Tập sách Trung Tâm Thánh Mẫu Toàn Quốc La Vang – Chương 6 – Phần 1

02/04/2023

TRẦN QUANG CHU

(Biên soạn)

 

TRUNG TÂM THÁNH MẪU TOÀN QUỐC LA VANG

 

KỶ NIỆM ĐẠI HỘI LA VANG

LẦN THỨ 27 (2005)

CẬP NHẬT ĐẾN ĐÌNH HOÃN ĐẠI HỘI LA VANG LẦN THỨ 32 (2020, 2021)

 

CHƯƠNG SÁU

NHÂN VẬT VÀ SỰ KIỆN

I. NHỮNG NHÂN VẬT TRỌNG YẾU TRONG TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN TRUNG TÂM THÁNH MẪU TOÀN QUỐC LA VANG.

1. ĐỨC CHA ANTOINE LOUIS CASPAR LỘC – NGƯỜI VÉN BỨC MÀN BÍ MẬT LA VANG.

Năm 1864, nhân chuyến công du về Pháp sau chỉ dụ “Tha tháp” của vua Tự Đức, Đức cha Joseph Hyacinthe Sohier Bình đã làm chủ lễ truyền chức linh mục cho thầy Louis Caspar. Chính sự cảm phục các bậc đàn anh về sự gian nan và đổ máu mà Đức cha Sohier Bình là nhân chứng hùng hồn, đã quyết định phần lớn hướng đi Đàng Trong của thừa sai Louis Caspar.

Linh mục Louis Caspar sinh ngày 23-3-1841 tại Obernai, vùng Bas Rhin, gần biên giới Pháp – Đức. Được cử sang Việt Nam, nhập địa phận Tây Đàng Trong ngày 15-2-1865, với tên Việt là Lộc.

Trong 15 năm ở địa phận Tây Đàng Trong, ngoài những trọng trách được giao phó: Giáo sư Chủng viện Lái Thiêu, Bề trên Trường Thầy giảng…, ngài dành nhiều thời gian nghiên cứu đến thông thạo Việt ngữ và Hán, Nôm. Điều này giúp ích rất nhiều cho ngài trong suốt 26 năm lãnh đạo Giáo phận Huế, một vùng đất bấy giờ Nho giáo đang chiếm lĩnh ảnh hưởng.

Năm 1880, ngài được Tòa Thánh bổ nhiệm làm Giám mục Đại diện Tông tòa Giáo phận Bắc Đàng Trong (sau là GP Huế), hiệu tòa Canathe. Lễ tấn phong tại Sài Gòn ngày 24-8-1880. Ngài đến Huế đầu tháng 9-1880.

Những năm đầu ở Huế, ngài không thể không chú ý đến một sự kiện được truyền tụng trong dân gian lương giáo: Sự kiện Đức Mẹ hiện ra tại La Vang. Nhưng vốn bản tính khiêm cung, từ tốn ngài không thể không thận trọng về một sự kiện khó lòng kiểm chứng vì đã gần 100 năm trôi qua. Ngài chỉ âm thầm tìm hiểu, ghi nhận, và chủ định đề cao những giá trị tinh thần nhằm gia tăng lòng sùng kính Đức Mẹ nơi người giáo hữu.

Để phát huy lòng sùng kính Đức Mẹ La Vang, hơn ai hết ngài ủng hộ và ban phép lành cho những cuộc rước kiệu hằng năm từ Cổ Vưu vào La Vang do giáo xứ Cổ Vưu tổ chức, tiền thân của Đại hội Hành hương Đức Mẹ La Vang sau này.

Hơn hết, chính ngài đã quyết định xây dựng tại La Vang ngôi nhà thờ ngói dâng kính Đức Mẹ vào năm 1886. Chẳng may, giáo phận Huế lâm nạn Văn Thân, phải trễ mất 8 năm, đến năm 1894 mới khởi công được. Nhà thờ ngói đã hoàn tất vào năm 1900 – Năm khánh thành cũng là năm Đức cha ban hành định lệ “ba năm một lần kiệu trọng thể từ Cổ Vưu vào La Vang”.

Kiệu trọng thể theo thời gian tuy có thay đổi về nghi thức và tổ chức, nhưng định lệ “ba năm một lần” vẫn được tôn trọng cho đến ngày nay.

Năm 1906, Đức cha Caspar Lộc từ giã Giáo phận Huế đi Rôma và được ĐGH ban phép về nghỉ dưỡng bệnh tại quê nhà. Ngài qua đời năm 1917.

2. ĐỨC CHA EUGÈNE-MARIE-JOSEPHALLYS LÝ – NGƯỜI XÂY ĐỀN NƠI HOANG ĐỊA.

Đức cha Allys Lý là người có công rất lớn đưa Giáo phận Huế tới thời kỳ phồn thịnh với phong trào tòng giáo đạt hiệu quả cao trong giới bình dân và hoàng tộc. Một hệ thống dòng tu phồn thịnh và một chương trình hiện đại hóa cơ sở vật chất cho Giáo phận Huế, trong đó nổi bật là nhà thờ Phủ Cam, nhà thờ Phanxicô, Tòa Khâm mạng và đền thờ Đức Mẹ La Vang, một trong những công trình kiến trúc nhà thờ hàng đầu ở Việt Nam và Đông Dương hồi bấy giờ, đã được ĐGH Gioan XXIII nâng lên bậc Vương Cung Thánh Đường vào năm 1961.

Nhưng tại sao tại phải xây dựng một ngôi đền thờ nguy nga nơi hoang địa, trong khi đó Tòa Giám mục Huế đang là những dãy nhà ngói đơn sơ? Điều này chỉ có thể giải thích là do bởi lòng sùng kính Đức Mẹ La Vang và muốn những gì tốt nhất dành cho Mẹ.

Hơn thế nữa, Đức cha Allys Lý còn từng bước nâng Thánh địa La Vang từ một điểm hành hương giáo hạt, giáo phận lên hàng toàn quốc. Theo đó:

– Ngài đã tổ chức thành công tất cả sáu kỳ Đại hội La Vang, từ Đại hội 4 (1910) đến Đại hội 9 (1928).

– Từ Đại hội 6 (1917), Hành hương La Vang đã được cải cách từ một ngày lên ba ngày gọi là Tam nhật. Hai ngày đầu tổ chức tại La Vang, ngày thứ ba rước kiệu Đức Mẹ từ Cổ Vưu vào La Vang.

– Tổ chức thành công rực rỡ Đại hội La Vang lần thứ 9 (1928), Đại hội đầu tiên mang tính toàn quốc và Đông Dương. Từ Đại hội này danh tiếng Đức Mẹ La Vang đã vượt Địa phận Huế đến với mọi miền, mọi xứ: Bắc, Trung, Nam, cả Ai Lao và Cao Miên.

Năm 1931, do già yếu và bị mù lòa, ngài được Tòa Thánh cho phép nghỉ hưu.

Đức cha Allys Lý qua đời lúc 11 giờ trưa ngày 23-4-1936 tại Tòa Giám mục Huế, hưởng thọ 84 tuổi (1852-1936), 61 năm linh mục truyền giáo tại Việt Nam, trong đó có 28 năm Giám mục (23 năm lãnh đạo Giáo phận Huế và 5 năm hưu trí).

Hiện Đức cha đang an nghỉ trong khu lăng mộ nghĩa trang Linh mục Huế tại núi Thiên Thai.

3. PHƯỚC MÔN QUẬN CÔNG NGUYỄN HỮU BÀI – NGƯỜI MANG TÂM HUYẾT CANH TÂN NHÀ MẸ, DẪN LỐI ĐƯA NGƯỜI VỀ VỚI MẸ.

Cụ Nguyễn Hữu Bài sinh ngày 28-9-1863, tại làng Cao Xá, tỉnh Quảng Trị. Cao tổ của cụ, dòng dõi danh tướng Nguyễn Hữu Cảnh, người làng Mỹ Hương, tỉnh Quảng Bình. Thân sinh cụ Bài là cụ Nguyễn Hữu Các, cháu gọi thánh tử đạo Antôn Nguyễn Hữu Quỳnh Năm bằng chú ruột.

Cụ Bài xuất thân là chủng sinh Chủng viện An Ninh – Quảng Trị, rồi Pénăng -Mã Lai, nhưng không có ơn gọi. Cụ vào đời với chức thừa phái Thương Bạc. Dần dần nhờ tài năng, uy tín và lòng chính trực cụ được thăng đến Thượng thư Bộ Lại. Đường hoạn lộ của cụ trải qua 50 năm dưới mười triều vua, khi thăng khi trầm nhưng mọi chuyện đều tiền hung hậu kiết. Theo cụ, tất cả là nhờ ơn Đức Mẹ La Vang. Để tỏ lòng biết ơn, cụ nhờ cha sở Cổ Vưu sắm một cỗ kiệu sơn son thếp vàng dâng kính tạ ơn Mẹ, dùng vào các cuộc rước kiệu.

Không có kỳ hành hương lớn nhỏ nào mà không có mặt cụ. Cụ đóng góp nhân lực, vật lực tối đa cho việc tổ chức rồi lặng lẽ đến với Mẹ như một người con thảo bình thường, một khách hành hương trong ngàn vạn khách hành hương khác, tin yêu và khiêm tốn.

Bên cạnh đó là tâm huyết canh cánh của cụ muốn La Vang độc lập về hành chánh để việc mở mang được thuận lợi hơn. Tâm nguyện chính đáng này dù đời cụ chưa thể thực hiện, ngoại trừ những cống hiến lớn lao cho việc hoàn thành Đền thờ Đức Mẹ La Vang năm 1928, song hẳn trên Quê Trời cụ đã mãn nguyện khi nhìn thấy các thế hệ hậu duệ đang từng bước thi hành lời khấn hứa kiến thiết La Vang, mở mang quê Mẹ.

Không những năng đến với Mẹ, cụ còn đưa người khác đến với Mẹ, hễ có dịp. Câu chuyện vua Khải Định là một trường hợp điển hình. Một vị vua từ nhỏ đã quy y Phật pháp thế mà vẫn bị cụ thuyết phục, ít ra hai lần sắm sửa lễ vật phụng khấn và tạ ơn Đức Mẹ La Vang.

Trước đó là trường hợp người họa sĩ tài hoa ngoại giáo Nguyễn Khắc Nhân: “Năm 1906, Đức Thành Thái bị truất ngôi, cụ Nguyễn Khắc Nhân, Hàn Lâm viện Biên tu tòng sự ở Bộ Công, buồn tình cáo lão về quê nuôi mẹ già. Cụ bà Tôn Nữ Thị Quyên và ba con Phi Hổ, Phi Long, Phi Hùng ở lại Huế. Về Hà Nội ít lâu, tình lưu luyến vợ con lại đưa quan Biên về kinh. Cụ bị tình nghi là mưu đồ chống Pháp nên bị 18 tháng tù quốc sự phạm, lại bị đày ra Quảng Trị. Ở đây cụ gặp Quận công Nguyễn Hữu Bài là bạn đồng chí… Trong cuộc đào viên kết nghĩa này, tài ba của cụ Nguyễn Khắc Nhân lại bừng sáng lên, nhất là trong lãnh vực thi ca và hội họa về tôn giáo… Nhiều họa phẩm như Thánh Gia Thất, Thánh Đường La Vang vẫn còn lưu lại hậu thế”(1).

“Mà hẳn thật, từ ngày thầy này vẽ bức tượng ấy đến nay, qua một năm, thì Đức Mẹ đã xuống ơn mà bồi công lao khó nhọc, mà Đức Mẹ ban một ơn trọng, chẳng phải ơn thường, là ban cho thầy ấy đặng trở lại làm con cái Đức Chúa Trời”(2). Ngày chịu phép Rửa tội, người bọ đỡ đầu không ai khác hơn chính là cụ Nguyễn Hữu Bài.

Công trình Ngũ Phước(3) một thời được tiếng của cụ, trong đó Phước Môn nằm cạnh La Vang, được lập ra không ngoài mục đích để giáo dân được gần Mẹ, nương cậy Mẹ, phụng tự Mẹ. Phước Môn đã từng là đơn vị giáo xứ, nay trực thuộc giáo xứ La Vang.

Những giây phút cuối đời, khi xe Hồng thập tự đưa cụ từ Phước Môn vào Bệnh viện Huế chữa chạy, cụ cũng bảo ghé La Vang viếng Mẹ, phó thác việc sinh tử trong tay Mẹ.

Cụ qua đời ngày 28-7-1935 tại tư thất ở Bến Ngự – Huế, hưởng thọ 73 tuổi. Đức cha Đôminicô Hồ Ngọc Cẩn chủ lễ quy lăng đưa linh cữu cụ về an táng tại quê nhà Phước Môn, ở đó trên ngọn đồi thông vi vu, trăng thanh gió mát cụ ngó về La Vang đêm ngày hành hương bên Mẹ.

4. LINH MỤC RENÉ MORINEAU TRUNG – NGƯỜI QUẢN GIA TRUNG TÍN.

TỪ TRÁI SANG: CỤ NGUYỄN HỮU BÀI, ĐỨC CHA ALLYS LÝ, ĐỨC CHA GOUIN VÀ LINH MỤC MORINEAU TRUNG TRONG ĐẠI HỘI LA VANG 9.

(Ảnh: Đức Mẹ La Vang 200 năm)

Linh mục Morineau Trung sinh năm 1873 tại Salle de Vihiers, Giáo phận Angers, vùng Bretagne, Tây Bắc nước Pháp. Thụ phong linh mục năm 1898. Gia nhập Địa phận Huế cùng năm. Trong suốt 50 năm phục vụ Giáo phận Huế, ngài được giao phó nhiều trọng trách mà bao giờ cũng hoàn thành theo phận sự.

Nhưng có lẽ thành công mỹ mãn nhất, tinh thần và vật chất, theo ngài thổ lộ chính là công trình Đền thờ Đức Mẹ La Vang. Qua đó Đức Mẹ đã biến đổi tâm hồn cứng cỏi ngài thành một niềm tin sắt đá và hết lòng sùng kính Đức Mẹ La Vang.

Năm 1923, linh mục quản xứ họ đạo Ngã Sáu – Chợ Lớn JB.Huỳnh Tịnh Hướng, trong dịp hành hương La Vang lần đầu tiên đã nghe ngài tâm sự, kể lại: “Chính mình cha Morineau là cha sở Cổ Vưu nói với chúng tôi rằng ban đầu nghe thiên hạ đồn Đức Mẹ La Vang tôi không tin. Nhưng từ khi về làm cha sở ở đây ít lâu tôi thấy nhiều sự tôi hết chối đặng”(4).

Trong những ngày đầy âu lo của tháng 12 năm 1945, theo lệnh Chính phủ chuẩn bị ra tập trung ở giáo xứ Cầu Rầm, Giáo phận Vinh, trong những lúc hàn huyên tâm sự cha Morineau Trung thường nhắc đến Đức Mẹ La Vang: “Tôi là người Pháp, có nơi hành hương danh tiếng là Lộ Đức, nơi Mẹ đã hiện ra năm 1858. Nhưng sau một thời gian phục vụ Đức Mẹ La Vang và nghe biết nhiều ơn lạ, cảm động, tôi tin Đức Mẹ La Vang hơn Đức Mẹ Lộ Đức danh tiếng”(5).

Một điểm đáng lưu ý khác, được cha Morineau Trung xác nhận: “Đức Mẹ La Vang thương người lương đặc biệt”(6) và cũng theo ngài “trong các cuộc hành hương hồi bấy giờ có đến 1/3 lương dân tham dự”(6).

Do bởi lòng tin yêu Đức Mẹ ngài không quản khó nhọc, mỗi ngày, bất luận mưa nắng, từ năm 1924, đạp chiếc xe đạp Peugeot từ Cổ Vưu lên La Vang để đôn đốc công việc xây đền thờ Mẹ.

Ngoài ra, vì biết đường sá La Vang khó đi, lên gò xuống nổng, đất đá ngổn ngang, ngài đã nhờ Sở Công chánh Quảng Trị san ủi, trải đá con đường tỉnh lộ 1 hơn hai cây số từ ga La Vang thẳng vào đền thờ. Nhờ vậy các vật hạng xây đền Mẹ được vận chuyển dễ dàng hơn, đồng thời khách hành hương đến với Mẹ cũng thuận tiện hơn, người lữ hành chỉ cần “xuống xe lửa lên xe kéolà đã đến La Vang, không như trước đây chỉ có cách đi bộ.

Cha Morineau Trung qua đời ngày 20-4-1948, hưởng thọ 75 tuổi, 50 năm linh mục. An nghỉ tại giáo xứ Cầu Rầm, nơi bị tập trung theo lệnh Chính phủ.

5. ĐỨC TỔNG GIÁM MỤC PHÊRÔ MÁCTINÔ NGÔ ĐÌNH THỤC – NGƯỜI KHỞI XƯỚNG KIẾN THIẾT TRUNG TÂM THÁNH MẪU TOÀN QUỐC LA VANG.

Đức TGM Phêrô Máctinô Ngô Đình Thục sinh ngày 6-10-1897 tại giáo xứ Chính tòa Phủ Cam nhưng nguyên quán làng Đại Phong, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Được Đức cha Allys Lý gởi đi du học trường Truyền giáo Rôma và đã đậu ba bằng tiến sĩ: Triết học, Thần học và Giáo luật. Tại nơi đang du học ngài được thụ phong linh mục ngày 20-12-1925. Trở về Địa phận Huế năm 1929.

Năm 1938, Tòa Thánh thành lập Giáo phận Vĩnh Long, ngài được bổ nhiệm làm Giám mục Đại diện Tông tòa, hiệu tòa Soesina.

Năm 1960, Tòa Thánh thiết lập Hàng Giáo phẩm Việt Nam với ba Tổng Giáo phận Hà Nội, Huế, Sài Gòn, ngài được bổ nhiệm Tổng Giám mục Chính tòa Tổng Giáo phận Huế.

Trước biến cố ngày 1-11-1963 đảo chánh lật đổ Tổng thống Ngô Đình Diệm, bào đệ ngài, theo khuyến cáo của Đức Khâm sứ Salvatore Asta, Đức cha sang Rôma tham dự Công đồng Vaticanô II và sau đó không thể trở về Việt Nam.

Tuy thời gian lãnh đạo Tổng Giáo phận Huế quá ngắn ngủi (1961-1963), nhưng Đức TGM Phêrô Máctinô Ngô Đình Thục đã để lại một chương trình cải cách cũng như những công trình xây dựng lớn lao, trong đó ngài đã đem hết tâm huyết kiến thiết Trung tâm Thánh Mẫu Toàn quốc La Vang trở nên một nơi xứng đáng của sự cầu nguyện và đền tạ toàn quốc, là tấm bia hùng vĩ lưu truyền cho con cháu mai sau(7).

Không thể không nhắc lại, năm 1961, từ kiến nghị của ngài mà Hội đồng Giám mục Miền Nam đã chấp thuận La Vang là Trung tâm Thánh Mẫu Toàn quốc. Đồng thời cũng từ kiến nghị của ngài mà ĐGH Gioan XXIII đã ban hành sắc lệnh “Để Muôn đời ghi nhớ” (Magno Nos Solatio) nâng đền thờ La Vang lên bậc Vương Cung Thánh Đường.

Đã có một thời gian dài, do khủng hoảng tinh thần, ly khai Giáo hội. Nhưng ơn Mẹ La Vang đã dẫn dắt ngài ra khỏi cuộc khủng hoảng, hòa giải với Giáo hội và trở về với cộng đồng Công giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ.

Tháng 8-1984, nhân dịp đến chủ tọa ngày lễ Thánh Mẫu ở Carthage, ngài nói: “Từ 20 năm nay tôi chưa hề thấy người Việt đông như thế này. Nay Mẹ đưa tôi về đây gặp anh chị em lần sau hết. Xin phú thác anh chị em trong Thánh Tâm Mẹ. Xin mọi người cầu nguyện cho tôi được chết lành”(8).

Đức cha qua đời ngày 13-12-1984. Hưởng thọ 87 tuổi. Thi hài được an táng tại nghĩa trang Resurrection Cemetary, Springfield, Missouri, Orléans. USA.

6. ĐỨC TỔNG GIÁM MỤC TÊPHANÔ NGUYỄN NHƯ THỂ – NGƯỜI ĐỘT PHÁ HỘI NHẬP VĂN HÓA LỄ HỘI LA VANG; TỔ CHỨC THÀNH CÔNG RỰC RỠ CÁC KỲ ĐẠI LỄ, ĐẠI HỘI LA VANG VÀ MỞ RỘNG CÁNH CỬA LA VANG RA VỚI GIÁO HỘI TOÀN CẦU.

* Đột phá hội nhập văn hóa lễ hội La Vang.

Nói cho công bằng, hội nhập văn hóa bản địa trong lễ hội La Vang đã có từ những năm đầu thế kỷ XX, nhưng đơn giản và sơ sài, trước sau cũng chỉ dừng ở những hình thức liễn đối, lọng tàn, cờ phướn, quân lính, kiệu phu và bàn kiệu sơn son thếp vàng.

Đến cuối thế kỷ XX, thời Đức TGM Têphanô Nguyễn Như Thể, từ Đại lễ Kỷ niệm 200 năm Đức Mẹ hiện ra tại La Vang năm 1998, việc hội nhập văn hóa có bước đột phá mạnh mẽ hơn, rõ nét hơn, quy mô hơn, nhưng vẫn giữ được sự hài hòa giữa hành hương và lễ hội.

– Không loại bỏ những hình thức đã được hội nhập từ trước.

– Thêm một số hạng mục khác như Lễ đài mang dáng dấp đàn tế Nam Giao.

– Chủ tế niệm hương theo nghi lễ cung đình.

– Lễ vật trong thánh lễ mang hương vị ba miền đất nước: hồng đào (miền Bắc), thanh trúc (miền Trung), hoàng mai (miền Nam)…

– Đặc biệt gây ấn tượng là thánh tượng Đức Mẹ La Vang rất Việt Nam. Đấng hiền mẫu vừa từ ái vừa uy nghi. Chân dung bậc mẫu nghi thiên hạ. Bức thánh tượng hội nhập này đã một thời gây ngỡ ngàng cho những tín hữu vốn quen với ảnh tượng cũ. Bây giờ thì khác, nhất là từ khi bức tượng Thánh Mẫu La Vang bằng đá bán quý được thay thế bức tượng cũ cùng kiểu dáng, mọi người mạnh mẽ chấp nhận như một báu vật linh thiêng không thể thiếu tại La Vang. Hiện nay, lan tỏa đi khắp nơi trong và ngoài nước, hầu hết các giáo xứ Việt Nam đều rước mẫu thánh tượng này về tôn kính tại giáo xứ mình, và nhiều cá nhân, đoàn thể đi hành hương tranh nhau đến gần nhìn ngắm tượng Mẹ, nhiều người còn chụp ảnh làm hình nền điện thoại để mỗi ngày chiêm ngưỡng.

– Và, cũng từ ý tưởng hội nhập văn hóa mạnh mẽ của Đức TGM Têphanô mà Ủy ban Nghệ thuật thánh của HĐGMVN đã chọn Đồ án Thiết kế Vương Cung Thánh Đường La Vang theo mẫu đình làng, dù biết sự lựa chọn này không khỏi gây chút ngỡ ngàng nơi các tín hữu vốn quen nhìn nhà thờ theo lối kiến trúc phương Tây.

“Bất cứ sự lựa chọn nào cũng bao hàm một định hướng, một giới hạn, không thể đáp ứng hết mọi quan điểm, nhất là trong lãnh vực nghệ thuật”(9)

Vương Cung Thánh Đường La Vang, thánh tượng Đức Mẹ La Vang có lẽ cũng không ngoại lệ. Nhưng hội nhập văn hóa dân tộc sẽ là điều tất yếu nếu mọi tín hữu đồng thuận theo con đường mà HĐGMVN đã vạch ra: “Sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc”.

* Tổ chức thành công rực rỡ các kỳ Đại lễ, Đại hội.

Sẽ là rất thiếu sót nếu không nói đến tâm huyết của Đức TGM Têphanô đã tổ chức thành công rực rỡ 6 kỳ Đại hội (24/1996, 25/1999, 26/2002, 27/2005, 28/2008, 29/2011 – Bế mạc Năm Thánh) và 3 kỳ Đại lễ (Khai mạc Năm Toàn Xá Đức Mẹ La Vang, tháng 1-1998; Kỷ niệm 200 năm Đức Mẹ hiện ra tại La Vang, tháng 8-1998; Kỷ niệm 100 năm Đại hội La Vang, 2001), thu hút mỗi lần hàng chục vị Giám mục, hàng trăm linh mục, hàng ngàn tu sĩ, chủng sinh và hàng trăm ngàn người lương giáo hành hương về bên Mẹ La Vang. Chưa kể việc tổ chức thành công không kém hàng chục kỳ Hành hương thường niên, kiệu Minh niên và các ngày Lễ Đức Mẹ quanh năm.

Quả đúng như lời phát biểu của Đức cha Phaolô Nguyễn Văn Hòa, Phó Chủ tịch HĐGMVN, dịp bế mạc Đại hội La Vang 25: “Đại hội rất quy mô, hiện đại, chu đáo và thành công. Một Đại hội lớn lao chưa từng thấy trong sinh hoạt của Hội Thánh Việt Nam”…

Từ sự thành công này, La Vang trở thành điểm hội ngộ của con cái Mẹ từ khắp bốn phương trời. La Vang không còn là của riêng của Tổng Giáo phận Huế nữa mà là của chung của Giáo hội Việt Nam, và cánh cửa La Vang đang mở rộng ra với Giáo hội toàn cầu.

* Mở rộng cánh cửa La Vang ra với Giáo hội toàn cầu.

Nếu Đức cha Caspar là người có công trong việc vén bức màn bí mật La Vang sau 100 năm im hơi lặng tiếng về sự kiện Đức Mẹ hiện ra tại La Vang, thì Đức TGM Têphanô là người có công mở rộng cánh cửa La Vang để giới thiệu Đức Mẹ La Vang với các vị cha chung của Giáo hội và với Giáo hội toàn cầu.

Hai vị cha chung của Giáo hội, ĐGH Gioan Phaolô II và ĐGH Bênêđictô XVI hằng quan tâm đến Giáo hội Việt Nam. Các ngài luôn nhắc đến Đức Mẹ La Vang và phó thác Giáo hội Việt Nam cho sự chuyển cầu của Đức Mẹ La Vang, Đấng phù hộ Giáo hội tại Việt Nam. Ban sứ điệp, huấn dụ và cử Đặc sứ đến chủ tọa những dịp Đại lễ tại Thánh địa La Vang. Riệng ĐTC Gioan Phaolô II còn ưu ái ban sắc lệnh chấp thuận Thánh lễ và các Bài đọc tôn kính Đức Maria sử dụng tại Trung tâm Thánh Mẫu Toàn quốc La Vang bằng tiếng La Tinh và tiếng Việt. Từ đây, trong lịch Công giáo, sách lễ và phụng vụ toàn cầu sẽ có phần dành riêng để kính Đức Mẹ La Vang.

Tất cả những ưu ái của các vị cha chung đã khiến danh tiếng Đức Mẹ La Vang vượt ranh giới Việt Nam đến với Giáo hội toàn cầu.Nhờ đó các Giáo hội địa phương trên toàn thế giới như Hoa Kỳ, Pháp, Úc, Campuchia, Lào, Trung Quốc, Thái Lan, Philippines… biết đến La Vang nhiều hơn, thường xuyên có phái đoàn đến kính viếng Đức Mẹ La Vang(10).

(Còn tiếp)

– – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – –

(1)Xuân Lý: Bài Những ơn lạ. Ns. Đức Mẹ La Vang. Số 9, tháng 5-1962, tr.57.

(2) Joseph (Annam): Bài Đức Mẹ La Văng bàu chữa. Tb. Nam Kỳ địa phận. Số 221, ngày 3-4-1913, tr.297.

(3) Ngũ phước: Phước Môn, Phước Sơn, Phước Sa, Phước Lâm ở Quảng Trị và Phước Tích ở Quảng Bình (theo Sử ký tỉnh Quảng Trị. Bản đánh máy, ngày 26-8-1963).

(4) Lm. GB. Huỳnh Tịnh Hướng (cha sở họ đạo Ngã Sáu – Chợ Lớn): Bài Đi viếng cung thánh Đức Mẹ La Vang. Tb. Nam Kỳ địa phận. Số 728, ngày 1.3.1923, tr.121.

(5) Hồi ký chép tay của linh mục Matthêô Lê Văn Thành, tại Huế ngày 5-8-1993.

(6) Xem chú thích (5).

(7) Xem thêm Phần Bốn, Mục III: Giai đoạn kiến thiết Trung tâm Thánh Mẫu Toàn quốc La Vang (1961-1963).

(8) Trúc Long (Lm. Nguyễn Phương): Bài Những ngày tháng cuối cùng của Đức TGM Ngô Đình Thục. Ns. Đất Mẹ. USA, tr.32.

(9) Đức cha Matthêô Nguyễn Văn Khôi, GM Quy Nhơn, chủ tịch Ủy ban Nghệ thuật thánh trực thuộc HĐGMVN: Lời giới thiệu. Trích trong Đồ án Thiết kế Trung tâm Hành hương Đức Mẹ La Vang. 15-8-2012.

(10) Xem thêm tiểu sử Đức TGM Têphanô Nguyễn Như Thể ở Mục III/2: Lễ truyền chức linh mục đầu tiên tại Vương Cung Thánh Đường La Vang.

=> Tài liệu dạng Word, nhấn vào đây để tải Chương 6 – Phần 1