Một vài lưu ý mục vụ gửi cộng đoàn Dân Chúa Giáo phận Huế trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19

17/03/2020

MỘT VÀI LƯU Ý MỤC VỤ

GỬI CỘNG ĐOÀN DÂN CHÚA GIÁO PHẬN HUẾ

TRONG BỐI CẢNH DỊCH BỆNH COVID-19

Huế ngày 17 tháng 03 năm 2020 

Anh chị em thân mến,

Ngày 31/12/2019, tại thành phố Vũ Hán – Trung Quốc, giới y bác sĩ đã phát hiện trường hợp đầu tiên bị nhiễm virut Covid-19. Chỉ hơn ba tháng sau, tính đến hôm nay, 17/03/2020, nó đã lan ra 155/204 nước, với 7499 người chết, 188.383 người bị nhiễm.

Tại Việt Nam, có 66 người và riêng Huế, có 2 trường hợp bị nhiễm.

Tất cả những con số trên đây đang tiếp tục leo thang từng giờ từng ngày.

Lãnh đạo khắp nơi trên thế giới và tại Việt Nam đang vận dụng mọi biện pháp để ngăn chặn đà lây lan như vũ bão của cơn đại dịch đáng sợ này. Trường học, hội nghị, thương vụ, sản xuất… bị huỷ bỏ hoặc đình chỉ. Các tôn giáo cũng được mời gọi hạn chế nhiều sinh hoạt có thể gây nguy cơ lây nhiễm.

Trong bối cảnh đó, vì lợi ích thiêng liêng của Kitô hữu và vì sự an toàn của cộng đồng xã hội và Giáo Hội, tôi xin anh chị em quan tâm thực hiện những điều sau đây:

I. CẦU NGUYỆN

Covid-19 đã làm điên đảo thế giới cả về xã hội lẫn chính trị và kinh tế và không biết đến khi nào mới chấm dứt. Tuy nhiên, đối với Kitô hữu, đây là dịp để chúng ta tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa và cầu khẩn ngài thương cứu giúp.

Tôi kêu gọi anh chị em, từ nay tới khi dịch bệnh chấm dứt, mỗi giáo xứ và mỗi cộng đoàn tìm lúc thuận tiện ngày thứ sáu hàng tuần, tổ chức giờ chầu kính Lòng Chúa Thương Xót. Chỉ cần một nhóm đại diện thực hiện giờ chầu, vì chúng ta phải tránh tụ tập đông người gây lo ngại lây nhiễm Covid-19.

Tôi cũng kêu gọi anh chị em hằng ngày, đọc hoặc hát “lời nguyện trong cơn bệnh dịch” do Hội đồng Giám mục Việt Nam biên soạn (đã đăng tải trên trang mạng Tổng Giáo phận Huế), với lòng tin tưởng Chúa sẽ can thiệp để tiêu diệt dịch bệnh.

II. XỨC DẦU

Linh mục có bổn phận đưa Mình Thánh Chúa hoặc xức dầu bệnh nhân. Tuy nhiên, vì Covid-19 có thể lây lan khi tiếp xúc tay chân, các Cha có thể mang găng tay khi cử hành nghi thức này.

III. GIẢI TỘI TẬP THỂ

Thông thường, hối nhân xưng tội cá thể, linh mục xá giải cá thể. Nhưng trong một số trường hợp như tĩnh tâm chung, cử hành sám hối cộng đồng, Giáo Hội cho phép xưng tội cá thể nhưng xá giải và làm việc đền tội chung.

Đặc biệt, khi có nhiều người nguy tử, thiếu linh mục và không đủ thời gian xưng tội cá thể, hoặc lâm những tình huống tương tự như động đất, bom đạn v.v…Giáo hội có thể cho phép giải tội tập thể, với điều kiện phải có phép của đấng Bản Quyền (x. Giáo luật điều 960-963; Tông huấn “Sám hối và hoà giải”, số 32-33, ngày 02/12/1984, Tự sắc “Lòng Thương Xót Chúa” ngày 07/04/2002 của Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, trong phần phụ lục)

Căn cứ quy định trên, tôi chấp thuận cho các linh mục Giáo phận Huế được giải tội tập thể với các điều kiện sau đây:

– Chỉ được giải tội tập thể trong lãnh thổ Giáo phận Huế.

Không được tự ý giải tội tập thể ngoài quy định đưới đây.

– Trước khi cử hành, phải giải thích cho cộng đoàn hiểu rõ về giải tội tập thể.

– Chỉ giải tội tập thể trong Tuần Thánh 2020, từ Lễ Lá đến đêm vọng Phục Sinh.

– Nên giải tội tập thể trước mỗi Thánh lễ hoặc trước khi cử hành nghi thức Tam Nhật Thánh theo nghi thức trong phần phụ lục.

– Hối nhân buộc phải xưng lại các tội trọng trong lần xưng tội sau.

– Hối nhân buộc phải xưng các tội trọng nếu lãnh ơn xá giải chung một lần nữa.

IV. GIẢM NGUY CƠ

Từ nay cho tới khi dịch bệnh dịch không còn đe doạ, xin các Cha lưu ý mấy điểm sau đây:

  1. Đình chỉ các giờ giáo lý và sinh hoạt thiếu nhi nếu xét thấy có nguy cơ.
  2. Hạn chế rước sách hoặc sinh hoạt đông người.
  3. Cử hành, giảng giải, đọc kinh đơn giản và vắn gọn.
  4. Ngày Chúa Nhật và Lễ Trọng, người trên 60 tuổi hoặc khả nghi bị nhiễm Covid-19, có thể ở nhà đọc kinh hoặc làm việc lành thay thế.
  5. Sáng Thứ Năm Tuần Thánh không có Lễ Dầu như mọi năm. Đức Tổng Giám mục Giáo phận chỉ cử hành lễ truyền dầu cách đơn giản tại TGM.
  6. Thứ Sáu Tuần Thánh:

– Bài thương khó chỉ nên đọc để rút ngắn thời gian.

– Suy tôn Thánh Giá: đứng bái đầu thay vì hôn Thánh Giá.

  1. Đêm Vọng Phục Sinh:

– Phụng vụ Lời Chúa: chỉ đọc 2 bài Cựu Ước, 1 bài Tân Ước và bài Tin Mừng.

– Không Rửa tội Dự tòng trong Thánh lễ (để rút ngắn thời gian).

Anh chị em thân mến,

Sắp tới đại lễ Thánh Giuse (19/03), đấng “gìn giữ Thánh Gia Thất xưa”, chúng ta hãy xin Thánh Cả gìn giữ đại gia đình giáo phận chúng ta thoát cơn dịch bệnh quái ác đang hoành hành.

Lạy Đức Mẹ La Vang, Bổn Mạng Giáo phận Huế, xin cứu chữa chúng con như Mẹ đã cứu chữa tín hữu khốn khó năm xưa tại La Vang.

Xin Chúa ban bình an cho tất cả mọi người chúng ta trong Mùa Chay, Mùa Phục Sinh và Năm Thánh 2020 này.

Thân ái trong Chúa Kitô.

+ Giuse Nguyễn Chí Linh

Tổng Giám mục Huế

=> Xin nhấn vào đây tải file PDF để in

*********************************************************************

NGHI THỨC GIẢI TỘI TẬP THỂ

(Theo mẫu sách Ordo Paenitentiae,  bản dịch của Ủy ban Phụng tự – trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam)

Diễn tiến nghi thức

I- Trường hợp thông thường

1. Mở đầu (Theo Ordo Paenitentiae, số 60)

Bài hát: khi mọi người tề tựu đông đảo, cộng đoàn hát một bài ca mở đầu nói lên tâm tình sám hối;

Chủ sự: Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần

Cộng đoàn: Amen

Chủ sự: Nguyện xin ân sủng, lượng từ bi và phúc bình an của Thiên Chúa Cha và Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Chuộc chúng ta, ở cùng anh chị em.

Cộng đoàn: Và ở cùng cha.

Kế đó chủ sự nói vắn tắt mấy lời về buổi cử hành sám hối, sau đó ngài mời gọi cầu nguyện và đọc lời nguyện:

Chủ sự mời gọi và cầu nguyện:

Anh chị em thân mến, chúng ta hãy cầu xin Thiên Chúa là Đấng kêu mời chúng ta trở về, ban cho chúng ta ơn sám hối thật sự và hữu hiệu.

(thinh lặng giây lát)

Lạy Chúa, chúng con nài xin Chúa nhậm lời chúng con cầu khẩn, và tha thức các tội lỗi chúng con thú nhận cùng Chúa, để chúng con  được Chúa thương ban ơn tha thứ và bình an. Nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.

Cộng đoàn: Amen.

2. Phụng vụ Lời Chúa

Bài đọc I (Is 55,6-9) hoặc một bài khác phù hợp;

Đáp ca (TV 50,3-4,5-6a, 12-13,14.17):

X. Lạy Chúa, nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa, xoá tội con theo lượng cả đức từ bi. Xin rửa con tuyệt gốc lỗi lầm, và tẩy con sạch lâng tội ác.

Đ. Lạy Chúa, nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa, vì con đã phạm tội.

X. Vì sự lỗi con, chính con đã biết, và tội con ở trước mặt con luôn. Con phạm tội phản nghịch cùng một Chúa.

Đ. Lạy Chúa, nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa, vì con đã phạm tội.

X. Ôi lạy Chúa,  xin tạo cho con quả tim trong sạch, và canh tân tinh thần cương nghị trong người con. Xin đừng loại con khỏi thiên nhan Chúa, chớ thu hồi Thánh Thần Chúa ra khỏi con.

Đ. Lạy Chúa, nguyện thương con theo lòng nhận hậu Chúa, vì con đã phạm tội.

X. Xin ban lại cho con niềm vui ơn cứu độ, với tin thần quảng đại, Chúa đỡ nâng con. Lạy Chúa xin mở môi con, để miệng con loan truyền lời ca khen.

Đ. Lạy Chúa, nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa, vì con đã phạm tội.

Bài đọc II (Rm 6,2-4.12-14) – hoặc một bài khác phù hợp;

Câu xướng trước Phúc Âm (Ed 33,11):

Chúa phán: “Ta lấy mạng sống Ta mà thề – Ta chẳng vui gì khi kẻ gian ác phải chết, nhưng vui khi nó thay đổi đường lối để được sống”);

Tin Mừng (Lc 24,46-48) – hoặc một bài khác phù hợp;

Bài giảng: Sau bài giảng hay chính bài giảng nhắc cho mọi người những điều kiện phải giữ (ăn năn thống hối các tội lỗi mình, dốc lòng chừa, quyết tâm thay đổi đời sống, bồi thường thiệt hại gây ra cho người khác đồng thời có ý định trong một thời gian sớm bao nhiêu có thể khi có dịp, xưng từng tội trọng mà hiện giờ không thể xưng như vậy được. Hơn nữa nên giao vài việc đền tội mà mọi người phải làm vả mỗi người tùy ý có thể thêm một ít việc khác).

Giảng xong ngài mời gọi mọi người sám hối rồi ban Bí tích Giải tội tập thể theo công thức sau:

3. Cáo mình chung (số 54&61) – MỌI NGƯỜI QUỲ

Chủ sự: Anh chị em thân mến, bây giờ chúng ta hãy quỳ gối xuống/cúi đầu xuống/cúi mình xuống (tùy theo HĐGM quy định) và cùng nhau thú tội mình trước tôn nhan Thiên Chúa:

Cộng đoàn: Kinh Tôi Thú Nhận….

Các lời cầu như sau (hay có thể thay bằng một bài thánh ca thống hối).

Chủ sự: Chúng ta có Chúa Kitô, Đấng cứu chuộc chúng ta, làm vị trạng sư công chính trước Tòa Chúa Cha, vậy chúng ta hãy khiêm tốn nài xin Chúa Kitô tha tội cho chúng ta và tẩy rửa chúng ta sạch mọi gian tà:

X. Chúa đã đến để rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó và chữa lành những người nghèo khổ trong tâm hồn.

Đ. Lạy Chúa, xin thương xót chúng con.

X. Chúa đã tha thứ cho người phụ nữ, vì bà đã yêu mến nhiều.

Đ. Lạy Chúa, xin thương xót chúng con.

X. Chúa đến không để kêu gọi những người công chình, nhưng kêu gọi những người tội lỗi.

Đ. Lạy Chúa, xin thương xót chúng con.

X. Chúa đã không khước từ tiếp xúc với những người thu thuế và tội lỗi.

Đ. Lạy Chúa, xin thương xót chúng con.

X. Chúa đã vác chiên lạc trên vai mà đem về đàn.

Đ. Lạy Chúa, xin thương xót chúng con.

X. Chúa đã không kết án người phụ nữ ngoại tình, nhưng cho về bằng an.

Đ. Lạy Chúa, xin thương xót chúng con.

X. Chúa đã kêu gọi Giakêu ăn năn hối cải và sống đời sống mới.

Đ. Lạy Chúa, xin thương xót chúng con.

X. Chúa đã hứa Thiên Đàng cho người trộm lành ăn năn hối cải.

Đ. Lạy Chúa, xin thương xót chúng con.

X. Chúa ngự bên hữu Chúa Cha để chuyển cầu cho chúng con.

Đ. Lạy Chúa, xin thương xót chúng con.

(hoặc hát một bài xứng hợp theo Ordo Paenitentiae  số 54)

Kinh Lạy Cha (luôn luôn phải đọc) – Chủ sự mời gọi đọc Kinh Lạy Cha:

Giờ đây, chúng ta cùng nhau dâng lên chúa Cha lời Kinh mà chính Chúa Giêsu truyền dạy, để xin Người tha tội cho chúng ta:

Cộng đoàn: Lạy Cha chúng con ở trên trời………

4. Nghi thức giải tội tâp thể (số 62)

Chủ sự giơ tay trên những người lãnh Bí tích Giải tội và đọc công thức tha tôi sau đây (nhớ rằng: Công thức tha tội chung này có tính cách trọng thể hơn công thức tha tội riêng):

  • Thiên Chúa là Cha, không muốn kẻ có tội phải chết, nhưng muốn họ ăn năn trở lại và được sống. Chúa đã yêu thương chúng ta trước, và đã sai Con Chúa đến thế gian, để nhờ Người mà thế gian được cứu độ. Xin Chúa tỏ lòng từ bi và ban bình an cho anh chị em.

+ Mọi người: Amen.

– Chúa Giêsu Kitô là Đấng đã bị nộp vì tội lỗi chúng ta và đã sống lại để thánh hoá chúng ta. Người đã ban Thánh Thần xuống trên các Tông đồ để các ngài lãnh nhận quyền tha tội, xin Người dùng tác vụ của chúng tôi mà cứu anh chị em khỏi mọi sự dữ và ban cho anh chị em được đầy Chúa Thánh Thần.

+ Mọi người: Amen.

– Chúa Thánh Thần, Đấng phù trợ đã được trao ban cho chúng ta để tha thứ tội lỗi, và trong Người chúng ta được đền cùng Chúa Cha. Xin Người thanh tẩy và dùng ánh sáng chiếu soi tâm hồn anh chị em, để anh chị em tuyên xưng quyền năng của Đấng đã kêu gọi anh chị em ra khỏi chốn tối tăm và đưa vào nơi sáng láng tuyệt vời.

+ Mọi người: Amen.

– Vậy tôi tha tội cho anh chị em, nhân danh Cha + và Con và Thánh Thần.

+ Mọi người: Amen.

– (Hoặc chủ sự đọc theo công thức):

THIÊN CHÚA LÀ CHA HAY THƯƠNG XÓT, ĐÃ NHỜ SỰ CHẾT VÀ SỐNG LẠI CỦA CON CHÚA MÀ GIAO HOÀ THẾ GIAN VỚI CHÚA VÀ BAN THÁNH THẦN ĐỂ THA TỘI. XIN THIÊN CHÚA DÙNG TÁC VỤ CỦA HỘI THÁNH MÀ BAN CHO ANH CHỊ EM ƠN THA THỨ VÀ BÌNH AN. VẬY TÔI (CHA) THA TỘI CHO ANH CHỊ EM NHÂN DANH CHA + VÀ CON VÀ THÁNH THẦN.

+ Mọi người: Amen.

5. Lời ca tụng và kết thúc (số 63)

[i] Cách đơn giản

– Chủ sự: Nào ta hãy chúc tụng Chúa.

+ Mọi người: Tạ ơn Chúa.

Bài hát chúc tụng hay tạ ơn xứng hợp (ví dụ bài Magnificat…)

[ii] Cách trọng thể

– Phép lành và giải tán (số 58-59)

Chủ sự: Xin Chúa hướng dẫn lòng trí anh chị em theo đường lối yêu thương của Người và đổ đầy anh chị em bằng sự kiên nhẫn như Đức Kitô

Cộng đoàn: Amen

Chủ sự: Xin Chúa ban cho anh chị em sức mạnh để bước vào cuộc sống mới và làm đẹp lòng Người trong mọi sự 

Cộng đoàn: Amen

Chủ sự: Xin Thiên Chúa toàn năng là Cha và Con và Thánh Thần, ban phép lành cho anh chị em

Cộng đoàn: Amen

– Tuyên bố giải tán (bởi phó tế hay chính linh mục chủ sự)

Chủ sự: Chúa đã giải thoát anh chị em khỏi tội lỗi, chúc anh chị em đi bình an

Cộng đoàn: Tạ ơn Chúa

Bài hát chúc tụng hay tạ ơn xứng hợp (ví dụ bài Magnificat…)

II. Trường hợp cấp bách (Theo Ordo Paenitentiae số 64)

Khi không có thời gian cử hành đầy đủ các nghi thức, vị chủ sự có thể rút ngắn lại như sau:

1. Đọc một đoạn Tin Mừng ngắn;

2. Giảng (số 60): gồm cả việc khuyên bảo, ra việc đền tội, nhắc nhở hối nhân xưng tội trọng ở tòa giải tội khi có dịp (số 66);

3. Giao hòa (số 62) (quỳ hoặc cúi mình)

  • Kinh Thú Nhận;
  • Kinh Lạy Cha;
  • Linh mục đọc công thức xá giải.

THIÊN CHÚA LÀ CHA HAY THƯƠNG XÓT, ĐÃ NHỜ SỰ CHẾT VÀ SỐNG LẠI CỦA CON CHÚA MÀ GIAO HOÀ THẾ GIAN VỚI CHÚA VÀ BAN THÁNH THẦN ĐỂ THA TỘI. XIN THIÊN CHÚA DÙNG TÁC VỤ CỦA HỘI THÁNH MÀ BAN CHO ANH CHỊ EM ƠN THA THỨ VÀ BÌNH AN. VẬY TÔI (CHA) THA TỘI CHO ANH CHỊ EM, NHÂN DANH CHA + VÀ CON VÀ THÁNH THẦN.

  • Hối nhân: Amen

*****************************************************************************

TÔNG HUẤN RECONCILIATIO ET PAENITENTIA

(HÒA GIẢI VÀ SÁM HỐI)

CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II

GỞI CÁC GIÁM MỤC, GIÁO SĨ VÀ TÍN HỮU

HẬU THƯỢNG HỘI ĐỒNG

NGÀY 02 THÁNG 12 NĂM 1984

Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II

Các hình thức cử hành

  1. Trung thành với lời chỉ dạy của Công Đồng Vatican II, sách Ordo Paenitentiae đã trù liệu ba nghi thức cho phép thích nghi việc cử hành Bí tích Sám Hối vào những hoàn cảnh mục vụ riêng biệt, tuy vẫn duy trì các nguyên vẹn các yếu tố cốt yếu.

Hình thức thứ nhất: Hòa giải từng hối nhân là cách thức duy nhất thông thường để cừ hành bí tích này, và không thể loại trừ hay coi nhẹ.

Hình thức thứ hai: Hòa giải nhiều hối nhân với việc xưng thú và xá giải từng người – dù rằng trong sự chuẩn bị cho phép làm nổi bật nhiều hơn những khía cạnh cộng đoàn của bí tích, nhưng cũng giống hình thức thứ nhất trong tác động cao điểm của bí tích, nghĩa là việc xưng thú và xá giải từng cá nhân. Vì thế, theo tính cách thông thường của việc cử hành, nó cũng được kể ngang bằng với hình thức thứ nhất.

Tuy nhiên hình thức thứ ba: Hòa giải nhiều hối nhân với việc xưng thú và xá giải chung – mang một tính cách ngoại lệ. Vì thế, nó không được sử dụng tùy theo sở thích, nhưng nó được quy định bởi một quy luật đặc biệt.

Hình thức thứ nhất cho phép nêu bật những khía cạnh cá nhân và cũng là căn bản – bao gồm trong tiến trình sám hối của hối nhân. Cuộc trao đổi giữa hối nhân và cha giải tội, toàn bộ những yếu tố được dùng (bản văn Kinh Thánh, sự lựa chọn những hình thức đền tội.v.v…) khiến cho việc cử hành bí tích đáp ứng sát hơn với tình trạng cụ thể của hối nhân. Người ta thấy rõ giá trị của các yếu tố này khi nghĩ tới những nguyên do khác nhau thúc đẩy một Kitô hữu tiến tới Bí tích Giải Tội: họ cần được hòa giải bản thân và được tái thâu nhận vào tình thân hữu với Chúa, nhờ lấy lại ân sủng đã mất do tội lỗi; họ được thẩm tra về những tiến bộ thiêng liêng của mình và thỉnh thoảng cần phải thẩm định một cách chính xác ơn gọi của mình; trong nhiều trường hợp khác, họ cần và muốn thoát ra khỏi tình trạng vô cảm siêu nhiên và khủng hoảng tôn giáo. Mặt khác, nhờ tính cách riêng tư của nó, hình thức thứ nhất cho phép liên kết Bí tích Giải Tội với một hành động khác, tuy khác biệt nhưng có liên hệ với các bí tích: tôi muốn nói đến việc linh hướng. Vì chắc chắn rằng hình thức thứ nhất này cho phép diễn tả rõ ràng và quảng bá việc cá nhân quyết định và cam kết dấn thân.

Hình thức thứ hai, qua tính chất cộng đoàn của nó và qua các thức cử hành, làm nổi bật một vài khía cạnh quan trọng: Lời Thiên Chúa được lắng nghe chung thì có một hiệu quả khác hơn là một bài đọc được thực hiện cách riêng tư, và làm nổi bật tính cách Hội Thánh về việc hoán cải và hòa giải hơn. Nó mặc một ý nghĩa riêng biệt trong những mùa khác nhau của năm phụng vụ và liên quan tới các biến cố có tầm quan trọng mục vụ đặc biệt. Ở đây chỉ cần nhắc tới một điểm là: để cử hành hình thức thứ hai cần phải có một số lượng tương xứng các cha giải tội.

Như thế, hiển nhiên là những tiêu chuẩn cho phép dùng một trong hai hình thức cử hành không phải là những lý do tùy cơ hội và chủ quan, nhưng do ý muốn đạt tới thiện ích thiêng liêng của các tín hữu trong sự vâng phục kỷ luật Sám hối của Hội Thánh.

Cũng là một điều tốt khi nhắc lại rằng, để có một định hướng quân bình về mặt thiêng liêng và mục vụ, đặt nặng trong việc dặn dò các tín hữu hãy sử dụng bí tích trong lãnh vực này, cần tiếp tục nhắc lại yếu tố rất quan trọng của bí tích giải tội cũng như sám hối kể cả đối với các tội nhẹ nữa, một điều đã được nảy sinh từ truyền thống đạo lý và lối thực hành cổ xưa.

Hội Thánh biết và dạy rằng: những tội nhẹ cũng được tha thứ bằng những con đường khác. Chẳng hạn như những hành vi hối cải, những công việc bác ái, việc cầu nguyện và những nghi thức sam hối. Tuy vậy, Hội Thánh vẫn không ngừng nhắc lại cho từng người về ích lợi đặc biệt của bí tích này đối với các tội nhẹ. Việc năng lãnh nhận bí tích – như trên thực tế một số tín hữu vẫn thực hành – củng cố ý thức rằng chính các tội nhẹ làm mất lòng Chúa và gây thương tổn cho Hội Thánh là thân thể của Đức Kitô. Đối với các tín hữu, việc cử hành bí tích trở thành một cơ hội và là kích thích tố giúp người Kitô hữu uốn nắn mình nên giống Đức Kitô hơn, và nhạy bén hơn trong việc lắng nghe Chúa Thánh Thần.[194] Đặc biệt cần nhấn mạnh rằng: ân sủng riêng của bí tích có hiệu năng chữa trị và góp phần diệt tận căn những mối tội đầu.

Việc cử hành bí tích cách chu đáo với sự quan tâm đặc biệt đến việc đọc,[195] nhắc nhở và giải thích Lời Chúa cho các tín hữu hoặc cùng với họ khi có thể, sẽ góp phần làm sống lại việc thực hành bí tích này, tránh cho khỏi rơi vào hình thức chiếu lệ qua lần. Hối nhân sẽ được giúp để tái khám phá rằng: họ đang sống một biến cố cứu rỗi, có khả năng gợi lên một cuộc sống mới và mang lại bình an đích thực cho tâm hồn. Việc cử hành chu đáo cũng đưa các Giáo Hội tại mỗi địa phương đến việc thu xếp thời giờ nhất định dành cho phụng vụ bí tích này và giáo dục các Kitô hữu, đặc biệt là thiếu nhi và thanh niên, tập thói quen tuân theo giờ giấc ấn định, đừng kể những trường hợp cần thiết, lúc ấy cha sở phải luôn tỏ ra sẵn sàng tiếp đón bất cứ ai đến gặp Ngài.

Cử hành bí tích với việc xá giải chung

  1. Những quy luật mới của phụng vụ gần đây nhất bộ giáo luật đã xác định những điều kiện hợp pháp khi sử dụng “nghi thức hòa giải nhiều hối nhân với việc xưng thú và xá giải chung”.[196] Những quy tắc và nghị quyết về điểm này, hoa quả của việc cân nhắc kỹ lưỡng và quân bình, phải được tiếp nhận và thực thi, tránh tất cả những giải thích võ đoán.

Chúng ta nên suy nghĩ kỹ về những lý do đưa đến việc truyền buộc cử hành Bí tích Sám Hối theo hai hình thức đầu và cho phép sử dụng hình thức thứ ba. Trước hết là do ý muốn của Chúa Giêsu, được truyền lại qua đạo lý của Hội Thánh và lý do tuân phục các luật lệ của Hội Thánh. Thượng Hội Đồng Giám Mục trong một đề nghị đã nhắc lại giáo huấn bất biến của Hội Thánh, phát xuất từ truyền thống cổ xưa và được đúc kết thành luật lệ sám hối thời cổ điển: việc xưng thú riêng tư và tất cả tội lỗi cùng với lời xá giải cá nhân là đường lối duy nhất thông thường mà người Kitô hữu mắc tội trọng được hòa giải với Thiên Chúa và với Hội Thánh. Từ việc xác nhận giáo huấn của Hội Thánh như thế, cho thấy rõ ràng là tất cả các tội nặng cùng với các hoàn cảnh của nó phải được xưng thú riêng tư.

Tiếp theo là một lý do mục vụ. Đành rằng khi hội đủ các điều kiện mà giáo luật ấn định, người ta có thể cử hành hình thức thư ba, nhưng không được phép quên rằng: hình thức này không thể trở thành một hình thức thông thường và nó chỉ có thể được sử dụng trong những trường hợp thật quan trọng, như đã được nhắc lại trong Thượng Hội Đồng. Tuy vậy, vẫn phải giữ sự đòi buộc xưng tội cá nhân trước khi lãnh nhận một ơn xá giải chung một lần nữa. Do đó, chỉ có giám mục có thẩm quyền xét xem những điều kiện được thiết lập trong bộ giáo luật về việc cử hành hình thức thứ ba có được thực hiện hay không trong khung cảnh của giáo phận. Các giám mục sẽ phán đoán với nghĩa vụ nặng theo lương tâm trong niềm kính trọng triệt để các luật và thực hành của Hội Thánh, và lưu ý đến những tiêu chuẩn, những hướng dẫn đã thỏa thuận với các thành phần của hội đồng giám mục dựa trên những tiêu chuẩn đạo lý và mục vụ được trình bày ở trên. Đồng thời cũng thuộc về mối quan tâm mục vụ được ấn định va bảo đảm những điều kiện nhằm giúp cho việc cử hành hình thức thứ ba có khả năng phát sinh những thành quả thiêng liêng đã được dự kiến. Việc sử dụng cách ngoại lệ hình thức cử hành thứ ba không bao giờ được dẫn đến sự khinh thường hay loại trừ các hình thức thông thường, cũng không được xem như tương tự với hai hình thức trên. Thực vậy, các vị chủ chăn và các tín hữu không có quyền tự do lựa chọn hình thức nào mà mình nghĩ là tiện lợi hơn cả. Các vị chủ chăn có bổn phận phải tạo cho các tín hữu mọi sự thuận tiện để họ xưng tội toàn vẹn và cá nhân. Đối với Kitô hữu, nó không những là một bổn phận nhưng còn là một quyền bất khả xâm phạm và bất khả chuyển nhượng, đó là chưa nói đến một nhu cầu thiêng liêng của họ nữa. Đối với các tín hữu việc thực thi hình thức thư ba bao gồm nghĩa vụ tuân theo tất cả những luật lệ qui định trong việc sử dụng hình thức này, trong đó có bổn phận không được nhận một ơn sám hối chung trước khi xưng tội bình thường, toàn vẹn và cá nhân càng sớm càng tốt. Trước khi ban ơn xá giải chung, linh mục phải thông báo về quy tắc này và về nghĩa vụ phải tuân giữ nó.

Qua việc nhắc lại đạo lý và luật lệ của Hội Thánh, tôi muốn gợi lên nơi mỗi người ý thức trách nhiệm nhạy bén hướng dẫn chúng ta khi tiếp cận đến những sự thánh thiêng như là các bí tích mà chúng ta không có quyền sở hữu, hoặc như các lương tâm mà chúng ta không được quyền để rơi vào tình trạng lưỡng lự hoang mang. Tôi xin lập lại: các bí tích và lương tâm là những điều thánh thiêng, cả hai đòi hỏi chúng ta phải phục vụ trong chân lý.

Đó là lý do của những luật pháp trong Hội Thánh.

Làm tại Rôma, gần đền Thánh Phêrô,

ngày 02 tháng 12 tháng 1984, Chúa nhật I Mùa vọng,

năm thứ 7 triều đại Giáo Hoàng của Tôi.

+ JOANNES PAULUS II

Giáo Hoàng

*********************************************************************************

Thứ Năm, 14 tháng 4, 2011

ĐTC Gioan Phaolô II – Tông Thư Dưới Hình Thức Tự Sắc Misericordia Dei – Lòng Thương Xót Chúa – Về Một Vài Phương Diện Của Việc Cử Hành Bí Tích Sám Hối

ĐỨC THÁNH CHA GIOAN PHAOLÔ II

TÔNG THƯ DƯỚI HÌNH THỨC TỰ SẮC

MISERICORDIA DEI

LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA

Về một vài phương diện của việc cử hành bí tích sám hối

Do lòng thương xót của Chúa, Chúa Cha Đấng giao hoà chúng ta với chính Người, Ngôi Lời đã mặc lấy xác phàm trong lòng thanh sạch của Đức Trinh Nữ Rất Thánh Maria để cứu “dân Người khỏi tội lỗi của họ” (Mt 1, 21) và để mở rộng cho họ “con đường cứu độ đời đời”. (1) Bằng cách đồng hoá Chúa Giêsu như “Chiên Con của Chúa, Đấng xoá bỏ tội trần gian” (Ga 1, 29), Thánh Gioan Tẩy Giả khẳng định sứ vụ này.

Trong tất cả những việc làm và giảng dạy của người, vị Tiền Hô đưa ra một lời hiệu triệu sốt sắng và mãnh liệt phải sám hối và cải thiện, dấu chứng của sự đó là phép rửa trong nước sông Giođan. Chính Chúa Giêsu đã chịu nghi thức sám hối này (x. Mt 3, 13-17), không phải vì Người đã phạm tội, nhưng vì “Người bằng lòng để mình bị liệt vào số các tội nhân, Người đã là ‘Chiên Con của Chúa Đấng xoá bỏ tội lỗi thế gian’ (Ga 1, 29); Người đã thực hành trước phép ‘rửa’ sự chết đẫm máu của Người”. (2)

Sự cứu rỗi do đó và hơn hết là sự cứu khỏi tội, ngăn cản mối thân tình với Thiên Chúa, là một sự giải thoát khỏi tình trạng nô lệ mà con người cảm thấy mình gánh chịu kể từ khi sa ngã theo chước cám dỗ của Thần Dữ và làm mất quyền tự do con cái Thiên Chúa (x. Rm 8, 21).

Chúa Giêsu giao phó cho các Tông Đồ sứ vụ công bố Nước Thiên Chúa và rao giảng Tin Mừng hoán cải (x. Mc 16, 15 ; Mt 28, 18-20). Trong buổi chiều ngày Phục Sinh của Người, khi sứ vụ tông đồ gần bắt đầu, Chúa Giêsu ban cho các Tông Đồ, nhờ quyền phép Chúa Thánh Thần, thẩm quyền giao hoà những tội nhân sám hối với Thiên Chúa và với Giáo Hội: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần, anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20, 22-23). (3)

Dọc suốt lịch sử trong sự thực hành kiên định của Giáo Hội, “chức vụ hoà giải” (2 Cr 5, 18) được ban qua các Bí tích Rửa Tội và Sám Hối, luôn được xem như là một nhiệm vu mục vụ cần thiết và được đánh giá cao của thừa tác vụ linh mục, thực hiện vâng theo mệnh lệnh Chúa Giêsu. Qua các thế kỷ, việc cử hành Bí tích Sám Hối đã phát triển trong nhiều hình thức, nhưng nó vẫn giữ cũng một cấu trúc cơ bản: Bí tích này cần thiết lôi kéo theo không những hành động của thừa tác viên –chỉ một Giám mục hay linh mục, phán đoán và xá giải, săn sóc và chửa lành nhân danh Chúa Kitô– nhưng còn các hành động của kẻ sám hối: sự ăn năn, sự xưng tội và làm việc đền tội.

Tôi đã viết trong Tông thư của tôi Novo Millennio Ineunte: “Tôi xin được lòng can đảm mới mục vụ để bảo đảm rằng huấn giáo hằng ngày cho các cộng đồng Kitô hữu trình bày việc thực hành Bí tích Hoà Giải cách thuyết phục và hiệu nghiệm. Như anh em nhớ, năm 1984 tôi đã đề cập tới vấn đề này trong Tông Thư Hậu Thương Hội Đồng Reconciliatio et Paenitentia, tóm kết những hoa quả của Khoá Họp khoáng đại Thượng Hội Đồng Giám Mục đã tận tụy cho vấn đề này.

Lúc đó lời mời của tôi là phải làm mọi cố gắng để đương đầu với cơn khủng hoảng về ‘cảm thức sự tội’ lộ rõ trong nền văn hoá ngày nay. Nhưng tôi còn khăng khăng kêu gọi một sự tái khám phá Chúa Kitô như là mầu nhiệm lòng lành (mysterium pietatis), nơi Người Thiên Chúa chứng tỏ lòng thương xót của Người và giao hoà trọn vẹn chúng ta với Người. Phải tái khám phá gương mặt này của Chúa Kitô qua bí tích Sám Hối, đối với người tín hữu bí tích này là ‘phương thế thông thường để được sự tha thứ và sự xoá bỏ các thứ tội nghiêm trọng đã phạm sau bí tích Rửa Tội’.

Khi Thượng Hội Đồng bàn tới vấn đề, mọi người đều thấy cơn khủng hoảng của Bí tích, cách riêng trong một số nơi thế giới. Những nguyên nhân của cơn khủng hoảng không biến mất trong thời gian ngắn từ đó. Nhưng Năm Thánh, được đánh dấu đặc biệt bằng sự trở lại với Bí tích Sám Hối, đã cho chúng ta một sứ điệp đầy an ủi, sứ điệp cần được biết: nếu nhiều người, và trong số đó cũng có nhiều người trẻ, đã được phúc lợi nhờ đến gần Bí tích này, thì điều có lẽ cần là các Mục Tử phải trang bị chính mình với niềm tin tưởng, khả năng sáng tạo và sự bền bỉ hơn trong việc giới thiệu và hướng dẫn người ta biết đánh giá cao bí tích này”. (4)

Với những lời này, tôi đã có ý, như tôi làm bây giờ, khuyến khích các Giám Mục anh em của tôi và tha thiết kêu gọi các ngài –và, qua các ngài, tất cả các linh mục–đem lại sức sống mãnh liệt cho Bí Tích Hoà Giải. Đây là một đòi hỏi của đức ái chân chính và của phép công bằng mục vụ thật, (5) và chúng ta phải nhớ rằng người tín hữu, khi họ có những khuynh hướng nội tâm thích đáng, thì họ có quyền nhận lãnh với tư cách cá nhân ân huệ bí tích.

Để thừa tác viên Bí Tích có thể biết những tâm trạng người sám hối, ngõ hầu ban hay từ chối việc giải tội và ra việc đền tội xứng hợp, thì điều cần là mọi người tín hữu, kèm theo sự ý thức về các tội mình phạm, về sự đau buồn vì tội và quyết chí không tái phạm, (6), cũng phải xưng ra các tội của mình. Theo nghĩa này, Công đồng Trente đã tuyên bố rằng cần “phải xưng từng tội và tất cả tội trọng theo luật Chúa”. (7)

Giáo Hội đã luôn thấy một sự liên kết thiết yếu giữa sự phán đoán trao cho linh mục trong Bí tích và sự cần thiết để các hối nhân nêu danh tội mình ra, (8) trừ khi không thể được. Do đó, vì sự xưng tội đầy đủ các tội nghiêm trọng theo luật Chúa là một phần tạo thành Bí tích, nên không cách nào phải tùy thuộc sự quyết định của các vị mục tử (chuẩn chước, giải thích, những tập quán địa phương, v.v…). Trong những điều khoản kỷ luật có liên quan, thẩm quyền Giáo Hội chuyên môn chỉ nêu rõ những tiêu chuẩn để phân biệt việc không thể xưng ra tội mình là có thật, với những hoàn cảnh mà việc không thể xưng tội này chỉ là giả tạo hay có thể thắng vượt được.

Trong những hoàn cảnh hiện nay của việc chăm sóc các linh hồn và để trả lời những thỉnh cầu liên quan của nhiều anh em trong chức Giám Mục, tôi thiết tưởng điều hữu ích là nhắc lại một số luật thuộc giáo luật đang thịnh hành đối với sự cử hành Bí tích này, và làm sáng tỏ một số phương diện những luật đó– trong một tinh thần hiệp thông với trách nhiệm riêng của toàn thể chức Giám mục (9) để ban Bí tích này cách tốt hơn. Đó là một vấn đề bảo đảm việc cử hành trung thành hơn, và như vậy có hiệu quả hơn, (cử hành) một ân huệ Chúa Giêsu sau khi Phục sinh đã trao phó cho Giáo Hội

Điều này xem ra đặc biệt cần, vì trong một vài nơi có khuynh hướng bỏ việc xưng tội cá nhân và sử dụng cách sai lầm việc giải tội “chung” hay là “tập thể”. Trong trường hợp này việc giải tội không còn coi là một phương thế bất thường được sử dụng trong những hoàn cảnh hoàn toàn bất thường. Trên nền tảng một sự nới rộng tùy tiện những điều kiện đòi buộc khi có sự cần nghiêm trọng, (10) trên thực hành có sự kém trung thành đối với hình dạng thần linh của Bí tích và cách riêng đối với nhu cầu xưng tội cá nhân, sinh ra sự thiệt hại nghiêm trọng cho đời sống thiêng liêng và cho sự thánh thiện của Giáo Hội.

Như vậy, sau khi bàn hỏi Bộ Giáo Lý Đức Tin, Bộ Bí Tích và Phụng Tự, và Hội Đồng Giáo Hoàng về Văn Bản Pháp Luật, và sau khi nghe các quan điểm của các Hồng Y đáng kính phụ trách các cơ quan Giáo Triều Roma, và tái khẳng định giáo lý Công Giáo về Bí Tích Sám Hối và Hoà Giải theo như được tóm tắt trong sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo, (11) ý thức trách nhiệm mục vụ của tôi và hiểu biết đầy đủ về sự cần thiết của Bí tích này và về tính hiệu quả lâu dài của nó, tôi ra sắc lệnh sau đây:

  1. Các Đấng Thường quyền phải nhắc cho tất cả các thừa tác viên Bí tích Sám Hối rằng luật chung của Giáo Hội, ứng dụng Giáo Lý Công Giáo trong lãnh vực này, đã xác minh rằng:
  2. a) “Việc xưng tội cá nhân và đầy đủ và việc giải tội, là phương thức bình thường duy nhất qua đó người tín hữu, biết mình mắc tội nặng, được giao hoà với Chúa và Giáo Hội; chỉ khi nào không có khả năng về thể lý và luân lý miễn khỏi sự xưng tội như thế, thì trong trường hợp ấy việc hoà giải có thể thực hiện bằng những cách khác”. (12)
  3. b) Do đó, “tất cả những ai có bổn phận do thừa tác vụ của mình phải chăm sóc các linh hồn, buộc phải bảo đảm nghe xưng tội khi người tín hữu được trao phó cho mình xin cách hợp lý, và họ phải có cơ hội xưng tội cá nhân, vào những ngày và những thời gian được niêm yết thuận tiện cho họ”. (13)

Hơn nữa, tất cả các linh mục có năng quyền ban Bí tích Sám Hối phải luôn luôn tỏ ra sẵn sàng hết mình ban bí tích đó mỗi khi người tín hữu thỉnh cầu hợp lý. (14) Việc không muốn đón tiếp những con chiên bị thương tích, và có khi phải đi tới gặp chúng để đưa chúng về trong chuồng, có thể là một dấu chỉ đáng buồn vì thiếu sự nhạy cảm mục vụ nơi những người mà, do Bí Tích Truyền Chức Linh Mục, phải phản chiếu hình ảnh Đấng Chăn Chiên Lành.

  1. Các Đấng Thường Quyền địa phương, và các linh mục giáo xứ và các giám đốc những nhà thờ và đền thờ, phải xác minh theo định kỳ rằng trên thực tế có dự liệu hết sức có thể cho giáo hữu xưng tội.

Khuyên cách riêng, ở những nơi thờ phượng các cha giải tội nên có mặt đúng những thời gian đã thông báo, những thời gian đó phải tương thích với những hoàn cảnh thực tế của hối nhân, và việc xưng tội phải được dễ dàng đặc biệt trước các Thánh lễ, và có khi trong Thánh lễ nếu có sẵn các linh mục khác, ngõ hầu đáp ứng nhu cầu của người tín hữu. (15)

  1. Bởi vì “người tín hữu bị bắt buộc xưng, theo loại và số, tất cả các tội trọng đã phạm sau bí tích Rửa Tội, những tội trọng mà họ cảm thấy sau khi xét mình kỹ lưỡng và chưa được trực tiếp tha bởi quyền chìa khoá của Giáo Hội, cũng chưa được biết đến trong lần xưng tội cá nhân”, (16) bất cứ thực hành nào mà hạn chế việc xưng tội vào một việc cáo tội chung cho cả loại hay là vào việc cáo một hay hai tội cho là quan trọng hơn, thực hành đó phải bị loại trừ. Quả thật, vì mọi người tín hữu đều được kêu gọi nên thánh, nên khuyên họ cũng xưng các tội nhẹ nữa. (17)
  2. Trong ánh sáng và trong cảnh huống của những qui luật nói trên, việc giải tội cho một số hối nhân một lượt mà không có xưng tội trước, như được dự liệu theo Điều 961 của Bộ Giáo Luật, phải được hiểu và ban đúng cách. Việc giải tội như thế thật sự phải là “bất thường theo tính cách” (18) và “không thể ban một cách thông thường trừ trường hợp:
  3. nguy hiểm sắp chết và không còn kịp cho linh mục hay các linh mục nghe tội của từng hối nhân ;
  4. Có một nhu cầu nghiêm trọng, nghĩa là, vì quá đông hối nhân mà số cha giải tội không đủ để nghe xưng tội riêng từng cá nhân trong một thời gian thích hợp, đến nỗi các hối nhân sẽ bị thiếu ân sủng bí tích hay không được Rước Mình Thánh một thời gian dài mà không phải lỗi của họ; không được coi là thật sự cần thiết nếu các cha giải tội không đủ chỉ vì số đông hối nhân, như có thể xảy ra trong dịp lễ lớn hay hành hương” (19)

Khi nói tới trường hợp có nhu cầu nghiêm trọng, xin giải thích rõ sau đây:

  1. a) Nhu cầu đó qui chiếu về những hoàn cảnh bất thường khách quan, như có thể xảy ra trong những vùng đất truyền giáo hay những cộng đồng tín hữu sống biệt lập, nơi đó linh mục chỉ có thể viếng thăm một hay vài lần trong một năm, hay là chiến tranh hoặc những điều kiện thời tiết hoặc những yếu tố tương tự cho phép.
  2. b) Hai điều kiện ghi trong giáo luật để ấn định nhu cầu nghiêm trọng, không thể tách riêng nhau. Do đó, không bao giờ đúng là vấn đề các cá nhân có thể được nghe xưng tội hay không “cách riêng tư” và “trong thời gian thích hợp” vì thiếu linh mục; điều này phải kết hợp với việc các hối nhân có thể bị bắt buộc mất ân sủng bí tích “một thời gian dài” mà không phải lỗi của họ. Do đó, phải lưu ý tới tất cả mọi hoàn cảnh của hối nhân và của Giáo phận, trong những gì liên quan tới việc tổ chức mục vụ của Giáo phận và khả năng người tín hữu tới được với Bí tích Sám Hối.
  3. c) Điều kiện thứ nhất, sự không thể nghe xưng tội “riêng tư” “trong một thời gian thích hợp”, chỉ qui chiếu về thời gian cần cách hợp lý cho những yếu tố của sự cử hành Bí tích thành sự và xứng đáng. Ở đây không phải là một vấn đề của sự đàm thoại mục vụ trải dài, sự đàm thoại có thể dành cho những hoàn cảnh thuận tiện hơn. Thời gian hợp lý và thích hợp để nghe xưng tội sẽ tùy thuộc vào những khả năng thật sự của cha giải tội hay các cha giải tội, và của chính các hối nhân.
  4. d) Điều kiện thứ hai kêu gọi một sự phán đoán khôn ngoan ngõ hầu ước định thời gian bao lâu các hối nhân có thể mất ân sủng bí tích để nói tới một sự không thể thật như mô tả trong Điều 960, giả định không có nguy hiểm chết ngay. Một sự phán đoán như vậy không phải là khôn ngoan nếu nó bóp méo ý nghĩa của sự không thể vật lý hay luân lý, như trường hợp, ví dụ, nếu nghĩ rằng thời gian ít hơn một tháng hiểu là “một thời gian lâu dài” trong một tình trạng mất mát như vậy.
  5. e) Không chấp nhận tạo ra hay cho phép tạo ra những hoàn cảnh có vẻ cần thiết nghiêm trọng, phát sinh từ việc không ban Bí tích theo cách bình thường do không tuân theo các qui định nói trên, (20) và còn ít hơn vi hối nhân thích được giải tội chung, dường như đó là một sự chọn lựa bình thường tương đương với hai hình thức bình thường nói trong sách các Lễ Nghi.
  6. f) Con số đông đảo các hối nhân tập họp trong dịp lễ lớn hay hành hương, hay là do những lý do du lịch hay là do tính lưu động của dân chúng ngày càng tăng hôm nay, tự nó không làm thành sự cần thiết đủ.
  7. Việc xét đoán xem có những điều kiện đòi hỏi theo Điều 961 $ 1, 2 không phải là chuyện của cha giải tội, nhưng là của “Giám mục giáo phận, ngài có thể ấn định những trường hợp cần thiết như thế trong ánh sáng những tiêu chuẩn được chấp nhận với các thành viên khác trong Hội Đồng Giám Mục”. (21) Những tiêu chuẩn mục vụ này phải biểu hiện gìn giữ lòng trung thành trọn vẹn, tùy theo những hoàn cảnh của những vùng tương ứng của các ngài, đối với những tiêu chuẩn cơ bản gặp trong kỷ luật chung của Giáo Hội, chính những tiêu chuẩn đó dựa trên những đòi hỏi phát xuất từ chính Bí tich Sám Hối như là một cơ chế thần linh.
  8. Vì tầm quan trọng cơ bản của sự hài hoà trọn vẹn giữa các Hội Đồng Giám Mục thế giới, trong một vấn đề rất thiết yếu của đời sống Giáo Hội, các Hội Đồng khác nhau, tuân giữ Điều 455 $ 2 của Bộ Giáo Luật, sẽ gởi sớm hết sức có thể tới Bộ Bí Tích và Phụng Tự, văn bản các qui luật các ngài muốn đề ra hay cập nhật hoá theo ánh sáng của Tự Sắc này áp dụng Điều 961. Điều này giúp nuôi dưỡng sự hiệp thông càng lớn hơn giữa các Giám Mục Giáo Hội khi các ngài khuyến khích tín hữu khắp nơi kín múc dồi dào từ nguồn mạch lòng thương xót Chúa luôn luôn chảy ra trong Bí tích Hoà Giải.

Trong viễn ảnh hiệp thông này, cũng là điều thích hợp nếu các Giám Mục Giáo phận thông tin cho các Hội Đồng Giám Mục tương ứng về việc có hay không có những trường hợp của nhu cầu nghiêm trọng xảy ra trong những quyền hạn của mình. Sau đó mỗi một Hội Đồng sẽ có trách nhiệm thông báo cho Bộ nói trên về hoàn cảnh thật trong các vùng đất của mình và về bất cứ thay đổi nào xảy ra tiếp sau.

  1. Còn về tâm trạng cá nhân của các hối nhân, cần nên nhắc lại rằng:
  2. a) “ Để cho người tín hữu lãnh thành sự việc giải tội bí tích ban cho nhiều người một lượt, không những họ phải được chuẩn bị cách thích hợp, nhưng đồng thời họ phải có ý xưng cá nhân những tội nặng mà lúc đó họ không thể xưng”. (22)
  3. b) Theo như có thể, kể cả những trường hợp nguy tử, phải cho người tín hữu một lời khuyên trước” để mỗi người chú ý làm việc ăn năn tội”. (23)
  4. c) Điều rõ ràng là các hối nhân sống trong một tình trạng tội nặng và không có ý sửa đổi hoàn cảnh của mình, thì không thể lãnh phép giải tội cách thành sự được.
  5. Việc buộc “xưng những tội nặng ít nhất một lần trong năm” (24) vẫn còn giá trị, và do đó “một người đã được tha các tội nặng qua việc giải tội chung, phải đi xưng tội cá nhân càng sớm khi có dịp làm như vậy, trước khi lãnh một việc giải tội chung khác, trừ ra có một lý do chính đáng”. (25)
  6. Về nơi chốn và toà giải tội để cử hành Bí tích, phải ghi nhớ rằng:
  7. a) “Nơi chốn thích hợp để nghe xưng tội bí tích là một nhà thờ hay một nhà nguyện”, (26) dầu điều vẫn rõ ràng là những lý do mục vụ có thể biện minh cho việc cử hành Bí Tích trong những nơi khác. (27)
  8. b) Các toà giải tội được qui định bởi những quy luật do các Hội Đồng Giám Mục tương ứng đề ra, các ngài phải bảo đảm cho các toà giải tội được đặt “trong một chỗ trống” và có “một tấm lưới cố định“, ngõ hầu cho phép người tín hữu và chính các cha giải tội nào muốn sử dụng, có thể làm như vậy cách tự do. (28)

Tôi ra lệnh rằng tất cả những gì đề ra trong Tông Thư này gọi là Motu Proprio sẽ có hiệu lực đầy đủ và vĩnh viễn và phải được tuân giữ kể từ ngày hôm nay trở về sau, bất chấp những qui định nào nghịch lại. Tất cả những gì tôi đã ra lệnh giữ trong Thư này, tự bản tính nó, có giá trị cho các Giáo Hội Công Giáo Đông Phương đáng kính phù hợp với những Điều trong bộ Giáo Luật của họ.

Ban hành tại Roma, trong Vương Cung Thánh Đường Thánh Phêrô, ngày 7/4, Chúa nhật II Phục Sinh, ngày lễ kính nhớ Lòng Thương Xót của Chúa, năm 2002 Niên Lịch Chúa (giáng sinh), năm thứ 24 triều Giáo Hoàng của tôi.

+ Gioan Phaolô II

1) Sách lễ Rôma, Kinh Tiền Tụng Mùa Vọng

2) Sách Giáo Lý Công Giáo, 536

3) Xem. Văn Kiện Công Đồng Chung Trent, Chương XIV, De Sacramento Paenitentiae, Giáo Luật. 3: DS 1703.

4) No. 37: AAS 93 (2001) 292

5) Xem Giáo Luật khoản 213 và 843 triệt 1.

6) Xem. Văn Kiện Công Đồng Chung Trent, Chương XIV, De Sacramento Paenitentiae, Giáo Luật. Chương 4: DS 1676.

7) Ibid., Giáo Luật. 7: DS 1707.

8) Ibid., Chương. 5: DS 1679; Công Đồng Chung Florence, Sắc Lệnh cho Armenians (22 tháng 11 1439): DS 1323.

9) Xem. Giáo Luật 392; Công Đồng Chung Vatican II, Hiến Chế Giáo Hội Lumen Gentium, Nos. 23, 27; Sắc Lệnh về Mục Vụ Giám Mục Christus Dominus, No. 16.

10) Xem. Giáo Luật 961, triệt 1, 2

11) Xem. Nos. 980-987; 1114-1134; 1420-1498.

12) Giáo Luật 960.

13) Giáo Luật 986, triệt 1

14) Xem. Công Đồng Chung Vatican II, Sắc Lệnh về Mục Vụ và Đời Sống Linh Mục, Presbyterorum Ordinis, 13; Ordo Paenitentiae, editio typica, 1974,Praenotanda, No. 10, b.

15) Xem. Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật Bí Tích,Responsa ad dubia proposita: Notitiae, 37 (2001) 259-260

16) Giáo Luật 988, triệt 1

17) Xem. Giáo Luật 988, triệt 2: John Paul II, Tông Huấn Hậu Thượng Hội Đồng Giám Mục về Hòa Giải và Thống Hối (2 Tháng 12 1984), 32: AAS 77 (1985) 267; Sách Giáo Lý Công Giáo, 1458.

18) John Paul II, Tông Huấn Hậu Thượng Hội Đồng Giám Mục về Hòa Giải và Thống Hối (2 Tháng 12 1984), 32: AAS 77 (1985) 267.

19) Giáo Luật 961, triệt 1

20) Xem. Nos. 1 and 2.

21) Giáo Luật 961, triệt 2

22) Giáo Luật 962, triệt 1

23) Giáo Luật 962, triệt 2

24) Giáo Luật 989

25) Giáo Luật 963.

26) Giáo Luật 964, triệt 1

27) Xem. Giáo Luật 964 triệt 3.

28) Hội Đồng Giáo Hoàng về Diễn Giải Văn Bản Pháp Quy, Responsa ad propositum dubium: de loco excipiendi sacramentales confessiones (7 Tháng Bẩy 1998): AAS 90 (1998) 711.

Đức Ông Phêrô Nguyễn Quang Sách

PHỤ LỤC

NHẬN ĐỊNH VỀ TÔNG THƯ – TỰ SẮC

CỦA ĐỨC THÁNH CHA VỀ BÍ TÍCH GIẢI TỘI

(05/05/2002). Sáng thứ năm, mùng 2 tháng 5/2002, hai Đức HY Joseph Ratzinger, Tổng trưởng Bộ Giáo Lý Đức Tin và ĐHY Jorge Arturo Medina Estevez, Tổng trưởng Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật Bí tích, cùng với Đức TGM Julian Herranz, Chủ tịch Hội đồng Giáo Hoàng phụ trách việc giải thích các bản văn luật pháp, trình bày với giới báo chí văn kiện mới của ĐTC Gioan Phaolô II, có tựa đề là: “Misericodia Dei” (Lòng thương xót Thiên Chúa), nói về Bí tích Hòa giải. Văn Kiện mới được gọi là “Tông thư “, nhưng cũng mang một tính cách của một “Tự Sắc” (Motu Proprio), một văn kiện có tính cách luật pháp, được Đức Thánh Cha dùng để công bố những luật lệ của Giáo hội, trong những hoàn cảnh riêng biệt.

Vì thế chúng ta thấy: trong cuộc họp báo, ngoài Đức Hồng Y Tổng trưởng Bộ Phụng tự và Kỷ Luật Bí tích, còn có sự hiện diện của Đức Hồng Y Tổng trưởng Bộ Giáo Lý Đức Tin và Đức TGM Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh giải thích bản văn luật pháp của Giáo hội. Sự hiện diện ý nghĩa này nói lên tính cách quan trọng của Văn Kiện mới, được chính Đức Thánh Cha ký tên và công bố cho toàn Giáo hội.

Mục đích của Văn kiện mới nhằm đề cao sự quan trọng và sự cần thiết của Bí tích Hòa Giải, ngay từ lúc Chúa Giêsu bắt đầu cuộc đời công khai rao giảng Tin Mừng, đồng thời nêu lên những chỉ dẫn, để phục hưng Bí tích Hòa Giải này trong đời sống Giáo hội.

Trong Năm Toàn xá, người ta đã ghi nhận được những dấu hiệu tốt đẹp của việc phục hưng Bí tích Hòa Giải. Số người lãnh Bí tích trên cả thế giới, cách riêng tại Roma, nhất là Ngày Giới Trẻ Thế Giới, tháng 8 năm 2000, rất khích lệ. Dù vậy Bí tích Hòa giải vẫn còn trong “cơn khủng hoảng”, cách riêng tại thế giới Tây phương. Cơn khủng hoảng này một phần do các linh mục, phần khác do phía giáo dân.

Nói là do các linh mục, vì các ngài không quan tâm đến việc ngồi Tòa Giải tội và không sẵn sàng đón nhận những người xin xưng tội, coi việc ngồi tòa giải tội là một gánh nặng, hoặc lạm dụng Bí tích Hòa giải bằng cách “giải tội chung hay tập thể”, không lo giáo huấn về Bí tích quan trọng này trong đời sống người giáo dân và biếng nhát lãnh nhận bí tích nầy trong chính đời sống linh mục. Như vậy, có thể nói chính linh mục làm cho người giáo dân rơi vào thái độ coi thường Bí tích Hòa giải và dần dần đi đến việc bỏ hẳn việc xưng tội, mà chỉ đợi dịp tiện “để lãnh nhận việc giải tội tập thể”.

Từ phía giáo dân – Do việc giảm bớt đức tin – do việc thiếu sót về giáo lý – do mất quan niệm về tội lỗi – do tự ái, hổ thẹn không muốn tiết lộ tội lỗi mình với người khác – do xưng tội vì thói quen, thiếu chuẩn bị và kiểm thảo bản thân… hoặc không tín nhiệm nơi linh mục, nhất là cha sở của mình, vì lý do này lý do khác… vân vân.

Giờ đây chúng tôi xin lược tóm những điểm chính của Văn kiện “Misericordia Dei”. Có tám (08) điểm sau đây:

1 – Hình thức duy nhất của việc xưng tội “thành” (valide) là việc thú tội cá nhân và xưng thú mọi tội trọng đã phạm, sau khi lãnh Bí tích Rửa tội, mà chưa được tha thứ (số 1, a).

2 – Cấm các linh mục ban phép giải tội tập thể hoặc chung. Việc ban phép giải tội tập thể hay chung, chỉ được phép trong trường hợp nguy tử hay có sự cần thiết thực sự trầm trọng. Trong hai trường hợp này, lúc nào có thể, vẫn bắt buộc phải xưng tội cá nhân (các tội đã được tha trong lần giải tội chung hay tập thể).

3 – Việc nhận định có hay không có những điều kiện của những trường hợp thực sự khẩn cấp, là việc thuộc thẩm quyền của mỗi giám mục giáo phận và Hội đồng Giám mục quốc gia. Quyền này không thuộc về linh mục giải tội (xem giáo luật khoản 961, triệt 1 và số 6 của Tông thư -Tự Sắc).

4 – Nơi chốn duy nhất và tòa giải tội để cử hành Bí tích Hòa giải là : nhà thờ hay nhà nguyện, hay một nơi nào khác, vì lý do chính đáng mục vụ đòi hỏi (x. số 9 , a).

5 – Tòa giải tội phải có vách che, để phân biệt vị giải tội khỏi người xưng tội và phải được đặt nơi mọi người thấy rõ (visibile). Luật lệ về tòa giải tội do các HĐGM ấn định (x. số 9, b).

6 – Cấm các linh mục không được ban Bí tích hòa giải cách dễ dàng cho những người thường sống trong tình trạng tội lỗi mà không muốn thay đổi đời sống. Đối với các tín hữu, luật bắt buộc xưng tội một năm ít là một lần vẫn còn hiệu lực, không có gì thay đổi.

7 – Tông thư -Tự sắc này có giá trị cho cả các Giáo hội Đông phương (x. số 9, phần kết).

8 – Tông thư -Tự sắc này có giá trị và phải được tuân giữ kể từ ngày Đức Thánh Cha ký nhận, tức mùng 7 tháng 4 năm 2002, Chúa nhật cuối tuần bát nhật Lễ Phục sinh, và cũng là Chúa nhật của Lòng Thương xót Chúa.

Kết thúc bài thời sự nầy, chúng tôi xin trích lại đây nhận xét của Đức Hồng Y Joseph Ratzinger, tổng trưởng bộ Giáo Lý Đức Tin, vào khởi đầu bài giới thiệu Tông Thư-Tự Sắc, như sau: “Điều rõ ràng trong giờ phút lịch sử chúng ta hôm nay là nhân loại cần sự thanh tẩy và sự tha thứ. Chính vì vậy, mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trong tông thư “Khởi đầu ngàn năm mới (số 37) đã ước mong sao giữa những ưu tiên của sứ mạng của Giáo Hội trong ngàn năm mới, có một sự can đảm mới trong hoạt động mục vụ, để trình bày một cách đầy thuyết phục và hữu hiệu việc thực hành bí tích Hòa Giải”.

Đức Ông Phêrô Nguyễn Văn Tài