Tư liệu:
Đức Cha Marie Antoine CASPAR (LỘC) (1841-1917)
Vị Giám mục thứ 4 cai quản Giáo Phận Huế (1880-1907)
Đức Cha Caspar sinh tại Obernai (giáo phận Strasbourg, tỉnh Bas-Rhin) ngày 23/7/1841. Cha mẹ ngài là những thương gia được trọng vọng, những Kitô hữu rất tốt lành và những người rất hăng hái phục vụ đất nước mình.
Thành phố Obernai, thuộc tỉnh Bas-Rhin, cách Paris 379 km về phía đông nam.
Thân phụ ngài, phụ tá thị trưởng Obernai, đã rất đau buồn về những tàn phá của cuộc chiến năm 1870, và không ai an ủi nổi khi thấy vùng Alsace thân yêu của mình bị rơi vào tay quân Đức đến nỗi ông đau buồn mà chết. Vào thời kỳ bị tàn phá đó, Louis Caspar đã ở Miền Truyền Giáo. Cũng yêu đất nước mình như người cha, ngài đã không được biết sớm hơn rằng ngài có tự do chọn lựa vì nước Pháp hoặc lệ thuộc vào nước Đức, ngài liền hối hả tuyên bố theo đúng thể thức rằng sinh là người Pháp, ngài sẽ sống và chết là người Pháp.
Sau khi học nhiều năm ở trường Obernai, cùng với bạn đồng hương Louis Dangelzer, mà ngài sẽ gặp lại sau này trong Miền Truyền Giáo Bắc Đàng Trong, cậu Louis Caspar hoàn tất môn văn học cổ điển (humanités) ở Metz, tại trường Saint-Clément, do các cha Dòng Tên điều hành. Từ đó ngài qua Đại chủng viện Strasbourg, nơi ngài sớm rời bỏ để đến Chủng viện Hội Thừa Sai Hải Ngoại Paris.
Chủng viện Hội Thừa Sai Hải Ngoại Paris
Sau thời gian huấn luyện bình thường trong cơ sở này với bao kỷ niệm đẹp, ngài thụ phong linh mục ngày 17/12/1864. Ngày 15 tháng hai năm sau, ngài xuống tàu đi Miền Truyền Giáo Tây Đàng Trong.
Với lòng yêu thích cuộc sống đều đặn và bình lặng, vị thừa sai trẻ lấy làm hạnh phúc đã được bổ nhiệm làm giáo sư chủng viện Sài Gòn ngay khi đến, và vài năm sau đó, ngài hết sức vui thích khi được Giám mục của mình trao trách nhệm thành lập một trường giáo lý viên tại Tân Định. Tự do hoạt động hơn khi ở chủng viện, ngài đã có thể chăm lo đào luyện các học trò của mình những ý tưởng chắc hẳn phù hợp với cá tính của ngài hơn là trong thực tế; bởi vì công trình này sau khi bị ngưng trệ, đã được phục hồi với những nền tảng mới.
Cùng lúc này ngài đã xuất bản nhiều tác phẩm tu đức và ngôn ngữ học rất bổ ích, đặc biệt cuốn Dictionnaire annamite-francais (Tự điển Việt-Pháp , Tân Định, Sài Gòn, 1877) và Notions pour servir à l’étude de la langue annamite (Những khái niệm giúp học tiếng Việt, Tân Định, Sài Gòn, 1879).
Việc này tồn tại cho đến năm 1880, khi ngài được gọi làm Giám mục kế vị Đức Cha Pontvianne, với hiệu toà Canathe, làm Đại Diện Tông Tòa Bắc Đàng Trong.
Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn xưa
Ngài được tấn phong tại nhà thờ chính toà Sài Gòn, ngày 24 tháng 8 năm 1880 do Đức Cha Colombert. Ít ngày sau, ngài đi Huế và đến đó vào đầu tháng 9.
Công việc tông đồ đặc biệt mà Đức Cha Canathe đã trách nhiệm trong Miền Truyền Giáo Tây Đàng Trong chỉ chuẩn bị cho ngài cách khá xa vời cho một hoàn cảnh biết bao khó khăn khi Miền Truyền Giáo ngài cai quản lại khác nhiều điểm hơn Miền Truyền Giáo ngài đã sống trong suốt 15 năm qua.
Không phải ngài không biết tình trạng này. Nhưng cậy trông vào Chúa và sự trợ lực của hàng giáo sĩ, ngài bắt tay vào việc một cách can đảm. Xác tín rằng không lời giáo huấn nào có giá trị bằng gương sáng, sau vài tuần lễ chuyện trò trao đổi với các linh mục và tiếp đón các chức sắc của nhiều giáo hạt khác nhau, ngài quyết đinh đi đến một giáo xứ tại một vùng có khí độc ngăn trở mọi thừa sai lưu trú cố định tại đó. Ngài ở lại đó trong vòng 15 ngày, và trở về khá mệt, nhưng lấy làm hạnh phúc đã dạy dỗ một vài trẻ em và sống giữa những tín hữu, mà không bào giờ ngài quên được lòng nhiệt thành và sự đơn sơ của họ.
Sau đó, ngài chuẩn bị đi một vòng đầu tiên để ban phép Thêm Sức. Ngài mới bắt đầu, thì được tin hoả hoạn vừa thiêu rụi các ngôi nhà mới xây tại nông trại Ba Trục. Đây là một thiệt hại không thể sửa chữa lại về mặt vật chất, và làm cho trở thành hư không những niềm hy vọng của Đức Cha Sohier khi lập nên cơ sở này, để cung cấp nguồn tài chánh cho Miền Truyền Giáo đang hoàn toàn bị thiếu hụt.
”Dominus dedit, Dominus abstulit (Chúa đã ban cho, Chúa lại lấy đi). Xin chúc tụng thánh ý Chúa ” (x.Gióp 1,21) . Đức Cha chỉ nói thế, và ngài tiếp tục cuộc hành trình, tưởng như không có gì khác thường xảy ra.
Tùng phục hoàn toàn sự Quan Phòng của Chúa là một đặc điểm trong diện mạo tinh thần của Đức Cha Caspar. Ngài sẽ thường có dịp thực hành trong suốt triều giám mục dài của ngài, khi phải chịu đựng bao nhiêu thử thách đủ mọi thứ.
Một trong những lần nặng nề nhất là thử thách theo sau việc chiếm Thuận An vào tháng 8 năm 1883 và cái chết của vua Hiệp Hoà là người tỏ ra thân tình với vị đại diện nước Pháp tại Huế. Trong vòng 1 tháng, từ 30 tháng 11 đến cuối tháng 12, mọi họ đạo của tỉnh Thừa Thiên đều bị vây hãm bởi những băng nhóm được các quan lại thuê sẵn sàng tàn sát các thừa sai và các Kitô hữu. Trong số đó, một vài nhóm ham cướp bóc hơn, không có lệnh chính thức, đã bắt đầu công việc độc ác và trong chưa đầy 3 ngày tất cả các họ đạo nằm trên đường quan giữa Đà Nẳng và Huế đều bị cướp bóc, đốt cháy, và hầu như mọi cư dân đều bị tàn sát.
Trong tháng này, Đức Cha Caspar phải ở ẩn trong Toà Giám mục không thể đi ra mà không bị nguy hiểm đến tính mạng, nghe những tin xấu nhất và càng thêm đau khổ khi những người có lẽ có thể làm cho hoàn cảnh nên tốt hơn, lại tỏ vẻ không tin lời ngài mà xem ra chỉ muốn tin vào lời những kẻ nghịch đạo.
Ngôi nhà Đức Cha Caspar cư ngụ tại Kim Long, hiện nằm trong khuôn viên Dòng CĐMVN Phú Xuân - Huế
Cuối cùng việc chiếm Sơn Tây ở Bắc Kỳ và sự rút lui của quân Tàu đánh thuê chấm dứt những khốn khổ dữ dằn trong vòng 1 tháng đã làm cho vị Giám mục không chút nghỉ ngơi.
Tuy nhiên tiếp sau những ngày khốn khổ đó lại là những ngày còn nặng nề hơn, khi hai năm sau đó, Huế âm mưu và các quân của tướng de Courcy chếm thành phố này. Theo lệnh của các quan nhiếp chính Tường và Thuyết, những người bách hại nổi lên từ mọi phía, tàn phá Miền Truyền Giáo Đông Đàng Trong và tiếp tục công trình huỷ diệt đó trong tỉnh Quảng Trị và một phần lớn tỉnh Quảng Bình, nghĩa là trong hết hai phần ba Miền Truyền Giáo Bắc Đàng Trong. Khắp mọi nơi các băng nhóm này đi qua, không một thánh đường nào, không một nhà có đạo nào thoát khỏi cảnh bị đốt cháy; chỉ riêng tại tỉnh Quảng Trị, trong vòng một tuần, 5 linh mục bản xứ và hơn 7000 tín hữu hoặc bị thiêu cháy hoặc bị dận nước, hoặc bị tàn sát.
Miền Truyền Giáo đáng thương và thiết thân của chúng tôi xem ra đã bị triệt tiêu và triệt tiêu mãi mãi, những người lương nói thế, nhiều người Âu cũng lặp lại như thế: Đạo Công giáo đã chết tại Miền Bắc Đàng Trong, chắc sẽ không bao giờ sống lại đâu ! Mặc dầu đau khổ, vị Giám mục và các thừa sai vẫn giữ một niền hy vọng bất khuất vào tương lai, và ngay khi bão táp lặng yên, họ lại lo làm việc để thể hiện điều này, Đức Cha Caspar cho tìm những người Kitô hữu thoát khỏi gươm đao của những người bách hại, để đưa họ trở về trong các làng của họ và xây dựng lại các xứ đạo.
Nhưng lấy đâu ra ngân khoản để giúp những người khốn khổ này làm lại nhà cửa, dựng lại nhà nguyện? Các cấp chính quyền tây cũng như Việt từ chối giúp đỡ họ. Nhưng những tiếng kêu van thất vọng của họ lại được nghe ở trời Âu. Nhờ của cải trợ giúp từ những tấm lòng bác ái quảng đại, các làng mạc đã được xây dựng lại và những nguyện đường được dựng lên. Ở nơi nào gươm đao và lửa cháy chỉ để lại tử thi và tro tàn, nay lại mọc lên những ngôi thánh đường đẹp đẽ giữa những ngôi làng mà dân cư mỗi năm càng tăng thêm.
Than ôi! những biến cố kinh hoàng đó không phải đánh dấu sự chấm dứt các thử thách của Miền Truyền Giáo Bắc Đàng Trong.
Những thiệt hại do nhiều trận bão rất dữ dội để lại cảnh hoang tàn trong giáo phận. Hai trong các trận bão này đã ghi dấu kỷ niệm đáng buồn nhất. Trận đầu xảy ra vào các ngày 15 và 16 tháng 19 năm 1897, khắp cả giáo phận đều phải chịu đựng và cảnh đói kém lan tràn, nạn nhân đếm được hàng ngàn.
Trận thứ hai vào ngày 11/9/1904, chỉ thử thách tỉnh Huế, nhưng những thiệt hại gây nên thật kinh khủng; nhà của những người Âu, đền đài vua chúa, nhà thờ, chùa chiền, đều bị phá huỷ, hoàn toàn hay một phần. Còn những nơi ở của dân chúng hiếm thấy nhà nào thoát khỏi tai ương, sức gió lớn đến nỗi lật đổ và quăng xuống sông 4 trong 6 vài của cây cầu ở Huế (Trường Tiền) nối khu phố tây với khu phố Việt. Thế mà mỗi vài của chiếc cầu này dài 75 mét do hãng Creusot xây dựng.
Cơn bão 1904 đã làm sập 4 vài cầu Trường Tiền
Trong các nạn nhân có cha Dangelzer, cha Chính Miền Truyền Giáo và bạn đồng môn của Đức Cha Caspar tại trường Obernai. Trong hoàn cảnh đó, vị Giám mục thân yêu của chúng ta hối hả cứu giúp những người bị nạn và sự can thiệp của ngài, với sự trợ lực rất mạnh mẽ của hàng giáo sĩ, đã cứu mạng sống cho hàng ngàn người bất hạnh và giúp xây dựng hoặc tạm thời sửa chữa lại các nhà thờ hoặc các nhà cửa bị tàn phá hoặc hư hại.
Khi đọc bản tóm lược các thử thách này liên tục xảy đến cho Miền Truyền Giáo Bắc Đàng Trong trong gần một phần tư thế kỷ, chắc người ta có thể tự hỏi phải chăng cả thời giờ và năng lực của Đức Cha Caspar chỉ dùng để sửa chữa lại những đổ nát mà thôi ?! Không, con người khiêm tốn, trầm lặng, hầu như luôn ở trong phòng làm việc này, lại dẫn đầu các bước tiến thật quan trọng của Công giáo trong triều giám mục của ngài.
Điều đầu tiên đã lôi kéo sự quan tâm của ngài, đó là sự thiếu thốn, nếu không nói là hoàn toàn thiếu những ngân khoản cần thiết cho hoạt động của giáo phận được tốt đẹp. Để chữa trị tình trạng thiếu thốn này và để chuẩn bị bao nhiêu có thể cho những bất định trong tương lai, nhờ ý chí và kiên trì, ngài đã thành công lo cho Miền Truyền Giáo có được một số ruộng, với thu nhập còn xa mới đủ cho việc duy trì tất cả các công trình, nhưng ít nữa cũng bảo đảm một phần lớn cho các chủng viện được tồn tại.
Tiểu chủng viện An-Ninh
Khi ngài đến, giáo phận chỉ có một Tiểu chủng viện đang thời kỳ phôi thai, với số chủng sinh khi nhiều khi ít và thời gian lưu trú khi vắn khi dài tuỳ theo ngân khoản. Nhờ những biện pháp của Đức Cha Caspar và sự trợ lực của các thừa sai phụ trách cơ sở này, mọi việc sớm đi vào trong một đường lối đều đặn, và số chủng sinh mỗi năm đều tăng, cuối cùng đạt tới con số 155. Nếu hoàn cảnh ít thuận lợi đã dẫn đến một sự hơi giảm sút trong con số này, thì kỷ luật và việc học lại ngày càng tốt hơn, và hiện nay Tiểu chủng viện An-Ninh ở trong tình trạng rất thoả mãn.
Đại chủng viện mang ơn Đức Cha Caspar về sự tồn tại và thiết lập bền vững tại Phú Xuân, cách tường thành Huế không đầy một cây số, trong một vị trí tuyệt đẹp. Từ cơ sơ này, ngài rất lấy làm an ủi thấy 50 linh mục bản xứ ra trường mà 38 vị đang còn sống.
Nhà Nguyện Đại Chủng Viện Huế
Đức Cha cũng muốn cho giáo phận hưởng được sự hiện diện của các nữ tu người Pháp. Ngài mời đến Huế các Chị em Dòng Thánh Phaolô thành Chartres. Ngài giao cho họ cơ sở Viện Dục Anh đang phát triển nhanh và một trường trong khu phố tây ở Huế.
Nhà Thờ Viện Dục Anh
Nhà Nguyện Truờng Jeanne-d’Arc
Sau các Sơ, nhờ những cuộc thương thảo được hướng dẫn khéo léo, các Anh Em Trường Kitô (Lasan) cũng đã đến Huế và lập nên hai trường rất phát triển, một tập viện, một tuyển viện và một nhà tĩnh tâm.
Truờng Pellerin (Bình Linh)
Ngài cũng khao khát sự hiện diện của các Chị Em Dòng Carmêlô. Ngài ở trong số những người vững tin vào sự phong phú của lời cầu nguyện và hy sinh, và ngài có lý. Những hoàn cảnh không như ý ngài muốn đã làm lùi lại việc hoàn thành ước nguyện này (nay đã được thể hiện).
Thêm vào những công trình này là đông đúc các cuộc trở lại của lương dân, mà vị giám mục, nếu không trực tiếp làm như các thừa sai, thì cũng đã trợ lực bằng cách cổ võ, thúc đẩy và giúp ngân khoản. Từ 1886 đến 1906, 14 giáo xứ mới gồm hơn 20 họ đạo đã được thành lập và xây dựng vững chãi. Số các tín hữu từ 18.000 lên đến hơn 60.000.
Sự tăng triển này không phải được thực hiện mà không vất vã trở ngại. Những ai trong chúng tôi cùng với các tân tòng đã là nạn nhân bất công nhât trong các cuộc bách hại của nhà cầm quyền, sẽ không bao giờ quên được những khắc khoải đã chịu, khi thấy một số người mới theo đạo phải sa ngã. Trong thời gian này, vị Giám mục cũng phải tranh đấu chống lại những kẻ bách hại này đang hung hăng lấy mất đi một số tài sản mà ngài đã tậu được cho Miền Truyền Giáo. May thay Chúa Quan Phòng đích thân lo các việc này cho chúng tôi. Những người đối xữ với chúng tôi như thù nghịch dần dần khuất đi từ người này đến người khác, và chúng tôi đã có được niềm an ủi đem về lại nhiều con chiên đã lạc mất và có thêm nhiều người hơn để thế chổ cho nhũng con chiên đã bỏ đi.
Các công việc này không hoàn toàn lôi kéo vị giám mục của chúng ta khỏi các học hỏi thiết thân của ngài: ngài xuất bản các sách Bài giảng về các Phúc âm gồm 5 cuốn, Tháng Thánh Giuse, Một Phương pháp cầu nguyện...)
Do tư cách và tính khí của ngài, ngài là một con người ham thích học hỏi (homme d’étude); khi ngài đã hoàn tất các việc bên ngoài như bổn phận đòi hỏi, ngài liền trở về với sách vở; nhưng đó là những cuốn sách để làm việc chứ không phải để tiêu khiển (livres de travail et non de délassement). Ngài không đặt mua tờ báo hằng ngày nào thuộc chế độ thuộc địa, hoặc từ Pháp hoặc từ nước ngoài nào; thư viện của ngài chỉ gồm những tác phẩm triết học, thần học, tu đức, khoa học và sách chữ Hán, mà nhờ thông thạo các mặt chữ nên ngài đọc dễ dàng. Nói tóm lại, Đức Cha Caspar là một Giám mục đạo đức, khiêm tốn, uyên bác và là người, như đúng trong thực tế, chỉ thoát ra khỏi sự dè dặt thường tình khi thỉnh hoảng ngài nghĩ phải làm như vậy, chẳng hạn như trong dịp mà chúng tôi phải nêu lên.
Đó là vào tháng 8 năm 1883, cửa Thuận An nằm cách Huế khoảng 12 cây số, vừa bị dội bom và bị đô đốc Courbet chiếm cứ. Vua Hiệp Hoà và các quan lại lấy làm lo lắng không bảo đảm về tương lai; họ rất ái ngại ngay cả trong việc xuất hiện trước vị đô đốc là người trước hôm dội bom Thuận An đã không tiếp và không cho hai vị sứ giả của Triều đình lên trên tàu Bayard.
Trong cảnh ngộ đáng buồn và khó khăn dó, chính quyền Việt Nam thấy chỉ có một người có thể giúp họ san phẳng các nẻo đường dẫn đến một thoả thuận giữa nước Pháp và Việt Nam: đó là vị Giám mục Huế. Một phái đoàn đến gặp Đức Cha Caspar để nhân danh nhà Vua và tất cả các bộ trưởng, xin ngài vui lòng đồng hành và giới thiệu các quan phụ trách việc cầu hoà với vị đô đốc. Đức Cha Caspar chấp thuận với ao ước phục vụ và cứu mọi người thoát khỏi hiểm họa chiến tranh.
Vị đô đốc và cả bộ tham mưu tiếp đón ngài long trọng, và thể theo lời yêu cầu của ngài, ông sẵn sàng nghe các vi đại diện toàn quyền của Việt Nam trình bày. Một vài ngày sau, một hoà ước giữa Pháp và Việt Nam đã được ký giữa ông Harmand, uỷ viên chính phủ Pháp, và ông Tường, bộ trưởng ngoại giao Việt Nam.
Ghi nhớ việc phục vụ này, Đức Cha Caspar đã được trao tặng huy chương Bắc Đẩu Bội Tinh (Légion d’honneur). Dầu rất xúc động trước việc tặng thưởng này, tôi có thể đoán chắc rằng ngài không bao giờ hoặc rất hiếm khi mang huy chương này.
Những việc phục vụ Đức Cha Caspar đã làm trong những hoàn cảnh khó khăn mang tẩm quan trọng lớn lao. Nhưng những người ngài đã giúp đỡ hoặc là những kẻ nghịch thù khó hoà giải hoặc là những người bạn không đủ khả năng, thế nên ngài đau khổ thấy ông Tường kích động lương dân bách hại người có đạo, còn tướng de Courcy lại từ chối giúp đỡ những kẻ bị người ta bách hại .Ngài chỉ còn được niềm an ủi làm dịu bớt nỗi niềm cay đắng, đó là dầu sao ngài cũng đã muốn phục vụ nước Việt Nam và cả đất nước mình.
Gần 42 năm trôi qua kể từ ngày vị Giám mục rời nước Pháp, 26 năm từ khi ngài cai quản giáo phận Bắc Đàng Trong. Chúng tôi nghĩ rằng còn giữ ngài lại được để dẫn dắt chúng tôi, khi một ngày kia ngài báo cho chúng tôi rằng ngài đi Rôma để cần bàn về những lợi ích của giáo phận. Ngài nói sự vắng mặt của ngài sẽ vắn thôi và ngài chỉ thực sự hạnh phúc khi đặt chân lại trên đất Việt Nam.
Rủi thay ngài chọn thời điểm cuộc hành trình không đúng lúc. Ra đi từ Huế khoảng cuối tháng 9 năm 1906, ngài đến Pháp ngày 14 tháng 11. Ngài muốn thực hiện vài cuộc hành hương và thăm gia đình của các vị thừa sai.
Ngài quá mệt khi vừa đến Rôma vào tháng 4 năm 1907, ngài lâm bệnh nặng. Ngài tưởng rằng không bao giờ có lại sức khoẻ để trở về Miền Truyền Giáo của mình, nhất là để lại sống cuộc đời làm việc, và ngài đã đệ đơn từ chức trong tay Đức Hồng Y Tổng trưởng Bộ Truyền Giáo là người chỉ đón nhận với bao tiếc nuối thực tình.
Sau đó ngài có hơi khoẻ lại để đến Alsace, nơi đó ngài tưởng sẽ chóng bước lên con đường về với một thế giới tốt hơn. Sự yên tĩnh, bầu khí quê nhà và những lo lắng ân cần tận tâm của người chị dâu mà từ ngày chồng mất, vẫn ở một mình ẩn dật trong nhà của gia đình ngài, mang lại cho ngài đủ sức khoẻ để còn sống thêm khoảng 10 năm nữa.
Ở xa cũng như ở gần, ngài cảm thấy hết lòng gắn bó với Miền Truyên Giáo đã được ngài lãnh đạo rất tốt đẹp.
Khi người chị dâu mất, ngài đến ở viện dưỡng lão Obernai, sống rong cô tịch, cầu nguyện và từ tháng 8 năm 1914, trong bao nhiêu thao thức khắc khoải ! Từ đó, chúng tôi không biết gì thêm ngoài ngày ngài mất là 13/6/1917.
Dầu xa giáo phận từ 10 năm qua, Đức Cha Caspar không bị lãng quên ở đó và sẽ còn được nhớ lâu dài.
Không thể cử hành nghi thức an táng long trọng cho di hài của ngài, cả Miền Truyền Giáo Bắc Đàng Trong đã tích cực cầu nguyện cho ngài.
Trong nhiều ngày, có lẽ tôi phải nói trong nhiều tuần, các Thánh lễ đã được cử hành và các kinh nguyện đã được dâng lên cầu cho linh hồn ngài được nghỉ yên tại tất cả các nhà thờ và nguyện đường trong giáo phận. Nhất là trong lễ trọng thể tại nhà thờ Phủ Cam, tất cả các cấp chính quyền Việt - Pháp và các thành viên phái đoàn châu Âu đều đén tham dự để bày tỏ lòng tôn kính đặc biệt đối với vị Giám mục thánh thiện và là người con tốt lành của miền Alsace, nước Pháp.
Nhà Thờ Phủ Cam xưa
(Theo Archives des Missions Etrangères de Paris, No 868, Pays : Vietnam)
Linh mục Stanislaô Nguyễn Đức Vệ