Tư liệu:

Đức Cha François Arsène Jean Marie Eugène LEMASLE (LỄ) (1874 - 1946)

Vị Giám Mục thứ 7 cai quản Giáo Phận Huế (từ 1937-1946)


         

          Đức Cha Lemasle sinh tại Servon (tỉnh Manche) ngày 19/12/1874, trong một gia đình rất danh giá. Ngài học bậc tiểu học nơi các Sư Huynh Trường Kitô ở Ploermel, và nhờ cha Guillard dạy những khái niệm latinh đầu tiên, trước khi vào Tiểu chủng viện Abbeye-Blanche, nơi ngài giữ lại một ấn tượng tuyệt đẹp về các thầy giáo của mình; suốt đời, ngài giữ mãi kỷ niệm rất tốt đẹp về mái trường này. Việc học cấp hai của ngài kết thúc đầy vinh dự với tấm bằng tú tài văn chương đón nhận trước Phân khoa Rennes ngày 11/11/1893. 

Coutances thuộc miền Basse-Normandie, tỉnh Manche, cách Paris khoảng 278 km về phía tây.

           Francois đáp lại tiếng Chúa gọi vào đời sống giáo sĩ, nhập Đại Chủng viện Coutances, điều này giúp thầy còn học thêm về ơn gọi của mình trong vòng một năm nữa và cuối cùng thầy quyết định tận hiến đời mình làm tông đồ miền xa cho các lương dân. Tháng 9/1894 thầy đến Chủng viện Hội Thừa Sai Hải Ngoại Paris.

Chủng viện Hội Thừa Sai Hải Ngoại Paris

           Chủng viện này được biết đến nhiều trong giáo phận Coutances, bởi các chân phước Gilles Delamotte và Auguste Chapdelaine gốc gác ở đó, đã chết vì đức tin, vị trước ở Huế, và vị sau ở Kouang-Si, cũng như có nhiều vị thừa sai lúc đó đang giảng đạo tại các vùng Viễn Đông, trong số đó có Đức Cha Osouf, Tổng Giám mục Tokyo.

Mọi sự xuôi chảy tốt đẹp, khi bất thần, cơn bệnh buộc thầy phải ngưng việc học và đi đến trường Saint-Grégeire ở Pithiviers, để vừa dạy học, vừa có thể lo cho sức khoẻ của mình.

Khi sức khoẻ hồi phục hoàn toàn, thầy thỉnh sinh trở về lại Chủng viện Hội Thừa Sai Hải Ngoại để tiếp tục học thần học và ngày 26/6/1898, thầy được thụ phong linh mục cùng với 43 anh em khác. Ngay tối hôm đó, cùng với các cha Morineau và Guichard, ngài nhận bài sai đi Miền Bắc Đàng Trong, nay là Miền Truyền Giáo Huế. Ngày 27/7 sau đó nghi thức lên đường được cử hành cho 22 vị thừa sai đi nhiều Miền Truyền Giáo khác nhau ở Ấn Độ, Đông Dương và Trung Quốc.

Thật là một niềm vui lớn cho tất cả các thừa sai Huế được đón nhận ba người thợ tông đồ mới tinh đang sung sức. 

Đến Miền Truyền Giáo, cha Lemasle học ngay tiếng Việt, nhưng ít lâu sau ngài phải chịu thử thách bởi cơn bệnh tiêu chảy (dysenterie) nặng nề buộc ngài phải đến dưỡng đường của Hội Thừa Sai Hải Ngoại tại Hồng-Kông vào khoảng cuối năm 1898 và ở lại đó vài tháng. 

Tháng 7/1899, ngài vừa bình phục và đủ sức để về Miền Truyền Giáo của Ngài. Đức Cha Caspar bổ nhiệm ngài làm giáo sư môn tu từ học{rhétorique) tại Tiểu chủng viện An Ninh.

Nhà các Cha giáo Tiểu Chủng Viện An Ninh

Đối với ngài, đó là một thời gian rất thuận lợi và cũng rất dễ chịu giúp ngài làm quen với khí hậu và tăng cường sức khoẻ. Vừa trải qua 3 năm trong cơ sở này, cha Lemasle đã trở thành giáo sư Đại chủng viện Huế, dạy triết học và thần học trong 10 năm.

Nhà các cha giáo ĐCV Huế

          Ở Đại chủng viện thật đúng chỗ của ngài, vì ngài thích dạy học và trí óc thông minh của ngài làm cho công việc trở nên dễ dàng đối với ngài.

          Nhưng vào năm 1911, ngài phải đổi nhiệm sở, vì hồi đó quá nhiều nhiệm sở không có người phụ trách, và ngài lãnh trách nhiệm lo giáo xứ Cổ Vưu và các họ nhánh, trong tỉnh Quảng Trị, lo hạt Dinh Cát và tu viện các Nữ tu, phụ trách đền thánh Đức Mẹ La Vang và các cuộc hành hương. Chỉ có một cha phó người Việt giúp ngài thôi, nhưng ngài lãnh các trách nhiệm đó một cách đầy lạc quan vui vẻ, rất khéo léo và biết xử thế, ngài luôn có mối tương quan tốt đẹp với mọi người. Ngài xây dựng một vài công trình mới cho tu viện, đặc biệt một ngôi nhà nguyện rộng rãi và thanh nhã.

Nhà Thờ Cổ Vưu truớc đây

 

Nhà thờ La Vang trước đây

          Trách nhiệm nặng nề: 15 giáo xứ, 17 linh mục và 11.031 Kitô hữu. Nhưng dầu nặng nề bao nhiêu vẫn không vượt quá sức ngài, bởi vì từ khi đến Miền Truyền Giáo ngài đã thâu thập được một sự hiểu biết hoàn hảo về phong tục tập quán của xứ sở và việc thực hành mục vụ tông đồ; thế nên trong khoảng 10 năm ngài đã mang gánh nặng và trách nhiệm với tinh thần lạc quan, vui tính và một năng lực hoạt động phi thường, tận tâm lo cho giáo xứ và giáo hạt được ngài thường xuyên thăm viếng. 

          Các Kitô hữu rất gắn bó với ngài, vì vậy họ rất tiếc nuối khi thấy ngài phải rời xa giáo xứ Cổ Vưu, để đi đảm trách giáo xứ Phanxicô Xavie ở Huế. 

          Giáo xứ này lúc đó vừa mới thành lập và gồm phần nhiều là những công chức, những người sau một thời gian lưu lại vài năm đã về Pháp hoặc thay đổi chỗ làm.

Nhà thờ giáo xứ Phanxicô Xavie trước đây

 

Trường Jeanne-d’Arc trước đây

          Ngoài số giáo dân trôi nổi mà ngài vẫn phải lo tổ chức trong giáo xứ và đào luyện đời sống đạo, vị chủ chăn còn phải lo các bệnh viện Pháp và bản địa, lo trường Jeanne-d’Arc và các lính tây trông coi nhà lao, vì vậy việc không thiếu. Bổn phận chính ngài giữ luôn trong lòng phải chu toàn, đó là giáo dục nghiêm chỉnh các bổn đạo của mình những chân lý trong đạo, bằng cách mỗi Chúa Nhật giải thích cho họ học thuyết Kitô giáo một cách có phương pháp và rõ ràng: vì thế ngài chuẩn bị đàng hoàng các bài giảng và bài giáo lý, không quá cậy dựa vào cách diễn tả dễ dàng và hùng biện của ngài, và đều đặn dạy giáo lý cho các học sinh trường Jeanne-d’Arc cũng như các trẻ trong giáo xứ. 

          Các bệnh nhân trong bệnh viện được ngài thăm một ngày hai lần và cha Lemasle luôn ở trong tư thế sẵn sàng để đến ngay với bệnh nhân khi được gọi, điều thường xảy đến cả ngày lẫn đêm; việc mục vụ thỉnh thoảng khó khăn và tế nhị, nhưng ngài nhiệt tâm chu toàn. Ngài vui mừng rửa tội được nhiều lương dân. Với các quân nhân, ngài luôn có những mối tương quan tốt đẹp làm cho việc mục vụ của ngài được dễ dàng. 

          Phải làm việc tông đồ quá sức mình chắc chắn gây tổn hại cho sức khoẻ của ngài. Quả thực, ngài đã phải đi nghỉ vài tháng ở Đà-Lạt, nhờ vậy ngài tiếp tục việc mục vụ sau đó cách vững chắc trong nhiều năm. 

          Năm 1930 cha Lemasle được gọi làm cha Chính (Provicaire) Miền Truyền Giáo và là Đại diện Thừa Ủy (Vicaire délégué) thế chỗ cha Chabanon được bổ nhiệm làm Giám mục Phó của Đức Cha Allys. Tất cả hàng giáo sĩ đều chờ đợi điều đó và đề cử ngài cho nhiệm vụ đó: nhưng ít lâu sau, cơn bệnh ngài mắc phải từ nhiều năm lại trở nặng buộc ngài phải về Pháp để chữa trị, vì không hy vọng chữa lành tại Việt Nam lúc đó. 

          Ngày 26/3/1931, ngài viết như sau cho vị Giám mục của ngài: “Thưa Đức Cha, như con đã báo trước với Đức Cha, Phân khoa bệnh viện (Faculté) đòi con phải lo đi chữa bệnh ở Pháp. Tình trạng sức khoẻ buộc con phải chịu hy sinh này làm cho con rất cực lòng nhất là trong hoàn cảnh hiện nay. Con hy vọng có thể ở lại đây, nhưng các bác sĩ nói với con rằng một thời gian lưu lại tại Pháp là tuyệt đối cần thiết”. 

          Vì vậy ngài lên đường và đến Marseille ngày 27/6/1931 sau một cuộc vượt đại dương tốt đẹp cùng với nhiều anh em đồng sự. Một vài ngày sau đó, ngài đã gặp lại mẹ già của ngài, người em và các bà con khác sau một cuộc vắng bóng 33 năm! 

          Ngài viết cho Đức Cha Chabanon: “Vui biết bao cho mọi người!  Xúc động biết chừng nào! Điều không ngăn cản con vẫn ở gần Đức Cha trong tâm tưởng”. Vào tháng 12 năm 1931, Ngài phải lên bàn mổ tại Paris mang lại cho ngài một sức khoẻ rất khả quan. 

          Suốt thời gian lưu lại Pháp, cha Lemasle lo lắng nhiều đến việc thiết lập trường Providence ở Huế, tìm một Hội dòng sẵn sàng đảm đương cơ sở này, Ngài đã gõ cửa nhiều nơi mà không  thành công trong những vận động này; tất cả mọi hội dòng đều thiếu nhân sự. Thực sự công trình ở quá xa và cũng rất khó khăn trong thời kỳ khủng hoảng này. Bấy giờ ngài bắt đầu đi kiếm tìm các giáo sư tình nguyện và cũng chẳng hề đạt kết quả. 

          Trong khoảng thời gian đó, ngài đã thực hiện một cuộc hành trình đến Roma, nơi ngài đã có diễm phúc được Đức Thánh Cha Piô XI tiếp kiến riêng.

Quảng trường Đền Thờ Thánh Phêrô tại Rôma

           Trong vòng 20 phút, ngài đã trình bày cho Đức Thánh Cha biết về giáo phận Huế, về hàng giáo sĩ và các công trình của giáo phận. Dễ đoán được là ngài giữ một kỷ niệm khó quên và đầy khích lệ về cuộc hội kiến này với ĐTC Piô XI. Ngài cũng nói chuyện với Đức Hồng Y Tổng trưởng Bộ Truyền Giáo, là vị rất quan tâm đến việc thiết lập một  trường cấp hai ở Huế. 

          Sau khi phục hồi sức khoẻ đầy đủ để trở lại Miền Truyền Giáo, cha Lemasle viết cho Đức Cha Chabanon: “Ở Paris chắc hẳn người ta sẽ không ngăn trở việc con lên đường đầu năm 1933, với điều kiện là các bác sĩ cho phép con đi về lúc đó”. 

          Vào tháng 4, ngài đã trở về Huế mà không tìm được một Hội dòng nào có thể

chấp nhận trách nhiệm lo trường Providence. Miền Truyền Giáo cũng không vì thế mà lùi bước trước những khó khăn; chính mình phải lo tự đảm trách và cha Lemasle được đặt làm Bề trên cơ sở này, “Thiên Hựu Học Đường” với các cha giáo sư Thục, Dancette, Massiot, Thích. 

Ngày 17/8/1933, Đức Cha Chabanon làm phép cơ sở mới này, và Đức Khâm Sứ Toà Thánh chúc mừng ngôi nhà giáo dục này với những lời chúc sau đây: “Vivat, crescat, floreat et fructificet” (Sống mạnh, tăng trưởng, nở hoa và sinh trái )!   

Khi làm Giám mục, Đức Cha Lemasle đã đặt ngôi trường này dưới sự bảo trợ của thánh Têrêxa Lisieux, ngày 2/10/1938.

Trường Thiên Hựu Huế

          Ngay ngày hôm sau, được vài vị giáo sư giúp đỡ, cha Bề trên đã nhận những học sinh đầu tiên. Người ta bắt đầu dạy lớp sixìème và mỗi năm phải thêm một lớp. Trước hết, thời gian đầu đầy khích lệ do số học sinh đông. Sau đó càng phấn khởi vì các học sinh học hành siêng năng và có tinh thần rất tốt; thế nên những năm sau đó ghi nhận nhiều kết quả tốt đẹp, nhờ sự điều hành thông minh của cha Bề trên và sự làm việc tận tâm của các giáo sư.

         Tháng 4 năm 1936, Đức Cha Chabanon đi Pháp, hoàn toàn kiệt sức. Vì thế cha Chính Lemasle nắm việc điều hành Miền Truyền Giáo và lúc Đức Cha qua đời ngày 4 /6/1936, ngài trở thành Bề trên tạm thời. 

          May thay Giáo phận Huế không phải ở lâu trong cảnh trống toà; quả thực, 8 tháng sau, Toà Thánh đã đặt cha Lemasle làm giám mục hiệu toà Teuchira và Đại Diện Tông Toà Huế. Ngày 10/2/1937, tin báo đến Huế. 

         Ngày 27.5.1937, trước sự chủ toạ của Đức Khâm Sứ, ngài được tấn phong Giám mục trong Nhà thờ chính toà Phủ Cam do Đức Cha Gouin từ Lào chủ phong và hai Đức Cha Tardieu từ Qui Nhơn và Đức Cha Cẩn từ Bùi Chu phụ phong.

Nhà Thờ Phủ Cam xưa

          Trong Miền Truyền Giáo không ai ngạc nhiên về điều này. Linh mục và Kitô hữu đều vui mừng và dâng lên vị được tuyển chọn lời chúc mừng và lời cầu chúc một hoạt động tông đồ lâu dài và phong phú. 

          Rất nhiều lời chúc mừng cùng gửi đến ngài từ khắp nơi, nhất là từ Normandie, không chỉ từ gia đình và thân mẫu tốt lành của ngài lấy làm hạnh phúc nhận được tin vui đó, nhưng cả từ các Vị Giám mục và Đại Diện Tông toà, các cựu học sinh Abbeye-Blanche, các linh mục học trò, các bạn đồng môn và các người khác. 

          Báo Tuần tôn giáo (Semaine religieuse) của Coutances loan tin Đức Thánh Cha chọn cha Lemasle làm Đại Diện Tông Toà Miền Truyền Giáo Huế, đã viết: “Giáo Hội tại Coutances vui mừng làm giàu thêm một tên nữa cho danh sách vinh quang của các linh mục đã được nâng lên hàng giám mục”, Ở Normandie, người ta hân hoan và mong ước một ngày nào đó được thấy lại Đức Cha Lemasle ở Pháp; nhưng buồn thay sự mong ước đạo đức này sẽ không thực hiện được. 

         Mặc dầu trách vụ mới đối với ngài là  vinh dự và cao quý nhất, nhưng không kém phần vất vã. Đức Cha Lemasle có lợi thế là biết rõ Miền Truyền Giáo: các thừa

sai, hàng giáo sĩ, các cộng đoàn và các giáo xứ, và thấu biết việc điều hành giáo phận Huế vì ngài đã chăm lo từ một năm qua. Dầu thế, chẳng bao lâu ngài nhận thấy mình đã chấp nhận một gánh nặng nề, nhưng ngài vẫn quyết tâm gánh lấy với lòng can đảm và vui vẻ. 

          Từ đó ngài hướng dẫn hoạt động mục vụ trong giáo phận cách chu đáo và vững vàng, bằng một sự chăm nom đặc biệt cho hàng giáo sĩ. 

          Qua các cuộc tĩnh tâm năm, ngài trao cho các linh mục những lời khuyên thực hành và những chỉ dẫn ngài xét thấy cần thiết để điều hành các giáo xứ cách  tốt đẹp và đồng bộ. 

          Các chủng viện được ngài thăm viếng thường xuyên và không bao giờ ngài vắng mặt trong việc chủ toạ các kỳ thi và khảo hạch các đại chủng sinh. 

          Ngài chủ toạ các cuộc Đại hội hành hương Đức Mẹ La Vang. 

          Ngài ra thư mục vụ chỉ định các nghi thức cho toàn giáo phận để mừng kỷ niệm 100 năm cuộc tử đạo của hai Chân Phước Jaccard Phan và Tôma Thiện. Ngày khai mạc các nghi lễ là 21/9/1938 và bế mạc là 21/9/1939.

Đền hai Thánh tử đạo Jaccard Phan và Tôma Thiện tại Nhan Biều, Quảng Trị

          Trong thời ngài, Đan viện Thiên An được thành lập, không xa thành phố Huế, dưới sự dẫn dắt của cha Dom Romain.

Đan viện Thiên An

          Vào tháng 6 năm 1941, tại nhà thờ chính toà Phủ Cam, ngài phong chức 8 linh mục, trong đó có một người chắt của Minh Mạng, vị Vua đã truyền bách hại các Kitô hữu, và thánh Phaolô Bường tử đạo là bà con bên ngoại của tân linh mục này  (J.B Bửu Đồng). 

Các Tân Linh Mục được Đức Cha Lemasle phong chức ngày 8-6-1941

          Ngài cũng quan tâm nhiều đến các dòng tu và việc dào luyện trí thức, nghiệp vụ và thiêng liêng cho các tu sĩ. Ngài cổ võ và tạo mọi điều kiện cho việc mở trường.

trong mọi nhiệm sở của Miền Truyền Giáo, cũng như trong các vùng lương dân Ngài muốn rằng các thầy giáo phải được chọn lựa kỹ càng và có trình độ. Sự trợ lực của các nữ tu bản xứ rất tận tâm giúp cho ngài lập được một số trường trong các giáo xứ mới, nhưng số các trường vẫn còn thiếu và ngân khoản cần có cũng không đủ. 

          Thế nên ngài cổ võ thiết lập “Hiệp Hội Đức Maria” để tăng cường việc giáo dục thiếu nhi và thanh thiếu niên. Mọi cố gắng đang diễn tiến tốt đẹp trong cả ba tỉnh của Miền Truyền Giáo, thì 23 trường lại bị huỷ hoại hoàn toàn do chiến tranh. 

          Việc tổ chức Công Giáo Tiến Hành trong giáo phận cũng được Đức Cha hết sức quan tâm và nếu các khốn khổ thời thế: chiến tranh và tình hình chính trị ngăn cản việc thu lượm những kết quả có quyền mong ước, ngài vẫn tích cực hoàn toàn đi theo quan điểm của Toà Thánh. 

          Các cuộc thăm viếng mục vụ kéo dài trong khoảng 40 ngày mỗi năm, tất cả được tiên liệu và sắp đặt trước. Đức Cha Lemasle trải qua nhiều ngày trong các điểm truyền giáo tuỳ theo tầm quan trọng, để khảo hạch các em chịu phép Thêm sức. Ngài đích thân hỏi các thiếu nhi và những người tân tòng, rồi các linh mục phụ giúp ngài tiếp tục hỏi một vài câu trước mặt ngài. Ngài xét thấy các cuộc khảo hạch này cần thiết để buộc các người sáp chịu phép Thêm Sức học Giáo lý và để chính ngài thấy được việc học của các người này thế nào. 

          Các cuộc thăm viếng mục vụ này thỉnh thoảng rất cực nhọc cho ngài. Nhiều lần ngài phải mệt nhọc vì cái nóng nghẹt thở, cũng như do quá nhiều việc và tình trạng đường xấu buộc ngài phải đi bộ chân trần và lội qua các khe nước, cũng nhọc mệt vì thiếu tiện nghi. Dầu lớn tuổi, ngài vẫn không than phiền và nếu người ta có xin lỗi trước mặt ngài, ngài đơn sơ trả lời: “Tốt thôi! Tôi quen rồi!”. 

          Cuộc viếng thăm mục vụ cuối cùng của ngài suýt trở thành bi thảm vì bị ngăn trở do cuộc đảo chánh Nhật ngày 9/3/1945. Lúc đó Đức Cha đang ở trong tỉnh Quảng Bình, nghe đằng xa có những tiếng nổ lớn mà không biết điều gì đang xảy ra. Các nghi thức ban sáng ở Binh Thôn vừa chấm dứt, ngài đi về Tam Toà, gần Đồng Hới. 

          Vừa đến đó, ngài được cho biết tình hình nặng nề. Đêm yên tĩnh, nhưng sáng hôm sau vừa xong Thánh lễ, ngài phải nhanh chóng xuống thuyền và trốn khỏi quân Nhật đang ngăn chặn mọi người Âu và tìm bắt vị Giám Mục, Con thuyền chạy nhanh hết sức để tránh xa và trong hai ngày, ngài trốn tránh trong các giáo xứ, cuối cùng người ta kiếm cho ngài một chiếc xe kéo để đi đến TCV An-Ninh. Ngài ra đi khoảng 8 giờ tối với một linh mục, đi suốt cả đêm không bị quấy rầy và sáng ra đến được An-Ninh.

Nhà nguyện TCV An Ninh

          Hai ngày sau, một chiếc thuyền đến đón ngài để đưa về Huế, nơi đó ngài bị buộc phải ở trong nhà cho đến ngày đi Sài Gòn 4/8/1946.

Toà Giám Mục Huế trước đây

          Những tháng đầu cũng qua được; người ta không thể ra khỏi vùng bị giới hạn, nhưng Đức Cha vẫn có thể thỉnh thoảng đi đến Đại chủng viện và trong một vài dòng tu gặp gỡ các linh mục. Nhưng sau đó, do hoàn cảnh chính trị, ngài không thể đi ra khỏi vùng tập trung. Mặc dầu ngài tỏ ra lạc quan và vui tính, nhưng vào tháng 6 năm 1946, trước bao nhiêu biến cố và hoàn cảnh khó khăn, ngài ngã bệnh. Bác sĩ săn sóc ngài rất tận tình, nhưng chỉ giúp ngài tạm thời khá hơn một chút. 

          Trong tình trạng không thể cung cấp cho ngài đầy đủ thuốc men cần thiết, ông quyết định ngài sẽ phải đi chữa bệnh tại Sài Gòn, để thay đổi môi trường và khí hậu, hy vọng  giúp ngài phục hồi sức khoẻ. Ngài được mọi săn sóc cần thiết tại bệnh viện Saint-Paul ở Sài Gòn, nhưng ngài càng lúc càng yếu không còn hy vọng gì chữa lành. Được cho biết về tình trạng nặng nề của bệnh trạng, ngài chuẩn bị rất đạo đức cho cuộc vượt qua lớn lao, và ngày 26/9 lúc 8 giờ tối, không đau đớn và tinh thần vẫn sáng suốt, ngài phó dâng linh hồn cho Chúa trong an bình. 

          Tang lễ do Đức Cha Cassaigne Đại diện Tông Toà Sài Gòn chủ sự diễn ra rất đơn sơ trong Nhà Thờ Đức Bà. Xác ngài được an táng trong nghĩa địa của các thừa sai gần bên mộ của vị giám mục danh tiếng Adran. Chính đó là nơi mà người Cha rất đáng nhớ đợi chờ sự phục sinh vinh hiển trong bình an. 

(Theo Archives des Missionnaires Etrangères de Paris,No 2356,Pays:Vietnam) 

Linh mục Stanislaô Nguyễn Đức Vệ