thường hay tuỳ lúc, đã là một trách vụ  khá nặng nề, cho dầu những đôi vai gánh lấy có vững mạnh chừng nào đi nữa, nhưng cha Chabanon không bao giờ biết nói không, khi người ta trao cho ngài một công việc mới nào. Ngài chỉ biết thở ra khi thấy quá nhiều việc để làm, mà ngài không thể chu toàn mỗi việc một cách hoàn hảo như lòng ngài mong ước. Tình trạng quá nhiều việc đó ăn dần ăn mòn sức khoẻ của người lao động miệt mài này mà anh em đồng sự của ngài không nhận thấy được. 

          Thế rồi, Đức Cha Allys, mắt bị đục thuỷ tinh thể (cataracte), và gần như hoàn toàn bị mù, cần có một vị giám mục phó. Cha Chính của ngài đã được Toà Thánh chọn để như lời Đức Khâm Sứ Toà Thánh diễn tả “làm Ximon thành Xyrênê tốt lành và vững chắc cho vị Đại Diện Tông Toà đáng kính của chúng ta

          Tin báo việc bổ nhiệm ngài đến Huế ngày 26/6/1930 và vị tân giám mục đã được Đức Khâm Sứ Dreyer tấn phong ngày 28 tháng 10 sau đó...Chiếc áo dòng tím không thay đổi gì trong thói quen sống đơn sơ và làm việc của Đức cha Chabanon; ngài vẫn giữ chức vụ Bề trên và giáo sư Đại chủng viện và tiệp tục hết lòng giúp  Đức Giám mục Đại diện Tông toà trong việc điều hành Miền Truyền Giáo.  

          Ngược với điều người ta hy vọng, Đức Cha Allys không thấy lại được, mặc dầu được mổ hai lần do những chuyên viên thành thạo nhất. Thế nên vị giám mục đáng kính xin từ chức và Đức Cha Chabanon trở thành Đại Diện Tông toà, nhận trách nhiệm lãnh đạo Miền Truyền Giáo vào tháng 6/1931. 

          Vị Bề trên mới của giáo phận Huế hết lòng hết sức lo bổn phận trong trách vụ cao cả này. Theo thói quen của ngài, điều gì ngài làm, ngài không làm nửa vời; vì thế trong các chuyến thăm viếng mục vụ, ngài dừng lại nhiều ngày trong mỗi nhiệm sở để nắm bắt tình hình của các giáo xứ; chính ngài trực tiếp khảo hạch các trẻ sắp chịu phép Thêm sức và chia sẻ những vất vả nơi toà giải tội với các thừa sai và các linh mục bản xứ.  

          Việc điều hành của ngài được chú ý bởi một sự rất mực khôn ngoan; ngài suy nghĩ lâu dài trước khi lấy một quyết định, đến độ người ta thỉnh thoảng cho ngài là chậm chạp. Ngài cũng rất mực từ phụ, hoặc trong những ý kiến phải ban, hoặc trong những la mắng hay những bắt phạt phải có. Các tương quan của ngài với hàng giáo sĩ thấm đượm một sự rất mực đơn sơ, một sự chân thành đầy tâm huyết và một sự tận tâm trọn vẹn. 

          Chính dưới triều giám mục của ngài, Đan viện Phước Sơn đã được sát nhập vào đại gia đình Xitô.

Cha Đan Phụ và Cộng đoàn Dòng Phước Sơn

         Chính ngài đã là ngưòi bảo trợ và hướng dẫn cha Benoit (Denis) và người kế nhiệm là cha Bernard (Mendiboure) ngay từ khi lập đan viện. Vào ngày 21/3/1935  ngài đã vui mừng chủ toạ nghi thức sát nhập Hội dòng trẻ trung này với Dòng Xitô, nhân danh vị Tổng Quyền (Abbé génẻral) rất đáng kính.

          Việc thiết lập “Trường Thiên Hựu” ở Huế làm trường dạy cấp hai cổ điển (enseignement secondaire classique) là do nhiệt tâm và hoạt động của Đức Cha Allys; nhưng chính vị Đại diện Tông Toà mới phải lo điều hành việc xây cất cơ sở đồ sộ mà hiện nay, gần 200 trẻ tiếp nhận nền giáo dục trong một môi trường công giáo. 

          Khi được nâng lên hàng giám mục, như chúng tôi đã nói, Đức Cha Chabanon cảm thấy sức lực mình giảm sút. Người ta đã khuyên ngài một cách vô ích một cuộc trở về Pháp hoặc ít nữa một kỳ nghỉ lâu ngày. Công việc dai dẳng mà ngài vẫn tiếp tục dấn thân vào không ngơi nghỉ, cũng như những lo âu lớn lao của trách vụ giám mục nhanh chóng dẫn đến sự liệt lào toàn cơ thể.  

          Trong năm 1935 và nhất là đầu năm 1936, người ta thấy ngài xuống sức rất nhanh và chính ngài thường cẩm thấy đuối sức. Người ta kính cẩn thúc đẩy ngài về nghỉ tại quê nhà; chính Đức Khâm sứ Dreyer cũng đã nhiều lần hết sức khuyên ngài như thế. Nhưng không ai thành công trong việc thuyết phục ngài điều đó.  

          Xem ra vị giám mục đáng kính nhắm đến một lý tưởng anh hùng, là được chết trong Miền Truyền Giáo mà không bao giờ trở lại Pháp. Cuối cùng trong khoảng tháng 3 năm 1936, bác sĩ công bố rõ ràng rằng sức khoẻ của ngài phải bị tổn thương nặng nề, nếu ngài không trở về Âu châu sớm nhất có thể. Đức Cha Chabanon đành chịu phải chết trong tâm hồn. Khổ thay, đã quá chậm và chính ngài cũng biết rõ điều đó. Ngài nói: “Tôi sẽ không về tới Marseille”. 

          Mặc dầu quá sức mệt, ngài vẫn tiếp tục làm việc cho đến khuya trước ngày lên đường đi Pháp. Ngày thứ năm Tuần Thánh, ngài đã muốn cử hành nghi thức làm phép Dầu Thánh, nhưng sức khoẻ không cho phép; cuối nghi thức dài, ngài đã phải dừng Thánh Lễ ngay sau khi rước lễ. Ngày Lễ Phục Sinh, ngài lên bàn thờ lần cuối; bị buộc phải dừng lại và ngồi xuống sau kinh Lạy Cha, tuy nhiên ngài đã có thể hoàn tất điều cần thiết của Thánh Lễ. 

          Ngày 24 tháng tư, ngài rời Huế, và lên tàu tại Tourane trên chiếc “Cap-Varella” cùng với cha Fasseaux. Đức Khâm Sứ Toà Thánh đã yêu thương dành xe hơi Toà Khâm Sứ để chở ngài đi và cha Bresson thư ký Toà Khâm Sứ đưa ngài đến tận bến cảng cùng với cha chính Lemasle và cha Roux. Ở đó, họ gặp Đức Cha Tardieu từ Qui Nhơn ra để bày tỏ mối thiện cảm thân tình và giã từ người anh em đồng hương và là bạn thân từ thời thơ ấu. 

          Cho dến Colombo, cuộc hành trình chẳng có gì đặc biệt: tình trạng của người bệnh cao quý này vẫn cứ như thế. Nhưng một ít lâu trước khi đến Djibouti, ngài càng yếu dần và bị tiêu chảy (dysenterie). Ngài chuẩn bị giờ chết và lãnh các bí tích cuối cùng.  

          Đức Cha đến Marseille ngày 29 tháng 5 trong tình trạng kiệt sức, đến độ xe cứu thương phải tới tận bến cảng đón ngài để đưa về thẳng bệnh viện Saint-Joseph. Các bác sĩ chỉ có thể thấy mình đang đứng trước một cơ thể rã rời, không hy vọng cứu chữa.  

          Người bệnh cảm thấy sự sống cất khỏi ngài từ từ, chuẩn bị một cách gương mẫu cho tiếng gọi của Chúa. Những cuộc viếng thăm của anh em Sở Quản lý (Procure) mang lại niềm an ủi cho những ngày cuối đời của ngài, cũng như của một bạn đồng lớp ở chủng viện Hội Thừa Sai Hải Ngoại và đang là một linh mục xuất sắc trong giáo phận Marseille. Đức cha Chabanon biết rằng người thỉnh sinh xưa kia  này vẫn giữ con tim truyền giáo sống động. Ngài nói: “Này cha Kinh sĩ, cha đã luôn là người bạn của những nhà truyền giáo, hãy giữ mãi như thế cho đến cùng”. 

           Vị linh mục đến thăm này đã cảm động sâu xa khi thấy lại ngài sau 40 năm, một vị thừa sai dũng cảm kiệt lực đến mức này sau một nửa thế kỷ làm việc không ngơi nghỉ và đã không thể cầm được nước mắt khi nghe những lời đầy xúc động đó. 

          Người bệnh đáng kính đã có niềm vui lớn trong những ngày cuối đời là gặp được bên giường bệnh một trong những người cháu gái của ngài, nữ tu dòng Đa Minh và một người cháu trai, thầy Vital, sư huynh Lasan. Cả hai chứng kiến hơi thở cuối cùng của ngài sáng 4 tháng sáu.  

          Ba người anh em chúng tôi, đang phục vụ tại bệnh viện Saint-Joseph cũng ở bên cạnh ngài: cha Pessein thuộc dưỡng đường Nilgiris, cha Colin, thuộc Coimbatore và cha Bélet thuộc Malacca. Khoảng 10 giờ, người ta báo cho cha Colin rằng Đức Cha Chabanon nguy kịch; ngài nói vói người hấp hối chuẩn bị  lãnh phép giải tội lần cuối. Bấy giờ Vị Giám mục đáng kính đưa tay lên trong một cố gắng cuối cùng để làm dấu thánh giá và thở hơi cuối cùng trong an bình. Ngài vẫn giữ được sự minh mẫn cho đến phút cuối. Ngài hưởng thọ 63 tuổi và được 40 năm linh mục và sống đời tông đồ. 

          Việc chôn cất đã thực hiện tại Marseille theo ước mong của Đức Cha quá cố là người đã muốn ra đi trong khiêm tốn và không rộn ràng, cũng như ngài đã luôn sống như thế.  

          Thánh Lễ an táng được cha Sibers, Bề trên dưỡng đường Montbeton cử hành: nghi thức từ biệt lần cuối do Đức Cha Dubourg, giám mục Marseille, chính ngài chủ tọa tang lễ Tham dự nghi lễ còn có các cha, các thầy và các sơ của Sở Quản lý (Procure), cũng như đại diện của các Hội dòng Thừa sai có nhà tại Marseille. 

          Cha Ferrières, Đại diện Miền Truyền Giáo Huế tại Hội đồng Trung ương, đưa xác ra nghĩa địa. Người quá cố an nghỉ ở đó trong hầm mộ các thừa sai của Hội, bên cạnh Đức Cha Dominique Lefebvre, Giám mục Đại Diện Tông Toà Sàigòn, và cha Léculier, thừa sai Miền Huế.  

          Ngay khi tin báo về cái chết của ngài đến Huế, hai lễ hát trọng thể đã được tổ chức: một lễ đặc biệt dành cho quần chúng Pháp tại nhà thờ Phanxicô Xavie ngày 9 tháng 6 và lễ kia ngày hôm sau tại nhà thờ Chính toà Phủ Cam. Cha Lemasle Bề trên Miền Truyền Giáo cử hành cả hai lễ với sự phụ giúp của Đại chủng viện. Tất cả các linh mục đều tham dự như là bổn phận đạo đức của mình.  

           Tại giáo xứ tây Phanxicô Xavie, người ta thấy ở hàng đầu có các Đại diện chính thức của chính quyền Bảo hộ và của Triều đình Việt Nam.        

Nhà thờ giáo xứ Phanxicô Xavie trước đây

           Điều Đức cha Chabanon tiếc nhất và cả giáo phận cùng chia sẻ, đó là không được chết trong Miền Truyền Giáo của ngài, giữa đoàn con cái, các linh mục và giáo dân của mình. 

          Đức cha Chabanon đã để lại cho chúng ta một tấm gương đẹp về đời linh mục thừa sai. Ngài có hồn tông đồ: Ở mọi nơi, công cuộc mục vụ ngài thực hiện đều in dấu một lòng nhiệt thành lớn lao cho việc thánh hoá các linh hồn. Phải chăng đó cũng là phản ảnh các tâm tình nội tâm từ câu châm ngôn giám mục của ngài: “Charitas Christi urget nos” (Tình yêu Chúa Kitô thúc bách chúng ta), nhưng xem ra  ngài cũng đã có một câu khác rất mật thiết, làm luật sống cho cả đời ngài: “Ama nesciri et pro nihilo reputari” (Hãy thích không được biết đến và được cho chẳng đáng là gì).  

          Quả thực Đức cha Chabanon đã luôn yêu thích đời sống âm thầm, hết lòng chăm chú chu toàn bổn phận hằng ngày, một người làm việc hăng say, luôn tiện tặn thời giờ, làm nhiều việc lành không rộn ràng.

          Dưới vẻ bên ngoài rất dè dặt, mà có lẽ người ta xem như lạmh nhạt, ngài giấu ẩn một trái tim vàng. Vì ngài có chừng mực trong lời nói và ít phô bày ra, người ta không hề đoán được lòng nhân lành sâu xa của tâm hồn ngài, ngoài một sự tiếp cận chân thành và đầy tâm tình, cũng như trong những cách thức tế nhị ngài dùng, tuỳ trường hợp đối với anh em đồng sự và các người thuộc quyền ngài và trong các thư từ trong đó mọi sự được ngài diển tả cách dễ thương chân tình.  

          Ngài sở hửu ở một mức độ cao các tính cách quý báu mà người ta rất thích gặp được nơi một đồng sự và còn hơn cả nơi một Bề trên; không bao giờ người ta nghe ngài nói điều xấu nhỏ mọn nào về một ai, sự kiên nhẫn của ngài không hề vơi cạn và sự tế nhị kín đáo của ngài như là châm ngôn. 

          Suy tư nhiều, ngài là một con người chỉ bảo đàng lành, cho ý kiến rõ ràng, đích xác và phán đoán tốt, người ta không bao giờ thấy đam mê ảnh hưởng nơi ngài. 

           Đức Khâm Sứ đánh giá cao ngài và chính ngài cũng có một sự kính trọng đầy yêu mến và tin tưởng đối với Đức Khâm Sứ. Vì thế, trong những bức điện phân ưu, có điện văn của Đức khâm Sứ Dreyer từ Paris gửi cho Miền Truyền Giáo Huế để bày tỏ sự xúc động sâu xa của ngài.  

          Là linh mục và Giám mục đơn sơ và tốt lành, với một năng lực bình lặng, ngài được người ta thương mến trong mọi nhiệm sở ngài đảm trách và người ta luôn luyến tiếc khi thấy ngài phải ra đi: Đó là một người Cha được mọi người thuơng mến và các linh mục Miền Truyền Giáo khóc thương ngài sớm khuất bóng.

Nhà thờ Chính Toà Phủ Cam xưa

(Dịch từ nguyên văn Pháp ngữ trong Archives des Missions Étrangères de Paris, No 2239, Pays: Vietnam)

 Linh mục Stanislaô Nguyễn Đức Vệ