Các bài suy niệm Chúa Nhật 2 Mùa Chay – Năm A

03/03/2023

CHÚA NHẬT 2 MÙA CHAY A

Lời Chúa: St 12,1-4a; 2Tm 1,8b-10; Mt 17,1-9

1. Người biến đổi hình dạng

(Trích trong ‘Manna’)

Suy Niệm

Trong các hình ảnh người ta vẽ Đức Giêsu, ta thường thấy Ngài có vòng hào quang trên đầu. Thật ra Con Thiên Chúa đã nên giống chúng ta. Ngài mang khuôn mặt bình thường như ta. Chính nơi khuôn mặt này mà ta thấy Thiên Chúa.

“Ai thấy Ta là thấy Cha” (Ga 14,9).

Khuôn mặt con người có thể phản ánh khuôn mặt Thiên Chúa. Nơi khuôn mặt Đức Giêsu, khuôn mặt như mọi người, ta có thể gặp thấy Thiên Chúa vô hình, Đấng ngàn trùng thánh thiện và vô cùng siêu việt.

Ba môn đệ đã quá quen với khuôn mặt Thầy Giêsu, khuôn mặt dãi dầu mưa nắng vì sứ vụ, khuôn mặt chan chứa mọi thứ tình cảm của con người. Chính vì thế họ ngây ngất hạnh phúc khi thấy khuôn mặt ấy rực sáng vinh quang. Họ muốn dựng lều để ở lại tận hưởng.

Tiếng từ đám mây phán ra như một lời giới thiệu và nhắn nhủ: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người, các ngươi hãy vâng nghe lời Người.” Thầy Giêsu vừa là Con, vừa là Người Tôi Trung (Is 42,1), vừa là vị ngôn sứ đã từng được Môsê loan báo (Đnl 18,15).

Phêrô không quên được kỷ niệm độc đáo này. Ông viết: “Chúng tôi đã được thấy tận mắt vẻ uy phong lẫm liệt của Người… Chúng tôi đã nghe thấy tiếng từ trời phán ra khi chúng tôi ở trên núi thánh với Người” (2Pr 1,16-18).

Đức Giêsu được biến hình sau khi chấp nhận cuộc khổ nạn, sau khi thắng được cơn cám dỗ của Phêrô (Mt 16,23), và kiên quyết đi trên con đường Cha muốn. Biến hình là một bừng sáng ngắn ngủi, bất ngờ, báo trước vinh quang phục sinh sắp đến.

Thân xác Đức Giêsu sẽ được vào vinh quang viên mãn khi thân xác ấy chịu lăng nhục và đóng đinh vì yêu Cha và yêu con người đến tột cùng.

Chúng ta cũng được biến hình, được bừng sáng, nếu chúng ta dám yêu, dám từ bỏ cái tôi ích kỷ, để cái tôi đích thực được lộ ra, trong ngần.

Chúng ta cần có lần lên núi cao, thanh vắng, để nhìn thấy khuôn mặt ngời sáng của Đức Giêsu, nhờ đó chúng ta dễ đón nhận khuôn mặt bình thường của Ngài khi xuống núi, và khuôn mặt khổ đau của Ngài trên thập tự.

Thế giới hôm nay không thấy Chúa biến hình sáng láng, nhưng họ có thể cảm nghiệm được phần nào khi thấy các Kitô hữu có khuôn mặt vui tươi, chan chứa niềm tin, tình thương và hy vọng.

Sám hối là đổi tâm hồn, đổi khuôn mặt để chính tôi và cả Hội Thánh mang một khuôn mặt mới. 

Gợi Ý Chia Sẻ

– Bạn nghĩ gì về khuôn mặt của bạn, đâu là những điểm sáng và điểm tối? Bạn có dám xin một người khác góp ý về những điểm bạn chưa rõ về bạn không?

– Bạn nghĩ gì về khuôn mặt giáo xứ của bạn, nhóm của bạn, gia đình của bạn? Trong mùa chay này, bạn có thể làm gì để khuôn mặt ấy ngời sáng hơn? 

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu, xin biến đổi con, xin biến đổi con từ từ qua cầu nguyện.

Mỗi lần con thấy Chúa, xin biến đổi ánh mắt con.

Mỗi lần con rước Chúa, xin biến đổi môi miệng con.

Mỗi lần con nghe lời Chúa, xin biến đổi tai con. 

Xin làm cho khuôn mặt con rạng ngời hơn sau mỗi lần gặp Chúa.

Ước chi mọi người thấy nét tươi tắn của Chúa trong nụ cười của con, thấy sự dịu dàng của Chúa trong lời nói của con. 

Thế giới hôm nay không cần những Kitô hữu có bộ mặt chán nản và thất vọng. 

Xin cho con biết nhẫn nại và can đảm cùng đi với Chúa và với tha nhân trên những nẻo đường gập ghềnh. Amen.

 

2. Con yêu dấu của Ta

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu)

Khi đến miền Xêdarê Philípphê, Đức Giêsu đã nói riêng với các môn đệ về những gì đang chờ đợi Ngài ở Giêrusalem (Mt 16,21).

Ngài sẽ phải chịu nhiều đau khổ, sẽ bị giết, rồi được trỗi dậy. Lời Ngài nói làm các ông sững sờ, và Phêrô vội vã can ngăn. Nhưng Đức Giêsu còn đi xa hơn khi nói về thân phận các môn đệ.

Nếu họ muốn đi theo Thầy, làm môn đệ của Thầy, họ cũng phải chịu chung số phận với Thầy, chấp nhận mất cả mạng sống mình vì Thầy (Mt 16,24-26).

Chắc hẳn sau cuộc nói chuyện này, bầu khí khá buồn và căng thẳng. Bóng tối của cái chết làm mọi sự trở nên nặng nề.

Sáu ngày sau, Đức Giêsu dẫn ba môn đệ thân tín lên ngọn núi cao. Đó là các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan (Mt 17,1). Chính ở đây các ông đã có một kinh nghiệm không thể nào quên. Bao năm sau, Phêrô vẫn nhớ như in điều ông đã thấy: “chúng tôi đã được chứng kiến vẻ uy phong lẫm liệt của Người.”

Và ông cũng không thể quên điều ông đã nghe: “Đây là Con của Ta, người Con Ta yêu dấu, Ta hết lòng quý mến.” Tiếng đó, chính chúng tôi đã nghe thấy từ trời phán ra, khi chúng tôi ở với Người trên núi thánh” (2 Pr 1,16-18).

Kinh nghiệm này đã xóa đi phần nào nỗi buồn phiền lo âu,  và đem lại sự ủi an nâng đỡ cho các môn đệ. Sau biến cố này, các ông hiểu Thầy mình là ai.

Chính Thiên Chúa chứng nhận Thầy là Người Con yêu dấu, dù Người Con ấy sắp chịu chết như Người Tôi Trung đau khổ (Is 42,1).

Khi thấy Thầy Giêsu chói lòa rực rỡ, nơi khuôn mặt và nơi y phục, thấy hai ông Môsê và Êlia hiện ra đàm đạo với Thầy, Phêrô quá đỗi hạnh phúc, chỉ muốn ở lại mãi trên ngọn núi này. Ông quên rằng cuộc đời Thầy Giêsu gắn liền với những ngọn núi.

Thầy đã ở trên núi để chịu quỷ cám dỗ, đã giảng Bài Giảng trên núi đầu tiên. Núi là nơi Thầy cầu nguyện và chữa bệnh cho đám đông (Mt 14,23; 15,29). Hôm nay, Thầy được biến đổi hình dạng trên ngọn núi này, Nhưng Thầy còn phải lên núi Ô-liu để làm chọn lựa cuối (Mt 26,36-46), còn phải lên núi Sọ để hiến mạng sống mình (Mt 27,33), để rồi cuối cùng hiện ra như Đấng phục sinh cho môn đệ trên núi (Mt 28,16).

Sau những giây phút ngất ngây của trải nghiệm thiêng liêng, ba môn đệ sẽ phải xuống núi cùng với Thầy, để cùng Thầy sẽ trèo lên những ngọn núi khác (Mt 17,9).

Mùa Chay là thời gian ta cùng lên núi với Thầy Giêsu. Núi cao làm lòng ta thanh thoát nhẹ nhàng. Nơi đây ta thấy được khuôn mặt bừng sáng rực rỡ của Thầy Giêsu, nghe được lời Thiên Chúa Cha nhủ bảo, và cảm được sự hiện diện của Thiên Chúa bao bọc như đám mây.

Hôm nay, Chúa Giêsu đã phục sinh vinh hiển, nhân tính của Ngài tỏa sáng, vĩnh viễn và trọn vẹn trên thiên quốc. Chính khi vâng nghe và sống lời của Chúa Giêsu mà ta được tham dự vào sự biến đổi sáng láng như Ngài.

Đời kitô hữu gồm nhiều cuộc biến hình, bắt đầu từ ngày được rửa tội. Chúng ta đã được gọi là con yêu dấu, đã được mang tấm áo trắng tinh, đã được đặt vào tay ngọn nến sáng.

– Làm sao để khuôn mặt của tôi dần dần tỏa sáng như khuôn mặt Chúa?

– Làm sao để tôi trở nên hình ảnh trung thực của Đấng đã dựng nên tôi? 

CẦU NGUYỆN

Lạy Chúa Giêsu, xin biến đổi con, Xin biến đổi con từ từ qua cầu nguyện. Mỗi lần con thấy Chúa, xin biến đổi ánh mắt con.  

– Mỗi lần con rước Chúa, xin biến đổi môi miệng con.

– Mỗi lần con nghe lời Chúa, xin biến đổi tai con.

– Xin làm cho khuôn mặt con ngời sáng hơn sau mỗi lần gặp Chúa. 

Ước chi mọi người thấy nét tươi tắn của Chúa trong nụ cười của con, thấy sự dịu dàng của Chúa, trong lời nói của con. 

Thế giới hôm nay không cần những kitô hữu có bộ mặt chán nản và thất vọng. 

Xin cho con biết nhẫn nại và can đảm cùng đi với Chúa và với tha nhân trên những nẻo đường gập ghềnh. Amen.

 

3. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt 

MẮT ĐỨC TIN, MẮT CỦA TRÁI TIM

Có nhiều điều ta nhìn mà không thấy. Ví dụ: tình yêu, tình bạn, tình mẫu tử. Ta chỉ thấy những dấu hiệu của tình yêu như: sự âu yếm, quà tặng, sự quên mình. Còn chính tình yêu thì ta không thấy. Điều chính yếu thì vô hình. Ta chỉ thấy được bằng trái tim.

Có nhiều điều ta chỉ thấy bề mặt mà không thấy bề sâu. Ví dụ như con người. Khi nhìn một người, ta chỉ thấy diện mạo, hình dáng bên ngoài. Ít khi ta thấy được tâm tư tình cảm của người khác, kể cả những người thân yêu sống kề cận bên ta. Linh hồn người ta không ai thấy bao giờ. Vì linh hồn thiêng liêng. Ta chỉ thấy được bằng đức tin.

Chúa Giêsu xuống thế làm người đã trở nên giống như một người phàm. Người che giấu thần tính vinh quang sáng láng trong một thân xác nghèo hèn, bình thường. Không ai nhận ra thần tính của Người. Ngay cả các môn đệ luôn luôn kề cận bên Người.

Hôm nay, khi Chúa tỏ mình ra các ông chới với ngỡ ngàng. Lòng các ông tràn ngập niềm vui khi nhìn thấy vinh quang của Chúa Giêsu. Thần tính vinh quang phát lộ rực sáng. Và nhân tính được tôn vinh. “Diện mạo Chúa Giêsu chói lọi như mặt trời và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng”.

Thần tính Chúa Giêsu biểu lộ chứng thực Người là Thiên Chúa ẩn mình. Thì ra manh áo đơn sơ của bác thợ mộc che giấu cả một nguồn ánh sáng chói lọi. Tấm thân dân dã nghèo hèn lại là chiếc bình chứa đựng Ngôi Hai Thiên Chúa cao sang.

Ánh sáng thần tính rọi vào nhân tính đem lại cho ta bao niềm hi vọng. Vì nhân tính của Chúa Giêsu gánh lấy cả nhân loại trên mình, nên ánh sáng thần linh cũng soi rọi cả vào chúng ta, vào thế giới tăm tối của tội lỗi, yếu hèn, vào thân xác rã rời mệt mỏi của ta.

Ánh sáng ấy cho tôi hiểu rằng, Thiên Chúa đang ẩn tàng trong vạn vật. Người ở nơi thâm sâu nhất của hữu thể tôi như thánh Augustinô đã cảm nghiệm: “Người ởi bên trong, còn tôi ở bên ngoài”.

Người ẩn tàng trong mọi quan hệ, trong mọi niềm vui, trong mọi tình bạn, trong mọi tình yêu. Bởi vì hạnh phúc là gì nếu không phải đi tìm cái cốt lõi, là nguồn mạch của hạnh phúc, là chính Thiên Chúa hằng sống.

Ánh sáng ấy ngầm nói với tôi rằng: Vinh quang Thiên Chúa như hạt giống đang vùi chôn trong lòng tất cả mọi anh em sống quanh tôi. Vinh quang ấy đang bị che khuất đàng sau những mái tranh thô sơ, những thân thể gầy guộc, những ánh mắt mệt mỏi lờ đờ.

Nhận thức ấy thôi thúc tôi trở về tìm Chúa trong đáy lòng mình. Càng bóc đi lớp vỏ tội lỗi, dung nhan Thiên Chúa càng hiện rõ. Càng chìm sâu vào nội tâm thinh lặng, tôi càng tới gần Chúa.

Nhận thức ấy giúp tôi kính trọng anh em vì anh em là những cung thánh đền thờ nơi Thiên Chúa ngự trị, là những vườn ươm hạt mầm thần linh, là những bình sành chứa đựng kho tàng cao quý.

Như thế, sống Mùa Chay là thực hiện một hành trình nọi tâm: trở về đáy lòng mình để gặp được Chúa.

Ăn chay là đến với anh em bằng thái độ kính trọng, là bảo vệ hạt mầm thần linh đang đâm chồi nảy lộc trong các tâm hồn.

Chương trình hành động trong Mùa Chay là tiếp tay đem ánh sáng thần linh của Chúa Kitô soi chiếu vào những mảnh đời tăm tối, những thân phận hẩm hiu. Sao cho dung nhan nhân loại chói ngời ánh sáng nhân phẩm, ánh sáng văn hoá, ánh sáng lương tâm và ánh sáng thần linh.

Như thế ta đang công tác vào việc biến hình thế giới. Như thế ta đang bước theo chân Chúa Kitô, đưa nhân loại vào hành trình phục sinh. 

Lạy Chúa Kitô, xin ban cho con đức tin mạnh mẽ để con nhìn thấy Chúa trong anh em. Xin ban cho con trái tim bén nhạy để con nhìn thấy những thực tại vô hình. Amen.

 

4. Đấng đang biến hình giữa chúng ta

(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)

Chúa nhật trước, Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay, Phụng vụ dẫn chúng ta vào sa mạc để chứng kiến Chúa Giêsu chịu cám dỗ. Chúa nhật hôm nay, chúng ta được mời gọi cùng lên núi để chiêm ngưỡng Chúa Giêsu biến hình. Hai sự kiện diễn tả hai khía cạnh cuộc đời Đức Giêsu, Ngôi Lời nhập thể: trong sa mạc, Chúa thể hiện nhân tính của Người: yếu đuối, mỏng giòn, đói khát; trên núi cao, Chúa tỏ ra thiên tính của Người: cao cả, sáng láng, thánh thiện. Hai nhân vật quan trọng của Cựu ước cũng xuất hiện để đàm đạo với Chúa, kèm theo lời chứng của Chúa Cha: “Đây là Con yêu dấu của Ta. Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy nghe lời Người”.

Khi tường thuật sự kiện Chúa biến hình trên núi, thánh Matthêu mở đầu bằng chi tiết “sáu ngày sau”. Vậy, sáu ngày trước đó là sự kiện gì? Đó là lời loan báo cuộc thương khó lần thứ nhất. Đối với các môn đệ, việc Đức Giêsu chịu thương khó là điều không thể chấp nhận được. Vì vậy, Phêrô đã can gián và thậm chí còn trách Người. Sự can gián của Phêrô bị Chúa quở trách là Satan (x. Mt 16 21- 23). Cùng với việc loan báo cuộc thương khó, Đức Giêsu cũng đưa ra những điều kiện cần phải có để trở nên môn đệ của Người, đó là vác thập giá theo Chúa. Như thế, việc Chúa Giêsu biến hình trên núi nhằm mục đích khai trí các môn đệ, để các ông hiểu hơn về thân phận và sứ mạng của Người. Qua sự kiện này, Chúa muốn khẳng định với các ông: dù Người có phải trải qua cuộc thương khó, nhưng Người sẽ chiến thắng sự chết và sẽ trỗi dậy. Ba môn đệ là Phêrô, Gioan và Giacôbê ngỡ ngàng trước việc Chúa Giêsu thay hình đổi dạng, vì lúc đó, các ông được thấy Chúa với một hình dạng hoàn toàn khác so với từ trước tới nay. Sự kiện này làm các ông bàng hoàng và sợ hãi.

Hai nhân vật của Cựu ước hiện ra và đàm đạo với Chúa Giêsu, đó là Môisen và Êlia. Môisen là người dẫn đưa Dân tuyển chọn ra khỏi Ai Cập. Ông cũng là người được Chúa trao bia Giao ước và được người Do Thái tôn kính như tác giả của sách Luật. Êlia là vị ngôn sứ đã luôn “đứng hầu cận trước nhan Chúa hằng sống (x. 1 V 17). Trên núi Carmel, ông đã giúp dân Do Thái từ bỏ việc tôn thờ ngẫu tượng để chỉ một lòng tin vào Thiên Chúa. Ông là biểu tượng cho những người được Thần Khí của Thiên Chúa hướng dẫn và là những người phát ngôn nhân danh Thần Khí. Giống như Chúa Giêsu, cả hai vị này đã ăn chay 40 đêm ngày (x. Xh 24,18; 1 V 19,8). Cả hai vị đều được diễm phúc nhìn thấy Thiên Chúa (x. Xh 33,18-23; 1 V 19,12-13). Qua sự kiện biến hình, Môisen và Êlia đàm đạo với Chúa Giêsu. Họ được chiêm ngắm Con Thiên Chúa, Đấng liên kết hai nhân vật này nơi nhân tính của Người, tức là Người vừa là người ban lề luật, vừa là ngôn sứ. Thánh Máthêu trình bày Chúa Giêsu như Môisen mới. Một số bản văn của Tân ước cũng trình bày Chúa Giêsu như Êlia mới. Người đã liên kết truyền thống lề luật và truyền thống ngôn sứ nơi chính bản thân Người. Bởi lẽ hai truyền thống “lề luật” và “ngôn sứ” là tóm lược toàn bộ Kinh Thánh Cựu ước.

Cùng với chứng từ của Môisen và Êlia, còn có chứng từ khác quan trọng hơn nhiều, đó là lời phán từ trời: “Đây là Con yêu dấu của Ta. Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy nghe lời Người”. Đức tin Kitô giáo khẳng định: đó là lời của Chúa Cha. Qua lời này, Chúa Cha nói lên tình thương mến của Ngài với Chúa Con, đồng thời nhắc bảo chúng ta: hãy nghe lời Người. Theo Thánh Gioan Thánh giá, Chúa Cha chỉ nói một lời và một lần nơi Chúa Con. Chúa Con là Lời của Chúa Cha. Nơi Chúa Con, có đầy đủ tất cả những gì Chúa Cha muốn ngỏ với nhân loại.  Vì thế, “hãy nghe lời Người” tức là đón nhận những gì Chúa Cha muốn mạc khải qua Chúa Con, nhờ đó, loài người được cứu thoát. “Hãy nghe lời Người”, đó cũng là đón nhận và thực hành giáo huấn của Đức Giêsu.

Phụng vụ hôm nay còn cho chúng ta nghe tường thuật về ơn gọi của Áp-ram, tổ phụ của dân Do Thái. Một lời gọi đơn sơ: “hãy đi đến đất Ta sẽ chỉ cho”. Áp-ram đã vâng lời, đã lên đường. Ông không tính toán, không vặn hỏi, nhưng hoàn toàn phó thác. Ông Áp-ram đã nghe lời Chúa và đã thực thi lời Ngài. Ông đã trở nên mẫu mực cho tất cả những kẻ tin ở mọi thời đại (Bài đọc I).

Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Qua mầu nhiệm Nhập thể, Người trở nên hoàn toàn giống chúng ta – ngoại trừ tội lỗi. Qua mầu nhiệm nhập thể, Người “biến hình” để trở nên giống như người trần thế. Trên núi cao, khi Chúa “biến hình” lại là lúc Chúa trở về tình trạng thiêng thánh nguyên thuỷ. Ngày hôm nay, Chúa Giêsu đang “biến hình” giữa chúng ta. Quả vậy, chúng ta đâu có nhìn thấy Người bằng con mắt thể lý. Chúa hiện diện qua Lời Chúa, qua cộng đoàn cầu nguyện, qua người nghèo khổ và nhất là trong Bí tích Thánh Thể. Chúa đang biến hình trong đời sống của chúng ta. Mùa Chay là thời điểm giúp chúng ta nhận ra Chúa Giêsu đang hiện diện, để chúng ta gặp gỡ Người. Thánh Phaolô nhắc chúng ta hãy nhận ra Đức Giêsu là Con yêu dấu của Chúa Cha. Người là Đấng tiêu diệt thần chết và đang hiện diện giữa chúng ta (Bài đọc II).

Sau khi chứng kiến Chúa Giêsu biến hình, ba môn đệ xuống núi, có Chúa cùng đi. Các ông trở về với đời thường, với tâm trạng được biến đổi và với quan niệm mới mẻ về Đấng Thiên Sai. Sự kiện Chúa biến hình trên núi cũng nhắc chúng ta cần phải biến đổi đời sống, biến đổi hình ảnh của Chúa trong đời và biến đổi nhận định về tha nhân. Hãy nghe lại lời của Chúa Cha: “Đây là Con yêu dấu của Ta. Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy nghe lời Người”. Lời đầu tiên Chúa Giêsu nói với các môn đệ liền tiếp sau đó là: “Chỗi dậy đi, đừng sợ!”. Hôm nay Chúa vẫn đang nói với chúng ta những điều ấy. Đừng sợ trước thân phận yếu hèn và tội lỗi, hãy trở về với Chúa vì Chúa bao dung nhân từ. Đừng sợ khi giúp đỡ anh chị em bất hạnh cô thế, cô thân, vì Chúa sẽ thưởng cho lòng quảng đại rộng rãi của chúng ta. Đừng sợ trước những bất ổn của cuộc ống do bạo lực, cạnh tranh và chia rẽ, vì Chúa hiện diện giữa cuộc đời. Người là Đấng đang biến hình giữa chúng ta.

 

5. Vững bước trong Đức Tin – Dã Quỳ

Trong cuộc sống thường ngày, chắc hẳn chúng ta đã gặp những người mà dường như họ được sở hữu một nụ cười rất tươi. Nhìn vào khuôn mặt họ, ta thấy như chiếu lên ánh sáng từ bên trong tâm hồn. Khi tiếp xúc với người khác, họ mang đến một niềm tin tưởng và bình an. Đó là những biểu hiện tự nhiên hay có thể được phát xuất từ niềm vui và sự an bình nội tâm của họ. Thế nhưng, với mỗi người Kitô hữu, chúng ta cần nhìn lại chính mình. Khi mang danh Chúa Kitô, ta đã phản ánh được khuôn mặt của Đấng là nguồn Niềm Vui, Ánh Sáng, Bình An và Tình Yêu trên chính khuôn mặt của ta hay chưa? Và đó cũng là phản chiếu đức tin của ta vào Chúa Kitô.

Mỗi người chúng ta nhiều lúc trong cuộc sống dường như quá đau khổ, quá căng thẳng và cảm thấy như không thể thoát ra khỏi đó được hoặc không thể nắm giữ được tình thế! Chúng ta như đi trong một đường hầm tăm tối, không ổn định vì những biến cố như sụp đổ hôn nhân, mất công việc, tai nạn hay một căn bệnh nan y… Hành trình của ta như đi vào ngõ cụt. Bước đi của ta bị nặng nề vì buồn khổ, giận dữ…!Thế nhưng, ta có thể xác tín rằng không có một cuộc sống nào bị xáo trộn và tan nát nếu như cuộc sống ấy được đụng chạm thực sự vào Chúa Kitô và được biến đổi nhờ Chúa Kitô.

Trong Tin Mừng hôm nay, các môn đệ của Chúa Giêsu được chuẩn bị để sống một kinh nghiệm như thế. Chúa Giêsu sắp đi lên Giêrusalem, ở đó Người sẽ chịu đau khổ và bị giết chết. Đây sẽ là một thử thách lớn cho những ai ở xung quanh Người. Một chút khởi đầu cho biến cố này: Phêrô, Giacôbê và Gioan đi cùng và ở trên núi với Thầy. Ở đó, họ được nhìn thấy vinh quang của Chúa Giêsu. Người tỏa chiếu vẻ rực rỡ nơi thân xác hữu hình mà Người đã mặc lấy như con người. Khuôn mặt Người sáng như mặt trời và y phục trắng như tuyết. Người đã mạc khải cho môn đệ sự vinh quang và cao cả của Tước Vị mà vì sự tự hạ của Người đã ẩn giấu. Ân huệ này sẽ làm cho môn đệ vững vàng hơn trên đường Thánh Giá của Người trong những ngày sắp tới.

Hôm nay, chúng ta hãy dành thời gian để sống cách cá nhân thân tình với Chúa. Chúa Giêsu, Đấng sắp trải qua đau khổ thử thách vào ngày thứ Sáu Thánh, được mang y phục vinh quang Phục Sinh và là Đấng sẽ thay đổi hình dạng thế giới. Chúa cho chúng ta thấy chính mình trong tương lai. Chúng ta, những chi thể của Chúa cũng được hy vọng chia sẻ những vinh dự mà Người đã tỏ hiện vinh quang cho các môn đệ như lời Thánh Phaolô khẳng định “Tôi nghĩ rằng: những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta.”(Rm 8,18)

Giữa những thử thách trong cuộc sống, chúng ta có nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa không? Người hiện hữu trong những tia sáng nhỏ, cũng như trong những lúc tối tăm hơn của cuộc sống. Những biến hình nho nhỏ này nói với chúng ta rằng Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Cho dù những thử thách có thể làm cho chúng ta đau đớn, nhưng với Chúa và trong Chúa, ta sẽ sống và sống sung mãn trong vinh quang với Người “Anh em đã chết và sự sống mới của anh em hiện đang được tiềm tàng với Đức Kitô nơi Thiên Chúa. Khi Đức Kitô, nguồn sống mới của chúng ta xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện với Người và cùng Người hưởng phúc vinh quang.” (Cl 3,3-4)

Vậy hãy đặt ta vào trong ánh sáng của Chúa Giêsu, bởi vì từ nay chúng ta có một sự đổi mới, một hơi thở thứ hai trong cuộc sống gia đình, nghề nghiệp và cộng đoàn của ta. Để rồi ta có thể hăng hái thưa với Chúa như thánh Phêrô: “Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là hay!”(Mt 17,4) Dẫu Thập giá vẫn có đó, nhưng Ánh sáng Tình yêu và Xót thương của Chúa sẽ trợ giúp chúng ta. Ước gì niềm hy vọng này mang lại trong chúng ta ngay lập tức sự can đảm, khởi đầu một sự thay đổi trong đời sống, dám bước ra khỏi những mảng tối cuộc đời và vững bước trong đức tin.

“Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!” Lắng nghe Lời Con Yêu Dấu, mở lòng đón nhận lời dạy dỗ của Người trong Tin Mừng và dấn thân thực hành trong cuộc sống sẽ làm cho bước đi của ta vững vàng, khuôn mặt ta rạng rỡ. Lời Chúa là ánh sáng và chúng ta được mời gọi trở nên ánh sáng của Chúa giữa trần gian. Xin cho trái tim nhân hậu, tình yêu thương, lòng bác ái và nhiệt tâm của chúng ta là những phản chiếu ánh sáng của Chúa cho mọi người ta gặp gỡ, nhất là những người đau khổ, tội lỗi và bị bỏ rơi để nhờ đó họ được nâng đỡ, được ơn biến đổi mà trở về với Chúa trong Mùa Chay Thánh này. Giáo Hội, mỗi gia đình Kitô hữu và từng cá nhân hãy mang sứ mệnh là khuôn mặt của Lòng Thương Xót Chúa. Nguyện xin Chúa thổi vào từng lời nói và những hành động để những gì chúng ta biểu lộ đều mang lại sự sống sung mãn của ơn Tha Thứ, của Hy Vọng, của Niềm Vui và Đức Tin.

Lạy Chúa Giêsu, chúng con đang bước đi theo Chúa. Xin sự hiện diện của tình yêu, ánh sáng và bình an của Chúa giữ gìn chúng con trong những lúc vui cũng như những khi thử thách, giúp chúng con luôn hy vọng và tiến bước trong niềm tin. Amen.

 

6. Biến hình sáng láng – ViKiNi

(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. ViKiNi)

Đức Giêsu biến hình trên núi, truyền thống tin đó là núi Tabor, cách Nazaret độ 9 cây số, nằm trên biên giới ba chi tộc: Issachar, Zabulon và Nephtali. Họ coi Tabor là núi thánh và thường lên đó để tế thần.

Đức Giêsu dẫn các môn đệ lên đó không phải để tế thần hay cắm trại như các hướng đạo sinh. Người lên đó để cho các môn đệ thấy rõ chỉ có Người là Thiên Chúa tối cao, không còn thần linh nào khác.

Trong cảnh trời cao lồng lộng, mây xanh thăm thẳm, Người trầm tư cầu nguyện với Chúa Cha trong tình thân mật thắm thiết. Bỗng toàn thân Người sáng chói rực rỡ, các môn đệ vô cùng kinh ngạc: Họ không thể ngờ được rằng hằng ngày Thầy đi với mình, sống với mình, ăn uống thanh đạm, quần áo thô sơ như mình, lao động cực khổ như mình, sao bây giờ Thầy sáng láng lạ lùng như thế. Hơn nữa, cả Môsê và Elia đến hầu chuyện Thầy. Môsê đã sống cách các ông hơn 1.200 năm, một bậc vĩ nhân của Thiên Chúa đã lãnh đạo giải phóng dân Chúa thoát ách nô lệ Ai cập suốt hơn 500 năm để về đất Hứa. Elia, một đại tiên tri sống trước Phêrô hơn 800 năm, đã giải phóng dân tộc khỏi ách tà thần Baal. Nếu bây giờ dân chúng được thấy Môsê như các ông, họ sẽ ngạc nhiên sung gướng vô cùng, vì các trang sử vẻ vang nhất của dân tộc đã tôn vinh các ngài là đại ân nhân của họ, là đại thánh của Thiên Chúa, là hình bóng Đấng Cứu thế. Đang triền miên say đắm trong cảnh thiên đường đó, tự nhiên Phêrô thốt lên như đứa trẻ: “Lậy Thầy chúng con ơ đây sướng lắm, con xin làm ba lều, Thầy một lều, Môsê một, Elia một”. Mơ ước của Phêrô là ước mơ của mọi người trần mắt thịt, làm sao dám cả gan đòi sớm hưởng thiên đường? Một tiếng nói từ trời đáp lại: “Đây là Con Ta yêu dấu, rất đẹp lòng Ta, các ngươi hãy vâng lời Người”. Nghe thế các ông đã lăn ra chết ngất. Xác phàm thấp hèn yếu đuối chưa có thể chịu đựng nổi hào quang rực rỡ nơi thiên tính của Chúa Giêsu. Họ phải thay da đổi thịt, phải chết đi, mặc lấy con người mới, họ mới xứng đáng hưởng ánh sáng huy hoàng của Đức Giêsu sẽ làm cho họ biến hình rực rỡ mãi mãi.

Muốn đổi mới chỉ có cách duy nhất là “Hãy nghe lời Người”. Abraham dã nghe lời Người bằng mọi giá để biến hình từ kẻ dân ngoại đã trở thành tổ phụ dân Chúa. Môsê đã nghe lời Người, dù là kẻ chạy trốn Pharaon, đã biến hình thành kẻ lãnh đạo, trở lại đòi Pharaon phải thả dân ra cho đi về quê hương. Elia đã nghe lời Người trở thành tiên tri, giải thoát dân khỏi bàn tay man rợ của nữ hoàng thờ thần Baal. Đến lượt Phêrô, Giacôbê, Gioan dù là dân chài, đã biết nghe lời Người, được biến hình thành những tông đồ vĩ đại. Phaolô, kẻ bắt đạo, đã biết nghe lời Người, đã biến hình thành tông đồ cho muôn dân.

Những con người xác phàm đó, đã được biến hình rực rỡ muôn thuở, đang kêu gọi chúng ta, với bất cứ giá nào, dù phải gặp gian nan đau khổ, hãy nghe lời Người, chúng ta mới được biến hình trong vinh quang đời đời.

Lạy Chúa, “ở đây thì sướng lắm”, nhưng muốn được hạnh phúc muôn thuở đó tiên vàn Con Người phải qua đau khổ thì mới tới vinh quang”. Đó là luật ngàn đời cho bất cứ ai muốn được vinh quang chân chính.

 

7. Biến hình

Chúa Giêsu vừa loan báo cho các môn đệ biết Ngài sẽ lên Giêrusalem. Và tại đây, Ngài sẽ bị giết chết. Cái tin đột ngột này chắc hẳn đã làm cho các ông lo lắng sợ hãi. Chính vì thế Ngài cảm thấy cần phải nâng đỡ tinh thần các ông bằng cách cho họ được nhìn thấy vinh quang của Ngài. Bởi đó, tám ngày sau, Ngài đã đưa ba môn đệ thân tín nhất lên núi cao và biến hình trước mặt các ông. Mặt Ngài chiếu sáng như mặt trời và áo Ngài trở nên trắng như ánh sáng. Lại có Maisen, Elia hiện ra đàm đạo với Ngài.

Đây là một cuộc hiển linh, tương tự như cuộc hiển linh trên núi Sinai. Ở đó, Thiên Chúa đã tỏ vinh quang Ngài cho Maisen và Elia. Hai vị, vào những thời điểm khác nhau, đã được thấy và nghe Chúa, hôm nay cũng hiện diện bên cạnh Chúa. Các ông ngã sấp xuống và rất sợ hãi. Rồi từ đám mây có tiếng phán. Tiếng ấy chúng ta đã từng được nghe bên bờ sông Giođan khi Chúa chịu phép rửa: Đây là Con Ta yêu dấu đẹp lòng Ta mọi đàng. Các ông ngây ngất vì chưa bao giờ được chứng kiến một cảnh tượng như thế. Phêrô lên tiếng nói, nhưng không hiểu là mình đã nói những gì.

Sở dĩ Giáo Hội đặt bài Phúc Âm về sự biến hình vào mùa Chay là để chúng ta thêm tin tưởng vào Chúa, cũng như để chúng ta có những giây phút nghỉ ngơi trước khi xuống núi, trở về với cuộc sống bình thản trên các nẻo đường phẳng lặng hay phủ đầy sóng gió dẫn tới đỉnh Canvê. Chúng ta cần được Chúa đến gần và đụng tới, như đã đến gần và đụng tới các tông đồ, để chúng ta thức tỉnh, để chúng ta biết thánh hoá những đau khổ trên đường đời.

Con đường thương khó của Chúa khởi đầu khi Người biến hình và xuống núi. Rồi đây, Người cũng sẽ biến hình, không còn hình tượng người ta nữa, để dạy cho chúng ta biết phải đi qua con đường thập giá mới đến vinh quang khải hoàn và sống lại.

Mục sư Cullman, là một nhà thần học Tin Lành, đã nói về cuộc khủng hoảng sau Công đồng Vatican II như sau: Cuộc khủng hoảng hiện nay không phải chỉ xảy ra trong Giáo Hội Công giáo. Chính Giáo Hội Tin Lành chúng tôi cũng không thoát khỏi. Một trong những lý do đó là Kitô hữu đã không chấp nhận sự điên dại của thập giá như thánh Phaolô đã dạy. Họ muốn đua đòi khôn ngoan theo kiểu thế gian. Họ tránh né hy sinh, chạy trốn khó nghèo. Họ tìm lời khen, họ muốn được tự do theo ý riêng của họ. Họ muốn bước theo Chúa khi Ngài biến hình trên đỉnh Tabôrê, nhưng dừng lại bên ngoài vườn Cây Dầu, và nhất định không chịu trèo lên đỉnh Canvê.

 

8. Biến đổi khi vượt qua chính mình

(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)

Chúa đã gọi Abram bỏ quê cha đất tổ để đi đến nơi Chúa sẽ chỉ cho. Abram đã thực hiện theo điều Chúa dạy! Phải đặt mình trong hoàn cảnh thời đó, khi con người còn sống theo luật rừng “mạnh được yếu thua” chứ chưa có luật pháp bảo vệ “ai đúng là người thắng”, thì việc bỏ quê cha đất tổ, hàm chứa mình không còn được bảo vệ bởi một tập thể nữa, trở thành đối tượng hay miếng mồi cho bao người ham của. Nếu vậy, Abram thật liều lĩnh và mạo hiểm khi vâng lời Thiên Chúa để đi đến một nơi xa lạ. Thiên Chúa là nhất, và Abram đã vâng phục Thiên Chúa, ra đi theo tiếng gọi của Ngài.

Đức Yêsu đã biến hình, dung mạo Ngài ra khác, và Phêrô bị cuốn hút bởi điều này đến độ không muốn xuống núi nữa. Chúa biến hình chỉ trong giây lát, nhưng qua đó người ta biết:

– Ngài thế nào, chúng ta cũng sẽ như vậy (1Ga.3, 2); nếu chúng ta quảng đại đáp trả lời mời của Chúa như Abram đã đáp trả, chúng ta cũng sẽ được biến đổi, và chúng ta cũng sẽ nên giống Chúa Yêsu.

– Những gì chúng ta biết về cuộc sống mai hậu, không được làm chúng ta quên cuộc sống tại thế này. Chúng ta phải trở về với đời thường, để xây dựng thế giới này, để làm thế giới này đẹp hơn. Khi chúng ta làm như vậy, là chúng ta đang chuẩn bị hành trang để vào Nước Trời, quê thật của chúng ta.

– Chúng ta được mời gọi trở nên con Thiên Chúa. Để trở nên con Thiên Chúa, chúng ta cũng được mời gọi như Abram, hoàn toàn tín thác nơi Thiên Chúa, sẵn sàng phó thác đời mình trong tay quan phòng đầy thương yêu của Ngài. Ơn gọi của chúng ta là nên giống Đức Yêsu. Thân xác mỏng dòn của chúng ta, cũng như thân xác bị đòn vọt và mong manh của Đức Yêsu khi Ngài chịu khổ hình, sẽ được biến đổi như hôm nay chúng ta thấy Đức Yêsu.

Vượt qua chính mình, vác thập giá mình mà theo Đức Yêsu, trở nên giống Đức Yêsu mỗi ngày mỗi hơn. Đó là ơn gọi của chúng ta. Xin cho chúng ta được quảng đại để đáp trả tiếng Chúa trong cuộc sống hằng ngày.

 

9. Tuyệt vời qua từng hành vi

(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)

Thiên Chúa luôn mời gọi mỗi người trở nên người tuyệt vời. Chính những hành vi tuyệt vời làm con người trở nên tuyệt vời. Những hành vi tuyệt vời vẫn luôn có thể xảy ra trong đời mỗi người, và giá trị con người được hình thành bởi những hành vi này. 

  1. Ra đi trong niềm tin phó thác

Thiên Chúa đã mời gọi Abram bỏ gia đình họ hàng để đi tới miền đất Ngài sẽ chỉ cho. Trong một xã hội chưa có luật lệ, người ta chỉ tựa vào sức mạnh, thì con người chỉ được bảo vệ nhờ vào những người thân quen họ hàng chống lại những kẻ bất lương. Việc cô thân cô thế đi vào vùng đất xa lạ với gia tài của cải và vợ đẹp, là một hành vi vô cùng nguy hiểm, vì như vậy rất dễ bị những kẻ bất lương giết hại nhằm chiếm đoạt của cải và vợ con. Ra đi như vậy, là một hành vi liều lĩnh và dại dột.

Nếu không có niềm tin phó thác tuyệt đối vào Thiên Chúa, Abram không thể ra đi như vậy. Thiên Chúa mời gọi Abram kèm với lời hứa. Thiên Chúa hứa sẽ cho Abram thành cha một dân vĩ đại; Ngài sẽ chúc phúc cho Abram; sẽ chúc phúc cho ai chúc phúc cho Abram; đến độ mọi dân tộc dưới trần sẽ nhờ Abram mà được chúc phúc. Tuy vậy, liệu những lời hứa này có đủ bảo đảm để ra đi như vậy không? Phần lớn người Việt Nam đều biết chuyện thằng bờm và phú ông; phú ông là người giầu, khi thằng bờm nghèo xác nghèo xơ, chỉ có cái “quạt mo” (cái quạt làm bằng mo cau); xảy ra một hôm trời nóng, phú ông và thằng bờm gặp nhau; phú ông không có gì để che nắng, vì bị cái nóng nung nấu, phú ông muốn cái quạt mo của thằng bờm; phú ông đề nghị đổi cái quạt mo thằng bờm đang có với “ba bò chín trâu”, với “một ao cá mè”, “một bè gỗ lim”; thằng bờm lắc đầu không chịu, vì nó thấy điều đó quá xa vời, làm sao thành hiện thực; nhưng khi phú ông đề nghị đổi “nắm xôi” ông đang có để lấy cái quạt mo, thì bờm cười (đồng ý). Thiên Chúa hứa với Abram những điều tốt đẹp, những điều tuyệt vời, nhưng liệu có tin được không? Làm sao có thể an toàn trong một hoàn cảnh vô cùng nguy hiểm như vậy? Có gì chắc để trở thành một dân tộc vĩ đại? Có gì chắc mình sẽ là một mối chúc lành? chắc gì có đất! Ai trong chúng ta cũng biết, sau này khi vợ của Abraham là Sara chết, Abraham vẫn chưa có đất nên phải mua đất để chôn vợ; Isaac cũng chôn cha Abraham cùng nơi mà cha ông đã mua đất để chôn mẹ ông.

Abram đã tin vào Thiên Chúa và ra đi. Thái độ tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh và điều kiện, làm Abraham trở thành tuyệt vời, trở thành cha những người tin vào Thiên Chúa. Hành vi tin vào Thiên Chúa, không phải là hành vi duy nhất, một lần trong đời của Abraham. Thiên Chúa luôn luôn đòi hỏi, và Abraham luôn luôn đáp trả lời mời gọi phó thác tất cả cho Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh; chẳng hạn khi có Isaac, Thiên Chúa lại muốn Abraham hiến tế Isaac cho Thiên Chúa, và Abraham cũng sẵn sàng vâng phục. Thái độ luôn tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, làm Abraham luôn luôn tuyệt vời. 

  1. Được mời gọi nên thánh

Mỗi người được mời gọi nên thánh. Nên thánh, không phải là điều dành riêng cho một số người, nhưng là lời mời cho tất cả mọi người. Mỗi Kitô hữu đều là thánh. Thánh Phaolô trong các thư, Ngài gọi các Kitô hữu là thánh. Thánh, là người thuộc về Thiên Chúa; và mỗi người khi được rửa tội, là đã thuộc về Thiên Chúa, đã là thánh.

Sống theo lời mời gọi yêu thương, là nên thánh. Vì yêu Chúa yêu người, nên tôi tha thứ cho người xúc phạm tới tôi. Vì yêu thương, nên tôi lắng nghe những khốn khổ của người khác. Vì yêu thương, nên tôi giúp đỡ những người cần tôi cách đặc biệt. Vì yêu thương, nên tôi cố gắng làm cuộc đời đẹp hơn bằng nụ cười, bằng lời êm dịu dàng, bằng lời chào hỏi, v.v…

Một vị thánh, là người làm cho người khác hạnh phúc khi sống chung với họ, được gặp gỡ họ, được tiếp xúc với họ. Hãy coi hình ảnh Đức Maria: mẹ luôn là người giúp đỡ những người khốn cùng kêu đến mẹ: Mẹ Hằng Cứu Giúp. Một người là thánh, sẽ làm cho cuộc đời của những người sống chung quanh tươi hơn, vui hơn, dễ sống hơn, đẹp hơn. Một đời sống thánh, là đời sống toả hương và là lời rao giảng về Thiên Chúa tình yêu một cách tuyệt vời. 

  1. Giây phút biến hình là dấu chỉ thực trạng tuyệt vời tương lai

Đức Yêsu, cả cuộc đời lam lũ, chỉ có giây phút biến hình là huy hoàng. Ngài sinh trong chuồng chiên cừu, sống tại làng quê Nazaret, không được học hành như nhiều người, làm nghề thợ mộc. Khi đi rao giảng, cũng sống nay đây mai đó, rong ruổi từ nơi này tới nơi khác, màn trời chiếu đất, bữa đói bữa no. Khi chết, phải chết trần trụi trên thập giá, phải chôn nhờ vào ngôi mộ của người khác.

Xét về khía cạnh trần thế, Đức Yêsu quá lam lũ và vất vả. Tuy vậy, Đức Yêsu đã sống tự do với tất cả, để chỉ tuỳ thuộc vào Thiên Chúa. Giây phút biến hình trên núi mà Tin Mừng hôm nay cho chúng ta nghe, chỉ là biểu hiện của bao giây phút sống tuyệt vời của Đức Yêsu trong đời sống của Ngài.

Ơn gọi Kitô hữu, là sống và đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa trong cuộc sống hằng ngày, như Abraham đã sống, đã nghe và đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa trong cuộc sống thường ngày của ông. Sống ơn gọi Kitô hữu, là nhiều khi phải chấp nhận thua lỗ và dại dột theo cái nhìn nhân loại. Sống ơn gọi Kitô hữu, là sống như Đức Yêsu, chấp nhận cuộc sống như hoàn cảnh xảy tới cho mình, không oán trách Thiên Chúa và con người; và không chỉ thế, vẫn vươn lên và sống yêu thương từng ngày từng giây phút. Kitô hữu cần có đức tin của Abraham, để chấp nhận và sống thực tại hằng ngày của mình, như Đức Yêsu đã chấp nhận và sống trước. Sống như vậy, mỗi người được biến hình trong từng chọn lựa và hành động của mình. Yêu thương là hành vi tuyệt vời. 

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

1. Xin bạn liệt kê những giây phút “huy hoàng” trong cuộc đời của Đức Yêsu? Nếu cộng tất cả những thời gian này, nó kéo dài bao nhiêu giờ? Theo bạn, nhiều hay ít?

2. Cuộc đời bạn và cuộc đời Đức Yêsu, nếu được chọn, bạn chọn cuộc đời nào? Tại sao?

3. Yêu thương, dễ hay khó? Tại sao?

 

10. Những sự việc bình thường

“Này là con Ta yêu dấu, hãy nghe lời Ngài.”

Vào lúc Chúa Giêsu chịu phép rửa, Ngài đã được giới thiệu như là Người Con chí ái và là Đấng cứu độ của nhân loại. Tại nơi chịu phép rửa, Chúa Giêsu đã lãnh lấy chức vụ người Tôi Tớ đau khổ, nhưng lại được Thánh Thần hướng dẫn. Còn trong cuộc biến hình hôm nay, Ngài đã được giới thiệu trong tư cách một vị tiên tri mà mọi người phải vâng nghe.

Tiếng bởi trời đã tỏ cho các tông đồ và qua các tông đồ, cho mỗi người chúng ta nhận biết về Đức Kitô. Thế nhưng sau những giây phút bàng hoàng và sợ hãi, các tông đồ chỉ còn thấy Chúa Giêsu trở về với vóc dáng cua một con người bình thường, quang cảnh huy hoàng với Môsê và Elia đã biến mất. Đấng mà các ông vừa mới được chiêm ngưỡng sự vinh quang, Đấng mà các ông vừa mới được kêu gọi vâng phục chính là Chúa Giêsu nhưng trong điều kiện làm người của Ngài.

Chúng ta rất dễ bị lôi cuốn, hấp dẫn bởi những cái ngoạn mục, những cái vượt ra ngoài ranh giới thông thường. Trong Tin Mừng chúng ta thấy ông Phêrô, sau khi được thấy mặt Thầy chiếu sáng như mặt trời và áo Thầy trở nên trắng như ánh sáng, rồi Thầy lại còn đàm đạo cùng Môsê và Elia, đã vội vàng đề nghị: Chúng con được ở đây thì tốt lắm, nếu Thầy muốn, chúng con xin làm ba lều, một thầy Thầy, một cho Môsê và một cho Elia.

Nhưng hiện tại vẫn phải là con đường xuống núi, tiếp tục tiến về Giêrusalem, đối diện với cái chết. Hiện tại chưa phải là lúc dừng lại trong vinh quang. Cuộc sống vẫn phải là cuộc hành trình của niềm tin, của sự gắn bó với Chúa Giêsu, dù rằng Ngài đang tiến đến thập giá. Vinh quang chỉ có thể đến ngang qua đau khổ.

Với sự kiện Chúa biến hình trên núi, các tông đồ như được thêm sức mạnh để cùng đi với Ngài trong đoạn đường còn lại. Nhiều người trong chúng ta rất dễ dàng đón nhận những lời nói của ông thánh này bà thánh nọ phán dạy qua những lần hiện ra ở chỗ này, chỗ khác, như những lời nói đáng tin cậy nhất với những việc lạ lùng kèm theo. Thế nhưng trong chương trình của Chúa, Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta, Ngài đã giảng dạy bằng những hình ảnh hết sức bình thường và quen thuộc, chẳng hạn hình ảnh chim trời, cây vả, mẻ lưới, tiệc cưới… Chính Ngài cũng đã sống những điều ngài giảng dạy một cách thật bình thường, cho dù Ngài đủ khả năng lôi cuốn dân chúng bằng những việc lạ lùng. Chẳng hạn như sau khi làm phép lạ cho bánh hoá nhiều, thì dân chúng muốn tôn Ngài lên làm vua, nhưng Ngài đã dứt khoát từ khước.

Ngày hôm nay, Chúa vẫn tiếp tục nói với chúng ta qua những sự việc thật bình thường của cuộc sống, điều quan trọng là chúng ta có biết lắng nghe và vâng phục thánh ý Ngài hay không?

 

11. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành

Ở đời, để thu phục người khác theo mình, người ta thường hứa hẹn nhiều điều tốt đẹp ở đời nay như: tiền bạc, địa vị và danh vọng. Với Đức Giêsu thì khác, Ngài không hứa hẹn những điều tốt đẹp ở đời này, nhưng trái lại Ngài mời gọi những ai muốn theo Ngài thì phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo (x. Mt 16, 24).

Hơn thế nữa, Ngài còn cho biết, chính Ngài cũng phải đi con đường đau khổ: “Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại.” (Mt 16, 21). Trước lời mời gọi từ bỏ mình và vác thập giá, đặc biệt là lời tiên báo về sự đau khổ của Ngài, hầu hết các Tông đồ đều lo lắng, buồn phiền. Thậm chí, Thánh Phêrô còn can ngăn Đức Giêsu không nên dấn thân vào con đường đau khổ: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!” (Mt 16, 22). Vì thế, Phêrô đã bị Đức Giêsu quở mắng một cách nặng nề: “Xatan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt 16, 23). Mặc dầu Đức Giêsu trách mắng Phêrô và không hài lòng về thái độ của các Tông đồ, nhưng trong thâm tâm, Ngài vẫn thông cảm cho “tư tưởng con người” nơi các ông. Ngài muốn tìm cách khác để thuyết phục các ông chấp nhận đau khổ, chấp nhận “tư tưởng của Thiên Chúa.” Chính vì thế, Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết, sáu ngày sau, Ngài đưa ba môn đệ thân tín là Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi và biến hình trước mặt các ông: “Mặt Người chiếu sáng như mặt trời, áo Người trở nên trắng như tuyết. Và bỗng các ông thấy ông Môsê và ông Êlia hiện ra đàm đạo với Người” (Mt 17,1-2). Chứng kiến cảnh tượng đó, các ông thích thú vô cùng. Các ông không muốn rời khỏi nơi đó. Thánh Phêrô đã thưa với Đức Giêsu rằng: “Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm. Nếu Thầy ưng, chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia” (Mt 17,4).

Tuy Thánh Phêrô tha thiết xin Thầy ở lại đó, nhưng Đức Giêsu lại mời gọi các ông xuống núi. Nghĩa là Ngài mời gọi các ông trở về cuộc sống thực tế hằng ngày. Cuộc sống đó sẽ kết hợp cả niềm vui lẫn nỗi buồn. Cuộc sống đó sẽ kết hợp cả hạnh phúc lẫn đau khổ. Cuộc biến hình trong chốc lát nhắc nhở các ông muốn tới vinh quang phải trải qua đau khổ. Đó là con đường Đức Giêsu đã đi. Đó cũng là con đường của các Tông đồ và các kitô hữu qua mọi thời đại phải đi qua. Vì “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình vác thập giá mình mà theo” (Mt 16, 24).

Qua Tin Mừng chúng ta thấy, chỉ có Thánh Phêrô, Giacôbê và Gioan được vinh dự chứng kiến cuộc biến hình của Đức Giêsu. Bởi vì, rồi đây, ba vị sẽ đóng những vai trò quan trọng trong Giáo hội sơ khai: Thánh Phêrô là vị Giáo Hoàng đầu tiên, Ngài đã đổ máu mình ra làm chứng cho Đức Giêsu; Thánh Giacôbê là vị tử đạo tiên khởi trong số các Tông đồ; Thánh Gioan là vị chứng nhân cuối cùng của các Tông đồ. Như thế, cuộc biến hình của Đức Giêsu không những cũng cố đức tin cho ba vị, mà qua đó, ba vị có nhiệm vụ cũng cố đức tin cho các Tông đồ khác và cho các kitô hữu và toàn thể Giáo hội. Bởi vì, khi có niềm tin vững mạnh vào sự Phục Sinh, ba vị, các Tông đồ cũng như các kitô hữu mới can đảm vượt qua được những thử thách, đau khổ trong cuộc sống, nhất là những đau khổ trong sứ vụ loan báo Tin mừng.

Bài đọc II, Thánh Phaolô mời gọi Timôthê rằng: “Hãy đồng lao cộng khổ với tôi vì Tin mừng” (2Tm 1,8b). Thật vậy, để cộng tác trong việc loan báo Tin mừng cần phải chấp nhận hy sinh, đau khổ. Chính Thánh Phaolô đã cho chúng ta thấy kinh nghiệm đau khổ của bản thân Ngài qua thư Côrintô. Ngài kể lại rằng: “Năm lần tôi bị người Dothái đánh bốn mươi roi bớt một; ba lần bị đánh đòn; một lần bị ném đá; ba lần bị đắm tàu; một đêm một ngày lênh đênh giữa biển khơi! Tôi còn hơn họ, vì phải thực hiện nhiều cuộc hành trình, gặp bao nguy hiểm trên sông, nguy hiểm do trộm cướp, nguy hiểm do đồng bào, nguy hiểm vì dân ngoại, nguy hiểm ở thành phố, trong sa mạc, ngoài biển khơi, nguy hiểm do những kẻ giả danh là anh em. Tôi còn phải vất vả mệt nhọc, thường phải thức đêm, bị đói khát, nhịn ăn nhịn uống và chịu rét mướt trần truồng. Không kể các điều khác, còn có nỗi ray rứt hằng ngày của tôi là mối bận tâm lo cho tất cả các Hội Thánh!” (2 Cor 11, 24-28).

Không phải chỉ trong thời Tân Ước, mà ngay chính thời Cựu Ước, Thiên Chúa cũng mời gọi con người chấp nhận sự hy sinh và từ bỏ. Bài đọc I, cho chúng ta thấy Thiên Chúa mời gọi ông Abraham từ bỏ quê hương xứ sở để lên đường đi tới nơi Ngài sẽ chỉ cho: “Hãy đi khỏi xứ sở ngươi, khỏi quê quán ngươi, đến đất ta sẽ chỉ cho ngươi”(St 12,1). Từ bỏ nơi đang sống yên ổn để đi đến nơi chưa biết quả là một sự hy sinh to lớn. Nhưng ông Abraham đã vâng lời Thiên Chúa, ông đã chấp nhận từ bỏ quê hương xứ sở, phó thác tương lai cho Chúa, để lên đường đến nơi Thiên Chúa đã định.

Đối với chúng ta ngày hôm nay, mặc dầu mang danh là kitô hữu nhưng có lẽ nhiều lúc chúng ta cũng giống như Phêrô và các Tông đồ xưa, “thích sướng ngại khổ.” Nhiều khi chúng ta khăng khăng đòi hỏi quyền lợi cho mình nhưng lại không muốn chu toàn bổn phận. Chúng ta phấn khởi có mặt trong những ngày vui của Giáo xứ, của đoàn thể này khác, nhưng lại ít dấn thân trong các công việc được giao. Chúng ta mong muốn được hưởng hạnh phúc Thiên Đàng nhưng lại không muốn đi con đường hẹp.

Ước gì mỗi người kitô hữu chúng ta hiểu được ý nghĩa của đau khổ. Để từ đó luôn chấp nhận dấn thân trong việc đi theo Chúa, chu toàn bổn phận người kitô hữu, đặc biệt nhiệm vụ loan báo Tin mừng. Ngõ hầu, chúng ta không chỉ được chiêm ngưỡng vinh quang của Đức Giêsu trong chốc lát mà còn được hưởng trọn vẹn vinh quang của Đức Giêsu trên thiên quốc muôn đời. Amen.

 

12. Chúa biến hình

Tại sao Chúa Giêsu chỉ mang có ba môn đệ thân tín lên đỉnh Taborê?

Ngay từ đầu đoạn Tin Mừng, thánh Matthêu đã ghi rõ: Chúa Giêsu đem ông Phêrô cùng hai anh em ông Giacôbê và Gioan đi riêng với mình. Đồng thời trong Phúc Âm chúng ta cũng thấy không thiếu gì những trường hợp chỉ có ba ông này được chứng kiến một số hành động của Chúa Giêsu. Ngoài việc làm chứng nhân cho cuộc biến hình, các ông còn được độc quyền đi theo Ngài trong những giây phút hấp hối cuối cùng nơi vườn cây dầu. Độc quyền chứng kiến việc Chúa Giêsu làm cho con gái ông Giairô sống lại. Các ông cũng là những người đã hỏi riêng Chúa Giêsu về những dấu hiệu báo trước ngày sụp đổ của đền thờ.

Có thể nói: Phêrô, Giacôbê và Gioan tượng trưng cho hàng ngũ lãnh đạo trong Gháo Hội. Việc Chúa Giêsu đem những người có nhiệm vụ lãnh đạo Giáo Hội để các ông chứng kiến cho sự biến hình không phải là không có ý nghĩa cho sự sinh hoạt của Giáo Hội ngày hôm nay.

Như chúng ta đã biến vấn đề quyền hành là vấn đề then chốt trong Giáo Hội bởi vì chính Ngài đã xác quyết trước mặt Philatô:

– Nếu từ trên chẳng ban cho ông, thì ông chẳng có quyền hành gì trên tôi.

Thế nhưng quan niệm về quyền hành của Chúa Giêsu hoàn toàn khác biệt với quan niệm về quyền hành của thế gian. Bởi vì theo Ngài, quyền hành là để phục vụ chứ không phải là để hống hách, chèn ép và hưởng thụ:

– Thủ lãnh các dân ngoại thì cai trị và chuyên chế, còn giữa các ngươi thì không được như vậy, ai muốn làm lớn thì hãy trở nên rốt hết và trở nên đầy tớ cho mọi người.

Chính Ngài, trong bữa tiệc ly cũng đã nói với các môn đệ:

– Mặc dầu các con gọi Ta là Thầy và là Chúa thì phải lắm. Nhưng nếu Ta là Thầy và là Chúa mà còn quỳ gối rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau.

Cũng trong chiều hướng đó mà các vị Giáo hoàng vốn tự xưng mình là “servus servorum”, đầy tớ của các đầy tớ. Ba vị cột trụ của Giáo Hội được chứng kiến việc Chúa biến hình, không phải là để các ông được hưởng một kinh nghiệm lý thú như Phêrô đã tưởng: Lạy Thầy, chúng con ở đây thì thật là hay quá, nhưng là để các ông sau này biết vận dụng quyền hành theo một ý nghĩa mới mà Ngài đã đề ra đó là phục vụ.

Còn chúng ta thì sao? Liệu chúng ta đã đổi mới quan niệm của chúng ta theo quan niệm của Chúa Giêsu hay chưa? Liệu chúng ta đã đổi mới cái nhìn của chúng ta theo cái nhìn của Chúa Giêsu hay chưa? Có nghĩa là chúng ta đã thực thi giới luật yêu thương, đã sống tinh thần phục vụ, đã có được những hành động bác ái an ủi, khích lệ và giúp đỡ những người chung quanh hay chưa?

Bởi vì trong ngày sau hết chúng ta sẽ không bị xét xử về địa vị xã hội, mà sẽ bị xét xử về những hành động bác ái yêu thương mà chúng ta đã làm hay không làm cho những người chung quanh. Có như vậy chúng ta mới xứng đáng được tham dự vào cuộc biến hình vinh quang trong ngày sau hết.

 

13. Núi Tabor hôm nay

(Suy niệm của ĐGM. Cosma Hoàng Văn Đạt)

Chúa Giêsu dẫn các môn đệ đi Giêrusalem. Trên đường, Chúa lên một ngọn núi để cầu nguyện. Có lẽ đó là núi Tabor ở Galilê. Có ba môn đệ thân tín theo Chúa. Chúa đã hiển dung trước mặt các ông.

Trước núi Tabor, Chúa Giêsu đã từng lên hai ngọn núi khác. Trước hết là Chúa giảng Hiến Chương Nước Trời trên núi quen gọi là núi Bát Phúc. Sau khi cho hoá bánh ra nhiều nuôi dân, họ muốn tôn Chúa làm vua, Chúa đã lên núi cầu nguyện một mình. Sau núi Tabor, Chúa cũng lên hai ngọn núi khác: núi Sọ là nơi Chúa chịu chết trên thập giá và núi Ôliu là nơi Chúa từ biệt các môn đệ mà lên trời. Có thể nói núi Tabor đã được chuẩn bị bằng hai ngọn núi trước và chuẩn bị cho hai ngọn núi sau. Hiển Dung là cao điểm của cuộc đời rao giảng và là khởi điểm của cuộc Vượt Qua.

Người xưa tin rằng Thiên Chúa ở trên trời; núi cao, nên gần trời; vì thế người ta lên núi sẽ dễ gặp Chúa hơn. Tổ phụ Abraham lên núi hiến tế Isaac. Ông Môsê lên núi nhận bia giao ước. Ngôn sứ Êlia lên núi gặp Thiên Chúa. Thực tế là lên núi dễ gặp Chúa hơn thật:

– Thanh vắng, yên tĩnh, xa gia đình, bạn bè, phố chợ;

– Trên cao, thấy rõ công trình của Thiên Chúa trong thiên nhiên hùng vĩ hơn: mặt trời, bầu trời, trăng sao, núi sông, bình minh, hoàng hôn…

– Trên cao, thấy công trình của con người nhỏ bé hơn, vì thế dễ từ bỏ hơn.

Lên núi là điều không dễ, nhưng đem lại cho chúng ta những niềm vui mà chỉ những ai lên núi mới cảm nghiệm được. Hôm nay Chúa Giêsu vẫn mời gọi chúng ta lên núi để chiêm ngắm Chúa hiển dung: ngay bên cạnh chúng ta, Chúa vẫn đang yêu thương người đau khổ, tha thứ cho kẻ tội lỗi, hy sinh cho người mình yêu. Đồng thời Chúa cũng mời gọi chúng ta trở nên núi Tabor mới để Chúa hiển dung. Thánh Phaolô kêu gọi các tín hữu mặc lấy Đức Kitô, trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô. Trong cuộc Vượt Qua, khuôn mặt thể lý của Chúa không còn hình dạng con người, nhưng khuôn mặt của Thiên Chúa tình yêu lại chói sáng trước mắt mọi người trong mọi thời đại.

Một thường dân Nhật Bản được Nhật Hoàng mời vào hoàng cung dùng cơm chung vì đã lấy máu mình vẽ chân dung Nhật Hoàng. Chúa Giêsu lấy máu mình để vẽ chân dung Thiên Chúa và được hưởng vinh quang Phục Sinh. Xin Chúa giúp chúng ta dùng cuộc sống của mình để vẽ chân dung Chúa trong thế giới hôm nay.

 

14. Nghe Lời Chúa – Đến với tha nhân

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

Chúng ta đang từng bước hành trình trong Mùa Chay Thánh, tiến về Tam Nhật Vượt Qua, tưởng niệm Cuộc Khổ Nạn và Cái Chết của Chúa Giêsu, dẫn đến Lễ Phục Sinh, chiến thắng của Chúa Giêsu Kitô trên sự chết. Phụng vụ Chúa II Mùa Chay năm A trình bày cho chúng ta biến cố Chúa Giêsu Biến hình. Ðây là giai đoạn thứ hai trong Mùa Chay: giai đoạn thứ nhất là những cám dỗ trong hoang địa (x.Mt 4, 1-11); giai đoạn thứ II là cuộc Biến hình (x.Mt 17, 1-9). Chúa Giêsu “đã gọi Phêrô, Giacôbê và Gioan là em ông này, và Người đưa các ông tới chỗ riêng biệt trên núi cao. Người biến hình trước mặt các ông” (Mt 17,1). Mặc dù trong phụng vụ có một ngày lễ dành riêng cho sự kiện này (ngày 06 tháng tám), hôm nay chúng ta được mời gọi chiêm ngưỡng cảnh tương tự như một phần không thể thiếu trong Cuộc Khổ Nạn, Cái Chết và Phục Sinh của Chúa Giêsu.

Quả thật, Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu đã gần kề, sáu ngày sau khi từ trên núi xuống, Chúa Giêsu tuyên bố: “Người phải đi lên Giêrusalem và chịu khổ nhiều đau khổ do hàng niên trưởng và các thượng tế cùng ký lục, và bị giết đi, ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt 16,21).

Nhưng các môn đệ chưa sẵn sàng chứng kiến Chúa của họ, Đấng, luôn thể hiện lòng từ bi đối với người ốm đau bệnh tật, làm cho người phung hủi được lành, kẻ điếc nghe được, người mù thấy được, kẻ què đi được, người chết sống lại, nay “sẽ phải chịu khổ nhiều đau khổ”. Thật, không thể! Không thể hiểu nổi!

Tuy nhiên, bất chấp sự hiểu lầm của họ, Chúa Giêsu biết lý do tại sao Người đi vào thế giới. Người biết mình phải mang lấy tất cả sự yếu đuối và lầm than của nhân loại để thánh hóa họ, cứu họ ra khỏi vòng vây của tội lỗi và sự chết. Người cứu họ bằng cách nào? Thưa, bằng cách chiến thắng sự chết, để sự chết không còn làm gì được con người là hình ảnh của Thiên Chúa nữa.

Đó là lý do tại sao Biến hình là một biểu tượng của ơn cứu rỗi thể hiện nơi thân xác vinh quang Phục Sinh của Chúa Giêsu. Vì thế, khi loan báo cho các môn đệ Cuộc Khổ Nạn của mình, Chúa thấy rõ sự lo lắng trong các tông đồ, và vẻ rực rỡ về thần tính của Chúa. Chúa khẳng định với họ niềm hy vọng và loan báo cho họ niềm vui Phục Sinh, thậm trí, cả lúc Phêrô, Gioan và Giacôbê không biết rõ … phục sinh từ trong cõi chết nghĩa là gì! (x. Mt 17,9). Họ cần phải có thời gian.

Nếu trong Sứ điệp Mùa Chay 2017 năm nay với chủ đề: “Lời Chúa là một hồng ân. Tha nhân là một hồng ân”. Khi trưng dẫn đoạn Tin Mừng Luca (16,19-31), Đức Thánh Cha mời gọi chúng ta hữu lắng nghe Lời Chúa, để nhận ra và phụng sự Chúa trong tha nhân, nhất là nơi những người nghèo khổ, vì tha nhân là hồng ân. Thì hôm nay, có tiếng Chúa Cha tuyên bố Chúa Giêsu là Con yêu dấu của Ngài và mời gọi chúng ta: “Các ngươi hãy nghe lời Người” (Mt 17,5).

Đúng thật là một hồng ân, bởi có biết bao nhiêu lời chúng ta đã nghe, nhưng hiếm khi nghe được tiếng Chúa Cha. Chúa Cha đã nói với các Tông đồ và qua Giáo hội Chúa nói với chúng ta ngày hôm nay nữa: “Hãy nghe Chúa Giêsu, vì Người là Con yêu dấu của Chúa Cha”. Chúa Giêsu là Hồng Ân vô giá do Chúa Cha tặng ban cho chúng ta. Nay Ngài mời gọi chúng ta tuân giữ Lời Người. Lời Chúa Giêsu ban lại sự sống đời đời há chẳng phải là một hồng ân sao?

Trong tuần này, chúng ta hãy lắng nghe Lời Chúa và cất giữ trong trí. Vì lời ấy không phải là lời của loài người, nhưng là Thiên Chúa Cha, nói với tất cả chúng ta! Lời ấy như một trợ lực để tiến bước trên con đường Mùa Chay. Chúng ta nghe lời Chúa Giêsu nhưng phải bước theo Người. Cũng như các môn đệ, sau khi nghe được lời Chúa Cha ban tặng, các ông không thể cứ ở mãi trên núi, nhưng phải theo Chúa Giêsu xuống núi dõi theo hành trình Thương Khó của Chúa và làm chứng cho Tin Mừng Phục Sinh.

Chúng ta cũng thế, trong Mùa Chay Thánh việc cần phải làm là: ăn chay, cầu nguyện, và bố thí. Ba việc này diễn tả ba chiều kích, ba mối tương quan giữa đương sự với Thiên Chúa và với anh em. Tương quan với Thiên Chúa là cầu nguyện, với tha nhân là bố thí và với chính mình là ăn chay. Ba tương quan này đồng hành với nhau và thể hiện cùng một lúc trong đời sống thường nhật của người kitô hữu. Chúng ta cần đi ra một nơi riêng, leo lên núi trong một nơi thinh lặng, để tìm lại chính mình và lắng nghe tiếng Chúa là hồng ân. Nhưng chúng ta không thể ở lại đó! Cần phải xuống núi gặp gỡ tha nhân. Họ là anh chị em chúng ta đang bị vất vả cơ cực, bệnh tật, bất công, dốt nát, nghèo khổ vật chất và tinh thần đè nặng, để chia sẻ với họ ân thánh đã nhận được vì họ cũng là hồng ân. Ðây là sứ mạng của chúng ta, những người đã chịu phép rửa tội, lắng nghe lời Chúa Giêsu và trao tặng Chúa cho người khác.

Lạy Chúa Thánh Thần, xin dạy chúng con biết nghe Lời Chúa, chuyên cần tham dự Thánh lễ, nguyện gẫm và sống tình bác ái với tha nhân. Amen.

 

15. Đỉnh cao hôm nay – Đỉnh cao ngày mai

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật)

Bên kia những thực tại hữu hình

Bản văn của thánh Mát-thêu trình bày một kinh nghiệm thần bí vượt trên những thực tại hữu hình, qua những con người và biểu tượng. Bản văn là một mặc khải về một mầu nhiệm: căn tính của Đức Giêsu.

Nơi chốn: “một nơi riêng”, “một ngọn núi cao”. Đây không phải là một địa điểm cụ thể về địa dư. Có thể lấy làm tiếc vì một truyền thống muôn thời đã muốn xác định về một nơi rõ ràng, bởi vì việc Tin Mừng không nói rõ nơi chốn có thể có nghĩa là mặc khải này sẽ xảy ra ở mọi nơi.

Đàng khác, “ngọn núi cao” luôn luôn là một nơi đặc biệt; tại đó đất dường như nối liền với trời, và cũng tại đó, con người vừa cảm nghiệm được sự bé nhỏ của mình, đổng thời vừa muốn vươn mình tới những chiều kích bao la của vũ trụ.

Thời gian: đã được xác định rõ là 6 ngày sau khi Đức Giêsu báo trước cho các Tông Đổ về cuộc Khổ Nạn. Tuy nhiên, cuộc Hiển Dung còn có ý nghĩa lớn lao hơn: nối kết giữa quá khứ (Môsê + Êlia) và tương lai (Đức Kitô phục sinh). Đây là một thời gian vượt-thời-gian.

Các nhân vật: thái độ của các môn đệ (theo Đức Giêsu, muốn ở lại, sự kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất) cho thấy một sự đảo lộn, một ý thức do một nhận biết không thể diễn tả nổi về thực tại nơi Đức Kitô. Con đường này trở thành con đường của các môn đệ sau khi Đức Kitô phục sinh, đổng thời cũng là con đường của tất cả mọi Kitô hữu.

Một bức tranh để chiêm ngắm

Việc Đức Giêsu biến đổi hình dạng không phải chỉ là một trình thuật để nghe, nhưng còn là một bức tranh để chiêm ngắm, tựa như hình ảnh ngắn ngủi về một thế giới thần thiêng và bí nhiệm, rất gần gũi mà cũng rất xa xăm. Trên dung nhan của con người đang bị bóng tối tử thần đe dọa, đã bừng lên ánh sáng chói lòa của ngày Phục Sinh.

Biến cố Hiển Dung xảy ra sau khi Đức Giêsu báo trước cuộc Khổ Nạn của Người cũng như việc dự phần của các môn đệ: biến cố này nhằm củng cố lòng tin của ba vị tông đổ sẽ có mặt vào những giờ phút cuối cùng của Đức Giêsu tại vườn cây Dầu (Mc 14,33). Thật ra, đây không phải là lần đầu tiên ba vị này được “đi riêng” với Đức Giêsu; ba vị đã từng được chứng kiến việc Đức Giêsu làm cho con gái ông trưởng hội đường sống lại (Mc 5,37).

Tuy vậy, sự kiện này còn có ý nghĩa quan trọng hơn với mỗi vị. Trước hết, với Phêrô, người sẽ được trao quyền lãnh đạo Giáo Hội: từ đây, ông sẽ phải học ý nghĩa đau khổ theo Thiên Chúa và thay thế tư tưởng nhân loại bằng tư tưởng thần linh. Thứ đến, với Gia-cô-bê, vị tử đạo tiên khởi: ông sẽ hân hoan đỗ máu để làm chứng vì ông đã tận mắt nhìn thấy vinh quang Thiên Chúa. Cuối cùng, với Gio-an, người môn đệ được Đức Giêsu yêu dấu: ông sẽ phải học biết rằng, đau khổ là bằng chứng của tình yêu.

Như vậy, ba vị cột trụ trong sinh hoạt của Giáo Hội thời đầu, nhờ kinh nghiệm sâu xa về vinh quang Thiên Chúa, sẽ làm chứng một cách sống động về Đức Giêsu, Đấng đã đi qua con đường đau khổ để bày tỏ lòng yêu mến và đem lại ơn cứu độ.

Thình lình, các ông đã được chứng kiến Đức Giêsu biến đổi hình dạng. Tác giả đã dùng thuật ngữ khải huyền để mô tả vinh quang Thiên Chúa xuất hiện trên dung nhan Đức Giêsu. Điều đáng nói ở đây là ánh sáng vinh quang mà các môn đệ nhìn thấy nơi Đức Kitô, không phải là điều gì đến từ bên ngoài, nhưng là sự biểu lộ bình thường của vẻ đẹp vẫn gắn liền với “Đấng từ trời xuống”. Do đó, điều gây ngạc nhiên không phải là ánh sáng rạng ngời đó đã bao phủ Đức Giêsu trong chốc lát, nhưng là sự che giấu ánh sáng đó trong những lúc khác. Như vậy, Đức Giêsu đã che giấu vinh quang của Người, và giờ đây, trong một khoảng thời gian ngắn, Người rời bỏ nhân tính để con người có thể chiêm ngắm vinh quang của Người; và nhờ đó, họ nhận ra căn tính đích thực của Đức Giêsu: Con Thiên Chúa.

Đang khi Đức Giêsu bày tỏ Thiên tính của Người, thì Môsê, vị anh hùng của Lề Luật, và Êlia, thủ lãnh các ngôn sứ, đã đến đàm đạo với Người. Sự hiện diện của hai chứng nhân thời Cựu Ước cho thấy tính siêu việt của thời đại cuối cùng, đổng thời loan báo Vị Ngôn Sứ thiên hạ vẫn mong chờ, nay đã xuất hiện.

Ngoài ra, nội dung cuộc đàm đạo giữa Đức Giêsu với Môsê và Êlia không phải là những điều Người đã giảng dạy, nhưng là cuộc Khổ Nạn của Người. Đó chính là nhiệm vụ của Người, Đấng hoàn tất Lề Luật và lời loan báo của các Ngôn sứ. Việc loan báo đã kết thúc, và Đấng phải đến đã đến để thực hiện công cuộc cứu độ.

Cuối cùng, sự hiện diện của Chúa Cha qua đám mây và tiếng nói là một xác nhận rõ ràng và dứt khoát về sứ mệnh của Đức Giêsu.

Ở đây, cũng như trong biến cố phép Rửa, vẫn là sự giới thiệu sâu sắc về Đấng phải đến để thực hiện lời hứa của Thiên Chúa dành cho dân Người. Lời giới thiệu này cho thấy mối hiệp thông sâu xa và bất khả phân ly giữa Chúa Cha và Chúa Con. Tuy thế, lời giới thiệu trong biến cố Hiển Dung còn thêm lệnh truyền “hãy vâng nghe lời Người”. Hãy nghe lời Đức Kitô, hãy đón nhận tất cả những gì Người sẽ thực hiện, cả vinh quang và đau khổ, cả sức mạnh lẫn yếu đuối, cả sự chết lẫn sự phục sinh. Đó là ơn cứu độ.

Hãy rời ngọn núi, tiếp tục con đường

Một tuần lễ trước khi xảy ra biến cố này, Phêrô đã thử tìm một con đường dẫn đến vinh quang mà không có Thập giá. Giờ đây, ông nghĩ rằng việc Hiển Dung có thể là con đường tắt để thực hiện ơn cứu độ. Ông hiểu đôi chút về điều đang xảy ra, có một cái gì đó rất lớn lao, và một lần nữa, ông cố gắng thuyết phục Đức Giêsu đừng đi Giêrusalem, bằng cách xin dựng lều ở trên núi này. Với Đức Giêsu, vinh quang hôm nay chỉ là chốc lát, chỉ là khởi đầu, chỉ là lời báo trước cho vinh quang vĩnh cửu sau cuộc Khổ Nạn. Còn với Phêrô, đây là vinh quang của ơn cứu độ, và ông phải dấn mình vào: ông tưởng rằng không cần có thập giá vẫn có vinh quang. Mãi đến sau này, sau biến cố Phục Sinh, ông mới hiểu rõ và thuật lại toàn bộ sự kiện (xem 2 Pr 1,16-20).

Bởi vậy, trước khi đạt đến vinh quang đích thực, Đức Giêsu phải rời ngọn núi để tiếp tục con đường lên Giêrusalem. Ngài còn phải đến vườn cây Dầu, còn phải lên đồi Gôn-gô-tha. Mặc dù bóng tối của đổi Gôn-gô-tha có che khuất khuôn mặt vinh quang, như là chẳng còn nhìn thấy gì, chẳng còn chi hi vọng; nhưng điều đó chỉ xảy ra trong giây lát, trong một thời gian ngắn. Ánh sáng đã một lần bừng lên thì không phải là điều ảo tưởng, điều đã xảy ra trên núi không phải là giấc mơ. Biến cố Phục Sinh sẽ cho thấy rằng sự sống có thể nảy sinh từ sự chết.

Biến cố Hiển Dung của Đức Giêsu thực là một kinh nghiệm cho tất cả những ai muốn cùng được tham dự vào vinh quang của Người: Chính kinh nghiệm này là chìa khóa, là sức mạnh giúp chúng ta dám chấp nhận những hi sinh, những từ bỏ để càng lúc càng gắn bó hơn với Đức Kitô. Biến cố này thực là một cuộc xuất hành tiến về Đất Hứa, xuyên qua những thử thách. Ai không chấp nhận xuất hành, không cùng đi với Đức Giêsu trên con đường lên Giêrusalem, người ấy sẽ không được tham dự vào vinh quang vĩnh cửu. Mỗi người sẽ có thể có một kinh nghiệm nào đó về Đức Giêsu, nhưng đó chưa phải là tất cả. Đỉnh cao này còn chờ một đỉnh cao nữa.

 

16. Nội tâm – Lm. Vũ Đình Tường

Việc các tông đồ được nhìn thị kiến trên núi thánh không phải do công sức, tài lực của cá nhân mà chính là ơn Chúa ban.

ĐẶC ÂN

Kinh Thánh ghi rõ Chúa đặc biệt đưa các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo người tới một ngọn núi cao. Chúa chọn các ông lên núi thánh. Đây là một đặc ân Chúa ban không phải do tài sức riêng.

Như thế chúng ta cần nhận biết không phải những gì đang có, những gì đang sở hữu là do tài năng, trí thông minh, sức riêng ta đạt được mà chính là đặc ân Chúa trao cho ta coi sóc. Nói cách khác chúng ta không phải làm chủ những gì chúng ta có, tiền tài, vật chất, trí khôn, sự thông minh, sáng suốt, sắc đẹp, sự sống, thành công, thất bại trên đời và ngay cả con cái, hay người phối ngẫu. Tất cả đều là đặc ân Chúa kí thác, trao ban cho ta quản lí, coi sóc.

Vì là quản lí các ân huệ Chúa ban nên chúng ta cần sống khiêm nhường, mang tâm tình tạ ơn và có trách nhiệm chia sẻ những đặc ân đó với các người kém may mắn hơn và dùng chúng chung dựng xây một thế giới tốt đẹp hơn.

Hiểu như thế chúng ta luôn sống trong tâm tình tạ ơn, những đặc ân Chúa tin tưởng trao vào tay ta coi sóc, bảo vệ và làm cho chúng sinh sôi nảy nở thêm nhiều.

QUẢN LÝ

Người quản lí khôn ngoan luôn nhớ vai trò mình là người quản lí, không phải chủ nhân. Hiểu biết điều này sẽ tránh được rất nhiều đau khổ, âu sầu không cần thiết. Khi Chúa quyết định trao món quà đang có trong tay mình cho người khác coi sóc không nên than trách hoặc phê phán. Kitô hữu luôn nhớ và xác định đúng đắn vai trò quản lí của mình.

Tình cảm tự nhiên con người mất những gì đang có thì đau buồn, nhớ thương. Điều này rất tốt vì tình cảm đó diễn tả tâm tình nối kết, gắn bó, nhớ thương. Không thổ lộ được những tình cảm đó chính là bạc tình, bạc nghĩa, thờ ơ, lãnh đạm. Tuy nhiên cũng không thể mượn cớ buồn sầu, đau khổ để kết án, phê phán vì hành động đó không thuộc phạm vi của người quản lí. Của Chúa, Chúa muốn cho ai tùy í, sao lại ghen tị. Chính Đức Kitô nói điều này trong dụ ngôn thuê làm vườn nho (Mt 20,16).

TẠ ƠN

Tâm tình tạ ơn chân thành đúng đắn phải là Chúa trao ban món quà con mong ước, mơ thích, con xin tạ ơn và hết lòng giữ gìn, bảo vệ. Chúa lấy đi món quà con hết lòng quí mến con xin dâng hiến trong tâm tình tạ ơn vì đã hoàn tất trách nhiệm Chúa trao. Chúa trao ban món quà con không xin, không thích, con cũng xin vâng đón nhận, dù đón nhận trong run sợ, lo âu, ngại ngùng cũng xin nhận với tâm tình phó thác để suy gẫm, tìm học cho biết ý Chúa qua biến cố trong cuộc sống.

Mọi kèn cựa, chèn ép hay tìm cách lung lạc tìm cách chiếm đoạt, hay chối bỏ món quà Chúa trao, dù là điạ vị, danh vọng hay của cải vật chất đều sai. Làm như thế chính là đem đời vào đạo, không phải đem đạo vào đời.

Quà tặng không phản ảnh tình cảm trong tim. Quà tặng là cách diễn tả tình cảm một cách cụ thể con người dành cho nhau. Dùng giá trị quà tặng để đo lòng người dẫn đến sai lầm vì vật biếu tặng không dò được lòng người. Cách cho quan trọng hơn quà tặng và cho vì bác ái, yêu thương quan trọng hơn cách cho.

PHÓ THÁC

Người quản lí khôn ngoan là người luôn sống trong tinh thần phó thác, xác tín, tin tưởng mọi sự đều do Chúa ban nên vui lòng nhận, dù là điều ta ưa thích hay điều ta lo sợ tất cả đều là những món quà Chúa trao cho coi sóc. Có thể giúp ta tốt hơn, có thể Chúa dùng món quà để thánh hoá ta cũng có thể để ta làm vinh danh Chúa. Không nên chê bất cứ món quà nào Chúa trao, dù lớn dù nhỏ bởi vì người trung tín trong việc nhỏ sẽ được trao công việc quan trọng hơn. Việc quan trọng hơn, trách nhiệm nhiều hơn và đau khổ cũng lớn hơn. Xem dụ ngôn nén bạc (Mt 25).

ĐAU KHỔ

Tâm được vui thì lòng được sáng. Tâm vui vì được trong sạch hoá, được thanh tẩy khỏi bụi trần. Nhờ thanh tẩy nên lòng được sáng. Thanh tẩy gắn liền với khổ đau. Không phải đau khổ nào cũng xấu, có những đau khổ tốt lành, cần thiết trong cuộc sống. Đau khổ cần thiết này giúp thanh tẩy tâm hồn, làm cho con người trong sáng hơn, dịu hiền hơn, dễ mến và thương người nhiều hơn. Trên đường xuống núi Đức Kitô dặn các tông đồ hãy giữ im lặng ‘đừng nói cho ai hay thị kiến cho đến khi Con Người từ cõi chết chỗi dậy’. Còn gì đau khổ hơn khi trong lòng rộn rã niềm vui, tràn đầy hoan lạc mà không được chia sẻ, nói ra. Từ bỏ ý riêng để ý Chúa được thực hiện là đau khổ tốt. Từ bỏ những thói quen thực hành từ nhỏ, chấp nhận thay đổi theo đường lối Chúa là đau khổ tốt. Từ bỏ con người cũ sống tinh thần Phúc Âm là đau khổ tốt.

HẠNH PHÚC THẬT

Thông thường người ta thích nhận những món quà ưa thích. Món quà không ưa nếu được trao, coi đó là hình phạt, là sự dữ. Chúa gởi sự khó đến cho thì tôi nhăn nhó trong khi tôi gởi sự khó tới cho anh em tôi lại vui cười. Chúa để sự khó xảy đến cho bạn thì tôi khuyên anh Chúa thử thách anh. Chúa để sự khó xảy đến cho người tôi không ưa tôi nói Chúa phạt nó.

Hạnh phúc triền miên, bình an thực sự với lòng mong ước xảy đến sau khi đã trải qua đau khổ. Theo tinh thần bài Phúc âm hôm nay thì niềm hoan lạc thực sự đến ‘cho đến khi Con Người từ cõi chết sống lại’.

 

17. Chúa Nhật 2 Mùa Chay

Trong cuộc sống, người ta đã kinh nghiệm được rằng: có nhiều điều ta nhìn mà không thấy. Chẳng hạn như tình yêu, tình bạn, tình mẫu tử. Người ta chỉ thấy những dấu hiệu của tình yêu như: quà tặng, sự âu yếm, sự hy sinh quên mình. Còn chính tình yêu thì ta không thấy. Vì cái chính yếu thì vô hình. Ta chỉ thấy được bằng trái tim. Bên cạnh đó, có nhiều điều ta chỉ thấy bề mặt mà không thấy bề sâu. Ví dụ như con người. Khi nhìn một người, ta chỉ thấy diện mạo, hình dáng bên ngoài. Ít khi ta thấy được tâm tư tình cảm của người khác, kể cả những người thân yêu sống kề cận bên ta. Linh hồn người ta không ai thấy bao giờ. Vì linh hồn thiêng liêng. Ta chỉ thấy được bằng đức tin.

Hẳn thật, Đức Giêsu xuống thế làm người đã trở nên giống như một người phàm, được mấy người nhận ra đó là Con Thiên Chúa đâu. Người che giấu thần tính vinh quang sáng láng trong một thân xác nghèo hèn, bình thường. Không ai nhận ra Thiên tính của Người, ngay cả các môn đệ luôn luôn kề cận bên Người.

Hôm nay thánh sử Matthêô cho chúng ta thấy, khi Chúa tỏ mình ra, ba Tông Đồ thân tín quá ngỡ ngàng. Lòng các ông tràn ngập niềm vui khi nhìn thấy vinh quang của Đức Giêsu. Thần tính vinh quang biểu lộ rọi sáng vào nhân tính được tôn vinh. “Diện mạo Đức Giêsu chói lọi như mặt trời và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng”.

Thần tính Đức Giêsu biểu lộ chứng thực Người là Thiên Chúa ẩn mình. Thì ra con của bác thợ mộc che giấu cả một nguồn ánh sáng chói lọi. Người nghèo hèn này lại là Ngôi Hai Thiên Chúa cao sang. Nhờ ánh sáng vinh quang trên núi Tabore của Đức Giêsu giúp ta nghiệm ra:

Ánh sáng Thần tính chiếu soi nơi nhân tính đem lại cho ta niềm hy vọng. Vì nhân tính của Đức Giêsu gánh lấy cả nhân loại trên mình, nên ánh sáng thần linh cũng chiếu soi cả vào con người chúng ta, ánh sáng ấy chiếu vào cái thế giới tăm tối của tội lỗi, yếu hèn, của chúng ta. Mặt khác, Ánh sáng ấy cho chúng ta hiểu rằng, Người ẩn tàng trong mọi quan hệ, trong mọi niềm vui, trong mọi tình bạn, trong mọi tình yêu. Bởi vì hạnh phúc là gì nếu không phải đi tìm cái cốt lõi, là nguồn mạch của hạnh phúc, là chính Thiên Chúa hằng sống. Hơn nữa, Ánh sáng ấy nói với chúng ta rằng: Vinh quang Thiên Chúa như hạt giống đang vùi chôn trong lòng tất cả mọi anh em sống quanh tôi. Vinh quang ấy đang bị che khuất đàng sau những mái tranh thô sơ, những thân thể gầy guộc, những ánh mắt mệt mỏi lờ đờ.

Nhận thức ấy thôi thúc chúng ta trở về tìm Chúa trong đáy lòng mình. Trong con người của mình, chúng ta càng vứt bỏ tội lỗi, dung nhan Thiên Chúa càng hiện rõ. Càng chìm sâu vào nội tâm thinh lặng, chúng ta càng tới gần Chúa. Bên cạnh đó, nhận thức ấy còn giúp chúng ta sẵn sàng kính trọng tha nhân vì tah nhân là những đền thờ cho Thiên Chúa ngự trị, là những bình sành chứa đựng kho tàng cao quý. Như thế, sống Mùa Chay chính là hành trình nội tâm: trở về đáy lòng mình để gặp được Chúa.

Mùa chay giúp chúng ta trở về nội tâm mình. Mùa chay giúp chúng ta có nhiều cơ hội làm hoà với Thiên Chúa và Tha nhân, nhưng chính trước đó chính mình giải hoà bản thân mình. Mùa Chay có nhiều cơ hội giúp ta thi hành điều Chúa muốn như ăn chay, bố thí và cầu nguyện. Chúng ta hãy xem kỹ lại việc ăn chay của mình, nếu ăn chay chính là đến với anh em bằng thái độ kính trọng và yêu thương thì đó là điều mà Chúa mong muốn. Ngoài ra, ta đến với tha nhân bằng cách hết sức có thể, có thể ta đến với những mảnh đời kém may mắn, vào những mảnh đời tăm tối, những thân phận hẩm hiu. Chúng ta hãy làm sao cho dung nhan nhân loại chói ngời ánh sáng nhân phẩm, ánh sáng văn hoá, ánh sáng lương tâm và ánh sáng thần linh. Như thế ta là chúng ta đang cộng tác vào việc biến hình thế giới. Như thế ta đang bước theo chân Đức Kitô, đưa nhân loại vào hành trình vượt qua sự chết và dần đang đi vào phục sinh.

Lạy Đức Kitô, xin ban cho chúng con đức tin mạnh mẽ để chúng con có khả năng nhìn thấy Chúa trong tha nhân. Xin ban cho chúng con trái tim bén nhạy để chúng con biết yêu mến những thực tại vô hình. Amen.

 

18. Ơn gọi làm đẹp – Lm. Phạm Quốc Hưng, CSsR

“Ngài đã biến hình trước mặt họ, mặt Ngài sáng láng như mặt trời, áo Ngài nên trắng phau như ánh sáng”.

Tự bản chất con người ai cũng muốn trở nên xinh đẹp; thích tìm kiếm và nhìn ngắm những cảnh đẹp; thích những vật hay những người thuộc về mình cũng đẹp; thích được người ta chiêm ngưỡng vì mình đẹp; và vì thế tìm mọi cách để làm đẹp cho mình và những vật hay những người thuộc về mình.

Người ta đã đầu tư biết bao tiền của, công sức, tài năng và thời giờ để phục vụ nhu cầu làm đẹp và khiếu thẩm mỹ của con người. Sự hiện diện của các ngành thẩm mỹ, du lịch, hội họa, điêu khắc, phim ảnh và kiến trúc đã nói lên lòng khát khao vẻ đẹp nơi con người.

Phải chăng lòng khát khao vẻ đẹp ấy nơi con người cùng với những cố gắng làm đẹp của họ chính là một ơn gọi căn bản gắn liền với bản chất con người?

Tin Mừng hôm nay thuật về việc Chúa Giêsu biến hình trên núi trước mặt ba môn đệ thân tín nhất của Người, và vẻ đẹp của Người đã khiến họ đã ngẩn ngơ chiêm ngắm. Qua cuộc biến hình này, Chúa Giêsu không những tỏ cho chúng ta thấy vẻ đẹp tuyệt vời của Người nhưng còn khơi dậy nơi chúng ta hy vọng sẽ được trở nên xinh đẹp như chính Người.

Nói cách khác, qua biến cố biến hình nầy Chúa Giêsu đã khơi dậy “ơn gọi làm đẹp” trong tâm hồn mỗi người chúng ta.

Điều đáng tiếc là chúng ta bị ảnh hưởng của quan niệm thế gian nên thường dừng lại ở việc tìm kiếm và ngưỡng mộ cái đẹp tự nhiên, cái đẹp bị giới hạn trong phương diện vật chất thể lý chóng qua, mà không thiết tha tìm kiếm và chiêm ngưỡng cái đẹp siêu nhiên, cái đẹp của tâm hồn, cái đẹp của nhân đức, cái đẹp thần thiêng của ơn thánh, cái đẹp sẽ tồn tại mãi mãi. Chính cái đẹp thần thiêng sung mãn ấy là cái đẹp mà Chúa Giêsu muốn mời gọi chúng ta chiêm ngưỡng và kiếm tìm qua cuộc biến hình trên núi của Người.

Vì được dựng nên giống hình ảnh Chúa, con nguời được chia sẻ cái đẹp của chính Chúa, Cái Đẹp Tuyệt Đối. Tội lỗi-tội tổ tông và tội riêng ta-đã làm lệch lạc và lu mờ hình ảnh Thiên Chúa nơi mỗi người chúng ta. Lòng khát khao những nét đẹp trong thế giới tự nhiên nơi chúng ta phải là dấu chỉ của lòng khát khao tìm kiếm và chiêm ngưỡng Thiên Chúa và được chia sẻ Cái Đẹp Tuyệt Đối của chính Người.

Chúa Giêsu xuống thế làm người để cứu chuộc chúng ta, nghĩa là để giúp chúng ta khôi phục lại hình ảnh tuyệt mỹ của Thiên Chúa nơi linh hồn chúng ta. Khi biến hình trên núi, Chúa Giêsu đã cho các môn đệ nhận biết Người chính là “phản ảnh của vinh quang, là ẩn tượng” của Thiên Chúa (Heb 1:3).

Cũng theo thánh Phaolô, mỗi người chúng ta cũng được Thiên Chúa kêu gọi để “nên đồng hình đồng dạng với hình ảnh Con của Người, để Ngài nên trưởng tử giữa một đoàn em đông đúc” (Rom 8:29); nghĩa là ta được mời gọi để trở nên xinh đẹp tuyệt vời như chính Chúa Giêsu.

Cuộc biến hình của Chúa Giêsu là sự chuẩn bị của Người dành cho các môn đệ. Nhờ đó, họ có thể chấp nhận cuộc khổ nạn và cái chết đau thương của Người trên thập tự mà không vấp phạm. Điều này cũng giống như việc các bác sĩ thẩm mỹ chỉnh hình cho các bệnh nhân xem hình vẽ dung mạo xinh đẹp mà họ sẽ có sau khi chữa trị, để họ dễ chấp nhận những tốn kém hay đớn đau phiền toái của quá trình điều trị.

Trong Chúa Giêsu và nhờ cuộc tử nạn và phục sinh của Người, tất cả nhân loại chúng ta đã tìm được phương thức lột xác và chỉnh hình để xóa bỏ dung mạo xấu xa ghê tởm vì tội loi và khôi phục lại vẻ đẹp siêu việt tuyệt vời của hình ảnh Thiên Chúa nơi linh hồn chúng ta.

Đó là Tin mừng mà Giáo hội muốn công bố cho mọi người qua mọi thời đại.

Bài trích sách Sáng Thế trong phụng vụ hôm nay nói đến việc Abraham được Chúa kêu gọi để từ bỏ quê hương để đi đến miền đất mới Chúa hứa ban với bao phúc lộc, và ông đã ra đi. Qua việc đón nhận niềm tin Công giáo và bí tích Rửa tội, chúng ta đã chấp nhận đi ra khỏi giới hạn của sự khao khát và kiếm tìm những cái đẹp thuần túy vật thể và tự nhiên, để bắt đầu theo chân Chúa Giêsu kiếm tìm, chiêm ngưỡng và thông dự vào vẻ đẹp siêu nhiên thần thiêng của chính Thiên Chúa.

Thánh Phaolô trong thư gửi Timôtê trong bài đọc 2 của Phụng vụ hôm nay cũng đã kêu gọi Timôtê “hãy chung phần cam khổ vì Tin mừng dựa vào quyền năng của Thiên Chúa, Đấng cứu thoát ta, và đã ra thánh triệu kêu gọi ta, không chiếu theo các việc ta làm, nhưng là chiếu theo chính dự định và ân sủng Người đã ban cho ta trong Đức Kitô Giêsu, từ trước đời đời hằng có, và nay đã cho hiển hiện nhờ cuộc Hiển linh của Cứu Chúa chúng ta, Đức Kitô Giêsu, Đấng đã hủy diệt sự chết và chiếu sáng ra sự sống, và sự bất hoại, nhờ Tin Mừng” (1 Tim 1: 8b-10).

Giáo Hội muốn dùng chính những lời này trong Mùa Chay để kêu gọi chúng ta chấp nhận và nỗ lực thực thi những đòi hỏi của Tin mừng để được lột xác biến hình hầu có được vẻ đẹp siêu việt vĩnh hằng của chính Chúa Giêsu.

Trong xã hội hôm nay rất nhiều người chấp nhận tốn kém, kỷ luật và phiền toái như kiêng ăn, uống thuốc, tập thể dục thể thao hay giải phẫu để có được vẻ đẹp mau qua chóng tàn của thân xác. Chẳng lẽ người tín hữu chúng ta lại không dám quyết tâm sống trọn vẹn ơn gọi Kitô hữu của mình, “ơn gọi làm đẹp” tâm linh sao?

Lạy Mẹ Maria là Mẹ Tuyệt Mỹ, xin Mẹ giúp chúng con luôn khao khát say mê chiêm ngưỡng vẻ đẹp thần linh của Chúa Giêsu Con Mẹ. Xin Mẹ dạy chúng con biết chấp nhận và thánh hoá mọi đau khổ trong cuộc sống để Chúa biến đổi chúng con nên “đồng hình đồng dạng” như hình ảnh tuyệt vời của chính Người. Amen.

 

19. Đây là con yêu dấu của Ta

(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)

Các tông đồ không ngừng ngạc nhiên về Thầy của họ. Hằng ngày họ vẫn sống với Thầy, nghe Thầy giảng dạy, thân tình và bình thường, nhưng hôm nay, họ khám phá ra nơi Thầy của họ một chiều kích bất ngờ và thật thú vị.

Ngài dẫn ba người Ngài chọn lên núi với Thầy. Ba người này sẽ có mặt trong vườn cây dầu, và sẽ chứng kiến một chiều kích khác nữa của Ngài, là con người thống khổ tột độ, van xin họ thức với Thầy một giờ.

Thầy trò lên núi cao, vắng lặng, xa tất cả mọi người, xa những ồn ào của những ngày bị đám đông bao vây. Và trong nơi thanh vắng đó, họ khám phá ra Thầy trong khuôn mặt tuyệt vời: dung nhan Người chói lọi như mặt trời… Họ được đưa vào trong một thế giới khác, thế giới của riêng Thầy, của vinh quang khôn tả của Người Con Một, đầy ân sủng và chân lý.

Chúng ta tin Chúa, nhưng chưa bao giờ chúng ta khám phá được khuôn mặt thật của Ngài. Chúng ta chỉ nhìn thấy những dấu hiệu, và chỉ biết Ngài sơ sài, nông cạn. Làm sao khám phá ra khuôn mặt thật của Thầy?

Chúng ta hãy lên núi cao, nơi vắng lặng, nơi mà chỉ có riêng một mình Thầy với ta. Núi cao hôm nay của chúng ta không phải là ngọn núi nào, mà trong một nơi không còn tiếng ồn ào náo nhiệt của tivi, điện thoại, con người, công việc… Một góc nhà thờ, một bờ sông, một căn phòng im lặng… Chúng ta sẽ thấy được dung nhan Ngài. Ngài sẽ tỏ cho chúng ta thấy khuôn mặt đáng yêu của Ngài. Ngài sẽ nói với chúng ta như đã nói với tiên tri Hôsê: “Ta sẽ quyến rũ nó, đưa nó vào sa mạc, để cùng nó thổ lộ tâm tình… Ta sẽ lập với ngươi một hôn ước vĩnh cửu… Ta sẽ lập hôn ước với ngươi trong công minh chính trực, trong ân tình và xót thương; Ta sẽ lập hôn ước với ngươi trong tín thành, và ngươi sẽ được biết Đức Chúa”. (Biết ở đây có nghĩa là yêu).

Có những lời nào ngọt ngào hơn nữa không? Có những lời nào đầy ắp tình yêu như thế không?

Đó là khuôn mặt thật của Chúa chúng ta, Thiên Chúa Tình Yêu. Chúng ta cần khám phá ra khuôn mặt đáng yêu đó, chúng ta mới nếm được sự êm dịu ngọt ngào của Thiên Chúa. Đức tin của chúng ta sẽ ấm lên trong ta. Chúng ta sẽ thấy muốn ở lại với Ngài mãi, như Phêrô: “Thưa Thầy, ở đây thật tuyệt vời! Xin Thầy cho chúng con dựng ba lều…” Chúng ta muốn nếm được sự êm dịu đó không? Hãy can đảm đi vào vắng lặng, chỉ chú tâm đến một mình Chúa thôi.

Phêrô, khi khám phá khuôn mặt vinh quang của Chúa, ông đã muốn ở lại với Thầy mãi, không muốn trở về với cuộc sống hằng ngày nữa. Ông muốn kéo dài, vui hưởng hạnh phúc với Thầy mãi. Ông đã sống những giây phút tuyệt dịu với Thầy, ông không còn muốn điều gì khác. Nhưng đây chỉ là một dấu chỉ, một nếm trước mà thôi. Còn nhiều việc phải làm, còn nhiều giai đoạn phải trải qua. Thị kiến đã hết, bây giờ phải xuống núi, phải bước vào giai đoạn quyết liệt: “Con Người sẽ bị nộp, sẽ chết… và ngày thứ ba, sống lại”.

Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể vẫn đang rất gần chúng ta, nhưng chúng ta quá xa Ngài. Hãy đến, hãy ở lại với Ngài như Ngài vẫn nài nỉ chúng ta: “Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy”. Thiên Chúa phải nài nỉ chúng ta như thế sao? Có cái gì mà Ngài không làm để chứng tỏ tình thương của Ngài, nhưng chúng ta có chú ý đến Ngài đâu! Chúng ta chạy theo đủ các thứ thần tượng trần thế: minh tinh màn bạc, siêu sao bóng đá, ca sĩ ăn khách… Ngài là ai đối với chúng ta?

Các thánh đã say mê Chúa Giêsu, quỳ lâu giờ dưới chân Chúa, thâu đêm như Cha Charles de Foucauld và rất nhiều thánh khác. Sao chúng ta không thử ở lại với Chúa một vài phút sau khi ăn lấy Chúa? Sao chúng ta không mang Chúa vào cuộc sống, làm việc với Chúa, lao động với Chúa, phục vụ mọi người với Chúa. Biết bao nhiêu cách để gần gũi với Ngài.

Có lẽ chúng ta nói rằng, các tông đồ được diễm phúc hơn chúng ta, được thấy Ngài, còn chúng ta, chúng ta chỉ thấy dấu hiệu. Phải, nếu chúng ta chỉ thấy dấu hiệu, thì cũng đủ để chúng ta thấy Ngài. Nhưng chúng ta có ở lại với Ngài đâu! Chúng ta bận bịu đến nỗi không còn một giây phút nào để ở với Ngài. Chúng ta đủ lý do để từ chối Ngài. Chỉ vì chúng ta không yêu Ngài. Những người yêu nhau không bao giờ cảm thấy đủ thời giờ ở bên nhau. Đối với họ, thời giờ sao quá nhanh. Còn chúng ta, chúng ta cứ thấy thời gian quá dài khi đến với Chúa. Tình yêu của chúng ta là như thế sao? Những người yêu nhau , dù bận bịu thế nào, cũng tìm cách liên lạc với nhau. Vắng là nhớ là thương. Họ tìm mọi cách để gặp nhau, để chuyện trò, không cách này thì cách khác, phải nói với nhau cái gì đó… nhắn tin, điện thoại, thư từ… Một tiếng nói yêu thương thôi cũng đủ. Chúa Giêsu, bất cứ lúc nào cũng có thể gặp được, không cần điện thoại hay một phương tiện nào, sao chúng ta không tìm cách liên lạc với Ngài? Sao chúng ta không nói với Ngài những tiếng nói yêu thương? Ngài xa lạ lắm sao?

Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể vẫn là Chúa Giêsu trên đỉnh núi, vẫn là Chúa Giêsu sáng chói như mặt trời, vẫn là Chúa Giêsu được Chúa Cha công nhận: “Này là Con yêu dấu của Ta, các ngươi hãy vâng nghe lời Người”. Chúng ta tưởng hôm nay, Ngài chỉ là tấm bánh nhỏ thôi sao? Ngài vẫn là Đấng tràn đầy ân sủng, tràn đầy chân lý. Ngài vẫn là Đấng đã yêu thương chúng ta đến nỗi trở nên một tấm bánh nhỏ vì chúng ta, để nuôi dưỡng những con người li ti nhỏ hèn là chúng ta, thế mà chúng ta đã đối xử tệ với Ngài, không chú ý đến Ngài, và vô tình lạnh nhạt một cách có thể nói là tàn nhẫn. Chúng ta có đạo không? Chúng ta có tin không? Chúng ta hà tiện một tiếng nói, một ánh nhìn sao?

Trên đỉnh núi đó, Môsê và Êlia xuất hiện, đàm đạo với Ngài. Hai tổ phụ quan trọng đó đại diện cho Lề Luật và tiên tri đã đến, điều đó chứng tỏ Chúa Giêsu gồm tóm nơi Ngài cả hai nền tảng của Cựu Ước. Ngài kiện toàn Lề Luật và thực hiện những gì các tiên tri đã báo trước. Ngài là điểm quy tụ của cả hai dòng lịch sử, Ngài là trung tâm của mọi hồng ân, của ơn cứu rỗi. Vì thế Chúa Cha đã bảo chúng ta: “Hãy lắng nghe lời Ngài”.

Chúng ta có nghe lời Người Con Yêu Dấu của Chúa không? Nghe như thế nào? Nghe với tất cả tình yêu hay lơ đảng, chán buồn?

Lời Chúa là ánh sáng. Hãy để cho ánh sáng thần linh đó rọi chiếu vào trong u tối của chúng ta, cuộc sống chúng ta sẽ trở nên rực sáng niềm vui và can đảm. Ngài đã tỏ vinh quang phục sinh trước khi Ngài bước vào cuộc tử nạn tăm tối, nhờ đó, khi nhục nhã phủ đầy, các tông đồ mới nhận ra khuôn mặt đau thương của Ngài, Đấng xóa tội trần gian, người đầy tớ của Thiên Chúa, chết cho muôn người, mà tiên tri Isaia đã báo trước. Vì thế, khi xuống núi, Ngài căn dặn các môn đệ, đừng nói cho ai biết về thị kiến kẻo gây hiểu lầm. vì giờ của Ngài chưa đến.

Hôm nay, tham dự vào hiến tế này, chúng ta hãy nhìn vào Chúa Giêsu với cái nhìn của các tông đồ trên đỉnh núi, một cái nhìn say mê, và hãy ước mong sống với Ngài mãi mãi, dù cuộc sống chúng ta không dễ dàng, dù mọi sự đều trở nên thập giá. Hãy như Phêrô, xin cất ba lều để chúng ta không tách rời Ngài ra khỏi cuộc sống trần gian của chúng ta. Liên kết bền chặt với Ngài vì chính Ngài đã liên kết chúng ta trước.

 

20. Biến đổi

Cuộc sống của con người và vũ trụ vạn vật là một sự biến đổi liên lỉ. Có những biến đổi tích cực nhưng cũng có những biến đổi tiêu cực. Những biến đổi tích cực là khi con người hay sự vật chuyển từ một tình trạng xấu sang một tình trạng tốt hơn do nỗ lực của chính bản thân con người hay do trợ lực từ bên ngoài (Ơn Chúa, tha nhân, vũ trụ vạn vật, những biến cố…) Điển hình cho sự biến đổi này có thể kể đến hình ảnh của một Giakêu, của Phaolô, của các Tông đồ sau ngày lễ Ngũ tuần… Nhưng cũng có những biến đổi mang tính tiêu cực khi con người chọn lựa cho mình một thái độ sống ích kỷ, tham lam và kiêu căng. Khi đó, họ đang chuyển từ một tình trạng tốt sang một tình trạng xấu. Đó là hình ảnh của một vua Saul – vị vua đầu tiên của Israel, của một Giuđa Iscariot…Những cuộc biến đổi thật cần thiết biết bao trong cuộc sống dương thế của con người, nhưng phải là những cuộc biến đổi tích cực. Khi con người không còn biến đổi nữa thì có thể nói là họ đã chết rồi, hay có sống cũng chỉ là một sự hiện hữu vô hồn và không có ích gì cho chính mình cũng như cho người khác.

Bài đọc một hôm nay tường thuật cho chúng ta về việc Ápraham nghe theo tiếng Chúa gọi để ra đi đến một miền đất mà Ông không hề biết trước đó. Ông đang ở trong một quá trình biến đổi, nói đúng hơn là ông đang được biến đổi. Bởi lẽ tác nhân biến đổi cuộc đời của ông chính là Thiên Chúa, nên cuộc đời của ôn g và tương lai của ông thật huy hoàng và vững chắc.

Tin mừng hôm nay cũng tường thuật cho chúng ta nghe về việc Chúa Giêsu biến đổi dung mạo của Ngài trên núi trước mặt ba môn đệ thân tín là Phêrô, Giacôbê và Gioan. Cuộc biến đổi mà Ngài đang thực hiện mang một ý nghĩa tích cực, tiên báo vinh quang phục sinh huy hoàng sau khi Ngài chu toàn thánh ý của Chúa Cha trong chương trình cứu chuộc con người sự biến đổi tuyệt vời này làm cho các môn đệ ngây ngất trước vẻ đẹp của một Thiên Chúa vốn là Chân, Thiện, Mỹ.

Cuộc biến đổi tích cực nào cũng đòi buộc con người phải hy sinh, phải công tác vào phần của mình một cách chủ động vào trong đó. Như hạt lúa muốn trở thành cây lúa thì phải chấp nhận một sự biến đổi âm thầm trong đau đớn vì sự mục nát và thối đi của mình. Vinh quang phục sinh và phần thưởng trọng đại trên thiên quốc cũng dành cho những ai biết hy sinh quên mình, biến chấp nhận được biến đổi và thanh lọc bởi Lời của Chúa và giáo huấn của Hội thánh.

Biết trước sự yếu đuối và nhát đảm của các môn đệ, Đức Giêsu đã cho các ông thấy và chiêm ngấm trước vinh quang của Ngài, vinh quang mà Ngài sẽ lấy lại sau khi đi vào cuộc tử nạn nhằm cứu chuộc con người khỏi vòng nô lệ của tội lỗi. Vinh quang đó cũng sẽ dành cho các môn đệ và cho tất cả chúng ta nếu chúng ta tích cực và chủ động góp phần vào chương trình cứu chuộc mà Thiên Chúa đã và đang thực hiện vì con người và cho con người.

Chúa Giêsu biến đổi dung nhan của Ngài trước nhằm biểu lộ vinh quang vốn có của Ngài trước mặt các môn đệ và cũng là nhằm biến đổi các môn đệ để các ông trở nên can đảm hơn tin tưởng hơn và biết tín thác hơn vào Thiên Chúa.

Chúng ta đang sống trong những ngày Chay thánh. Giáo hội tha thiết mời gọi chúng ta hãy làm một cuộc biến đổi tích cực cho cuộc đời của mình. Nếu chúng ta đang ở trong một tình trạng xấu hay một tình trạng tội lỗi, chúng ta hãy can đảm và mạnh dạn biến đổi và cầu xin ơn được biến đổi để cuộc đời của chúng ta được nhẹ nhàng thư thái và đảm bảo cho tương lai của chúng ta được huy hoàng như tổ phụ Abraham của chúng ta. Hay nếu chúng ta đang ở trong một tình trạng không có gì tệ hại cho lắm, thì chúng ta cũng cần làm một cuộc biến đổi tích cực để có một tình trạng tốt hơn, và tiếp nhận một sức sống tốt hơn. Hãy làm cho cuộc đời của chúng ta trở thành một dòng sông không ngừng chảy về Biển cả và tiếp nhận nguồn nước sạch tinh từ Biển cả là chính Thiên Chúa của chúng ta.

 

21.             Nước Thiên Chúa

Trong sách giáo lý Tân Định, tôi vẫn còn nhớ như in câu hỏi: Ta sống ở đời này để làm gì? Thưa ta sống ở đời này để nhận biết, tôn thờ Chúa là Đấng Tạo Hoá đã dựng nên ta, và để sau này ta được hưởng hạnh phúc với Ngài trên thiên đàng đời đời. Đúng thế! Mục đích đời sống của người kitô hữu là để được hưởng hạnh phúc đời đời trên thiên đàng với Thiên Chúa.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, thuật lại cuộc biến hình uy nghi của Chúa Giêsu trên núi trước mặt ba môn đệ Phêrô, Giacôbê và Gioan. Chúa Giêsu đã tỏ cho ba môn đệ thân tín thấy thiên tính của Ngài: Một Vị Ngôi Hai Thiên Chúa vinh hiển sáng ngời “Dung nhan Người chói lọi như mặt trời và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng” và ba ông đã cảm nếm được hạnh phúc trong chốc lát. Phêrô đã thốt lên: “Chúng con ở đây thật là hay!” Cảnh Chúa Giêsu biến hình có thể hiểu được đó là hình ảnh của Nước Thiên Chúa được thể hiện ra trong chốc lát cho ba môn đệ thân tín để các ông vững tin hơn; đồng thời cũng để cho nhân loại và cho chúng ta có một vài khái niệm về Nước Thiên Chúa, mà chúng ta thường gọi là Thiên Đàng. Vậy qua đây, chúng ta cùng nhau nhận ra một vài nét đặc trưng của Nước Thiên Chúa:

  1. Nét đặc trưng thứ nhất: đó là Nước Thiên Chúa vượt ra ngoài không gian – thời gian mà con người đang sống. Không có sự phân biệt tách rời quá khứ, hiện tại và tương lai. Bởi vì, qua bài tường thuật, chúng ta thấy Êlia và Môsê là những người thuộc thế hệ xa xôi trong quá khứ đã cùng hiện diện với Phêrô, Giacôbê và Gioan là những người sống trong thế hệ hiện tại lúc bấy giờ. Và hình ảnh Chúa Giêsu sáng láng rực rỡ, biểu hiện cho cảnh tượng hiển vinh trong tương lai. Ở trần gian, con người thường đau khổ vì chịu sự chi phối của thời gian và không gian, phải ly cách với quá khứ, ly cách với ông bà tổ tiên, với nơi này chốn nọ. Còn ở trong Nước Thiên Chúa, không có sự ly cách đó nữa; cũng không còn phải sống trong không gian đầy dẫy những tai ương, bệnh tật và âu lo.
  2. Nét đặc trưng thứ hai: đó là con người trong Nước Thiên Chúa rất là xinh đẹp. Mátthêu tả rằng: “Mặt Ngài sáng chói như mặt trời, áo Ngài trắng tinh như ánh sáng”, thánh Máccô thì nói: “Áo Ngài nên rạng ngời, trắng tinh đến nỗi thợ giặt trần gian không tài nào giặt được trắng như thế”. Còn dáng vẻ của Êlia và Môsê thì thánh Luca nói: “Êlia và Môsê hiện ra sáng láng hiển vinh”. Rõ ràng con người trần gian không thể nào đẹp sánh bằng con người trong Nước Thiên Chúa.
  3. Nét đặc trưng thứ ba: đó là được hạnh phúc tròn đầy. Mặc dù, hiện tượng Chúa biến hình chỉ xãy ra trong chốc lát nhưng đã khiến Phêrô thích thú ngây ngất và đã thốt lên: “Lạy Ngài, chúng con ở đây thật là hay! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Ngài, một cho Môsê và một cho Êlia”.

Nước Thiên Chúa được hé mở cách thoáng qua cho ba môn đệ trong cuộc biến hình của Chúa Giêsu trên núi Tabor, hẳn cũng xứng đáng cho con người mong mỏi, ước ao và kiếm tìm, và thật là xứng đáng để chúng ta hy sinh vứt bỏ những bám víu ở trần gian như tiền tài, danh vọng, địa vị để đổi lấy Nước Thiên Chúa, như lời dạy của Chúa Giêsu “Trước hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,33).

Trong bài đọc một, ông Abraham đã vứt bỏ đằng sau lưng những gì là thân thiết như quê hương xứ sở, bà con láng giềng, bỏ lại ruộng đất, nhà cửa để đi theo tiếng mời gọi của Thiên Chúa. Ông đã tin vào lời Thiên Chúa hứa và ông đã lên đường đến xứ sở mà Thiên Chúa sẽ chỉ cho, để rồi ông chỉ còn tôn thờ một mình Thiên Chúa Giavê mà thôi. Và ông đã trở thành tổ phụ của những ai tin vào Thiên Chúa, ông đã chiếm được một phần gia nghiệp trong Nước Thiên Chúa.

Vậy chúng ta cũng hãy mạnh dạn tiến bước như tổ phụ Abraham, và đáp lại lời mời gọi của Chúa trong mùa chay thánh này, là hãy sám hối, thay đổi đời sống quay trở về với Thiên Chúa, hãy chọn Chúa là gia nghiệp, và Chúa là sự chọn lựa số một trong đời sống của chúng. Khi chọn Chúa là số một, đôi lúc sẽ làm chúng ta phải chùn bước, thậm chí ngã lòng nữa, lúc đó, chúng ta hãy nhớ rằng: 1/ Đức Kitô sáng láng của núi Tabor cũng chính là Đức Kitô thấm đẫm mồ hôi máu trong vườn cây dầu. 2/ Đức Kitô rực rỡ của núi Tabor cũng là Đức Kitô vác thập giá ngã lên ngã xuống nhiều lần trên đường đến núi sọ. 3/ Đức Kitô vinh quang của núi Tabor cũng chính là Đức Kitô treo trên thập giá ở đỉnh núi sọ.

Với vinh quang của Chúa biến hình, ước gì trong mùa chay thánh này, chúng ta có một sự chọn lựa dứt khoát: Chúa là gia nghiệp của chúng ta. Và như thế, chắc chắn phần thưởng Chúa dành cho chúng ta ở trên Thiên Đàng là điều hiển nhiên. Amen.

 

22.             Chúa biển đổi và biến đổi để theo Chúa – Anmai

Thiên Chúa chọn mỗi người, mỗi dân tộc mỗi cách; Thiên Chúa gọi mỗi người mỗi dân tộc mỗi cách cách tùy theo Thánh ý của Ngài. Ngài gọi, Ngài chọn để cho cho người ấy, dân tộc ấy trở thành con cái, trở thành dân riêng để thừa hưởng sản nghiệp của Ngài.

Hôm nay, qua sách Sáng Thế, chúng ta được nghe trình thuật Thiên Chúa đã chọn và gọi Áp-ram. Quả thật là một lối chọn, lối gọi sốc vì lẽ Thiên Chúa bảo Áp-ram lên đường đi theo lời Chúa chỉ vẽ. Sốc vì lẽ đang sống nơi quê cha đất tổ an bình nhưng giờ phải ra đi. Đứng trước lời mời gọi ấy Áp-ram cũng hết sức đắn đo vì không biết rằng mình đi như vậy không biết cuộc đời, tương lai mình sẽ đi về đâu. Tin vào lời Chúa, Áp-ram đã lên đường. Thiên Chúa hứa sẽ chúc phúc cho những ai chúc phúc cho Áp-ram và nguyền rủa những ai nguyền rủa Áp-ram.

Nếu chúng ta tiếp tục đọc lại lịch sử Israel và đọc lại cuộc đời của Áp-ram thì thử thách lên đường đi đến xứ sở khác chỉ là một trong những muôn vàn thử thách của Thiên Chúa thôi. Chắc chúng ta không thể nào quên được thử thách cay nghiệt nhất trong cuộc đời Áp-ram đó là việc sát tế đứa con trai duy nhất, đứa con trai đầu lòng mà ông bà có trong khi tuổi già hết sức mong manh khi có con. Thế nhưng, vẫn một niềm tín thác vào Thiên Chúa, Áp-ram đã hiến tế luôn cục cưng I-sa-ác. Sau thử thách ấy, Thiên Chúa đã đổi tên ông thành Áp-ra-ham và cho ông luôn cả một cái tên là “cha của những kẻ tin”.

Thế đấy! Áp-ra-ham đã xác tín và đã tin vào Thiên Chúa. Áp-ra-ham lên đường và lên đường dẫu rằng không biết mình đi đâu và đời mình sẽ ra sao.

Khi Áp-ra-ham tin theo Chúa, đi theo Chúa thì cuộc đời của ông hoàn toàn thay đổi. Ông không còn sống cho mình nữa nhưng ông sống cho Thiên Chúa, trong Thiên Chúa và với Thiên Chúa.

Ngày hôm nay, qua trình thuật của Matthêu, chúng ta cũng được thấy được sự biến đổi, được thay đổi khi bước theo Chúa.

Các môn đệ, chẳng ai biết Chúa Giêsu là ai cả, chỉ là những ngư phủ hết sức bình thường, đang vá lưới bên bờ biển và sau khi nghe tiếng gọi của Chúa các ông đã bỏ cha mẹ, vợ con và đi theo Chúa. Thật ra mà nói, quyết định của các ông là quyết định liều. Cuộc sống đang ấm êm bên cha, bên mẹ, bên gia đình, bên vợ bên con bỗng dưng đi theo cái con người mà ngay cả “chim có hang – chồn có tổ” còn Con Người không có chỗ tựa đầu. Bấp bênh chưa từng có, mông lung hết sức tưởng tượng.

Quen nhau, ở với nhau một thời gian và rồi hôm nay Chúa Giêsu “mời” bốn môn đệ thân tín đi theo Ngài. Hôm nay không phải lang thang đây đó ở bờ biển này, đồng bằng kia mà hôm nay lại đi lên núi. Bảo đi thì đi chứ có biết gì đâu vì đi theo Thầy là lẽ hết sức bình thường. Thế nhưng, hôm nay lại là một ngày hết sức đặc biệt. Như Matthêu thuật lại, chúng ta thấy hôm nay Chúa Giêsu cho các môn đệ thân tín thấy vinh quang của Ngài, Chúa Giêsu tỏ mình cho các môn đệ thấy về mình: “Sáu ngày sau, Đức Giê-su đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an là em ông Gia-cô-bê đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn núi cao. Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng. Và bỗng các ông thấy ông Mô-sê và ông Ê-li-a hiện ra đàm đạo với Người. Bấy giờ ông Phê-rô thưa với Đức Giê-su rằng: “Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là hay! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Ngài, một cho ông Mô-sê, và một cho ông Ê-li-a.” Ông còn đang nói, chợt có đám mây sáng ngời bao phủ các ông, và có tiếng từ đám mây phán rằng: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!”

Thật kinh khủng! Mọi ngày thì thầy Giêsu của mình hết sức bình thường nhưng hôm nay dung mạo bỗng khác, y phục khác và có cả Mô-sê và Ê-li-a hiện ra để đàm đạo nữa. Một cảnh tượng không thể tưởng tượng được và trong cái vinh quang ấy Phêrô đã nhanh nhảu nói với Chúa Giêsu để ông dựng lều cho Thầy mình ở đây để ông cùng các môn đệ chiêm ngưỡng cái vinh quang tuyệt vời này.

Sau biến cố hết sức đặc biệt này, Thầy và trò xuống núi, trở về với cái đời thường loan báo Tin Mừng. Chúa Giêsu hé lộ cho các môn đệ thấy về con người thật của mình, hé cho các môn đệ thấy vinh quang thật của mình.

Trong hành trình theo Chúa, trong hành trình loan báo Tin mừng, vốn dĩ mang trong mình là phận người mỏng dòn yếu đuối, ắt hẳn các môn đệ cũng ngã lên té xuống vì đức tin mỏng dòn non yếu. Thế nhưng, được ở gần Chúa Giêsu, được ở bên Chúa Giêsu và đặc biệt qua Thánh Thể và qua Phục Sinh các môn đệ ở trong Chúa Giêsu nữa. Ở bên, ở trong để rồi cuộc đời của các môn đệ khác với những người không tin. Cuộc đời các môn đệ khác với những người không tin. Dù gặp khó khăn, dù gặp thử thách nhưng các môn đệ đã lấp lánh, đã chiếu sáng cuộc đời của các Ngài ở giữa vòm trời đen tối như Thánh Phaolô mời gọi “Anh em hãy chiếu sáng như những vì sao giữa thế gian”.

Chiếu sáng giữa thế gian như Phaolô mời gọi không phải là tẩm xăng vào người để đốt cho người sáng lên để mọi người được thấy! Chiếu sáng giữa thế gian không phải là mua dầu, mua đèn gắn vào trong người để mình tỏa sáng cho thế gian. Chiếu sáng giữa thế gian có nghĩa là chiếu tỏa ánh sáng của Chúa Giêsu, ánh sáng của Tin mừng ở giữa cuộc đời này.

Ánh sáng mà Chúa Giêsu muốn, mà Thánh Phalô mời gọi còn phảng phất trong I-sa-i-a chương 58. Chúng ta đọc I-sa-i-a chương 58 sẽ gặp tâm tình như thế này:

Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là thế này sao:

mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc,

trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm?

Chẳng phải là chia cơm cho người đói,

rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ;

thấy ai mình trần thì cho áo che thân,

không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục?

Bấy giờ ánh sáng ngươi sẽ bừng lên như rạng đông,

vết thương ngươi sẽ mau lành.

Đức công chính ngươi sẽ mở đường phía trước,

vinh quang Đức Chúa bao bọc phía sau ngươi.

Bấy giờ, ngươi kêu lên, Đức Chúa sẽ nhận lời,

ngươi cầu cứu, Người liền đáp lại: “Có Ta đây! “

Nếu ngươi loại khỏi nơi ngươi ở

gông cùm, cử chỉ đe doạ và lời nói hại người,

nếu ngươi nhường miếng ăn cho kẻ đói,

làm thoả lòng người bị hạ nhục,

thì ánh sáng ngươi sẽ chiếu toả trong bóng tối,

và tối tăm của ngươi chẳng khác nào chính ngọ. (Is 58, 6-10)

Thế đấy! Những lời mời trên đây của I-sa-i-a cho chúng ta biết thế nào là ánh sáng của những ai mang trong mình danh Kitô hữu.

Chúng ta đang sống trong mùa Chay Thánh, I-sa-i-a vừa nhắc cho chúng ta cách ăn chay mà Thiên Chúa ưa thích, mà Thiên Chúa mời gọi: rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ;thấy ai mình trần thì cho áo che thân,không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục?Bấy giờ ánh sáng ngươi sẽ bừng lên như rạng đông…

Xin cho chúng ta biết bắt chước như Áp-ra-ham biến đổi cuộc đời khi bước theo Chúa, xin cho chúng ta cũng biết bắt chước như các môn đệ cũng biến đổi con người hèn kém của mình để bước theo Chúa.

 

23.             Con đường Thập Giá – Con đường vinh quang

Tuần trước chúng ta đã cùng với Chúa Giêsu lên núi để chịu ma quỷ cám dỗ. Ðáng tiếc cho ma quỷ là nó không làm gì được Chúa Giêsu. Chỉ vì Người một mực chọn và làm theo lời dạy của Chúa Cha. Chúa Nhật hôm nay chúng ta tiếp tục cùng ba môn đệ theo Chúa Giêsu lên núi. Nếu như tuần trước chúng ta thấy Chúa Giêsu có vẻ yếu đuối bao nhiêu thì hôm nay Người trở nên mạnh mẽ oai quyền bấy nhiêu. Chúa Giêsu đã trở về tình trạng vinh quang của Người: “Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng” (Mt 17, 2b).

Với vinh quang này, ba môn đệ cảm thấy rất thích nên Phêrô đã không ngần ngại thưa: “Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là hay!” (Mt 17, 4b). Liền sau đó là tiếng Chúa Cha từ đám mây phán: “Ðây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!” (Mt 17, 5b). Chúa Cha rất hài lòng về Chúa Giêsu. Vì Người đã vui lòng đón nhận con đường mà Chúa Cha đã vạch sẵn cho. Con đường ấy chính là con đường thập giá. Cũng chính con đường thập giá ấy mới là con đường vinh quang đích thật. Và rồi Chúa Cha cũng muốn mời gọi ba môn đệ và tất cả chúng ta hãy đi theo con đường Thập giá cùng với của Thầy mình.

Chúa Giêsu cũng là Thiên Chúa thật nên vinh quang mà chúng ta chiêm ngưỡng là điều bình thường. Ðiều đáng nói là vì thương và vì muốn đem lại ơn cứu độ cho con người chúng ta, nên Chúa Giêsu đã đón nhận con đường thập giá ấy. Chúng ta thấy không bao giờ Chúa Giêsu kêu gọi người ta làm gì mà chính Người đã không làm trước. Chẳng hạn khi Người kêu gọi hãy tha thứ thì chính Người cũng đã tha thứ cho những kẻ đã bắt bớ, đã sỉ nhục mình: “Lạy Cha xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm”. (Lc 23, 34. Cho nên, nếu Chúa Giêsu đã đi con đường thập giá thì những ai muốn theo Người không thể đi đường khác được. “Ai muốn theo Thầy thì hãy từ bỏ chính mình vác thập giá mình mà theo Thầy” (Mt 16, 24).

Vậy đâu là con đường thập giá. Ðó là con đường từ bỏ những ý riêng của mình mà sống theo thánh ý Chúa Cha. Bài đọc 1 cho thấy ông Abram được Thiên Chúa mời gọi: “Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi” (St 12, 1b). Thật là một lời mời gọi hết sức vô lý theo cái nhìn của chúng ta. Tuy nhiên, ông đã vâng lời Chúa để ra đi mà không một lời phàn nàn. Nhờ đó mà ông đã trở thành Tổ phụ của nhiều dân tộc.

Hằng ngày trong cuộc sống chắc chắn có rất nhiều điều trái ý nhưng nếu biết đó là thánh ý Chúa Cha, chúng ta hãy tin tưởng mà bước đi. Bước đi như thế là chúng ta đang đi theo Chúa Giêsu – vị Thầy Chí Thánh của chúng ta. Bước theo con đường thập giá cũng chính là con đường vinh quang.

 

24.             Thiên Chúa vẫn còn hiển dung

(Trích từ ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm. Ignatiô Trần Ngà)

Nếu bạn là một người từ hành tinh khác vừa mới đáp xuống địa cầu lần đầu tiên, ắt bạn sẽ thấy trái đất nầy quá đỗi nhiệm mầu: ngay cả mỗi chiếc lá, mỗi chiếc vỏ sò, mỗi cánh bướm, mỗi bông hoa… đều có một sắc thái riêng, một vẻ đẹp riêng thật quyến rủ, thật nhiệm mầu và bạn cảm thấy tâm hồn ngây ngất vì vẻ đẹp lạ lùng của chúng.

Thế nhưng trong thực tế, không mấy ai có thể cảm nhận được vẻ đẹp nhiệm mầu của những tạo vật như thế. Tại sao?

Vì mỗi lần nhìn vào những sự vật chung quanh, chúng ta không nhìn chúng bằng cặp mắt đầy ngạc nhiên của trẻ thơ, bằng ánh mắt của người mới thấy sự vật lần đầu; chúng ta không nhìn chúng y như chúng là, nhưng chúng ta để cho những hình ảnh ta có về chúng (vốn có sẵn trong tâm trí ta) phóng hiện ra bên ngoài và bao phủ lên những vật đó.

Thế là vạn vật chung quanh ta trở thành cũ rích và nhàm chán, vẻ đẹp tinh khôi nhiệm mầu của chúng đã bị hình ảnh ta có về chúng phóng rọi ra che phủ nên không còn hiển dung ra được nữa. Một trong những nổ lực của thiền nhân là thanh tẩy cái nhìn mang tính chủ quan của mình về ngoại giới để có thể cảm nhận được vạn vật đúng với bản chất của nó. Lúc đó, sự kỳ diệu của thế giới sẽ hiện nguyên hình.

Trong cuốn sách The Golden String, văn sĩ người Anh Bede Griffiths mô tả lại một khám phá diệu kỳ của ông khi còn là một cậu học sinh.

Một buổi chiều hè, Bede Griffiths ung dung thư thái dạo chơi ở bìa rừng. Trong lúc thơ thẩn một mình bỗng dưng cậu nhận ra tiếng hót líu lo của đàn chim trên tàng cây mới tuyệt vời làm sao! Cậu rất ngạc nhiên vì từ hồi nào đến giờ chưa bao giờ được nghe chúng hót hay đến thế.

Đang lúc tiếp tục bước tới, cậu gặp thấy những đoá hoa của những bụi táo gai như đang mỉm cười niềm nở chào đón cậu trông dễ thương lạ lùng và đang toả hương trong gió. Bede cũng rất ngạc nhiên vì từ trước tới nay cậu đã từng thấy những bông hoa như thế nở rộ cả trăm lần mà không hề nhận ra vẻ đẹp tinh khôi và hương thơm dịu dàng của chúng.

Sau cùng cậu tìm đến một nơi yên tĩnh, đứng tựa vào thân cây, lặng ngắm vầng kim ô đang dần dần chìm xuống sau rặng núi lam cuối chân trời. Bỗng chốc cậu cảm thấy trời đất vô cùng huyền diệu và bất giác cậu nghiêng mình quì gối xuống biểu lộ một niềm cảm xúc rất thánh thiêng: cậu vừa trải nghiệm được sự hiện diện rất nhiệm mầu của Thiên Chúa trong tạo vật của Ngài.

***

Theo Tin Mừng Matthêu được trích đọc hôm nay, chiều hôm ấy trên núi cao, ba môn đệ Phêrô, Gioan và Giacôbê cũng có những trải nghiệm tuyệt vời về Chúa Giêsu. Cũng vẫn là Chúa Giêsu bằng xương bằng thịt mà các ông vẫn thường gặp gỡ tiếp xúc hằng ngày, nhưng lần nầy, các ông lại nhìn thấy Ngài dưới một dung mạo mới: thật sáng ngời, thật hấp dẫn và đầy uy nghi, lại có cả Môi-sê và tiên tri Êlia hiện ra đàm đạo với Ngài.

Lòng đầy hoan lạc, các ông không muốn cho giây phút mầu nhiệm đó trôi đi. Các ông muốn níu kéo khoảnh khắc thần tiên ấy lại nên Phêrô thay mặt anh em thưa với Chúa Giêsu: “Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là hay! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Ngài, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia.”

***

Hôm nay, Thiên Chúa vẫn hiển dung dưới thiên hình vạn trạng nhưng vì đôi mắt chúng ta bị che phủ nên không nhận ra Ngài.

* Vinh quang của Thiên Chúa vẫn được hiển dung (được tỏ bày) trong các tạo vật của Ngài, qua bầu trời lung linh ánh sao đêm hay những áng mây rực rỡ ban ngày, qua những cánh đồng, những khe suối và rừng cây, qua tiếng chim ca, qua bông hoa đang nở, qua mọi tạo vật chung quanh…

Vua Đavít cảm nhận được vinh quang ấy rạng ngời lên trong vũ trụ nên đã thốt lên:

“Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa.

Không trung loan báo việc tay Người làm” (Tv 19, 2)

* Tình yêu của Thiên Chúa được hiển dung (được tỏ bày) rõ nét nơi tình thương chan chứa của người cha ngày đêm lao nhọc vì con, qua sự hi sinh miệt mài của người mẹ, vắt kiệt sức mình để chăm lo cho đàn con khôn lớn…

* Mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa cũng được hiển dung nơi các gia đình đấm ấm thuận hoà, chan chứa yêu thương hiệp nhất.

* Và đặc biệt, Thiên Chúa vẫn hiển dung rạng ngời nơi những anh chị em cùng sống với ta, nhưng tiếc thay, chúng ta không cảm nhận được, nên bỏ lơ, nên thờ ơ và không còn muốn dựng lều chung sống với những hiện thân của Chúa chung quanh chúng ta.

Thông thường, chúng ta nhìn đời, nhìn người qua cặp kính màu đen nên chúng ta chỉ thấy được khía cạnh u tối của người đời. Xin Chúa thanh tẩy nhãn quan chúng ta để có thể nhận ra mọi người là hiện thân của Thiên Chúa, là chi thể của Chúa Giêsu.

Ba môn đệ nhận ra Thiên Chúa hiển dung nơi thân phận người phàm của Đức Giêsu thì chúng ta cũng xin Chúa cho chúng ta được nhận ra Chúa hiển dung nơi những anh chị em đang sống chung quanh, nhờ đó, chúng ta sẽ cảm nhận được hạnh phúc chan hoà vì được sống cùng, sống bên nhau và có thể nói như thánh Phêrô xưa: chúng con được ở chung với nhau nơi đây thì thật là hạnh phúc. (Mt 17,4)

 

25.             Chúa hiển dung – Lm. Ignatiô Trần Ngà

Người đời thường mang hai bộ mặt: mặt thật và mặt nạ. Khi mặt nạ rơi xuống, bộ mặt thật sẽ hiển dung (biểu lộ ra bên ngoài).

Khi nhập thể làm người, Chúa Giêsu mang dung mạo con người, mang bản tính và khuôn mặt con người, hoàn toàn trở nên giống như con người, ngoại trừ tội lỗi. Vì thế, người đồng hương Na-da-rét gọi Người là “Bác thợ” (Mác-cô 6,3) hay “con Bác thợ Giu-se, con bà Maria” (Lc 4, 22. Mt 13, 55)

Hầu hết người Do-thái đồng thời với Chúa Giêsu chỉ nhìn thấy khuôn mặt nhân loại của Chúa Giêsu mà thôi nên cho rằng Người chỉ là người phàm. Họ trách Chúa Giêsu lộng ngôn khi Người tỏ ra Người là Con Thiên Chúa. “Ông là người phàm mà tự xưng mình là Con Thiên Chúa.”

Nhưng ngoài bản tính nhân loại, Chúa Giêsu còn có bản tính Thiên Chúa.

 

Khi Chúa Giêsu hiển dung

Trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Chúa Giêsu báo trước cho các môn đệ biết Người sẽ lên Giê-ru-sa-lem để hiến thân chịu chết. Lời tiên báo nầy làm cho tinh thần các môn đồ bấn loạn.

Để củng cố tinh thần sa sút của các ông, nhằm giúp các ông vượt qua thử thách đau thương sắp đến và bền chí theo mình đến cùng, Chúa Giêsu bộc lộ cho ba môn đệ thân tín thấy chân tướng của Người: Người là Đấng uy nghi sáng láng, là Con yêu dấu của Chúa Cha. Sự kiện nầy được thánh sử Mat-thêu thuật lại như sau: “Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan … tới một ngọn núi cao. Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng. Và bỗng các ông thấy ông Môsê và ông Êlia hiện ra đàm đạo với Người.” … “Chợt có đám mây sáng ngời bao phủ các ông, và có tiếng từ đám mây phán rằng: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!”

Dung mạo Thiên Chúa được hiển dung nơi Đức Giêsu Na-da-rét trên ngọn núi cao đã làm cho tâm hồn ba môn đệ ngất ngây trong niềm hạnh phúc vô biên. Vì thế, Phêrô muốn sống mãi giờ khắc tuyệt vời ấy và không muốn rời bỏ khung cảnh thần tiên đó. Ông đề nghị dựng lều ở lại lâu dài trên núi: “Bấy giờ ông Phêrô thưa với Đức Giêsu rằng: “Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là hay! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Ngài, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia.”

Sự hiển dung của Chúa Giêsu trước mặt ba môn đệ đã khiến cho tâm hồn các vị tràn ngập niềm vui và hạnh phúc; còn khi chúng ta hiển dung, để lộ chân tướng, để lộ khuôn mặt thật của ta ra thì người khác sẽ cảm thấy thế nào?

 

Khi chúng ta hiển dung

Jiddu Krishnamurti, người Ấn-độ (1895- 1986) là một tác giả và nhà diễn thuyết nổi tiếng về các vấn đề triết học và tinh thần, cho rằng, trong mỗi con người có ba “nhân vật” đang chung sống:

* Một là “tôi-là”. Đây là con người thật của tôi, chân tướng của tôi. Ví dụ: bản chất tôi (tôi-là) là người tham lam, ích kỷ, lười biếng…)

* Hai là “Tôi-muốn-là”. Đây không phải là bản chất con người tôi, nhưng là con người mà tôi mong muốn trở thành. Ví dụ: Tôi hiện là người tham lam, ích kỷ, lười biếng nhưng tôi muốn sống như là người quảng đại, vị tha, năng động…

* Ba là “Tôi-tưởng-tôi-là”. Đây cũng không phải là bản chất con người tôi, nhưng là ảo tưởng tôi có về mình. Ví dụ: Một số kinh sư và Pha-ri-sêu thời Chúa Giêsu thực chất là người tham lam dối trá, nhưng cứ tưởng mình là người công chính đạo đức.

Đây chính là cái mặt nạ đẹp mà tôi đeo lên để che đậy khuôn mặt thật u ám của mình. Từ lâu nay tôi tưởng tôi là người đàng hoàng, đạo đức, mẫu mực… Tôi nhập vai khá tốt nên những người mới tiếp xúc đều tưởng tôi là người đạo đức chân chính và ngay cả bản thân tôi cũng tưởng mình như vậy. Nhưng đến một lúc nào đó, ở một nơi nào đó, tôi vô tình đánh rơi mặt nạ khỏi khuôn mặt mình; lúc bấy giờ tôi mới “hiển dung”, mới hiện nguyên hình là một tên đạo đức giả.

 

Bài học từ Lời Chúa

Lời Chúa trong Tin Mừng hôm nay mời gọi tôi nhìn thật sâu vào đáy lòng mình, nhìn xuyên qua vai diễn mà tôi đang đóng – vai “tôi-tưởng-tôi-là ” – để nhận ra bản chất con người tôi (tôi-là) thật là khả ố. Từ đó, tôi mới tự thấy xấu hổ về mình. Từ đó tôi mới quyết tâm cải thiện cuộc đời, tô điểm dung nhan, trau dồi cho mình những phẩm chất cao đẹp.

Nhờ thế, khi phải “hiển dung” (tức là bộc lộ chân tướng) trước mặt người khác (dù muốn hay không việc nầy cũng phải xảy ra), chân dung tôi không đến nỗi u ám, xám xịt, mốc meo… nhưng có được một chút sáng ngời, phần nào giống như chân dung chói lọi của Chúa Giêsu khi Người hiển dung trên núi với ba môn đệ năm xưa.

 

26.             Biểu lộ phẩm chất Ki-tô hữu

(Suy niệm của Lm. Inhaxiô Trần Ngà)

Khi đến thăm Thái Lan, du khách thường tìm đến đền thờ Wat Traimit tại Bangkok để chiêm ngắm bức tượng Phật đang ở tư thế ngồi cao đến 3 mét, được đúc bằng vàng nguyên khối, nặng đến 5 tấn rưỡi!

Theo sử sách ghi lại thì bức tượng này được đúc vào khoảng từ thế kỷ 13 đến 15. Trong thời chiến tranh nổ ra giữa Thái Lan và Miến Điện, người Thái sợ bức tượng vàng quý báu này lọt vào tay người Miến nên đã trát bê tông bao bọc tượng, che giấu khối vàng bên trong nhằm đánh lừa quân địch. Thế là những thế hệ người Thái sau này cứ tưởng đây chỉ là bức tượng bê tông tầm thường nên có thời bức tượng này bị đặt vào nơi bất xứng và bị lãng quên.

Vào năm 1955, bức tượng được di dời đến một ngôi đền mới, trong khi vận chuyển, một số giây thừng ràng quanh tượng bị đứt làm cho tượng ngã lăn xuống đất, lớp bê tông bọc tượng bị nứt ra, cho thấy ánh vàng lấp lánh bên trong. Thế là nhờ sự cố không may này, người ta phát hiện được đây là bức tượng vàng nguyên khối tuyệt đẹp và vô cùng quý báu đã bị che phủ bằng bê tông suốt hàng trăm năm qua.

Từ đó, bức tượng Phật vàng được rất nhiều Phật tử chiêm bái, được du khách khắp nơi thăm viếng, được xem là báu vật của Thái Lan.

Trong 33 năm sống ở dương gian, Chúa Giê-su cũng gặp hoàn cảnh tương tự. Mặc dù Ngài vốn là Thiên Chúa toàn năng uy quyền vinh hiển, nhưng Ngài đã mặc lấy thân xác người phàm, xác thịt phàm trần đã che phủ thần tính vinh hiển của Ngài, vì thế Ngài bị người đời xem thường.

Thế rồi qua biến cố hiển dung trên núi được thánh Mát-thêu thuật lại trong Tin mừng hôm nay (Mt 17, 1-9), thần tính của Chúa Giê-su được biểu lộ, nên ba môn đệ thân tín là Phê-rô, Gia-cô-bê và Gioan mới thấy được sự sáng láng vinh hiển của Ngài, mới biết được Ngài là Con chí ái của Thiên Chúa Cha.

Hôm nay, Ki-tô hữu chúng ta cũng gặp hoàn cảnh tương tự.

Mặc dù chúng ta là chi thể của Chúa Giê-su, là đền thờ của Chúa Thánh Thần, có giá trị cao quý hơn bất cứ kho tàng hay báu vật nào trên thế gian.

Tuy nhiên, sự cao quý tốt đẹp này có thể bị bao bọc bởi một “lớp bê tông”, tựa như bức tượng Phật vàng ở Thái Lan, làm cho chúng ta bị mất giá trị trước mặt người đời.

Nơi người này, lớp “bê tông” bao bọc có thể là tính kiêu căng, tự phụ, tham lam, ích kỷ… Nơi người khác là lòng ghen ghét, hận thù… Những “lớp bê tông” này làm cho người ta trở nên tầm thường, xấu xa, mất giá…

Tiếc thay, những “lớp bê tông” này rất cứng chắc, bám chặt vào người ta và khó lòng phá vỡ được.

Sở dĩ nhiều người không phá nổi những “lớp bê tông” này, không chừa bỏ được những thói hư tật xấu bao quanh mình, là vì những lý do sau đây:

Thứ nhất, không tự biết mình.

Con người có mắt nhìn ra mà không có mắt nhìn vào. Khuôn mặt duy nhất trên đời mà chúng ta không thể thấy trực diện, đó là khuôn mặt của chính ta. Người ta thấy rõ nốt ruồi nhỏ bằng hạt tấm trên khuôn mặt người khác; trong khi cả một vết dơ lớn như đồng tiền trên mặt mình thì lại không thấy.

Mà vì không nhìn thấy được những tì vết của mình, những thói hư tật xấu của mình nên người ta không thể lột bỏ chúng được, cũng như ta không thấy khuôn mặt mình dơ thì ta không cần rửa mặt, không thấy tay mình bẩn thì không cần rửa tay.

Ngoài ra, khi có ai đó chỉ cho thấy những khiếm khuyết, những lầm lỗi của bản thân mình, thì người được chỉ lỗi cảm thấy bị tổn thương, bị xúc phạm… nên đâm ra tức tối, căm giận người chỉ lỗi cho mình. Vì thế, không ai còn dám chỉ lỗi cho và người ta cứ mang tật xấu suốt đời.

Thứ hai, tính xấu bám chặt vào bản thân ta như da bọc thân.

Những “lớp bê tông” này bám chặt vào bản thân chúng ta, trở thành như da thịt của chúng ta nên không dễ gì lột bỏ đi được. Có một số người đã mang tính kiêu căng thì kiêu căng cho đến chết; mang tính tham lam, ích kỷ… thì cũng sẽ mang chúng xuống mồ. Chính vì thế mà xưa nay người ta thường nói: “Cái nết đánh chết không chừa.”

Thế là phẩm chất cao cả của người Ki-tô hữu bị những nết xấu bao bọc, che phủ như bê tông che phủ bức tượng vàng, khiến cho họ bị người khác xem thường và chê trách.

Lạy Chúa Giê-su,

Xưa kia trên núi cao, Chúa để cho thiên tính của Chúa biểu lộ ra, xuyên qua nhân tính phàm trần, để cho ba môn đệ thân tín được thấy chân dung đích thực của Chúa.

Xin Chúa cũng giúp chúng con lột bỏ “lớp bê tông” thói hư tật xấu đang bao bọc chúng con, để dung mạo người con Thiên Chúa nơi chúng con cũng được tỏ ra trước mặt mọi người.

 

27.             Vinh quang đích thực

(Suy niệm của Lm. JB. Lê Ngọc Dũng)

Đức Giêsu biến hình trên núi Tabor cho ba môn đệ là Phêrô, Gioan và Giacôbê được thấy vinh quang sáng láng của Ngài. Aó Ngài trắng tinh như tuyết; mặt Ngài sáng chói như mặt trời. Chứng kiến cảnh tượng đó các tông đồ ngây ngất hạnh phúc (x. Mt 17,1-9).

Danh dự, vinh quang là điều thường ai cũng mong được. Danh dự vinh quang đôi khi còn được đặt cao hơn cả lợi lộc, hơn cả miếng cơm manh áo. Tục ngữ Việt Nam, có câu “Một miếng giữa làng bằng sàng xó bếp”. Hẳn là chúng ta cảm thấy hạnh phúc vui sướng khi có được danh dự, vinh quang.

Đức Giêsu tỏ mình vinh quang để làm gì? Phải chăng Ngài cũng thích danh dự vinh quang như con người chúng ta?

Có người tưởng như vậy, vì đã từng được nghe sách Thánh nói trên trời các thiên thần hằng ca tụng Thiên Chúa, hằng tung hô ngài là “Thánh, Thánh, Thánh”. Ở trần thế này, chúng ta được dạy rằng phải ca tụng Thiên Chúa, hãy làm vinh danh Ngài và để rồi chúng ta cũng được vinh quang với Ngài trên thiên đàng.

Vậy phải chăng Chúa Giêsu cũng muốn tỏ vinh quang kiểu như con người chúng ta, khi Ngài biến hình trên núi?

Chắc chắn là Chúa Giêsu không muốn tỏ vinh quang như kiểu con người chúng ta. Tuy nhiên, ta có thể hỏi, kiểu tỏ vinh quang của Ngài phải chăng là để chứng tỏ mình là đấng thánh, đấng thần thiêng, có đủ quyền năng, đầy cao sang, để rồi các tông đồ luôn trung thành theo Ngài?

Nếu chỉ như vậy thì xem ra Đức Giêsu đã bị thất bại nặng nề, vì các tông đồ đã không trung thành gần ngay sau đó. Ở vườn Cây Dầu, khi Đức Giêsu bị bắt, các môn đệ bỏ trốn hết! Phêrô, người đứng đầu nhóm, chối Chúa đến ba lần!

Vậy thì việc biến hình trên núi Tabor của Chúa Giêsu có ý nghĩa như thế nào?

Chìa khóa để hiểu, chính là lời dạy của Chúa Giêsu: “Các con không được nói với ai thị kiến này cho tới khi Con Người từ cõi chết sống lại” (Mt 17,9). Chúa Giêsu đã cấm các môn đệ loan truyền vinh quang của Ngài cho tới khi Ngài từ cõi chết sống lại. Điều này hàm ý rằng: Nếu loan truyền sớm trước đó, thì sẽ bị hiểu lầm. Vinh quang của Thiên Chúa sẽ bị hiểu lầm như kiểu vinh quang thế gian.

Như thế vinh quang đích thực của Chúa Giêsu liên hệ mật thiết với sự chết và sống lại của Ngài.

Để hiểu rõ hơn chúng ta cùng quay trở về bài Tin Mừng tuần trước: Chúa Giêsu chịu ma quỷ cám dỗ. Ma quỷ đã nói: “Nếu ông là con Thiên Chúa, thì hãy biến đá thành bánh đi … Nếu ông là Con Thiên Chúa thì hãy nhảy từ nóc đền thờ xuống đi.” (x. Mt 4,1-11).

Đức Giêsu đã không tỏ mình ra là Con Thiên Chúa theo kiểu ma quỷ nói. Điều này có nghĩa là, Ngài đã không bày tỏ vinh quang bằng cách phô trương thanh thế, biểu dương quyền lực. Đức Giêsu đã từ chối chước cám dỗ đó. Nhưng Người sẽ tỏ mình ra là Con Thiên Chúa trong Mầu nhiệm Khổ nạn và Phục sinh. Chính thập giá mới là nơi Ngài tỏ cho nhân loại biết mình là Con Thiên Chúa. Chỉ có cái chết của Con Thiên Chúa mới thắng nổi sự chết, và nhờ đó chúng ta được vượt qua sự chết. Cái vinh quang thật sự của Thiên Chúa là sự cứu thoát chúng ta. Có thể nói đó là vinh quang cứu độ, vinh quang cứu giúp chúng ta khỏi tội lỗi và khỏi sự chết muôn đời.

Chính cái vinh quang mà Ngài tỏ cho ba môn đệ được thấy, sẽ chỉ đạt được trong Mầu nhiệm Thập giá. Qua sự biến hình, Ngài muốn cho các  ông đừng có ảo tưởng về một vinh quang trần thế, nghĩa là mơ ước rằng Ngài sẽ làm vua cai trị Israel và các ông sẽ được như những ông quan lớn, cao sang, có nhiều quyền lực. Đồng thời, Ngài cũng chuẩn bị cho các ông khỏi chán nản thất vọng sau này, khi đi rao giảng, bị bắt, bị lên án và chịu tử đạo.

Vì vậy, qua việc biến hình, Chúa Giêsu dạy cho các Tông đồ và các Kitô hữu rằng, vinh quang đích thực không là con đường của danh giá, của quyền lực, nhưng phải là con đường của hy sinh đau khổ vì yêu thương, yêu cho đến cùng, cho dù có chết vì yêu.

Ở trong tập nhật ký của Charles de Foucaul, người ta đọc thấy câu này:

“Tôi muốn lập một tu hội tiểu đệ và tiểu muội của Đức Giêsu trên khắp thế giới.”

Năm năm sau đó, người ta cũng lại đọc thấy câu này, nhưng có dài thêm một ít: “Tôi muốn lập một tu hội tiểu đệ và tiểu muội của Đức Giêsu trên khắp thế giới bằng sự hy sinh cầu nguyện.” Ngài đã thêm dòng chữ: “bằng sự hy sinh cầu nguyện.”

Và mười năm sau, người ta lại đọc thấy câu đó, nhưng dài hơn một chút nữa:

“Tôi muốn lập một tu hội tiểu đệ và tiểu muội của Đức Giêsu trên khắp thế giới bằng sự hy sinh và cầu nguyện và bằng cái chết của tôi.” Ngài đã thêm dòng chữ: “và bằng cái chết của tôi”.

Và đúng như thế! Charles de Foucaul đã bị một kẻ cuồng tín đâm chết. Sau đó tu hội tiểu đệ tiểu muội đã nổi tiếng, phát triển nhanh, hầu như có mặt khắp nơi trên thế giới.

Con đường vinh quang qua đau khổ và cái chết của Đức Giêsu ban đầu đã bị các Tông đồ chối từ, nhưng sau này trở thành con đường cho chính các Tông đồ đã đi. Các ngài đã hy sinh, hy sinh ngay cả chính mạng sống mình để loan báo tình yêu cứu độ của Thiên Chúa. Tiếp theo sau các Tông đồ biết bao nhiêu thế hệ cha ông chúng ta cũng đã đi con đường vinh quang đích thực đó. Các ngài đã trở nên thánh. Cách riêng là các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Còn chúng ta chúng ta sẽ đi con đường vinh quang nào?

 

28.             Vinh quang – Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Để chuẩn bị chương trình cứu độ loài người, Thiên Chúa đã chọn ông Abram làm tổ phụ một dân tộc. Vào thời điểm đó, ông Abram và bà Sara còn hiếm muộn, vì tuổi đã cao mà chưa có con nối dòng. Thiên Chúa đã ban lời hứa: Ta sẽ làm cho ngươi nên một dân lớn, Ta sẽ ban phúc cho ngươi, cùng làm vinh danh ngươi, ngươi sẽ được diễm phúc (Stk 12, 2). Tổ phụ đã bước đi trong niềm tin phó thác và một lòng tin tưởng tuyệt đối vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Theo lệnh Chúa, ông bà đã rời quê hương xứ sở đi đến miền đất Chúa hứa. Ông Abram đã trải qua biết bao thử thách thăng trầm. Ông vâng lệnh Chúa một cách vô điều kiện, ngay cả khi Thiên Chúa muốn ông hiến dâng đứa con trai độc nhất làm hy tế. Qua sự trung tín, Abram đã được Thiên Chúa đổi tên thành Abraham. Abraham trở nên tổ phụ của tất cả những người có niềm tin vào Thiên Chúa duy nhất. Ông đã được Thiên Chúa đoái hoài ban cho có con đàn, cháu đống nối dòng trải qua muôn thế hệ từ đời nọ tới đời kia.

Dân tộc Do-thái thuộc dòng dõi của tổ phụ Abraham. Một dân tộc đã được Chúa yêu thương chăm sóc dẫn đường, nhưng cũng là một dân phải chịu nhiều sự đắng cay, khổ đau và thăng trầm nhất trong lịch sử nhân loại. Khoảng năm 1300 B.C., dòng dõi con cháu của tổ phụ Abraham đã rời nước Ai-cập để tiến vào Miền Đất Hứa. Năm 996 trước Công Nguyên, Vua Đavid đã chiếm hữu thành Giêrusalem và đặt làm thủ đô của vương quốc. Con của vua Đavid là vua Salômôn đã xây dựng Đền Thờ đầu tiên năm 950 B.C. để kính thờ Thiên Chúa. Năm 586 B.C., Đền thờ Giêrusalem đã bị phá hủy bởi Vua Nebuchadezzar và dân chúng đã phải chịu cảnh lưu đầy tại Babylon. Năm 515 B.C., con dân được trở về quê hương xứ sở để xây dựng lại Đền Thờ lần thứ hai. Khi Chúa Giêsu xuất hiện rao giảng Tin Mừng, Ngài đã tiên báo về sự sụp đổ của đền thờ Giêrusalem. Vào năm 70 A.D., Đền Thờ Giêrusalem đã bị tàn phá bình địa bởi Hoàng đế Titô và chỉ còn để lại bức tường than khóc ô nhục cho tới nay.

Trải qua 20 thế kỷ, dân tộc Do-thái chịu trăm ngàn thách đố dưới sự chiếm đóng và đô hộ của nhiều quốc gia. Dân chúng phải đi tản mác khắp nơi trên thế giới. Mãi tới năm 1948, Nước Do-thái mới được công nhận là một nước độc lập và tự trị. Giêrusalem trở thành thủ đô của nước Do-thái (State of Israel). Và nhờ sự qủa cảm dũng lực của thần dân Do-thía từ khắp mọi nơi trên thế giới, năm 1967, họ đã mở cuộc chiến tranh tấn công 6 ngày vào các nước lân bang của Israel, đã nới rộng và tái chiếm nhiều phần đất của tổ tiên thuở xưa. Gần 2 ngàn năm lưu lạc, giờ đây, dân tộc Do-thái đã chính thức được sống trên phần đất mà các tổ phụ đã dựng xây. Miền đất đã ghi dấu tất cả những giai đoạn thăng trầm qua thời các tổ phụ, các quan án, các vua, các tiên tri và hình thành lịch sử Ơn Cứu Độ. Chính trên miền đất này, Chúa Giêsu đã xuất hiện rao giảng Tin mừng cứu độ. Một ngày kia, Chúa đã đưa ba môn đệ lên núi Taborê và biến hình vinh quang trước mặt các ông. Thiên Chúa vẫn đoái thương con dân mà Người đã chọn: Ta sẽ ban phúc cho ai chúc phúc ngươi, và chúc dữ cho ai chúc dữ ngươi. Mọi dân tộc trên mặt đất sẽ nhờ ngươi mà được diễm phúc” (Stk 12, 3).

Tất cả những lời giảng dạy uy quyền cùng với những phép lạ kèm theo đã chứng thật Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Chúa đã hạ mình nhập thể mặc lấy thân xác loài người để cư ngụ giữa chúng ta. Chúa biến hình là trở về tình trạng nguyên thủy của Đấng là trung gian vạn vật. Chúa đã muốn mạc khải bản tính Thiên Chúa cho các môn đệ. Người đã tỏ hiện vinh quang cao cả đích thực: Người biến hình trước mặt các ông: mặt Người chiếu sáng như mặt trời, áo Người trở nên trắng như tuyết (Mt 17, 2). Chúa biến hình là để củng cố niềm tin và khai mở mầu nhiệm về sự sống vĩnh cửu cho các tông đồ. Nhưng rồi Chúa Giêsu không dừng lại trong sự biến hình vinh quang sáng láng, Ngài còn phải xuống núi dấn thân hoàn tất con đường thánh giá khổ đau để cứu độ nhân loại. Đây chỉ là một khoảnh khắc hé mở một niềm hy vọng vinh phúc bất diệt.

Cùng hiện diện với Chúa Giêsu, có ông Môisen và tiên tri Êlia và ba tông đồ Phêrô, Gioan và Giacôbê đi theo Chúa. Phêrô sung sướng chìm đắm trong nguồn ân sủng cõi thiên đã muốn lưu lại trong cảnh giới thần tiên: Lúc ông còn đang nói, thì có một đám mây sáng bao phủ các Ngài, và có tiếng từ trong đám mây phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu rất đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe lời Người” (Mt 17, 5). Thiên Chúa Cha đã chứng nhận sứ mệnh cao cả của Chúa Giêsu Cứu Thế. Kinh nghiệm trên núi Taborê là nguồn hy vọng sáng ngời cho các tông đồ và cho chúng ta còn đang lữ hành dưới thế. Chúa Giêsu sẽ dẫn chúng ta qua con đường thập giá tới vinh quang. Chúng ta không thể đi con đường tắt để đạt được triều thiên vinh thắng. Các tông đồ đã xác tín con đường đi theo Chúa.

Trong Mùa Chay Thánh, chúng ta có cơ hội trở về nguồn để suy gẫm sứ vụ của Chúa Kitô. Ngài đã từng bước trải nghiệm những cám dỗ, những đau khổ và vinh quang. Con đường mòn Chúa đã đi loan báo tin mừng không đơn giản dễ dàng. Cụ thể, Chúa đã phải trèo dốc, vượt đồi, lên non và với đôi chân trần rảo khắp các làng mạc và thành thị. Chúa không chỉ giảng dạy nơi Hội Đường, nhưng đã dong duổi khắp chốn qui tụ từng nhóm nhỏ mời gọi sám hối đổi đời, dậy dỗ sự thật về nước trời và chữa lành bệnh hoạn tật nguyền cả thân xác và tâm hồn. Trong ba năm giảng dạy, Chúa đã thi hành sứ vụ từ Galilê, miền Nazareth, qua ngả Samaria và xuống Giuđêa, trọng tâm là Giêrusalem. Khoảng cách từ Bắc xuống Nam rất xa xôi và núi non hiểm trở. Chúa đã tận dụng mọi cơ hội để cải hóa lòng người và uốn nắn trái tim của họ trong tình yêu.

Thánh Phaolô trong thơ gởi cho Timôthêô đã mời gọi sự cộng tác loan truyền tin mừng cứu độ: Con thân mến, con hãy đồng lao cộng tác với Cha vì Tin Mừng, nhờ quyền lực của Thiên Chúa, (2Tm 1, 8). Phaolô tự nhận là đứa con đẻ non trong ân sủng cứu độ của Chúa, nhưng ông đã hết mình truyền rao chân lý mà ông đã lãnh nhận từ chính Chúa Kitô phục sinh. Cho dù đối diện với sự khó khăn, bị xua trừ, bắt bớ, đánh đập, tù đầy và ngay cả sự chết, Phaolô vẫn một niềm tin tưởng và cậy trông vào sự sống trường sinh và vinh quang bất diệt mà Chúa Kitô sẽ thưởng ban. Tin mừng cứu độ đã được tiếp tục truyền rao đến khắp cùng bờ cõi, những ai tin vào Chúa Kitô thì sẽ được lãnh ơn cứu độ.

Chúa Kitô đã đến trần gian và đã hoàn tất sứ vụ của Ngài. Ngài đã chiến thắng sự dữ và thần chết. Lời Tin Mừng của Chúa có uy lực giải thoát và dẫn đường chúng ta bước vào miền đất trường sinh. Chúng ta không còn phải tìm kiếm đâu xa, nhưng hãy trở về múc tận nguồn ơn cứu độ trong niềm tin vào Chúa Kitô, vào Thánh Kinh và đời sống Bí tích của Giáo Hội. Tin mừng sẽ giải thoát và dẫn dắt chúng ta tới vinh quang sáng ngời. Thánh Phaolô viết: Nhưng bây giờ mới tỏ bày bằng sự xuất hiện của Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Chuộc chúng ta, Người đã dùng Tin Mừng tiêu diệt sự chết và chiếu soi sự sống, và sự không hư nát được tỏ rạng (2Tm 1, 10). Sự biến hình của Chúa Giêsu là dấu chứng kỳ diệu và là niềm hy vọng tuyệt đối cho mọi kẻ còn đang lữ hành giữa biển đời ô trọc này.

Lạy Chúa, vinh quang của Chúa chói lòa. Chúa là ánh sáng chiếu dọi vào thế gian u tối. Xin cho chúng con biết dõi theo ánh sáng của Chúa để tìm về nguồn an lạc và nguồn sống vinh phúc trường sinh.

 

29.             Con yêu dấu – Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể đã được tỏa sáng trên đỉnh núi. Chúa Giêsu biến hình, mặt Người chiếu sáng như mặt trời. Chúa Giêsu tỏ mình: Bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian.”(Ga. 9,5). Đây là hình ảnh Con Thiên Chúa thật. Thánh Matthêo đã diễn tả sự biến hình một cách ngắn gọn nhưng đã nói lên được ý nghĩa và sứ mệnh cứu độ của Chúa Giêsu. Từ khi Chúa Giêsu hạ sinh làm người, Chúa đã xuất hiện trước công chúng một cách âm thầm như mọi người trong tất cả mọi sinh hoạt. Chúa chấp nhận sự phát triển tiệm tiến trong thời gian và không gian tự nhiên.Chúa Giêsu Kitô là Ngôi Hai, là Ngôi Lời, là Con Thiên Chúa và là Con yêu dấu của Chúa Cha. Từ nguyên thủy đã có Ngôi Lời, Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa. Ngôi Lời là Con Thiên Chúa (Ga. 1,1). Khi Ngôi Lời xuống trần, thiên thần đồng thanh ca tụng: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.” (Lc.2,14). Khi Chúa Giêsu chịu phép rửa bởi Gioan tại sông Giođan: Lại có tiếng từ trời phán rằng: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con.”(Mc. 1,11). Chúa Giêsu biến hình trên núi có tiếng Chúa Cha phán: “Đây là Con Ta yêu dấu rất đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe lời Người” (Mt.17,5). Sau khi sống lại từ cõi chết, Chúa Giêsu tiếp tục hiện diện với các tông đồ qua nhiều cách và luôn chúc bình an cho các ông: “Các ông còn đang nói, thì chính Đức Giêsu đứng giữa các ông và bảo: “Bình an cho anh em!” (Lc. 24,36). Chúng ta nhận thấy hình ảnh xuyên suốt qua cuộc đời Chúa Cứu Thế. Ngài là Con Thiên Chúa đến đem bình an cho nhân loại.

Chúa đã chia sẻ cuộc sống với con người một cách cụ thể. Chúa lao động để kiếm miếng cơm manh áo như mọi người. Hằng ngày, Chúa muốn học biết và trải qua những kinh nghiệm của đời thường. Chúa quan sát mọi việc trong nhà ngoài ngõ. Khi ra giảng đạo, Chúa dùng tất cả những câu truyện cụ thể kinh nghiệm trong đời sống. Chúa lấy tất cả những ví dụ dễ hiểu để truyền rao chân lý Nước Trời. Chúa dùng các tỉ dụ, ngụ ngôn, dụ ngôn hay câu truyện rất thật đi đôi với cuộc sống nơi vùng quê thôn dã. Chúa rành rẽ những phương thức gieo trồng, nấu nướng, ép nho và ủ rượu. Chúa học biết cách xử dụng muối ướp, men trong đấu bột, đèn để trên giá và mang đèn phải mang dầu theo.

Chúa lôi cuốn quần chúng lại gần qua lời giảng dậy đơn sơ, thẳng thắn và đầy uy quyền. Chúa không dùng những triết thuyết cao siêu, trừu tượng hay lý thuyết khô khan khó hiểu. Lời Chúa thật giản dị và cụ thể dành cho mọi tầng lớp. Ai nghe cũng có thể hiểu được ý nghĩa, trừ những người nhắm mắt và bịt tai không muốn lắng nghe. Từ những người chài lưới thất học quê mùa đến những thầy thông luật cũng đã thấm nhuần đạo lý của Chúa. Lời của Chúa thật trong sáng và có sức thuyết phục sâu đậm.

Chúa còn thực hiện rất nhiều phép lạ để chữa lành nọi thứ bệnh họan tật nguyền, cho kẻ mù được thấy, kẻ điếc được nghe, người câm nói được, người què đi được, xua đuổi tà thần, hóa bánh ra nhiều để nuôi dân, truyền sóng biển im lặng, mẻ cá đầy tràn và cho kẻ chết sống lại… Đây là những phép lạ tỏ uy quyền của Chúa trên vạn vật. Chúa biến hình một sự kiện vĩ đại trong lịch sử cứu độ, Chúa tỏ mình cho các môn đệ thân tín. Chúa biến hình trở lại nguyên dạng đã có từ nguyên thủy. Một mầu nhiệm nhập thể không ai hiểu thấu. Chúa mặc lấy xác phàm với thân phận của con người giới hạn trong thời gian và không gian. Chính Ngài đã tự nguyện tước bỏ vinh quang và chấp nhận thân phận tôi đòi: Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự (Ph. 2,8)

Chúa Giêsu có hai bản tính: bản tính Thiên Chúa và bản tính loài người. Một Thiên Chúa thật trong thân xác phàm nhân. Chính Thiên Chúa đó bị người đời khinh bỉ, tẩy chay, xua đuổi, chối từ, đánh đập, khặc nhổ trên mặt, nhạo cười, đội mạo gai, vác thánh giá, bị con người tội lỗi xét xử và kết án tử hình. Chính những con người đã từng chịu ơn đã giơ tay xin tha cho Baraba và giết Giêsu. Giết Con Thiên Chúa.

Chúa Giêsu là mặt trời công chính và là ánh sáng thế gian. Chúa Giêsu lại nói với người Do-thái: “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống.”(Ga. 8,12). Thiên Chúa cao cả sáng chói như mặt trời vậy mà bị con người vô tâm xô đẩy vùi dập, đánh đập tàn nhẫn, máu me dính bết châu thân, nhịn đói nhịn khát, bị đóng đinh chân tay vào thánh giá và bị treo lên lơ lửng cho chết dần. Ngài chính là Thiên Chúa. Con người phàm hèn mà dám giết chết Thiên Chúa trong xác phàm.

Tiếng từ trời cao: Đây là Con Ta yêu dấu rất đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe lời Người (Mt.17,5). Loài người đã giết người Con yêu dấu của Thiên Chúa Cha. Ngày nay nhiều người vẫn tiếp tục hùa nhau giết Con của Thiên Chúa và loại trừ Ngài ra khỏi đời sống. Người Con đó bị xét xử như một tội nhân và được xếp vào hàng các tội nhân đem đi xử tử. Người Con đẹp lòng Thiên Chúa Cha đã hy sinh mạng sống để cứu độ chúng sinh. Chúng ta suy gẫm và chăm chú nhìn hình ảnh người Con yêu dấu chết giang tay trên thập giá. Qua hơn hai ngàn năm, Ngài vẫn tiếp tục bị người đời tẩy chay, khinh bỉ và xua đuổi. Không phải người ta xua đuổi loại trừ một ông Giêsu nào đó, mà là đang loại trừ chính Con Một Thiên Chúa.

Con Ta yêu dấu chiếu sáng như mặt trời và áo Ngài trắng như tuyết. Chúa Giêsu là ánh sáng chiếu dọi vào đêm tối, nhưng bóng tối không tiếp nhận ánh sáng: Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối và bóng tối đã không diệt được ánh sáng (Ga. 1,5). Nhìn thấy ánh sáng chói lòa, các môn đệ sợ hãi và ngã sấp mình xuống đất. Ánh sáng của Chúa Kitô soi dọi thấu tận tâm can của các tông đồ, các ngài thốt lên rằng: Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm (Mt. 17,4). Thật sung sướng khi được ở bên Chúa.

Hình ảnh Chúa Giêsu biến hình trên núi đã hé mở một chút vinh quang của Ngài cho các tông đồ. Sự vinh quang luôn hiện diện trong Ngài qua lời giảng dậy, qua các phép lạ và qua chính con người của Ngài. Chúa Giêsu sẽ trở lại với vinh 59

quang đích thực khi Ngài hoàn tất công trình cứu độ qua con đường thập giá. Chúa Giêsu đã đổ tới giọt máu cuối cùng trong thân phận con người. Tình yêu trọn vẹn hiến dâng Chúa Cha để đền bù tội lỗi của chúng ta. Ngài yêu chúng ta tới cùng: Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình (Ga. 15,13).

Chúng ta được cứu chuộc bằng giá máu của Con Thiên Chúa. Chúa Con đã hiến tế một lần là đủ để đền tội thay cho cả thế giới. Chúng ta hưởng nhờ ơn cứu độ mang lại nguồn sống. Chỉ nơi Đức Kitô chúng ta sẽ có sự sáng và sự sống: Ở nơi Người là sự sống và sự sống là ánh sáng cho nhân loại (Ga. 1,4). Chúa Giêsu biến hình mặc khải cho chúng ta về vinh quang ngày sau mà chúng ta hy vọng sẽ được chung hưởng ánh sáng ngàn thu với Ngài.

Trong cuộc lữ hành thế gian còn nhiều bóng tối che phủ và còn nhiều thử thách mà chúng ta phải vượt qua. Đừng khi nào chúng ta chán nản bỏ cuộc. Hãy nhớ rằng con đường Chúa đã đi qua là con đường thập giá. Phải đi qua đau khổ mới tới vinh quang. Nhiều lần Chúa Giêsu đã nhắc nhở chúng ta: Thầy đây, đừng sợ. Chúng ta hãy khẩn khoản xin với Chúa như thánh Phêrô: Nhưng thấy gió thổi thì ông đâm sợ, và khi bắt đầu chìm, ông la lên: “Thưa Ngài, xin cứu con với! (Mt. 14, 30).

Sau khi biến hình sáng chói, Chúa Giêsu và các tông đồ phải đi xuống núi và trở về cuộc sống thực tế hằng ngày. Chúa Giêsu không muốn đi theo con đường tắt dễ dàng. Ngài muốn đi trọn con đường và sứ mệnh mà Cha đã trao phó. Sứ mệnh cứu độ không chỉ qua sự giảng dạy và thực hành các phép lạ, nhưng là chấp nhận đau khổ và cái chết. Không có một hy lễ nào cao trọng hơn hy tế của Chúa Giêsu trên thập giá. Con Thiên Chúa đã đi đến cùng tận trong tất cả mọi trạng huống của cuộc đời. Từ khi Chúa hạ thân nghèo hèn trong máng cỏ cho tới lúc thân trần treo trên thập giá. Không có một con người nào dám bươc xuống thẳm sâu như Chúa. Chúa đã bước xuống và cứu con người lên.

Chúng ta không thể đi con đường tắt để đến ơn cứu độ. Chúng ta hãy cố gắng sống tốt từng phút giây mà Chúa đã ban. Hoàn tất tốt giây phút hiện tại trong yêu thương tha thứ và chia sẻ bác ái. Hãy ngước nhìn lên thập giá của Chúa để tìm nguồn ủi an và gắn kết yêu thương. Chúa sẽ dẫn chúng ta đến nguồn ơn cứu độ. Chúng ta biết rằng phải qua thánh giá mới đạt tới vinh quang.

Đây chính là hồng ân cứu độ. Đây chính là tình yêu! Chúa đã chết vì yêu! Chúa đã chết vì tội lỗi chúng con. Chúng con dâng lời ngợi khen, cảm tạ và tán tụng danh Chúa đến muôn ngàn đời.

 

30.             ”Bản tính khó dời” – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Tiếng đứa em lanh lảnh nói: Chị hai sao lại bỏ anh rể?

+ Vì anh ấy cờ bạc, rượu chè nên chị không chịu được.

+ Nhưng anh ấy đã có tật cờ bạc, rượu chè trước khi lấy chị mà.

+ Vì chị tưởng là thời gian anh ấy sẽ biến đổi, ai ngờ càng ngày càng tệ hơn!

Người xưa thường có câu: “Bản tính khó dời”, “chứng nào tật ấy” đều nói lên tính cách của một con người khó mà thay đổi được. Thay đổi một thói quen của con người thì có thể, nhưng rất khó lòng thay đổi bản tính một khi đã ăn sâu trong con người của họ.

Thói hay chửi của Chí Phèo là một điển hình. Chí Phèo đã được Nam Cao phác họa như một tên vô lại, tối ngày say sỉn, chỉ làm được một việc duy nhất là chửi khống và ăn vạ. Về tài chửi của hắn, Nam Cao tả: Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu chửi Trời. Có hề gì? Trời có của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao: đời là tất cả nhưng chẳng là ai. Tức mình hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Đại. Nhưng cả làng Vũ Đại ai cũng nhủ: “Chắc nó trừ mình ra!”. Không ai lên tiếng cả. Tức thật! Ồ! Thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất!

Đã thế, hắn phải chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng không ai ra điều. Mẹ kiếp! Thế thì có phí rượu không? Thế thì có khổ hắn không? Không biết đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nỗi này? A ha! Phải đấy, hắn cứ thế mà chửi, hắn chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo! Hắn nghiến răng vào mà chửi cái đứa đã đẻ ra Chí Phèo.

Xem ra ở đời ai cũng có tật xấu. Ai cũng có điều phải sửa, vì “nhân chi sơ tính bản thiện”, nhưng thời gian đã biến chúng ta ra xấu xa bởi biết bao thói hư tật xấu. Sự khôn ngoan nhắc nhở chúng ta phải cố gắng biến mình trở lại hình ảnh ban đầu, đừng ngoan cố sống trong tội lỗi, hãy sửa mình nên hoàn thiện theo hình ảnh của Chúa. Một hình ảnh tinh tuyền không để dục vọng làm chủ. Một hình ảnh trong sáng không để vẩn đục bằng những thói hư tật xấu.

Hôm nay, Chúa biến hình trở về với căn tính Thiên Chúa của Ngài. Phê-rô đã ngây ngất khi chiêm ngắm dung nhan thật của Thầy Giêsu. Phê-rô cùng các môn đệ càng thêm xác tín về Thiên tính trong con người của Thầy Giêsu. Phê-rô cảm thấy toại nguyện và chỉ còn mong muốn một điều duy nhất là được ở bên Chúa mãi mãi.

Sứ điệp ngày lễ Chúa hiển dung như nhắc nhở chúng ta nhớ mình là họa ảnh của Thiên Chúa. Con người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa, thế nên con người phải giữ mãi vẻ đẹp tinh tuyền của phẩm giá con người. Nếu có những đam mê tật xấu làm chúng ta biến chất thì đây là dịp Chúa nhắc nhở chúng ta phải biến hình mỗi ngày trở về với căn tính của chúng ta là hình ảnh của Chúa? Là hình ảnh của Chúa thì không thể làm tôi cho ma quỷ? Là hình ảnh của Chúa thì không thể để cho dục vọng lôi kéo chúng ta làm điều xấu? Là hình ảnh của Chúa chúng ta phải luôn hướng về sự thiện, luôn có những ước mơ thanh cao, luôn sống vị tha và phục vụ mọi người.

Tiếc rằng, con người hôm nay đã để mình biến chất trong dòng đời lắm cám dỗ bon chen. Nhiều người đã bán rẻ phẩm giá làm người để đổi lấy chút danh lợi thú trần gian. Nhiều người đã không chỉ biến chất mà còn biến dạng khi lao mình tìm kiếm và thỏa mãn dục vọng đến nỗi xem thường luân thường đạo lý làm người. Đôi khi còn vì danh lợi thú mà làm hại đồng loại, mà gây nên biết bao đau thương cho nhân thế.

Ước gì mỗi người chúng ta hãy biết mình là hình ảnh của Thiên Chúa thật tốt đẹp biết bao, để biết trân trọng, gìn giữ nét đẹp đó trong cuộc sống của mình. Đồng thời cũng biết trân trọng vẻ đẹp ấy nơi tha nhân qua đời sống bác ái, vị tha. Xin Chúa giúp chúng ta biết biến đổi mình mỗi ngày trở nên giống Chúa hơn trong suy nghĩ và hành động hầu xứng đáng là con cái Thiên Chúa. Amen.

 

31.             Hãy biết mình – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Cái quý nhất của con người là được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa. Cái hạnh phúc lớn nhất của con người là gìn giữ nét đẹp cao qúy đó nơi phẩm giá làm người của mình. Và điều cần thiết nhất để có một cuộc sống tốt với mọi người là nhận ra tha nhân cũng chính là hình ảnh của Thiên Chúa.

Thế nhưng, nhiều người đã phủ nhận điều cao qúy nơi phẩm giá làm người của mình. Họ không tin rằng có Thiên Chúa. Họ chối từ sự sống thần linh mà Thiên Chúa đã ban cho con người. Từ đó người ta cũng không lo gìn giữ cái đẹp của phẩm giá làm người của mình. Họ chỉ thấy con người là một loài vật có ăn có uống. Thế giới của họ là một thế giới mạnh thắng, yếu thua, và “cá lớn nuốt cá bé”. Họ không nhận ra sự liên đới giữa người với người đều là hình ảnh Thiên Chúa, cần phải tôn trọng và sống tốt với nhau. Con người đã tự khước từ phẩm giá cao qúy là hình ảnh Thiên Chúa nên cũng dễ dàng từ khước nhau và đầy đoạ lẫn nhau. Thế giới vẫn đầy những bất công và hận thù. Con người vẫn vì những tham sân si mà làm hại lẫn nhau.

Có một câu chuyện ngụ ngôn kể rằng: Ngày xưa thỏ và sư tử sống gần nhau, nhưng sư tử rất kiêu ngạo, vẫn cho mình là to khoẻ nên xem thường loài thỏ. Sư tử thường mắng thỏ và doạ nạt thỏ suốt ngày. Thỏ tức mình không chịu nổi mới nghĩ ra cách báo thù.

Một lần kia nó nói với sư tử rằng:

– Thưa ông anh, em vừa gặp một thằng to lớn và trông giống anh lắm. Nó bảo em rằng: “Trên đời này nó chưa sợ ai, và cũng chưa ai dám đối mặt với nó”. Thằng cha này không coi ai ra gì cả!

Sư tử tức giận và bảo rằng:

– “Thế mày có nhắc đến tên tao không?”

Thỏ trả lời:

– Sao lại không? Em vừa nhắc đến tên anh thì nó lồng lộng lên và bảo rằng anh chỉ đáng đàn em nó thôi.

Sư tử càng tức điên người lên và hỏi:

– Nó ở đâu? dẫn tao đến ngay.

Thỏ liền dẫn sư tử ra sau núi, và chỉ một cái giếng ở đàng xa và bảo: Đấy, nó ở trong đó đấy!

Sư tử đi lại gần giếng vẻ mặt căm tức nhìn xuống đáy giếng. Quả thực, nó trông thấy ngay một tên, với cặp mắt giận dữ đang trừng trừng nhìn nó. Sư tử rống lên một tiếng, tên kia cũng rống lên một tiếng. Sư tử xù lông cổ lên tên kia cũng xù lông cổ lên. Sư tử nhe nanh múa vuốt đe doạ, tên kia cũng hăm dọa lại. Sư tử căm tức đến tột độ dồn hết sức mình nhảy phốc xuống giếng để cho thằng khốn nạn kia một trận. Thế là, con sư tử ngạo mạn tự huỷ diệt đời mình dưới giếng sâu…

Thất bại của sư tử là không nhận ra mình nên đã lao vào cắn xé chính hình ảnh của mình. Sư tử chỉ muốn nhất. Sư tử chỉ muốn làm bá chủ nên sẵn sàng loại trừ tất cả các đối thủ có nguy cơ nguy hại đến vị trí số 1 của mình.

Nếu con người của mọi thời đại biết nhìn nhận mình là hình ảnh của Thiên Chúa và mọi người là anh em với nhau, sẽ có những cách hành xử tốt với nhau hơn. Nếu con người nhận ra hình ảnh Chúa nơi tha nhân, chắc chắn sẽ không đối xử tàn bạo với nhau. Nhưng tiếc thay, nhiều người chỉ muốn làm chúa sơn lâm nên lao đầu vào cắn xé đồng loại, hành hạ đồng loại của mình và sẵn sàng làm đủ trò để loại trừ đồng loại. Chồng đánh đập vợ. Cha mẹ đánh đập con cái. Anh em đầy đoạ nhau. Hàng xóm láng giềng đáng lẽ “tối lửa tắt đèn có nhau”, nhưng lại “bới lông tìm vết” và làm hại lẫn nhau.

Hôm nay, lễ Chúa hiển dung nghĩa là Chúa tỏ hiện đúng dung nhan thật của Ngài. Một dung nhan thánh thiện rạng ngời mà bấy lâu nay nhân tính đã che phủ thiên tính của Ngài. Một dung nhan tinh tuyền của một vì Thiên Chúa là Thánh, ngàn trùng chí thánh đến nỗi cả ba môn đệ đều ngây ngất vì được chiêm ngắm dung nhan thật của Thầy Giêsu. Ba môn đệ đã cúi mình kính phục trước dung nhan thật của Chúa Giêsu. Đó chính là sứ điệp mà mùa chay đang mời gọi chúng ta: hãy tỏ hiện dung nhan thật của chúng ta là hình ảnh của Thiên Chúa ra lời nói và việc làm của mình. Hãy thể hiện sự thánh thiện của hình ảnh Thiên Chúa nơi chính mình để anh em được chiêm ngưỡng. Hãy biểu lộ lối sống “nhân chi sơ tính bản thiện” của phẩm giá làm ngừơi để anh em được hạnh phúc khi sống với chúng ta.

Mùa chay là mùa mời gọi chúng ta hãy tìm lại hình ảnh ban đầu của tạo dựng. Hãy gạn đục khơi trong để hình ảnh của Chúa luôn tỏ hiện ra nơi bản thân của chúng ta. Hãy tìm lại hình ảnh tinh tuyền ban đầu của mình, một hình ảnh chưa bị lòng ham muốn danh lợi thú làm hoen ố, mới thấy phẩm giá cao đẹp của con người thật cao qúy hơn muôn loài. Có ý thức được sự cao qúy nơi phẩm giá làm người mới biết trân trọng và gìn giữ cho mình và cho anh em. Phẩm giá con người cao qúy hơn mọi danh lợi thú trần gian, thế nên đừng bao giờ vì một chút bổng lộc trần gian, một chút vui sướng mau qua mà đánh mất phẩm giá của mình và làm tổn thương đến phẩm giá của tha nhân.

Xin Chúa giúp chúng ta can đảm tẩy rửa những bợn nhơ tội lỗi làm hoen ố lương tri, và xin Chúa thêm ơn trợ giúp để chúng ta luôn gìn giữ nét đẹp nơi phẩm giá làm người của mình và của tha nhân. Amen.

 

32.             Hãy nghe Lời Người

(Suy niệm của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh)

“Đây là Con yêu dấu của Ta, Người đẹp lòng Ta. Hãy nghe Người”

Biến Cố Biến Hình: Vai trò trong Phụng Vụ Mùa Chay

Chúa Nhật mở màn cho cho Mùa Chay, chúng ta thấy Giáo Hội cử hành Mầu Nhiệm Chúa Kitô ở biến cố Người theo Thần Linh thúc đẩy vào hoang địa để chịu ma quỉ cám dỗ sau khi đã ăn chay 40 đêm ngày. Chúa Nhật Thứ Hai của Mùa Chay tuần này chúng ta thấy Giáo Hội cử hành Mầu Nhiệm Chúa Kitô ở một biến cố hoàn toàn ngược lại với biến cố tuần trước, đó là biến cố Người biến hình trên núi cao trước mắt ba môn đệ của Người.

Việc Giáo Hội sắp xếp cho hai biến cố của Chúa Giêsu hoàn toàn trái ngược này liền với nhau như vậy, bị cám dỗ trước, tỏ vinh quang sau, cho chúng ta thấy gì, nếu không phải, trước hết, Giáo Hội muốn chứng thực niềm xác tín của mình là “Con Thiên Chúa xuất hiện là để phá hủy công việc của ma quỉ” (1Jn 3:8), và sau nữa, Giáo Hội cũng muốn cho con cái mình thấy được ý nghĩa đích thực và mục tiêu cao cả của chay tịnh, của từ bỏ: ý nghĩa đích thực của chay tịnh, của từ bỏ ở ngay lời Chúa Giêsu dùng đoạn Kinh Thánh Cựu Ước (Nhị Luật 8:3) bịt miệng Satan, đó là “con người không sống nguyên bởi bánh”, và mục tiêu cao cả đó là nhờ thế con người chẳng những không sa chước cám dỗ mà còn có thể “sống bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra”, một mục tiêu cũng rất hợp với tiếng nói phát ra từ trời trong biến cố biến hình trên núi của Chúa Giêsu hôm nay, đó là lời: “Hãy lắng nghe Người”.

Chắc chắn Chúa Giêsu cũng có mục đích như Giáo Hội đối với con cái mình như thế. Bởi vì, Phúc Âm Thánh Mathêu cho biết, Chúa Giêsu đã biến hình “sáu ngày sau” (Mt 17:1) khi Người tiết lộ cho các tông đồ biết một mầu nhiệm vô cùng mầu nhiệm đối với tâm trí loài người của các vị bấy giờ, đó là Mầu Nhiệm Vượt Qua của Người, qua lời tiên báo tiên khởi của Người về Biến Cố Vượt Qua này (x Mt 16:21), một lời tiên báo Vượt Qua tiên khởi kinh hoàng và khủng khiếp đến độ đã làm cho vị trưởng tông đồ đoàn, vừa được Người tuyên dương và tín nhiệm trao trọng trách vô cùng quan trọng đến phần rỗi đời đời của các linh hồn, đột nhiên trở thành “Satan” trước con mắt của Người!

Bởi thế, qua biến cố biến hình hôm nay, Chúa Giêsu như muốn củng cố đức tin của các vị vốn đặt nơi Người, một đức tin mà có lần chính quí vị đã phải thú nhận là vẫn còn yếu kém nên đã tự động ngỏ ý xin Thày “hãy tăng thêm đức tin cho chúng con” (Lk 17:5). Qua biến cố biến hình này, Người như muốn nói cùng các vị rằng, cho dù Thày có bị khổ nạn và tử giá vô cùng hèn hạ, đớn đau và nhục nhã trước mặt loài người đi nữa, theo thân phận của một Đấng Thiên Sai, thế nhưng, vì Thày cũng chính là Con Thiên Chúa, nên không một sự gì trên đời này có thể làm chủ được Thày. Trái lại, tất cả mọi sự trần gian, tầm thường hay thấp hèn sẽ được biến đổi thành cao sang và vinh hiển nơi Thày: “dung nhan Người chói sáng như mặt trời, áo Người rạng ngời như ánh sáng”, kể cả “tội lỗi cùng với sự chết đã đột nhập thế gian” (Rm 5:12) cũng sẽ bị tan biến đi như bóng tối trước ánh sáng, khi Thày phục sinh từ trong cõi chết. Thật vậy, biến cố Chúa Giêsu biến hình trên núi, được Phúc Âm tường thuật hôm nay, sau sáu ngày từ hôm Người bắt đầu tuyên bố về Cuộc Vượt Qua của Người, chính là lời tiên báo duy nhất và hùng hồn nhất về Cuộc Phục Sinh vinh hiển của Người. Đó là lý do bài Phúc Âm hôm nay đã được hết thúc bằng câu Chúa Giêsu căn dặn ba vị tông đồ về biến cố biến hình liên quan đến cuộc phục sinh sau này của Người: “Các con đừng nói với bất cứ ai về thị kiến này cho đến khi Con Người phục sinh từ trong cõi chết”.

Biến Cố Biến Hình: Tác dụng thần linh nơi niềm tin Mầu Nhiệm Phục Sinh

Phần các vị tông đồ đã được chứng kiến thấy Thày mình biến hình trên núi như vậy, tức đã được Người củng cố cho đức tin như thế, các vị cảm thấy đức tin của mình hình như mạnh hơn, đến nỗi, hai anh em Giêbêđê là Giacôbê và Gioan, hai nhân vật có mặt nơi biến cố biến hình của Thày, sau này, lúc nghe Thày tiên báo về Cuộc Vượt Qua của Người lần thứ ba (x Mt 20:17-19), đã dám khẳng định với Thày là hai vị “có thể uống được chén Thày uống” (Mt 20:22). Nhất là riêng Phêrô, nhân vật thú nhận mình đã có mặt trong biến cố biến hình này (x 2Pt 1:18) còn gân hơn nữa, khi nghe Thày báo trước sự kiện có một người trong Nhóm 12 của mình sẽ phản nộp Người, liền cương quyết với Thày: “Cho dù tất cả có mọi người có lung lay niềm tin nơi Thày, vĩnh viễn con sẽ không bao giờ” (Mt 26:33), thậm chí còn dứt khoát thề thốt với Người: “Cho dù có chết với Thày, con cũng không chối bỏ Thày” (Mt 26:35). Chính trong khi nói lên những lời hết sức thật tình và chí tình này, những lời nếu so sánh với những gì mâu thuẫn xẩy ra sau đó, Phêrô quả thực “không biết mình nói gì”, như được Phúc Âm Thánh Luca mở ngoặc ghi nhận những gì thánh nhân nói trong biến cố biến hình, về cảm nhận vui sướng của thánh nhân bấy giờ, cũng như về việc thánh nhân tự nguyện xây ba lều cho cả Thày lẫn Moisen và Elia (x Lk 9:33).

Thế nhưng, Mầu Nhiệm Vượt Qua siêu việt và khủng khiếp biết bao trước tâm trí của loài người, thậm chí với cả thành phần đã được trực tiếp phần nào nghe, thấy và sờ được sự thật (x 1Jn 1:1-2) trước khi sự thật hoàn toàn tỏ hiện sau Cuộc Vượt Qua. Bởi thế, vừa giáp trận, quí vị đã bật ngửa ra ngay, đã ngã sấp mặt xuống đất liền, chẳng khác gì như đã xẩy ra nơi đám thủ hạ của Hội Đồng Do Thái sai phái đến bắt Chúa Giêsu sau khi vừa nghe thấy sự thật, tức vừa nghe thấy Người tuyên bố “Chính Ta đây” (Jn 18:6). Vị trưởng tông đồ đoàn là Phêrô đã không ngã sấp xuống đất vỡ hết cả mặt mũi hay sao, khi công nhiên trắng trợn và phũ phàng chối bỏ Thày mình ba lần đúng như lời Thày báo trước (x Mt 26:69-75).

Tuy nhiên, không phải vì ba vị tông đồ được chứng kiến biến cố biến hình Thày muốn dùng để kiên vững đức tin cho các vị này, song các vị vẫn thuộc vào thành phần, như Phúc Âm Marcô cho biết, sau khi Chúa Giêsu bị bắt thì “tất cả mọi người liền bỏ Người mà tẩu thoát” (Mk 14:50), là các vị ấy đã làm cho biến cố biến hình hoàn toàn bị mất đi công dụng thần linh của mình. Bởi vì, biến cố biến hình chẳng những có tác dụng củng cố đức tin cho các vị ngay lúc bấy giờ, mà còn có tác dụng hình thành đức tin cho các vị sau này nữa, ở chỗ, các vị dễ tin vào Thày hơn, khi các vị thực sự chứng kiến thấy Thày mình đã hoàn toàn “biến hình” vinh hiển hiện ra với các vị sau khi sống lại từ trong cõi chết. Biến cố biến hình quả thực là một trong những cách sống động nhất và hiển nhiên nhất Chúa Giêsu muốn dùng để thực hiện chủ đích của Người trong việc hình thành đức tin cho các môn đệ, hay trong việc tăng thêm đức tin một cách hiệu nghiệm cho thành phần muốn đi theo Người, thành phần sẽ là những chứng nhân tiên khởi của Người, một chủ đích được Người cho các vị biết trong Bữa Tiệc Ly: “Thày nói với các con điều này bây giờ trước khi nó xẩy ra, để khi nó xẩy ra thì các con mới tin Là Thày” (Jn 13:19; Lk 24:44): “Thày là Đấng Thiên Sai, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16:16).

Biến cố biến hình: với vai trò của Đấng Thiên Sai và phần rỗi loài người

Biến cố biến hình chẳng những là việc Chúa Giêsu muốn dùng để tỏ mình ra cho các môn đệ của Người, mà còn là một chứng từ chính Thiên Chúa muốn thực hiện để làm cho các vị tin vào Đấng Ngài sai nữa. Đó là lý do Phúc Âm Nhất Lãm thuật lại hiện tượng có tiếng từ trời tuyên nhận Đấng Thiên Sai của Ngài trước mặt các vị và truyền cho các vị huấn dụ của Ngài: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Đấng đẹp lòng Ta. Hãy lắng nghe Người”. Trong biến cố biến hình của Đấng Ngài sai, để chứng thực cho ba người môn đệ thân tín nhất của Người biết Người chính là Đấng Thiên Sai, Thiên Chúa cũng đã cho các vị thấy cả hai nhân vật tiêu biểu quan trọng trong Cựu Ước là Moisen (tiêu biểu cho lề luật) và Elia (tiêu biểu cho tiên tri) nữa. Bởi vì, với Cuộc Vượt Qua của mình, Chúa Giêsu đã chứng thực mình là Đấng Thiên Sai, tức “là Đấng phải đến” (Mt 11:3), Đấng đã sống và làm trọn vẹn tất cả những gì Thiên Chúa là Đấng sai Người đã dự định và đã tỏ ra cho dân Ngài biết trong “lề luật Moisen và các tiên tri (tiêu biểu nhất là Elia) cùng thánh vịnh (Đavít cũng đóng vai trò tiên tri nơi một số câu thánh vịnh)” (Lk 24:44, xem cả câu 27).

Về những lần hay những việc Thiên Chúa muốn thực hiện để chứng tỏ Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai của Ngài, theo các Phúc Âm thuật lại, có ba lần thứ tự như sau: Lần thứ nhất khi Chúa Giêsu lãnh nhận phép rửa của Gioan Tẩy Giả ở sông Dược Đăng, lần thứ hai khi Chúa Giêsu biến hình trên núi, và lần thứ ba sau khi Chúa Giêsu đã vinh hiển vào thành Giêrusalem. Cả ba lần Thiên Chúa đều thực hiện cùng một cách việc chứng nhận của Ngài về Đấng Ngài sai, đó là bằng một tiếng phát ra từ trời. Tuy nhiên, tiếng phán ra từ trời của Thiên Chúa để chứng nhận Chúa Giêsu quả thực là Đấng Thiên Sai lần thứ nhất chỉ nói riêng với Chúa Giêsu (x Mk 1:11; Lk 3:22; Mt 3:16-17), lần thứ hai với các môn đệ (x Mt 17:5), và lần thứ ba với chung dân chúng, gồm cả dân Do Thái lẫn dân ngoại Hy Lạp, (xem Jn 12:28).

Riêng về lần thứ ba của tiếng phán từ trời này, căn cứ vào lời Chúa Giêsu nói với dân chúng bấy giờ: “Tiếng này không phán ra vì Tôi mà là vì quí vị đó” (Jn 12:30), chúng ta thấy Thiên Chúa quả thực chứng nhận Đấng Thiên Sai của mình trước mặt con người trần gian vậy. Làm như thế không phải là vì Thiên Chúa cần đến con người mà là để làm lợi ích cho phần rỗi của họ, cho đức tin của họ mà thôi, đúng như lời Đấng Thiên Sai của Ngài đã khẳng định với đám dân tìm kiếm Người sau khi được Người hóa bánh ra nhiều để họ được ăn uống no nê: “Đây là việc làm của Thiên Chúa, đó là làm cho quí vị tin vào Đấng Ngài sai” (Jn 6:29).

Tuy chủ ý của tiếng phán từ trời là chứng nhận Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai, Đấng thực sự đã làm đúng như những gì Người đã khẳng định với dân Do Thái: “Tôi từ trời xuống không phải để làm theo ý mình mà là ý Đấng đã sai” (Jn 6:38), nhưng tiếng phát ra từ trời này tự mình cũng đã gây ra một tác dụng khủng khiếp, đó là làm cho người nghe phải hoảng sợ. Điển hình là trong biến cố biến hình được Phúc Âm Thánh Mathêu hôm nay thuật lại và cho biết tình hình sau tiếng phán này là “Khi các vị nghe thấy tiếng nói này liền hoảng sợ ngã xuống đất”. Cũng thế trong lần thứ ba, Phúc Âm Thánh Gioan cho biết: “Khi đám đông nghe tiếng này họ nói là tiếng sấm”, có nghĩa là họ có thể đã bị giật mình và run sợ. Chỉ có lần thứ nhất khi tiếng từ trời phán ra với Chúa Giêsu thì không có gì xẩy ra, không phải vì Người có nội tâm thâm hậu, mà vì Người chính là Đấng Thiên Sai, là Con Thiên Chúa, là chính Lời Thiên Chúa muốn nói với loài người (x Heb 1:2), Lời mà tiếng phán từ trời hôm nay muốn thành phần chứng nhân tiên khởi được chứng kiến biến cố biến hình “Hãy lắng nghe”.

Vấn đề thực hành sống đạo: Chúa Giêsu biến hình trên núi trước mặt ba môn đệ là việc cả Người cũng như Cha của Người muốn thực hiện để chứng thực Người là Đấng Thiên Sai, là Chân Lý, nhờ đó, thành phần môn đệ đã được Người tuyển gọi, cũng như đã tự nguyện bỏ mọi sự để dấn thân theo Người, được yên tâm và kiên trì theo Người cho đến cùng (x Jn 21:18-19). Và chính khi Kitô hữu chúng ta theo Người cho tới cùng như thế, ngay trên trần gian này, nếu “Chúa Giêsu được tỏ hiện nơi thân xác của chúng ta” (2Cor 4:10), chúng ta thực sự đã được “biến hình” một cách mầu nhiệm. Ở chỗ, càng ngày chúng ta càng phản ánh Đấng” là ánh sáng thế gian” (Jn 8:12), tức càng trở thành những chứng nhân đích thực và sống động của Người, cho tới khi Người lại đến để hoàn toàn và vĩnh viễn biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta để nó được thực sự trở nên giống như thân xác hiển vinh của Người (x Phil 3:21).

 

33.             Chúa Hiển Dung – Radio Veritas Asia

(Trích từ ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Trong phụng vụ Chúa Nhật thứ hai Mùa Chay này, Giáo Hội cho chúng ta chia sẻ phần nào tâm tư của Chúa Giêsu và ba môn đệ Phêrô, Gioan và Giacôbê, là những người đã được Chúa Giêsu kêu gọi đầu tiên và cũng là những người được Chúa Giêsu đem theo vào vườn Giệtsêmani để cầu nguyện trước khi Ngài bước vào cuộc Thương Khó. Với tâm hồn tinh tế ưu ái, Chúa Giêsu biết rõ tâm tính của các học trò mình, Người biết họ vốn là những ngư phủ chất phác, nhiệt tình nhưng khá bộp chộp. Họ hăng say đi theo Người, hết lòng cộng tác vào sứ mệnh của Người, nhưng cũng từng có những phản ứng nóng nảy, bộc phát. Trong các câu chuyện kể của Tin Mừng, chúng ta thấy không ít lần Simon Phêrô nhanh nhẩu thay mặt các đồng bạn trả lời câu hỏi của Chúa Giêsu, cho dù các lời ấy có thể làm Thầy mình buồn lòng. Thậm chí, trong một lần cản ngăn Chúa Giêsu về việc Người sẽ tự nguyện lên Giêrusalem để chịu khổ hình, và Phêrô lúc đó đã bị Chúa Giêsu quở trách nặng lời như sau: “Satan, lui lại đàng sau Thầy, con cản lối Thầy, vì tư tưởng của con không phải là tư tưởng của Thiên Chúa mà của loài người”. Còn hai ông Gioan và Giacôbê thì cũng bộp chộp không kém, vì tính nóng nảy, hai ông đã được Chúa Giêsu đặt biệt hiệu là con của thiên lôi. Hai ông đã bị Chúa Giêsu khiển trách vì đã muốn cho lửa từ trời xuống thiêu hủy những người Samari không chịu tiếp đón Người. Vì biết rõ tâm tính của các ông, nên sau khi tiên báo lần thứ nhất về cuộc Thương Khó của mình, Chúa Giêsu đã đem riêng các ông theo Người lên núi cầu nguyện và cho các ông chứng kiến vinh quang của Người. Ngay cả trong bài Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe đọc hôm nay, ba ông vẫn còn nguyên vẹn tính chất phác của mình, nên khi Chúa Giêsu chuyên tâm cầu nguyện thì các ông lại vô tư nằm ngủ, và Chúa Giêsu vẫn để cho các ông ngủ say. Khi các ông bừng tỉnh thì một khung cảnh huy hoàng đã bao trùm lấy các ông, các ông được chiêm ngưỡng Chúa Giêsu trong vẻ vinh quang sáng lạn của Người; có ông Môsê và ông Êlia xuất hiên để làm chứng rằng Người là Đấng Thiên Sai mà Kinh Thánh đã loan báo. Quá kinh ngạc vì cảnh tượng huy hoàng trước mắt, Phêrô đã nói như trong cơn mê sảng, kế đó ông lại được đám mây biểu hiện sự có mặt của Thiên Chúa bao trùm và được nghe tiếng Chúa Cha xác nhận Chúa Giêsu là Con Yêu Dấu của Ngài.

Khi nghe đoạn kể lại Chúa Giêsu tỏ mình vinh hiển trên đây, chúng ta thấy mình ngây ngất, choáng ngợp trước cảnh tượng thánh thiêng huy hoàng ấy, chúng ta khâm phục các môn đệ Phêrô, Gioan và Giacôbê, vì các ông đã được chiêm ngắm vinh quang của Chúa Giêsu. Nhìn lại mình, chúng ta thấy đời sống đức tin của chúng ta sao mà nhạt nhẽo. Chúng ta tin rằng Chúa Giêsu đã phục sinh vinh hiển, nhưng dường như Người ở tận trên thiên cung xa vời. Còn chúng ta thì cứ loay hoay mãi với những chuyện đời thường nơi chốn trần gian này. Tâm trạng của chúng ta cứ buồn buồn sao ấy. Thật ra, chúng ta không chỉ quẩn quanh với những thăng trầm thế sự mà thôi. Hiện giờ, Chúa Giêsu cũng quan tâm đến mỗi người chúng ta, như Người đã từng quan tâm đến các môn đệ như Phêrô, Gioan và Giacôbê ngày xưa. Người biết rõ tâm tính của mỗi người chúng ta với những ưu điểm và khuyết điểm của từng cá nhân, bằng những cách thế khác nhau. Qua những sự kiện và những dấu chỉ khác nhau, Người cũng cho chúng ta chia sẻ những giây phút vinh quang, hoan lạc của Người, để tỏ lộ cho chúng ta đại cuộc cứu độ của Người và giúp chúng ta vững bước trên đường sống đạo. Nếu chúng ta không nhận ra những lúc Người tỏ mình như thế, có thể vì chúng ta chưa đủ bén nhạy trong đời sống đức tin, hoặc vì chúng ta không nghĩ rằng mình được Chúa Giêsu ưu ái quan tâm đến thế.

Quả thật, Chúa Kitô Phục Sinh vẫn thường xuyên đến với mỗi người chúng ta dù không rực rỡ ánh hào quang như lúc tỏ lộ cho ba môn đệ ngày xưa, nhưng vẫn đủ để tạo ra những dấu ấn có sức củng cố đức tin của chúng ta. Đại thi hào Tagore đã viết về điều này trong tác phẩm “Lời Dâng” như sau:

“Anh không nghe thấy ư?

Bước chân Người thầm lặng

Người tới, tới và luôn luôn thường tới

Người tới, tới và luôn luôn thường tới

Hàng giờ, hàng đêm, hàng ngày, hàng thời đại, anh ơi”.

Lạy Chúa Giêsu, trong cuộc sống đời thường của con, Chúa dùng muôn vàn phương cách để tỏ lộ cho con vinh quang của Ngài, nhưng nhiều lúc con chẳng nhận ra. Xin Chúa ban cho con đôi mắt biết rộng mở, đôi tai biết lắng nghe và tâm hồn biết thinh lặng để nhận ra Chúa. Xin cho con biết lưu giữ những kỷ niệm về những lần con gặp Chúa để mỗi khi gặp cơn sóng gió trong đời, con hồi tưởng lại những kỷ niệm tuyệt vời ấy mà vững tâm sống đạo.

 

34.             Con đường thập giá con đường vinh quang

Tuần trước chúng ta đã cùng với Chúa Giêsu lên núi để chịu ma quỷ cám dỗ. Đáng tiếc cho ma quỷ là nó không làm gì được Chúa Giêsu. Chỉ vì Người một mực chọn và làm theo lời dạy của Chúa Cha. Chúa Nhật hôm nay chúng ta tiếp tục cùng ba môn đệ theo Chúa Giêsu lên núi. Nếu như tuần trước chúng ta thấy Chúa Giêsu có vẻ yếu đuối bao nhiêu thì hôm nay Người trở nên mạnh mẽ oai quyền bấy nhiêu. Chúa Giêsu đã trở về tình trạng vinh quang của Người: “Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng” (Mt 17, 2b).

Với vinh quang này, ba môn đệ cảm thấy rất thích nên Phêrô đã không ngần ngại thưa: “Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là hay!” (Mt 17, 4b). Liền sau đó là tiếng Chúa Cha từ đám mây phán: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!” (Mt 17, 5b). Chúa Cha rất hài lòng về Chúa Giêsu. Vì Người đã vui lòng đón nhận con đường mà Chúa Cha đã vạch sẵn cho. Con đường ấy chính là con đường thập giá. Cũng chính con đường thập giá ấy mới là con đường vinh quang đích thật. Và rồi Chúa Cha cũng muốn mời gọi ba môn đệ và tất cả chúng ta hãy đi theo con đường Thập giá cùng với của Thầy mình.

Chúa Giêsu cũng là Thiên Chúa thật nên vinh quang mà chúng ta chiêm ngưỡng là điều bình thường. Điều đáng nói là vì thương và vì muốn đem lại ơn cứu độ cho con người chúng ta, nên Chúa Giêsu đã đón nhận con đường thập giá ấy. Chúng ta thấy không bao giờ Chúa Giêsu kêu gọi người ta làm gì mà chính Người đã không làm trước. Chẳng hạn khi Người kêu gọi hãy tha thứ thì chính Người cũng đã tha thứ cho những kẻ đã bắt bớ, đã sỉ nhục mình: “Lạy Cha xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm”. (Lc 23, 34. Cho nên, nếu Chúa Giêsu đã đi con đường thập giá thì những ai muốn theo Người không thể đi đường khác được. “Ai muốn theo Thầy thì hãy từ bỏ chính mình vác thập giá mình mà theo Thầy” (Mt 16, 24).

Vậy đâu là con đường thập giá. Đó là con đường từ bỏ những ý riêng của mình mà sống theo thánh ý Chúa Cha. Bài đọc 1 cho thấy ông Abram được Thiên Chúa mời gọi: “Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi” (St 12, 1b). Thật là một lời mời gọi hết sức vô lý theo cái nhìn của chúng ta. Tuy nhiên, ông đã vâng lời Chúa để ra đi mà không một lời phàn nàn. Nhờ đó mà ông đã trở thành Tổ phụ của nhiều dân tộc.

Hằng ngày trong cuộc sống chắc chắn có rất nhiều điều trái ý nhưng nếu biết đó là thánh ý Chúa Cha, chúng ta hãy tin tưởng mà bước đi. Bước đi như thế là chúng ta đang đi theo Chúa Giêsu – vị Thầy Chí Thánh của chúng ta. Bước theo con đường thập giá cũng chính là con đường vinh quang.

 

35.             Lên núi cao – Lm Giuse Lê Minh Thông

LÊN NÚI CAO ĐỂ THẤY CÁI KHÔNG THỂ MÔ TẢ, ĐỂ NGHE LỜI PHÁT RA TỪ ĐÁM MÂY.

Dẫn nhập

Bài Tin Mừng “Biến đổi hình dạng ở trên núi” (Mt 16,1-9) nằm giữa hai lần Đức Giêsu báo trước Thương Khó – Phục Sinh: Lần thứ nhất ở Mt 16,21-23 và thứ hai ở Mt 17,22-23. Chúng ta vẫn quen gọi: “Ba lần Đức Giêsu báo trước cuộc Thương Khó”, nhưng trong cả ba lần Đức Giêsu đều nói tới biến cố Phục Sinh bằng một câu ngắn ngủi: “Ngày thứ ba, Người sẽ trỗi dậy” (Mt 16,21; 17,23; 20,19).

Có lẽ nói ngắn quá nên các môn đệ trong bản văn cũng như cộng đoàn Mátthêu cuối thế kỷ I và cả độc giả ngày nay không để ý, hay xem nhẹ ba lần báo trước sự Phục Sinh. Vì thế, trình thuật Đức Giêsu được biến đổi hình dạng (Mt 17,1-9) nhằm làm lộ ra vinh quang tiềm ẩn nơi Đức Giêsu và nhất là mặc khải cho các môn đệ và cho độc giả biết Đức Giêsu là ai và chúng ta phải làm gì.

Trình thuật Đức Giêsu được biến đổi hình dạng và tiếng phát ra từ đám mây vẽ lên một bức tranh tuyệt đẹp có một không hai trong sách Tin Mừng với những hình ảnh và ngôn từ rất đặc biệt. Có thể tìm hiểu đoạn Tin Mừng Mt 17,1-9 qua ba mục:

1) Tách rời khỏi thế giới thường ngày, thế giới khả giác.

2) Chiêm ngưỡng thế giới của Thiên Chúa bằng mắt.

3) Lắng nghe mặc khải của Thiên Chúa bằng tai.

1) Tách rời khỏi thế giới thường ngày, thế giới khả giác.

Trình thuật bắt đầu bằng sự tách biệt với đời thường về thời gian, về không gian và về con người: “Sáu ngày sau, Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan là em ông Giacôbê đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn núi cao” (Mt 17,1).

  1. a) Yếu tố thời gian là “sáu ngày sau”, đánh dấu sự phân cách với những gì đã xảy ra trước đó một tuần. Người kể chuyện không nói gì về sáu ngày này, như thể sáu ngày im lặng không kể gì cả để làm cho biến cố xảy ra trên núi cao trở thành một trong những đỉnh cao của sách Tin Mừng.
  2. b) Trình thuật nói đến tách biệt về nơi chốn. Ba môn đệ được tách riêng ra một nơi và được đưa lên một ngọn núi cao. Đó là núi nào? Bản văn không nói rõ. Độc giả không nên tìm cách đặt tên, vì bản văn nói đến một nơi tượng trưng, núi cao là nơi Thiên Chúa bày tỏ và gặp gỡ con người. Bản văn cố tình không cho biết núi nào để đưa độc giả ra khỏi những gì là bình thường. Cần ra khỏi khỏi thế giới thường ngày, thế giới khả giác để có thể hiểu được một biến cố vượt ra ngoài thời gian và không gian bình thường. Nơi chốn không rõ, thời gian cũng bị vượt khỏi giới hạn, cụ thể trong trình thuật là những nhân vật sống cách nhau hàng thế kỷ như Môsê, Êlia và Đức Giêsu lại có thể đàm đạo với nhau.

(Trình thuật không nói rõ nơi nào, nhưng truyền thống Hội Thánh cần một nơi để ghi nhớ biến cố này. Núi Ta-bo ở Ga-li-lê đã được chọn, đây là một ngọn núi riêng biệt, chung quanh không có đồi núi, nên có thể thấy từ xa. Hiện nay có một ngôi thánh đường trên đỉnh núi và khách hành hương đến để sống và suy niệm về biến cố này).

  1. c) Tách biệt về con người, vì chỉ có ba môn đệ được chọn: “Phêrô, Giacôbê và Gioan”. Đây là Nhóm thu nhỏ của Nhóm Mười Hai, đại diện cho tất cả các môn đệ khác. Sự tách biệt này là dấu hiệu văn chương báo trước một biến cố quan trọng, nhưng chưa phải là lúc phổ biến rộng rãi cho mọi người. Tuy nhiên, những gì ba môn đệ này đã thấy và đã nghe là để rao giảng cho mọi người qua mọi thời đại được biết. Thực vậy, nhờ trình thuật, chính độc giả cũng được tách riêng ra, được thấy và được nghe những gì ba môn đệ ngày xưa đã nghe, đã thấy.

Sau khi được tách biệt khỏi thời gian và không gian bình thường, những gì xảy ra trên núi thuộc về một thế giới khác. Đó là thế giới của Thiên Chúa, thế giới không còn khoảng cách thời gian và không gian, thế giới mà ngôn ngữ không thể diễn tả được. Trong khoảng khắc thần linh đó, mặc khải của Thiên Chúa được tỏ bày qua thị giác (để thấy) và qua thính giác (để nghe).

2) Chiêm ngưỡng thế giới của Thiên Chúa bằng mắt

Trước hết, Đức Giêsu không tự mình biến đổi hình dạng mà “Người được biến đổi hình dạng” (metamorphôthê). Động từ Hy Lạp metamorphôthê ở dạng thụ động và tác nhân được hiểu là Thiên Chúa (passif divin). Chính Thiên Chúa làm cho Đức Giêsu được biến đổi hình dạng.

Sự biến đổi này không chỉ là biến đổi khuôn mặt. Tiếng Pháp quen dùng động từ transfigurer có nghĩa là thay đổi (trans) khuôn mặt (figure). Từ figure có nghĩa đầu tiên là mặt. Trong khi động từ Hy Lạp metamorphoô, tiếng Pháp chuyển âm: métamorphoser, có nghĩa là biến đổi, biến hoá (méta) toàn thân, từ trong bản chất (morphoser). Tiếng Việt có thể dùng cụm từ “biến đổi hình dạng”.

Đức Giêsu được biến đổi hình dạng trước mặt ba môn đệ. Nghĩa là ba môn đệ được chứng kiến sự kiện nhưng họ đã thấy gì? Người thuật chuyện kể: “Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng.” Nếu dung nhan Đức Giêsu chói lọi như mặt trời thì làm sao các môn đệ có thể nhìn mà không bị mù mắt. Nếu y phục của Đức Giêsu trở nên trắng tinh như ánh sáng thì làm sao các môn đệ có thể thấy được, vì không ai thấy được ánh sáng mà chỉ có thể thấy sự phản chiếu của ánh sáng nơi sự vật mà thôi.

Thực ra, đây là cách diễn tả những thực tại thần linh bằng thứ ngôn ngữ thị kiến của sách Khải Huyền. Ba môn đệ đang đối diện với thế giới của Thiên Chúa, đối diện với những thực tại thuộc về Thiên Chúa, đối diện với vinh quang của Thiên Chúa, nên ngôn ngữ loài người hoàn toàn bất lực. Ngôn ngữ loài người không mô tả được, chỉ vì điều xảy ra không có trong kinh nghiệm cuộc sống thường ngày của con người.

Bằng ngôn ngữ, sách Khải Huyền chỉ có thể mô tả những thị kiến về thế giới thần linh bằng các từ: “như”, “giống như”, “tựa như”… còn điều trông thấy thì không thể mô tả được. Chẳng hạn Gioan mô tả thị kiến ở Kh 4,2-3: “Lập tức tôi xuất thần. Kìa một cái ngai đặt ở trên trời và có một Đấng ngự trên ngai. Đấng ngự đó trông giống như ngọc thạch và xích não. Chung quanh ngai có cầu vồng trông giống như bích ngọc”. Kh 4,6 viết: “Trước ngai có cái gì như biển trong vắt tựa pha lê.” “Trông giống như…”, “như…” còn thực sự thế nào thì không mô tả được.

Có thể nói, trên núi cao, giữa trời và đất, ba môn đệ được thấy “thị kiến” về Đức Giêsu trong thế giới của Thiên Chúa, chỉ có thể mô tả bằng so sánh “như”: “Chói lọi như mặt trời”, “trắng tinh như ánh sáng”, nghĩa là dung nhan của Đức Giêsu không phải là mặt trời, và y phục của Người cũng chẳng phải là ánh sáng, chỉ là “như”, “giống như” mà thôi.

Trong thế giới thần linh ấy, các nhân vật sống cách nhau hàng thế kỷ có thể ngồi lại đàm đạo với nhau. Theo Kinh Thánh, Môsê dẫn dân Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập vào thế kỷ XIII TCN, Êlia là ngôn sứ dưới thời vua A-kháp, thế kỷ VIII TCN và Đức Giêsu thế kỷ I SCN.

Nội dung đàm đạo không được kể ra, nhưng điều chắc chắn là có trao đổi giữa các nhân vật. Trong thế giới trên cao, điều nhấn mạnh là tương quan giữa người sống và người đã khuất, là nối kết giữa các thế hệ với nhau, như thể khoảng cách thời gian không còn nữa. Ba môn đệ là chứng nhân cuộc đàm đạo nhưng nội dung lại vượt ra ngoài sự nắm bắt của người phàm.

Lời Phêrô nói với Đức Giêsu: “Thưa Ngài, chúng con ở đây, thật là hay! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Ngài, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia” (17,4). Lời đề nghị này vừa cho thấy các môn đệ muốn kéo dài thị kiến vì biến cố quá hay, quá tốt, quá đẹp, vừa có nét hài hước vì Phêrô đề nghị làm ba lều cho Đức Giêsu, Môsê và Êlia như thể những nhân vật đã khuất như Môsê và Êlia không thuộc về thế giới này lại cần lều để ở, còn ba môn đệ là người phàm lại không cần lều.

3) Lắng nghe mặc khải của Thiên Chúa bằng tai

Mặc khải bằng thị kiến kết thúc với sự lên tiếng của con người, cụ thể là Phêrô, và chuyển sang hình thức mặc khải thứ hai: “Tiếng nói từ đám mây”: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người.” (17,5).

Từ kinh nghiệm thị kiến, thấy bằng mắt, chuyển sang mặc khải bằng lời qua tiếng phát ra. Các môn đệ chỉ có thể lãnh hội được nội dung bằng cách “nghe”. Tiếng phát ra từ đám mây không phải là tiếng con người, tiếng này có nguồn gốc từ trời và bí ẩn. Lối hành văn phù hợp với bối cảnh của biến cố trình bày mặc khải của Thiên Chúa.

Cách thứ nhất, mặc khải bằng thị kiến là vén bức màn lên (mạc khải) để soi sáng những gì còn ẩn dấu (mặc khải). Cách thứ hai là mặc khải bằng lời, hàm ẩn sự lắng nghe để hiểu, ở đây lắng nghe theo nghĩa đón nhận, cho dù chưa hiểu trọn vẹn ý nghĩa của lời mặc khải. Trong trình thuật biến hình, có cả hai cách mặc khải, nhằm giúp ba môn đệ và độc giả hiểu được Đức Giêsu là ai.

Lời phát ra từ đám mây (17,5), nhắc lại tiếng phát ra từ trời sau khi Đức Giêsu chịu phép rửa ở đầu sách Tin Mừng: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” (Mt 3,17). Mt 17,5 có thêm hai yếu tố mới: (1) “Hãy vâng nghe lời Người”, dịch sát: “Hãy nghe Người (akouete autou)”, (2) Tiếng phát ra từ đám mây nói trực tiếp với ba môn đệ và qua đó nói với độc giả qua mọi thời đại về căn tính của Đức Giêsu và tương quan của Người với Thiên Chúa Cha. Lời nói từ đám mây gồm một lời giới thiệu: “Đây là Con yêu dấu của Ta” và một mệnh lệnh: “Các người hãy nghe Người.”

Khi gọi ai là Con (huios) thì người ấy là Cha, như thế lời phát ra muốn các môn đệ và độc giả biết Đức Giêsu có tương quan “Cha – Con” với Thiên Chúa, Đức Giêsu chính là Con Thiên Chúa. Mệnh lệnh nói với ba môn đệ và cho độc giả: “Hãy nghe Người” là một khẳng định quan trọng nói lên sự thay đổi lớn trong tương quan giữa Thiên Chúa và con người, như thể Chúa Cha tự xoá mình trước Đức Giêsu là Con yêu dấu của Người.

Thực vậy, trước khi Đức Giêsu xuất hiện, Thiên Chúa phán với dân và dân nghe lời Người. Khi Đức Giêsu xuất hiện, Chúa Cha dặn các môn đệ: Hãy nghe lời Đức Giêsu. Như thế, tương quan “Thiên Chúa / dân” trong Cựu Ước trở thành tương quan “Đức Giêsu / môn đệ” trong Tân Ước, và đây là ý muốn của Chúa Cha.

Nghe lời Đức Giêsu là nghe tất cả những gì Người nói và dạy. Đặc biệt đón nhận lời loan báo Thương Khó và Phục Sinh đã được loan báo trước đó và Người sẽ báo trước thêm hai lần nữa để nhấn mạnh biến cố nền tảng và nghịch lý này. Như thế, biến cố trên núi cao không phải là một biến cố tách rời khỏi các trình thuật khác. Ngược lại, lời mời gọi “nghe lời Đức Giêsu”, nối kết biến cố trên núi cao với toàn bộ giáo huấn của Đức Giêsu trong sách Tin Mừng.

Đối diện với thế giới của Thiên Chúa và vinh quang của Người, các môn đệ đã “kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất” (17,5). Chính Đức Giêsu đã đưa các ông trở lại đời thường bằng cách chạm vào các ông và nói: “Chỗi dậy đi, đừng sợ”, các ông ngước mắt lên và mọi chuyện lại trở về thực tế. Nhưng biến cố ấy, những gì đã thấy, những lời đã nghe, sẽ không bao giờ rời khỏi các ông.

Kết luận

Giữa hai lần báo trước biến cố Thương Khó và Phục Sinh, Đức Giêsu đưa ba môn đệ ra khỏi đời thường để bước vào thế giới của Thiên Chúa. Ở đó những điều xảy ra nhằm mặc khải căn tính của Đức Giêsu. Biến cố trên núi cao báo trước sự Phục Sinh của Đức Giêsu vì Người có nguồn gốc thần linh, Người có Cha là Thiên Chúa, Người là Con và được Chúa Cha yêu thương. Chính Chúa Cha ra lệnh cho các môn đệ lắng nghe giáo huấn của Đức Giêsu.

Trình thuật Đức Giêsu được biến đổi hình dạng trên núi cao và lời phát ra từ đám mây là những tia sáng mạnh mẽ như ánh sáng mặt trời, có khả năng soi sáng cho cuộc đời của độc giả mọi nơi mọi thời đang bước đi trong đêm tối, đang sống trong khó khăn thử thách của cuộc sống, đang nghi ngờ về căn tính của Đức Giêsu và chưa biết rõ Người là ai. Có thể nói, biến cố trên núi cao là hình ảnh của biến cố Phục Sinh, trước khi biến cố Thương Khó xảy ra. Đây là niềm hy vọng lớn lao cho ba môn đệ và cho độc giả.

Đọc xong trình thuật, liệu độc giả, là tất cả chúng ta, có thực sự sống biến cố xảy ra trên núi như ba môn đệ hay không?

Liệu độc giả có cùng với các môn đệ tách ra khỏi đời thường để ngây ngất trước vẻ đẹp của thế giới trên cao hay không?

Liệu độc giả mọi nơi mọi thời có nghe được tiếng phát từ trời để biết Đức Giêsu là ai (là Con Thiên Chúa) và biết phải làm gì (Nghe Đức Giêsu) hay không?

Ước gì mặc khải ngắn ngủi trong bản văn bằng thị kiến để thấy, và bằng lời để nghe có khả năng gây ấn tượng lâu dài và trở thành một lời mời gọi tin và vững tin vào Đức Giêsu trong hoàn cảnh khó khăn, thử thách.

Mong sao mệnh lệnh “Hãy nghe Người” là lời thúc đẩy chúng ta đến với Tin Mừng, đọc Tin Mừng để nhận ra lời của Đức Giêsu là Lời sự sống, Lời đem lại ý nghĩa cho cuộc đời này.

 

36.             Đức Giêsu – Con đường cứu độ duy nhất

(Suy niệm của Lm. Bùi Quang Tuấn)

“Ngước mắt lên, các ông thấy chẳng còn ai, trừ ai một mình Chúa Giêsu” (Mt 17:8).

Trong cuốn sách tựa đề “Gương Hiếu Thảo”, tác giả Phan Như Huyên có thuật lại gương chí hiếu của Công Chúa An Thường như sau: An Thường là con gái thứ tư của vua Minh Mạng. Nàng rất thông minh và thảo hiếu. Năm lên 9 tuổi, mẹ của công chúa bị bịnh. Lúc đó vào dịp lễ Vạn Thọ, các hoàng tử công chúa đều được triệu vào cung để chúc tuổi vua cha. Nhà vua cho các hoàng tử được ăn thịt dê. An Thường chỉ ngậm thịt trong miệng chứ không nuốt. Vua thấy lạ mới hỏi nguyên do, cô trả lời: “Con nghe nói thịt dê bổ lắm, nên con ngậm về cho mẹ đang bị bịnh ăn cho mau khỏe”. Nghe vậy, vua cảm động quá, mới truyền đem khay lấy thêm thịt để An Thường đưa về cho Mẹ. Đến khi Vua Minh Mạng chết, nàng để tang ba năm, sống bên lăng cha cho trọn đạo hiếu.

Khi đề cập đến đạo hiếu trong văn hoá Việt Nam, Đức TGM Stephanô Nguyễn Như Thể của TGP Huế tại Thượng Hội Đồng Giám Mục Á Châu, đã phát biểu: Người Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu đậm của Khổng giáo, Lão giáo, Phật giáo. Cả ba tôn giáo đó đều cho lòng hiếu thảo là nhân đức căn bản của gia đình và xã hội. Việc sốt sắng tôn kính và phục vụ cha mẹ khi còn sống cũng như lúc qua đời là một bổn phận ưu tiên. Luân lý và văn minh đều tùy thuộc vào bổn phận này.

Có lẽ trong những quốc gia mà đạo hiếu bám rễ sâu vào lòng người như Việt Nam, Trung Quốc, Thái Lan, Ấn Độ…, nơi mà “tứ đại đồng đường”, ba bốn đời vẫn ở chung nhau dưới một mái nhà, thì việc rao giảng hay đón nhận Kitô giáo sẽ không phải là một chuyện dễ dàng. Tại sao thế?

Lý do là vì nhiều người cảm thấy băn khoăn muốn phải kháng khi nghe Đức Giêsu nói: “Ai đến với Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình thì không thể làm môn đệ của Ta” (Lc 14:26).

Vấn đề được đặt ra là: “Trên thế gian này có gì cao đẹp cho bằng tình cảm cha mẹ con cái, vợ chồng, anh em, và có gì quí giá cho bằng sự sống, ấy thế mà Đức Giêsu nào đó lại bảo người ta phải hy sinh từ bỏ để có thế gắn bó với Ngài. Thử hỏi Đức Giêsu là ai mà đòi hỏi người ta một việc làm quá đáng như vậy? Phải chăng Đức Giêsu đang dạy con người sống bất hiếu?”

Điều cần xác minh trước hết, ấy là Chúa Giêsu không hề dạy người ta bất hiếu hay bất nghĩa. Ngài đã từng nhắc đi nhắc lại điều răn thứ 4 là giới răn dạy người ta thảo kính với mẹ cha. Khi một chàng thanh niên đến hỏi Chúa Giêsu làm thế nào để được hạnh phúc đời đời, câu trả lời của Ngài đã có phần: “ngươi phải thảo kính cha mẹ”. Ngay khi trên thập giá, trước lúc tắt hơi, Ngài vẫn quan tâm đến Mẹ Maria và lo liệu để Gioan đón Mẹ về nhà chăm nom. Thế nên không thể nào nói Chúa Giêsu bất hiếu hay dạy người ta sống bất hiếu được.

Vậy thì làm sao để lý giải được câu nói trên đây của Chúa Giêsu?

Thật ra có gì khó hiểu đâu nếu như có những con người đã vì một đất nước trần thế, một đất nước nay còn mai mất, nay vào tay chế độ này mai vào tay chế độ khác, mà họ còn dám dấn thân và hy sinh cha mẹ anh em cùng sự sống, thì với một đất nước vĩnh hằng, một đất nước được thống trị bởi Đức Giêsu, vua tình yêu và chân lý, thì có gì là khó hiểu khi có những con người dám liều bỏ hết tất cả để đi theo vị vua đó và xây dựng đất nước đó.

Mấy ai lại không biết một Thomas More dám bỏ vua Henry VIII, chấp nhận xa vợ con, và cuối cùng là mất mạng sống để bênh vực cho chân lý trung tín yêu thương, một vợ một chồng, mà Vua Giêsu đã truyền dạy.

Mấy ai lại không biết một Giêrađô Majella trốn nhà ra đi sau khi ghi vội cho mẹ mấy lời: “Mẹ ở nhà con đi làm thánh”. Hay một Charles Cornay đã can đảm bước qua mình song thân, lên đường đi rao truyền chân lý Nước Trời cho Việt Nam, chấp nhận biết bao khốn khó nghèo khổ, và rồi cuối cùng chấp nhận cái chết lăng trì vì con người có tên Giêsu.

Nhưng không phải là ai cũng hiểu rõ được bản chất thực sự của Đức Giêsu để dám bước theo Ngài cách can đảm và quyết liệt. Lắm khi người ta lại cho Ngài chỉ giống như một hiền triết, hay một vĩ nhân, hoặc một nhà sáng lập tôn giáo nào đó. Nhưng một hiền triết, một vĩ nhân, hay một người sáng lập tôn giáo như Đức Khổng, hay Đức Lão, hoặc Đức Phật, thì cũng chỉ là những con người nói về yêu thương và dạy về chân lý, khuyên bảo chúng sinh làm lành lánh dữ, chứ các ngài không là yêu thương, hay là chân lý. Nhưng Đức Giêsu thì trái lại, Ngài là yêu thương, là Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống. Quan trọng là chỗ đó! (ĐC Fulton J. Sheen).

Thế thì, một khi nhận thức và xác tín Đức Giêsu chính là chân lý soi sáng đường đi cho con người, là tình yêu đưa đến một sự sống phong phú tràn đầy, thì việc bước theo Ngài, làm môn đệ của Ngài sẽ là bước đi tất yếu cho những ai muốn sống sự thật, muốn sống yêu thương, và muốn trở nên con người toàn vẹn. Ngoài Đức Giêsu Kitô, sẽ không còn ai có thể lấp đầy khát vọng đó.

“Ngước mắt lên, các ông thấy chẳng còn ai, chỉ trừ một mình Chúa Giêsu”. Hai nhà đại tiên tri và lãnh đạo tôn giáo là Êlia và Môisen biến mất. “Chỉ còn một mình Chúa Giêsu”. Theo nhận định của một nhà chú giải: rồi đây “mọi chủ thuyết triết học, mọi ý thức hệ vang bóng một thời rồi cũng sẽ bị lãng quên”. Các tinh hoa của mọi nẻo đường cũng chỉ qui về một mối trong Đức Giêsu, Đấng là Đường duy nhất dẫn đến Chân Thiện Mỹ của muôn vật muôn loài.

Thật chí lý thay niềm xác tín của Giáo hội: “Không có ơn Cứu Độ ngoài Đức Giêsu”.

 

37.             Chúa hiển dung bộ mặt nào?

(Suy niệm của Lm Gioan Nguyễn Văn Ty)

Tôi được biết: trong phụng vụ của Giáo Hội Đông Phương thì biến cố hiển dung (‘sự hóa thân’ theo như cách nói của họ) chiếm vị trí hàng đầu, và được coi là sự kiện thâu tóm tất cả mạc khải Tân ước. Xét cho cùng tôi thấy họ không sai chút nào, vì Hiển Dung với tất cả sự hoành tráng của nó (bao bì) phải gói ghém trong đó một thực tế (sản phẩm) có tầm mức quan trọng vượt bậc. Hiển Dung chắc chắn không phải là biến cố vinh quang hào nhoáng nhằm che đậy một thực tại đau đớn là cuộc khổ nạn, như nhiều khi chúng ta được nghe giải thích: Chúa biến hình để củng cố các tông đồ khỏi vấp ngã vì cuộc khổ nạn ê chề. Nếu đúng là như thế thì việc biến hình đã thất bại, vì trong thực tế, các tông đồ nói chung, cách riêng Phêrô – một trong ba chứng nhân trực tiếp, đã vấp ngã. Hiển dung không nhằm mục đích che đậy bất cứ một thực tế đau thương nào, ngược lại nó phải làm lộ rõ nội dung vinh quang đích thực của Thập Giá

Theo lối suy nghĩ tự nhiên của định luật nhân-quả, người ta luôn có khuynh hướng tách vinh quang ra khỏi đau khổ: đau khổ chỉ là tiền đề, là điều kiện để đạt tới vinh quang. ‘Per crucem ad lucem’, người ta thường quan niệm thế, phải qua thập giá đau thương mới tới được vinh quang phục sinh. Nói như thế thì tự nó Thập giá không bao giờ là vinh quang, vinh quang chỉ lộ diện như một phần thưởng sau thập giá, trong ánh sáng phục sinh. Thông thường người ta quan niệm, thập giá chỉ là phương tiện chứ không thể là mục tiêu, tương tự như đau khổ là con đường dẫn tới thành công. Do đó người ta chỉ có thể ôm ấp vinh quang phục sinh chứ không thể yêu thích thập giá, và diện mạo cũng như sức mạnh đích thực của Thiên Chúa chỉ tỏ hiện trong ánh sáng Phục sinh chứ không thể trong đau khổ thập giá.

Ngược hẳn với lối suy nghĩ trên, các thánh sử, khi mô tả biến cố Hiển Dung, đều cho thấy vinh quang Thiên Chúa tỏ rõ nơi biến cố Thập Giá. Hai ông Êlia và Môsê, hiện thân tột đỉnh của mạc khải Cựu Ước, hiện ra đàm đạo với Đức Giêsu “về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem” (Lc 9,31). Để thấu hiểu biến cố hiển dung thì phải lồng nó trong cuộc khổ nạn – phục sinh của Đức Giêsu. “Đừng nói cho ai hay thị kiến ấy, cho đến khi Con Người từ cõi chết chỗi dậy”. Theo tác giả Gio-an thì chính cái chết tự hiến (chứ không phải Phục sinh) mới được Đức Giêsu coi như mục tiêu chính của mạc khải Người, là ‘giờ của Người’, là sự tôn vinh’ của Thiên Chúa Cha và của chính Người nữa (xem Ga 12,20-33). Chỉ có Đức Giêsu của hiển dung – thập giá mới được Chúa Cha từ trời giới thiệu: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!”

Hiểu được vinh quang Thiên Chúa nằm trong chính thập giá quả là điều khó. Ngay cả Phêrô cũng còn lâu mới chấp nhận nổi điều này (xem Mc 8,31-33). Điều đó cho thấy chiêm ngắm và tin vững chắc vào một Thiên Chúa giầu lòng từ nhân và hay thương xót không phải là dễ. Chấp nhận một Thiên Chúa oai hùng và công thẳng còn dễ hơn nhiều. Các tôn giáo đều muốn tôn vinh Thiên Chúa và ca ngợi sự uy nghi cao cả của Ngài mà không bị bóng thập giá phủ mờ. Trong khi đó Đức Giêsu, bằng trọn cuộc sống trần thể, và nhất là qua cái chết thập giá, chỉ muốn hé mở một điều duy nhất: vinh quang vĩ đại nhất của Thiên Chúa, và yếu tính đặc sắc nhất của Ngài chính là tự hiến và cứu độ, là tha thứ và xót thương. Thập giá là mạc khải toàn diện nhất về Thiên Chúa, đồng thời cũng biểu lộ tột cùng vinh quang tình yêu của Ngài.

Vì vậy đối với Kitô hữu chúng ta, mùa chay phải là thời gian của Hiển Dung. Hình như Hội Thánh muốn nhắc nhở chúng ta điều đó: đây chính là thời gian mời gọi mọi Kitô hữu hãy say sưa chiêm ngắm thập giá, để phát hiện ra vinh quang và quyền lực lớn lao nhất của Thiên Chúa, một thứ quyền lực không hề tạo sợ hãi, nhưng chất đầy vui mừng và hy vọng đích thực của Tin Mừng. Trung tâm của mùa chay phải là Thập giá, nhưng không phải thứ thập giá thuần khổ đau và chết chóc, mà là Thập giá ánh lên vinh quang của tình yêu trao hiến và cứu độ của Thiên Chúa là Cha nhân lành. Hoặc tôi chiêm ngắm vinh quang Thiên Chúa như thế, hoặc như Phêrô, tôi chối bỏ vinh quang Thập Giá, để đáng bị Đức Giêsu sua đuổi như Sa-tan, tức là kẻ phản nghịch chối bỏ vinh quang tình yêu tha thứ của Thiên Chúa.

Mùa chay vì thế không chỉ là thời gian hãm dẹp, nhưng phải là dịp để khám phá và củng cố niềm tin. Tôi có ý thức điều đó không?

Lạy Chúa, khi mời gọi con vác thập giá theo chân Chúa là Chúa muốn dành cho con vinh dự được tham gia vào vinh quang vĩ đại nhất của Chúa. Xin cho con, một Kitô hữu và Linh mục của Chúa, không còn coi Thập Giá là biểu hiện của khổ nhục và đau đớn, nhưng đã trở thành biểu tượng của tình yêu vinh quang. Chính vì thập giá hiển dung cho con diện mạo yêu thương tự hiến của Chúa mà con xin được say mê Thánh Giá. Xin cho Thánh Giá từ nay trở thành gia nghiệp duy nhất của đời con. A-men

 

38.             Đường về đỉnh vinh quang

(Suy niệm của Lm Antôn Nguyễn Văn Tiếng)

Đây là một câu chuyện xưa có tên “Người kế vị”, nội dung như thế này: Ở ngôi chùa kia có vị cao tăng với nhiều đồ đệ đông đến hàng trăm người. Cũng như mọi người bình thường, vị cao tăng biết rõ ràng quy luật “sinh, tử” của Tạo Hóa là không có ngoại lệ. Nay tuổi cao, sức yếu, vị cao tăng muốn tìm một người kế vị mình. Ngặt nỗi, người kế vị chỉ có một, còn đồ đệ thì rất nhiều. Vị cao tăng nghĩ là một kế và tiến hành lựa chọn người kế vị.

Cứ khoảng vài ba ngày, vị cao tăng tự đem giấu một món đồ vật và phàn nàn với đồ đệ rằng nơi đây có trộm cắp.

Ít lâu sau, vị cao tăng bỗng la lên: Trộm! Trộm! Có kẻ trộm!

Nghe tiếng thầy kêu, dù đang ngon giấc, các đồ đệ đều bật dậy, vội chạy tới. A là một đồ đệ rất siêng năng, nhanh nhẹn, tháo vát, luôn quí trọng thầy, thương yêu sẵn sàng giúp đỡ bạn, có uy tín vào bậc nhất trong các đồ đệ của vị cao tăng. A chạy đến trước tiên, hy vọng sẽ giúp thầy tìm bắt kẻ trộm, bảo vệ tài sản.

Thấy A, vị cao tăng vội túm lấy áo của A và nói lớn: Bắt được kẻ trộm rồi.

Trước đông đảo các môn đệ, vị cao tăng tuyên bố:

A là kẻ trộm vừa bắt được và đuổi A đi.

Bị thầy đuổi, không một lời thanh minh, không một lời oán thán, A nhẫn nhục ra đi.

Ba ngày sau, A trở lại Chùa, quỳ trước vị cao tăng và nói: “Thưa thầy, con ngộ (giác ngộ – nhận thức) được rồi”.

Vị cao tăng đỡ A dậy, trong lòng cảm thấy rất vui vì đã lựa chọn được người kế vị xứng đáng đúng như lòng muốn.

ĐƯỜNG VỀ ĐỈNH VINH QUANG.

“Vinh quang trên đỉnh núi” hôm nay, mà truyền thuyết cho là núi Ta-bo, duy nhất chỉ xảy ra một lần cho đến khi Chúa Kitô hoàn tất Chương trình Cứu Độ.

Đức Giêsu biến hình rực rỡ cùng với sự xuất hiện của hai nhân vật Cựu Ước, cho thấy tính cách xác thật và chắc chắn của cuộc hành trình mà Đức Giêsu sẽ thực hiện trên trần thế: Con đường Thương Khó và Phục Sinh.

Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người bổng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa. Và kìa, có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Môsê và ông Ê-lia. Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem. (Lc. 9,29-31).

Trong cuộc biến hình này, có hình ảnh Đức Giêsu vinh quang, và ẩn chứa hình ảnh Đức Giêsu chịu ô nhục: cuộc xuất hành mà Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem.

Trong thoáng chốc, Phêrô – luôn là đại diện cho các môn đệ – “nhận biết” được Đức Kitô vinh quang, vì Người là con Thiên Chúa, như ông từng tuyên xưng “Thầy là Đức Kitô, con Thiên Chúa hằng sống”, nhưng ông không thể “nhận biết” được Đức Kitô ô nhục, mà ngay sau cuộc biến hình này, Đức Kitô sẽ bước vào con đường đó: con đường Thập Giá.

Xin Chúa thương, đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy! (Mt. 16,22).

Đức Kitô biến hình trước mặt những môn đệ gần gũi Chúa nhất, để các ông vững tin vào Đức Kitô, vào Chân Lý, vào con đường mà các ông đang đi. “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống”.

Niềm tin vào Chúa Giêsu có đó, nhưng bước đi vững vàng trong cuộc hành trình Đức Tin không luôn luôn dễ dàng. Mỗi người phải biến đổi để trở nên “đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô trong cái chết của Người” (Pl.3,10).

Sự biến đổi ấy đòi hỏi mọi người phải “thông phần những đau khổ của Người”, bằng sự sám hối, sự điều chỉnh, sự hoán cải sâu xa cuộc đời mình.

Không trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô trong cái chết của Người, thì không thể “đồng hình dồng dạng với Người” trong vinh quang được.

NHỮNG THỬ THÁCH

Trước đông đảo các môn đệ, vị cao tăng tuyên bố:

A là kẻ trộm vừa bắt được và đuổi A đi.

Bị thầy đuổi, không một lời thanh minh, không một lời oán thán, A nhẫn nhục ra đi.

Ba ngày sau, A trở lại Chùa, quỳ trước vị cao tăng và nói: “Thưa thầy, con ngộ (giác ngộ – nhận thức) được rồi”.

Vị cao tăng đỡ A dậy, trong lòng cảm thấy rất vui vì đã lựa chọn được người kế vị xứng đáng đúng như lòng muốn.

Điều gì đã diễn ra trong lòng của đồ đệ A? Đó là những giờ phút độc thoại, chiến đấu, lắng nghe nội tâm, đối diện với chính mình.

Một vị “chân tu”, không thể nào hành động vô lý như vậy. Thế thì, đằng sau hành động bất thường này, thầy có ý dạy điều gì? Đồ đệ A phải nâng tâm hồn lên để suy gẫm được điều đó, để ngộ được điều đó. Nếu không, lòng tự ái bùng lên, danh dự bị thương tổn, đồ đệ A không thể nhận ra tình thương của thầy mình. Có thể tất cả đã đổ vỡ!

Phêrô và các môn đệ đã biết Chúa là ai. Thiên Chúa không thể phản bội. Lời Ngài không sai, dù một chấm, một phẩy. Hình ảnh Chúa Giêsu biến hình khẳng định cho các môn đệ sự vinh quang mà Thiên Chúa hứa ban là chắc chắn.

Chúa thành tín trong mọi lời Chúa phán, đầy yêu thương trong mọi việc Chúa làm. (Tv.144, 13).

Đó là sự xác tín căn bản. Đó là Đức Tin của chúng ta. Từ sự xác tín đó, niềm tin đó, chúng ta tiến bước theo Chúa. Phó thác trong hy vọng và hạnh phúc.

Thưa anh em, tôi không nghĩ mình đã chiếm được rồi. Tôi chỉ chú ý đến một điều, là quên đi những chặng đường đã qua, để lao mình về phía trước. Tôi chạy thẳng tới đích, để chiếm được phần thưởng từ trời cao Thiên Chúa đã dành cho những kẻ được Người kêu gọi trong Đức Giêsu Kitô. (Pl.3,13-14).

Để tiến bước mạnh mẽ, để “lao mình về phía trước”, để “chạy thẳng tới đích”, đòi hỏi sự chiến đấu nội tâm anh dũng, đè bẹp “cái tôi” hẹp hòi, “chết đi con người cũ”, đó là “thập giá của đời ta”.

Nếu con người chỉ suy nghĩ và hành động theo ý riêng, theo bản năng, theo dục vọng, theo khát vọng thấp hèn, hạn hẹp, nhất thời, trước mắt, con người không thể bước vào lối hẹp, không thể đi vào con đường Thập Giá! Điều ấy, đồng nghĩa với việc con người thuộc về thế giới của Sa-tan.

“Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người!” (Mt.16,23).

Không phải chúng ta đòi hỏi có một Thiên Chúa như lòng chúng ta mong ước, mà chúng ta muốn được trở nên một con người như lòng Thiên Chúa mong ước.

Vì sự sống là từ Thiên Chúa.

Nên con người phải được biến đổi, và biến đổi hoàn hảo đến mức hoàn toàn thuộc về Chúa, là của Chúa, là chính Chúa hiện diện trong ta.

Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà chính Chúa Kitô sống trong tôi. (Gl.2,20).

Sự biến đổi này, không phải chỉ là “nhận biết” Thiên Chúa, “ngộ” được Thiên Chúa, mà biến đổi thành chính Thiên Chúa, “thông phần vào bản tính Thiên Chúa” (2Pr.1,4).

Người đã trở nên giống chúng ta, để chúng ta trở nên như Người (Thánh Irénée).

Sự biến đổi ấy, cuối cùng chính là Phục Sinh cùng Đức Kitô. Được về miền Sáng láng và vinh hiển, vinh quang và vinh dự cùng với Ngài cho đến muôn đời.

Anh em là giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng Thiên Chúa, để loan truyền những kỳ công của Người, Đấng đã gọi anh em ra khỏi miền u tối, vào nơi đầy ánh sáng diệu huyền (1Pr. 2,9)

THỰC TẾ HÔM NAY

Chúa Giêsu đã biến hình sáng láng trên núi. Những môn đệ thân yêu của Chúa Giêsu đã chứng kiến giây phút vinh quang của Chúa Giêsu. Giây phút mà ngay lúc đó, sẽ không có gì có thể lay chuyển niềm tin của các môn đệ.

Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người! (Mt.17,5).

Nhưng Chúa Giêsu đã đưa các môn đệ xuống núi. Ánh vinh quang đã tắt, cuộc sống đời thường đã trở lại trước mắt. “Đỉnh vinh quang” không một sớm một chiều mà có được để tận hưởng dài lâu. Đường Đến Đỉnh Vinh Quang còn nhiều chông gai thử thách. Người đi còn gặp nhiều gian khổ. Có những người bỏ cuộc. Có những người lạc hướng. Có những người chọn bến bờ khác.

Nghe rồi, nhiều môn đệ của Người liền nói: “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?” (Ga.6,60).

Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi với người nữa. (Ga.6,66).

Phải biến đổi con người mình tận gốc rễ để đến bến bờ sự sống vĩnh hằng. Phải biến đổi đến mức tự hủy diệt mình đi mới “sống lại” một cuộc đời mới, sự sống mới.

Nếu hạt lúa mì gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. (Ga.12,23-28).

Lạy Chúa,

Xin cho con luôn biết cố gắng vươn lên,

từng giây phút đổi thay đời mình,

đến gần sự thiện hảo hơn,

để con được hưởng vinh quang đời đời,

trong Tình Yêu của Chúa. Amen.

 

39.             Chúa Nhật 2 Mùa Chay

(Suy niệm của Cao Nhất Huy)

BƯỚC VÀO HÀNH TRÌNH THẬP GIÁ CÙNG VỚI CHÚA GIÊSU

Tin mừng Mt 17: 1-9: Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã đưa ba môn đệ thân tín nhất lên núi Thabor để tỏ vinh quang của Ngài cho các ông…

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã đưa ba môn đệ thân tín nhất lên núi Thabor để tỏ vinh quang của Ngài cho các ông. Từ trên núi cao, Phêrô, Giacôbê, Gioan đã nhận ra được con người và sứ mệnh của Chúa Giêsu. Con người của Chúa Giêsu là người tôi trung đau khổ như Isaia đã loan báo, sứ mệnh của Chúa Giêsu là hoàn tất con đường thập giá.

Vì thế, xét theo mạch văn của đoạn Tin Mừng hôm nay, thì cuộc Biến hình của Chúa Giêsu có mục đích cho các môn đồ ưu ái thấy trước Vinh quang của ngày sau hết, vinh quang này đang tập trung trong con người Giêsu đang sống thường ngày với họ. Thiên Chúa phán với các môn đồ đầy sợ hãi rằng họ phải nghe lời và cùng đi theo Chúa Giêsu trên đường đẫn tới Giêrusalem, tiến đến vinh quang bằng thập giá.

Tiếp đến, chúng ta thấy 3 môn đệ của Chúa đã say trong vinh quang và muốn ở lại trong vinh quang đó nên nói rằng: “Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là hay! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Ngài, một cho ông Mô-sê, và một cho ông Ê-li-a” (Mt 17, 4). Thế nhưng, tiếng của Thiên Chúa Cha đã phán rằng: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!” (Mt 17, 5). Chúa muốn nói với chúng ta rằng: Vinh quang không thể tự mà có, cũng không ai sống mãi trong vinh quang được, vinh quang phải được kín múc ra từ trong thập giá và được nuôi dưỡng nó trong thập giá. Vì thế, để có được vinh quang thì hãy vâng nghe theo lời của Chúa Giêsu. Đó là bước theo con đường của Chúa Giêsu, con đường đi lên Giêrusalem để đón nhận thập giá.

Hình ảnh đó, cho chúng ta nghiệm thấy rằng, muốn tìm thấy được hạnh phúc thì con người phải chấp nhận bước vào những khó khăn và thử thách thì mới tìm thấy hạnh phúc, và hạnh phúc đó cũng phải tiếp tục được nuôi dưỡng trong những thử thách và thậm chí là đau khổ.

Chúa Giêsu, Ngài là Thiên Chúa, nghĩa là Ngài có đủ quyền năng để bỏ qua đau khổ của thập giá để tới thẳng vinh quang, nhưng Ngài lại không làm như vậy, Ngài ôm lấy đau khổ của thập giá vào mình để thanh luyện nó, biến đổi nó thành vinh quang vĩnh cửu. Và qua đó, Ngài muốn cho con người nhận ra rằng, không ai ngồi không mà có được hạnh phúc, không ai không chịu cực khổ mà có thể đạt được hạnh phúc, không ai bỏ qua được đau khổ trên bước đường đời mà có thể đến được vinh quang hạnh phúc được, cũng không có con đường tắt nào có thể đến thẳng vinh quang và hạnh phúc. Nghĩa là, hạnh phúc luôn phải đánh đổi bằng một hành trình gian khổ và thậm chí là đau khổ nữa. Điều này không cần phải chứng minh bằng những chứng cứ nào hết, nhưng chính mỗi người chúng ta, mỗi kinh nghiệm đời sống của chúng ta là những chứng cứ hữu hiệu nhất cho điều khẳng định trên.

Điều đó cũng khẳng định, nếu ai trong cuộc đời này chối bỏ hay bỏ cuộc trước thập giá là những đau khổ và thất vọng thì chắc chắn chúng ta không thể nào đạt tới vinh quang được. Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ trong Tin Mừng rằng: “Hãy trỗi dậy, Đừng Sợ!” (Mt 17, 7). Bởi vì Ngài biết, các môn đệ sợ phải đối diện với hành trình thập giá, hay đúng hơn là các môn đệ chưa thực sự nhận ra rằng thập giá chính là con đường duy nhất dẫn tới vinh quang và hạnh phúc vĩnh cửu. Điều đó ta thấy rõ ràng khi nhìn vào hình ảnh Phêrô ngăn cản không cho Chúa lên Giêrusalem (Mc 8,31-33)

Đôi khi trong hành trình đời sống đức tin, chúng ta sợ hãi khi đối diện với những khó khăn của cuộc sống xã hội, cuộc sống gia đình. Chúa ban cho chúng ta mỗi người một ơn gọi đặc biệt và riêng biệt, chính sự đặc biệt và riêng biệt đó lại trao ban cho chúng ta mỗi người một thánh giá đặc biệt và riêng biệt, không ai giống ai, nhưng đều là thánh giá Chúa gửi đến để chúng ta có thể vác trên vai cùng theo Chúa lên Giêrusalem mà tìm đến vinh quang của hạnh phúc bất diệt: “ai muốn theo Thầy thì hãy từ bỏ chính mình, vác thập giá và theo Thầy” (Mt 16, 24).

Tuy nhiên, khi đối diện với thánh giá Chúa trao, chúng ta thường sợ hãi và muốn trốn tránh. Ngày nay trong cuộc sống, rất nhiều các gia đình, vì sự khác biệt giữa vợ – chồng, con cái, và các thành viên trong gia đình không chấp nhận được những khác biệt đó khiến cho gia đình ngày càng trở nên nặng nề, rồi đến một lúc khi sự nặng nề đó trở nên quá sức thì gia đình tan vỡ. Chúng ta nên nhớ rằng, hành trình thập giá là một hành trình của sự biến tận căn. Biến đổi để trở nên phù hợp với vinh quang bất diệt. Trong cuộc sống gia đình cũng vậy, thập giá của mỗi thành viên là sự biến đổi chính mình để nên phù hợp hơn với gia đình đặc biệt và riêng biệt của mình, chứ không mong người khác biến đổi theo ý mình.

Ta thấy hình ảnh của chú chim đại bàng, một loài chim được mệnh danh là chúa tể bầu trời, nhưng còn được biết đến như một loài động vật thông minh và sẵn sàng đối đầu với thử thách. Điều đó được thể hiện rõ nhất qua cách chúng đối đầu với mỗi cơn bão.

Không như tất cả mọi loài đều chạy trốn cơn bão, Đại bàng sẽ bay lên đỉnh núi thật cao đứng chờ. Và khi cơn bão ập đến, Đại bàng sẽ tận dụng sức mạnh của cơn bão để đưa đôi cánh của mình bay thật cao lên bầu trời. Đối với Đại bàng, cơn bão không hề là một điềm dữ. Nó là đòn bẩy, là cơ hội để củng cố thêm quyền lực thống trị bầu trời cho Đại bàng.

Hầu hết những ai biết về câu chuyện của Đại bàng đều khâm phục bản tính kiên cường, trí thông minh và sức sống mãnh liệt của nó. Có lẽ chính những thử thách khắc nghiệt ấy đã rèn giũa nó trở thành một loài mạnh mẽ và đáng nể như ngày hôm nay. Hơn bất cứ điều gì, cuộc sống và cách Đại bàng đối đầu với khó khăn chính là nguồn cảm hứng cho tất cả các loài, kể cả loài người chúng ta.

Chúng ta thì thế nào? Khi đối diện với khó khăn, chúng ta có sẵn sàng đương đầu không hay chúng ta tìm cách chạy trốn nó?

Nhìn vào hình ảnh cuộc đời của Chúa Giêsu, đặc biệt là hành trình thập giá của Ngài, cũng như công trình tạo dựng của Ngài qua hình ảnh chim đại bàng, chúng ta tự xét lại chính mình, xem chúng ta đã thực sự bước vào hành trình thập giá của Chúa Giêsu qua đời sống thường ngày của chúng ta chưa?

Xin Thiên Chúa giúp mỗi người chúng ta luôn biết can đảm đối diện với khó khăc của cuộc sống, nhất là cuộc sống gia đình, nhờ đó chúng ta có đủ sức mạnh và sự can đảm để vượt qua những khó khăc đó mà cùng với Chúa Giêsu tiến đến vinh quang bất diệt. Amen.

 

40.             Chúa Nhật 2 Mùa Chay

(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)

DÕI THEO BƯỚC CHÚA TRÊN MỌI NẺO ĐƯỜNG ĐỂ ĐẾN VINH QUANG

Trong truyền thống Thánh Kinh núi cao thường được xem như là nơi gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người. Chẳng hạn, Môsê đã được kêu mời lên núi Sinai để gặp gỡ Thiên Chúa và đón nhận lề luật cho Dân Chúa. Êlia đã ròng rã 40 đêm ngày lên núi Horeb để gặp Chúa. Êlisê cũng lên núi Carmel để gặp Chúa. Và Chúa Giêsu cũng khởi sự đời công khai bằng 40 đêm ngày chay tịnh trên núi cao, rồi trong ba năm sứ vụ, Ngài vẫn thường lặng lẽ một mình lên núi để cầu nguyện cùng Cha Ngài.

Trong Tin Mừng hôm này, Chúa Giêsu đã đưa ba môn đệ thân tín nhất lên núi Tabor để tỏ vinh quang của Ngài cho các ông. Từ trên núi cao, qua thị kiến Chúa Giêsu biến hình, ông Phêrô, Giacôbê, Gioan đã thấy thần tính và nhân tính của Đức Giêsu. Thần tình được biểu lộ nơi dung nhan của Chúa Giêsu chói lọi như mặt trời, đầy vinh quang, quyền lực. Y phục trắng tinh như ánh sáng: biểu tượng sự trong sáng, sự quang minh chính đại cực độ, hoàn toàn không lầm lỗi, không khiếm khuyết. Còn nhân tính của Ngài được biểu lộ qua việc sau khi Chúa biến hình các ông ngước mắt lên, không thấy ai nữa, chỉ còn một mình Đức Giê-su mà thôi, con người bằng xương thịt đang ở bên các ông như mọi ngày và nhân tính của Chúa Giêsu biểu lộ rõ nết khi khi thầy trò từ trên núi xuống, Đức Giê-su nói về cuộc chịu nạn, chịu chết và ba ngày sống lại. Cho nên, về thiên tính, Chúa Cha phán rằng: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người! “Nghe vậy, các môn đệ kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất”. Còn nhân tính thì xảy ra sau khi Phêrô tuyên xưng: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Lời tuyên xưng này lại gắn liền với lời Chúa Giêsu loan báo cuộc Thương Khó của Ngài và kèm theo lời mời gọi: “anh em hãy bỏ mình, vác thập giá đi theo Thầy” (Mt 16,24). Vậy là đúng vào lúc các môn đệ đã nhận ra Chúa Giêsu là Đức Kitô, là Đấng Cứu Thế, thì trước mắt các ông hình ảnh một Đấng Cứu Thế oai hùng lẫm liệt, để rồi bắt đầu tan biến, để hiện ra một Đấng Cứu Thế đau khổ, bị đày đọa, bị khai trừ, bị giết chết. Hình ảnh đó thật là khó hiểu đối với các môn đệ, vì lòng tin của các ông còn mộc mạc, phàm tục. Cho nên, chẳng lạ gì, Phêrô đã lên tiếng khuyên can Chúa Giêsu đừng đi theo con đường đau khổ đó làm gì. Nhưng thật không may cho ông, vì Chúa Giêsu cứ khăng khăng một mực, lại còn quay sang mắng ông: “Satan, cút đi!”.

Chúa hiển dung sáng láng hôm nay vào những ngày trong Mùa Chay nhằm muốn đưa chúng ta lên núi, hé mở cho chúng ta chiêm ngưỡng một chút vinh quang phục sinh của Chúa Giêsu, để chúng ta thêm tin tưởng vào Ngài, để chúng ta có những giây phút nghỉ ngơi lấy sức trước khi xuống núi, trở về với cuộc sống bình thản trên các nẻo đường phẳng lặng hay đầy sóng gió đưa đến núi Can-vê. Chúng ta cần được Chúa đến gần, đưa tay đón nhận người, rước Ngài vào trong cuộc đời chúng ta để Ngài thức tỉnh chúng ta giúp chúng ta biết chuẩn bị sẵn sàng đón nhận mà vui sống với mọi gian nan đau khổ trên đường đời rồi sẽ đến đỉnh vinh quang chiến thắng tất cả như Thánh Phaolô xác quyết: “Đây là lời đáng tin cậy: Nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ cùng sống với Người. Nếu ta kiên tâm chịu đựng, ta sẽ cùng hiển trị với Người” (2Tm 2,11-12). Còn Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Chúa Giêsu Kitô đã yêu thương chúng ta cho đến chết trên Thập Giá sẽ luôn ở bên chúng ta. Ngài luôn ân cần nói với chúng ta: Hãy can đảm lên! Các con không vác Thánh Giá một mình, Ta mang nó với các con. Ta đã vượt qua cái chết để mang đến cho các con sự sống của tin yêu hy vọng” (ĐGH Phanxicô). Vì vậy,  niềm tự hào của chúng ta là Thánh Giá Chúa tôi. Niềm tự hào của chúng ta là vác Thánh Giá đi lên mỗi ngày trong hy vọng niềm tin sáng tươi, không hoang mang lo âu nhưng vui mừng hiên ngang tiến lên vì đường thập tự giá là đường vinh phúc. Qua bao nhiêu thương đau, tình yêu Chúa là lẽ sống chúng ta đi không có gì sợ lo đắn đo vì có Chúa bước đi cùng chúng ta.

Con đường Thương Khó của Chúa khởi đầu từ khi Ngài xuống núi, Ngài đã chọn và đã đi đến đồi Canvê và đến đỉnh vinh quang. Rồi đây, Ngài cũng sẽ biến hình “không còn hình tượng người ta nữa”, để dạy chúng ta biết phải đi qua con đường thập giá mới đến vinh quang khải hoàn sống lại. Trong ngôn ngữ La-tinh, người ta chơi chữ: “Per crucem ad lucem”, nghĩa là “qua thập giá đến ánh sáng”. Qua Thứ Sáu Tử Nạn mới đến Chúa Nhật Phục Sinh. Đường thánh giá không dừng lại ở nấm mồ, nhưng mở ra trong niềm vui tưng bừng của ngày Chúa sống lại.

Trong cuộc hành trình đức tin của chúng ta, cũng có những giây phút chúng ta được đưa lên núi cao để gặp Chúa, núi cao của Thánh lễ, núi cao của những giờ phút dành cho việc cầu nguyện. Nhưng chúng ta không lên núi để ở đó mãi, mà là để trở lại với cuộc đời với muôn thử thách, đắng cay, với những gặp gỡ từng ngày. Chấp nhận cuộc sống với tinh thần lạc quan, chấp nhận chiến đấu mà không buông xuôi bỏ cuộc, sống như thể là tiếp tục con đường Chúa Giêsu đã đi qua. Chấp nhận những người anh em chúng ta gặp gỡ trên đường đi, chấp nhận những khác biệt, những bất toàn của người anh em cùng đồng hành, sống như thể là dõi bước theo đường Chúa đã đi qua.

Xin ánh sáng Dung Nhan của Chúa Giêsu Kitô luôn dẫn bước chúng ta trên đường đời, để chúng ta biết đón nhận và sống trọn từng phút giây cuộc sống. Xin ánh sáng Dung Nhan của Chúa Giêsu Kitô chiếu dọi và hướng dẫn cuộc hành trình đức tin của chúng ta được tiếp tục dõi bước theo dấu chân của Ngài trên mọi nẻo đường dù có bình yên hay gian nan thử thách đau khổ để dành lấy vinh quang chiến thắng tội tội, đạt đến sự thánh thiện, bình an và hạnh phúc trong cuộc sống hôm nay và mãi mãi. Amen.

 

41.             Biến đổi giống Chúa mỗi ngày

(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)

Thay đổi một thói quen của con người thì dễ, nhưng rất khó lòng thay đổi tính hư tật xấu một khi đã ăn sâu trong con người. Cho nên người ta thường nói “Giang sơn dễ đổi, bản tính khó dời”, bản tính đây là tính xấu, tật xấu chứ tốt dời làm gì, đổi làm gì. Bởi vì ngay từ đầu con người đã là “nhân chi sơ tính bản thiện”, “ăn hiền ở lành”, “làm lành lánh dữ” cho nên tật xấu tính xấu này Ông Trời, Thiên Chúa không có làm ra, mà do con người tạo ra đó thôi. Vì chưng, trong Sách Thế nói rằng tất cả mọi sự Thiên Chúa tạo dựng đều tốt đẹp. Nhưng “vì một người duy nhất là Ađam, mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự chết; như thế, sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì mọi người đã phạm tội” (Rm 5,12). Cho nên rõ ràng rằng tính hư tật xấu là do bởi ta mà ra. Chẳng hạn, tức quá hóa dại. Cho nên, Chúa ban cho ta ơn khôn ngoan, khôn ngoan nhắc nhở chúng ta phải cố gắng biến mình trở lại hình ảnh ban đầu, đừng ngoan cố sống trong tội lỗi, hãy sửa mình nên hoàn thiện theo hình ảnh của Chúa. Một hình ảnh tinh tuyền không để dục vọng làm chủ. Một hình ảnh trong sáng không để vẩn đục bằng những thói hư tật xấu.

Mùa Chay là thời điểm thuận lợi để mỗi người chúng ta sống tinh thần chiến đấu với ma quỷ đồng thời nhờ ơn Chúa chúng ta hãy biến đổi những khuynh hướng xấu của tội thành thánh và thiện. Cho nên, Mùa Chay là mùa của biến đổi, đổi mới từ con người nhu nhược, yếu hèn, trở nên một con người can trường, khẳng khái, cương quyết trước cám dỗ; từ con người bất xứng sang thánh thiện; từ con người già nua, tội lỗi, trở nên con người thanh xuân trong ân sủng.

Tin Mừng Mátthêu trình thuật việc Đức Giêsu biến hình trên núi Tabor. Sự kiện này diễn ra sau  khi Ngài tiên báo về cuộc khổ nạn lần thứ nhất cũng như nói về điều kiện cần có của người môn đệ khi đi theo Chúa. Qua việc biến hình, Đức Giêsu muốn củng cố niềm tin cho các Tông đồ trước khi chứng kiến cuộc khổ nạn của Ngài, để các ông can đảm, trung thành làm chứng và chấp nhận chịu đau khổ khi cơm thử thách ập đến. Mặt khác, Đức Giêsu muốn mặc khải cho các ông biết rõ căn tính của Ngài là Thiên Chúa, Đấng từ trời xuống để đem con người trở về tình trạng nguyên tuyền, là hình ảnh Thiên Chúa. Qua biến cố biến hình, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy đi trên chính con đường mà Ngài đã đi, con đường đó là con đường tự hủy và khổ giá. Nếu sẵn sàng từ bỏ ý riêng, vác thập giá để đi theo Chúa, thì cuối con đường đó mới nở hoa vinh quang. Vì thế, muốn chiếm được vinh quang Nước Trời, người môn đệ chúng ta hôm nay phải chiến đấu không ngừng nghỉ, phải chấp nhận chết cho tội, từ bỏ tính hư tật xấu để trở nên người con của Chúa, xứng đáng là hình ảnh của Chúa để vào Nước Ngài.

Chúng ta không được diễm phúc chiêm ngưỡng cuộc biến hình của Đức Giêsu như Phêrô, Giacôbê và Gioan khi xưa! Nhưng chúng ta lại được mời gọi đi ngay vào cuộc biến hình của chính mình để được trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài. Cuộc biến hình đầu tiên, đó chính là ngày chúng ta được lãnh nhận Bí tích Rửa tội, khi ấy, con người tự nhiên tội lỗi tổ tông và tội riêng của chúng ta được Chúa biến đổi thành một hình ảnh mới, hình ảnh Đức Kitô, Đấng đã phục sinh.  Nhờ cuộc biến hình này mà mỗi người chúng ta được trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, thành con Thiên Chúa và là đền thờ Chúa Thánh Thần. Tuy nhiên, trải qua thời gian với những thăng trầm, yếu đuối của bản thân, nên sự tinh tuyền ấy bị ô uế, tâm hồn trong trắng bị vấy đục, khiến chúng ta trở nên con người cũ do tội lỗi phủ vây. Vì vậy, chúng ta lại cần phải chạy đến Bí Tích giao hòa để Chúa biến đổi từ tội nhân thành trong sạch.

Thế nên, Mùa chay chính là thời điểm thuận tiện để chúng ta làm mới lại con người của mình nhờ năn chạy đến với Chúa và lãnh nhận các Bí tích, để xứng đáng với hồng ân cao quý mà chúng ta đã lãnh nhận thửa ban đầu nơi Bí tích Thánh Tẩy. Điều này đã được thánh Phaolô khuyên dạy: “Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện” (Ep 4,22-24).

Sứ điệp ngày lễ Chúa hiển dung như nhắc nhở chúng ta nhớ mình là họa ảnh của Thiên Chúa. Con người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa, thế nên con người phải giữ mãi vẻ đẹp tinh tuyền của phẩm giá con người. Nếu có những đam mê tật xấu làm chúng ta biến chất thì đây là dịp Chúa nhắc nhở chúng ta phải biến hình mỗi ngày trở về với căn tính của chúng ta là hình ảnh của Chúa? Là hình ảnh của Chúa thì không thể làm tôi cho ma quỷ ? Là hình ảnh của Chúa thì không thể để cho dục vọng lôi kéo chúng ta làm điều xấu? Là hình ảnh của Chúa chúng ta phải luôn hướng về sự thiện, luôn có những ước mơ thanh cao, luôn sống vị tha và phục vụ mọi người. Tiếc rằng, con người hôm nay đã để mình biến chất trong dòng đời lắm cám dỗ bon chen. Nhiều người đã bán rẻ phẩm giá làm người để đổi lấy chút danh lợi thú trần gian. Nhiều người đã không chỉ biến chất mà còn biến dạng khi lao mình tìm kiếm và thỏa mãn dục vọng đến nỗi xem thường luân thường đạo lý làm người. Đôi khi còn vì danh lợi thú mà làm hại đồng loại, mà gây nên biết bao đau thương cho nhân thế.

Ước gì mỗi người chúng ta hãy biết mình là hình ảnh của Thiên Chúa thật tốt đẹp biết bao, để biết trân trọng, gìn giữ nét đẹp đó trong cuộc sống của mình. Đồng thời cũng biết trân trọng vẻ đẹp ấy nơi tha nhân qua đời sống bác ái, vị tha. Xin Chúa giúp chúng ta biết biến đổi mình mỗi ngày trở nên giống Chúa hơn trong suy nghĩ và hành động hầu xứng đáng là con cái Thiên Chúa. Amen.

 

42.             Biểu lộ chân dung – JM. Lam Thy

Tiêu đề bài Tin Mừng Chúa nhật II Mùa Chay có sách Tin Mừng ghi là “Đức Giêsu hiển dung” (Mt 17, 1-9; Lc 9, 28-36), có sách ghi là “Đức Giêsu biến đổi hình dạng” (Mc 9, 2-8). Tuy có tiêu đề khác nhau, nhưng trong nội dung thì cả 3 sách Tin Mừng nhất lãm đều dùng cách viết “Đức Giêsu biến đổi hình dạng” để trình thuật biến cố lạ lùng này (“Sáu ngày sau, Đức Giêsu đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an là em ông Gia-cô-bê đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn núi cao. Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông” – Mt 17, 1-2). Như vậy thì Đức Ki-tô hiển dung hay biến hình?

Hiển dung là biểu lộ cái diện mạo thực (chân dung) ra một cách rõ ràng. Còn biến hình là thay đổi hình dạng. Thưc ra, vấn đề cũng không có gì là khúc mắc cả. Đức Giêsu biến đổi hình dạng thường ngày sang một hình dạng khác hẳn, rực rỡ hơn, chói loà hơn gấp bội, là Người muốn cho các môn đệ và mọi người biết ngoài bản tính loài người chứa trong thân xác phàm tục ra, Người còn một bản tinh nữa là bản tính Thiên Chúa. Chân tướng sự vịêc là điều Người muốn công nhiên mạc khải: Chân dung của Người chính là dung mạo đích thực của Thiên Chúa. Nói cách cụ thể, trong cùng một Con Người là Đức Giêsu Ki-tô có 2 hình dạng: Dung mạo bình thường là bản tính loài người, còn chân dung – bản chất đích thực của Người – là bản tính Thiên Chúa. Nói Đức Giêsu biến hình là muốn nói Người đã biến đổi từ hình dạng bình thường của loài người sang hình dạng Thiên Chúa. Còn nói hiển dung là muốn nói – qua việc biến đổi hình dạng bên ngoài – Đức Ki-tô muốn biểu lộ chân dung đích thực của Thiên Chúa (Ngôi Lời nhập thể) vốn ẩn kín bên trong chàng thanh niên Giêsu Na-da-ret.

Khi ba môn đệ theo Đức Giêsu lên núi Ta-bo, thì các ngài vẫn thấy Thầy của mình với dung mạo bình thường như các ngài đã được chứng kiến, được “thực mục sở thị” trong suốt ba năm theo Thầy đi khắp đó đây. Nhưng đến khi Thầy cầu nguyện thì “… Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng.” (Mt 17, 2). Sự kiện Chúa Giêsu biến đổi hình dạng đã khiến các môn đệ – trong đó có thánh Phê-rô – hoảng sợ. Sự hoảng sợ lần này khác với lần được chứng kiến “Đức Giêsu đi trên mặt biển” (Mt 14, 22-32). Lần trước, thánh nhân cho là mình gặp ma, thì lần này thánh nhân đã tin Thầy mình đích thị là Thiên Chúa, và chỉ có như thế Thầy mình mới hội kiến, đàm đạo với ông Mô-sê và ông Ê-li-a (đã khuất bóng từ trước đó mấy trăm năm) được.

Từ hình dạng con người trần thế bình thường biến sang chân dung Thiên Chúa, Đức Giêsu muốn cho mọi người – thông qua các môn đệ thân tín của Người – hiểu rõ được Người chính là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, như Lời phán dạy của Thiên Chúa Cha từ trong đám mây sáng ngời bao phủ các môn đệ: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!” (Mt 17, 5). Lời phán dạy của Thiên Chúa Cha lần này y hệt lần Đức Giêsu chiu phép rửa trên sông Gio-đan (“Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người.” – Mt 3, 17). Nhờ thế, giúp củng cố đức tin, đồng thời, cũng chính là giúp biến đổi con người các môn đệ và những kẻ đến với Đức Giêsu Ki-tô.

Nói Chúa Hiển Dung là nhằm mục đích củng cố đức tin của các môn đệ, nhưng vì sao lại phải như vậy? Ấy là vì trước đó không lâu, Đức Giêsu đã loan báo biến cố Thương Khó lần thứ nhất cho các môn đệ: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sống lại”. Các môn đệ đã không chịu hiểu và cũng không muốn tin rằng Thầy mình sẽ đi vào con đường thập giá quá đau khổ và nhục nhã đó. Riêng Phê-rô thì đã kéo riêng Thầy mình ra và trách Người rằng: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!”; khiến Đức Giêsu phải nặng lời quở mắng: “Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.” (Mt 16, 21-23).

Một sự kiện minh họa lòng tin của các môn đệ còn chưa vững là khi Chúa Hiển Dung, thì “… ông Phê-rô và đồng bạn thì ngủ mê mệt…” (Lc 9, 32); nhưng khi tỉnh hẳn, các ông nhìn thấy vinh quang của Đức Giêsu, và hai nhân vật đứng bên Người (là ông Mô-sê và ông Ê-li-a), thì “các môn đệ kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất.” (Mt 17, 6). Rồi sau đó, tại vườn Ghết-sê-ma-ni, trong khi Thầy cầu nguyện đến độ đổ cả mồ hôi máu ra mà các ông vẫn ngủ ngon lành, khiến Người phải thốt lên: “Thế ra anh em không thể canh thức nổi với Thầy một giờ sao? Anh em hãy canh thức và cầu nguyện, để khỏi lâm vào cơn cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng say, nhưng thể xác lại yếu hèn.” Cứ tưởng như vậy thì các môn đệ sẽ “tỉnh ngủ”, để hiểu ra rằng thời giờ đã cận kề, đây là lúc cần phải canh thức và sẵn sàng chờ đón mọi biến cố (Mt 24, 43-44); nhưng thật không ngờ các ngài lại tiếp tục ngủ, ngủ miết tới lúc Thầy phải đánh thức lần nữa: “Lúc này mà còn ngủ, còn nghỉ sao? Này, đến giờ Con Người bị nộp vào tay những kẻ tội lỗi. Đứng dậy, ta đi nào! Kìa kẻ nộp Thầy đã tới!” (Mt 26, 40-46). Cái “thể xác yếu hèn” đó của các môn đệ vẫn chưa thèm chuyển động dù Thầy đã 5 lần bảy lượt cảnh báo! Thế đó!

Điều đó cho thấy sau biến cố Chúa Hiển Dung, các môn đệ có được củng cố lòng tin để vững bước cùng Chúa trên con đường thập giá hay không? Cứ xem khi Đức Giêsu bước vào cuộc Thương Khó thì đủ biết: Trong số 12 Tông đồ là những môn đệ thân tín nhất của Đức Giêsu, thì vị đứng đầu (Phê-rô) đã chối Chúa tới 3 lần trước một người tớ gái nhà Cai-pha, một Giu-đa It-ca-ri-ốt thì bán Chúa để lấy 30 đồng bạc, các vị còn lại thì bỏ Người mà chạy trốn hết, để một mình Chúa đơn độc đi vào cuộc Thương Khó. Duy chỉ có được một Gio-an là theo Thầy tới tận chân thập giá, nhưng cũng chỉ lẽo đẽo theo từ xa xa, đến độ khi Thầy yếu nhọc quá sức, quân dữ phải bắt một dân ngoại là Si-mon vác đỡ Thánh giá cho Người (“Đang đi ra, thì chúng gặp một người Ky-rê-nê, tên là Si-môn; chúng bắt ông vác thập giá của Người.” – Mt 27, 32). Vậy đó!

Quả thật Chúa luôn luôn muốn củng cố lòng tin cho các môn đệ, nhưng vấn đề đặt ra là lòng tin ấy có thực sự được củng cố hay không, còn tùy thuộc vào chủ thể các môn đệ. Một cách cụ thể là nếu chủ thể không chịu mở cửa tâm hồn ra đón nhận, thì những ân sủng Thiên Chúa ban cũng chẳng khác gì “nước đổ đầu vịt, nước đổ lá môn” mà thôi. Vâng, “Thiên Chúa có thể dựng nên chúng ta mà không cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng Người không thể cứu rỗi chúng ta nếu chúng ta không ưng thuận.” (Thánh Âu-tinh). Và cũng chính vì quá rõ lòng dạ con người là như vậy, nên Đức Giêsu luôn dạy các môn đệ phải tỉnh thức và cầu nguyện (“Anh em hãy canh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng hái, nhưng thể xác lại yếu đuối.” – Mc 14, 38). Không những Người dạy dỗ, mà còn làm gương mẫu cụ thể nữa (Người luôn cầu nguyện cùng Chúa Cha, nhất là những dịp Người chịu để ma quỷ cám dỗ như khi Người vào sa mạc ăn chay 40 đêm ngày, hoặc lần cầu nguyện đổ cả mồ hôi máu ra nơi vườn Ghết-sê-ma-ni).

Mùa Chay chính là thời gian để người tín hữu chọn lựa một hành động thiết thực: hoặc xé áo, hoặc xé lòng. Muốn xé áo thì dễ thôi, chỉ cần một động tác nhỏ là khoác lên mình bộ vó kiêu căng tự phụ, bộ áo lười nhác ích kỷ, không thèm đếm xỉa đến mọi người xung quanh. Tuy nhiên, để xé lòng thì không dễ dàng đâu, bởi phải quyết tâm không khua chiêng gõ mõ khi cầu nguyện, không méo miệng ngoẹo đầu rầu rĩ khi ăn chay, không biểu ngữ khoa trương khi làm từ thiện, không sáo rỗng màu mè khi an ủi anh em, không hứa lèo hứa cuội khi hoà giải, không mặc áo thày tu khi mình không phải là tu sĩ, không đánh trống bỏ dùi, tiền hậu bất nhất khi đòi đi theo Thầy Chí Thánh. Chỉ có như vậy, kèm theo sự sám hối chân thành, mới thực sự hoán cải, đổi mới con người của mình, để được biến đổi toàn diện (biến hình) theo Chúa.

Đúng là rất khó khăn để có thể làm được như thế. Khó, nhưng không phải là không thực hiện được, khi biết cậy dựa vào Thần Khí, “Vì Thiên Chúa đã chẳng ban cho chúng ta một thần khí làm cho chúng ta trở nên nhút nhát, nhưng là một Thần Khí khiến chúng ta được đầy sức mạnh, tình thương, và biết tự chủ” (2 Tm 1, 7). Muốn tránh khỏi mưu ma chước quỷ hằng ngày cám dỗ, người tín hữu không thể ỷ vào sức mình vì “tinh thần thì hăng hái nhưng thể xác lại yếu đuối” mà phải cậy trông vào Thiên Chúa, cầu nguyện để Người soi sáng và ban thêm sức mạnh và lòng dũng cảm. Chỉ có như thế mới mong biến đổi con người của mình (như xưa Chúa đã biến hình trên núi Ta-bo).

Quả thực Tin Mừng về cuộc Hiển Dung của Chúa đặt trước mắt người Ki-tô hữu vinh quang của Đức Giêsu, báo trước cuộc phục sinh vinh hiển của Người. Từ đó giúp người tín hữu ý thức mình được dẫn lên núi cao (Mt 17, 1) như các Tông Đồ Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an, để tái đón nhận hồng ân được làm con Thiên Chúa trong Trưởng Tử Giêsu Ki-tô, qua Lời phán dạy: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!” (Mt 21, 6). Vâng, người Ki-tô hữu luôn được mời gọi cùng đi lên núi cao để được ngụp lặn trong hào quang vinh hiển của Thiên Chúa, ngõ hầu hoán cải, biến đổi toàn diện con người của mình sao cho ”trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Ki-tô” (Pl 3, 10). Trong tâm tình dìm mình vào mùa Chay thánh, thiển nghĩ không chỉ riêng mình tôi, mà là tất cả những anh em chung một niềm tin với tôi, đang đồng hành cùng tôi, đều ước được như vậy. Amen.

 

43.             Biến hình

(Sưu tầm của Linh Xuân Thôn)

Một nhà giáo dục nổi tiếng người Pháp đã tâm sự về cuộc đời của ông như sau: Khi còn trẻ, tôi có tinh thần cách mạng và mỗi khi cầu nguyện, tôi luôn cầu xin Chúa một điều là: “Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để biến đổi thế giới này”.

Khi đã lớn tuổi và nhận thấy gần quá nửa đời người trôi qua mà tôi không thay đổi được một người nào hết, nên tôi đã thay đổi lời cầu nguyện của tôi như sau: “Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để biến đổi những người trong gia đình của con.”

Giờ đây tôi đã già và những ngày còn lại chỉ đếm được trên đầu ngón tay, nên lời cầu nguyện của tôi lại được thay đổi một lần nữa như sau: “Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để biến đổi chính mình con.”

Và ông kết luận: “Nếu tôi biết cầu nguyện như thế này từ ngày còn trẻ thì tôi đã không uổng phí cả cuộc đời.”

(Anthony de Mello, Trích trong “The Song of the Bird”)

***

Bạn thân mến! Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay cũng thuật lại một cuộc biến đổi. Đó là cuộc biến đổi hình dạng của Đức Giêsu trên núi Tabo. Trong ngày hôm đó, Đức Giêsu đã mang theo các môn đệ thân tín của mình là các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan. Ngài đưa các ông đi riêng ra một chỗ, chỉ mình các ông thôi, tới một ngọn núi cao. Rồi Ngài biến đổi hình dạng trước mắt các ông (Mt.17,2).

Trong cuộc biến hình đổi dạng đó, Ngài cởi bỏ thân phận con người để mặc lấy Thiên Tính của Thiên Chúa. Ngài cho các ông được nhìn thấy vinh quang Con Một Thiên Chúa, để thêm lòng tin cho các ông.

Hơn hai ngàn năm trước, Đức Giêsu đã biến hình trên núi Tabo. Cuộc biến hình của Ngài vẫn còn tiếp tục diễn ra hằng ngày cho đến ngày nay. Ngài biến hình qua bàn tay của Linh mục trong các Thánh lễ. Ngài biến hình từ tấm bánh nhỏ bé để trở thành xương thịt của Ngài. Ngài biến hình từ những giọt rượu nho để trở thành những giọt máu đào đã đổ ra trên đồi Golgotha năm nào để cứu chuộc con người.

Ngày nay Đức Giêsu cũng mang tôi và bạn đi riêng ra một chỗ. Ngài không mang tôi và bạn lên núi Taboo như mang Phêrô, Giacôbê và Gioan xưa kia, nhưng Ngài mang tôi và bạn đến trong các Thánh lễ, đến trong các giờ chầu Thánh Thể, đến trong các bí tích mà ta lãnh nhận… nơi đó Ngài dành cho ta những giây phút thinh lặng thánh thiêng mà chỉ có một mình ta với Ngài, nơi đó Ngài cũng biến đổi hình dạng để thêm lòng tin cho ta, và cũng nơi đó, Ngài ban cho ta lòng mến, sự tin yêu cậy trông phó thác, và nhất là sức mạnh để ta bước đi theo Ngài trên bước đường lữ thứ trần gian này.

Hôm nay, Đức Giêsu mời bạn và tôi cùng “biến hình” với Ngài. Biến hình không phải là trở thành cái gì xa lạ khác thường, nhưng biến hình là để trở về với cái tôi sâu thẳm của chính mình: “Tôi là con yêu dấu của Thiên Chúa”. Đó là ơn được làm con cái Thiên Chúa, là ơn Thánh Sủng, là ơn cao trọng nhất của người Kitô.

Biến hình với Đức Giêsu là thay đổi cuộc sống của ta, là biến đổi tâm hồn ta, là mang vào lòng ta một trái tim mới, trái tim của yêu thương, của tin tưởng và cậy trông phó thác.

Biến hình với Đức Giêsu là vất bỏ ý riêng của ta, là chấp nhận và vâng phục Thánh Ý Thiên Chúa, là lên đường bước đi với Chúa trong tình yêu và ân sủng Ngài ban.

Biến hình với Đức Giêsu là từ giã con người tội lỗi yếu hèn của mình, là trở nên giống Ngài mỗi ngày mỗi hơn.

Lạy Chúa Giêsu! Xin ban ơn giúp sức cho con để con cũng được “biến hình” với Chúa trong Mùa Chay Thánh này, để con được trở nên giống Chúa mỗi ngày mỗi hơn, và để con cũng được Thiên Chúa Cha nói với con rằng: “Đây là con Ta yêu dấu, Ta hài lòng về con…” (Mt.17,5). Amen

 

44.             Đức Giêsu biến đổi hình dạng

(Suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)

Cuộc Hiển Dung vừa tăng cường uy tín cho sứ mạng của Đức Giêsu vừa củng cố quyền bính của các tông đồ.

  1. NGỮ CẢNH

Cả ba Tin Mừng Nhất Lãm đều đặt câu truyện Hiển Dung vào cùng một chỗ, tiếp sau lời tuyên xưng của Phêrô (Mc 8,27-30; Mt 16,13-20; Lc 9,22) và những lời Đức Giêsu nói về số phận của môn đệ và vinh quang của Con Người (Mc 8,34–9,1; Mt 16,24-28; Lc 9,23-27).

Riêng Tin Mừng Mt đóng khung cuộc đời công khai của Đức Giêsu giữa hai ngọn núi:

– Khi chuẩn bị ra đi thi hành sứ vụ: trên “một ngọn núi rất cao” (4,8), quỷ đã cám dỗ Đức Giêsu nhận quyền bính và quyền hành trên toàn thế giới từ tay nó: “Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ đó, nếu ông sấp mình bái lạy tôi” (4,9). Nhưng Người đã dứt khoát từ chối.

– Khi kết thúc sứ mạng của Người và khởi đầu sứ mạng của các môn đệ, Đức Giêsu gặp Nhóm Mười Một “tại ngọn núi Người đã truyền cho các ông đến” (28,16). Tại đây Người tuyên bố là Người “đã được [Thiên Chúa] trao toàn quyền trên trời dưới đất” (28,18) và dựa trên nền tảng này, Người sai phái các ông đi loan báo Tin Mừng “cho muôn dân”.

Vì Người đã từ chối nhận mọi quyền hành từ tay quỷ mà bây giờ Người nhận được mọi quyền hành từ tay Thiên Chúa.

– Giữa hai biến cố nêu trên, có một biến cố khác cũng xảy ra trên một ngọn núi cao: Đức Giêsu biến đổi hình dạng, Người có vinh quang Thiên Chúa: cuộc khải hoàn Phục Sinh đã được giới thiệu trước. Và biến cố này đã xảy ra sau khi Đức Giêsu gạt bỏ đề nghị của Satan qua miệng Phêrô là đừng đi theo đường lối của Chúa Cha.

Theo văn cảnh xa, có thể nói bản văn chứa đựng biến cố Hiển Dung vừa tóm lại các cám dỗ vừa đón trước cuộc diện kiến trên núi giữa Đấng Phục Sinh và các môn đệ; chúng ta thấy ở đây có các yếu tố của hai tình trạng ấy của Đức Giêsu: Con Thiên Chúa vinh quang và Đấng Mêsia phải chịu đau khổ; nổi bật lên như một gạch nối là sự chọn lựa dứt khoát, thái độ cương quyết của Đức Giêsu để đi theo thánh ý Chúa Cha. Điểm này được minh chứng theo văn mạch gần: cuộc Hiển Dung được đóng khung giữa hai lời loan báo về Khổ Nạn (16,21-23; 17,22-23).

  1. BỐ CỤC

Bản văn có thể chia thành phần:

1) Mở (17,1);

2) Thị kiến (17,2-8):

  1. a) Mở đầu: Đức Giêsu biến đổi hình dạng,
  2. b) Các tình huống: Môsê và Êlia hiện ra đàm đạo; Phêrô đề nghị làm lều; tiếng Thiên Chúa phán,
  3. c) Kết: các môn đệ sợ hãi; Đức Giêsu trấn an; mọi sự trở lại như cũ;

3) Kết (17,9).

III. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI

– Sáu ngày sau (1): Theo Xh 24,13-16, Thiên Chúa tỏ mình ra cho Môsê trên núi Sinai sau sáu ngày; và theo Đnl 16,13-15, đay là ngày cuối cùng của Lễ Lều.

– Phêrô, Giacôbê và Gioan (1): Ba môn đệ này lại xuất hiện tại Ghếtsêmani (26,37).

– một ngọn núi cao (1): Một quả núi là biểu tượng cho nơi Thiên Chúa mạc khải. Ở đây hẳn quả núi này là một Sinai khác tại Galilê. Truyền thống vẫn cho rằng đây là núi Tabo, mà Tabo thật ra chỉ là một quả đồi. Nhưng hợp lý hơn, có lẽ là núi Cácmen hay Khétmôn. Đặc biệt trong Tin Mừng Mt, khi Đức Giêsu sắp làm một việc gì quan trọng, Người thường lên núi: cuộc cám dỗ xảy ra trên núi cao (4,8); các Mối Phúc được công bố trên núi (5,1); bánh được nhân ra nhiều trên núi (15,19); và Nhóm Mười Một gặp Đấng Phục Sinh trên một ngọn núi (28,16).

– biến đổi hình dạng (metemorphôthê, 2): Sự cố biến đổi hình dạng (= sự hóa thân) này là điều rất quen thuộc đối với ngoại giáo. Có lẽ vì thế mà Lc đã tránh dùng từ ngữ này.

– Môsê và Êlia (3): Đây là hai nhà linh thị trứ danh của Cựu Ước, cả hai đều có liên hệ với núi Sinai-Khôrép. Môsê thường được coi là đại diện cho Lề Luật và Êlia đại diện cho các Ngôn Sứ; nhưng có thể coi cả hai vị vừa là những nhà lập pháp vừa là những ngôn sứ. Và nói chung, các ngài đại diện cho thiên giới.

– ba cái lều (4): Hẳn chi tiết này nhắc dến hoàn cảnh thực là Lễ Lều (sukkốt: Lv 23,42; Nkm 8,14-18).

– đám mây sáng ngời bao phủ các ông (5): Đám mây là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa. Động từ episkiazein, “bao phủ; rợp bóng” là động từ cổ điển để lưu ý về sự hiện diện (Hp shekinah) của Đức Chúa (YHWH) trong đời sống và trong các tình huống của dân Ngài (x. Xh 40,34-35; 1 V 8,10-12; Ed 10,3-4; Tv 18,12).

– tiếng từ đám mây phán (5): Trong Cựu Ước, “tiếng nói” thường xuất hiện trong các bài tường thuật về ơn gọi, chẳng hạn: St 12,1-3; 15,1; Xh 3,4; 19,16-24; 1 Sm 3,4; Is 6,8; Gr 1,11 ….

– Đây là Con yêu dấu của Ta (5): Câu này là một tổng hợp Tv 2,7; Is 42 và có lẽ cả St 22,2. Từ ngữ “con” trước tiên diễn tả quan hệ gia đình, rồi cũng có sắc thái thân tình, kết hợp và hiệp thông.

– Nghe vậy, các môn đệ rất đỗi sợ hãi (6): Mt cho thấy là nỗi sợ hãi của họ là do nghe lệnh Thiên Chúa truyền, chứ không phải do thấy thị kiến (Mc).

– Đức Giêsu lại gần (7): Động từ proserchomai, “đi đến, đến gần”, là một động từ Mt thích dùng (52 lần; 5 lần trong Mc và 10 lần trong Lc), nhưng chỉ có hai lần được áp dụng cho Đức Giêsu (ở 17,6-7 và 28,18 riêng của Mt). Trong cả hai bản văn, Đức Giêsu đến gần các môn đệ với mục tiêu là trợ giúp những kẻ đang sợ hãi hoặc hoài nghi:

Mt 17,6-7

6 Khi các môn đệ nghe vậy

họ ngã sấp mặt xuống đất

và hết sức kinh hoàng

7 Bấy giờ Đức Giêsu lại gần chạm vào các ông và bảo:

“Trỗi dậy đi, đừng sợ”

Mt 28,16-20

16 Mười một môn đệ…

17 Khi thấy Người,

các ông bái lạy Người, nhưng có mấy ông hoài nghi.

18 Đức Giêsu đến gần

nói với các ông: 19 “…toàn quyền…” 20 Thầy ở cùng anh em mọi ngày”

– thị kiến (9): Hoạt cảnh này vừa là “thị kiến” ([h]orama do động từ [h]oraô) kiểu khải huyền vừa là một cuộc thần hiển (có thể so sánh với các bản văn khải huyền: Đn 10,1-10 [Kh 1,13-15]; 12,4.9 và các yếu tố thần hiển trong: Xh 19,16; 24,15-16; 40,34-35). Từ ngữ mang tính khải huyền này hàm ý là nhìn thấy Đức Giêsu hiển vinh là một “thị kiến” được Thiên Chúa ban cho.

  1. Ý NGHĨA CỦA BẢN VĂN

Bản văn chúng ta đọc hôm nay có phần khó hiểu. Nếu tác giả muốn kể cho chúng ta biêt về một biến cố đặc biệt xảy ra trong cuộc đời Đức Giêsu, thì hẳn là mọi sự sẽ đơn giản và rõ ràng; nhưng tác giả lại đi xa hơn việc cung cấp thông tin. Ngài muốn nói cho chúng ta biết Đức Giêsu là ai, và ngài đã dùng một ngôn ngữ đầy hình ảnh và biểu tượng dễ hiểu và rõ ràng cho người thời đại ngài, nhưng lại khó cho chúng ta hôm nay.

* Mở (1)

Chi tiết xác định thời gian “sáu ngày sau” muốn nói là sau chuyện gì? Tại sao tác giả lại ghi nhớ một chi tiết không đáng kể như vậy? Và làm sao ngài có thể còn nhớ được chi tiết này 50 năm sau, khi bắt đầu viết?

Tại sao Đức Giêsu chỉ đưa ba môn đệ đi với Người? Tại sao Người lên một ngọn núi?

Chi tiết “sáu ngày sau” hẳn là muốn đưa độc giả về với Xh 24,16, trong đó kể rằng “sau sáu ngày”, mây bao phủ quả núi và đến ngày thứ bảy, Thiên Chúa gọi Môsê. Tác giả hướng độc giả chú ý vào một kinh nghiệm siêu nhiên. Nơi ấy hẳn là vắng vẻ, bởi vì Đức Giêsu đưa các môn đệ “đi riêng với mình, lên một ngọn núi cao”, bởi vì theo một cái khung quen thuộc theo linh đạo Kinh Thánh, người ta không thể có kinh nghiệm về Thiên Chúa (Đức Kitô) trong sự hỗn độn và ồn ào náo nhiệt. Đức Giêsu chính là vị hướng dẫn đoàn dân mới, được đại diện bởi ba môn đệ.

* Thị kiến (2-8)

Sau phần mở, tác giả giới thiệu Đức Giêsu vinh quang, bằng cách vận dụng các yếu tố quen thuộc của những thị kiến khải huyền (ánh sáng mặt trời, y phục trắng tinh). Sau này, khi mô tả trang phục của vị sứ thần báo tin Phục Sinh, tác giả Mt cũng cho thấy các yếu tố này (Mt 28,3-4). Họi Thánh gọi cuộc Phục Sinh là một sự “biến hóa; biến thái” (metamorphein) để cho thấy sự thay đổi xảy ra nơi nhân tính Đức Giêsu. Từ ngữ này dị nghĩa vì có thể làm chúng ta nghĩ đến sự hóa trang của các thần linh Hy Lạp, cho dù đây là một dữ kiện không được các Kitô hữu Siri và Paléttina biết đến. Từ ngữ này cũng hời hợt nữa, vì không phác họa được tất cả mầu nhiệm Phục Sinh mà các tác giả Tin Mừng còn gọi là “sự tái sinh”, “sự công chính hóa”. Ánh sáng, màu sắc, sự “biến hóa” nơi bản thân Đức Giêsu, tất cả cho thấy rằng Người là một nhân vật thuộc thế giới khác, là “Con Người” mặc lấy uy quyền và vinh quang (x. Đn 7,13-14). Đây là một thị kiến về Đức Kitô trong vinh quang tương lai của Đấng Phục Sinh.

Đức Kitô biến đổi hình dạng (và phục sinh) là đích điểm của Lề Luật và các Ngôn Sứ (x. 5,17). Sự xuất hiện của Môsê và Êlia (ngược lại với Mc 9,4) cho thấy các niềm chờ mong của dân Israel, các lời hứa thiên sai, nay đã nên hiện thực nơi bản thân Đức Giêsu (x. Lc 24,27; Rm 3,21). Chúng ta không được biết là hai ngài đàm đạo với Đức Giêsu về chuyện gì, nhưng dựa theo Lc 9,31, các ngài nói về “cuộc xuất hành” Đức Giêsu sắp hoàn thành tại Giêrusalem, thì hẳn là các ngài trao đổi cuộc Khổ Nạn Đức Giêsu sắp đi vào. Môsê và Êlia tượng trưng cho truyền thống Cựu Ước mà Đức Giêsu đến để hoàn tất (5,17). Khi chỉ một mình ngài ghi nhận là “dung nhan Người chói lọi như mặt trời”, hẳn là tác giả Mt muốn ám chỉ Đức Giêsu là Môsê mới, còn Môsê ngày xưa chỉ có “da mặt sáng chói” mà thôi (x. Xh 34,30).

Phản ứng của Phêrô khi đề nghị dựng ba cái lều lại nêu bật một lần nữa sự tương phản giữa các khát vọng của loài người và kế hoạch của Thiên Chúa. Mới trước đây ít lâu, ông đã lấy lòng thành mà ngăn cản Đức Giêsu đi lên Giêrusalem, và đã bị Đức Giêsu mắng là “Satan”. Nay khi đề nghị dựng ba lều, ông đã hiểu sai ý nghĩa của quang cảnh nên đã tìm cách hưởng lấy chiến thắng vinh quang mình không đáng hưởng. Cả ở đây cũng vậy, Phêrô là đại diện cho “thịt và máu” (16,17), tức người không suy nghĩ theo Thiên Chúa, nhưng theo cách của loài người (16,23), nên lại ngáng trở thay vì cộng tác với Thiên Chúa. Lần này, không phải là Đức Giêsu mắng Phêrô là “người kém tin” (14,31) hoặc là liên minh Satan (16,23), nhưng chính Chúa Cha can thiệp để điều chỉnh các ước vọng và quan niệm của ông. Đám mây sáng ngời bao phủ cả các tông đồ. Như thế, các ông đã được tiếp xúc với chính vinh quang huy hoàng của Thiên Chúa, để được đón nhận một sứ điệp trực tiếp từ Thiên Chúa. Khi Chúa Cha giới thiệu Con của Ngài, lời lẽ của Ngài không còn dè giữ, không giới hạn nữa (x. 11,25-27). Lời giới thiệu Đức Kitô (Phục Sinh) là một tổng hợp giữa các “bản văn thiên sai” (Tv 2,7 và Is 42,1). Cũng như tại phép rửa, “tiếng nói” từ trời làm sáng tỏ và xác nhận cả sứ mạng lẫn ơn gọi của Đức Giêsu. Phêrô đã muốn xóa đi một phần chương trình thiên sai; Chúa Cha đến nhắc rằng chương trình này không phải là một công trình của loài người, nhưng là một kế hoạch của Ngài. Chính Ngài đã phác ra cho Đức Giêsu con đường phải theo (người tôi tớ đau khổ chứ không phải là một vị vua thuộc dòng dõi Đavít).

Tác giả hoàn tất khung cảnh với những yếu tố thuộc quy ước: ngã xuống đất, sợ hãi, im lặng. Đây là những mẹo văn chương mà các tác giả văn chương khải huyền thường dùng để diễn tả một kinh nghiệm siêu phàm đang xảy ra. Đức Giêsu can thiệp như vai trò thiên thần trấn an. Các lời “Đừng sợ” thường được nói lên trong các thị kiến tương tự (x. Đn 8,16-17; 10,9-12.16-19; Kh 1,17; Lc 1,12-13.29-30).

Câu cuối của hoạt cảnh có một tầm mức biện giáo và Kitô học. Sau khi “hóa thân”, Đức Giêsu trở lại với tình trạng bình thường. Từ nay, “chỉ còn một mình Đức Giêsu mà thôi”, bởi vì Người là phát ngôn nhân duy nhất của Thiên Chúa, mà loài người phải quy chiếu về và quy phục. Lời nhắc này được gửi đến mọi người, nhưng đặc biệt được gửi đến những người còn tin vào Môsê và chờ đợi Êlia trở lại (x. 17,10).

* Kết (9)

Từ trên núi xuống, lời nhắc “giữ bí mật” xác nhận rằng bản văn này song song với các mạc khải kiểu khải huyền (x. Đn 12,9) và gợi lại các tình huống phức tạp (chính trị–ái quốc) mà các lời loan báo về Đấng Mêsia đã và sẽ gặp. Lời xác định “cho đến khi Con Người từ cõi chết trỗi dậy” cho thấy con đường đúng để hiểu được ý nghĩa bài tường thuật này. Thực tại của Đức Giêsu chỉ sẽ nên sáng tỏ và ta chỉ sẽ hiểu được dưới ánh sáng của cuộc Phục Sinh của Người.

+ Kết luận

Cuộc Hiển Dung là cuộc tôn vinh được sống trước của Đức Giêsu. Người đã xuất hiện trong tất cả những phẩm tính của Người: Con Người, tôi trung của Đức Chúa, Mêsia, Con Thiên Chúa, và với tất cả các liên hệ của Người trong lịch sử cứu độ. Cuộc Hiển Dung vừa tăng cường uy tín cho sứ mạng của Đức Giêsu vừa củng cố quyền bính của các tông đồ. Nếu quyền hành của Phêrô (16,18) và của Nhóm Mười Hai (18,18) lên tới trời là bởi vì ở dưới thế này, Đức Kitô đã đăng quang, nhằm xác nhận các quyết định của các ông.

  1. GỢI Ý SUY NIỆM
  2. Muốn có một kinh nghiệm nào đó về Thiên Chúa, muốn gặp gỡ Ngài, nhất thiết chúng ta phải ra khỏi đời sống thường ngày xô bồ náo nhiệt và được chính Ngài dẫn dắt. Người ta vẫn nói rằng có thể và phải gặp Thiên Chúa giữa lòng cuộc sống này. Điều này không sai, và còn cần thiết cho chúng ta là những người thường xuyên sống và dấn thân giữa lòng xã hội với những vấn đề và biết bao cuộc gặp gỡ với người khác. Nhưng để có thể gặp Chúa trong cuộc đời và cộng tác với Ngài, chúng ta đã phải thường xuyên gặp Ngài trong nơi cô tịch, trong thinh lặng, riêng tư: chúng ta đã thường xuyên được Ngài bao phủ “trong đám mây sáng chói”.
  3. Phêrô đã thưa với Đức Giêsu: “Lạy Ngài (= Chúa)”, nhưng rất có thể theo nghĩa là đế vương, vị thống lãnh, hơn là Mêsia vinh quang. Đức Kitô mà Chúa Cha (và hôm nay, Họi Thánh) giới thiệu là chúa tể, nhưng đặc biệt là ngôn sứ, là nhà lập pháp được ủy nhiệm của thời đại mới, Đấng mà loài người phải lắng nghe, nghĩa là vâng phục. Quan niệm của Phêrô không do Thiên Chúa hướng dẫn, nên sai lạc; các đề nghị của Chúa Cha, trong đó có hàm chứa cả những lời loan báo về số phận cuối cùng, trần thế và thiên quốc, của Đức Kitô, mới là những đề nghị đúng đắn mà loài người phải đón nhận.
  4. Tất cả những gì Israel vẫn ước mong nay đã trở thành hiện thực. Điều mới mẻ là nhân vật được biến đổi hình dạng. Người không từ trời xuống đất, mà chính là trời xuống với đất. Người không nói, mà chính tiếng nói từ trời lên tiếng. Cuối cùng, điều chính yếu là kể từ nay, Đấng mà ta phải lắng nghe (vâng phục) không còn phải là Đức Chúa (YHWH) mà là Đức Giêsu, Đấng đang ở đó. Con người này là Đấng mạc khải, là chính Đức Chúa.
  5. Sự biến hình Thánh Thể của Chúa Giêsu đối với Người hệ tại không phải là tỏ vinh quang của Người ra bên ngoài, nhưng là che giấu vinh quang ấy đi dưới những hình bí tích. Tuy nhiên, vì đã trung thành lắng nghe lời của Con yêu dấu để được Người dạy dỗ về mầu nhiệm này, chúng ta nhạn ra Người đang hiện diện dưới dạng bánh thánh và Phêrô có thể kêu lên: “Lạy Chúa, ở đây thật là hay!”. Sau đó, cần có can đảm mà phụng sự Người trong nếp sống khiêm tốn mỗi ngày.
  6. Hội Thánh đang dấn thân thi hành sứ mạng Đức Giêsu đã giao phó cho Nhóm Mười Một trên núi (x. Mt 28,16-20). Để có thể tiếp tục chu toàn sứ mạng, Hội Thánh luôn nhớ bài học Đức Giêsu để lại trên núi kia, khi Người từ chối các gợi ý của Satan, cũng như lời giới thiệu của Chúa Cha trên núi nọ, khi Người giới thiệu Đức Giêsu là Con yêu dấu của Người, là điển hình cho chúng ta, là Đấng sẽ ban cho chúng ta những giáo huấn giúp chúng ta trở thành gia đình đích thực của Thiên Chúa.

 

45.             Ý nghĩa đời sống ta là gì? – Achille Degeest.

(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)

Có thể nói rằng trong câu chuyện về việc Chúa Biến Hình, Chúa Cha mặc khải Chúa Con. Để suy niệm, chúng ta sẽ dừng lại một đôi khía cạnh đảo ngược, nghĩa là một ít đường nét trong khuôn mặt của Chúa Giêsu, Đấng mặc khải Chúa Cha. Làm như thế, ta sẽ trung thành với phần kết luận của câu chuyện, theo đó thì sự chú ý của ta được hướng về cá nhân Chúa Giêsu.

Việc Chúa Biến Hình là chứng tá của Chúa Cha về Chúa Giêsu. Cả đời Chúa Giêsu là một chứng tá về Chúa Cha. Người biết mình bởi đâu đến và đi về đâu, Người từ Chúa Cha mà đến và sẽ trở về với Chúa Cha. Đến lượt ta, trong Đức Kitô và nhờ Người, ta cũng biết nguồn gốc và cùng đích ta là đâu. Sau đây là một vài tỷ dụ về khuôn mặt ‘làm con’ của Đức Kitô.

1) Một chuyển động nội tâm đem lại ý nghĩa cho đời sống Đức Kitô và soi sáng nó. Người biết mình là kẻ được Chúa Cha thánh hiến và gởi vào thế gian để đem Tin Mừng Cứu Độ đến người nghèo khó, rao giảng sự giải thoát (khỏi tội lỗi) cho người tù đầy, và mở mắt cho kẻ đui mù (Lc 4,18). Là ‘phái viên’ của Chúa Cha, Người đặt sự thành tựu con người và đời sống mình trong lòng trung tín với ý Cha. Không phải là một sự trung tín an phận trước một chuyện chẳng đặng đừng, nhưng là một sự trung tín tích cực, tự phát, quyết liệt. Nó là dấu hiệu của Thánh Thần tình yêu hoạt động mãnh liệt trong Người.

Có lẽ đã có lần ta tự hỏi: đời tôi có ý nghĩa gì? Nếu ta sống trong thánh ý Chúa và nếu ta tận tình chu toàn thánh ý Chúa Cha, thì đời ta có một ý nghĩa và như Chúa Con, chúng ta cũng được biến hình cách thiêng liêng.

2) Chúa Giêsu muốn để cho Chúa Cha hiện rõ qua con người và đời sống mình. Ý chí đó đã quy định mọi hành vi, thái độ của Người. Người nói năng thế nào? Hoạt động ra sao? Người dám nói rằng lời Người nói không phải là của Người, nhưng của Đấng đã sai Người đến. Người quả quyết Người không hành động tự ý mình, nhưng chính Chúa Cha hành động qua Người. Nhìn Chúa Giêsu mà không đếm xỉa đến tương quan của Người với Chúa Cha, ta sẽ không hiểu nổi Người. Với người Kitô hữu cũng thế. Họ phải để cho Thiên Chúa ‘lộ dạng’ qua đời sống mình, bằng cách làm như Chúa Giêsu: nghĩa là thỉnh ý Chúa Cha về việc phải làm, phải nói. Thỉnh ý qua lời cầu nguyện, qua việc chạy tới Đức Giêsu là Đấng mặc khải Chúa Cha, trong niềm tin tưởng ở Chúa Thánh Thần và sự tuân phục đối với Hội Thánh.

 

46.             Dõi theo bước Chúa – R. Veritas

(Trích từ ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Người ta kể rằng năm ấy dù mới lên mười tuổi, cậu Chai-san đã được bố cho đi theo một đoàn lữ hành phải vượt cao nguyên trùng điệp với những đỉnh đồi, những ngọn núi vừa hùng vĩ vừa thơ mộng. Đêm đến đoàn lữ hành trú ngụ trong những chiếc lều vải thô sơ. Một đêm nọ cậu bé Chai-san cảm thấy có một sức mạnh từ bên trong thúc đầy cậu trốn ra khỏi lều. Và kìa, giữa miền núi cao, bầu trời đầy trăng sao lấp lánh như bao trùm lấy cậu. Một cảm giác hạnh phúc nhẹ nhàng xâm chiếm tâm hồn Chai-san. Cậu có cảm tưởng như cả vũ trụ xinh đẹp này đã được tạo dựng để ban tặng cho cậu, và nó đang nâng tâm hồn cậu lên với Đấng Tạo Hóa.

Bỗng chốc bầu khí yên tĩnh và an bình bị xáo trộn vì tiếng gọi của người cha: “Chai-san, mày trốn đi đâu rồi? Trở vào lều đi”. Chai-san miễn cưỡng trở vào lều và tiếc nuối nói với cha: “Bố ơi, bầu trời trăng sao đẹp quá chừng!”.

Thưa anh chị em,

Trong truyền thống Thánh Kinh cũng như trong hầu hết các tôn giáo, núi cao thường được xem như là nơi gặp gỡ giữa trời và đất, giữa Thần Linh và con người. Những mạc khải quan trọng trong Kinh Thánh đều diễn ra trên núi cao. Môsê đã được kêu mời lên núi Sinai để gặp gỡ Giavê Thiên Chúa và đón nhận lề luật cho Dân Chúa. Êlia đã ròng rã 40 đêm ngày lên núi Horeb để gặp Chúa. Êlisê cũng lên núi Carmel để gặp Chúa. Và Chúa Giêsu cũng khởi sự đời công khai bằng 40 đêm ngày chay tịnh trên núi cao, rồi trong ba năm sứ vụ, Ngài vẫn thường lặng lẽ một mình lên núi để cầu nguyện cùng Cha Ngài.

Trong Tin Mừng hôm này, Chúa Giêsu đã đưa ba môn đệ thân tín nhất lên núi Thabor để tỏ vinh quang của Ngài cho các ông. Từ trên núi cao, Phêrô, Giacôbê, Gioan đã nhận ra được con người và sứ mệnh của Chúa Giêsu. Từ trên đỉnh cao, các ông thấy vinh quang của ngài như một lời hứa được thực hiện, như thành tựu của một sứ mệnh, như đích điểm của một con đường, con đường thập giá dẫn đến vinh quang.

Thế nhưng, thưa anh chị em, người ta không lên núi cao để ở lại đó, mà là để nhìn rõ hơn con đường phải đi. Đối với Chúa Giêsu, con đường phải đi đó chính là con đường lên Giêrusalem với cuộc tử nạn đang chờ đợi Ngài. Và Ngài đã xuống núi để giáp mặt với cuộc đời, để tiếp tục hành trình xuyên qua khổ nạn và cái chết thập giá. Từ trên núi cao, Chúa Giêsu cũng muốn đưa ba môn đệ thân tín của Ngài trở lại cuộc đời, trở lại với những thử thách, chống đối đang chờ đợi trước mắt các ông.

Thật vậy, cuộc tỏ vinh quang của Chúa Giêsu trên núi đã xảy ra sau khi Phêrô tuyên xưng: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Lời tuyên xưng này lại gắn liền với lời Chúa Giêsu loan báo cuộc Thương Khó của Ngài và kèm theo lời mời gọi: “anh em hãy bỏ mình, vác thập giá đi theo Thầy” (Mt 16,24). Vậy là đúng vào lúc các môn đệ đã nhận ra Chúa Giêsu là Đức Kitô, là Đấng Cứu Thế, thì trước mắt các ông hình ảnh một Đấng Cứu Thế oai hùng lẫm liệt theo các ông quan niệm, bắt đầu tan biến, để hiện ra một Đấng Cứu Thế đau khổ, bị đày đọa, bị khai trừ, bị giết chết. Hình ảnh đó thật là khó hiểu đối với các môn đệ, vì lòng tin của các ông còn mộc mạc, phàm tục. Cho nên, chẳng lạ gì, Phêrô đã lên tiếng khuyên can Chúa Giêsu đừng đi theo con đường đau khổ đó làm gì. Nhưng thật không may cho ông, vì Chúa Giêsu cứ khăng khăng một mực, lại còn quay sang mắng ông: “Satan, cút đi!”. Vì ông đã tự đồng hóa với Satan cám dỗ Chúa trong sa mạc.

Rồi bây giờ thì lại cũng chính Phêrô đã dám đề nghị cắm lều ở lại trên núi Thabor, vì ở đây sướng quá, khỏi phải đi qua con đường đau khổ mà ông đã khuyên can Thầy. Nhưng rồi, mở mắt ra, ông thấy chỉ còn một mình Chúa Giêsu trên đỉnh núi. Ánh sáng rực rỡ đã tan biến, và Chúa Giêsu còn đánh thức các ông dậy, giục các ông xuống núi, đi lên Giêrusalem với Ngài để chịu tử nạn như Thầy đã báo trước.

Chính trong giờ phút biến hình rực rỡ vừa rồi, ông Môsê và ngôn sứ Elia đã đàm đạo với Chúa Giêsu về “cuộc ra đi” Ngài sắp hoàn thành tại Giêrusalem, và tiếng Chúa Cha phán: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hết lòng quý mến. Các ngươi hãy vâng nghe lời Ngài”. Lời đó chính là để công nhận, để tán thành bước đường vượt qua đau thương của Chúa Giêsu, và mời gọi các môn đệ hãy đi theo Thầy. Vì thế, mấy Thầy trò lại xuống núi. Và Phêrô cũng như các môn đệ khác phải đi theo sau Thầy qua con đường khổ nạn thập giá mới đến ánh sáng vinh quang Phục Sinh.

Anh chị em thân mến,

Không phải hông có lý do mà phụng vụ năm nào cũng đặt bài Tin Mừng Chúa hiển dung sáng láng hôm nay vào giữa Mùa Chay. Giáo Hội muốn đưa chúng ta lên núi, hé mở cho chúng ta chiêm ngưỡng một chút vinh quang phục sinh của Chúa Giêsu, để chúng ta thêm tin tưởng vào Ngài, để chúng ta có những giây phút nghỉ ngơi lấy sức trước khi xuống núi, trở về với cuộc sống bình thản trên các nẻo đường phẳng lặng hay đầy sóng gió đưa đến núi Can-vê. Chúng ta cần được Chúa đến gần, đưa tay đập vào người như “đã đến gần, vỗ vào người các môn đệ”, để thức tỉnh chúng ta, để chúng ta biết chuẩn bị sẵn sàng đón nhận mọi gian nan đau khổ trên đường đời.

Con đường Thương Khó của Chúa khởi đầu từ khi Ngài xuống núi. Rồi đây, Ngài cũng sẽ biến hình “không còn hình tượng người ta nữa”, để dạy chúng ta biết phải đi qua con đường thập giá mới đến vinh quang khải hoàn sống lại. Trong ngôn ngữ La-tinh, người ta chơi chữ: “Per crucem ad lucem”, nghĩa là “qua thập giá đến ánh sáng”. Qua Thứ Sáu Tử Nạn mới đến Chúa Nhật Phục Sinh. Đường thánh giá không dừng lại ở nấm mồ, nhưng mở ra trong niềm vui tưng bừng của ngày sống lại. Đó là quy luật của muôn đời.

Thưa anh chị em,

Trong cuộc hành trình đức tin của chúng ta, cũng có những giây phút chúng ta được đưa lên núi cao để gặp Chúa, núi cao của Thánh lễ, núi cao của những giờ phút dành cho việc cầu nguyện. Nhưng chúng ta không lên núi để ở đó mãi, mà là để trở lại với cuộc đời với muôn thử thách, đắng cay, với những gặp gỡ từng ngày. Chấp nhận cuộc sống với tinh thần lạc quan, chấp nhận chiến đấu mà không buông xuôi bỏ cuộc, sống như thể là tiếp tục con đường Chúa Giêsu đã đi qua. Chấp nhận những người anh em chúng ta gặp gỡ trên đường đi, chấp nhận những khác biệt, những bất toàn của người anh em cùng đồng hành, sống như thể là dõi bước theo đường Chúa đã đi qua.

Xin ánh sáng Phục sinh của Đức Kitô luôn dẫn bước chúng ta trên đường, để chúng ta biết đón nhận và sống trọn từng phút giây cuộc sống. Xin ánh sáng Phục Sinh của Đức Kitô chiếu dọi và hướng dẫn cuộc hành trình đức tin của chúng ta được tiếp tục trên dấu chân của Ngài.

 

47.             Nghe Lời Người – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Sau khi được tiên báo về cuộc Thương khó Chúa Giêsu sắp phải trải qua, các môn đệ đã xuống tinh thần trầm trọng, thậm chí các ông còn ngần ngại đồng hành với Chúa lên Giêrusalem.

 

Tin mừng Nhất Lãm tường thuật lời loan báo về cuộc tử nạn. Chúa Giêsu đưa Nhóm Mười Hai đi lên Giêrusalem, dọc đường, Người nói với các ông: “Này chúng ta lên Giêrusalem, và Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ kết án xử tử Người, sẽ nộp Người cho dân ngoại nhạo báng, đánh đòn và đóng đinh vào thập giá và ngày thứ ba, Người sẽ chỗi dậy” (Mt, 17-19).

 

Theo tin mừng Luca và Maccô, các môn đệ không hiểu và sợ hãi khi nghe Thầy loan báo về cuộc thương khó. “Nhưng các ông không hiểu gì cả; đối với các ông, lời ấy còn bí ẩn, nên các ông không rõ những điều Người nói” (Lc 18,34); “Người dẫn đầu các ông. Các ông kinh hoàng, còn những kẻ theo sau cũng sợ hãi. Người lại kéo riêng Nhóm Mười Hai ra, và bắt đầu nói với các ông về những điều sắp xảy đến cho mình” (Mc 10,32).

 

Vì không hiểu nên sợ. Sợ nên không muốn đi. Phêrô kéo riêng Chúa ra mà ngăn cản và trách móc. Chúa trách mắng Phêrô, nhưng để giúp Phêrô cần có sự can thiệp của Chúa Cha. Vì thế, biến cố Biến Hình đã xảy ra (Mt 17,1-9).

 

Chúa đưa ba môn đệ lên núi Tabor. Biến Hình rực rỡ nhằm củng cố tinh thần cho các môn đệ sau khi Chúa loan báo cuộc khổ nạn.

 

Núi Tabor

Tôi được diễm phúc lên Núi Tabor. Từ khách sạn ở Nazareth xe đi qua những thung lũng với nhiều vườn cây ôliu, vườn chuối, vườn cam xanh tươi ngút mắt. Tabor là ngọn núi rất đẹp, nó đưa mình lên êm ả từ một cánh đồng cỏ xanh. Xe buýt chỉ đến chân núi, sau đó phải đổi xe chuyên leo núi. Lên dốc cao, đường ngoằn ngoèo theo vòng xoáy trôn ốc như đường Đèo Ngoạn Mục. Trời thật lạnh khoảng 4độ, gió thổi rét buốt trên đỉnh có độ cao 600m làm ai nấy run lên vì lạnh.

 

Núi Tabor có một ngoại hình rất cân đối. Núi mọc lên giữa cánh đồng như một bàn thờ giữa trời đất, giống như lễ đàn của các bộ lạc để tế thần minh. Lúc Chúa Giêsu đem ba môn đệ yêu quý lên đây, không gian phải rất im vắng. Chỉ có gió vi vu và mây nắng với rừng cây thắm một màu xanh hùng vĩ.

 

Núi tiêu biểu cho quyền năng và vinh quang của Thiên Chúa. Núi là nơi mặc khải những điều trọng đại như khi xưa Thiên Chúa hiển linh trên núi Sinai với Môsê, núi Khoreb với Êlia, núi Tabor với ba môn đệ. Từ đỉnh núi, nhìn về hướng nam là làng Naim, một thành cổ hiện tại người Ảrập sinh sống, nơi đây Chúa cho con trai bà goá sống lại. Nazareth, một thị trấn sầm uất về hướng tây và Biển hồ Galilê mênh mang phía đông. Tabor, ngọn núi thiêng tạo thành một tam giác đều. Cả ba nơi đều gắn liền với cuộc đời Chúa Giêsu: lớn lên, truyền đạo và hiển dung. Bên ngoài, phía trái Nhà thờ vẫn còn dấu vết tường đá tu viện các cha dòng Bênêđictô một thời Trung cổ huy hoàng.

 

Theo sử gia Josephus thì nhóm Nhiệt Thành (Zelot) đã chiến đấu với quân Roma tại đây vào năm 66tcn. Năm 1634 các thầy Phanxicô mới dành lại được ngọn núi này từ tay quân Thổ. Nhưng mãi gần 300 năm sau mới xây được Nhà thờ.

 

Nhà Thờ Hiển Dung xây dựng từ năm 1925 do các cha dòng Phanxicô phụ trách. Mặt tiền nhà thờ lối kiến trúc nổi bật với hai ngọn tháp vuông cao vút. Bên trong hai ngọn tháp này là hai nguyện đường nhỏ kính tổ phụ Môisen và Êlia. Một bức tranh tuyệt đẹp theo nghệ thuật mosaic phía trên bàn thờ vòm cung thánh. Chúa biến hình trong hào quang rực sáng. Hai bên có Môisen trên núi Sinai và Êlia trên núi Carmel. Phía dưới là ba môn đệ Phêrô, Gioan và Giacôbê.

 

Biến hình

Tường thuật biến cố biến hình, cả ba Phúc âm đều nhấn mạnh đến thái độ hoảng sợ của các môn đệ. “Thực ra, ông không biết phải nói gì, vì các ông hoảng sợ” (Mc 9,6); “Khi thấy mình vào trong đám mây, các ông hoảng sợ” (Lc 9,34); “Nghe vậy, các môn đệ kinh hoàng ngã sấp mặt xuống đất” (Mt 17,6). Và khi Phêrô “ngã sấp mặt xuống đất” thì Chúa đến chạm vào ông và bảo: “Chỗi dậy đi, đừng sợ”.

 

Các môn đệ không thể hiểu được hành trình của Đấng Cứu Thế sao lắm gian nan; kẻ theo Ngài làm sao không ngại ngùng sợ hãi cho được! (x. Mt 17,13-14; Mc 8,34; Mt 8,18; Mc 13,9; Lc 9,26).

 

Nếu người ta làm an toàn những viên thuốc đắng bằng vỏ bọc kẹo ngọt; Chúa Giêsu hoá giải tin cuộc khổ nạn bằng cuộc Biến Hình rực rỡ. Bọc kẹo chứ không bọc thuốc ngũ. Hoá giải chứ không gây mê. Chúa cho các môn đệ thấy trước một thoáng Phục Sinh trước Phục Sinh. Chúa cho cảm nếm một chút Thiên đàng. Các ông đã tưởng là Thiên Đàng nên Phêrô xin làm ba lều để an nhàn trên núi cao, ngũ yên trong hào quang, quên đi các bạn và các cuộc truyền giáo dưới chân núi. Các ông không biết rằng Thầy Giêsu chỉ lên đỉnh Tabor trong chốt lát rồi xuống núi chuẩn bị vác thập giá bước vào cuộc thương khó. Hai đỉnh núi Tabor và Calvariô không xa nhau lắm về mặt địa lý, nhưng lại là con đường vạn lý. Chúa Giêsu đã nối kết hai đỉnh núi bằng con đường tình yêu cứu độ.

 

Biến cố Chúa biến hình trên núi Tabor là một trong những biến cố đặc biệt. Nó trở nên như một ngôi sao sáng cho các môn đệ trong đêm tối của những gian nan thử thách. Biến cố ấy vẫn luôn ghi đậm trong ký ức của các môn đệ. Nó là một điểm tựa, là một trợ lực cho đức tin của các ngài trong suốt tiến trình theo Chúa Giêsu.

 

Câu chuyện Chúa Biến hình trên núi Tabor được đặt làm sườn cho cả văn kiện “Tông Huấn Vita Consecrata” (đời sống thánh hiến). Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II ban hành ngày 25.3.1996, đúc kết những thành quả của Thượng Hội Đồng Giám Mục tháng 10.1994. Tông Huấn trình bày vẻ đẹp của đời tu. Con đường tu đức được ví như một cuộc đi tìm cái đẹp (số 19),hướng tới sự chiêm ngưỡng nhan Chúa, chân phúc dành cho các tâm hồn trong trắng. Các Tu sĩ đã bị thu hút bởi vẻ đẹp của Chúa; họ mê say chiêm ngưỡng Chúa, để rồi phản chiếu khuôn mặt rạng rỡ của Ngài (số 27); sau khi lên núi chiêm ngắm Chúa Biến Hình, các môn đệ được mời hãy đi xuống núi để phục vụ (số 75); họ còn phải trèo lên một núi khác đó là núi Calvariô (số 14;40). Nhiều năm huấn luyện trong nhà dòng, người thanh niên nam nữ nhiều khi phải “sinh” ra bốn năm lần mới biến hình nên một Tu sĩ: từ ứng sinh, thỉnh sinh, tiền tập sinh, tập sinh, khấn sinh, nhiều năm sau mới khấn trọn đời và vẫn tiếp tục hành trình biến đổi đời mình nhờ gặp gỡ Chúa Kitô.

 

Nghe Lời Người

Người sống đời tận hiến cũng như người tín hữu, muốn được “biến hình” trong đời sống cũng như muốn được trở nên “con yêu dấu” của Thiên Chúa cần phải “vâng nghe lời Người”. Không chỉ nghe bằng tai bằng mắt mà còn nghe bằng hết tâm hồn cũng như bằng cả cuộc đời quy chiếu sống theo Đức Kitô.

 

Cả ba Phúc âm đều tường trình tiếng nói từ trời cao. Lời Chúa Cha như giới thiệu, chuẩn nhận Chúa Con và là lệnh truyền cho chúng ta. “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người” (Mt 17,5); “ Đây là Con yêu dấu của Ta. Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9,6); “Đây là Con Ta, Người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người” (Lc 9,35).

 

“Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”. Đó là lệnh truyền của Chúa Cha, là điệp khúc kết luận của tiếng nói từ trời cao. Điệp khúc quan trọng vì cả ba Phúc âm đều nói đến. Lời của Chúa Kitô chính là chuẩn mực, là lề luật tuyệt đối mang lại ơn cứu độ cho nhân loại. Lời của Chúa Kitô là Lời Giao Ước vĩnh cửu cho con người được tham dự vào sự sống thần linh của Thiên Chúa Ba Ngôi.

 

“Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”, một phán quyết long trọng và công khai của Chúa Cha. Từ nay, vâng nghe Lời Chúa Kitô, chúng ta sẽ được biến hình với Chúa Kitô, cùng được hưởng vinh quang Phục sinh với Chúa Kitô.

 

Chẳng ai gặp Thiên Chúa thực sự mà lại không biến hình. Đời sống kết hiệp thực sự với Thiên Chúa làm cho người Kitô hữu tỏa sáng rực rỡ. Biến hình không phải là trở thành cái gì khác mình, như Tôn Ngộ Không với các trò biến hoá. Biến hình là trở lại với cái tôi sâu thẳm của mình, tôi là con yêu dấu của Thiên Chúa. Từ khi chịu phép Thánh Tẩy, chúng ta đã bước vào một cuộc biến hình, từ từ và liên tục

 

Một nhà giáo dục nổi tiếng người Pháp đã tâm sự về cuộc đời của ông: Khi còn trẻ, tôi có tinh thần cách mạng và mỗi khi cầu nguyện, tôi luôn cầu xin Chúa một điều là: Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để biến đổi thế giới này. Khi đã lớn tuổi và nhận thấy gần quá nửa đời người trôi qua mà tôi không thay đổi được một người nào hết, nên tôi đã thay đổi lời cầu nguyện của tôi như sau: Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để biến đổi những người trong gia đình của con. Giờ đây tôi đã già nua và những ngày còn lại chỉ đếm được trên đầu ngón tay, nên lời cầu nguyện của tôi lại được thay đổi một lần nữa như sau: Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để biến đổi chính mình con. Và ông kết luận: Nếu tôi biết cầu nguyện như thế này từ ngày còn trẻ thì tôi đã không uổng phí cả cuộc đời.

 

Mùa Chay Thánh là mùa chiến đấu thiêng liêng, giúp mỗi người sống sống chay tịnh và hy sinh, cầu nguyện và tập nhân đức, chế ngự và làm chủ bản thân. Đây là thời gian thánh giúp từng người sám hối canh tân bản thân dưới ánh sáng Lời Chúa và thực hành ăn chay cầu nguyện theo lời dạy của Chúa Giêsu.

 

Lạy Chúa, Chúa đã dạy chúng con phải vâng nghe Con yêu dấu của Chúa; xin lấy lời hằng sống nuôi dưỡng đức tin của chúng con, nhờ vậy cặp mắt tâm hồn chúng con sẽ trong sáng để nhìn thấy vinh quang Chúa tỏ hiện trong cuộc đời chúng con. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen. (Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật II Mùa Chay).

 

48.             Chúa tỏ hiện vinh quang

(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’ của R. Veritas)

Trong một trăm chuyện ngắn hay của Việt Nam, được hội Văn Hóa Hà Nội tuyển chọn và cho xuất bản, người ta thấy đứng đầu danh sách là chuyện có tựa đề: “Thầy Lazarô Phiền”. Đây là chuyện ngắn được một tác giả Công giáo, ông Nguyễn trọng Quảng sáng tác vào năm 1887 và được xem là chuyện ngắn đầu tiên trong lịch sử văn học Việt Nam.

Mở đầu câu chuyện tác giả nhắn nhủ như sau:

Nếu có xuống Bà Rịa, đi ngang qua nghĩa địa ở làng Phước đến gần nhà thờ các Thánh Tử Đạo, hãy vào thăm một ngôi mộ, đây là ngôi mộ của một tu sĩ tên là Lazarô Phiền.

Tên của nhân vật có thể gợi lên cả cuộc đời của vị tu sĩ này là một chuỗi những ngày khổ đau, những phiền muộn. Mẹ ông qua đời vì bệnh dịch tả năm ông mới được ba tuổi. Năm ông lên mười hai tuổi, cùng với ba trăm tín hữu công giáo khác, cha của cậu bé Phiền đã bị Văn Thân thiêu sống trong ngục, còn cậu bé thì tay chân bị phỏng nặng nhưng cậu bé đã cố lết ra ngoài và được cứu thoát. Một sĩ quan Pháp thương tình đưa cậu bé Phiền lên Sàigòn và giới thiệu cho một gia đình Việt Nam giàu có. Cùng với người con trai trong gia đình này, Lazarô Phiền đã được cho ăn học đến nơi đến chốn. Sau khi đã thành tài, được bổ nhiệm đi làm thông ngôn, hai người thương nhau như là anh em ruột thịt. Tình nghĩa giữa hai người bạn lại càng thắm thiết hơn khi chính gia đình của người bạn này đã đứng ra lo chuyện gia đình cho Lazarô Phiền, nhưng niềm vui của cuộc sống hôn nhân không được trọn vẹn, bởi vì có một người đàn bà khác vì yêu Thầy Lazarô Phiền nhưng không được đáp trả nên đã tìm cách hãm hại Thầy.

Qua hai lá thư giả mạo của người đàn bà này, Lazarô Phiền nghi ngờ người vợ của mình có tư tình với người bạn thân của mình, cho nên không làm chủ được cơn ghen, ông đã lập mưu giết người bạn thân và dùng thuốc độc để sát hại vợ mình. Hai cuộc mưu sát đã được tính toán một cách tài tình, cho nên kẻ sát nhân đã tránh được lưới của pháp luật. Thế nhưng về phần mình, Lazarô Phiền ngày đêm bị tòa án của lương tâm cắn rứt. Cuối cùng ông xin vào tu trong một tu viện ở Sàigòn. Sau sáu năm tu luyện, Lazarô Phiền được thực sự trở thành một tu sĩ, mọi người trong tu viện đều thầm khâm phục sự thánh thiện của thầy, nhưng riêng thầy vì không bao giờ xưng thú hành động sát nhân của mình, cho nên đêm ngày không bao giờ được sự bình an trong tâm hồn. Phải cho đến lúc lâm bệnh nặng và ngày trước khi qua đời, thầy mới xin phép nhà Dòng cho về thăm quê hương ở Bà Rịa, tìm đến vị linh mục chánh xứ để xưng tội. Chỉ sau khi cảm nhận được ơn tha thứ của Chúa, thầy mới nhắm mắt lìa đời và ra đi trong bình an.

Câu chuyện trên đây có thể mang lại cho chúng ta một ánh sáng để nắm bắt được bài đọc của việc Chúa Giêsu biến hình trên núi Taborê mà hôm nay Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe. Có trải qua đau khổ và sự chết mới được vào vinh quang phục sinh, đó là bài học mà Chúa Giêsu muốn dạy cho ba người môn đệ thân tín khi cho các ông chứng kiến vinh quang của Ngài trên núi. Thế nhưng cùng với bài học này, Chúa Giêsu cũng muốn bày tỏ một chân lý khác, đó là con người chỉ có thể tìm thấy hạnh phúc và bình an đích thực khi sống thực trọn vẹn với Thiên Chúa mà thôi.

“Đây là Con Ta yêu dấu, rất đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe Lời Người”. Chúa Giêsu rất đẹp lòng Chúa Cha, bởi vì Ngài đã vâng phục Chúa Cha, cho nên đã đón nhận cuộc sống cùng tất cả những hệ lụy của cuộc sống đau khổ và cuối cùng là cái chết trên thập giá. Bí quyết của Chúa Giêsu chính là sống cho Chúa Cha, sống thuộc trọn về Chúa Cha, sống vâng phục Thiên Chúa Cha qua cuộc sống vâng phục và vâng phục cho đến chết.

Chúa Giêsu đã vạch ra cho nhân loại bí quyết của hạnh phúc và bình an đích thực khi sống và thuộc trọn về Thiên Chúa mà thôi. Đây là chân lý nền tảng của cuộc sống mà Giáo Hội muốn mời gọi chúng ta đào sâu mỗi khi chúng ta trở lại với Mùa Chay. Cầu nguyện, ăn chay, hãm mình, thực thi bác ái, những thực hành này không nhằm một mục đích nào khác hơn là nhắc nhở chúng ta rằng, cùng đích của cuộc sống không phải là cuộc đời tạm bợ này nhưng là sự sống vĩnh cửu, nhờ sự kết hợp với Chúa chúng ta đã có thể cảm nghiệm được ngay từ trần gian này.

Kinh nghiệm hàng ngày không ngừng nói với chúng ta rằng, tiền của, quyền bính, danh vọng, lạc thú, không bao giờ mang lại hạnh phúc đích thực cho con người. Có tất cả mọi sự nhưng thiếu vắng Thiên Chúa trong tâm hồn thì con người không bao giờ có được hạnh phúc và bình an đích thực trong tâm hồn. Trái lại, khi sống cho Chúa, sẵn sàng như Tổ Phụ Abraham, từ bỏ mọi ràng buộc để được sống trọn cho Chúa thì con người mới thực sự sống sung mãn và tìm được bình an trong cuộc sống.

Mùa Chay, chúng ta được Giáo Hội mời gọi để duyệt xét sự chọn lựa căn bản của chúng ta, trong khi mưu tìm cuộc sống, chúng ta có đặt Chúa vào trọng tâm của cuộc sống hay không? Chúng ta có sẵn sàng từ bỏ tất cả những gì làm cho chúng ta xa lìa Chúa không? Chúng ta chỉ thực sự hạnh phúc và an vui nếu chúng ta trả lời một cách khẳng định cho những câu hỏi nền tảng ấy.

 

49.             Biến hình – Richard Gutzwiller.

(Trích trong ‘Suy Niệm Tin Mừng Matthêu’)

Quang cảnh trên núi biến hình tiên báo về Thiên đàng. Đức Kitô đã nói trước rằng: Nhiều người sẽ không chết trước khi thấy Con Người trong vinh quang. Lời này bây giờ đã hoàn toàn được thực hiện, nhưng chỉ trong khoảnh khắc, giống như một tia sáng leo lét của ánh lửa bùng lên rồi mất hút trên bờ vắng. Đoạn văn Thánh này chia làm hai phần rõ rệt:

PHẦN THỨ NHẤT: Đầy vẻ huy hoàng rạng rỡ của Thiên Chúa. Ba môn đệ được chiêm ngắm ánh sáng mỹ miều này: Trước hết Phêrô, viên chức đầu tiên của Giáo hội, người mà từ đây sẽ phải học ý nghĩa đau khổ theo Thiên Chúa và thay thế tư tưởng nhân loại bằng tư tưởng thần linh. Thứ đến Giacôbê, người tử đạo tiên khởi, hân hoan đổ máu làm chứng vì đã thấy vinh quang Chúa. Và cuối cùng Gioan, môn đệ yêu dấu sẽ phải học biết rằng, đau khổ là bằng chứng của tình yêu.

Họ thấy Chúa biến hình, mặt Ngài rực rỡ như mặt trời, áo Ngài trắng như tuyết. Hình dáng buồn tẻ của chân dung nhân loại hoàn toàn bị hủy diệt. Tất cả phát huy từ ánh sáng Thiên Chúa. Sau khi xác sống lại con người ta cũng mặc lấy xác thể, nhưng theo những luật sinh lý mới. Ánh sáng vẫn là vật chất nhưng chiếu tỏa với tính chất đặc biệt: Ánh sáng làm thân thể rạng ngời như người ta đã thấy nơi Đức Kitô vinh quang.

Môisen và Êlia xuất hiện. Môisen cứu dân khỏi ách nô lệ Ai Cập, hướng dẫn họ qua sa mạc, trao truyền cho họ luật pháp và giao ước của Đấng Thánh siêu phàm. Tuy nhiên, ông chỉ được phép ngắm nhìn Đất Hứa từ xa. Lúc này ông được gần Đức Kitô, chính Ngài sẽ giải thoát không những riêng dân Do Thái, nhưng toàn thể nhân loại khỏi ách nô lệ ma quỷ. Chính Ngài hướng dẫn họ cách vô ngộ qua sa mạc cuộc đời tạm gửi. Ngài ban cho họ giới răn tình yêu tân kỳ trong Giao Ước Mới của Giáo hội. Là Môisen đích thực, Ngài dẫn dắt Dân Chúa vào Đất Hứa đích thực, để thực hiện cuộc biến hình muôn thuở.

Êlia là người thứ nhất trong các đại tiên tri. Người đã cấm không được dành cho Baal là thần trái đất những quyền lợi như Thiên Chúa. Chỉ có Thiên Chúa mới là Chúa tể của trời cao và vũ trụ.

Trước hết, người đã thay việc phục vụ các ngẫu tượng bằng việc phục vụ Thiên Chúa. Với tư cách là kẻ vô địch của Thiên Chúa, người đã đương đầu với dân Do Thái. Rồi đây, Đức Kitô đến để giúp con người khỏi rơi vào thảm họa diệt vong của trần tục, vật chất, xác thịt. Ngài đem đến cho họ nước của Thiên Chúa, là Cha trên trời. Chính Ngài cũng đã đánh bại Hêrôđê và đại diện của đế quốc Rôma. Êlia làm chứng về Ngài vì theo lời Kinh Thánh dạy, đại tiên tri được nâng lên trời rồi trở lại dọn đường cho Chúa. Người đây, sẵn sàng đóng vai trò dọn đường cho Chúa lên trời, trong cảnh biến hình. Vậy luật pháp và các tiên tri cùng hòa hợp làm chứng. Từ nay Phêrô thấy trước rằng, tình trạng biến hình như được thiết lập vĩnh viễn nên đã xin dựng lều để giây lát vinh hiển được trường tồn.

Đó là một thái độ dễ hiểu, vì con người đã được tạo dựng để hưởng niềm hân hoan. Đau khổ không thể là cùng đích của con người, nhưng đau khổ chỉ là một bước đường phải qua. Mỗi lần Chúa nói tiên tri về đau khổ, Chúa đã kết thúc bằng một ám chỉ về phục sinh vinh quang. Ở đây cuộc phục sinh vinh quang đã được tuyên bố như một yếu tố nền tảng của giáo lý về đau khổ. Ánh quang chói sáng của việc biến hình, tình trạng chìm ngập trong ánh sáng, sự chiêm ngắm hạnh phúc vĩnh cửu đã truyền trao cho các môn đệ một mãnh lực giúp họ cương quyết trên bước đường đau khổ. Họ sẽ nhìn về tương lai và chờ ngày Chúa đến giữa lúc sống cuộc đời dương thế.

PHẦN THỨ HAI: Đám mây bao phủ làm tăng vẻ oai nghiêm rỡ ràng. Trên núi Sinai, cảnh trí huyền ảo là dấu hiệu sự hiện diện của Thiên Chúa. Cũng như đám mây trước kia bao phủ ngọn núi, lúc này vẻ huy hoàng của Chúa bao trùm muôn vật. Các môn đệ phải tự tìm hiểu để cảm nhận trước được vẻ uy nghiêm của Thiên Chúa. Trên núi Sinai, phảng phất đám mây giông bão; ở đây áng mây rực sáng an bình thanh thoát. Trên núi Sinai vang dội các mệnh lệnh thần linh, vì Môisen là tôi tớ Thiên Chúa mà Do Thái phải vâng lời. Còn trên núi biến hình cung giọng nhiệm mầu không chỉ thị tôi tớ nhưng là ấm tử.

Như thế, những đòi hỏi nghiêm khắc được thay thế bằng sứ điệp yêu thương: Ở núi Sinai, trước vẻ uy nghiêm Thiên Chúa, dân chúng kinh hoảng rụng rời, ở đây, các môn đệ cũng sợ hãi chúi mặt xuống đất. Chúa Giêsu nâng họ dậy, và làm cho họ hết sợ. Từ nay họ biết rằng: với Ngài chung cục thời gian đã điểm; không phải tất cả sẽ bị hủy diệt, nhưng tất cả sẽ bị vượt qua. Chắc chắn giờ cáo chung sẽ điểm, báo hiệu một tai họa: Đau khổ, sự chết, Thánh giá sẽ hiện diện. Nhưng đây cũng sẽ là khởi điểm một thời đại mới quyết liệt khai mào ánh sáng và biến hình. Đức Kitô hiện đến khai mào thời cánh chung, nhưng thời gian ấy còn kéo dài. Trong giây lát, Chúa đã cho thấy vẻ huy hoàng của giờ phút hoàn tất với đầy vẻ trang trọng để các môn đệ không bao giờ quên. Họ được lệnh phải bảo vệ bí mật về biến cố dị thường vĩ đại này, cho tới lúc Con Người phục sinh từ cõi chết. Bấy giờ người đầu tiên trong những kẻ chết sẽ thức giấc, sống đời sống mới đích thực. Những người khác theo sau và cứ thế bắt đầu viên mãn thời gian chung kết.

Đức Kitô còn cao trọng hơn ngàn lần những gì các môn đệ, và cả Phêrô đã tuyên xưng hay cảm thức về Ngài. Nhưng chỉ có sự cao trọng siêu phàm, siêu thời gian và phổ biến thực sự trong cảnh trời mới, đất mới: lúc đó thời gian biến thành vĩnh cửu, định mệnh đau thương của con người biến thành hạnh phúc; vẻ cao trọng đó đã hiển hiện huy hoàng trên núi biến hình. Từ đỉnh núi đó, vẻ cao trọng này soi sáng mọi vực thẳm tối tăm của nhân loại.

 

50.             Biến hình trên núi Tabor

(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)

Tin mừng Mt 17: 1-9: Quá trình này diễn ra trong một thời gian dài, khoảng một trăm năm mươi ngày. Nó phải cố sức bay lên đỉnh núi và dựng tổ nơi vách núi cheo leo…

Người ta nói rằng trong số các loài chim thì chim ưng có tuổi thọ dài nhất; nó có thể sống đến 70 năm.

Nhưng nếu muốn sống thọ như vậy, chúng buộc phải có một chọn lựa quan trọng và rất khó khăn ở tuổi 40.

Khi sống đến 40 tuổi, móng vuốt của chim ưng bắt đầu lão hóa, không thể túm chặt được con mồi nữa.

Mỏ của nó trở nên vừa dài vừa cong, gần như đụng đến ngực.

Ngoài ra, cánh của nó cũng trở nên vô cùng nặng nề, khiến nó mất rất nhiều sức khi bay lượn.

Lúc này, nó chỉ có hai lựa chọn: một là đợi chết, hai là trải qua quá trình lột xác và tái sinh vô cùng đau đớn.

Quá trình này diễn ra trong một thời gian dài, khoảng một trăm năm mươi ngày. Nó phải cố sức bay lên đỉnh núi và dựng tổ nơi vách núi cheo leo.

Việc đầu tiên mà nó cần làm ở đó là mổ liên tục vào vách đá cho đến khi cái mỏ cũ của nó hoàn toàn tróc đi.

Sau đó, nó phải nằm chờ đến khi cái mỏ mới được mọc lại.

Tiếp theo, nó phải trải qua một quá trình đau đớn hơn – dùng cái mỏ mới nhổ từng cái móng cũ ra và chờ móng mới mọc lại.

Cuối cùng, nó phải nhổ đi từng chiếc lông vũ và tiếp tục chờ đợi để đám lông vũ mới mọc ra.

Đến lúc này, diều hâu mới có thể bay lượn lại và sống thêm ba mươi năm nữa.

(First News, Điều bình dị thông thái p.57-58)

Hôm nay ngày lễ Chúa Giêsu biến hình trên núi Tabor.

Chúng ta sẽ chẳng hiểu được dụng ý của Chúa Giêsu khi hiển dung trên núi Tabor, nếu chúng ta không đặt trong bối cảnh của sự kiện.

Sau khi Chúa Giêsu hỏi các môn đệ: vậy các con bảo Thầy là ai?

Simon Phêrô trả lời: Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống.

Tiếp đó, Chúa Giêsu nói về cái chết sắp đến của Người:

Thầy phải lên Giêrusalem, chịu nhiều đau khổ từ phía các trưởng lão, các thượng tế và các kinh sư, bị xử tử, và ngày thứ ba sống lại (Mt 16,21).

Nghe thế Phêrô đã can ngăn Chúa.

Cho tới lúc này các môn đệ vẫn chưa hiểu sứ vụ Messia của Chúa Giêsu.

Các ông theo Chúa và các ông vẫn thầm mong rằng khi Nước Chúa hiển trị các ông cũng sẽ được chia chác quyền lợi cũng như địa vị trong vương quốc của Chúa.

Chính vì vậy sáu ngày sau, Chúa Giêsu đem Phêrô, Giacôbê và Gioan lên một ngọn núi cao.

Chúa đã tỏ vinh quang của Người trước mặt các ông.

Và Phêrô đã thốt lên: Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm, nếu Thầy cho phép, chúng con xin dựng ba lều, một cho Thầy, một cho Môisê và một cho Elia.

Chính ở đây Phêrô hiểu ra rằng để được tham dự vào vinh quang của Chúa Phêrô phải chấp nhận con đường khổ giá mà Chúa Giêsu nói đến cách đây sáu ngày.

Để được tham dự vào sự sáng láng của Chúa trên núi Tabor, chắc chắn chúng ta cũng phải qua con đường thập của Chúa Giêsu.

Chính con đường thập gía, chúng ta sẽ được biến đổi, biến đổi để được tham dự vào sự sáng láng của Chúa trên núi Tabor.

Nhưng phải biến đổi như thế nào?

Chúng ta hãy nghe thánh Phaolô nói với tín hữu Êphêsô:

”Hãy lột bỏ con người cũ, mặc lấy con người mới.

Hãy để Thần Khí Thiên Chúa canh tân đến tận tâm linh của anh em” (Ep 4,22.24).

Phải  lột bỏ con người cũ như thế nào?

Hình dung lại những giai đoạn lột xác của chú chim ưng chúng ta sẽ thấy:

– Trước hết nó mổ liên tục vào vách đá để cho lớp mỏ già cũ tróc đi.

Quả là một hy sinh đau đớn và tốn nhiều công sức.

– Sau đó lại phải dùng chính cái mỏ mới này để rút những móng vuốt già cũ của đôi chân. Một tác động phải can đảm lắm.

– Sau cùng phải rút tỉa những chiếc lông già cũ.

Công việc này chắc chắn sẽ làm chú chim ưng ê ẩm đau nhức một thời gian khá dài.

Chú chim ưng chỉ muốn kéo dài kiếp sống thêm 30 năm mà còn phải chấp nhận 150 ngày thử thách đau thương, phương chi là con người chúng ta, từ một con người yếu đuối, tội lỗi để đi vào sự chia sẻ thiên tính vinh quang của Thiên Chúa, thì chúng ta cũng phải trải qua những giai đoạn lột xác như con chim ưng.

Lột bỏ con người cũ, mặc lấy con người mới.

Và để Thánh Thần Thiên Chúa canh tân đến tận tâm hồn chúng ta.

Lạy Chúa, chúng con muốn theo Chúa lúc Chúa biến hình trên núi Tabor, nhưng chúng con lại muốn dừng lại bên ngòai vườn Cây Dầu, và không muốn trèo lên núi Canvê.

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết mạnh dạn theo Chúa trên con đường Chúa đã đi, con đường thập giá, con đường dẫn lên Núi Sọ. Amen.

 

51.             Con yêu dấu

Này là Con Ta yêu dấu. Đọc lại Phúc âm, chúng ta thấy Chúa Cha đã tuyên phong Đức Kitô là con yêu dấu của mình những hai lần.

Thực vậy, lần thứ nhất là bên bờ sông Giócđan, khi Đức Kitô đến lãnh nhận phép rửa của Gioan Tiền hô. Phúc âm đã ghi lại khi Ngài lên khỏi nước, thì trời mở ra, Thánh Thần Chúa lấy hình chim bồ câu đổ xuống và từ trời có tiếng phán:

– Này là Con Ta yêu dấu.

Lần thứ hai là trên đỉnh Taborê như chúng ta vừa nghe đọc. Hôm ấy Chúa Giêsu dẫn ba môn đệ thân tín nhất lên đỉnh núi Taborê, tại đây Ngài đã biến hình trước mặt các ông, áo Ngài trở nên trắng như tuyết, rồi lại có Môisê và Êlia đến đàm đạo với Ngài. Giữa lúc ấy có một đám mây bao phủ rồi từ trong đám mây có tiếng phán:

– Này là Con Ta yêu dấu.

Thế nhưng, đâu là cái bí quyết làm cho Đức Kitô trở thành người con yêu dấu của Chúa Cha. Xin thưa:

– Cái bí quyết ấy rất đơn giản đó là Đức Kitô luôn làm vui lòng Chúa Cha, hay nói một cách khác, Đức Kitô luôn vâng theo thánh ý của Chúa Cha.

Thực vậy, vì vâng theo thánh ý Chúa Cha mà Đức Kitô đã xuống thế làm người, sinh ra giữa đêm đông giá lạnh, lớn lên trong cảnh nghèo túng cơ cực. Rồi trong cuộc đời công khai, nỗi băn khoăn số một của Ngài là tìm biết và thực thi thánh ý Chúa Cha, như Ngài đã xác quyết với các môn đệ bên bờ giếng Giacob:

– Của ăn của Ta là làm theo thánh ý Cha Ta.

Đỉnh cao tuyệt vời nhất của sự vâng phục đó là cái chết trên thập giá như lời thánh Phaolô đã viết:

– Ngài đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá.

Còn đối với chúng ta thì sao? Khi lãnh nhận bí tích Rửa tội, chúng ta được trở nên con Thiên Chúa. Chúng ta giống như Môisê, sau ngày được vớt lên khỏi nước. Thực vậy, trước kia Môisê là một người phải chết, và nếu có sống thì cũng chỉ sống một kiếp sống nô lệ đọa đầy… Còn sau khi được vớt lên khỏi nước, Môisê được nàng công chúa nhận làm con nuôi và có một địa vị sáng chói.

Cũng thế, trước khi được rửa tội chúng ta là những kẻ phải chết do hậu quả của tội Adong, nhưng sau khi được vớt lên khỏi nước do bí tích rửa tội chúng ta trở thành con cái Thiên Chúa và có quyền thừa hưởng gia nghiệp nước trời.

Bởi đó chúng ta phải cám ơn Thiên Chúa vì đã dành cho chúng ta cái địa vị cao cả ấy. Chúng ta hãy suy nghĩ như bà già nhà quê mỗi khi đọc kinh lạy Cha:

– Lạy Chúa, Chúa là ai mà con là ai. Chúa là Đấng tạo hóa quyền năng, còn con chỉ là một bà lão già nua xấu xí, thế mà Chúa ban cho con một đặc ân cao cả, đó là được gọi Chúa là Cha.

Cám ơn Chúa mà thôi chưa đủ. Hãnh diện về địa ấy mà thôi chưa đủ. Điều quan trọng là chúng ta phải sống đúng cái địa vị cao cả ấy, nghĩa là chúng ta phải trở nên là những người con ngoan, là những người con yêu dấu của Chúa.

Muốn được như thế chúng ta hãy noi gương bắt chước Đức Kitô, bằng cách luôn vâng theo thánh ý Chúa Cha. Một đứa con ngoan sẽ không phải là một đứa con vùng vằng cãi trả mỗi khi cha mẹ sai bảo điều gì. Trái lại, phải là đứa con mau mắn vâng nghe những lời chỉ bảo ấy.

Bởi đó, để trở thành những người con ngoan của Chúa, chúng ta cũng phải mau mắn và vui vẻ vâng theo thánh ý Chúa Cha, thánh ý ấy được biểu lộ qua tiếng nói lương tâm, qua mười giới răn, qua Tin mừng Phúc âm và qua những điều giáo huấn của Hội Thánh.

Có mau mắn vâng nghe thánh ý Chúa Cha, thì rồi Chúa Cha mới tuyên phong chúng ta như đã tuyên phong Đức Kitô trên đỉnh Taborê:

– Này là Con Ta yêu dấu.

 

52.             Khuôn mặt ngời sáng – Thiên Phúc

(Trích trong “Như Thầy Đã Yêu”)

Một vị ẩn sĩ nọ suy niệm và chay tịnh đến độ suốt ngày không động đến thức ăn, ai ai cũng thấy có một ngôi sao xuất hiện giữa ban ngày, đó là dấu hiệu trời cao chấp nhận lễ hy sinh của ông.

Ngày nọ, vị ẩn sĩ quyết định leo lên núi cao. Ông muốn vươn lên cao hơn trong sự khổ chế. Vừa lúc ông đang leo núi, thì một cô bé trong làng chạy tới xin đi theo. Không thể từ chối được, vị ẩn sĩ đành để cho cô bé đi cùng. Họ ra đi khi mặt trời vừa lên. Nhưng không mấy chốc, ánh nắng mỗi lúc một chói chang, cả vị ẩn sĩ lẫn cô bé đều cảm thấy khát nước. Vị ẩn sĩ vẫn cố gắng khắc phục cơn khát của mình, nhưng ông lại giục cô bé hãy uống nước. Vị ẩn sĩ không uống nước vì lời thề của mình, còn cô gái không nỡ uống một mình.

Họ càng đi, cơn khát càng dằn vặt. Đến một lúc vị ẩn sĩ không nỡ nhẫn tâm nhìn thấy cô bé phải quằn quại trong cơn khát. Ông đành lỗi lời thề. Ông cầm lấy nước đưa lên miệng và cô bé cũng mỉm cười uống nước với ông.

Sau khi đã uống nước, vị ẩn sĩ không dám nhìn lên trời cao nữa. Ông cứ đinh ninh rằng vì sao hiện ra mỗi ngày như một chứng giám cho sự khổ chế của ông, giờ đây có lẽ đã biến mất. Thế nhưng, khi ông ngước mắt nhìn lên đỉnh núi. Ngạc nhiên biết chừng nào, hai vì sao đang chiếu sáng như mỉm cười với ông.

Sau khi đã chay tịnh nhiều ngày và chấp nhận vươn lên cao trong sự khổ chế, vị ẩn sĩ đã được trời cao chứng giám bằng cách cho một vì sao ngời sáng giữa ban ngày.

Đức Giêsu sau khi chấp nhận cuộc khổ nạn, quyết tâm thi hành thánh ý Cha, liền được “biến hình đổi dạng” trên núi cao. “Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng” (Mt 17,2). Người còn được Chúa Cha chứng giám cho việc Người chấp nhận khổ giá vì yêu Cha và vì yêu nhân loại tội lỗi, bằng một lời ngợi khen long trọng: “Đây là con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người” (Mt 17,5”.

Đức Giêsu biến hình sáng láng trước mặt ba môn đệ thân tín, là để các ông cảm nghiệm được trước vinh quang Phục sinh của Người. Cũng là để dọn lòng trí các ông dễ dàng đón nhận cuộc khổ nạn cà cái chết thương đau của Người trên thập giá sau này. Vì qua đau khổ mới tới vinh quang. Có khổ nhục ngày thứ Sáu Tuần Thánh, mới rạng rỡ sáng Chúa nhật Phục sinh.

Người kitô hữu chỉ có thể biến hình đổi dạng khi họ sẵn lòng cùng vác thánh giá lên đồi Canvê với Đức Kitô.

Người Kitô hữu chỉ có thể bừng sáng rạng ngời khi họ dám hy sinh bản thân để hiến dâng cho Thiên Chúa và tha nhân bằng một tình yêu trao ban vô vị lợi.

Chúng ta sẽ nhận ra khuôn mặt ngời sáng của Đức Kitô khi chúng ta đón nhận khuôn mặt đau khổ của anh em.

Chúng ta sẽ minh họa được khuôn mặt sáng láng của Đức Kitô khi chúng ta luôn mang khuôn mặt vui tươi, an bình và hạnh phúc.

Người tín hữu thường nếm vinh quang Tabo chẳng bao nhiêu, nhưng đón nhận gian nan Núi Sọ lại rất nhiều. Tuy thế họ vẫn vui tươi và thanh thản, an bình và hạnh phúc? Phải chăng họ đã cảm nghiệm được khuôn mặt ngời sáng của Đức Kitô trong cuộc đời mình. Như người lực sĩ điền kinh nhắm chiếc huy chương vàng mà gắng sức về đích để giành phần thắng, thì người tín hữu Kitô cũng phấn đấu vượt qua những chặng đường thánh giá cuộc đời, để đạt được phần thưởng vô giá là vinh quang Phục sinh rạng ngời.

Mùa Chay là mùa sám hối và canh tân. Sám hối – Canh tân là bỏ đi con người tự mãn tự kiêu để mặc vào con người nhu mì khiêm tốn, là tháo gỡ khuôn mặt u mê tội lỗi để nhận lại khuôn mặt ngời sáng thánh thiện, là tẩy chay tâm địa ích kỷ để đón nhận tinh thần phục vụ yêu thương.

Nước mắt sám hối khép lại quá khứ để mở cửa tương lai. Nước mắt sám hối luôn tẩy sạch tội lỗi. Nước mắt sám hối bao giờ cũng có giá trị trong sự tha thứ.

Canh tân là lao mình về phía trước, trong niềm vui đổi mới. Lúc đó, chúng ta không cần đi tìm mùa xuân, vì chính chúng ta đang làm nên mùa xuân cho cuộc đời.

 

53.             Vẻ đẹp của phẩm giá con người

(Suy niệm của Lm. Antôn Hà Văn Minh)

Tin mừng Mt 17: 1-9: Biến cố biến hình trên núi Tabor của Chúa như một lời minh định về phẩm giá của con người, một phẩm giá được Chúa trao ban và qua đó con người được thần hoá…

SUY NIỆM

Khi nhân loại bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của sự phát triển khoa học kỹ thuật cách vượt trội, thìon người kỳ vọng về một cuộc sống hạnh phúc hơn, an bình hơn. thế nhưng sự kỳ vọng luôn là một ước mơ xa vời, cho dẫu y khoa có tiến bộ đó, nhưng con người  vẫn luôn đối diện với những căn bệnh ngặt nghèo mà không có một phương thuốc chữa trị được; cho dẫu khoa học kỹ thuật đang nỗ lực tạo ra cho con người những tiện nghi để cuộc sống đỡ vất vả hơn, thế nhưng cuộc sống của con người vẫn luôn đầy dẫy khó khăn; sự văn minh có tiến bộ đó, nhưng đời sống con người luôn ở trong tình trạng bất an. Sự bất an đó không chỉ đến từ mối lo về vệ sinh an toàn thực phẩm, về an ninh xã hội…, nhưng trên hết chính là sự vô cảm ngày càng phát trển nơi cộng đồng xã hội về việc tôn trọng phẩm giá con người.

Con người trong thế kỷ tiến bộ nầy đã biến thành phương thế kiếm tiền cho các tổ chức tội phạm như nạn bắt cóc trẻ em để buôn bán nội tạng hoặc biến thành nô lệ tình dục cho những người nhiều tiên nhiều bạc nhưng bệnh hoạn, nạn buôn bán phụ nữ cho các quán lầu xanh để phục vụ cho những con người chỉ tìm thoả mãn nhục thú, và nhất là sự sống con người càng ngày càng bị khinh rẻ, cho nên người ta đã không gớm tay khi phá thai, hoặc ra tay giết chết đồng loại. Người thời đại hầu như không còn nhận ra đặc tính thần linh nơi con người, mà hầu như chỉ còn coi sự hiện hữu của con người giống như bao sinh vật khác, và vì thế phẩm giá con người bị chà đạp cách thô bỉ.

Biến cố biến hình trên núi Tabor của Chúa như một lời minh định về phẩm giá của con người, một phẩm giá được Chúa trao ban và qua đó con người được thần hoá. Nhờ phẩm giá đó mà con người được Thiên Chúa yêu thương và được gọi là con. Quả thật, lời Kinh Thánh đã minh xác: Đức Kitô đã mặc lấy thân xác con người như chúng ta, nghĩa là một thân xác được cấu tạo từ bụi đất, mỏng dòn và hư hoại. Nhưng thân xác đó đã được Đức Kitô biến đổi để trở nên chói lọi như mặt trời, có nghĩa là thân xác đó được dự phần vào vinh quang của Thiên Chúa. Và điều đó thắp lên cho chúng ta niềm hy vọng về sự vinh quang mà thân xác của chúng ta sẽ được dự phần.

Niềm hy vọng đó không là chuyện hão huyền, bởi Đức Kitô đã trở thành trưởng tử của đàn em đông đúc, cũng có nghĩa là người anh cả không để đàn em hư mất, nhưng trái lại người anh ở đâu thì đàn em cũng ở đấy. Vì thế, cuộc biến hình trên núi của Chúa là lời mời gọi chúng ta bước theo Người để cùng được biến đổi như Người. Con đường theo Chúa, chính là con đường của Thập Giá, con đường của hy sinh, của từ bỏ lối sống hưởng thụ ích kỷ, để yêu thương và biết xót thương.

Lạy Chúa, xin dạy chúng con biết tôn trọng phẩm giá của chính mình và của ngừoi khác để chúng con luôn biết điểm tô cho phẩm giá bẳng tình yêu thương, và sự dấn thân phục vụ thiện ích cho nhau. Amen.

 

54.             Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long

CHIÊM NGẮM VINH QUANG THẦN TÍNH CHÚA TIỀN PHỤC SINH

Trận siêu động đất và sóng thần hôm 11.3 vừa qua đã làm cho Nhật Bản, một đất nước từng thịnh vượng thứ hai thế giới, phải chao đảo. Nhiều thành phố hoang tàn đổ nát; một số thị trấn bị xoá sổ; nhiều người mất nhà cửa, tài sản, người thân, lang thang trong vô vọng. Chỉ trong phút chốc tất cả đều bị thuỷ thần cuốn phăng ra biển.

Các bản tin liên tục cập nhật con số thương vong theo chiều hướng ngày một tăng làm cho nhiều người choáng váng. Đặc biệt là tin tức dự báo về các dư chấn mạnh sẽ còn xảy ra nhiều trong thời gian sắp tới, cũng như tin về mức độ phát tán chất phóng xạ nguy hiểm trong không khí từ các lò phản ứng hạt nhân bị nổ hay bị hư hỏng… Tất cả đã tạo ra một bầu khí hoang mang và ảm đạm bao trùm toàn thể nước Nhật, kể cả thủ đô Tokyo, một thành phố hiện đại bậc nhất của xứ sở Hoa Anh Đào. Đối diện với hiểm nguy rình rập từ các vụ dư chấn, nhất là phóng xạ hạt nhân, các du học sinh sinh viên và kiều bào nước ngoài sinh sống tại Nhật đã phải tìm cách tháo chạy khỏi nước Nhật càng sớm càng tốt. Còn người dân bản xứ cảm thấy hoang mang và lo sợ não nề.

Trước lời loan báo về viễn tượng đen tối của cuộc thương khó Chúa Giêsu, tâm trạng của các môn đệ có lẽ cũng hoang mang và lo sợ não nề không kém người dân Nhật hiện nay. Lo sợ vì khi Chúa Giêsu cho biết Ngài sẽ phải đương đầu với sự bắt bớ, bách hại, các ông không còn nhìn thấy được đâu là đấng cứu tinh mà muôn dân đang trông đợi. Hoang mang vì khi sắp sửa phải đối mặt với thập giá Chúa Giêsu, các ông chẳng còn nhận ra được đâu là thần tính của đấng mà các ông nhiều lần gọi là Chúa. Não nề vì khi chạm trán với viễn tượng chết chóc, các ông chẳng còn hình dung được đâu là sự sống đời đời mà Thầy mình đã từng cao rao.

Hiểu rõ nỗi lòng của các môn sinh, Chúa Giêsu đã khéo léo đưa họ lên núi để họ được chiêm ngưỡng một biến cố đặc biệt đầy ý nghĩa, biến cố mở ra cho họ một viễn tượng mới tràn đầy hy vọng: Biến Cố Hiển Dung.

  1. Hiển dung, biến cố chứng thực cho sự sống sau cái chết.

Quan niệm của người Dothái về sự sống lại, và sự sống sau cái chết vẫn còn có nhiều bất đồng và mơ hồ. Thậm chí nhóm Sađốc còn chủ trương không tin là có sự sống lại. Tuy nhiên, trong biến cố hiển dung, sự xuất hiện rạng ngời vinh hiển của hai nhân vật quá cố thời Cựu ước xa xưa là Môisê và Êlia, như một bằng chứng hiển nhiên và chắc chắn nói cho các môn đệ rằng có sự sống lại và sự sống sau cái chết. Nói cách khác, qua biến cố hiển dung, Chúa Giêsu muốn nói với các môn đệ rằng các ông cứ tin tưởng có thế giới bên kia, nơi mà hai vị đại ngôn sứ đang sống hạnh phúc ngập tràn. Và rằng các ông cứ an tâm Thầy của họ có chết thì cũng sẽ phục sinh vinh quang.

  1. Hiển dung, biến cố biểu lộ vinh quang thần tính của Đức Kitô.

Trong cuộc sống thường nhật, Chúa Giêsu thường chỉ biểu lộ nhân tính của Ngài là một con người như mọi người, ngoại trừ tội lỗi. Còn thần tính của Ngài vẫn còn ẩn dấu, ẩn dấu trong một thân xác nghèo hèn dân dã.

Thế nhưng, qua biến cố hiển dung, vinh quang Thiên Chúa, tức thần tính của Đức Giêsu tỏ hiện rõ nét và rạng ngời. Rõ nét đến độ, thánh Mathêu mô tả là các môn đệ choáng ngợp, té sấp mặt xuống đất: “Dung nhan Ngài chói lọi như mặt trời, y phục Ngài trắng sáng như tuyết”. Rạng ngời đến nỗi các môn đệ chỉ còn muốn sống mãi trên núi với Chúa mà thôi. Chính thánh Phêrô xác nhận điều này: “Lạy Thầy, chúng con ở đây thì tốt lắm lắm. Nếu Thầy muốn, con xin làm 3 lều”. Trong một bài suy niệm của mình, Đức Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt cũng đã viết: “Thần tính Chúa Giêsu biểu lộ chứng thực Người là Thiên Chúa ẩn mình. Thì ra manh áo đơn sơ của bác thợ mộc che dấu cả một nguồn ánh sáng chói lọi. Tâm thân dân dã nghèo hèn lại là chiếc bình chứa đựng Ngôi Hai Thiên Chúa cao sang”.

  1. Hiển dung, biến cố khích lệ niềm tin cho các môn đệ trước viễn tượng cuộc thương khó của Thầy mình.

Chúng ta thấy rằng khi Chúa Giêsu bị bắt, ít là có hai trong ba môn đệ (Phêrô, Giacôbê và Gioan) đã từng chứng kiến biến cố hiển dung đã không bỏ trốn như các môn đệ khác. Điều này chứng tỏ niềm tin của ba môn đệ này được củng cố rất nhiều, nhờ thấy trước vinh quang phục sinh của Đức Giêsu. Đối tượng cụ thể của niềm tin đó chính là Đức Kitô, Con Một Yêu Dấu của Chúa Cha trên trời. Và vì tin vào Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai, là Con Thiên Chúa, các ông cần phải lắng nghe lời dạy của Ngài: “Đây là Con Ta yêu dấu. Các Ngươi hãy nghe lời Ngài”. “Lời Ngài” mà Chúa Cha muốn nói ở đây là lời Chúa Giêsu loan báo về cuộc thương khó tử nạn và phục sinh của Người. Lời Ngài ở đây là lời tiên báo về sự bắt bớ, tra tấn, đánh đập và bị giết chết nhục nhã trên Thánh Giá. Nghe để không bị chao đảo, nghe để không bị mất đức tin trước những thử thách nặng nề như thế.

ĐTC Bênêdictô XVI, trong Sứ điệp Mùa Chay 2011, đã nói: “Tin Mừng về cuộc Hiển Dung của Chúa đặt trước mắt chúng ta vinh quang của Chúa Kitô, báo trước cuộc phục sinh và loan báo sự thần hóa con người Kitô hữu. Ngài mời gọi chúng ta hãy ý thức mình cũng được dẫn lên núi cao như các Tông Đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan, để tái đón nhận món quà Ân Sủng của Thiên Chúa là Chúa Kitô” (số 2). Trong ý nghĩa đó, một khi đối diện với những bế tắc, nghiệt ngã trong cuộc sống vô thường ở đời này, chúng ta được mời gọi hãy chiêm ngắm biến cố Hiển Dung để hy vọng, để cậy trông vào một cuộc sống vĩnh phúc đích thực mai sau, cuộc sống mà Chúa đã hứa ban cho tất cả những ai tin vào Người. Hơn nữa, chúng ta còn được gọi mời khi gặp những đau thương thử thách của thập giá, hãy hướng lòng trí lên Đức Kitô vinh quang trên núi Taborê để được khuyến lệ, để được vấn an hầu có thể vượt qua được những thử thách đau thương ấy trong đời. Amen.

 

55.             Núi vinh quang

Trong mùa Chay, mùa dẫn đưa chúng ta tiến về cuộc Khổ nạn, phụng vụ mang lại cho chúng ta một giây phút an ủi mà Thiên Chúa muốn đưa đến cho các tông đồ đang trong cơn rối loạn. Vào giai đoạn này của cuộc đời công khai của mình, Chúa Giêsu cảm thấy nổi lên quanh Ngài sự thù địch của những người lãnh đạo tôn giáo và sự thất vọng của dân chúng đang chờ đợi một vị Vua Cứu Thế. Từ nay Ngài sẽ dành thì giờ cho việc đào tạo các môn đệ của Ngài, nhưng chính các ngài cũng mất phương hướng. Các tông đồ nói với Ngài: “Thầy là Đấng Cứu thế!” và Ngài trả lời: “Phải, nhưng Thầy sẽ phải chịu đau khổ”. Các tông đồ thắc mắc về con người kỳ lạ này, một con người dường như nhiều quyền năng như thế mà lại nói đến việc phải chịu đau khổ.

Chính Thiên Chúa sẽ nói với các tông đồ của mình đang đứng trên bờ hoài nghi: “Con người đang hiển dung này là Con Ta!”

Việc hiển dung là một ân sủng của mạc khải. Bằng tất cả các phương tiện, văn phong hùng tráng, cái nhìn, tiếng nói, biểu tượng, tác giả Tin Mừng muốn làm cho chúng ta thấy được vinh quang của Chúa Giêsu: Ngài “là thân phận Thiên Chúa” (Pl 2,6), như thánh Phaolô đã nói. Đám mây chính là dấu hiệu của Thiên Chúa, y phục trắng và khuôn mặt chói sáng như mặt trời cũng thế. Núi, cùng với Môisê và Êlia, nhắc lại sự mạc khải trên núi Si-nai. Đấng sẽ phải chịu đau khổ đúng là một con người như chúng ta, nhưng được biến đổi do mầu nhiệm ở trong. Chúa Cha ở trong Chúa Con và Chúa Con ở trong Chúa Cha. Một chốc lát được vén mở: vinh quang của Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng Ngài đến từ trời, Ngài là Đấng Cứu thế duy nhất, Ngài sẽ tái lâm trong vinh quang này và làm cho chúng ta thành những người được biến đổi.

Đôi khi chúng ta cần phải lên đường với Phêrô, Giacôbê và Gioan hướng tới núi vinh quang. Mầu nhiệm của Chúa Giêsu, vừa là Thiên Chúa vừa là con người, sẽ luôn luôn vượt khỏi trí khôn chúng ta, nhưng lời ánh sáng này “Đây là Con Ta yêu dấu” làm cho chúng ta ngẵm nghĩ về điều cốt lõi này là chúng ta được yêu thương. “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban chính Con Một mình” (Ga 3,16). Và đây tình yêu đã làm điều này: Người Con duy nhất không những đến cư ngụ ở trên trái đất mà còn cư ngụ trong cuộc đời của chúng ta nữa. Điều đó làm cho thân phận làm người sáng giá biết bao! Chắc chắn những hình ảnh nặng nề, trống rỗng, đau khổ và thất vọng nhanh chóng hiện ra khi chúng ta nói: “Đời là thế!”. Chúng ta tìm gặp lại các hình ảnh đó khi chúng ta nói lại về việc hiển dung được Matcô và Luca chứng kiến: chúng ta bất cần Vinh quang, kẻ được biến đổi sớm muộn gì rôì cũng bị biến dạng.

Nhưng Chúa Cha long trọng tuyên bố rằng người này là Con của Ngài để chúng ta biết rằng dầu sao tất cả những gì có thể đến với Ngài và đến với chúng ta, Ngài vẫn là Mặt trời của thế giới ngay từ bây giờ, và Ngài sẽ là Mặt trời của thế giới trong tương lai. Chúa Hiển dung, bằng một tia chớp ngắn ngủi, đưa chúng ta ra khỏi những mặt trái thô ráp của cái mà chúng ta đang sống: “Hãy nhìn vinh quang của bạn trong vinh quang của Ngài”.

 

56.             Mặt Người chiếu sáng như mặt trời

(Suy niệm của Lm Paul – Maurice Lâm Thái Sơn)

Cách chung, người Việt Nam chúng ta rất sùng đạo, vì thế mỗi khi nghe có một phép lạ xảy ra hoặc được biết Đức Mẹ (hay một Đấng Thánh) hiện ra tại nơi nào đó thì lập tức từng đoàn người ùn ùn kéo đến để cầu nguyện để xin ơn. Tại sao? Tại vì rất phù hợp với mộng ước sâu xa của bao người tín hữu, đó là “gặp được Thiên Chúa” (Thiên Chúa, Đức Mẹ, hay một đấng Thánh nào đó) và được nói chuyện… hoặc ít ra cũng được chứng kiến cuộc độc thoại, như chuyện ông Stêphanô ở nhà thờ Bình Triệu trong những năm 75-78 tại Sài Gòn.

Tuy nhiên, sau những lần như vậy thì phần đông hoặc thất vọng hoặc hoang mang, để rồi những câu hỏi được đặt ra: tại sao Thiên Chúa phải trốn tránh chúng ta? Tại sao Đức Mẹ không hiện ra cho chúng ta được thấy để thêm lòng tin nhiều hơn?

Các môn đệ đã từng sống và nghe Chúa Giêsu giảng dạy, đã bao lần các ông cùng đi với Ngài trên khắp các thôn làng xứ Giuđêa, các ông tưởng rằng đã biết rõ Đức Thầy của mình… nhưng rồi một ngày kia, điều mà Phêrô, Giacôbê và Gioan khám phá trên một núi cao đó là một hiện tượng lạ lùng: các ông được chứng kiến Thiên Chúa đang gần gũi các ông qua sự biến hình của Đức Giêsu, “mặt Ngài chiếu sáng như mặt trời và áo Ngài trở nên trắng như tuyết, có Maisen và Êlia hiện ra đàm đạo với Ngài”.

Mặc dù Thiên Chúa vô hình, nhưng đôi khi Ngài cũng tỏ hiện qua những dấu chỉ bên ngoài, qua những hiện tượng vũ trụ mang nhiều ý nghĩa tượng trưng. Theo như Cựu Ước: một bụi cây cháy bừng nhưng không bị thiêu rụi, mạc khải cho Maisen biết rằng Thiên Chúa là Thanh Khiết và Chí Thánh; cột mây ban ngày và cột lửa ban đêm dẫn đường cho dân Hy Bá Lai trốn khỏi xứ Ai Cập biểu lộ Thiên Chúa là Ánh Sáng và Hiện Hữu; còn Vinh Quang và Quyền Năng Thiên Chúa cũng được bày tỏ qua sức mạnh của lửa và sấm sét trên đỉnh núi Sinai khi Ngài lập Giao Ước với dân Ít Diên. Và trong Tân Ước: sự tỏ hiện quan trọng nhứt chính là sự Biến Hình của Đức Giêsu trước mặt 3 môn đệ. Theo như Kinh Thánh, núi cao là nơi đặc ưu giữa đất trời liên hệ với nhau, nơi mà loài người cảm thấy sự nhỏ bé của mình trước tầm vóc vĩ đại của vũ trụ. Qua gương mặt rực rỡ và tà áo chói loà, Đức Giêsu tỏ hiện trong hai bản tính vừa là Thiên Chúa và cũng vừa là con người. Sự hiện diện của Ngài giữa Maisen (biểu tượng cho Lề Luật được ban trên núi Sinai) và Êlia (tượng trưng các tiên tri loan báo Đấng Thiên sai) nói lên sự gặp gỡ giữa Cựu Ứơc và Tân Ước, cả hai ông là chứng tá cho quá khứ tán dương Đức Giêsu Kitô vinh hiển mai sau.

Sự biến đổi hình dạng của Đức Giêsu mang ý nghĩa là cuộc sống hạnh phúc có thể có ngay từ trần gian này. Sự biến hình đó có thể biến đổi chúng ta, và từ đó ta có thể biến đổi kẻ khác: khi mà chúng ta biết biến đổi trong cuộc sống thường nhật bằng cách nhìn hoặc cách cư xử của chúng ta, từ ánh mắt tràn đầy thù hận ta biến đổi thành đôi mắt thương yêu trìu mến, từ lòng tham ích kỷ ta đối xử trong tin yêu chia sẻ, để ánh sáng trong ta và kẻ khác, đang bị chôn vùi trong hận thù và bạo lực giữa lòng đau khổ tuyệt vọng, được vùng lên sáng tỏa giúp tất cả luôn vui sống vương mắt mong đợi một Hạnh Phúc tỏa sáng không bao giờ tàn suy.

Nhưng tại sao “Chúa Giêsu ra lệnh cho 3 môn đệ không được nói với ai về việc đã thấy cho tới khi Con Người từ cõi chết sống lại”? Vì một trong những câu giải đáp là một khi Ngài tiết lộ căn tính Ngài là Con Thiên Chúa thì chính là lúc mà Ngài sẽ tự ký tên vào bản kết án chính mình. Nên nhớ lại lúc Ngài bị điệu ra trước Thượng Hội Đồng, thượng tế hỏi: “Ngươi có phải là Đức Kitô, Con Thiên Chúa không?” và câu trả lời xác nhận “đúng như các ông nói” sẽ làlý do kết án Ngài (Lc 23:66-71). Vì thế, trong 3 năm rao giảng Tin Mừng, có biết bao lần Ngài được những đám đông ca tụng và muốn đưa Ngài lên làm vua, sau những khi Ngài chữa lành các bệnh nhân hoặc hóa bánh ra nhiều để nuôi hàng vạn người, nhưng Đức Giêsu đã từ chối quyền uy và sức mạnh, Ngài quyết định thực hiện sứ mệnh thiên sai theo cách thế Thiên Chúa trong tinh thần khó nghèo và khiêm nhu. Vì vậy, Ngài rất dè dặt trong công trình, và căn tính của Ngài chỉ được tiết lộ vào cuối cuộc đời, trong giờ chiến đấu quyết liệt, lúc mà tính cách chân chính của sứ mệnh không còn phải che dấu mập mờ nhưng ngược lại cần bộc lộ minh bạch căn tính Ngài là Con Thiên Chúa, Đấng hằng sống, khi Ngài chiến thắng sự chết.

Ta đừng nên lẫn lộn Phúc Âm, sứ điệp của Đức Giêsu, với những chuyện phiêu lưu kỳ diệu mang tính cách thiên anh hùng ca. Có thể hầu hết chúng ta chưa bao giờ được diễm phúc chứng kiến những phép lạ, nhưng không vì thế mà chúng ta đành loại bỏ tất cả những gì được viết trong Kinh Thánh và cho đó là những chuyện được sáng tác theo nhu cầu và hoàn cảnh sống, cũng như đừng cho rằng Tôn Giáo chỉ là những điều tuyệt vời, những phép lạ phi phàm với những sự hiện ra hoặc những biến đổi hình dạng không liên can gì đến cuộc sống thường nhật. Chúa Giêsu không thể là kẻ pha trò hay nhà ảo thuật đối với chúng ta. Sự biến hình của Ngài mạc khải rằng con đường Ngài đi trên trần thế này phải vượt qua sự cô độc của thập giá trước khi đạt đến Vinh Quang.

Trong Mùa Chay, kinh nguyện, ăn chay và bố thí là những phương thế giúp chúng ta sống gần gũi Thiên Chúa. Những lần tham dự Thánh Lễ và lắng nghe Lời Chúa là những lần chúng ta sống biến hình kết hợp với Thiên Chúa và hiệp thông với các tín hữu của Giáo Hội hoàn vũ. Ước gì từ nay cuộc sống chúng ta được biến đổi để luôn phản chiếu ánh sáng của Đức Kitô cho mọi người khác.

 

57.             Nhỏ bé và tầm thường

 

Đoạn Tin mừng hôm nay kể lại rằng: Chúa Giêsu đem Phêrô, Giacôbê và Gioan lên một ngọn núi cao và tại đó, Ngài đã biến hình trước mặt các ông. Mặt Ngài chiếu sáng như mặt trời. Áo Ngài trở nên trắng tinh như tuyết. Rồi lại có Môisê và Êlia hiện ra và trò chuyện với Ngài.

 

Trước cảnh tượng huy hoàng ấy, Phêrô đã thốt lên: “Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm. Nếu Thầy muốn, con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môisê và một cho Êlia”.

 

Qua sự việc kể trên, chúng ta nhận ra một khuynh hướng chung cho mọi người, ở mọi nơi và trong mọi lúc. Đó là chúng ta vốn ưa thích những sự việc lạ lùng và khác thường.

 

Đúng thế, dân làng Nadarét đã khâm phục sự khôn ngoan của Chúa Giêsu, thế nhưng vì không thấy Ngài làm một phép lạ nào, nên họ đã tỏ ra bực bội tức tối và muốn xô Ngài xuống vực thẳm.

 

Dân Do Thái nhiều người đã muốn suy tôn Ngài lên làm vua, vì Ngài đã làm phép lạ cho bánh hóa nhiều để nuôi sống họ trong hoang địa. Thế nhưng, sau khi nghe Chúa Giêsu nói về một thứ của ăn thiêng liêng là Mình và Máu Ngài, thì họ đã lấy làm chướng tai gai mắt, nên đã bỏ Ngài mà đi. Và cũng chính họ trước tòa án Philatô, khi nhìn thấy vóc dáng thiểu não và thân hình tiều tụy của Ngài, đã không ngần ngại kêu gào:

  • Đóng đanh nó đi, đóng đanh nó vào cây thập giá.

 

Hêrôđê cũng vậy, ông ta muốn gặp Ngài chỉ vì tính hiếu kỳ, chỉ vì óc tò mò, mong được xem Ngài biểu diễn những trò ngoạn mục. Thế nhưng, khi thấy Ngài giữ thái độ yên lặng, thì ông đã cười nhạo và khoác cho Ngài một chiếc áo trắng để nói lên rằng Ngài chỉ là một tên điên khùng, mà trao trả Ngài lại cho Philatô.

 

Thái độ của Phêrô hôm nay cũng vậy. Trên đỉnh Tabôrê, ông đã say mê ngất ngây trướ cảnh tượng huy hoàng và ánh vinh quang của Chúa Giêsu. Thế nhưng, khi nghe Ngài nói về cuộc thương khó sắp xảy ra, thi ông đã lấy làm bực bội và lên tiếng can ngăn, khiến Ngài đã phải quở trách nặng lời: “Hỡi Satan, hãy xéo đi, vì ngươi chỉ biết những việc của người đời, mà chẳng biết chi đến những việc của Thiên Chúa”.

 

Rồi chính Phêrô trong sân nhà thầy cả thượng phẩm đã chối Chúa ba lần. Không hiểu trong lúc chối Chúa như vậy, ông có nhớ tới vinh quang Tabôrê nữa hay không?

 

Từ những điều vừa trình bày, chúng ta nhận thấy cách thức hoạt động của Thiên Chúa thật khác xa với cách thức hoạt động của chúng ta, đúng như lời Ngài đã nói: “Tư tưởng và đường nẻo của Ta không giống với tư tưởng và đường nẻo của các ngươi. Như trời cao hơn đất bao nhiêu, thì tư tưởng và đường nẻo của Ta cũng cao hơn tư tưởng và đường nẻo của các ngươi bấy nhiêu”.

 

Thực vậy, đang khi chúng ta đi tìm những sự vinh quang và những việc lạ lùng khác thường, thì Chúa lại dùng chính những cái nhỏ bé, những cái tầm thường và ngay cả những khổ đau, những thất bại và ngay cả cái chết tủi nhục của mình để cứu độ chúng ta.

 

Lịch sử đã cho chúng ta hay biết về sự thật này. Có ai tầm thường cho bằng Đavít, một cậu bé chăn chiên, thế mà Thiên Chúa đã dùng cậu bé này để thiết lập một triều đại mới, dẫn đưa dân Do Thái tới một thời đại hoàng kim và phồn vinh.

 

  • Có ai khiêm nhường cho bằng Maria, một thôn nữ âm thầm, thế mà Thiên Chúa đã dùng Mẹ để khởi đầu cho chương trình cứu thế.
  • Có ai đã thất bại cho bằng Chúa Giêsu với cái chết ê chề và nhục nhã trên thập giá, thế mà Ngài lại dùng chính khổ đau của thập giá để cứu chuộc chúng ta.

 

Và ngày hôm nay, Chúa vẫn còn tiếp tục nói với chúng ta qua những sự việc nhỏ bé, tầm thường và khiêm tốn như thế. Tuy nhiên, điều quan trọng đó là chúng ta có biết lắng nghe và thực thi ý định của Ngài được tỏ lộ qua những sự việc nhỏ bé, tầm thường và khiêm tốn ấy hay không?

 

58.             Phêrô

Qua đoạn Tin mừng hôm nay, chúng ta cùng nhau chia sẻ về thái độ của Phêrô.

Như chúng ta đã thấy: trước sự hiện diện của Môisê và Êlia cùng với ánh vinh quang bao phủ, Phêrô đã vui mừng hớn hở thưa lên:

– Lạy Thày, được ở đây thì tốt lắm. Nếu Thày muốn, chúng con xin làm ba lều.

Thế nhưng sau đó, cũng chính Phêrô đã lên tiếng can ngăn Chúa khi Ngài tiên báo về những khổ đau sẽ phải chịu, để rồi Ngài đã phải nặng lời quở trách:

– Hỡi Satan, hãy xéo đi, ngươi chỉ biết những việc thuộc về trần thế mà chẳng biết chi những việc thuộc về Thiên Chúa.

Rồi cũng chính Phêrô trong sân nhà thày cả thượng phẩm đã chối Chúa ba lần chỉ vì câu hỏi bâng quơ của một đứa nữ tỳ. Phải chăng thái độ của Phêrô cũng là thái độ của người đời như tục ngữ đã nói:

– Khi vui thì vỗ tay vào,

Đến khi hoạn nạn thì nào thấy ai.

Đúng thế, khi chúng ta có tiền và có quyền thì cũng thường có nhiều tình. Người xưa đã từng bảo:

– Bần cư chung thị vô nhân vấn, phú tại sơn lâm hữu khách tầm. Nghèo mà ở ngay giữa phố chợ thì cũng chẳng ai thăm, còn giàu mà ở tận chỗ núi cao rừng thẳm, thì vẫn khối người tìm đến.

Hay như tục ngữ cũng nói:

– Thấy người sang bắt quàng làm họ.

Thế nhưng khi tiền hết và quyền hết thì tình cũng thường chắp cánh bay cao:

– Hết cơm hết gạo hết ông tôi.

Không những hết tình mà đôi khi vào lúc sa cơ thất thế, những kẻ trước kia đã hàm ơn, không chừng sẽ trở mặt, phản lại chúng ta, giậu đổ bìm leo, để rồi chính chúng ta sẽ phải âm thầm và cay đắng ghi nhận:

– Thế thái nhân tình gớm chết thay,

Nhạt như nước ốc bạc như vôi.

Hay lẩm bẩm kêu trách:

– C’est la vie, đời là thế.

Tuy nhiên chúng ta đừng vội trách người cũng như đừng vội trách đời, mà hãy trách chính bản thân chúng ta trước, bởi vì đó cũng chính là thái độ của chúng ta đối với những tha nhân và nhất là đối với Thiên Chúa.

Thực vậy, kinh nghiệm cho hay: Khi gặp được may mắn và hạnh phúc chúng ta dường như cảm thấy Thiên Chúa thật gần gũi, thật dễ thương, thế nhưng khi gặp phải những gian nguy thử thách, những đớn đau buồn phiền, chúng ta lại cảm thấy Thiên Chúa thật xa vời và độc địa như lời thơ cổ:

– Trẻ tạo hóa đành hanh chi ngán,

Chết đuối người trên cạn mà chơi.

Rồi từ đó chúng ta bực bội tức tối và lên tiếng nguyền rủa Thiên Chúa. Nói cách khác, chúng ta chỉ muốn bước theo Chúa lên đỉnh Taborê, chứ không muốn bước theo Chúa lên đỉnh Canvê. Chúng ta chỉ muốn cắm lều trong vinh quang, chứ không muốn đóng đinh mình vào thập giá. Chúng ta đã nhìn đau khổ qua cặp kính màu đen tuyệt vọng, chúng ta kéo lê thập giá chứ không vui vẻ vác lấy và coi thập giá như phương tiện cứu độ.

Tuy nhiên, chúng ta phải nhớ rằng:

– Đỉnh Canvê mới chính là nơi để Chúa Giêsu chu toàn sứ mạng cứu độ của mình, mới chính là nơi để Ngài gieo mầm phục sinh cho nhân loại.

Là môn đệ của Chúa chúng ta không có một con đường nào khác ngoài con đường thập giá, như lời Ngài đã nói:

– Ai muốn theo ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo ta.

Chúng ta không dừng lại tại thập giá và khổ đau, nhưng cùng với Đức Kitô tiến vào vinh quang và phục sinh. Vì thế, mặc dù vai vác thập giá nhưng mắt chúng ta vẫn luôn hướng tới trời cao. Trời cao, sự sống và hạnh phúc phải là điểm kết thúc cho con đường thập giá. Những hy sinh chúng ta gặp phải sẽ kết thành cây thập giá đời thường, nếu chúng ta trung thành vác lấy, cây thập giá đời thường ấy sẽ là con đường dẫn chúng ta tới vinh quang phục sinh.

 

59.             Cõi phúc

Trong cuộc đời này, có nhiều người đã đi tìm cái chết cho mình. Trong số ấy có những người giàu sang quyền quí, và cũng có những người nghèo khổ bần cùng. Người giàu sang quyền quý sau khi hưởng thụ mọi thú vui của cõi đời, đã chỉ thấy một sự trống rỗng trong tâm hồn, một sự vô vị của cuộc sống nên tìm đến cái chết như muốn nói lên rằng họ tuyệt vọng về cuộc đời. Những người nghèo khổ bần cùng suốt đời phải làm thân trâu ngựa. Họ không đủ sức chịu đựng những nhọc nhằn, những tủi nhục của kiếp tôi mọi nên cũng đã tìm đến cái chết như tìm một sự giải thoát cho cuộc đời. Dù chết trong hoàn cảnh nào thì cả người giàu lẫn người nghèo kể trên đều có một lý do chung và lý do mạnh nhất đã đẩy đưa họ tới chỗ chào thua cuộc đời. Lý do đó là vì họ “Sống mà không có lý tưởng để vươn tới, không có niềm tin vào ngày mai ở bên kia cuộc đời”. Đối với họ, đời người chỉ thu gọn lại trong những tháng năm của cuộc sống này và chết là hết, không còn gì.

Nhưng người Kitô hữu không thể nghĩ thế. Người Kitô hữu biết rằng mình có một cõi phúc để đi về sau khi cuộc đời này chấm dứt. Cõi phúc ấy được báo trước qua cuộc biến hình đầy vinh quang huy hoàng của Chúa Giêsu. Cõi phúc ấy đã làm cho ba môn đệ của Chúa Giêsu ngây ngất đến độ ông Phêrô đã phải thốt lên rằng: “Thầy ơi, chúng con được ở đây thì sướng lắm”. Những chưa được. Cõi phúc ấy nằm ở cuối cuộc hành trình đời người, và các tông đồ cũng như mỗi người chúng ta chỉ có thể đi vào cõi phúc ấy sau khi đã đi hết lộ trình cuộc đời của mình. Khổ một nỗi hành trình cuộc đời của người Kitô hữu không phải là xa lộ thênh thang, bằng phẳng, nhưng lại là một con đường khúc khuỷu, quanh co, đầy chông gai sỏi đá. Nó giống như con đường lên núi Sọ của Chúa Giêsu. Và vì thế mà nhiều người, trong đó có cả chúng ta đã không dám bước vào. Thành công nào trong đời cũng có cái giá phải trả. Chúa Giêsu chỉ có thể bước vào vinh quang của ngày Phục Sinh sau khi đã đi vượt qua con đường đau khổ, con đường thập giá. Người đã can đảm vượt qua được con đường ấy và đã đi vào cõi phúc. Người mời gọi và chờ đợi chúng ta cùng đi vào cõi phúc ấy với Người: “Ai muốn theo tôi, hãy bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo tôi”. Không có con đường thứ hai, không có con đường tắt nào khác dẫn tới cõi phúc ngoài con đường Chúa Giêsu đã đi. Bước sang năm mới có lẽ ai trong chúng ta cũng có một kế hoạch làm ăn, và chúng ta có thể mường tượng ra những thành công sẽ đến. Những thành công ấy sẽ là động lực thúc đẩy chúng ta làm việc, chấp nhận mưa nắng dãi dầu, chấp nhận thức khuya dậy sớm v.v… Đạt được cõi phúc trường sinh chính là một thành công lớn nhất và chung cuộc của đời sống con người, nhưng chẳng biết nó có đủ hấp dẫn để lôi kéo ta, để giúp ta chấp nhận những hy sinh, từ bỏ, chấp nhận lấy những thập giá trong đời sống mình hay không? Nếu không thì quả là đáng tiếc.

 

60.             Thập giá

Anh chị em có biết tại sao khi nghe hai chữ thập giá, chúng ta không thấy sởn gai ốc, và có khi còn dửng dưng nữa, trong khi các môn đệ Chúa Giêsu nghe nói đến thập giá thì nổi da gà, và ông Phêrô run rẩy can ngăn Chúa đừng đi tới đó? Có lẽ vì chúng ta chỉ nhìn thấy những cây thập giá bằng vàng, bằng bạc, bằng đồng, bằng gỗ quí nhẵn bóng hay bằng xi măng tô đá rửa, đá mài, nên hình ảnh mà hai chữ thập giá gợi lên trong chúng ta không có gì đáng sợ. Còn các môn đệ Chúa thì trái lại, các ông chưa bao giờ thấy những cây thập giá bằng vàng, bằng bạc… và hai chữ này không chỉ gợi lên một cây khổ giá trần trụi, mà gợi lên hình ảnh một con người quằn quại, tuyệt vọng trong đau đớn và nhục nhã ê chề, lơ lửng giữa trời và đất, giữa sống và chết, trước những cái nhìn thù ghét và khinh bỉ, trước những con mắt tò mò và dửng dưng. Chính vì thế mà các tông đồ rùng mình sợ hãi khi Chúa Giêsu nói đến thập giá.

Nhưng Chúa Giêsu không phải là ông thầy dễ dãi hay nhu nhược. Chúa vẫn nói thẳng, nói thật và Chúa đòi ai theo Chúa phải nhìn thẳng vào thập giá và chấp nhận nó: “Ai muốn theo Thầy, hãy bỏ mình đi, vác thập giá của mình hằng ngày mà đi đằng sau Thầy”. Ông Phêrô vừa thay mặt anh em tuyên xưng Ngài là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, thì Ngài lại nói đến thập giá. Thập giá Chúa nói ở đây như mặt sau của tấm huân chương. Rồi sau đó Chúa lại đưa ba môn đệ thân tín lên núi, cho các ông thấy vinh quang chói lòa của Ngài và sự có mặt làm chứng của Môisê và Êlia: một vị đã được Chúa dùng để giao ước Sinai, còn vị kia thì được Chúa trao nhiệm vụ tái lập giao ước Sinai.

Chúng ta có thể đảo lại thế này: sau khi chỉ cho các môn đệ thấy cây thập giá làm cho các ông run sợ, Chúa Giêsu lật cho các ông thấy đằng sau cây thập giá có gì. Cũng vậy, sau này, trên đường Emmau, chúng ta thấy Chúa quở trách hai môn đệ thất vọng bỏ đi, vì các ông chỉ thấy mặt trước mà không thấy mặt sau của cây thập giá: “Chẳng phải là Đức Kitô phải chịu đau khổ để vào trong vinh quang của Ngài sao?”.

Nếu ôm lấy cây thập giá và thỏa mãn với nó thì đúng là một kẻ điên khùng hoặc bệnh hoạn. Không, Chúa Giêsu không kêu gọi chúng ta trở nên điên khùng, bệnh hoạn. Chúa đã nhận lấy thập giá như đường tới vinh quang. Đàng sau thập giá là vinh quang mà chỉ có đức tin mới cho chúng ta thấy được. Chúa không gọi chúng ta vác thập giá đi một mình, nhưng là đi theo sau Chúa, vì chỉ có đi theo Chúa, chúng ta mới tới được vinh quang ở phía sau cây thập giá.

Cuộc sống có những lúc êm đềm thanh thản, có những ngày tưng bừng hoa lá, nhưng cũng lắm khi cảm thấy tất cả nỗi ê chề của cây thập giá sù sì và những lời độc địa, chát chúa của khách qua đường. Chúng ta cảm thấy nỗi cô đơn của kẻ bị treo lơ lửng giữa trời và đất. Chúng ta khát khô cổ muốn có một lời an ủi, một chút cảm thông, nhưng quanh chúng ta chỉ có thờ ơ và thinh lặng, hoặc tệ hơn nữa, chỉ có phỉ báng và xua đuổi. Những lúc ấy chúng ta mới cảm thấy tất cả sự rùng rợn của cây thập giá. Có khi chúng ta cảm thấy chán nản muốn buông xuôi tất cả. Chúng ta cảm thấy như Chúa Giêsu đã cảm thấy và phải kêu lên: “Lạy Chúa, nhân sao Chúa bỏ con…”.

Những lúc ấy chúng ta phải vận dụng sức mạnh của lòng tin, hết ánh sáng đức tin, để thấy được đằng sau cây thập giá. Chúng ta hãy nhìn thẳng vào Đấng đang vác thập giá đi đằng trước chúng ta, chớ rời mắt xa Ngài. Nhưng chúng ta đừng chờ tới lúc đó mới nhìn vào Ngài. Chúng ta phải giữ tầm nhìn luôn hướng về Ngài trong mọi nơi, mọi lúc, mọi việc. Chúng ta hãy làm tất cả với Ngài, vì Ngài và trong Ngài. Nếu chúng ta biết sống với Ngài trong niềm vui, chúng ta cũng biết sống với Ngài trong nỗi buồn. Nếu chúng ta biết sống trong Ngài khi hạnh phúc, chúng ta cũng biết sống trong Ngài lúc đau khổ. Nếu chúng ta biết sống với Ngài trong ngày hội, chúng ta cũng biết sống với Ngài giữa cô đơn. Nếu chúng ta biết sống trong Ngài lúc đầy tiền của, chúng ta cũng biết sống trong Ngài khi trắng tay…

Điều chúng ta cần ghi nhớ là chúng ta đừng mang thập giá một mình. Chúng ta sẽ không bước nổi đâu, và nếu chúng ta có đem tất cả sự kiêu hãnh của con cái Ađam mà lết đi được thì cũng chẳng ích lợi gì, cây thập giá của chúng ta chỉ là cây gỗ chết mà thôi. Bởi vì cây thập giá chỉ trở nên xanh tươi và đầy hoa trái khi nó mang con Thiên Chúa, nguồn mạch sự sống: “Nếu chúng ta cùng chết với Ngài, chúng ta sẽ sống với Ngài”.

Như vậy, Chúa Giêsu hiển dung là để củng cố đức tin của các môn đệ. Bởi vì Chúa thấy các môn đệ quá sợ các đau khổ, không chấp nhận cuộc khổ nạn của Ngài, nên Chúa đã hé mở vinh quang của Nước Thiên Chúa cho các ông thấy để đem lại cho các ông một niềm tin và một hy vọng vào ngày mai. Do đó, việc Chúa hiển dung cũng dạy bảo cho các môn đệ biết: phải trải qua đau khổ rồi mới vào vinh quang. Chính Thầy của các ông là Con Thiên Chúa, mà còn phải chịu đau khổ mới bước đến vinh quang thì các ông cũng phải đi theo con đường đó: không thể đến cõi hằng sống mà không phải qua đau khổ, thử thách.

Sống ở đời, không ai trong chúng ta tránh được những đau khổ chúng ta gọi là những thánh giá mà Chúa muốn chúng ta vác. Dù trong bậc nào vẫn phải vác thánh giá của mình. Ngay chính lúc này, mỗi người chúng ta đều cảm thấy những lo âu, những buồn phiền, những khổ đau… Tất cả đều là thánh giá. Nếu biết vác cho nên, với một thái độ khiêm ngường, với lòng cậy tin, thì Chúa sẽ ở bên chúng ta, và sẽ thưởng công cho chúng ta. Những công phúc tuy vô hình, chúng ta không trông thấy, nhưng chúng sẽ là những hạt men, những hạt giống sẽ nở ra trong đời sau và trong thế hệ con cháu chúng ta.

 

61.             Suy niệm của JKN

Câu hỏi gợi ý:

  1. Ý nghĩa của những chi tiết trong cuộc hiển dung là gì? Mục đích của cuộc hiển dung là gì?
  2. Lời Chúa Cha giới thiệu về Đức Giêsu: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!”. Nội dung của lời giới thiệu này có mấy điểm? Là những điểm nào?
  3. Vâng nghe lời Đức Giêsu như Chúa Cha khuyên ta thì được lợi ích gì?

Suy tư gợi ý:

  1. Ý nghĩa thị kiến hiển dung của Đức Giêsu

Đây là một thị kiến mà ba môn đệ thân tín nhất của Đức Giêsu nhìn thấy. Thị kiến này mạc khải cho ba môn đệ thấy thần tính của Đức Giêsu. Những gì thấy trong thị kiến đều có một ý nghĩa thần bí:

– ngọn núi cao: biểu tượng sự siêu việt, thánh thiện, cao cả, thanh thoát, xa rời thế tục

– chỉ có bốn thầy trò với nhau: sự mạc khải chỉ biểu lộ cho những người thân thiết nhất, mang tính riêng tư.

– sự biến hình đổi dạng: cho thấy một bản chất sâu xa bên trong, một cái gì sẽ được tỏ hiện trong tương lai. Người thường không thấy được điều ấy, họ chỉ thấy được cái gì hiện ra bên ngoài trong hiện tại.

– dung nhan chói lọi như mặt trời: biểu tượng của thần tính, hay thiên tính, đầy vinh quang, quyền lực.

– y phục trắng tinh như ánh sáng: biểu tượng sự trong sáng, sự quang minh chính đại cực độ, hoàn toàn không lầm lỗi, không khiếm khuyết.

– Môsê và Êlia hiện ra đàm đạo: đây là hai nhân vật lớn nhất tiêu biểu cho Cựu Ước, hay Giao Ước cũ. Môsê, nhà làm luật, tượng trưng cho luật pháp, Êlia, ngôn sứ lớn nhất trong Cựu Ước, đại diện các ngôn sứ. Luật pháp và các ngôn sứ là cốt tủy, là những thứ biểu trưng và thiêng liêng nhất trong Cựu Ước. Hai ông còn là hai người có thế giá nhất đã báo trước sự ra đời của Đức Giêsu. Môsê là tác giả của bộ Ngũ Kinh (5 cuốn đầu của Cựu Ước) đã tiên báo một đại ngôn sứ sẽ đến (x. Đnl 18,15-19). Còn Êlia là nhân vật mà Thiên Chúa sai đến như một dấu chứng báo trước ngày mà chính Thiên Chúa đến trần gian (x. Ml 3,23). Trong thị kiến này, hai ông biểu tượng cho hai chứng từ sống động nhất làm chứng cho thiên tính của Đức Giêsu.

– Đám mây sáng ngời bao phủ cả ba người: tượng trưng cả ba người đều đến từ Thiên Chúa, và đang sống trong vinh quang của Thiên Chúa. Trong Kinh Thánh (cũng như trong các kinh điển của các tôn giáo), đám mây tượng trưng cho mầu nhiệm Thiên Chúa đang hiện diện: chẳng hạn cột mây dẫn đường dân Do Thái qua biển đỏ (Xh 13,21-24), cột mây trước Lều Tạm (Xh 33,9-10; 40,34-38), hay Gia-Vê thường hiện ra với Môsê trong đám mây (Xh 16,10; 19,9; 20,21; 24,15-16).

– Tiếng phán ra từ đám mây: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!”: Đây là dấu chứng mạnh nhất, vĩ đại nhất mang tính dứt khoát cho biết Đức Giêsu chính là Con Thiên Chúa, mà mọi người có thể tin tưởng và vâng phục. Chính Chúa Cha trực tiếp giới thiệu “Con Yêu Dấu” của mình. Còn lời chứng nào giá trị hơn nữa?

  1. Hãy vững tin vào thiên tính của Đức Giêsu

Qua thị kiến hiển dung này, Thiên Chúa đã trực tiếp củng cố niềm tin cho ba môn đệ thân tín nhất của Đức Giêsu vào Ngài, và cũng gián tiếp củng cố niềm tin của các môn đệ khác, và cả chúng ta nữa. Thị kiến này các ông đã mang theo trong tâm trí suốt cuộc đời như một hành trang quý báu giúp các ông tin vững chắc vào Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng Thiên Sai, Đấng Cứu Thế mà mọi người đều trông mong. Nhờ niềm tin vững chắc này, các ông rao giảng về Đức Giêsu một cách xác tín, và vượt qua được mọi gian lao thử thách do việc rao giảng ấy. Thánh Phêrô đã nhắc lại biến cố này như một dấu chứng chắc chắn để mọi người tin vào lời chứng của mình: “Thật vậy, khi chúng tôi nói cho anh em biết quyền năng và cuộc quang lâm của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, thì không phải chúng tôi dựa theo những chuyện hoang đường thêu dệt khéo léo, nhưng là vì chúng tôi đã được thấy tận mắt vẻ uy phong lẫm liệt của Người. Quả thế, Người đã được Thiên Chúa là Cha ban cho vinh quang và danh dự, khi có tiếng từ Đấng tuyệt vời vinh hiển phán với Người: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hết lòng quý mến”. Tiếng đó, chính chúng tôi đã nghe thấy từ trời phán ra, khi chúng tôi ở trên núi thánh với Người” (2Pr 1,16-18).

Nếu mục đích của sự hiển dung này là để củng cố niềm tin các tông đồ vào thiên tính của Đức Giêsu, thì nó cũng có mục đích củng cố niềm tin mỗi người chúng ta. Đức tin được càng được xác tín mạnh mẽ từ trong thâm tâm, chứ không chỉ tuyên xưng ngoài miệng, sẽ làm cho đời sống Kitô hữu càng thêm sâu sắc và phong phú, càng làm tình yêu và nội lực ta thêm dồi dào.

  1. “Hãy vâng nghe lời Người!”

Qua biến cố hiển dung, Đức Giêsu chẳng những được giới thiệu cho chúng ta. Sự giới thiệu có giá trị hay không, và giá trị đến mức nào tùy thuộc vào thế giá của người giới thiệu. Còn ai có thế giá trong tôn giáo cho bằng Môsê và Êlia, và nhất là còn ai thế giá trong toàn vũ trụ bằng Chúa Cha, Đấng tạo dựng nên cả vũ trụ bao la này. Chúa Cha đã giới thiệu Ngài: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!”.

Lời giới thiệu ấy tuy ngắn ngủi nhưng nội dung rất quan trọng, gồm 3 điểm sau đây:

  1. a) Đức Giêsu là Con Thiên Chúa: Đó là một chức vị duy nhất và cao nhất sau Chúa Cha trong toàn vũ trụ. Ngài là Con duy nhất của một Thiên Chúa độc nhất. Và Ngài cũng là Thiên Chúa, đồng bản tính với Chúa Cha. Ngài đầy uy tín và rất đáng tin tưởng do bản chất Thiên Chúa của Ngài.
  2. b) Đức Giêsu rất đẹp lòng Chúa Cha: Một người đẹp lòng Chúa Cha tất nhiên hết sức hoàn hảo, không một khiếm khuyết nào. Vì thế, Ngài đầy uy tín và rất đáng tin tưởng do phẩm chất hết sức cao quí của Ngài.
  3. c) Vì thế, Chúa Cha khuyên chúng ta “hãy vâng nghe lời Người!”. Lời khuyên của Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng lại đầy khôn ngoan và quyền năng ắt phải có một giá trị vô cùng lớn. Không một lời khuyên nào đối với ta có thể khôn ngoan và đem lại lợi ích cho ta như vậy. Vậy chúng ta hãy vâng nghe lời Đức Giêsu.

Thánh Phêrô, người đã chứng kiến việc hiển dung của Đức Giêsu và đã nghe được lời giới thiệu về Ngài của Chúa Cha, đã phải thốt lên tâm tình của mình: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6,68). Chính Đức Giêsu cũng đã xác nhận: “Ai tuân giữ lời tôi, thì sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 8,51). “Không bao giờ phải chết” ở đây nghĩa là có được sự sống đời đời.

  1. Sự sống đời đời do vâng nghe lời Đức Giêsu

Lợi ích lớn lao do việc vâng nghe lời Đức Giêsu chính là có được sự sống đời đời. Sự sống đời đời ấy không phải là một cái gì xa lạ mà phải qua thế giới bên kia mới cảm nghiệm được, mà là một cái gì thực tế và cụ thể, có thể cảm nghiệm được ngay ở đời này, thậm chí “tại đây và lúc này” (hic et nunc) một cách hết sức hiện sinh. Sự sống ấy đã được Đức Giêsu nói đến trong câu: “Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10). Ở đời này, sự sống đời đời được thể hiện bằng sự sống dồi dào nội lực và sinh khí để có thể sống tràn đầy bình an và hạnh phúc, trong tinh thần vị tha, quên mình, biết yêu thương và hy sinh cho tha nhân không mệt mỏi. Đó là thứ hạnh phúc đích thực của thiên đàng là nơi chỉ có yêu thương, không còn ích kỷ hay thù hận. Đó là sự bình an và hạnh phúc vô biên trong nội tâm, thứ hạnh phúc không bị lệ thuộc vào hoàn cảnh hay những yếu tố bên ngoài, một thứ hạnh phúc không ai lấy mất được.

Sự sống đời đời ấy ta có được là do vâng nghe lời Đức Giêsu, để chúng ta có thể nhìn cuộc đời, quan niệm mọi sự như Đức Giêsu đã nhìn và quan niệm, để ta có thể tư tưởng, nói năng và hành xử như Ngài đã từng tư tưởng, nói năng và hành xử. Ở đời này, sự sống ấy có thể ví như ở dạng hạt, và nó sẽ phát triển thành cây cổ thụ và sinh hoa kết trái ở đời sau. Chỉ khi ta có được “hạt giống sự sống đời đời” ở đời này do việc vâng nghe lời Đức Giêsu, ta mới có được “cây sự sống đời đời” ấy ở đời sau (x. Kh 22,2.14.19).

Cầu nguyện

Lạy Cha, Cha đã giới thiệu Đức Giêsu cho con, đã khuyên con hãy vâng nghe lời Ngài. Con biết: sự sống đời đời – là điều con ao ước nhất và có khả năng làm thỏa mãn con nhất – con có thể tìm được nhờ vâng nghe lời Ngài một cách triệt để và sâu xa. Xin Cha giúp con thực hiện được điều ấy. Amen.

 

62.             Biến hình

Cách đây vài năm khi đang đi bộ lang thang khu siêu thị, tôi để ý thấy đám đông chăm chú nhìn vào một cái gì đó trong tủ kính trưng bày của một cửa tiệm. Tò mò, tôi bước tới nhìn xem. Người ta ngắm một bức tranh. Bức tranh vẽ đủ mọi màu sắc sáng với những biểu tượng và hình thù chẳng có ý nghĩa gì. Ban đầu tôi chợt nghĩ: “Chắc là một loại nghệ thuật trừu tượng. Và mình sẽ không bao giờ có thể hiểu được loại nghệ thuật này!”

Tình cờ, một trong những người khách chỉ vào bức tranh và nói: “Tôi thấy Ngài rồi! Tôi thấy Ngài rồi!” “Thấy cái gì? Thấy ai?” một vài người đứng đó hỏi. “Thủng thẳng đã, tôi không chắc chắn lắm, và tôi cũng không muốn quấy rầy quí vị”. Sau đó một người khác cũng la lên: “Rồi, tôi cũng thấy Ngài nữa!”

Một vài người lắc đầu bỏ đi. Và chỉ còn vài người chúng tôi ráng đứng lại nhìn. “Xin lỗi, bà có thể nói lại cho tôi biết cái gì vậy?” Tôi hỏi một trong những người đã nói rằng bà trông thấy “Ngài”. Bà cắt nghĩa: “Đây là một bức hình ba chiều, nếu nhìn vào bức hình khi có ánh sáng phù hợp vào đúng góc cạnh, sẽ nhìn thấy một bức hình ở đó”. Thế hả? Tôi đáp lại nhưng vẫn còn nghi ngờ. “Nhưng nó không dễ nhìn thấy đâu!” Bà nói thêm. “Tôi phải mất gần ba chục phút mới nhìn ra đấy. Nhưng kìa thấy rồi”. Bà chỉ ngón tay vào bức hình: “Bộ không thấy sao?” Bà hỏi. Tôi cố gắng nhìn tập trung vào bức tranh muốn chóng cả mặt. “Tôi chẳng trông thấy gì cả”, tôi phải tự thú như vậy, “Hay là tưởng tượng đấy?” Bà mỉm cười, rồi quay mặt bước đi, nhưng vẫn không quên khích lệ tôi: “Đừng bỏ cuộc! Cố nhìn thêm chút nữa!”

Tôi đã phải nhìn vào bức hình đó hằng chục lần nữa mà cũng không thấy gì. Trên đường trở ra bãi đậu xe, tôi quyết định trở lại để thử nhìn thêm một lần nữa. Khi tôi nhìn vào bức tranh, hơi cúi khom đầu xuống một chút, những đường nét trang trí bắt đầu mờ nhạt, và một khuôn mặt xuất hiện. Một cách rất khoan khoái tôi nhận ra đây là khuôn mặt của Chúa Giêsu. “Tôi đã trông thấy Ngài! Tôi đã trông thấy Ngài!” Rồi mất thêm một tiếng đồng hồ nữa để giúp cho những người xung quanh cũng nhìn thấy Ngài. Thật là thú vị trông thấy khuôn mặt của họ tươi sáng hẳn lên khi nhận diện ra khuôn mặt của Chúa Giêsu lần đầu tiên sau những nỗ lực vất vả.

Hôm nay, Chúa nhật thứ hai Mùa Chay, bài Phúc âm thánh Matthêu nói về cuộc biến hình của Chúa Giêsu trên núi. Phêrô, Giacôbê và Gioan đã nhìn thấy khuôn mặt vinh quang của Con Thiên Chúa lần đầu tiên. Họ đã ở với Chúa Giêsu hằng ngày trong khoảng thời gian ba năm. Họ đã nhìn thấy Ngài, lắng nghe Ngài giảng dạy, chứng kiến những phép lạ Ngài làm, nhưng họ vẫn chưa thực sự nhận ra Ngài là ai.

Trong cuốn “Jésus: A Fait De Moi, Un Témoin”, “Chúa Giêsu Đang Sống Qua Nhân Chứng”, cha Emiliano Tardif chia sẻ như sau: “Một sứ giả Tin Mừng trước tiên phải là một chứng nhân có một kinh nghiệm cá nhân về sự chết và Phục sinh của Chúa Giêsu Kitô và là người truyền đạt cho kẻ khác, không chỉ là một đạo lý, mà một Đấng-Vẫn- Sống đang ban sự sống dồi dào”. “Không ai có thể trở thành sứ giả đích thực của Tin Mừng, nếu người đó không có kinh nghiệm đời sống mới mà Chúa Giêsu ban cho”.

Chúa Giêsu đã cho ba môn đệ trải qua kinh nghiệm về hình ảnh vinh quang của Ngài để giúp họ học hỏi và sống đời sống chứng nhân sau này.

  1. Thiên Chúa nâng chúng ta lên.

Trong Cựu ước, ngọn núi cao thường là nơi mô tả sự gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người. Thiên Chúa đã mời gọi Môsê đi lên núi để lãnh nhận Mười điều răn. Phêrô, Giacôbê và Gioan là những người Chúa Giêsu tuyển chọn, được đưa lên núi cao để hưởng đặc ân của Thiên Chúa. Họ đã chứng kiến một điều sẽ ảnh hưởng sâu xa trong cuộc đời chứng nhân sau này như Phêrô đã thú nhận: “Là chứng nhân những đau khổ của Đức Kitô và được dự phần vinh quang sắp tỏ hiện trong tương lai”.

Ngài cũng có chương trình riêng cho mỗi người chúng ta. Bằng những cách gọi rất cá nhân và khác nhau, Thiên Chúa đã mời gọi mỗi người và nâng chúng ta lên. Chúng ta sẽ cảm nghiệm được điều này nếu biết cầu xin và đón nhận với lòng biết ơn. Cha Emiliano Tardif đã chia sẻ kinh nghiệm cá nhân của ngài: “Chúng ta có thể gặp được chính Tin Mừng là Chúa Giêsu Kitô, Đấng hôm qua và hôm nay vẫn là thế, và hằng sống muôn đời”.

Sách Giáo lý Công giáo, số 556 cũng đã viết: “Sự biến hình cho ta nếm trước ngày quang lâm vinh hiển của Chúa Kitô, “Đấng sẽ biến đổi thân xác khốn khổ của chúng ta, để hóa nên giống như thân xác vinh hiển của Ngài”.

  1. Thiên Chúa đem chúng ta xuống.

Sau kinh nghiệm cực kỳ sung sướng vừa thấy Chúa Giêsu biểu lộ vinh quang sáng ngời của Ngài, thì có tiếng từ trong đám mây phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu rất đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe lời Người”. “Nghe vậy, các môn đệ kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất”. Vừa mới lên cao đến tột đỉnh sáng ngời, liền bị hạ sấp mặt xuống đất trong kinh hãi. Thiên Chúa nâng họ lên cao và hạ họ xuống thấp. Đây là những chi tiết thú vị của câu chuyện.

Dân gian Việt Nam gọi cái thăng trầm, và thử thách của cuộc đời là: “Lên voi xuống chó”, “Lên bổng xuống trầm”, “Lên ngàn xuống bể”, “Lên thác xuống ghềnh”. Những thành ngữ rất gợi hình này nói lên một phần thực tại của cuộc sống lữ hành.

Thánh Kinh cũng thường diễn tả việc Thiên Chúa hạ những kẻ cao sang và kiêu căng xuống. Tiên tri Isaia đã viết: “Vì Đức Chúa, các đạo binh đã dành sẵn một ngày để trị tất cả những gì kiêu căng ngạo nghễ, trị tất cả những gì tự cao tự đại: chúng sẽ bị hạ xuống”. Sách 1 Samuel nói: “Đức Chúa bắt phải nghèo và cho giàu có, Người hạ xuống thấp, Người cũng nhấc lên cao”. Thánh vịnh 75 nói rằng: “Chỉ Thiên Chúa mới là thẩm phán, Chúa hạ bệ người này, cất nhắc kẻ kia”. Trong bài ca “Ngợi Khen”. “Kinh Magnificat” xác định: “Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường”.

Thánh Phaolô đã trải qua kinh nghiệm này, đang “hằm hằm những lời đe dọa và giết chóc…” thì “bỗng nhiên có một luồng ánh sáng từ trời chiếu xuống bao phủ lấy ông. Ông ngã xuống đất và nghe có tiếng nói…”. Và chính Chúa Giêsu cũng đã bước qua những thăng trầm này: “Lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con?”

  1. Tin tưởng vào Chúa Giêsu và tiếp tục cuộc sống:

Thiên Chúa đã đưa ba tông đồ lên núi, làm họ ngã sấp mặt xuống đất, thì cũng chính Ngài, qua Đức Giêsu Kitô lại nâng họ lên: “Các con hãy đứng dậy, đừng sợ”. Rồi cùng với họ đi xuống núi. Trên đường đi xuống núi lòng họ hoang mang, đầy những câu hỏi, nghi vấn, nhưng Chúa Giêsu đã nói với họ rằng: “Các con không được nói với ai về việc đã thấy, cho tới khi Con Người từ cõi chết sống lại”. Bí mật của cuộc biến hình này tạo nên sự tin tưởng cho các tông đồ khi phải đối diện với đau khổ và sự chết của Chúa Giêsu trên thập giá và của chính các ông sau này.

 

63.             Biến hình

Họa sĩ người Ý, Raphael (1483 – 1520), khi chết mới 37 tuổi, nhưng đã để lại một số lượng tác phẩm tuyệt vời cho hậu thế. Một trong những tác phẩm danh tiếng của ông có tên là “Cuộc Biến Hình”, “Transfiguration”. Trong tang lễ, bức tranh này đã được đặt trên đầu quan tài của ông. Bức tranh vẽ có hai phần. Phần trên, diễn tả cảnh Chúa Giêsu biến hình trong sự sáng láng và vinh quang của Ngài, mặt Ngài chiếu sáng, áo Ngài trắng như tuyết. Bản tính Thiên Chúa ngời sáng qua nhân tính của Ngài. Ở bên phải là Môsê, đại diện cho luật cũ, và bên trái là tiên tri Elia, đại diện cho các tiên tri của Cựu ước. Ở dưới chân của Chúa Giêsu là ba tông đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan trong sự sửng sốt và kinh ngạc khi thấy vinh quang thiên quốc của Ngài.

 

Trái lại, phần dưới của bức tranh tối tăm u buồn. Trong cái u tối đó có một bé trai bị bệnh, đang đau đớn quằn quại trên chiếc giường nhỏ, gia đình quy tụ xung quanh, cùng với chín tông đồ còn lại. Một tông đồ đang chỉ tay vào em bé bị bệnh, và một tông đồ khác chỉ tay hướng về Chúa Giêsu đang trên đường đi xuống núi. Các tông đồ không thể chữa được cơn bệnh ngặt nghèo của em bé, chỉ có Chúa Giêsu mới có thể chữa được. Em bé trai phải hướng về Chúa Giêsu và tin tưởng vào Ngài.

 

Đau khổ và thập giá là sự kiện hiển nhiên trong cuộc sống. Chúng xuất hiện dưới nhiều hình thức. Không ai có thể tránh khỏi. Sách Giáo lý Công giáo cũng xác định rằng: “Muốn vào chốn vinh quang của Ngài”, “Ngài phải trải qua thập giá tại Giêrusalem”.

 

Sự biến hình của Chúa Giêsu trong vinh quang chính là niềm hy vọng và tăng cường sức mạnh cho chúng ta đang khi cố gắng trung thành với Ngài giữa những cám dỗ, đau khổ và thử thách. Đó là lý do tại sao câu chuyện Chúa Giêsu biến hình được sắp xếp cử hành trong Mùa Chay. Giống như em bé trai thống khổ trong bức tranh vẽ của Raphael, chúng ta không bao giờ thất vọng khi nhìn ngắm vào thập giá của Chúa Giêsu, mà phải luôn tìm kiếm Ngài trong vinh quang. Chỉ qua Ngài, với Ngài, và ở trong Ngài chúng ta mới chiến thắng được thế gian và ma quỉ.

 

64.             Xin cho được biến đổi nhờ Chúa Thánh Thần

(Suy niệm của Lm Antôn Nguyễn Văn Độ)

Bước vào Chúa nhật II Mùa Chay, Phụng vụ Giáo Hội mời gọi chúng ta chiêm ngắm một mầu nhiệm vĩ đại, đó là biến cố biến hình của Chúa Giêsu.

Hôm nay, thánh sử Matthêu nhắc đến việc Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê và Gioan tới chỗ riêng biệt trên núi cao. Người biến hình trước mặt các ông. Và đây Môisen cùng với Êlia hiện ra đàm đạo với Người. Những câu hỏi được đặt ra: tại sao Chúa Giêsu biến hình? Tại sao không phải là các Tông đồ khác mà lại là Phêrô, Giacôbê và Gioan được Ngài đưa lên núi? Tại sao Môise và Êli lại có mặt lúc Chúa Giêsu biến hình?

Tại sao Chúa Giêsu biến hình?

Chúng ta biết rằng, sau khi Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi chừng năm ngàn người ăn no lần thứ nhất (x.Mt 14, 13-21) và chừng bốn ngàn người lần thứ hai không kể đàn bà con trẻ (x.Mt 15, 32-39). Các Tông đồ chưng hửng về tương lai tươi sáng, dân chúng thì mãn nguyện về Đấng Thiên Sai. Khi thăm dò ý kiến chung (x.Mt 16, 13-20), Chúa Giêsu loan báo cuộc thương khó lần thứ nhất (x.Mt 16, 21-23): “Ngài phải đi Yêrusalem và chịu nhiều đau khổ do hàng niên trưởng và các thượng tế cùng ký lục, và bị giết đi, và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt 16, 21). Như thế, Ngài đã mạc khải cho các môn đệ biết rằng, con đường tiến về Giêrusalem sẽ đưa Ngài đến với đau khổ, tử nạn và cái chết đau thương trên thập giá, sau đó mới rạng ngời ánh sáng vinh quang. Nhưng các ông đâu có chấp nhận, khi nghe vậy Phêrô liền can ngăn: “Thiên Chúa thương! Chứ sẽ có đâu như thế!” (Mt 16,23). Vì thế, để củng cố niềm tin các Tông đồ, đồng thời giúp các ông sẵn sàng chấp nhận và hiệp thông với cuộc khổ nạn của Ngài, nên Ngài đã biến hình sáu ngày sau đó (x. Mt 17, 1-9). Nhưng vì chưa nhận ra ý Chúa nên Phêrô muốn dựng ba lều ở trên núi cao (x.Mt 17, 4). Và như thế là Phêrô đã muốn biến cái tạm bợ trở thành vĩnh cửu để khỏi phải đương đầu với thập giá và khổ đau.

Tại sao Chúa Giêsu lại gọi Phêrô, Giacôbê và em ông là Gioan? Phải chăng là vì họ hoàn hảo hơn những người khác?

Về vấn đề này, thánh Gioan Kim Khẩu nói: Vì Phêrô đã từng tuyên xưng Chúa Giêsu là “Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16) và được Ngài trao cho chìa khóa Nước Trời “Ta sẽ trao cho ngươi chìa khóa Nước Trời” (Mt 16, 19). Hơn nữa cũng bởi Phêrô đã yêu mến Chúa Giêsu nhiều hơn, “Lạy Chúa, Chúa thông hay mọi sự, Chúa biết tôi yêu mến Chúa!” (Ga 21, 17)

Phần Gioan, vì Gioan đã yêu mến nhiều, nên được mệnh danh là (người môn đệ Chúa yêu) (Ga 21, 20). Còn Giacôbê, ông đã cùng với em mình khi Chúa Giêsu hỏi: “Các ngươi có thể uống chén Ta sắp uống không?” Họ nói với Ngài: “Thưa được” và ông đã giữ lời, đã đi đến cùng của lời cam kết, khiến người Do Thái không chịu nổi, đã xử trảm ông.

Tại sao không phải là một tiên tri hay ngôn sứ nào khác mà lại là Môisen và Êlia?

Sứ vụ công khai của Chúa Giêsu tại Galilê đã khiến cho dân chúng đồn đoán về con người của Ngài. Có người cho rằng Ngài là Đấng Kitô, là Môisen hoặc Êlia, Giêrêmia hay là một tiên tri (x. Mt 16,14). Chúng ta biết rằng, người Do Thái không ngừng buộc tội Chúa Giêsu là người vi phạm Luật, kẻ nói phạm thượng, kẻ chiếm đoạt vinh quang Thiên Chúa, mà theo họ, vinh quang đó là của Thiên Chúa chứ không thuộc về Chúa Giêsu. Họ nói: “Con người ấy không bởi Thiên Chúa được, vì hắn không giữ Hưu lễ!” (Ga 9, 16) Và chỗ khác họ nói: “Không phải vì một việc trọn hảo mà chúng tôi ném đá ông; nhưng vì một lời phạm thượng! Ông là một người phàm mà dám cho mình là Thiên Chúa” (Ga 10, 33). Chúa Giêsu muốn cho mọi người biết, vì nghen tương mà họ gán cho Ngài hai tội danh ấy. Nên khi biến hình đàm đạo với Môisen và Êlia, Ngài muốn khẳng định rằng, Ngài còn hơn cả Môisen và Êlia nữa. Môisen là người đã trao ban Lề Luật cho dân chúng, nên người Do Thái không thể nói rằng vị tiên tri thánh này đã muốn chịu đau khổ vì một người vi phạm Lề Luật. Còn Êlia xuất hiện với Chúa Giêsu, Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta rằng Ngài là Chúa của kẻ sống và kẻ chết, cả trên trời và trong địa ngục. Đó là lý do Ngài biến hình cùng với Êlia là người đã không chết.

Tin Mừng cũng khai mở cho chúng ta biết, Chúa Giêsu muốn cho các Tông đồ thấy vinh quang của thập giá, củng cổ niềm tin của Phêrô và các môn đệ trước cuộc khổ nạn sắp đến, giúp họ thêm can đảm. Vì Môisen, Êlia cùng với Chúa Giêsu, cả ba không im lặng, nhưng: “đàm đạo với Người…” (Mt 17 9, 3), về khổ nạn và thập giá. Đó chính là điều mà các tiên tri hay nói đến. Chúa Giêsu cũng muốn các Tông đồ mình noi theo Môisen và Êlia về những nhân đức trổi vượt trong quá khứ, và Ngài cũng muốn rằng: “Ai muốn theo Thầy, hãy vác thập giá mình mà theo” (Mt 16,24).

Một điều rất thú vị là Môisen đã rẽ đôi nước biển để cho dân chúng đi ráo chân, phần Phêrô ông cũng đã đi trên mặt nước, để rồi chữa lành tất cả bệnh hoạn tật nguyện cho dân chúng, xua trừ ma quỷ, đưa mọi người về với Đức Kitô. Êlia đã làm cho kẻ chết sống lại, các Tông đồ sau khi nhận lãnh Chúa Thánh Thần cũng đã làm cho kẻ chết được sống lại. Đó là những lý do Chúa Giêsu chọn Môisen và Êlia hiện ra đàm đạo với mình.

Rút ra bài học

Đối với chúng ta ngày hôm nay, biến cố Chúa biến hình loan báo trước Mầu Nhiệm Vượt Qua, và mời gọi chúng ta mở rộng đôi mắt tâm hồn chiêm ngắm Mầu Nhiệm Ánh Sáng của Thiên Chúa trong lịch sử cứu rỗi. Mầu nhiệm Năm Sự Sáng, thứ Ba thì Ngắm, Đức Chúa Giêsu biến hình trên núi, ta hãy xin cho được biến đổi nhờ Chúa Thánh Thần. Như thế, nếu chúng ta muốn trong Mùa Chay này biến đổi thành công dân Nước Trời, phải bỏ mình vác thập giá hàng ngày mà theo Chúa. Có sẵng sàng vác thập giá Chúa trao mới được theo Chúa là Đường, là Sự Thật, là Sự Sống, để được hưởng vinh quang Phục sinh với Ngài.

Chúa biến hình vinh quang sáng láng để nêu gương cho chúng ta, giúp chúng ta cũng biết biến đổi: từ con người tối tăm tội lỗi nên con người tươi sáng hoàn hảo; từ con người ích kỷ tham lam thành người sẵn sàng yêu thương hy sinh và phục vụ mọi người; từ con người kiêu căng tự đắc thành người khiêm nhu tin tưởng và phó thác vào Chúa.

Lạy Chúa, xin thương giúp chúng con hiểu được ý nghĩa của Thập Giá Chúa và xin ban ơn để chúng con biết sống Mầu Nhiệm Thập Giá Chúa trong cuộc đời chúng con, hầu mai ngày được sống lại với Chúa trong vinh quang với. Amen.

 

65.             Hãy vâng nghe lời ngài

(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)

 

Truyền thống giáo dục trong mọi nền văn hóa đều nhấn mạnh đến sự vâng lời, trong gia đình con cái phải vâng lời cha mẹ, học trò vâng lời thày cô, người dưới vâng lời bề trên. Có người hỏi tại sao phải vâng lời cha mẹ và người trên? Thưa vì cha mẹ là người sinh ra ta và là người yêu thương ta và nhiều kinh nghiệm hơn ta. Đặc biệt với văn hóa Á đông việc vâng lời ông bà cha mẹ thày cô được nâng lên thành Đạo. Do đó một người con ngoan, thảo hiếu là người con biết vâng lời và làm theo lời dạy bảo của cha mẹ, bậc cha mẹ thì cảm thấy vui và hạnh phúc khi có những đứa con biết ngoan ngoãn vâng lời, và hãnh diện khoe với mọi người về sự thảo hiếu của con mình.

 

Cũng trong truyền thống văn hóa Á đông này, hôm nay có thể nói, Thiên Chúa tự hào về Người Con của mình là Đức Giêsu, Ngài đã “khoe” với mọi người: Đây là con ta rất yêu dấu, đẹp lòng ta, các ngươi hãy nghe lời Người.

 

Thưa quý OBACE,

Bước vào Chúa nhật thứ hai mùa chay, Lời Chúa mời gọi chúng ta học nơi Chúa Giêsu, đó là vâng nghe lời Thiên Chúa và trở thành người con làm đẹp lòng Thiên Chúa, có thái độ của một trẻ thơ, hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa và vâng nghe lời Đức Giêsu dạy. Nghe là thái độ của một người con đối với lời dạy bảo của cha mẹ, của học trò đối với thày cô, nhưng nghe cũng có nhiều cấp độ, vì có khi tai chúng ta cố tình đóng lại thì chúng ta không thể đón nhận được âm thanh, hoặc có thể có nghe, nhưng không chú tâm, không hiểu, nên lời nói không đi vào được trong tâm hồn. Hôm nay Chúa muốn chúng ta có một thái độ chú tâm hơn đó là lắng nghe và tích cực hơn nữa, đó là biết vâng nghe lời Chúa. Lắng nghe là chú ý để nghe, để hồn tĩnh lặng đón nhận, và vâng nghe, là nghe và đón nhận trong thái độ khiêm tốn, tin tưởng và thực hành như một em bé vâng nghe theo lời chỉ bảo của cha mẹ.

 

Vâng nghe lời Chúa, đòi phải có một thái độ sẵn sàng, phó thác và từ bỏ ý riêng của mình, hoàn toàn tin tưởng vào lời của Chúa, và không cần biết lý do tại sao, vâng nghe là thái độ chấp nhận, thực hành, dù có nhiều điều mình chưa thể hiểu hết. Bài đọc một đã cho chúng ta một tấm gương về sự vâng nghe Lời Chúa của ông Abraham. Khi đó Abraham là một người giàu có, nhiều của cải đất đai và súc vật, thế mà Thiên Chúa đã ngỏ lời với ông: Người hãy bỏ xứ sở, họ hàng nhà cha ngươi, mà đi tới đất ta sẽ chỉ cho. Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn, và sẽ chúc phúc cho ngươi. Với một lời mời gọi dường như mơ hồ như thế, vậy mà Abraham đã dám bỏ lại tất cả để lên đường đi theo lời chỉ dạy của Chúa, ông chấp nhận bỏ lại đàng sau ruộng đất, nhà cửa, cha mẹ, anh em, để đi đến một miền đất vô định chưa biết ở đâu, tất cà còn ở thì tương lai, vậy mà ông cũng không hỏi Chúa một câu nào, chỉ biết vâng theo để lên đường. Chính từ thái độ ngoan ngoãn vâng lời như thế mà Thiên Chúa chúc phúc cho ông, trở nên bạn hữu với ông, và còn bênh vực ông: Ta chúc phúc cho những ai chúc phúc cho ngươi, và nguyền rủa những ai nhục mạ ngươi.

 

Trong Tin Mừng hôm nay, trước khi bước vào cuộc tử nạn thập giá, để củng cố đức tin cho các tông đồ, Chúa Giêsu cho các môn đệ thân tín là Phêrô, Giacôbê và Gioan được chứng kiến giây phút hiển dung, chứng kiến gương mặt thánh thiện sáng ngời của mình để động viên tinh thần và củng cố lòng tin cho các ông. Các tông đồ hết sức ngỡ ngàng, đang khi còn ngây ngất với vinh quang ấy, thì có tiếng Thiên Chúa Cha, nói với các ông từ đám mây: Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người, các ngươi hãy vâng nghe lời Ngài. Thiên Chúa Cha hài lòng về sự vâng phục của Đức Giêsu, vì Ngài đã không chọn theo ý riêng mình, mà chọn sự vâng phục Thiên Chúa để đón nhận con đường cứu độ bằng thập giá. Còn các tông đồ, mặc dù đã đi theo Chúa nhiều năm, nhưng các ông vẫn chọn lựa theo kiểu thế gian, tìm kiếm quyền lực theo kiểu trần gian, chưa sẵn sàng để chấp nhận một Đấng Mêsia phải chịu đau khổ nhục nhã. Trong khi đó Chúa Giêsu cũng đã hoàn toàn để cho Thiên Chúa Cha dẫn dắt và định liệu cho cuộc đời mình, dù có những lúc Chúa Giêsu cũng bị cám dỗ để tìm một con đường riêng cho mình, như chúa nhật tuần trước chúng ta đã suy niệm, nhưng cuối cùng Ngài đã dùng Lời của Chúa, lời Kinh Thánh để chống trả lại cám dỗ đó, và sẵn sàng bước theo con đường của Chúa Cha đã định.

 

Các tông đồ khi chứng kiến vinh quang của Chúa, thì các tông đồ đã hạnh phúc ngây ngất, và muốn kéo dài tình trạng hạnh phúc này và quên đi thực tế trước mắt, nên các ông đã xin dựng ba lều để được ở lại trên núi, trốn tránh những thực tại của cuộc sống: Nếu Thày muốn, chúng con xin dựng ba lều. Nhưng Chúa Giêsu muốn cho các tông đồ, qua biến cố này được thêm lòng tin để đón nhận cuộc khổ hình sắp tới mà chúa sẽ bước vào. Cuộc khổ hình này chắc chắn rất kinh khủng và vượt quá khả năng tưởng tượng của các ông, và vì thế các ông cần phải có một thái độ sẵn sàng, vâng phục. Chính vì thế có tiếng Chúa Cha từ trời nói với các ông: Hãy vâng nghe lời Người. Qua lời này, Chúa Cha một lần nữa muốn các tông đồ tin và đón nhận lời của Đức Giêsu như một vị Thiên Chúa và là Đấng Mesia cứu thế, như con cái nghe lời cha mẹ, nhưng học trò vâng lời thày.

 

Từ trên núi xuống, Đức Giêsu bắt đầu nói với các ông về việc Con Người sẽ bị khổ hình và sẽ từ cõi chết sống lại. Chắc chắn lúc đó các tông đồ chưa hiểu hết những điều Chúa nói trước về cuộc khổ nạn, phần vì các ông không muốn nghe, phần vì dù có nghe, nhưng không muốn chấp nhận, để đón nhận và vâng nghe lời Đức Giêsu, để loan báo về Đức Giêsu và cuộc khổ nạn của Người, thì cần phải dựa vào sức mạnh của Thiên Chúa. Cũng giống như ngày xưa Chúa đã gọi Apraham và làm cho ông trở thành cha của một dân tộc đông đúc, giống như Đức Giêsu đã hoàn toàn vâng nghe theo lời của Thiên Chúa để cứu độ nhân loại bằng con đường thập giá, thì chúng ta cũng được kêu gọi để trở thành dân thánh của Thiên Chúa, trở nên những người thuộc về Đức Kitô, làm theo gương của Đức Giêsu và lời dạy của Ngài.

 

Thưa quý OBACE,

Vâng nghe lời Chúa luôn là một thách thức cho chúng ta, vì nhiều khi Lời Chúa không như ý chúng ta muốn, có khi còn ngược lại với ý của chúng ta, có khi Lời Chúa đụng chạm đến những góc tối, những vết thương trong tâm hồn, khiến chúng ta sợ không dám để cho Lời Chúa đụng vào. Lời Đức Giêsu luôn đòi chúng ta từ bỏ và hy sinh, trong khi cuộc sống và xã hội lại khuyến khích chúng ta chạy theo sự thỏa mãn dễ dãi, chạy theo tiền bạc và danh vọng. Trong khi xã hội cổ võ lối sống tự do hưởng thụ, thì Chúa lại đòi chúng ta vác thập giá mình hằng ngày, vì thế mà chúng ta luôn bị giằng co, và đòi chúng ta phải quyết định chọn lựa.

 

Trong bổn phận làm vợ làm chồng, làm cha mẹ, sinh sản và giáo dục con cái, hãy vâng nghe Lời Chúa và các giáo huấn của Giáo Hội, phó thác tương lai của mình và gia đình cho Chúa để Chúa dẫn dắt, hãy vâng nghe Lời Chúa để làm chuẩn mực cho đời sống và cho công việc của mình, đừng để sự gian dối, tham lam điều khiển cuộc sống của mình, đừng để cho sự lười biếng bê tha rượu chè, cờ bạc làm trì trệ cuộc sống của gia đình, gây ra bất hòa bất hạnh cho nhau.

 

Cuộc sống sung túc, tiện nghi ngày hôm nay cũng đang là một cản trở khiến nhiều bạn trẻ khó có thể nghe được Lời Chúa, những âm thanh và cuộc sống ồn ào náo nhiệt khiến cho nhiều người không còn một khoảng lặng nào trong ngày để nhìn lại cuộc sống mình, những hấp dẫn và mời chào của xã hội khiến cho nhiều người từ chối Lời của Chúa, không chấp nhận thập giá và không dám vâng theo,… tất cả những điều đó đang là thách thức cho các bạn trẻ Công giáo trong đời sống đức tin.

 

Đức Maria đã nêu gương cho chúng ta trong việc vâng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành, xin Mẹ cũng giúp mỗi chúng ta biết noi gương Mẹ, tin tưởng hoàn toàn vào Thiên Chúa, sống xứng đáng là những người con ngoan, thảo hiếu, vâng lời Thiên Chúa. Amen.

 

66.             Vinh quang Thiên Chúa

Anh chị em thân mến,

Ở ngay giữa mùa buồn (Mùa Chay), Hội thánh lại cho chúng ta nghe một câu chuyện vui mang lại niềm hi vọng cho người Kitô hữu: Câu chuyện Chúa biến hình trên núi Tabor. Vậy đâu là ý nghĩa của nó? Cuộc biến hình này xảy ra khoảng tháng 8 năm 29, trên ngọn núi Tabor (theo truyền thống kể lại; giữa Nadareth và mạn Nam hồ Tibêriađê, miến Bắc Galilêa…). Kính mời anh chị em cùng suy niệm.

a/. Một vài điểm chúng ta cần lưu ý.

Đây là một phép lạ hiếm hoi trong nhiều phép lạ Chúa Giêsu làm; mục đích sau khi công bố cuộc khổ nạn Người sắp phải chịu, và thấy phản ứng thảm nảo của các môn đệ, Chúa Giêsu tỏ vinh quang Người qua phép lạ biến hình, để củng cố lòng tin cho các ông, để họ an tâm theo Chúa và vâng nghe lời Chúa dạy.

Điểm khác: khi Chúa biến hình, xuất hiện Môisen và Êlia, hai nhận vật trong Cựu Ước. Môisen, sống cách Chúa Giêsu đến 1250 năm. Êlia, lối 900 năm. Một người đại diện cho Luật pháp, một người đại diện cho tiên tri, như là sứ giả của Thiên Chúa. Viêc này xác nhận vai trò của Chúa Giêsu, Đấng Cứu thế đã được loan báo trong Cựu Ứớc, muôn dân đang trông đợi. Trong khi biến hình, câu chuyện của ba vị nói với nhau, cũng là nói về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu sắp tới…

Khi các vị còn đang nói, thì có một đám mây bao phủ, và từ trong đám mây có tiếng phán, đây là Con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe lời Người. Đám mây nói lên sự hiện diện của Thiên Chúa, như khi Môisen dẫn dân Do thái qua sa mạc. Tiếng nói của Chúa Cha, là để xác nhận Chúa Giêsu là Đấng Cứu thế, luôn vâng phục và luôn đi theo chương trình cứu rổi nhân loại của Chúa Cha đề ra…

b/. Tại sao Chúa Giêsu để mình biến dạng, tỏ vinh quang Thiên tính mình ra cho môn đệ được thấy, một điều mà bao lâu nay Chúa Giêsu hằng giấu kín? Đây còn là mầu nhiệm; tuy nhiên, có điều chúng ta vẫn có thể hiểu được phần nào. Chúa Giêsu vì sứ mạng được Chúa Cha giao phó, đã che giấu tất cả uy quyền vinh hiển của một Thiên Chúa, trong thân phận của một con người bình thường. Như bao nhiêu người khác, Người vẫn gặp thử thách, cám dỗ, khó khăn. Người cũng vẫn lo buồn, sợ hãi trước ám ảnh của cái chết khủng khiếp mà Người phải chịu. Dù vậy, Chúa vẫn luôn vui lòng đón nhận và làm theo Thánh Ý Chúa Cha. Chúa biết việc mình làm; Chúa quyết tâm hoàn tất chương trình cứu rổi đã được vạch ra…Lúc này đây, để củng cố niềm tin cho các môn đệ, Người tỏ một chút vinh quang Thiên Chúa cho họ thấy, để họ an tâm, xác tín vào chương trình tốt đẹp của Thiên Chúa và sẵn sàng tiến bước theo Người.

Thiên Chúa muốn chúng ta biến hình như Chúa Giêsu: rõ ràng chúng ta được sinh ra và được cứu chuộc không phải để hư mất đời đời, mà là để được biến hình vinh quang trong địa vị là con cái Thiên Chúa. Dĩ nhiên ở trần gian, người ta không thấy không hiểu được linh hồn sạch tội, đẹp đẽ thế nào, và chắc chắn nó phải đẹp đẽ, vì nó là hình ảnh của Thiên Chúa, một Thiên Chúa tinh ròng, sáng láng, tuyệt mỹ, vô tỳ tích. Các thánh nói: nếu Chúa cho người ta thấy được một linh hồn tinh sạch hoàn toàn, đẹp đẽ và sáng láng thế nào, người ta sẽ không dám phạm tội, và cũng không còn ao ước ở trần gian nữa…Vì thế, biến cố Chúa biến hình chính là để loan báo cho chúng ta cuộc biến hình mai sau sáng láng trên nước trời.

c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Chúa Giêsu vì để cứu chuộc nhân loại, đã đành nhận thân phận một con người y như ta để gánh lấy tội ta, và thay ta đền tội trước mặt Chúa Cha. Dù vậy Người chính là Chúa Con, quyền năng ngang hàng như Chúa Cha. Chúng ta có tin Người là Thiên Chúa không? Câu chuyện biến hình này xác nhận điều đó.

 

67.             Gọi điện thoại trong địa phương

Một người cao cấp trong ngành kinh tế Hoa-Kỳ sang thăm Canađa và đã gọi một cú điện thoại viễn liên (long distance) từ nơi ông ở Toronto sang tận Montreal. Sau khi nói chuyện xong, ông đã hỏi giá và được cho biết là cú điện thoại viễn liên ấy tốn mười bốn đồng, năm mươi xu tiền Mỹ-kim. Vị kinh tế gia ấy nổi sùng lên và nói: “Sao đắt quá vậy? Ở xứ tôi ở, tôi gọi đến hỏa ngục hay gọi từ đó cũng chỉ mất có mười bốn đồng năm mươi xu!” Nhân viên tổng đài điện thoại trả lời: “Đúng vậy thưa ông, nơi ông ở và chỗ ông gọi đó cùng trong vùng mà thôi!”

Có những lúc trong cuộc sống, chúng ta cảm thấy Chúa Toàn Năng là Đấng quá xa vời với chúng ta. Tuy nhiên, cũng có đôi lúc ta lại cảm thấy Thiên Đàng lại rất gần với chúng ta. Bài Tin Mừng hôm nay mô tả lại một mối cảm nghiệm chót đỉnh trong cuộc sống của Chúa Giêsu và ba vị Tông Đồ.

Chúa Giêsu dẫn Thánh Phêrô, Giacôbê và Gioan “lên một ngọn núi cao” (Mt 17:1). Các ngài lên núi cao ấy để “cầu nguyện” như Thánh Luca đã thuật lại (Lk 9:28). Chúa Giêsu và ba môn đệ đã tách biệt nhau khi cầu nguyện. Mỗi vị có một nhu cầu riêng. Chúa Giêsu đã đi đến khúc ngoặc mới của cuộc sống và công việc truyền giáo của Ngài. Các kẻ thù đang toan tính ám hại Ngài, và do đó Ngài phải quyết định xem cần phải rời bỏ Đất Thánh hay tới thẳng Giêrusalem và thẳng thắn đối đầu với những kẻ muốn giết Ngài. Lúc này đây Chúa Giêsu cần biết rõ ràng Thánh Ý Chúa Cha trong vấn đề này: Ngài có đang làm công chuyện và quyết định đúng như ý Chúa Cha không? Ngài có đang làm tròn mục đích của đời Ngài không?

Còn ba vị môn đệ kia thì đây là lúc tìm sự hướng dẫn để có thể hiểu công cuộc của Chúa Giêsu. Chỉ mới tám ngày trước đó, Phêrô đã có một ánh nhìn tuyệt vời về Chúa Giêsu là: “Thầy là Đấng Thiên Sai”. Nhưng ngay sau đó, khi Chúa Giêsu mặc khải về sự đau khổ và phải chết của Đấng Thiên Sai thì Phêrô đã từ chối không muốn nghe. Ngay còn tấm bé, Phêrô đã được nghe biết rằng Vị Thiên Sai sẽ là vị tướng anh hùng vĩ đại, bách chiến bách thắng. Bởi đó, lúc này đây thật là khó cho Phêrô có thể chấp nhận Chúa Giêsu như là “Người Đầy Tớ Đau Khổ”; và do vậy Phêrô đã nói với Chúa: “Điều ấy sẽ không xảy đến cho Thầy, lạy Chúa”. Nhưng Chúa Giêsu đã gay gắt mắng Phêrô: “Hãy lui ra sau Ta, Satan! Ngươi là cớ vấp phạm cho Ta; vì ngươi chỉ theo ý loài người mà không theo ý Thiên Chúa” (Mt 17:22- 23). Chính vì thế, giờ đây ba vị môn đệ cần phải cầu nguyện xin được ơn soi sáng trong vấn đề này. Khi Chúa Giêsu và môn đệ đang cầu nguyện thì Môisê, đại diện cho Luật và ‘lia, đại diện cho các ngôn sứ, hiện ra và đàm đạo với Chúa. Thánh Mátthêu muốn cho chúng ta hiểu rằng Chúa Giêsu và ba môn đệ đã phải suy ngắm sâu xa về truyền thống và quá khứ của họ hầu có thể tìm ra được Ý Thiên Chúa. Và chúng ta có thể dường như nghe được tiếng của Môisê và ‘lia xác định những gì Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: “Ngài nói đúng!… Hãy nghe lời Ngài! Hãy cùng đi với Ngài lên Giêrusalem mà đừng để ý tới những trắc trở.”

Khi mà một người được cảm nghiệm sự hiện diện của Chúa trực tiếp như trên núi cao xưa thì thật khó mà tìm lời để diễn tả tâm tình mình. Trong trường hợp này, các Thánh Sử Tin Mừng đã diễn tả cách hay nhất cho chúng ta. Các ngài thuật rằng kìa có một đám mây xuất hiện, và mây trong quan niệm cổ thời bấy giờ được coi là có sự trực tiếp Hiện Diện Vinh Quang Thiên Chúa. Rồi từ đám mây ấy, Thiên Chúa trực tiếp phán ra. Nôm na cho vui, đây là cú điện thoại trong vùng nhưng nó mang ý nghĩa rất quan trọng đối với chúng ta. Thiên Chúa đến với chúng ta trong muôn ngàn cách, nhưng không có cách nào quan trọng hơn khi Ngài tỏ Mình trực tiếp với chúng ta và chúng ta cảm nghiệm được sự đối diện trực tiếp ấy với Ngài cách rõ ràng mật thiết. Chúa Giêsu và ba môn đệ kia chắc chắn đã muốn trèo lên núi cao để có thể cảm nhận cách rõ ràng mật thiết sự Hiện Diện Linh Động của Thiên Chúa. Mối cảm nghiệm đó rồi nó cũng tự kết thúc, song các ngài còn trách nhiệm phải đáp trả. Phêrô đã muốn dựng mấy lều và lưu lại luôn trên núi đó. Điều này xảy ra chúng ta cũng dễ hiểu thôi, vì ngay như chúng ta chỉ mới được Thánh Thần soi sáng xoa dịu trong những cuộc tĩnh tâm thôi mà đã không muốn bỏ đi rồi. Chúa Giêsu đã tảng lờ lời đề nghị của Phêrô và dẫn các ông xuống núi trở về lại xóm làng. Khi các ngài trở lại thôn xóm đã nhìn thấy gì? Các ngài đã nhìn thấy những nhu cầu cần thiết của dân chúng. Ngay tức khắc, các ngài đã phải nghe lời van xin của một người cha cho con mình: “Xin Thầy hãy thương đến con trai tôi vì nó bị bịnh phong giật khổ sở lắm” (Mt 17:15).

Trong Giáo Hội có những dòng tu chuyên lo việc cầu nguyện và điều đó rất tốt! Song phần đông còn lại chúng ta chuyên chú trong việc cầu nguyện cần phải theo Chúa Giêsu xuống khỏi núi mà đi vào những thôn xóm đang cần sự giúp đỡ. Những người theo Chúa Giêsu phải biết trung thành và cân bằng trong việc cầu nguyện và hoạt động!

Nhiều lần Chúa Giêsu đã trách mắng đám đông theo Ngài vì họ chỉ muốn xem phép lạ. Ngài đã từ chối không muốn trở thành Vị Thiên Sai phù phép của họ. Thường xen kẽ giữa những lúc tuyệt vời của dấu lạ và phép lạ là những ngày dài khó khăn, bẩn thỉu, đói khát thực hành sự vâng phục đối với các môn đệ Chúa Giêsu. Nếu bốn cuốn Phúc Âm dài gấp ngàn lần cuốn hiện tại thì chúng sẽ ghi nhiều những công việc của Chúa Giêsu trong ba năm hoạt động công khai, và rất có thể chúng ta sẽ ngạc nhiên khi thấy những hoạt động của Chúa trong những ngày ấy thật bình thường. Chúng ta có thể chắc rằng giữa cuộc cảm nghiệm ngây ngất trên núi là những ngày gian nan khó khăn trong các xóm làng, đó là lúc các môn đệ Chúa phải vượt qua bằng đức tin chứ không phải bằng dấu lạ.

 

68.             Chúa biến hình – Lm. Thomas Túy, OP

Năm mới nào cũng vậy, cứ vào thời gian ngay sau tết âm lịch, núi Bà Đen, Tây Ninh, nhộn nhịp hẳn lên vì khách hành hương từ các tỉnh tuôn đến xin xâm, bói quẻ ở chùa Bà, chùa Hang. Hai ngôi chùa ở lưng chừng núi, cách nhau hơn vài trăm mét. Nhưng tới được chúng quả là một hành trình vất vả, phải mất đến cả tiếng đồng hồ, leo các bậc thang bằng những viên đá đủ kích cở. Vậy mà hàng ngày có đến hàng ngàn hàng vạn khách đi xe đến viếng thăm. Những thanh niên khỏe mạnh có thể leo tới đỉnh núi, cao chừng hơn ba trăm mét. Nhưng tới được đỉnh thì quả là một phần thưởng: Không khí trong lành, mát mẻ, quang cảnh chung quanh bao la bát ngát, tầm mắt có thể phóng tới chân trời. Bên dưới là một bức tranh toàn cảnh đầy màu sắc: ruộng vườn, làng mạc, sông lạch, rừng rậm, cây cối xanh tươi, trâu bò làm đồng, người cầy cấy coi như con kiến. Quả là một bồng lai tiên cảnh. Thiết nghĩ đây là điểm du lịch hấp dẩn ngoài việc tín ngưởng, tâm linh.

Xin nhập đề như vậy để quí vị có thể tưởng tượng được nội dung biến cố Chúa biến hình trên núi Tabor hôm nay, Phúc âm không định vị rỏ ở đâu. Thánh Matthêu chỉ viết: “Sáu ngày sau, Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan là em ông Giacôbê đi theo mình. Người đưa các ông ra riêng một chổ, tới một ngọn núi cao. Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông”. Theo Luca thì việc này xẩy ra khi Chúa còn đang rao giảng ở Galilêa (Lc 9,28). Mathêu cũng đồng ý với Luca:” Từ lúc đó, Đức Giêsu bắt đầu tỏ cho các môn đệ: Người phải đi Giêrusalem, phải chịu đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết”(Mt 16,21). Truyền thuyết cho rằng ngọn núi đó là núi Tabor, ở giửa cánh đồng, gần Nazareth, cao chừng 750 mét, đúng như vị trí của núi Bà Đen, nhưng cao gấp đôi, vì Bà Đen chỉ hơn 300 mét cũng ở giửa đồng bằng chung quanh là làng mạc, sông ngò và rừng rậm. Ngày nay Tabor có đường xe hơi lên tận đỉnh núi. Thời Chúa Giêsu làm chi đã có, nên phải leo bộ, chúng ta cùng leo núi với Chúa.

Chiều cao này có ý nghĩa biểu tượng và khi lên được tới đỉnh, người ta cũng ở trong tiên cảnh bồng lai. Thánh Phêrô sau này hồi nhớ lại nên bảo Marcô viết: “Thưa Thầy chúng con ở đây thật là hay”, nghĩa là các ông cũng giống chúng ta ở đỉnh núi Bà Đen, nhưng theo nghĩa thiêng liêng, tức là các ông đang ở trong toàn cảnh thánh thiện trước mặt Đấng là sự thánh thiện tuyệt đỉnh. Ai có thể không có ý nghĩ như vậy?

Nhưng leo lên được đỉnh núi với Chúa không phải là chuyện dể dàng. Các ông phải lao động vất vả cả về nghĩa vật chất lẩn tinh thần. Những ai muốn thử kinh nghiệm xin đi Tây Ninh và leo lên đỉnh Bà Đen. Bảo đảm nhiều người sẽ chào thua mà trở về chân núi. Leo núi thánh thiện với Chúa cũng vậy, nếu không có ơn Chúa trợ giúp, chứ không phải như thiên hạ tưởng tượng.

Chắc chắn chúng ta phải leo cực nhọc, bước những bước khốn khổ trượt ngả trên đường đi đầy sỏi đá lởm chởm mới tới được ngọn núi thánh thiện. Rồi phải liên lỉ cầu xin ơn trợ giúp như Luca kể: “Đang lúc Người cầu nguyện, thì dung mạo bổng đổi khác”(ibi). Cho nên người ta phải vất vả leo núi Tabor thiêng liêng cùng với Chúa và ba môn đệ Phêrô, Giacôbê, Gioan.

Vậy thánh thiện là gì, làm thế nào tới được bậc đó? Hôm qua thứ bẩy, Chúa nói:” Anh em hảy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện”(Mt 5,48). Như thế Đức Giêsu định nghĩa thánh thiện là chính Đức Chúa Trời. Chúng ta phải rập theo khuôn mẩu đó mà sống. Cụ thể lối sống của Đức Giêsu khi còn ở trần gian. Chiều chuộng xác thịt, ăn cắp ăn trộm, lừa đảo, giả hình chắc chắn không phải là cuộc sống mà Đức Kito muốn. Chúng ta thường lấy mình ra làm “thước đo” mọi sự.

Thiên Chúa đã chỉ định cho ông Môsê ban lề luật cho tuyển dân mù quáng để họ biết đường hoàn thiện và thờ phụng Thiên Chúa cho phải đạo. Vì chính Thiên Chúa mới là “thước đo” và mẩu mực cho nhân loại. Bây giờ Môsê cũng ở trên đỉnh núi với Đức Giêsu trong cương vị ban lề luật để trao quyền lại cho Chúa mà ông đã hằng tiên tri từ lâu trước. Lúc này Đức Giêsu vừa là người trao ban lề luật vừa là luật pháp cho nhân loại. Chúng ta vâng phục lời Ngài ra sao? Thật là khó, vì Ngài là Thiên Chúa vô cùng thánh thiện, làm sao loài người theo cho nổi?

Vì vậy Ngài phải “thích nghi” với điều kiện nhân loại trong biến cố nhập thể và Đức Chúa Cha đã phán: “Này là con ta yêu dấu, đẹp lòng ta mọi đàng. Các ngươi hảy vâng nghe lời Ngài”. Như thế Đức Giêsu là lời giải thích, là lề luật cho mọi hành động của con người. Nhân loại phải suy tư về Ngài, học hỏi và bắt chước Ngài để nên trọn lành đích thực, chứ không giả hình lừa dối. Chính Ngài tự xưng là đường là sự thật, sự sống để chúng ta đi về với Thiên Chúa.

Việc thay hình đổi dạng khởi sự khi mổi linh hồn lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội. Lúc ấy chúng ta chết đi cho xác thịt để sống với Đức Kitô. Đời sống này không phải là tương lai, nhưng là hiện tại ngay lúc lãnh nhận thanh tẩy và là những nội dung chúng ta phải sống hàng ngày. Những ai suy nghĩ đời sống thánh thiện thuộc tương lai, thì hoàn toàn sai lầm và sai lầm thì phải trả giá. Chúa Giêsu không hề tuyên bố đời sống trọn lành thuộc về tương lai mà thôi. Ngài nhiều lần nhấn mạnh nó là cuộc sống hiện tại:” Xưa ta đói các ngươi không cho ăn, ta tù đày các ngươi đâu có viếng thăm ta?”. Cho nên vật lộn để sống đẹp lòng Thiên Chúa như Đức Kitô dạy là cấp thiết. Sự thực thánh thiện và cuộc sống vĩnh cửu đã ở nơi chúng ta ngay trong Bí tích Thánh Tẩy. Chúng ta phải phát triển nó từ tấm bé cho đến tuổi già. Giả dụ Thiên Chúa muốn chúng ta phải sáng tỏ sự thánh thiện của mình như Chúa Giêsu hôm nay trên núi Tabor, thì chúng ta cư xử ra sao và tiếng từ trời cũng phán: ông A, chị B, em C là những con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng, liệu mấy ai khoe mình được như vậy? Hay chỉ bằng môi miệng, lừa dối thiên hạ.

Nói như vậy không phải là ngoa, nếu nghĩ đến mỗi lần rước lễ xong. Bí tich Thánh Thể là chính sự hoàn thiện đang ngự trong mỗi linh hồn tín hữu, linh mục, tu, sĩ. Nó phải được chiếu sáng ra nếu các dục vọng của mỗi người không ngăn cản, phủ lấp đi. Mỗi khi chúng ta tham dự thánh lễ, làm việc bác ái, lãnh nhận các bí tích là tăng cường vẻ sáng ngời thánh thiện của tín hữu cho thiên hạ chiêm ngưỡng như một biến cố biến hình vậy. Nếu chúng ta trung thành với ơn gọi bằng suy nghĩ, lời nói, việc làm là lớn lên trong cuộc sống thiêng liêng. Mỗi khi cố gắng chu toàn bổn phận là leo núi Tabor.

Và con đường là thánh giá. Môsê và Êlia hiện diện trên núi thánh bàn bạc với Đức Kitô về cuộc khổ nạn của Ngài? Làm sao chúng ta tránh khỏi? Liệu chúng ta được phép xưng mình là môn đệ Chúa mà không phải vác lấy thập tự hàng ngày? Thánh Phaolô khuyên Timôteô:”Hãy chịu đựng gian khổ mà Phúc âm đòi hỏi”. Qúi vị nghĩ sao? Tận hưởng cuộc đời dễ dãi đầy tiện nghi và vẫn coi mình là môn đệ Chúa rồi hùng hồn rao giảng thập giá Đức Kitô! Trớ trêu quá.

Thôi, xin bỏ ngọn núi vật chất để nói đến quả núi thánh thiện mà Đức Kitô đã leo trong suốt cuộc sống của Ngài. Quả núi ấy là gì? Chẳng phải là xe hơi nhà lầu, kẻ sai người bảo mà là yêu thương phục vụ theo ý Đức Chúa Cha cho đến chết, và chết trên thập tự, chứ không êm ái trên giường bệnh hay nhà thương sang trọng, đắt tiền. Chết nhục nhã, chịu lăng nhục chửi bới chứ không điếu văn, diễn từ ca tụng. Đó là con đường người môn đệ Chúa phải nương theo trong cuộc sống để chu toàn theo thánh ý Thiên Chúa. Cụ tổ Abraham của bài đọc 1, đã 75 tuổi lìa bỏ tất cả, quê hương, tài sản di theo tiếng gọi vô hình của Đức Chúa Trời, lang thang thiếu thốn nơi đất khách quê người, không quản ngại điều chi trước tôn nhan Đức Chúa mà ông hết lòng kính sợ. Chúa Kitô phải chịu đựng nhiều hơn khi chu toàn mệnh lệnh của Đức Chúa Cha. Ngài ở giữa một đám đông thù nghịch, phản đối, chê cười, hận thù và giết chết. Hai mẫu gương cho nhân loại noi theo mà nên thánh thiện, chứ không phải chăn ấm nệm yên, ngày ngày yến tiệc linh đình. Đây là mẫu mực để chúng ta tuân giữ mùa chay và con đường hoàn thiện. Đức Giêsu cầu nguyện, ăn chay, chống trả cám dỗ, sống trong cô tịch, phục vụ người nghèo khó bệnh tật, yêu thương, đau khổ và chết, là khuôn mẫu mùa chay của các tín hữu, xin đừng cắt nghĩa kiểu khác để trốn tránh con đường thiêng liêng. Đó là bí quyết duy nhất để leo núi Tabor của chúa. Đường lên núi thánh không đi được bằng xe hơi, ngủ trong quán trọ nhà lầu, ăn cao lương mỹ vị như thiên hạ ngày nay biện minh. Con đường của họ chỉ có thể đưa xuống hố sâu của những người mù, như Đức Kitô đã cảnh cáo.

Cho nên khuôn mẫu để sống đẹp lòng Đức Chúa Cha không bao giờ thay đổi, từ ông Abraham, các tổ phụ, các tiên tri cho đến Chúa Giêsu. Bao lâu còn có tội lỗi trên thế gian, thì bấy lâu kẻ theo con đường thánh thiện của Thiên Chúa còn phải gánh chịu khổ nạn, tử đạo, chối bỏ từ tay thế gian ngay cả từ tay bạn hữu, người thân như Chúa Giêsu đã phải gánh chịu.

Đức Giêsu tóm gọn các giới răn, bát phúc, và các tiêu chuẩn thánh thiện vào cuộc sống yêu thương và phục vụ. Liệu chúng ta được phép đi con đường khác mà vẫn nên thánh? Quả là hoang tưởng khi người ta từ bỏ ăn chay, hảm mình, làm phúc bố thí, bác ái, đau khổ và cái chết nhục nhả để giữ các hình thức khác trong mùa hồng phúc!

Đến đây chúng ta đụng đến vấn đề cốt lõi: Bí quyết để nên trọn lành. Các vĩ nhân đều có bí quyết để thành công. Thí dụ: Thương gia, buôn bán phát tài. Không có luật trừ cho việc nên thánh. Những thiên tài này đều có một cảm tính đặc biệt để thành công, nằm sâu trong trái tim họ. Riêng trong lãnh vực tôn giáo chúng ta gọi các chuyên viên này là các thánh và họ đả kín múc cảm tính của mình trong Thiên Chúa nhập thể. Vậy muốn nên trọn lành như họ, chúng ta phải noi gương họ: Học hỏi, yêu mến Chúa Giêsu. Con đường ngắn nhất để được gọi là con yêu dấu của Thiên Chúa Cha đẹp lòng Ngài mọi đàng. Ước chi mùa chay này mọi tín hữu tìm được bí quyết và con đường ấy. Amen.

 

69.             Suy niệm của Đinh ngọc Thiệu

Câu hỏi gợi ý:

Thiên Chúa biểu lộ vinh quang của Ngài như thế nào?

Việc Chúa tỏ bày vinh quang mang lại lợi ích gì cho ta? Và qua đó, Ngài muốn nhắc nhở chúng ta điều gì?

Suy tư gợi ý:

Thiên Chúa biểu lộ vinh quang của Ngài như thế nào?

Thiên Chúa biểu lộ vinh quang của Ngài bằng nhiều thể thức khác nhau:

Khi thì uy hùng lẫm liệt: như trong trường hợp Thiên Chúa ban bố 10 điều răn tại núi Si-nai trong tiếng sấm nổ rền vang, khói toả nghi ngút làm cho dân Do Thái phải khiếp sợ (Xh 20, 16-31); hoặc bằng cánh tay mạnh, Ngài đưa dân Do Thái vượt qua biển đỏ chân khô ráo trong khi binh hùng tướng mạnh của Ai Cập cùng với xa mã đuổi theo bị vùi dập trong làn nước biển (Xh 14, 15-31); trên đường dẫn đến Đa-mát, trong ánh sáng chói loà, Ngài đã làm cho Phao-lô ngã ngựa, mắt ông bị quáng ba ngày sau mới thấy lại được (Cv 9, 1-19)

Khi thì êm ái thân mật: trường hợp Ap-ram và Môi-sen đã gặp gỡ chuyện trò với Chúa mặt giáp mặt, Sa-mu-en được Chúa gọi ban đêm (1Sm 3,1-14), hay thánh Giu-se (Mt 1, 20; 2, 20) và các đạo sĩ Phương Đông đã được Chúa báo mộng (Mt 2,12).

Khi thì huy hoàng rực rỡ như trường hợp Đức Giêsu biến hình trên núi được diễn tả trong bài Tin Mừng thánh Matthêu hôm nay.

Việc Chúa tỏ vinh quang mang lại lợi ích gì cho ta? Và qua đó,Ngài muốn nhắc nhở chúng ta điều gì?

Khi tỏ bày vinh quang bằng những dấu lạ điềm thiêng, Thiên Chúa luôn nhằm đáp lại một nhu cầu nào đó của con cái Ngài:

Để dẫn dắt: như cột mây dẫn đường cho dân Do Thái trong sa mạc (Xh 13,21-22;15,19-20).

Để cứu giúp dân khi gặp khó khăn hay khi bị quân địch vây khốn.

Để chữa lành các bệnh nhân, nâng đỡ, bồi bổ sinh lực cho những kẻ yếu đuối.

Và nhất là để củng cố niềm tin cho các tông đồ và dân chúng.

Trong bài sách Sáng Thế hôm nay, Ap-ram sở dĩ dám rời xứ sở, họ hàng và thân phụ để đi đến một vùng đất mới mà Thiên Chúa sẽ chỉ cho ông vì ông đã được tiếp cận với Thiên Chúa. Ngài đã thiết lập giao ước với ông, và hứa sẽ làm cho ông thành một dân lớn (St 12,1-2). Nhờ lòng tin mạnh mẽ và nhờ ơn trợ giúp của Ngài, ông đã vượt qua mọi thử thách và đi đến cùng đích, để trở thành cha của những kẻ tin vào Thiên Chúa.

Trong thư thứ hai gửi ông Ti-mô-thê, thánh Phao-lô nhờ vào sức mạnh của Thiên Chúa đã sẵn sàng chịu mọi cực hình tù tội vì danh Đức Kitô. Thánh nhân đã khuyên ông Ti-mô-thê: “Thiên Chúa đã cứu độ và kêu gọi chúng ta vào dân thánh của Người không phải vì công kia việc nọ chúng ta đã làm nhưng là do kế hoạch và ân sủng của Người. Ân sủng đó Người đã ban cho chúng ta từ muôn thuở trong Đức Kitô Giêsu, nhưng giờ đây mới được biểu lộ, vì Đấng Cứu Độ chúng ta là Đức Giêsu Kitô đã xuất hiện” (2 Tm 1, 9-10)

Trong cuộc đời công khai của Đức Giêsu, Ngài đã tỏ vinh quang bằng nhiều phép lạ: biến nước thành rượu (Ga 2,1-12), hoá bánh ra nhiều (Mt 14, 13-21; 16, 32-39), chữa lành các bệnh nhân: những người mù, què, câm, điếc (Mt 4, 23-24) phong hủi, cho người chết sống lại (Ga 11,1-44). Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã biến hình trước mặt ba tông đồ thân tín: “Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng và kìa các ông thấy Môsê và ông Êlia hiện ra cùng đàm đạo với Người”. Nhìn thấy thế, các ông vô cùng sung sướng, nhưng khi nghe tiếng phán từ đám mây sáng: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng lời Người” thì các ông đã kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất……

Mặc dầu được ở kề cận với Đức Giêsu, được Ngài trực tiếp huấn luyện, các tông đồ nhiều lần còn tỏ ra nghi ngại khi dấn thân vào cuộc sống phiêu lưu “rày đây mai đó”, “Con chồn có hang,con chim có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu.” (Mt 8,20). Và thậm chí – vì sợ bị thiệt thòi khi theo Chúa – có vị đã mạnh dạn đặt với Chúa một câu hỏi rất khó nghe: “Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy. Vậy chúng con sẽ được gì?” (Mt 19,27). Rồi khi Đức Giêsu loan báo về bí tích Thánh Thể: “ … ăn thịt và uống máu Con Người …..” (Ga 6,53), nhiều môn đệ lấy làm chướng tai nên đã rút lui, không còn đi với Ngài nữa. Dù đã quyết tâm theo Chúa, các tông đồ vẫn chưa dứt bỏ được những cố tật: tham lam chức quyền, địa vị, quyền lợi (Mt 20,20-23), thích dựa vào quyền lực, vũ khí (Mt 26,52).

Việc Chúa tỏ vinh quang là nhằm củng cố niềm tin nơi các môn đệ. Việc Đức Giêsu biến hình trở nên sáng láng, hay những dấu lạ Ngài làm, như gián tiếp nói với các tông đồ cũng như cho mọi người: “Có Thầy đây! Đừng sợ!” (Mt 10,26-31) Ngài luôn có mặt trong vũ trụ, làm chủ vũ trụ và sẵn sàng giúp đỡ những ai kêu cầu Ngài: “Hỡi những ai yếu nhọc và gánh nặng, hãy đến cùng Ta, Ta sẽ bổ sức cho”. Ngài muốn chỉ cho chúng ta thấy giá trị của đau khổ. Đau khổ chính là cửa hẹp, là đường dẫn đến vinh quang.

NGUYỆN

Lạy Chúa Giêsu, suốt 33 năm sống ở trần gian, Ngài đã nêu gương cho chúng con trong sự vâng lời làm theo ý Đức Chúa Cha. Và khi về trời, Ngài đã sai Đức Chúa Thánh Thần đến để giúp chúng con hiểu biết và thực thi những điều Ngài đã dạy chúng con. Xin Chúa cho mỗi người chúng con trong bất cứ tình huống nào của cuộc sống, luôn vững tin và cậy dựa vào Chúa, Đấng là chủ vũ trụ, Ngài luôn hoạt động để biến đổi thế giới.

 

70.             “Dung nhan Đức Giêsu chói lọi như mặt trời”

(Suy niệm của Lm. Giuse Võ Tuấn)

Kính thưa Quý ông bà và anh chị em,

Giáo hội cho chúng ta nghe bài Tin Mừng quen thuộc tả lại cảnh Chúa Giêsu biến hình trong quảng thời gian của Mùa Chay, vừa như muốn chúng ta thấy vẻ vinh quang của Chúa Giêsu, vừa muốn nhắc bảo chúng ta: cũng chính Chúa Giêsu ấy đã chịu cám dỗ và đã thắng. Đó cũng chính là con đường mà người tín hữu Kitô sẽ đi qua, nghĩa là chúng ta cũng phải trải qua những đau khổ, những hy sinh, để rồi trong Đức Kitô chúng ta sẽ đạt được chiến thắng huy hoàng.

Ngoài điểm liên hệ giữa bài Tin Mừng và Mùa Chay nói trên, chúng ta còn thấy được nhiều điểm mà thánh Matthêô đã lồng vào trong Cựu ước để minh chứng Chúa Giêsu là Đấng đến để giảng dạy như lời các tiên tri đã loan báo, và đặc biệt là ông Môsê đã nói trước khi lìa đời: “ Từ giữa các anh em ngươi, Thiên Chúa của ngươi sẽ cho chỗi dậy một tiên tri như Ta, các ngươi sẽ nghe Ngài “ (Đnl. 18, 15).

Thật vậy, để xua tan mây mù đen tối về cuộc khổ nạn mà Chúa Giêsu đã báo cho các tông đồ ở Xêrasê Philipphê (Mt. 16, 21 – 28); thì Chúa Giêsu hôm nay đã cho các đồ đệ thân tín được thấy vẻ vinh quang của Ngài, và nhất là được nghe lời trấn an từ trời cao cùng với sự minh chứng của Cựu ước, hầu an tâm bước theo Chúa và vâng nghe lời Ngài dạy, cũng như đứng ra kế thừa sự nghiệp Ngài để lại sau nầy.

Theo trình thuật, chúng ta thấy chỉ có “các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan được Chúa Giêsu gọi riêng đi theo Ngài lên núi Tabor, là chứng nhân mục kích cuộc biến hình của Chúa hôm nay”. Thật sự, có một sự liên hệ giữa biến cố trên núi Tabor và biến cố xảy ra ở núi Cây Dầu. Trên núi Tabor, Phêrô, Giacôbê và Gioan thấy Chúa Giêsu biến hình khi thần tính Ngài biểu lộ một cách đặc biệt; Thì trên núi Cây Dầu, cũng chính ba môn đệ đó đã chứng kiến Chúa Giêsu hấp hối, trong đó nhân tính Ngài được tỏ lộ một cách đặc biệt. Vậy hai biến cố nầy đã bổ túc cho nhau để cho chúng ta thấy Chúa Giêsu toàn diện: là Thiên Chúa thật và là con người thật.

Và cũng giống như ông Môsê trên núi Sinai hôm xưa, sau khi đã có cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa của giao ước: “Dung mạo Chúa Giêsu bỗng rực rỡ như mặt trời, và y phục Ngài trắng tinh như ánh sáng”. Thật ra, trong trường hợp của Môsê thì đó chỉ là sự phản chiếu trong chốc lát ánh hào quang của Thiên Chúa; còn đối với Chúa Giêsu thì lại là sự lan tỏa của chính hữu thể của Ngài, là sự chiếu giãi của vinh quang Ngài.

Chúng ta thấy cả ba Phúc Âm Nhất lãm đã ghi nhận có hai nhân vật cùng hiện ra đàm đạo với Chúa Giêsu, dây là hai con người đầy uy lực và là hiện thân cho cả Cựu ước. Môsê là biểu tượng của lề luật, Elia là đại diện cho hàng ngũ tiên tri. Người ta tin rằng: ông nầy sẽ trở lại vào thời sau hết, để đi trước dọn đường cho Đấng Messia ngự đến. Hai nhân chứng hiện ra rồi chợt biến mất muốn ám chỉ rằng: giao ước cũ nay đang được hoàn thành nơi Đức Giêsu Kitô.

Thánh Matthêô còn nhắc đến đám mây sáng ngời bao phủ ba môn đệ, thì trong Cựu ước đó chính là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa dân Người qua sa mạc (Xh. 13, 21). Như vậy từ nay, Chúa Giêsu sẽ là sự hiện diện đích thực ấy của Thiên Chúa giữa loài người. Cũng từ đám mây ấy vang lên một tiếng phán, chúng ta thấy ở đây lặp lại từng chữ trong tiếng phán với một mình Chúa Giêsu khi Ngài chịu phép rửa tại sông Giođan: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người “, nhưng còn thêm: “Hãy vâng nghe lời Người “, điều nầy nhắc cho chúng ta thấy 3 điểm:

Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa.

Chúa Cha hài lòng về Chúa Con và rất yêu mến Người.

Những ai tin Thiên Chúa thì phải nghe lời Chúa Giêsu.

Kính thưa Quý ông bà và anh chị em,

Cuộc biến hình của Chúa hôm nay dạy chúng ta nhiều bài học:

Thứ nhất, chúng ta đừng thích mơ tưởng đến những mặc khải lạ lùng của Thiên Chúa vì Người chỉ dành cho những ai Người muốn. Giống như ở Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu chỉ đem theo ba môn đệ và dặn họ không được tiết lộ với ai về thị kiến cho đến khi Người sống lại. Vậy mà đến giờ phút khổ nạn, các ông vẫn là những môn đệ bỏ Thầy, thậm chí chối Thầy như thường!

Thứ hai, chúng ta thấy con đường bình thường người môn đệ Chúa phải đi, đó là con đường luôn ngang qua bóng tối đức tin của đời thường, chứ không như Phêrô cảm thấy quá sung sướng được ở trên núi và ông đề nghị dựng ngay ba lều để định cư luôn ở đây.

Còn chúng ta, chúng ta cũng thường thích ở lại nơi đâu mà mọi sự xảy ra có vẻ như ý, nơi đâu mà đức tin cũng như đời sống đạo của mình xem ra an toàn và chúng ta cảm thấy Thiên Chúa rất gần, để rồi chúng ta nghĩ rằng, chính khi đó chúng ta mới thực sự là Kitô hữu. Thật ra, Thiên Chúa không kém gần gũi chúng ta trong giờ phút khô khan của sa mạc, hơn là trong những lúc dịu êm dưới bóng mát của ốc đảo xanh tươi.

Lạy Chúa Giêsu vinh quang, chúng con xin được hiệp cùng ba tông đồ quý yêu của Chúa, chiêm ngắm Chúa trong ánh sáng thiên đàng để được ghi dấu ấn thật sâu trong Thiên Chúa Cha; đó là “ hãy vâng nghe lời Chúa “ hầu có động lực thực hiện lời Chúa trong mọi cảnh huống của cuộc đời. Cũng như ba vị đã chìm sâu trong cơn khổ sầu nơi vườn Cây Dầu sau đó, thì cuộc đời của chúng con và nhiều anh em chung quanh chúng con hầu như luôn ngụp lặn trong biển hồ rầu rĩ và oán ghét nhau.

Chúng con ước mơ ánh sáng sẽ đánh tan bóng tối, và mong chờ Lời Chúa được người người thực hiện để niềm vui lan tỏa và hạnh phúc tràn về. Chúng con tin ở Lời Chúa, chúng con nghe Lời Chúa, chúng con sẽ cố gắng thực hành Lời Chúa hầu xứng đáng là con cái Chúa. Xin Chúa chúc lành chúng con. Amen.

 

71.             Suy niệm của JKN 2

Câu hỏi gợi ý:

  1. Điều các tông đồ thấy nơi Đức Giêsu khi Ngài hiển dung trên núi khác với điều các ông thấy nơi Ngài hằng ngày ở chỗ nào? Trường hợp nào các ông thấy được bản chất của Ngài?
  2. Chúng ta cần hành xử với mọi người đúng theo bản chất con người họ, hay theo những gì chúng ta thấy ở bên ngoài? Bản chất đích thực và sâu xa nhất của mỗi người là gì?
  3. Bản chất đích thực của mọi người chung quanh ta – là hình ảnh và là con cái Thiên Chúa – có hiện ra trước con mắt đức tin của ta không? Ta thường hành xử theo con mắt đức tin hay theo con mắt xác thịt?

 

Suy tư gợi ý:

  1. Bản chất và hiện tượng

Khi cứu xét một sự vật, dù lớn hay nhỏ, tâm hay vật, trừu tượng hay cụ thể… bất cứ triết lý nào, đông phương cũng như tây phương, đều nói đến và phân biệt hai phạm trù căn bản này: bản chất và hiện tượng.

– Hiện tượng: là những gì hiện ra trước mắt mọi người, thấy được dễ dàng, và thường thay đổi, nay thế này mai thế khác. Chẳng hạn, đối với một người, thì hiện tượng là những gì liên quan đến hình dạng (khuôn mặt, chiều cao, vẻ đẹp, mầu da), khả năng (trình độ văn hóa, nghề nghiệp, chuyên môn, tài nghệ), tính nết (quan niệm, tư tưởng, thói quen, các khuynh hướng), sở hữu (sự giàu nghèo, của cải, nhà cửa), v.v…

– Bản chất: là cái sâu thẳm bên trong, khiến cho một vật là chính nó, chỉ thấy được bằng trí tuệ, và tương đối không thay đổi.

 

  1. Khi Đức Giêsu hiển dung, các tông đồ thấy được bản chất của Ngài

 

Khi sống với Đức Giêsu, các tông đồ chỉ thấy được những hiện tượng bên ngoài của Thầy mình: thân xác, thói quen, lời nói, việc làm, với những lời giảng dạy, những phép lạ, v.v… Từ đó các ông dự đoán về bản chất của Thầy mình: trước hết Ngài là một Thầy Đạo vì Ngài dạy về đạo lý, tôn giáo; kế đến Ngài là người được Thiên Chúa sai đến, là người của Thiên Chúa, vì Ngài có thể nhân danh Thiên Chúa mà làm phép lạ, chữa bệnh, trừ quỉ… Sự hiểu biết của các ông về bản chất của Ngài chỉ là dự đoán, căn cứ trên những hiện tượng mà các ông thấy được, tuy đúng, nhưng chưa phải là bản chất đích thực và sâu xa của Ngài.

 

Nhưng vào thời điểm của bài Tin Mừng này, các ông được nhìn thấy nhãn tiền bản chất của Thầy mình qua những hình ảnh mang tính biểu tượng diễn ra trước mắt các ông. Ngài đứng giữa Môsê và Êlia, là hai nhân vật vĩ đại tiêu biểu cho Lề Luật và các ngôn sứ, là hai thực tại nền tảng của tôn giáo Do Thái. Đứng giữa hai ông, điều đó có nghĩa là Ngài lớn hơn hai ông. Toàn cảnh – với y phục rực rỡ, mây trắng bao phủ – biểu tượng cho sự vinh quang cùng tột của Ngài. Câu nói từ trong đám mây phán xuống cho các ông biết rõ bản chất đích thực của Ngài: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người”. Vậy thì Ngài chính là Con Thiên Chúa. Điều các ông thấy bằng mắt, nghe bằng tai về Thầy mình hôm nay là bản chất đích thực của Ngài, khác với bình thường các ông chỉ thấy những hiện tượng bên ngoài của Ngài.

 

  1. Chúng ta cần thấy được bản chất của mình và tha nhân

Trong đời sống, chúng ta chỉ nhìn thấy được những hiện tượng bên ngoài của sự vật, của người này người nọ. Và qua những hiện tượng ấy, tâm trí ta tìm kiếm, khám phá ra bản chất của sự vật, của con người. Tuy nhiên, nếu chỉ căn cứ vào những hiện tượng bên ngoài, sự phán đoán của ta về bản chất của sự vật hay của con người có thể sai lầm. Thấy được bản chất đích thực của người, việc, vấn đề ta gặp trong cuộc đời là điều hết sức quan trọng để chúng ta hành xử đúng, thích hợp.

 

Trong đời sống, rất nhiều khi chúng ta đối xử với người khác, theo những hiện tượng mà ta thấy được nơi họ, chứ không theo bản chất đích thực của họ. Hiện tượng là cái có thể thay đổi, nay còn mai mất, nay thế này mai thế khác: như của cải, tài năng, quyền lực… Thật vậy, nhiều người hôm trước còn giàu nứt khố đổ vách, hôm sau biến thành trắng tay. Nhiều người khi gặp lại sau nhiều năm xa cách, ta không ngờ được tính tình của họ đã đổi trắng thay đen quá nhanh chóng và sâu xa… Nói cụ thể hơn, nhiều khi cách chúng ta đối xử với tha nhân tùy thuộc vào sự giàu nghèo, vào quyền lực, vào tính nết của họ… Chúng ta không nhìn vào bản chất đích thực của họ và đối xử theo bản chất ấy.

 

  1. Bản chất đích thực của con người: là hình ảnh và là con cái của Thiên Chúa, được dựng nên giống như Ngài

Sự hiển dung của Đức Giêsu cho các tông đồ và cho cả chúng ta thấy bản chất đích thực của Ngài. Kinh Thánh, hay đức tin, cho ta biết bản chất đích thực và sâu xa nhất của ta và của những người mà ta gặp trong cuộc đời. Họ và ta đều được Thiên Chúa tạo dựng “theo hình ảnh của Ngài” (St 1,27; 9,6; Ep 4,24), “giống như Ngài” (St 1,26; 5,1), để trở thành “con cái Ngài” (Lc 20,36; Ga 11,52; Rm 8,14.16.21; Gl 3,26; 1Ga 3,1.2.10). Họ và ta đã được Thiên Chúa “ban tặng một điều rất quý báu và trọng đại” là “được thông phần bản tính của Ngài” (2Pr 1,4). Mà bản tính của Ngài là thần linh, nên khi “được thông phần bản tính của Ngài”, một cách nào đó, họ và ta cũng mang bản tính thần linh nơi bản chất mình (x. Tv 82,6; Ga 10,35). Đức tin Kitô giáo cho chúng ta thấy phẩm giá nội tại của con người thật hết sức cao cả. Nếu nhìn bằng con mắt đức tin, và thật sự hành xử đúng theo những gì đức tin đòi hỏi, chúng ta sẽ phải coi trọng chính bản thân mình và mọi người chung quanh ta biết bao!

 

Coi trọng bản thân đòi buộc ta phải sống thánh thiện, tốt lành, cao thượng xứng với bản chất cao quí của mình. Sống hèn hạ, tội lỗi không chỉ là tự khinh rẻ bản thân mình, mà còn giống như làm dơ bẩn hay chà đạp hình ảnh của Thiên Chúa. Một cách nào đó, đó là vũ nhục Thiên Chúa. Tương tự như con của một ông vua mà sống một cách hèn hạ, nhục nhã, mất phẩm giá, điều này làm mất mặt nhà vua, làm nhà vua phải xấu hổ trước mặt thần dân.

 

Coi trọng mọi người đòi buộc chúng ta phải cư xử với họ đúng với bản chất cao quí của họ. Bất cứ ai, hễ đã là người thì ta đều phải coi trọng, cho dù người đó hiện ra thế nào trong thế giới hiện tượng: nghèo nàn, dơ bẩn, hèn hạ, xấu xa, tội lỗi, hay có những hành vi bỉ ổi, đáng khinh… Dù họ thế nào, hễ đã là người, thì họ đáng kính trọng, chính vì bản chất của con người rất cao trọng. Luật pháp các nước nói chung đều cho việc cố ý giết người là một tội nặng, đáng chịu hình phạt nặng nhất, cho dù người bị giết là người có những hành vi hèn mạt hay tội lỗi đến đâu. Điều đó cho thấy luật pháp các nước đã nhìn nhận phẩm giá cao quí của con người, bất chấp con người thế nào.

 

Là người Kitô hữu, đúng ra ta phải luôn luôn thấy mọi người đều “hiển dung” trước con mắt đức tin của mình, nghĩa là ta phải thấy được bản chất đích thực rất cao quí của mọi người. Nếu ta thật sự tôn trọng và yêu mến Thiên Chúa, thì tất nhiên ta phải tôn trọng và yêu mến con cái của Ngài, hình ảnh của Ngài, là những con người cụ thể chung quanh ta. Thiên Chúa thì vô hình, nhưng hiện thân của Ngài thì rất hữu hình bên cạnh ta, chung quanh ta. Nếu ta không tôn trọng và yêu mến những hiện thân cụ thể ấy của Ngài, thì sự tôn trọng và yêu mến Ngài nơi ta chỉ là một ảo tưởng. Thánh Gioan nói: “Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1Ga 4,20).

 

Cầu nguyện

Lạy Cha, việc Đức Giêsu hiển dung trước mắt các tông đồ khiến các ông nhìn thấy bản chất đích thực và cao trọng của Ngài là Con Thiên Chúa. Nếu con mắt đức tin của con còn trong sáng, tinh nhuệ, ắt con cũng thấy mọi người chung quanh con “hiển dung” trước mắt con với bản chất rất cao trọng của họ: là hình ảnh và là con cái của Cha. Xin cho con biết biểu lộ lòng yêu mến và tôn trọng Cha một cách cụ thể qua việc yêu thương và quí mến những người đang sống chung quanh con, bất chấp họ là người thế nào.

 

72.             Hãy vâng nghe lời Người – Jude Siciliano

Một người bạn đã kể với nhóm chúng tôi về một doanh gia mà ông quen biết. Doanh gia này thường xuyên di chuyển bằng máy bay để tham dự các buổi hội họp làm ăn. Ông nói: “Tôi là khách hàng quen thuộc của một hãng máy bay, đến nỗi tôi nghĩ họ phải cho tôi một cổ phần của hãng.” Ông ta thuộc lòng các đường bay. Trước khi lên máy bay, ông mua một tờ thời báo kinh tế, một ly cà phê và rồi ở trên máy bay ông kéo hành lý của mình đến ghế dành riêng, cột dây an toàn, uống cà phê và đọc tin tức. Gần đến nơi ông coi lại các ghi chép về nội dung buổi họp sắp tới. Người nữ tiếp viên xuất hiện chỉ dẫn cách thức đề phòng các sự cố bất ngờ. Ông ta làm ngơ không để ý tới, bởi đã quá quen thuộc những thủ tục ấy. Ông lẩm bẩm với hành khách bên cạnh: “ Khổ lắm, biết rồi, nói mãi.”

Ngoại trừ lần gần đây, máy bay đã tới sát phi trường, nhưng lúng túng không đáp được. Giọng nói hồi hộp của phi công từ buồng lái vọng ra: “Thưa quý hành khách, chúng ta đang gặp rắc rối, các bánh xe hạ cánh không hoạt động. Chúng ta cần lượn quanh vài vòng để xả bớt nguyên liệu, tránh may bay bốc cháy, khi đáp không bánh xe lăn.” Cô tiếp viên lại xuất hiện, cặn kẽ chỉ dẫn an toàn cho hành khách lúc gặp nguy hiểm vì đáp khẩn cấp. Người ta phải ngồi hướng về đằng trước, hai tay ôm đầu gối phía cẳng dưới. Ông thương gia kể tiếp: “Lúc ấy tôi dương to cả hai tai nghe cho tỏ. Vị trí của các cửa thoát hiểm ở đâu? Đèn báo đi ra cửa như thế nào? Dây nịt an toàn ra sao và ngồi đúng tư thế đã chỉ định, không sót chi tiết nào. Tôi tái mặt chờ đợi điều khủng khiếp sắp xảy ra. Rồi tôi lờ mờ nhìn thấy ánh sáng của các xe cứu hộ sẵn sàng hai bên đường băng và tôi ý thức ra tầm quan trọng của lời cô tiếp viên chỉ dẫn. Nó nằm giữa sự sống và cái chết. Tôi lâm râm cầu khẩn Chúa liên tục. May quá cuối cùng các bánh xe hoạt động trở lại và chuyến đáp an toàn. Mọi người thở phào nhẹ nhõm. Đó là một kinh nghiệm để đời không thể quên.”… Quý vị có lẽ đã mường tượng ra sứ điệp của câu truyện. Nó cho chúng ta hay tầm quan trọng của việc lắng nghe và làm theo những chỉ dẫn của tiếng nói định mệnh trong lúc nguy hiểm. Những lời hướng dẫn rất trọng yếu. Nó là sự sinh tử của một đời người. Nó ban cho người ta ý nghĩa để sống hay chỉ là những giây phút qua đi vô hồn hời hợt, không có mục tiêu nào cả và như thế là một kiểu chết chóc vậy.

Các môn đệ Chúa Giêsu hôm nay lên núi cũng là để lắng nghe lời chỉ dẫn của Chúa Cha “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người.” Nó cũng quan trọng như lời của phi công kể trên. Thực chất, nó còn quan trọng hơn nhiều, bởi vì nó có khả năng ban ơn cứu rỗi. Con người sẽ trầm luân muôn đời nếu từ chối nghe lời đó. Các tông đồ được dẫn lên đỉnh núi, nơi yên tĩnh và quang đãng. Tầm mắt của họ có thể nhìn xem tới quãng xa. Họ có thể tập trung tư tưởng, nghị lực rất dễ dàng. Viễn ảnh trước mắt họ thật bao la, bát ngát hơn cả những gì lòng họ mơ ước. Bởi lẽ ngày hôm ấy, Chúa mặc khải cho họ biết Chúa Giêsu là ai? Tiếng oai nghiêm đã xác nhận về Ngài. Họ được nếm trước ơn phục sinh của Ngài và ngây ngất trong ơn thánh đó. Tuy nhiên, chúng ta cũng được Thiên Chúa chỉ dẫn trong cuộc sống của mình như người môn đệ. Giống như các tông đồ, chúng ta cũng được Chúa Giêsu đưa lên núi thánh hôm nay, xa cách mọi bận rộn trần gian và chúng ta cũng tập trung tâm hồn để lắng nghe tiếng Thiên Chúa. Hơn nữa, Ngài còn nói với chúng ta bằng hành động của mình, bằng gương sáng Ngài đã thực hiện. Hành động của Ngài, lời rao giảng cùa Ngài bộc lộ Thiên Chúa là ai, chúng ta là ai? Nhận rõ về mình và về Thiên Chúa, chúng ta sẽ có khả năng hối cải, ngõ hầu được Ngài xót thương, thứ tha và sai đi loan báo những điều chúng ta được mặc khải về Ngài. Đó không phải là hạnh phúc ngất ngây trên đỉnh núi cao hay sao?

Chúa phán với nhân loại và hướng dẫn nhân loại đến với Chúa Giêsu, chẳng lẽ bỏ mặc họ bơ vơ? Thực ra Ngài luôn về phe với chúng ta, ban lời hằng sống để mọi người an lành và hạnh phúc. Tiếng từ trời phán là để chúng ta ghi lòng tạc dạ và đem ra thực hành. Bởi lẽ, trên thế gian có muôn vàn tiếng nói cạnh tranh với Lời Thiên Chúa. Những tiếng nói đó hằng ngày, hằng giờ bao vây chung quanh chúng ta, lôi kéo chúng ta nghe theo sứ điệp của chúng. Tiếng nói của tham vọng, giàu sang, sắc dục, đam mê bất chính như tuần trước chúng ta được biết trong ba cơn cám dỗ của Chúa Giêsu. Nó không hề rời xa chúng ta. Ngược lại, đêm ngày gào thét để chúng ta lưu ý. Nhiều lần chúng ta đã sa ngã thê thảm, mặc chúng lôi đi như đoàn cừu ngoan ngoãn. Vậy mùa chay là thời gian thuận tiện để chúng ta kiểm soát tâm hồn mình, kiểm tra những gì nghe theo hằng ngày. Phải chăng là Lời Thiên Chúa, hay là lời trần gian? Đây là cơ hội để chúng ta mở to đôi tai lắng nghe cho tỏ những tiếng nói lành thánh, những cảnh cáo từ tầng mây, những kêu gọi từ lương tâm. Trong mùa chay, chúng ta nên tập cho quen tự hỏi mình: “Hôm nay, qua những gì tôi gặp, qua những biến cố xảy ra, Chúa Giêsu đã nói gì với tôi? “ Nó là mùa chúng ta ghi tạc lời Ngài vào tâm hồn và cật vấn lương tâm qua lăng kính của Ngài, tức dựa trên Tin mừng mà chúng ta đã từng nghe, từng đọc và từng suy ngẫm.

Thí dụ: dưới ánh sáng lời Chúa Giêsu, điều mà chúng ta coi là “thành công” thì thực sự có phải vậy không? Nó được xem xét theo tiêu chuẩn nào? Điều mà chúng ta gán cho là “phúc lành”, thực chất có phải là đến từ Thiên Chúa hay chỉ là hoa quả của nỗ lực loài người? và chẳng liên hệ gì với Đức Kitô? Điều mà chúng ta gọi là “hạnh phúc” có bám rễ đích thực vào cuộc sống hay chỉ là các thỏa mãn chóng qua? Mặt khác, cái mà người ta cho là “thất bại” lại là niềm vui sâu xa nhất cho chúng ta, hoặc sự tan rã của một giấc mộng ấp ủ lại là cánh cửa mở vào cõi phúc, một lối sống mới trưởng thành hơn. Cho nên, mùa chay đích thực là thời gian luyện tập “nghe” cho đúng, cho tỏ như doanh nhân chúng ta gặp trên kia. Đó là lúc chúng ta phải thính tai nhất trong cuộc đời mình. Thường ngày chúng ta điếc trước những biến cố xảy ra. Đúng hơn, chúng ta không nghe bằng tai, mà bằng trí óc bởi các định kiến có sẵn cho nên không thấy rõ sự thật, thậm chí chối bỏ sự thật. Tình huống này rất phổ thông, nhất là trong giới “đạo đức” kiểu Pharisêu. Họ bị các tập tục cổ truyền che khuất trí thông minh. Điều họ trông thấy, nghe thấy là ý kiến chủ quan của mình. Ý kiến đầy ích kỷ, tham lam, tàn nhẫn, như trường hợp họ bịa đặt vụ án Chúa Giêsu. Cần phải có ai đó thức tỉnh lương tâm chúng ta, nói cho chúng ta hay những sai lầm của mình và chúng ta phải để tâm lắng nghe. Người đó phải là thâm tín, nói toàn sự thật, lo lắng cho sự an toàn của chúng ta. Quý vị nhận ra Người đó là ai: “Này là Con yêu dấu của Ta, các ngươi hãy vâng nghe lời Người.”

Nói cho ngay, tất cả mọi người rồi sẽ đến ngày phải tỉnh dậy, ở một giai đoạn nào đó trong cuộc đời và tự hỏi: “Tại sao tôi có mặt ở đây?” và khi đã nhận ra tình trạng linh hồn mình: Đang bay vòng vòng để xả bớt nhiên liệu như chiếc máy bay gặp nạn và thực sự cảm thấy cạn kiệt. Tuy nhiên, chẳng ai muốn cuộc đời mình đi đến kết thúc với hai bàn tay trắng hoặc ngỡ ngàng tự hỏi: “Tất cả chỉ có thế thôi ư?” Không, tất cả chúng ta phải cần đến Mùa chay, một cơ hội tốt để làm cho sáng mắt, sáng lòng và kiểm soát được tiếng gọi lũng đoạn cuộc đời chúng ta. Những tiếng gọi này gần như liên tục: “Thành công, cạnh tranh, thắng lớn, tích lũy nhiều…” Nhưng khi đạt đến căn bản của nó tức đáp ứng những đòi hỏi chúng kêu gào, thì chúng ta mới nhận ra sự thật: không bao giờ thỏa mãn được chúng. Càng cố gắng thỏa mãn, chúng càng đòi hỏi gắt gao hơn như những chất gây nghiện. Hậu quả là hoặc chúng ta tỉnh ngộ nhận ra tính giả dối của chúng hoặc ngã gục dưới sức nặng của các đam mê ngục tù.

Hôm nay, chúng ta có câu chuyện biến hình trên núi. Chúng ta đáp ứng ra sao? Liệu chúng ta sẽ leo lên dãy núi Rockies, ngồi đó và đợi một thị kiến? hay trốn vào rừng sâu tìm giấc mơ và chẳng chịu ra nếu giấc mơ chưa xuất hiện? Đúng thế, ý tưởng đẹp, nhưng chẳng có khả năng thực hiện, ít ra là lúc này. Mai sau thì có lẽ. Tuy nhiên, hiện giờ chúng ta có thể tưởng tượng ra một ngọn núi tại nơi đây, chỗ chúng ta sống và làm việc hay ở trong buổi phụng vụ hôm nay, chúng ta đang ở trên núi. Chúng ta cố gắng nhớ đến các kẻ đói khát trong xóm làng, nhớ đến những người cô thân cô thế, hoặc những dở dang trong cuộc đời. Với những thực tại đó trước mắt, chúng ta tạm ngưng những bộn rộn hằng ngày và lánh ra nơi hoang vắng, lắng đọng tâm hồn nghe rõ những chi Chúa nói với mình, sốt sắng lãnh nhận bánh hằng sống, bánh nuôi dưỡng linh hồn cho đến kiếp vĩnh hằng. Dĩ nhiên, chúng ta đã từng làm việc này mỗi khi tụ họp thành cộng đoàn trong thánh đường giáo xứ. Nhưng mùa chay này một cách đặc biệt, bởi hôm nay chúng ta được nghe lời Thiên Chúa phán. Lời khuyên bảo mọi người lắng nghe Con yêu dấu của Ngài, kẻo lầm đường lạc lối. Lời luôn luôn quan tâm đến những lợi ích của linh hồn chúng ta.

Bài đọc một và hai đề cập đến cùng chủ đề: Thiên Chúa kêu gọi nhân loại. Ông Abraham đã trung thành đáp lại để trở nên tổ phụ của dân riêng. Tên của ông Abram, nhưng Thiên Chúa thêm một vần là Abraham với ý nghĩa: Từ ông sẽ nảy sinh một dân tộc lớn, đó là dân Do thái. Cha của Abram là Téra có ba người con trai: Abram, Nakho, và Haran (St 11, 27). Nhưng chỉ một mình Abraham được Thiên Chúa tuyển chọn với sứ mệnh lớn và từ dòng dõi ông Đấng Cứu Thế đã ra đời. Ông cảm thấy Chúa thúc đẩy từ bên trong, rời bỏ gia đình cha mẹ, đi đến niềm đất vô định để thực thi thánh ý Thiên Chúa. Ông biết rõ ràng những điều Thiên Chúa mong đợi ở ông và không từ chối mệnh lệnh nào của Ngài, ngay cả việc sát tế con trai duy nhất là Isaac để kính dâng Thiên Chúa. Ơn gọi của ông hoàn toàn là trong đức tin tinh tuyền. Ông đã rời bỏ quá khứ để theo đuổi một tương lai do Chúa an bài. Ông đã được chúc phúc và dòng dõi ông được Thiên Chúa bảo vệ: kẻ thù của Abraham cũng là kẻ thù của Thiên Chúa. Đó cũng là ơn gọi của mọi tín hữu, rời bỏ nếp sống cũ, tội lỗi, tham lam ích kỷ để bước vào nếp sống mới tràn đầy ơn thánh và tình yêu. Liệu trong Mùa chay này, chúng ta có noi gương Abraham mà thực thi trọn vẹn ơn gọi của mình không? Viễn ảnh tương lai của Abraham rõ ràng có tính thiên sai, từ một thực tế cụ thể tiến đến một dân tộc hưởng lời hứa cứu rỗi, thì chúng ta cũng vậy, từ kiếp sống nô lệ tội lỗi chuyển sang địa vị làm con Thiên Chúa.

Mỗi người tín hữu đều nhận được ơn Thiên Chúa kêu gọi. Đôi khi rất khó nhận ra và gần như không thể thực hiện nổi, giống như trường hợp của cụ tổ Abraham. Nó đòi hỏi những hy sinh triệt để như trong hôn phối, ơn gọi tu trì, sứ mệnh truyền giáo xa xôi, nghiên cứu khoa học, cứu chữa bệnh nhân, công việc bác ái từ thiện giữa xóm làng. Chúng ta phải can đảm tin cậy vào sự quan phòng của Thiên Chúa để vượt qua khó khăn, trung thành tiến hành ơn gọi, liều lĩnh nhảy vào vô định để ý Chúa được vẹn toàn. Thánh Phaolô nói rõ như vậy trong bài đọc hai. Mặc dù đã già cả và đang chịu trăm bề khốn khổ, ngài vẫn can đảm khuyên nhủ Timôthê làm chứng nhân cho Chúa Kitô: “Con yêu quý dựa vào sức mạnh của Thiên Chúa, con hãy đồng lao cộng khổ với Cha để loan báo Tin mừng.” Bởi vì theo thánh nhân, nó là lời kêu gọi vĩnh cửu nhưng không, hữu hiệu từ Thiên Chúa: “Người đã cứu độ và kêu gọi cúng ta vào dân thánh của Ngài, không phải vì công kia viêc nọ chúng ta làm, nhưng do kế hoạch và ân sủng của Người.” Vậy thì lắng nghe lời Chúa, tỉnh thức nhận ra thánh ý Ngài trong Mùa chay này quả là cần thiết.

Bề sâu đức tin, niềm trông cậy và lòng nhiệt thành của các tín hữu chính là bởi biến cố Chúa tỏ vinh quang trên núi thánh hôm nay. Thánh Phaolô tuy không nói rõ như thế, nhưng ngài gián tiếp đề cập đến khi loan báo cho Timôthê sự xuất hiện của Chúa Giêsu trong vinh quang, là bảo chứng cho tương lai sắp tới. Chắc chắn thánh nhân liên tưởng tới cuộc Phục sinh của Chúa, Đấng chiến thắng tử thần và ban vinh hiển cho các kẻ được chọn. Sự kiện Chúa biến hình báo trước tất cả nội dung đó. Chúng ta phải gắn bó với Chúa để đạt tới triều thiên vinh quang. Ơn Chúa sẽ thúc giục chúng ta sống đạo đức, thánh thiện trong Mùa chay này. Tiếng Chúa phán trong đám mây không phải vô mục đích, nhưng để chúng ta triệt để nghe theo sự hướng dẫn của Chúa Giêsu trong mùa hồng phúc và trọn đời mình. Mỗi ngày xin để ra vài giây phút suy niệm Lời Chúa và nói với Chúa như cậu bé Samuen: “Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe.” Có thể chúng ta tham dự các lớp giáo lý mùa chay, đọc thông cáo hằng tuần tại cuối nhà thờ, năng đi dâng lễ, chịu các bí tích. Nghĩa là có rất nhiều cơ hội để lên “đỉnh núi thánh”, tập trung trí khôn lắng nghe Thiên Chúa có điều chi tốt muốn truyền đạt cho linh hồn mình. Như vậy, Mùa chay quả là hữu ích cho mọi tín hữu. Amen.

 

73.             Chúa Nhật 2 Mùa Chay

(Suy Niệm Chú Giải Lời Chúa của Lm. Inhaxio Hồ Thông)

Trong cả chu trình ba năm phụng vụ, Chúa Nhật II Mùa Chay đều tường thuật biến cố Biến Hình. Biến cố này nhắc người Ki-tô hữu nhớ rằng trong thời gian Mùa Chay họ không chỉ được dự phần vào mầu nhiệm Thương Khó và Tử Nạn, nhưng cũng vào mầu nhiệm Phục Sinh vinh quang của Đức Giê-su.

St 12: 1-4a

Bài Đọc I, trích từ sách Sáng Thế, thuật lại ơn gọi của tổ phụ Áp-ra-ham. Vâng theo tiếng gọi mầu nhiệm, ông Áp-ra-ham rời bỏ quê hương và gia tộc của mình để đi đến một vùng đất xa lạ. Ông gắn bó với một Thiên Chúa duy nhất, Đấng ông đã đón nhận Lời Hứa tuyệt vời của Ngài, như thư gởi tín hữu Do thái viết: “Vì thế, do một con người duy nhất, một người kể như chết rồi mà đã sinh ra một dòng dõi nhiều như sao trời cát biển, không tài nào đếm được” (Dt 11: 12).

2Tm 1: 8b-10

Viết cho ông Ti-mô-thê, người môn đệ thân yêu của mình đang trải qua thời gian thử thách, thánh Phao-lô nhắc nhớ hiệu quả tâm linh của đau khổ, vì chỉ có đau khổ mới đảm bảo cho công cuộc loan báo Tin Mừng được sinh hoa kết quả và dẫn chúng ta đến cuộc sống bất tử.

Mt 17: 1-9

Tin Mừng trình thuật cuộc Biến Hình theo thánh Mát-thêu. Biến cố nầy được đặt vào trong bối cảnh Đức Giê-su loan báo lần đầu tiên về cuộc Thương Khó, Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài (Mt 16: 21-23). Lời loan báo nầy đã khiến cho các môn đệ bàng hoàng. Vì thế, như một cách thức giải tỏa sự kỳ chướng của thập giá, Đức Giê-su đã đem ba môn đệ lên núi cao, ở đó Ngài cho các ông thoáng thấy trước vinh quang Phục Sinh của Ngài, qua đó Ngài đảm bảo với các ông rằng Thương Khó và Tử Nạn là con đường cứu độ mà Ngài phải đi qua, nhưng đây không là một ngõ cụt mà khai mào cho cuộc Phục Sinh vinh quang.

BÀI ĐỌC I (St 12: 1-4a)

Sách Sáng Thế được chia thành hai phần: phần thứ nhất (1: 1-11: 26) trình thuật nguồn gốc nhân loại và phần thứ hai (11: 27-50: 26) trình thuật nguồn gốc dân Ít-ra-en qua các Tổ Phụ của họ. Bài Đọc I, trích từ đoạn đầu của phần thứ hai sách Sáng Thế, bao gồm ơn gọi, lời hứa và lời chúc phúc.

  1. Ơn gọi (St 12: 1)

Lời mở đầu của Bài Đọc 1: “Khi ấy, Chúa phán với ông Áp-ra-ham: ‘Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, đến đất Ta sẽ chỉ cho ngươi’” (12: 1), quy chiếu đến những sự kiện trước đó (11: 27-32). Quê quán của ông Te-ra, cha của ông Áp-ra-ham, là thành Ua, một thành phố lớn ở Hạ Lưỡng Hà Địa. Thành Ua là một trong những chiếc nôi của nền văn minh Su-me rực rỡ. Một ngày kia, ông Te-ra quyết định rời bỏ thành Ua cùng với gia tộc của mình “để đi tới đất Ca-na-an” (St 11: 31). Nhưng ông Te-ra cùng gia tộc của mình định cư lập nghiệp ở Kha-ran phía bắc miền Lưỡng Hà Địa và ở đó ông qua đời (11: 32).

A- Cuộc hành trình đức tin

Phải chăng khi rời bỏ Kha-ran để đi tới đất Ca-na-an, ông Áp-ra-ham, người con trưởng của ông Te-ra, muốn tiếp tục thực hiện ước nguyện của cha mình? hay vâng theo một sự thôi thúc nội tâm? Thật khó xác định rõ ràng. Dù thế nào, truyền thống luôn luôn gìn giữ ký ức sống động về cuộc hành trình tâm linh của ông Áp-ra-ham. Đó là một đề tài gây kinh ngạc vì nhiều lẽ.

Trước hết, vị tổ phụ gắn bó mật thiết với một Thiên Chúa độc nhất khi loại bỏ các vị thần linh khác của tôn giáo cha ông. Đây là một kinh nghiệm mầu nhiệm đặc biệt, biến cố trọng đại, khởi điểm của ơn tuyển chọn Ít-ra-en. Thứ nữa, khi gọi ông Áp-ra-ham ra đi, Thiên Chúa đòi hỏi ông thực hiện một hành vi đức tin: cắt đứt mọi mối dây liên hệ với quê hương, bà con thân thuộc và nhà cha của mình để đi đến một miền đất chưa được xác định:“đến đất mà Ta sẽ chỉ cho người” (12: 1). Hơn nữa, vào lúc đó, Thiên Chúa chưa hứa với ông: “đến đất mà Ta sẽ ban cho ngươi” hay “đến đất mà hậu duệ người sẽ sở hữu”. Ông Áp-ra-ham chấp nhận vâng lời bằng hành vi tin tưởng và phó thác: “Ông A-bra-ham ra đi, như Đức Chúa đã phán với ông” (12: 4).

B- Kinh nghiệm sống động về Thiên Chúa

Chính trong khi sống trong kiếp lang bạt từ Kha-ran đến Ai-cập, đoạn đến Khép-rôn mà tổ phụ Áp-bra-ham đã chia sẻ thân phận của biết bao người vào thời đó, vì những biến động lịch sử họ phải tha phương lang bạt khắp nơi. Tuy nhiên, chính cũng trong kiếp sống lang bạt đó mà ông Áp-ra-ham càng ngày càng hiểu biết Thiên Chúa của ông hơn, gắn bó với Thiên Chúa mật thiết hơn, Đấng hiện diện với ông trong cảnh đời vô định và cũng phán với ông qua những bất tất lịch sử. Dù ông Áp-ra-ham không thấy ngay tức khắc tất cả những thành quả của lời hứa, nhưng ông đặt để tương lai của mình vào trong niềm tin tưởng và phó thác vào Thiên Chúa của ông.

Đây là khuôn mẫu các bài tường thuật về ơn gọi trong Cựu Ước. Khi nào Thiên Chúa gọi những lãnh tụ, sứ giả, ngôn sứ … , Ngài đòi hỏi họ một sự thoát ly, tiến về phía trước mà không nhớ tiếc quá khứ hay lưu luyến tình thân. Đức Giê-su cũng sẽ có một thái độ từ bỏ cách dứt khoát như thế và Ngài cũng đòi hỏi các môn đệ của Ngài cũng phải có một hành vi tin tưởng và phó thác như vậy, Ngài cũng đòi hỏi những người mà Ngài chữa lành về phương diện thể xác hay luân lý như vậy: “Hãy đi và đừng phạm tội nữa”, hay “Hãy đi, đức tin của con đã cứu con”, hoặc “hãy chỗi dậy và đi!”.

  1. Lời hứa (St 12: 2)

Lời đầu tiên Thiên Chúa hứa với ông Áp-ra-ham: “Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn… Ta sẽ cho tên tuổi ngươi sẽ lẫy lừng…” (12: 2), lời hứa này sẽ còn được nhắc đi nhắc lại nhiều lần xuyên suốt “truyện dài nhiều tập” của tổ phụ Áp-ra-ham (St 11: 27-25: 11).

Tuy nhiên, những gì Thiên Chúa hứa ban luôn luôn mâu thuẫn với thực trạng trước mắt. Thiên Chúa loan báo cho cụ già bảy mươi lăm tuổi không con nầy, lãnh tụ của một bộ tộc du mục nhỏ bé nầy, một tương lai huy hoàng rực rỡ hoàn toàn không tương xứng với những gì mà ông hiện có trong tầm tay: một kẻ không có gì bảo đảm cho tương lai (vợ ông, bà Xa-rai hiếm hoi, không con: St 11: 30) được mời gọi lên đường đến một nơi chưa được xác định. Tuy nhiên, truyền thống Ít-ra-en luôn luôn xem tổ phụ Áp-ra-ham là cha của lời hứa. Chính vì lời hứa nầy mà ông sống. Quả thật, chính từ lời hứa này, ông sinh ra một dân mà Chúa đặc tuyển làm dân riêng của Ngài, một dân mà Thiên Chúa ưu ái cách đặc biệt.

  1. Lời chúc phúc (12: 3)

Lời chúc phúc của Thiên Chúa là dấu chỉ hữu hình cho thấy tấm lòng nhân hậu của Thiên Chúa, nhưng cũng diễn tả tính hữu hiệu và nhắc nhớ ý muốn cứu độ phổ quát của Thiên Chúa:

“Ta sẽ chúc lành cho những ai chúc lành cho người;

ai nhục mạ ngươi, Ta sẽ nguyền rủa.

Nhờ ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc” (12: 3).

Lời chúc phúc không bị giới hạn vào con người Áp-ra-ham, nhưng mở ra những viễn cảnh còn rộng lớn hơn. Theo mạch văn của sách Sáng Thế, ông Áp-ra-ham được định vị trong hàng hậu duệ của ông Sêm, vì thế phân biệt với hậu duệ của ông Kham và ông Gia-phết. Tuy nhiên, lời chúc phúc mà ông Áp-ra-ham cưu mang và qua trung gian của ông, sẽ trải rộng đến hết mọi gia tộc trên mặt đất. Nếu Thiên Chúa đã tuyển chọn một người, một dân tộc, trong cái khung lịch sử để truyền đạt giao ước, lời hứa và lời chúc phúc, thì muôn dân tộc trên mặt đất, ngay từ nguyên khởi của lịch sử cứu độ, đã là những người thụ hưởng những ân phúc nầy rồi. Vì thế, lời chúc phúc nầy vốn hàm chứa chiều kích phổ quát của Ki-tô giáo rồi.

  1. Viễn cảnh thần học

Tác giả Gia-vít đã suy niệm sâu xa về địa vị ưu đẳng của con người và sự thất bại do tội lỗi gây ra (St 2: 4-19). Cũng chính tác giả đã nhắc nhớ huynh đệ tương tàn giữa hai anh em Ca-in và A-ben, lụt Hồng Thủy, tháp Ba-ben, nghĩa là nhân loại càng lúc càng lún sâu trong vũng lầy của sự ác và là đối tượng của những trừng phạt và những lời chúc dữ của Thiên Chúa.

A- Tổ phụ Áp-ra-ham là phản đề của nguyên tổ A-đam

Vào lúc ông Áp-ra-ham vâng lệnh Thiên Chúa mà ra đi, có điều gì đó thay đổi trong lịch sử của nhân loại. Không gì ngoài những lời chúc phúc: “Ta sẽ chúc phúc cho ngươi… Ngươi sẽ là một mối phúc lành…”. Trong tất cả kỳ tích của vị tổ phụ này, tác giả nêu bật ông Áp-ra-ham như một phản đề của nguyên tổ A-đam. Nguyên tổ A-đam đã nghi ngờ và đã bất tuân, trái lại tổ phụ Áp-bra-ham là con người của niềm tin và tuân phục. Chính từ nguyên tổ A-đam mà sự ác xâm nhập vào nhân loại và kéo theo lời chúc dữ của Thiên Chúa. Khởi đi từ tổ phụ Áp-ra-ham, nhân loại được mời gọi sống niềm hy vọng. Chắc chắn, qua vị tổ phụ này, Thiên Chúa chọn cho mình một dân tộc, nhưng sự chọn lựa nầy, thay vì giới hạn ý định của Ngài, trái lại loan báo chiều kích hoàn vũ của ơn cứu độ: “Nhờ ngươi, mọi dân tộc trên mặt đất sẽ được chúc lành”.

B- Tổ phụ Áp-ra-ham là cha của những người tin

Tổ phụ Áp-ra-ham sống trên đất Ca-na-an như người du mục của Thiên Chúa và ông sẽ không ngừng là người du mục nầy, trong khi tìm kiếm một nơi thờ phượng: Xi-khem, Bê-then… Từ cuộc sống du mục của vị tổ phụ nầy, tác giả thư gởi tín hữu Do thái đã rút ra tầm mức tâm linh: “Nhờ đức tin, ông A-bra-ham đã vâng nghe tiếng Chúa gọi mà ra đi đến một nơi ông sẽ lãnh nhận làm gia nghiệp, và ông đã ra đi mà không biết mình đi đâu. Nhờ đức tin, ông đã tới cư ngụ tại Đất Hứa như một nơi đất khách… vì ông trông đợi một thành có nền móng do chính Thiên Chúa vẽ mẫu và xây dựng… Vì thế, do một người duy nhất, một người kể như chết rồi mà đã sinh ra một dòng dõi nhiều như sao trời cát biển, không tài nào đếm được” (Dt 11: 8-12).

BÀI ĐỌC II (2 Tm 1: 8-10)

Thư thứ hai gởi ông Ti-mô-thê là bút tích cuối cùng của thánh Phao-lô. Lúc đó, thánh nhân đang bị giam cầm rất nghiêm ngặt ở Rô-ma: thánh nhân “phải mang cả xiềng xích như một tên gian phi” (2Tm 2: 9). Thánh nhân biết rất rõ số phận đang chờ đợi ngài: “Còn tôi, tôi sắp phải đổ máu ra làm lễ tế, đã đến giờ tôi phải ra đi. Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin. Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính” (2Tm 4: 6-8).

  1. Ông Ti-mô-thê

Ông Ti-mô-thê là người đồng sự thâm niên và rất trung thành của thánh Phao-lô. Thánh nhân đã nhận ông vào chuyến hành trình truyền giáo thứ hai của ngài khi ngài đến Lýt-ra, miền Tiểu Á vào năm 46 hay 47 (Cv 16: 1-3).

Cha ông là người Hy lạp, còn mẹ ông là người Do thái đã theo Ki-tô giáo, ông Ti-mô-thê đã được mẹ ông là bà Êu-ni-kê và bà ngoại ông là bà cụ Lô-ít dạy Kinh Thánh lúc còn thơ ấu, vì thế ông đã có lòng tôn kính Kinh Thánh và có một vốn kiến thức sâu xa về Kinh Thánh, như thánh Phao-lô đã nhận định về lòng tin của ông: “Tôi hồi tưởng lại niềm tin không giả hình của anh, lòng tin đã có nơi cụ Lô-ít, bà ngoại anh, nơi bà Êu-ni-kê, mẹ anh, cũng như chính nơi anh, tôi xác tín như vậy” (1Tm 1: 5).

Thánh Phao-lô và ông Ti-mô-thê đã cộng tác với nhau vô cùng mật thiết đến mức sáu bức thư của thánh Phao-lô đều có ông Ti-mô-thê là người đồng gởi, trong đó có thể ông đã biên soạn vài đoạn. Thánh Phao-lô giao phó cho ông Ti-mô-thê trông coi cộng đoàn Ê-phê-xô để đảm bảo công việc loan báo Tin Mừng vẫn được tiếp tục, vì ông là người đáng tin cậy. Thánh Phao-lô cũng đã bổ nhiệm ông Ti-tô ở Crète như vậy. Vì thế, các thư gởi cho ông Ti-mô-thê và ông Ti-tô được gợi “Các Thư Mục Vụ”, vì trong những thư này, thánh Phao-lô đưa ra những huấn thị của mình cho những người kế nghiệp ngài.

  1. Lý do của bức thư

Vào lúc đó, cộng đoàn Ê-phê-xô gặp phải những khó khăn do những biện luận (thánh Phao-lô kể ra sau đó) dễ nẩy sinh lạc giáo. Khi phải đối mặt với những trào lưu tư tưởng, người tông đồ phải giữ vững một thái độ duy nhất là “loan báo Tin Mừng”. Trong đoạn trích dẫn ngắn này, thánh nhân lập lại hai lần diễn ngữ này. Thánh nhân khẩn khoản nhắc cho ông Ti-mô-thê nhớ rằng lời rao giảng của ông, dù thế nào đi nữa, đừng để bị ảnh hưởng bởi những học thuyết thịnh hành vào lúc đó. Tin Mừng không thể nào bị xuyên tạc bóp méo được.

  1. Tính hiệu quả của sự đau khổ

Để lời khích lệ mình có tác dụng, thánh nhân trước tiên nhắc nhở tính hiệu quả của sự đau khổ. Ông Ti-mô-thê chịu đau khổ. Thánh Phao-lô cũng chịu đau khổ trong xiềng xích. Thánh Phao-lô nói với người môn đệ thân yêu của mình: “Anh hãy đồng lao cộng khổ với tôi để loan báo Tin Mừng” (1: 8). Nhờ đau khổ, lời rao giảng Tin Mừng được sinh hoa kết trái. Lời mời gọi nầy nhắc nhớ đến lời dạy của thánh nhân trong thư gởi tín hữu Cô-lô-xê: “Những gian nan thử thách Đức Giê-su còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh” (Cl 1: 24).

  1. Ơn gọi tông đồ

Tiếp đó, thánh nhân nhắc nhở ông Ti-mô-thê về sự cao cả của ơn gọi tông đồ, thuần túy ân sủng của Thiên Chúa, không có liên hệ gì với “công kia việc nọ chúng ta đã làm”. Những lời nầy âm vang Bài Đọc I về ơn gọi của tổ phụ Áp-ra-ham. Chúng ta đừng ngạc nhiên khi khám phá ở đây một đạo lý về ơn cứu độ bởi đức tin, chứ không bởi công trạng. Chúng ta đang ở trong cùng một dòng tư tưởng. Chúng ta cảm nhận rằng đây là niềm xác tin mà thánh nhân đã sống: chính thánh nhân, xưa kia là một Biệt Phái tuân giữ nghiêm nhặt Lề Luật và là người nhiệt thành bách hại Ki-tô giáo, đã được Thiên Chúa chọn làm Tông Đồ của Ngài không do công trạng của mình, nhưng do “kế hoạch và ân sủng của Chúa”.

  1. Sự chiến thắng của Đức Ki-tô Phục Sinh

Sau cùng, thánh nhân khuyên ông Ti-mô-thê hãy vững tin vào những lời hứa ban “phúc trường sinh bất tử”, bao hàm cuộc khải hoàn phục sinh của Đức Ki-tô. Đó chính là sứ điệp mà ông phải loan báo. Kế hoạch này Thiên Chúa đã dự định từ muôn thuở được biểu lộ qua mầu nhiệm Nhập Thể và Phục Sinh của Đức Giê-su.

Trong những thư khác của thánh Phao-lô, chúng ta gặp thấy những diễn ngữ tương tự; chắc chắn trong đoạn trích nầy, nhờ mạch văn, những diễn ngữ nầy có mức độ chính xác hơn. Vì ở giữa những đe dọa lạc thuyết giữa lòng cộng đoàn Ê-phê-xô, có những quan niệm sai lạc về mầu nhiệm Phục Sinh. Thánh Phao-lô ra sức gìn giữ cho đến hơi thở cuối cùng làm thế nào sứ điệp Tin Mừng được thuần khiết.

Thư này không được gởi cho cộng đoàn như phần lớn các thư khác của thánh Phao-lô, nhưng cho một cá nhân đảm nhận một chức vụ đặc thù. Rõ ràng phải lưu ý đến điều nầy trong bản văn. Tuy nhiên, đoạn trích dẫn nầy mang lấy một tầm mức phổ quát hơn, vì lẽ nó có thể tách biệt ra khỏi mạch văn và có thể được hiểu như được gởi cho mọi người Ki-tô hữu. Mỗi người Ki-tô hữu là chứng nhân cho Đức Ki-tô và vì thế phải để cho mình bị chất vấn bởi lời căn dặn khẩn thiết của thánh Phao-lô trong đoạn thư nầy, như Karl Gatzweiler nhận định: “Không bản văn nào thích hợp cho việc nuôi dưỡng sứ mạng loan báo Tin Mừng của chúng ta hơn bản văn nầy. Nó quy chiếu chúng ta đến điều cốt yếu. Phải rao giảng Đức Giê-su Ki-tô, Đấng tỏ mình ra là vị Thiên Chúa cứu độ. Phải loan báo Tin Mừng về sự Phục Sinh của Ngài, Đấng chiến thắng sự chết và mở lối vào cuộc sống thần linh. Ngoài ra, bản văn nầy nhắc nhở cho mọi người Ki-tô hữu ơn gọi làm chứng nhân của họ, họ phải thực thi vai trò chứng nhân của mình không chút ngần ngại, với lòng can đảm và lạc quan, bất chấp những khó khăn. Vì Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (“Parole sur le chemin”, tr. 52).                                                         

TIN MỪNG (Mt 17: 1-9)

Bài trình thuật về biến cố Biến Hình là một trong những bài trình thuật Tin Mừng chất nặng mầu nhiệm nhất, nhưng cũng là một trong những bài trình thuật phong phú nhất về giáo huấn. Cả ba tác giả Tin Mừng Nhất lãm đều tường thuật biến cố nầy và đều đặt vào trong bối cảnh vài ngày sau lời tuyên xưng đức tin của thánh Phê-rô và lời công bố đầu tiên về cuộc Thương Khó, Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giê-su. Trước đó, Đức Giê-su đã hỏi các môn đệ Ngài: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ?”. Thánh Phê-rô đáp: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16: 15-16). Nghĩ rằng thời điểm đã đến để mặc khải Ngài là Đấng Mê-si-a như thế nào, Đức Giê-su loan báo cuộc Thương Khó, Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài. Thánh Phê-rô không thể nào dung hòa được một viễn cảnh như thế với lời khẳng định mà ông vừa mới tuyên xưng, vì thế ông đã ngăn cản Ngài. Biến cố Biến Hình mang đến một câu trả lời.

  1. Thời điểm, nhân vật và nơi chốn

Bài trình thuật bắt đầu với thời điểm: “Sáu ngày sau”, diễn ngữ thời gian này, xét về phương diện văn chương, đóng vai trò chuyển tiếp vừa để giới thiệu bài trình thuật tiếp theo sau, nhưng đồng thời cũng để nối kết với bài trình thuật đi trước. Thời điểm “Sáu ngày sau” nghĩa là sáu ngày sau khi thánh Phê-rô tuyên xưng Đức Giê-su là “Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16: 16).

Bài trình thuật đi trước kết thúc với một lời nói bí nhiệm của Đức Giê-su: “Thầy bảo thật anh em: trong số người có mặt ở đây, có những kẻ sẽ không phải nếm sự chết trước khi thấy Con Người đến hiển trị” (Mt 16: 28), trong khi bài trình thuật Biến Hình bắt đầu với việc kể ra ba nhân vật được diễm phúc chứng kiến cuộc Biến Hình này: “Đức Giê-su đem ông Phê-rô, cùng hai anh em Gia-cô-bê và Gio-an đi riêng với mình lên một ngọn núi cao”. Vì thế, đa số các Giáo Phụ và các nhà chú giải nhận thấy rằng câu nói bí nhiệm nầy loan báo trực tiếp đến biến cố Biến Hình, đặc biệt kiểu nói: “trong số người có mặt ở đây”, có thể nhắm đến ba môn đệ được tuyển chọn làm chứng nhân cho biến cố Biến Hình nầy. Ngoài ra, thời điểm “Sáu ngày sau” và nơi chốn “một ngọn núi cao” xem ra quy chiếu đến Xh 24: 16: “Vinh quang Đức Chúa ngự trên núi Xi-nai và mây bao phủ núi sáu ngày. Đến ngày thứ bảy, từ giữa đám mây, Người gọi ông Mô-sê”. Chính ở trên núi cao nơi tách biệt nầy mà Đức Giê-su, Mô-sê mới, Đấng giải phóng dân Ngài, dẫn ba môn đệ được tuyển chọn, những người mà sau nầy cũng sẽ được chứng kiến lời cầu nguyện tha thiết của Đức Giê-su trong vườn Cây Dầu (Mt 26: 37).

Trong khi thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu đều xác định biến cố Biến Hình xảy ra “sáu ngày sau” lời tuyên xưng đức tin của thánh Phê-rô (Mc 9: 2; Mt 17: 1), thì thánh Lu-ca lại xác định “khoảng tám ngày sau” (Lc 9: 28), tức là ngày thứ nhất sau ngày sa-bát, ngày các truyền thống Tin Mừng tưởng niệm ngày Phục Sinh của Đức Giê-su. Tuy các Tin Mừng Nhất Lãm đưa ra thời điểm có khác nhau, nhưng cả ba đều có chung quan điểm thần học như lời nhận định của cha Guillemette: “Xét theo văn mạch, thì cuộc biến hình có mục đích cho các môn đệ ưu ái thấy trước Vinh quang của ngày sau hết, vinh quang nay đang tập trung trong con người của Đức Giê-su đang sống thường ngày với họ. Thiên Chúa phán với các môn đệ đầy sợ hãi rằng họ phải vâng lời đi theo Đức Giê-su trên đường dẫn tới Giê-su-sa-lem, tiến đến vinh quang qua thập giá” (“L’Evangile de Matthew”, 195).

Tại sao Đức Giê-su phải nhọc công leo lên ngọn núi cao, đến nơi đồi núi hoang vắng nầy ? Thánh Lu-ca vén mở cho chúng ta câu trả lời: “Người lên núi để cầu nguyện”. (Lc 9: 29). Theo truyền thống Cựu ước, “núi” là nơi con người gặp gỡ Thiên Chúa và là nơi Thiên Chúa bày tỏ mình ra. Vì thế, sự kiện núi không được nêu tên không phải là không có chủ ý, bởi vì “ngọn núi cao” không thuộc trật tự địa lý nhưng tâm linh. Trong vài giây phút nữa, ngọn núi nầy sẽ mang dáng dấp của núi Xi-nai, nơi các môn đệ chứng kiến cuộc biến hình vinh hiển của Đức Giê-su và cuộc Thần Hiển.

  1. Đức Giê-su bày tỏ vinh quang của Ngài

Thánh Mát-thêu mô tả cuộc biến đổi hình dạng của Đức Giê-su thành một con người rạng ngời vinh hiển: “Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng”, còn thánh Lu-ca thì mô tả sự biến đổi hình dạng nầy trong mối tương quan tăng dần của lời cầu nguyện mà Chúa Giê-su thân thưa với Cha của Ngài: “Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người bổng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa” (Lc 9: 29). Biến cố Biến Hình nầy mặc khải rằng con người xác thịt của Ngài được liên kết với chính Hữu Thể Thiên Chúa, có nghĩa, kể từ đây, cái chết không có quyền gì trên thân xác của Ngài; theo một cách nào đó, biến cố Biến Hình là tham dự trước cuộc Phục Sinh vinh quang của Ngài.

  1. Sự hiện diện của ông Mô-sê và ông Ê-li-a

Chính trên một ngọn núi Xi-nai (còn gọi là Khô-rếp), ông Mô-sê và ông Ê-li-a đã lần lượt gặp gỡ Thiên Chúa. Cũng trên ngọn núi Biến Hình nầy, “ba môn đệ thấy ông Mô-sê và ông Ê-li-a hiện ra đàm đạo với Người”. Sự hiện diện của hai nhân vật này là một bảo chứng tuyệt vời cho tước vị Mê-si-a của Đức Giê-su, bởi vì cả hai ông được xem như báo trước Đấng Mê-si-a: ông Mô-sê đã báo trước rằng một vị ngôn sứ vĩ đại sẽ đến, lời của Đấng ấy sẽ là lời của chính Thiên Chúa (Đnl 18: 18); còn ông Ê-li-a, theo truyền thống, phải trở lại để chuẩn bị cho Đấng Mê-si-a ngự đến.

Hơn nữa, hai nhân vật nầy hiện diện bên cạnh Đức Giê-su vinh hiển, không chỉ như biểu tượng của Lề Luật và Ngôn Sứ, nhưng cũng như những người trung gian tuyệt mức của Giao-Ước. Như vậy, họ đại diện khởi đầu và chung cuộc của Lịch Sử Cứu Độ được hoàn thành nơi Đức Giê-su. Vì thế, biến cố Biến Hình nhấn mạnh mối liên hệ giữa Cựu Ước và Tân Ước.

Bài trình thuật của thánh Lu-ca nói với chúng ta rằng hai ông Mô-sê và ông Ê-li-a đàm đạo với Đức Giê-su về “cuộc xuất hành Ngài sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem” (Lc 9: 31). Thuật ngữ “xuất hành” nhắc nhớ đến cuộc hành trình gian khổ nhất của dân Ít-ra-en: ra khỏi đất Ai-cập và lang thang trong hoang địa. Cuộc hành trình ấy đòi hỏi dân Thiên Chúa hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa, Đấng dẫn họ đến miền Đất Hứa. Với một niềm tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, Đức Giê-su cũng dấn thân vào một cuộc hành trình gian khổ nhất, một cuộc hành trình đến thập giá, nhưng cũng là cuộc hành trình đến vinh quang. Biến cố Biến Hình đem lại một sự nâng đỡ tâm lý và tinh thần quan trọng nhất mà Đức Giê-su đã nhận được trong suốt sứ vụ của Ngài. Trong kiếp sống phàm nhân trên con đường tiến về cuộc Thương Khó và Tử Nạn của Ngài, Chúa Giê-su được Chúa Cha an ủi cách đặc biệt bằng biến Cố Biến Hình. Qua biến cố Biến Hình, Đức Giê-su được đảm bảo rằng con đường đau khổ mà Ngài sắp trải qua, sẽ dẫn Ngài đến vinh quang, vinh quang mà Ngài đã sở hữu trước khi Nhập Thể, vinh quang nầy Ngài lấy lại trong một khoảng khắc thoáng qua của cuộc Biến Hình.

  1. Ba nhân chứng

Chỉ có ba môn đệ: Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an, được diễm phúc chứng biến cuộc Biến Hình. Trước đây, chính ba môn đệ nầy được Đức Giê-su cho phép chứng kiến việc Ngài phục sinh con gái ông Gia-ia (Mc 5: 37), và sau này cũng chính ba môn đệ nầy được Đức Giê-su dẫn theo với Ngài vào trong vườn Cây Dầu ở đó họ sẽ chứng kiến cơn hấp hối của Ngài (Mt 26: 37). Trước đây, trong việc Phục Sinh con gái của ông Gia-ia, ba môn đệ nầy chứng kiến quyền năng của Ngài trên sự chết (Mc 5: 37), còn nay trong cuộc Biến Hình vinh hiển nầy, họ nghe Chúa Cha chứng nhận: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” (Mt 17: 5), để rồi sau nầy trong cuộc Khổ Nạn của Ngài, họ có đủ nghị lực chịu đựng và tin tưởng khi thấy Thầy mình phải chịu nhục mạ, khổ hình.

Việc thánh Phê-rô có mặt trong biến cố Biến Hình rất quan trọng, bởi vì ông gặp thấy ở đây sự cũng cố cho lời tuyên xưng trực giác của ông ở Xê-da-rê: “Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16: 16). Mặt khác, ông chứng kiến một Đức Giê-su vinh hiển thay thế cho hình ảnh về một Đấng Ki-tô chịu đau khổ mà theo quan điểm của ông, ông không thể nào chấp nhận được. Sau này, vị lãnh tụ của các Tông Đồ sẽ đảm nhận một công việc khó khăn là rao giảng một Đức Ki-tô bị đóng đinh giữa hai tên gian phi, còn lúc nầy thánh nhân chiêm ngưỡng Đức Giê-su vinh hiển ở giữa hai nhân vật nổi tiếng nhất của lịch sử Ít-ra-en. Vì thế, cuộc Biến Hình là phản đề của đồi Sọ. Như vậy, niềm tin, trên đó tất cả niềm tin của Giáo Hội dựa vào, được đặt nền móng ở nơi biến cố Biến Hình này.

Thánh Gio-an, người môn đệ trung thành, sẽ đi cho đến cùng và sẽ chiêm ngắm một thân xác bầm dập rách nát không còn hình tượng người của Đấng bị đóng đinh trên khổ giá, chính ông sẽ viết trong Tựa Ngôn Tin Mừng của mình:

“Chúng tôi đã thấy vinh quang của Người,

vinh quang mà Chúa Cha đã ban cho Người,

là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật” (Ga 1: 14).

Ẩn hiện sau Tựa Ngôn này là bức tranh về biến cố Biến Hình. Còn thánh Gia-cô-bê là vị Tông Đồ đầu tiên chết vì niềm tin của mình.

  1. Phản ứng của Phê-rô

Trong chương nầy, như trong những chương trước đây, thánh Mát-thêu nêu bật nhân vật Phê-rô. Trước đây, chỉ mình thánh Phê-rô tuyên xưng niềm tin vào Đức Giê-su ở Xê-da-rê, và chỉ một mình thánh nhân bày tỏ nổi bất bình khi Thầy mình loan báo cuộc Thương Khó, Tử Nạn và Phục Sinh.

Trong câu chuyện Biến Hình nầy, thánh nhân cũng là người duy nhất phản ứng. Vốn bản tính nhiệt thành, bộc trực, nghĩ sao thì nói vậy, thánh Phê-rô muốn dừng thời gian và hoạt cảnh nầy lại khi đề nghị dựng ba lều: một cho Đức Giê-su, một cho ông Mô-sê và một cho ông Ê-li-a. Khi phát biểu như vậy, thánh nhân không nghĩ gì đến mình và các bạn đồng môn của mình. Tuy nhiên, có thể thánh nhân liên tưởng đến lễ Lều, lễ tưởng niệm dân Ít-ra-en đã dựng lều trong hoang địa trước khi vào Đất Hứa: biểu tượng niềm mong đợi thời Thiên Sai.

Theo truyền thống Do thái, vào thời sau hết Thiên Chúa sẽ ngự giữa dân Ngài (Ed 37:27 ; Hs 12: 10) trong lều vinh quang của Ngài, còn dân chúng sẽ dựng lều quanh Đấng Ki-tô của họ (Ga 1: 14) và các dấu lạ thời Xuất Hành sẽ tái diễn. Vì thế, qua phản ứng nầy, có thể trong tiềm thức, thánh Phê-rô chứng nhận rằng mình luôn luôn tin vào sự đăng quang vinh hiển của Đấng Ki-tô. Khi đề nghị dựng ba lều, ông nghĩ rằng thời sau hết đã đến và cho rằng đã đến lúc thiết lập thiên đàng ở trên mặt đất ngỏ hầu cuộc Thần Hiển trong một ngày sẽ kéo dài mãi mãi.

  1. Cuộc Thần Hiển

“Ông Phê-rô còn đang nói, chợt có một đám mây sáng ngời bay đến phủ bóng trên các ông”. Trong Cựu Ước, đám mây sáng ngời vừa bày tỏ nhưng đồng thời phủ che sự hiện diện hữu hình nhưng siêu việt của Thiên Chúa trước mắt phàm nhân (Xh 40: 34-35 ; 1V 8: 10-12 ; Ed 10: 3-4 ; Tv 18: 12). Một giọng nói vang lên như vào ngày Đức Giê-su chịu phép rửa bởi Gio-an Tẩy giả, tuy nhiên ở đây không còn là “các tầng trời mở ra và Thần Khí ngự xuống trên Người”, nhưng “dung mạo Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng” với lời công bố tước vị “Con Thiên Chúa” của Đức Giê-su. Lời công bố này không chỉ nhấn mạnh đặc tuyển, nhưng cũng nhắm đến tầm quan trọng của sứ điệp: “Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”. Huấn lệnh nầy xem ra nhắc nhớ lời hứa của Đức Chúa với dân Ngài qua ông Mô-sê: từ giữa họ, Ngài sẽ cho xuất hiện một vị ngôn sứ như Mô-sê, Ngài sẽ đặt lời Ngài trên môi miệng của Đấng ấy, vì thế “Các ngươi hãy nghe vị ấy” (Đnl 18: 15). Như vậy, Đức Giê-su là Ngôi Lời Thiên Chúa.

Phải lưu ý rằng đám mây bao phủ ba vị Tông Đồ, như vậy hiệp nhất họ với Đức Giê-su, liên kết họ làm một với mầu nhiệm của Ngài, trong mặc khải kín nhiệm mà họ không được hé lộ ra cho bất cứ ai trước khi Ngài sống lại (17: 9). Nói cho cùng, chỉ trong ánh sáng Phục Sinh của Đức Giê-su, các ông mới có thể hiểu được những gì các ông đã chứng kiến trong cuộc Biến Hình này. Khi đám mây biến mất, các Tông Đồ không còn thấy ai ngoài chỉ một mình Đức Giê-su. Từ đây, Đức Giê-su hiện thân cho Lề Luật và Các Ngôn Sứ.

  1. “Chỗi dậy đi”

Trước đây, các ông đã nghe lệnh truyền nầy vào lúc Ngài phục sinh con gái của ông Gia-ia, lúc này Đức Giê-su cũng lập lại lệnh truyền này với các ông: “Chỗi dậy đi!”, đó cũng là lời căn dặn được ngỏ với các ông: “Đừng nói cho ai hay điều anh em vừa thấy, cho đến khi Con Người chỗi dậy từ cõi chết”. Vào lúc nầy, các ông không thể nào nắm bắt được ý nghĩa của lời căn dặn nầy. Sau nầy, các ông sẽ nhớ lại và hiểu tại sao Đức Giê-su đã cho họ chứng kiến cuộc phục sinh con gái của ông Gia-ia và cuộc Biến Hình của Ngài. Họ sẽ công bố mối liên hệ giữa biến cố Phục Sinh và biến cố Biến Hình. Thánh Gioan, một trong ba nhân chứng này, sẽ diễn tả rõ ràng: “Hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa ; nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng khi Đức Kitô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy” (1Ga 3: 2). Thánh Phao-lô cũng viết: “Đức Giê-su sẽ biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta để nên đồng hình đồng dạng với thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3: 21).

 

74.             Chú giải của Noel Quession

Mỗi năm, ngay sau chuyện kể về cơn cám dỗ của Đức Giêsu, Chúa nhật thứ hai mùa Chay cho chúng ta suy niệm về câu truyện Đức Giêsu biến hình.

Chúa nhật trước, chúng ta đã ngắm xem Ngài khước từ, không lợi dụng thiên tính của mình, Người khiêm tốn và dè dặt, và khi Người đói, Người bị cám dỗ như một người thường. Hôm nay, chúng ta nhìn ngắm sự vinh quang ẩn dấu của Người, thiên tính của Người.

Ba sách Tin Mừng nhất lãm phù hợp nhau khi đặt đoạn này vào khúc quanh tác vụ của Đức Giêsu. Ban đầu nhiều đám đông đã theo Đức Giêsu nhưng lại hoàn toàn lầm lẫn về Người. Việc nhân bánh hóa nhiều. Với nỗ lực của họ muốn biến Người làm vua, đã đưa sự hiểu lầm ra ánh sáng. Thực sự Đức Giêsu đã thất bại! Người đã không thành công khi muốn đưa được đám đông đến đức tin chân thật, đồng thời tất cả “tầng lớp trí thức” tôn giáo thời Người lại khước từ Người nhân danh chính giáo lý tốt đẹp truyền thống: các kinh sư và tư tế không ngừng gương cao bẫy chơi Người và cáo giác Người là phá hủy tôn giáo (Mt 12,2; 12,14; 12,24; 12,38; 15,2; 16,1; 16,6). Nhận thấy sự thất bại về chương trình giảng dạy giáo lý của mình. Đức Giêsu từ nay tập trung vào việc đào tạo các môn đệ của Người với nhóm Mười Hai nhỏ bé, như Người loan báo thử thách lớn lao sẽ xảy đến. Người đã xa lánh miền Palestine.

Ở đó tình hình từ nay đã trở nên nguy hiểm, Người chạy sang tị nạn ở bên Li-băng, về phía miền Xêdarê Philip. Ở đó cách biệt khỏi đám đông và các kinh sư, Người đã thúc đẩy Phêrô tuyên xưng đức tin; rồi lập tức Người nói: Tôi phải sang Giêrusalem, chịu nhiều đau khổ từ phía các trưởng lão, các thượng tê và các kinh sư, bị xử tử, và ngày thứ ba sống lại (Mt 16,21). Phêrô, cũng lại ông, muốn cám dỗ Đức Giêsu khước từ cái viễn ảnh chết chóc kia. Khi đó Đức Giêsu la mắng ông và hứa rằng vinh quang sẽ đến, thực sự, nhưng sau khi chịu khổ hình thập giá: “Bởi vì Con Người sẽ đến với thiên thần của Người trong vinh quang của Con Người…” (Mt 16,27-28). Chính trong bối cảnh thê thảm này mà cảnh tượng chúng ta sắp đọc, xảy đến.

 

Sáu ngày sau. Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan là em ông Giacôbê đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn núi cao.

Tôi thích tưởng tượng ra cái cảnh tượng này một cách cụ thể: một lối quanh co trên một con đường núi. Cả bốn người, họ đều đi chậm rãi. Không gian cứ lớn dần. Không khí trở nên tươi tắn và mát mẻ. Đồng bằng xa xa dưới thấp kia, các đám dông còn xa. Ôi, chốn cô liêu hạnh phúc biết bao trên các đỉnh cao! Người ta chỉ gặp được Thiên Chúa trong chốn thing lặng. Phải chăng tôi đã dành ra những thời gian để sống cô liêu, trong mùa Chay này?

Nhưng chúng ta cũng biết rằng núi là một chủ đề Matthêu ưu thích. Núi cám dỗ (Mt 4,8), Núi hạnh phúc và Luật mới (Mt 5,1), Núi bánh được chia sẻ (Mt 15,29), Núi Biệt ly của Đấng Phục sinh (Mt 18,16). Ở đây việc Thiên Chúa hiển linh ở núi Siani được tái hiện trên Núi biến hình; nhưng đó không phải là núi Sinai ở Giêrusalem, nơi đón nhận vinh quang của Thiên Chúa mà các ngôn sứ đã loan báo (Is 2,2; Tv 2,6); chính một ngọn núi nhỏ bé ở Galilê của nhiều dân nước sẽ là chứng nhân của vinh quang của anh thợ mộc hèn mọn ở Nagiarét, xa những vẻ tráng lệ của Đền Thờ. Thiên Chúa chỉ tự cho thấy mình ẩn giấu. Thiên Chúa khước từ các danh vọng, các nghi thức, các trình diễn sân khấu: Đền Thờ do bàn tay con người làm sẽ bị phá hủy (Mt 24,1-3; 26,61). Còn tôi, tôi sẽ đi gặp Thiên Chúa ở đâu?

 

Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng.

Matthêu, hơn hai tác giả Tin Mừng kia, nói về ánh sáng. Cũng như thế, Mô sê, tại Sinai, đã tiếp nhận tia sáng phản chiếu của vinh quang Thiên Chúa, và da mặt người tỏa sáng (Xh 34,29-35). Cũng như thế, Con Người (Đn 7,9) được mô tả bằng những hình ảnh có tính khải huyền: tia sáng, màu trắng. ánh sáng, lửa… Động từ Hy Lạp được Matthêu sử dụng ở đây, “metamorphoun” có nghĩa chữ là “biến dạng”; đó là một sự biến hình sâu xa hơn là chỉ biến hình cái mặt mà thôi. Đức Giêsu hiện ra với một hình thái khác. Và người ta nhớ đến đoạn văn nổi tiếng mà Phaolô tả cho chúng ta một tác động trái ngược: “Ngài khi ấy ở trong hình dạng Thiên Chúa,… đã lấy hình dạng con người đầy tớ… (Pl 2,6-7). Nhưng làm thế nào nói được những thực tại không thể nói được này? Thế thì càng phải dùng thật nhiều hình ảnh về ánh sáng. Tôi dành thời gian để chiêm ngắm.

 

Và bỗng các ông thấy ông Môsê vâ ông Êlia hiện ra đàm đạo với Người.

Từ muôn thuở, người đã lưu ý rằng ba môn đệ đã được đặc ân về mạc khải siêu nhiên này lại chính là ba người sẽ phải đụng chạm gần gũi nhất với “hủy dạng” của Đức Giêsu khi Người hấp hối tại Ghết-sê-ma-ni (Mt 26,37). Đức Giêsu như thế đã cho họ trước một kinh nghiệm về sự vinh quang sẽ đến của Người, để cố ngừa cho họ khỏi bị cái gương mù về sự hạ mình của Người.

 

Bấy giờ ông Phêrô thưa với Đức Giêsu rằng: lạy Ngài chúng con ở đây thật là hay! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Ngài, một cho ông Môsê một cho ông Êlia.

Phêrô, là người mà quyền ưu tiên của ông vừa được nhìn nhận, sáu ngày trước, sau khi tuyên xưng đức tin của mình, lên tiếng và nói “tôi” đầy quả quyết, hăng hái, quảng đại, ông đã nhìn nhận Đấng Mêsia được chờ đợi qua hai nhân vật chủ chốt của Kinh Thánh đi theo Người: Môsê và Êlia: luật pháp và các Ngôn sứ… Môsê là người đã khởi dẫn dân Chúa trong sa mạc trên núi Sinai, và Êlia, người phải trở về để chuẩn bị giai đoạn mới, chấm dứt các thời đại tiên báo về Đấng Mêsia (Mt 17,10-13).

Hoàn toàn vui mừng về sự khám phá của mình, Phêrô có lẽ muốn ngưng lại cái khoảnh khắc hạnh phúc này và có thể nói là cố định lại nó trong cái phút hạnh phúc và vinh quang này: “Tôi sẽ dựng nhiều lều…”. Chúng ta cũng thế, nếu chúng ta có thể bắt được hạnh phúc và cố định nó lại!

 

Ông còn đang nói, chợt có đám mây sáng ngời bao phủ các ông.

Đám mây này, biểu tượng của sự hiện diện Thiên Chúa (Tv 18,12; Xh 40, 34-35; 1V 8,10-12), cắt ngang lời nói của Phêrô. Không phải Phêrô sẽ xây một ngôi nhà cho Thiên Chúa; mà là chính Thiên Chúa đến xây nhà của Người. Đám mây. Có lẽ chúng ta ngạc nhiên về sự liên kết kỳ lạ này: một đám mây sáng ngời lại tạo ra bóng che. Chúng ta ở đó thêm một lần nữa, đứng trước một ngôn từ biểu tượng qua đó chứng minh rằng chúng ta không thể nào hiểu những từ này như thể chúng chỉ mô tả một cảnh tượng. Động từ ‘lấy bóng mình bao phủ’ bằng tiếng Hy Lạp “Episkiazô”, chỉ xuất hiện hai lần trong toàn bộ Tân ước; ở đây và vào ngày lễ Truyền Tin, khi Thánh Thần lấy bóng mình bao phủ Maria (Lc 1,35). Theo các nhà chú giải từ này ám chỉ đến một trong các từ Do Thái nổi tiếng nhất “shékinah”, nghĩa là “nhà ở”, “Hiện Diện” của Thiên Chúa.

 

Và có tiếng từ đám mây phán rằng: “Đây là con yêu dấu Ta. Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!”.

Cái từ ‘Đây là’, bề ngoài có vẻ không quan trọng. “Đây là” chính nó cũng mang đầy ý nghĩa. Trong chuyện kể nó được lặp lại ba lần: “đây là một sự hiện ra… đây là một đám mây… đây là một tiếng nói…”. Trong Kinh Thánh, đó là dấu chỉ có một sự can thiệp siêu hình được áp đặt. Đây là! Chính ở đó! Chính là thế đấy! Chúng ta ở đó chẳng để làm gì cả.

Tiếng của Thiên Chúa này lặp lại sự mạc khải về phép Rửa của Đức Giêsu: Đức Giêsu còn “hơn” cả một người, Người là Con Độc Nhất và Yêu Dấu. Nhưng điều đã được nói, trong sự thân tín, đối với một mình Đức Giêsu, Người khởi đầu tác vụ của Người… bây giờ được nói lại cho các môn đệ với một hậu quả đi theo.

Lạy Chúa, trong thời gian đặc ân của mùa Chay này, xin giúp chúng con sẵn sàng nghe tiếng Chúa, với cái nghiêm túc mà chúng con đôi khi biết sống nó là nghe một số những sứ điệp quan trọng cho chúng con.

 

Nghe vậy các môn đệ kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống. Bấy giờ Đức Giêsu lại gần chạm vào các ông và bảo: Trỗi dậy đi, đừng sợ.

Trong khi gục mặt xuống đất bái lạy (từ ưa thích của Matthêu) các môn đệ nhận ra rằng họ đang ở trước một sự hiển hiện của Thiên Chúa: phản xạ tôn giáo của con người ở trước một thực thể linh thánh! Thờ phượng! Tôi có biết thờ phượng không? Đó là hành vi tối thượng của con người. Sống, Yêu, Thờ Phượng. Con người không được tạo dựng để thu mình lại với chính mình trong một thứ tự huỷ. Con người được tạo dựng để mở ra cho người khác bằng tình yêu. Và sự hoàn thành của nó được thực hiện khi nó mở ra cho Đấng Tha Thể bằng thờ phượng. Và điều đó luôn luôn mang hình thực một thứ hư vô hóa chính mình: phải chết trước khi được sống. Phải chết cho chính mình đã, để yêu mến, tha thứ. Nhưng nếu con người tự hư vô hóa, mặt cúi xuống đất để tới gần Thiên Chúa, thì chúng ta thấy Đức Giêsu tới gần, đụng chạm, vực các bạn hữu của Người dậy. Những cử chỉ yêu thương. Những cử chỉ cùng quyền năng Thiên Chúa mà chúng ta lát nữa sẽ thấy ý nghĩa biểu tượng.

 

Các ông ngước mắt lên, không thấy ai nữa chỉ còn một mình Đức Giêsu mà thôi. Đang khi thầy trò từ trên núi xuống, Đức Giêsu truyền cho các ông rằng: đừng nói cho ai hay thị kiến ấy, cho đến khi Con Người từ cõi chết trỗi dậy”.

Sách kinh lễ không dám dùng từ chính xác. Bởi vì, một cách có chủ ý, Matthêu đã sử dụng cùng một từ Hy Lạp “Egeirein”, “vực dậy”, để nói rằng Đức Giêsu đỡ các bạn hữu mình dậy và làm cho sống lại. Nếu Thiên Chúa nói từ đám mây, thì đó không phải để đè bẹp con người, như chết, dưới đất… mà để làm cho con người sống lại. Nhưng trong khi chờ đợi, Phêrô và các bạn hữu của ông phải xuống núi lại. Và họ sẽ phải, nếu họ muốn, biến hình kiểu thường ngày. Phêrô sẽ sống những ngày đều đều, những ngày cực khổ, những thất bại và những bách hại. “Nhưng, suốt đời, ông sẽ nhớ lại cái khoảnh khắc thoáng qua này, ở đó ông nghe thấy tiếng gọi này đến từ trời, từ trên núi thánh (2 Pr 1,16-18). Mỗi một lần thể hiện nhiệm tích Thánh Thể là một trạm dừng lại để được tưới mát trên núi với Đức Giêsu. Nhưng phải đi lại, vươn tới những nhiệm vụ của chúng ta, với kỷ niệm…

 

75.             Chú giải của Fiches Dominicales

ĐỨC GIÊSU BIẾN HÌNH TRÊN NÚI MẠC KHẢI VỀ MẦU NHIỆM “NGƯỜI CON YÊU DẤU” VÀ BÁO TRƯỚC VINH QUANG PHỤC SINH

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:

  1. Mối liên lạc chặt chẽ với lời báo trước khổ nạn:

Bị đám đông lòng dạ thất thường ở Galilê trở mặt và thường xuyên bị những kẻ thù kiếm chuyện gây rối, Đức Giêsu phải liên tục di chuyển. Người lên tận miền Césarée Philipphe, nơi đầu nguồn sông Giođan, và ở lại đó tập trung vào việc huấn luyện các môn đệ của mình.

“Người ta nói Con Người là ai?” Đức Giêsu thăm dò trước. Sau đó Người mới hỏi ngay họ: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai. Phêrô lên tiếng thay cho nhóm anh em: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Đức Giêsu đáp lại bằng một lời chúc phúc: “Này anh Simon, con ông Giona, anh thật là người có phúc. và đồng thời một uỷ thác sứ mạng: “Anh là Phêrô, nghĩa là tảng đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy”. Rồi “từ lúc đó”, thánh sử Matthêu ghi rõ, Đức Giêsu bất đầu báo cho các ông biết trước điều khiến Phêrô phải lấy làm xúc phạm, và phải lãnh nguyên lời quở trách của Chúa: “Satan, lui lại đằng sau Thầy. Đó là con đường đau khổ mà Con Người sẽ phải đi: “Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và các kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại” (16,21). Và Chúa tiếp tục cho biết con đường của các môn đệ cũng không thể là gì khác: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (16,24).

Đúng vào thời điểm quan trọng này, thánh Matthêu cho biết rõ: “sáu ngày sau” – chúng ta liên tưởng đến chuyện ông Môsê dẫn theo ba người bạn lên núi Sinai (Xh 24,9), để nhận lãnh mạc khải của Thiên Chúa “sáu ngày sau” đó (Xh 24,16), và cuối cùng diện mạo ông biến đổi khác thường (Xh 34,29) – Theo các tác giả Tin Mừng đó là lúc xảy ra biến cố biến hình trên núi. Jean Potin viết: đây là một câu chuyện “chắc chắn dựa vào sự kiện xác thực”, và được ba thánh sử nhất lãm ghi chép lại “bằng một thứ ngôn ngữ biểu tượng, vay mượn một số những yếu tố chính từ cuộc thần hiện (Thiên Chúa tỏ bày thần tính) trên núi Sinai” (“Giêsu, lịch sự thật”, Centurion, trang 330).

  1. Cuộc biến hình trên núi cao:
  2. Ba nhân chứng được tách riêng trên núi:

“Chỉ có ‘các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan là em ông Giacôbê’ được Đức Giêsu gọi riêng đi theo Người. Là chứng nhân mục kích cuộc biến hình của Chúa hôm nay, rồi đây, cũng chính họ sẽ được chứng kiến cảnh khuôn mặt Chúa bị “biến dạng” tàn tạ trong vườn Cây Dầu (26,37). Chi tiết “ngọn núi cao”, nơi sẽ xảy ra cuộc biến hình, mang ý nghĩa thần học hơn là tính chất địa lý. Trong Kinh Thánh, núi thường là cho cho những cuộc mạc khải của Thiên Chúa. Ở đây nó khiến nhớ lại núi Sinai, ngọn núi lẫy lừng nhất trên trái đất, vì là nơi xưa kia Thiên Chúa đã hiện ra và phán truyền cho con người. J.Potin nhắc nhớ lại: “Chính trên ngọn núi này Môsê đã được đám mây bao phủ, khiến dung mạo ông ngời sáng. Đây cũng là núi mà vị ngôn sứ vĩ đại Êlia đã đặt chân tới để dưỡng sức, lấy lại can đảm trong cuộc chiến đấu chống lại tội thờ ngẫu tượng của dân chúng. Đến lượt chính Đức Giêsu cũng lên núi này” (Sđd trang 330).

  1. Đức Giêsu biến hình, đứng giữa Môsê và Êlia:

“Như ông Môsê khi xuống núi Sinai, sau khi đã có cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa của Giao ước, “dung mạo Đức Giêsu bỗng rực rỡ như mặt trời, và y phục Người trắng tinh thư ánh sáng”. Trong trường hợp của Môsê, thì đó chỉ là sự phản chiếu trong chốc lát ánh hào quang của Thiên Chúa; còn đối với Đức Giêsu, thì lại là sự lan toả của chính hữu thể của Người, là sự chiếu giãi của “vinh quang” Người (xem Lc 9,32). Cả 3 Phúc âm nhất lãm đã ghi nhận có hai nhân vật cùng hiện ra đàm đạo với Đức Giêsu. Đây là hai con người đầy uy lực là hiện thân cho cả Cựu ước Môsê là biểu tượng của Lề Luật; Êlia đại diện cho hàng ngũ các ngôn sứ. Người ta tin rằng ông này sẽ trở lại vào thời sau hết, để đi trước dọn đường cho Đấng Messia ngự đến. Hai nhân chứng hiện ra rồi chợt biến mất, muốn chỉ rằng giáo ước cũ nay đang được hoàn thành nơi Đức Giêsu Kitô. Vào khoảnh khắc tái diễn lại cảnh thần hiện Xuất Hành, J.Potill giải thích, có sự tham dự của hai nhân vật lớn của lịch sử Israel, cả hai đều đã từng đặt chân trên ngọn Sinai. Họ chính là hiện thân cho Lề Luật và các ngôn sứ, và từ bao thế kỷ, đã loan báo và chuẩn bị cho Con Người đến. Hai vị đã trò chuyện với Đức Giêsu và qua đó nhìn nhận Người là Đấng phải đến (Sđd trang 330-331).

Cũng với ý chống lại cuộc khổ nạn của Đấng rnà ông xưng là “Messia”, Phêrô chỉ muốn giây phút này trở thành vĩnh cửu: “Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, Ngài một cái, ông Môsê một cái, và ông Êlia một cái.

  1. Từ đám mây có tiếng phán:

Người môn đệ còn đang nói thì bản thân ông và hài môn đệ kia bị bao phủ trong một “đám mây sáng ngời”. Trong Cựu ước đó chính là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa Dân Người qua sa mạc (Xh 13,21). Từ nay, Đức Giêsu sẽ là sự hiện diện đích thực ấy của Thiên Chúa giữa loài người. Từ đám mây, vang lên một “tiếng phán”. Ở dây chúng ta thấy lặp lại từng chữ trong tiếng phán với một mình Đức Giêsu khi người chịu phép rửa tại sông Giođan: “Đây là Con Yêu Dấu của Ta, Ta hài lòng về Người, nhưng thêm: “Hãy vâng nghe lời Người. Điều này gợi nhớ lại lời kêu gọi của Thiên Chúa đối với dân chúng khi loan báo vị Môsê mới sẽ ngự đến (Đnl 18,15). J.Potin giải thích: “Đức Giêsu không chỉ là vị ban lề luật không chỉ là ngôn sứ, Người chính là Con Yêu Dấu của Thiên Chúa, là Con Người đứng ở bên ngai Thiên Chúa. Từ nay, phải vâng nghe lời Người. Điều Người nối làm ứng nghiện những gì, Lề Luật và các ngôn sứ đã tiên báo xưa” (Sđd trang 331).

  1. Xuống núi:

Biết mình đang chứng kiến một cuộc hiển linh của Thiên Chúa, các môn đệ “sấp mặt xuống đất”. Đức Giêsu “lại gần”, “chạm vào các ông”, và trong một cử chỉ như để cứu chữa, Người thúc giục các ông hãy “chỗi dậy” (động từ mà những thế hệ Kitô hữu đầu tiên dùng dể chỉ sự phục sinh): sức mạnh phục sinh của Chúa đã khởi đầu trong cuộc sống và đức tin của các môn đệ.

Bây giờ chỉ còn lại “một mình Đức Giêsu”. Khi xuống núi, Chúa truyền cho các ông phải giữ kín những điều vừa xảy ra, “cho đến khi Con Người từ cõi chết chỗi dậy”. Cuộc tiếp xúc của các ông với Thiên Chúa chỉ diễn ra trong khoảnh khắc, J.Potin kết luận liền sau đó, họ thấy Đức Giêsu đã trở lại với trạng thái bình thường của phận làm người phải chết. Tuy nhiên, cốt lõi của sứ điệp đã được công bố, phải vâng nghe lời của Người Con Yêu Dấu, cho dù đôi khi lời ấy xem ra rất nghịch thường. Bóng đen u ám của cuộc khổ nạn đã đè nặng ngay trên ánh quang của cuộc Biến hình. Thánh sử Luca đã cho: thấy rõ điều đó khi thêm chi tiết là Môsê và Êlia hiện ra đàm đạo với Đức Giêsu về “cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem” (Lc 9,31), nghĩa là về cái chết của Người. Máccô (và Matthêu) cũng hướng sự chú ý của các nhân chứng tới cuộc hy sinh sắp tới của Đức Giêsu khi đề cập đến lệnh Người truyền cho các ông ‘đừng nói cho ai hay những gì mình thấy, cho đến khi Con Người từ cõi chết chỗi dậy’. Mặc dù cuộc biến hình dường như loại trừ khả năng phải chết của Đức Giêsu, bởi nó mặc khải Người là Con Người đến từ trời, nhưng các môn đệ chỉ nắm bắt được ý nghĩa của nó sau khi Chúa đã sống lại (Sđd trang 331).

BÀI ĐỌC THÊM

“Trên đường đời ta đi, Thiên Chúa vẫn ở bên”

“Cuộc biến hình của Chúa dạy cho chúng ta nhiều bài học: Thứ nhất, chúng ta đừng thích mơ tưởng đến những mặc khải lạ lùng của Thiên Chúa. Người dành cho ai Người muốn: ở đây Đức Giêsu chỉ đem theo ba môn đệ, và dặn họ không được tiết lộ cho ai về thị kiến cho đến khi Người sống lại. Vậy mà đến giờ phút khổ nạn, các ông này vẫn là những môn đệ bỏ Thầy, thậm chí chối Thầy như thường! Thứ đến, đó là con đường bình thường người môn đệ của Chúa phải đi, luôn ngang qua bóng tối Đức Tin của đời thường. Phêrô cảm thấy quá sung sướng được ở trên núi. Ông đề nghị dựng ngay ba lều và định cư ở đây chúng ta cũng thường thích ở lại nơi đâu mọi sự xảy ra cỏ vẻ như ý, nơi đâu đức tin và đời sống đạo của mình xem ra an toàn, vô sự, và chúng ta cảm thấy như Thiên Chúa rất gần. Chúng ta nghĩ rằng chính khi đó chúng ta mới thực sự là Kitô hữu. Thực ra Thiên Chúa không kém gần gũi với chúng ta trong giờ phút khó khăn của sa mạc hơn là trong những lúc dịu êm dưới bóng mát của ốc đảo! Hơn nữa, sự ham muốn tìm kiếm một sự hiện diện khả giác của Thiên Chúa thực ra rất hàm hồ và chính Đức Giêsu cũng chẳng muốn ba môn đệ mình kể lể về thị kiến họ được hưởng. Nhưng lần hiện ra của Chúa sau khi Người phục sinh, cũng giống như cuộc biến hình này, đều chỉ là chút ánh sáng vụt tắt. Chúng ta cần phải bước đi trên con đường mà Đức Giêsu đã đi qua để đạt tới hoàn toàn và vĩnh viễn sự mạc khải của Thiên Chúa, chúng ta hãy đối diện với cuộc sống và cái chết của mình. Môsê và Êlia là những kẻ đi tìm Thiên Chúa và đã từng được thấy hôm nay họ là nhân chứng của Đức Giêsu biến hình, chính họ đã chẳng từng phải vất vả lê bước trong sa mạc? Sứ điệp của Biến hình chính là trên đường đời ta đi Thiên Chúa vẫn ở bên.

 

76.             Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt

BIẾN HÌNH

 

CÂU HỎI GỢI Ý

  • Đâu là mối liên lạc giữa cuộc Biến hình và những điều xảy ra trước?
  • Hãy tìm các chủ đề Kinh thánh Cựu ước tiềm ẩn trong đoạn văn này.
  • Vị trí của Chúa Giêsu thế nào so với Môisen, Êlia và Gioan Tẩy giả? So sánh với cảnh Phép rửa (3, 13-17) để tìm ra những gì giống nhau cũng như những điểm mới trong đoạn văn này.
  • Đâu là ý nghĩa của cảnh này? Nó có ý nghĩa Kitô học không?
  • Đoạn văn lưu tâm đến ai, đến Chúa Giêsu hay Thiên Chúa?
  • Hãy ghi nhận việc hiện tại hóa cảnh này nhằm chủ đích hộ giáo trong 2Pr 1, 16-17

***

1) Chết và sống lại, nhục nhã và quang vinh, hai diện ấy của mầu nhiệm cứu rỗi, Chúa Giêsu chẳng hề tách biệt; các lời tiên báo của Người không phân rời hai biến cố sẽ xảy ra. Tuy nhiên, bao lâu chưa có Phục sinh và Hiện xuống, nghĩa là bao lâu Chúa Giêsu chưa sống cảnh ô nhục này và Thánh Thần chưa được trao ban, thì giáo huấn đó vẫn vô hiệu, và Chúa Giêsu lại không thể dẹp bỏ sự ô nhục được.

Nhưng Chúa Cha có thể hé mở câu trả lời và, trước khi biến cố Vượt qua xảy đến, Ngài đã cho ba môn đồ ưu ái được chiêm ngưỡng, trong một khoảnh khắc thoáng qua, chính vinh quang của Con Ngài. Kinh nghiệm đó đã không được loan báo cách bí nhiệm trong câu chuyển mạch giữa giáo huấn về việc phải đồng chịu khổ nạn với Chúa Giêsu và giai thoại Biến hình đó sao? “Quả thật, Ta bảo các ngươi: trong những kẻ có mặt đây, có người sẽ không nếm biết cái chết trước khi thấy Con Người đến trong nước của Người. Và sáu ngày sau…” (Mt 16, 28-17, 1a). Đó là lời Chúa Giêsu hứa cho nếm trước phần thưởng được dành vào ngày sau hết, tiền nếm bằng việc chiêm bái trước vinh quang của Con Người. Và các tác giả Tin Mừng Nhất Lãm đều thấy trong câu nói bí nhiệm ấy lời tiên báo trực tiếp về cuộc Biến hình; đa số các giáo phụ cũng nghĩ như vậy. Cho dù xét về nguồn góc, câu văn có thể nhắm đến cuộc Quang lâm nó cũng liên hệ với giai thoại này bằng một vài điểm móc nối có tính cách văn chương. Đặc biệt, chữ “một số người” có thể ám chỉ ba môn đồ được biệt đãi; việc Quang lâm của Con Người mà thiên hạ sẽ thấy đến trong Vương quốc, cũng đã được thực hiện cách tượng trưng trong “thị kiến” (17,9) trên núi; câu chuyển mạch thời gian “sáu ngày sau”, rất hiếm trong trình thuật về cuộc đời công khai, xem ra được chủ ý thêm vào để làm nổi bật mối liên hệ giữa lời loan báo và việc thực hiện.

Xét theo mạch văn, thì cuộc Biến hình có mục đích cho các môn đồ ưu ái thấy trước Vinh quang của ngày sau hết, vinh quang nay đang tập trung trong con người Giêsu đang sống thường ngày với họ. Thiên Chúa phán với các môn đồ đầy sợ hãi rằng họ có thể và phải nghe cùng vâng lời, tín thác cùng đi theo Chúa Giêsu trên đường đẫn tới Giêrusalem, tiến đến vinh quang bằng thập giá.

 

2) Các chủ đề Kinh thánh xuất hiện trong đoạn văn này có một ý nghĩa rộng lớn đến nỗi phải gắn liền chúng với cao điểm của trình thuật, nghĩa là, theo ý kiến chung của các nhà chú giải, với lời phán từ trời. Lời thần tính này, từ trời phán ra, nhắc lại lời Chúa Cha phán lúc Chúa Giêsu chịu phép rửa (3,17). Nhưng tiếng nói từ trời còn thêm vào lời công bố tử hệ thần linh của Chúa Giêsu một mệnh lệnh cho các môn đồ: “Hãy nghe Người”. Lời đó mặc khải ba khía cạnh của Chúa Giêsu: Con Thiên Chúa, Tôi tớ được Thiên Chúa sủng ái, Ngôn sứ tuyệt hảo.

Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Thành ngữ “Con yêu dấu” có nghĩa là “Con duy nhất”. Đối với các nhà biên soạn Tin Mừng, thành ngữ đó không những chỉ Đấng Messia, Đấng được tuyển chọn, mà còn chỉ Chúa Con tiền hữu; dầu không có nội dung chính xác theo như định nghĩa của các công đồng, tước hiệu Con Thiên Chúa, phát xuất từ Tv 2,7, vẫn có một ý nghĩa mới như việc cộng đoàn sứ đồ giải thích lại Tv này. Dù các môn đồ, trong cuộc Biến hình, hiểu lời đó thế nào chăng nữa, thì đối với các tác giả Tin Mừng, hình như chắc chắn Lời này công bố sự tiền hữu của Chúa Giêsu. Chính Thiên Chúa đáp lại lời Chúa Giêsu vừa loan báo về cuộc khổ nạn của mình. Trong phép rửa, khi Chúa Giêsu đến với Gioan Tẩy giả dưới dáng vẻ một tội nhân như một người Israel đương thời, thì Thiên Chúa đã công bố rằng Người đích thực là Con yêu dấu. Trong cuộc Biến hình, Thiên Chúa đã xác quyết với các môn đồ vừa nghe Chúa Giêsu tự gán cho mình số phận người Tôi tớ đau khổ, rằng Người quả thực là con riêng của Ngài.

Chúa Giêsu là Tôi tớ Thiên Chúa; Thiên Chúa hài lòng về người Con yêu dấu đó. Qua tiểu chú thứ hai này, Mt gợi lại cuộc thần hiển xảy ra lúc Chúa Giêsu chịu phép rửa, và cho thấy Thiên Chúa muốn giới thiệu Chúa Giêsu như là người Tôi tớ mà Isaia đã loan báo: “Này đây Tôi tđ của Ta mà Ta nâng đỡ; Tuyển nhân của Ta mà Ta sủng mộ” (Is 42,1). Khi gọi Chúa Giêsu như là “người được tuyển chọn”, người được sủng ái tiếng nói từ trời đã áp triện thần linh trên thái độ của Đấng Messia “hiền lành và khiêm nhượng trong lòng” này (11, 29), là Đấng không nỡ bẻ cây sậy bị dập” (Is 42,2 – được Matthêu áp dụng cho Chúa Giêsu trong 12, 18-21), là Đấng người ta có thể đến học đòi bắt chước mà chẳng chút sợ hãi lo âu.

Chúa Giêsu là Ngôn sứ: Mệnh lệnh “Hãy nghe Người” đã làm nổi bật giai thoại so với trình thuật Phép rửa. Nó áp dụng vào Chúa Giêsu lời loan báo có tính cách sấm ngôn của Đệ Nhị Luật được trích dẫn trong Cv 3, 22: “Từ giữa các anh em ngươi Chúa của ngươi sẽ cho chỗi dậy một ngôn sứ như ta; các ngươi sẽ nghe Người trong tất cả mọi điều Người phán” (Đnl 18,15). Trong diễn từ cho dân chúng tại Giêrusalem, Phêrô cho thấy khi phục sinh Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã bày tỏ Chúa Giêsu như một Môisen mới, như Vị Ngôn sứ thiên hạ đợi trông trong thời cánh chung (x.Cv 7,37; Ga 6,14; 7,40). Sự đảm bảo thần linh này, Thiên Chúa đã ban cho Chúa Giêsu lúc Người biến hình để tỏ cho các môn đồ thấy rằng hôm nay quả thực Người là Vị ngôn sứ tuyệt hảo và phải nghe Người, “nếu không sẽ bị loại ra khỏi lòng dân tộc? (x.Cv 3,23; Lv 23,29), rằng ơn cứu độ cũng như sự sống vĩnh cửu đều tùy thuộc về Người, sự sống vĩnh cửu mà Người vừa hứa ban cho ai vác thập giá đi theo.

 

3) Mỗi một dấu hiệu biểu trưng trong cuộc thần hiển – núi, vinh quang, các nhân vật Môisen và Êlia, lều trại, đám mây – đều được sáng tỏ dưới ánh sáng văn mạch và lời nói từ trời. Mệnh lệnh phán từ trời đã chỉ Chúa Giêsu như là vị Môisen mới. Thế mà trong Cựu ước, ngọn núi Thiên Chúa thường dùng để mặc khải, ngọn núi mà Môisen đến nhận lãnh các bảng Lề luật (Xh 31, 18) và Êlia có lần trèo lên (1V 19,8), là núi Sinai. Do đó ngọn núi nơi Thiên Chúa đến nói chuyện với Con của Ngài đang biến hình, là núi Sinai mới. Các yếu tố khác trong trình thuật thần hiển đều qui chiếu về lối giải thích đó đặc biệt là ánh vinh quang, các nhân vật Môisen và Êlia, đám mây sáng rực; và cũng có lẽ cả chi tiết “sáu ngày” trước khi xảy ra cuộc Biến hình của Chúa Giêsu và lời công bố của tiếng nói từ trời? Môisen đã chẳng phải chờ đợi, trong 6 ngày, lời của Giavê đó sao (Xh 24, 15-16)?

 

CHÚ GIẢI CHI TIẾT

“Chúa Giêsu đem theo mình Phêrô, Giacôbê và Gioan”: Khi lên núi Sinai, Môisen cũng đi với nhiều bạn hữu trong số đó có ba người được ghi đích danh ở một trong các bài trình thuật (Xh 24,9). Phêrô, Giacôbê và Gioan sẽ ở với Chúa Giêsu trong vườn Ghetsêmani (26.37); họ cũng sẽ bỡ ngỡ vì biến cố như ở đây. Đoạn cuối trình thuật (17,9) và 2Pr 1,16 giải thích cho biết sự hiện diện của các sứ đồ đó là cần vì sau Phục sinh, cần phải rao giảng, làm chướng cho Vinh quang của Chúa Giêsu trước mặt dân chúng. Thế mà “có miệng hai hay ba nhân chứng thì việc mới vững” (Đnl 19,15).

 

“Trên một núi cao”: Thành ngữ này không gặp ở chỗ nào khác trong Matthêu ngoài trình thuật Cám dỗ (4,8.). Nó nói lên tương quan giữa cuộc Biến hình và Cám dỗ. Quả thực, Chúa Giêsu vừa mới đẩy lui cuộc cám dỗ quỷ quái của Phêrô (16, 23). Để đáp lại lòng tùng phục của Người, Chúa Cha đã biến đổi Người cách vinh quang và như vậy tiên hứa cho Người quyền năng trên toàn thế giới (“Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Ta”: 28, 18), quyền năng này Người đã từ chối nhận lãnh cách quá sớm từ tay Satan (4.8) và chỉ sẽ nhận lãnh sau ngày Phục sinh.

 

“Và Người đã biến hình trước mặt họ”: Biến hình (Hy ngữ: metamorphôthê: nghĩa tự nguyên: “thay đổi” hình dạng, vẻ mặt), có nghĩa là có một dung mạo khác với dung mạo thường ngày; cũng thế, Chúa Giêsu đã hiện ra với các môn đồ Emmau dưới một hình dạng khác, hình dạng người lữ hành (Mc 16,12). Việc Chúa Giêsu biến hình đã đáp ứng niềm hy vọng thấy trong văn chương Khải huyền Do thái. Vào thời sau hết, khuôn mặt của các người công chính sẽ biến đổi và trở nên sáng láng, rạng rỡ kiều diễm như mặt các thiên sứ, tràn ngập vinh quang (Khải huyền của Baruch 51, 3-10). Dựa trên một sự kiện của quá khứ – da mặt Môisen chiếu rọi vinh quang vì đã được trò chuyện với Giavê (Xh 24,39), niềm trông đợi cánh chung đó diễn tả sự vinh hiển tương lai của những kẻ được chọn như sau: các hiền nhân sẽ sáng chói như ánh quang vòm trời, và những kẻ đã giảng dạy sự công chính cho nhiều ngươi sẽ rạng rỡ như tinh sao muôn đời muôn kiếp” (Đn 12,3). Hôm nay, trên núi này, qua con người Chúa Giêsu, dưới mắt các môn đồ được biệt đãi, niềm hy vọng đã trở thành thực tại. Nếu lời thiên quốc giới thiệt Con Thiên Chúa tiền hữu, thì sự kiện biến hình mặc khải con người Chúa Giêsu trong ánh vinh quang sau cùng và dứt khoát của Người.

 

“Mặt Người sáng láng như mặt trời, áo Người trắng phau như ánh sáng”: ánh sáng rực rỡ này biểu trong các thực tại thiên quốc (Đn 7,9; Mt 28,3; Cv 9,3) và cánh chung (Kh 1, 13- 14; 4, 4; 14,4; 19, 11, 20, 11). Vinh quang mà Chúa Giêsu loan báo cho thời sau hết, khi Con Người sẽ đến trong vinh quang của Cha Người với các thiên sứ” (16,27), vinh quang mà Giacôbê và Gioan mơ ước (20, 20-23), giờ đây xuất hiện trước mắt ba nhân chứng. Nó không phải là một phản ảnh đơn thuần của vinh quang Giavê (Môisen), nhưng là một ánh sáng chói lọi mặc khải hữu thể sâu xa của Chúa Giêsu: Người là chính Thiên Chúa. Sau này các sứ đồ sẽ minh xác điều đó: “Chúa Giêsu là sự tỏa chiếu vinh quang Thiên Chúa, là ấn tượng của bản tính Ngài” (Dt 1, 3); trên mặt Người là vinh quang Thiên Chúa (2 Cr 4, 6); Người là Chúa vinh quang” (1 Cr 2, 8). Anh vinh quang thiên quốc này đã sáng rực lên trong đêm Sinh nhật, bao trùm các mục đồng (Lc 2, 9-10), hôm nay vinh quang đó phủ lấy con người này, và mặc khải trước thời gian trạng thái tương lai người đó sẽ đạt đến, khi được đưa vào vinh quang” (1Tm 3, 16), khi được Thiên Chúa phục sinh và ban cho vinh quang (1Pr 1, 21), khi Thiên Chúa tôn vinh Tôi tớ của Ngài (Cv 3, 13). Têphanô sẽ thấy Người trong vinh quang của Người như thế (Cv 7, 55) và Saolê, trên đường đi Đamas, sẽ bị đui mù vì ánh sáng của Người (Cv 9,3). Vinh quang này của Chúa Kitô sau cùng sẽ bừng sáng trên chính tín hữu (2Cr 3, 18). Và trong khi chờ đợi ngày được tôn vinh, người Kitô hữu, vốn đang sống trong đêm tối mà không thuộc về đêm tối (1Tx 5,5-6), đã thấy trong cuộc Biến hình một nguồn sáng rực rỡ.

 

“Và này có Môisen và Êlia hiện ra cho họ”: Không có giả thuyết nào về ý nghĩa hai nhân vật thiên quốc này làm ta xác tín thỏa mãn. Người ta thường xem Môisen như là biểu tượng của Lề luật, cùng Êlia như là người đại diện các ngôn sứ; nhưng thông phán từ trời (Hãy nghe Người) cho thấy tiền ảnh của Vị Ngôn sứ tương lai là Môisen chứ không phải Êlia: Vả lại dưới mắt Israel, Môisen chẳng những là nhà lập luật, mà còn là vị ngôn sứ nữa (Hs 12, 14) là là vị ngôn sứ mà sau này trong Israel sẽ chẳng có vị nào tương đương” (Đnl 34,10). Thỉnh thoảng người ta cũng xem Môisen và Êlia như là tiền ảnh của hai nhân chứng sách Khải huyền giối thiệu mà không nêu danh: Êlia là kẻ có quyền đóng cửa trời và Môisen là người có quyền gõ vào mặt đất (Kh 11, 3.6); một vài bản văn của các giáo sĩ Do thái: còn xem Êlia như là hình ảnh của Đấng Messia đau khổ: trong cuộc chuyện trò ngay sau giai thoại biến hình, Êlia được xem là hình ảnh của Gioan mà người ta đã ngược đãi (Mt 17, 12-13). Quả vậy, xét theo truyền thống (Mt 3, 23-24) mà Chúa Giêsu ám chỉ cho các môn đồ trong một 17, 10-11, có thể Êlia là tiền hô của Đấng Messia, và điều này đã được thực hiện trong con người Gioan Tẩy giả. Vậy sở dĩ Êlia có mặt trên núi, đó là với tư cách tiền hô của Đấng Messia; có lẽ vì thế mà Mc đã ghi tên ông trước Môisen, dù sau đó ông ta ghi lại theo thứ tự ưu tiên của truyền thống (Mc 9,5). Có một bản văn của các giáo sĩ Do thái ghi chép thế này: “Johannan ben Zacchai đã nói. Thiên Chúa phán cùng Môisen: khi Ta sẽ sai ngôn sứ Êlia, cả hai ông phải cùng nhau đến “ (Dt rabba 3). Có lẽ toàn thể biểu tượng cựu truyền về hai nhân vật này đã liêm nhiễm quan niệm về Đấng Messia của các tác giả Tin Mừng: ngôn sứ Môisen đến chào Vị ngôn sứ đích thực; cùng đi với ông, còn có Êlia, vị tiền hô của Messia. Dù sao, hai nhân vật này của Cựu ước, ngày xưa đã từng trèo lên núi Sinai, tiên báo qua việc họ lên núi Sinai mới này rằng: với Chúa Giêsu, thời gian đã hoàn tất.

 

“Tôi sẽ dựng ba lều”: Đối với truyền thống Do thái, nơi ở thiên quốc được biểu trưng bằng các nhà tạm đời đời” (Lc 16,9). Quả vậy, người ta biết rằng trong thời sau hết, Thiên Chúa sẽ ở giữa dân Ngài (Ed 37, 27; Hs 12, 10) trong lều của Vinh quang Ngài, rằng dân chúng sẽ cắm lều quanh Đấng Messia của họ (Ít nhất theo Hênoc 71,16; Ga 1,14: Người đã dựng lều Người giữa chúng tôi, và chúng tôi đã thấy vinh quang của Người”) và các dấu lạ của thời Xuất hành sẽ tái diễn. Phêrô tưởng thời sau hết đã tới và cho rằng đã đến lúc thiết lập thiên đàng ở trên trái đất, để cuộc hiện ra trong một ngày sẽ kéo dài mãi mãi. Khi đề nghị làm ba lều, ông muốn khai mào sự “nghỉ ngơi” cánh chung vậy.

 

“Thì này một đám mây sáng ngời rợp bóng trên họ”: Đó là câu Thiên Chúa trả lời đề nghị của Phêrô. Lều có vai trò che chở, còn mây thì đến phủ bóng: lều được bàn tay loài người dệt nên, còn mây thì do trời; lều tìm ta trong bóng tối, còn mây lại chiếu sáng rạng ngời. Điểm tương phản mà văn mạch trực tiếp gợi lên ấy, đã được xác định và xác quyết qua hình ảnh đám mây của Kinh Thánh.

Trong truyền thống Thánh Kinh, mây dấu chỉ thần hiện đi theo các cuộc xuất hiện khác nhau của người thiên giới. Ở đây không phải là đám mây chỉ theo một nhân vật như Con Người của thời cánh chung (Đn 7, 13; Mt 24.30), song là đánh mây rợp bóng và bảo vệ đám mây một cách nào đó dựng lều cho chính Thiên Chúa: Thiên Chúa đã lấy mây để làm lều trại cho mình (Tv 18, 12). Tuy nhiên hình như biến cố này thực hiện một sấm ngôn trong truyền thống Do thái, liên hệ đến thời sau hết: Và bấy giờ Chúa sẽ tỏ bày các điều ấy ra, và vinh quang Chúa cũng như đám mây sẽ xuất hiện, như đã hiển hiện dưới thời Môisen và khi Salomon cầu xin cho đền thờ được huy hoàng tác thánh” (2Mcb 2,8). Cũng như ngày xưa Lều Hội họp (Trướng Tao phùng) đã được đám mây bao phủ và nhà tạm được tràn ngập vinh quang Giavê (Xh 40,34-35), như đền thờ của Salomon được Đám mây và Vinh quang bao phủ (1V 8,10-12), thì trong thời cánh chung cũng như vậy: Vinh quang dã rời bỏ Đền thờ (Ed 10, 3-4) sẽ trở lại cùng với Đám mây. Trên núi Biến hình, được chiếu sáng bới vinh quang đang tỏ hiện nơi dung mạo Chúa Giêsu và nơi y phục Người, Mây đã ngự xuống làm dấu chỉ có Thiên Chúa hiện diện. Mây rợp bóng bao trùm các nhân vật cũng tương tự quyền năng của Đấng Tối cao đã “phủ bóng” trên trinh nữ Maria trong ngày Truyền tin (Lc 1,35): động từ episkiazô chỉ xuất hiện ở Tân ước trong hai trường hợp này để nói lên sự can thiệp đặc biệt của Thiên Chúa.

Ý nghĩa biểu trưng của Mây còn có thể được xác định thêm. Nó không chỉ phủ bóng trên ba nhân vật, mà còn trên ba môn đồ nữa; chỉ Luca ghi nhận điểm ấy, nhưng văn mạch cũng nói lên điều đó trong Matthêu và Macco. Tiểu tiết này thật quan trọng: nó cho thấy rằng các môn đồ không chỉ làm khán giả, song còn nhập cuộc vào một biến cố dĩ nhiên là vượt tầm sức họ, nhưng cũng liên quan đến họ. Lời ngôn sứ vừa nhắc trên đây cho thấy Vinh quang và Mây xuất hiện trong hoàn cảnh nào: nơi cất dấu các đồ phụng tự “sẽ không được ai biết đến cho tới khi nào Thiên Chúa thâu họp dân lại và dủ lòng thương đoái” (2Mcb 2, 7). Nếu nhớ lại văn mạch tổng quát của giai thoại biến hình chúng ta đang nghiên cứu, tức là việc thành lập cộng đoàn môn đồ để tiên báo và thể hiện Giáo Hội, ta sẽ dễ dàng chấp nhận rằng Thiên Chúa đã bắt đầu thâu họp dân Ngài. Khi nối kết hai nhóm – trời và đất – cho đến lúc đó hãy còn tách biệt, đám mây đã công nhận việc thâu họp các môn đồ quanh lời Chúa Giêsu, việc thâu họp mà Người đã bắt đầu thực hiện. Không phải Chúa Giêsu biến hình cho riêng Người, nhưng còn cho các môn đồ: họ sẽ nhờ đó khám phá ra nguồn gốc thần linh của lời giáo huấn mà họ phải vâng nghe; một khi đã được vào trong đám mây thiên quốc, họ sẽ biết rằng từ đây họ đang lập thành một cộng đoàn với Chúa Giêsu và cả với thiên quốc, bao lâu họ còn lắng nghe lời Người.

 

“Các môn đồ ngã sấp mặt xuống đất… Chúa Giêsu đụng đến họ”. Đối diện với Thiên Chúa đến viếng thăm, con người cảm thấy xâm nhập bởi một nỗi sợ hãi linh thánh. Không ai có thể nhìn thấy Thiên Chúa mà không chết (Xh 19, 21; 33, 20; Lc 16, 2; Ds 4, 20). Trong thị kiến đầu tiên, Isaia cảm thấy như muốn chết (Is 6, 5) vì đã tiếp xúc với Thiên Chúa. Ở đây, các môn đồ cũng cảm nghiệm cùng một nỗi sợ hãi như chết đó khi đứng trước vinh quang Chúa Giêsu. Vì thế Chúa Giêsu đã thực hiện một cuộc phục sinh tượng trưng. Người đụng đến họ, và cử chỉ chữa bệnh đã từng phục sinh con gái ông Giairô (9, 25) giờ đây cũng “phục sinh” các môn đồ.

 

“Các con không được nói cho ai hay thị kiến ấy cho đến khi Con Người sống lại từ cõi chết”: Chắc hẳn Chúa Giêsu ban mệnh lệnh này để tránh mọi xáo động có tính cách chính trị thiên sai trong dân chúng; sau Phục sinh, mối quản ngại này không còn nữa, vì giữa cuộc Biến hình và Phục sinh, thập giá đã dẹp bỏ một lần thay cho tất cả các ước mơ về quyền lực thiên sai rồi.

 

KẾT LUẬN

Tất cả các yếu tố của đoạn miêu tả này đều cho thấy ràng niềm trông đợi của Israel đã được thực hiện, một cách bất ngờ nhưng chắc chắn. Môisen và Êlia đến chuẩn bị dân chúng và biến họ thành một cộng đoàn thánh thiện. Nhờ đám mây, cụộc tập họp vĩ đại được thực hiện (2 Mcb 2, 7); khuôn mặt sáng láng của Con Người mà Đaniel tiên báo (Đn 7 và 10) giờ đây đang đứng trước mặt các môn đồ; còn họ thì tượng trưng cho cộng đoàn cánh chung. Tất cả những gì Israel hy vọng nay đang thành thực tại. Điểm mới mẻ, chính là nhân vật biến hình. Người không đến từ trời, nhưng trời xuống trên trái đất. Người không nói, nhưng là tiếng nói từ trời vang lên. Sau cùng và đặc biệt, Đấng mà giờ đây ta phải vâng nghe, không còn chỉ là Giavê (“Hãy nghe hỡi Israel”: Đnl 6,4 – khởi đầu của kinh nguyện được gọi là Shema), nhưng là Chúa Giêsu đang đứng đó. Người là Đấng mặc khải, là chính Chúa của dân.

 

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

1) Chúa Nhật I Mùa Chay đã dẫn chúng ta lên núi cám dỗ, là nơi mà Chúa Giêsu đã từ chối không chịu quỳ lạy dưới chân tên Cám dỗ để được nó ban cho một quyền lực mà chỉ mình Thiên Chúa mới có thể ban (Mt 4, 8-10). Để đáp lại lòng trung thành sơ khởi này đối với Thiên Chúa, hôm nay có tiếng nói từ trời được phán ra trên núi Biến hình, trong Chúa nhật II Mùa Chay này. Khi công bố Chúa Giêsu là Con Tiền hữu, tiếng nói từ trời làm cho ta tin vào giáo huấn mới về số phận mà Thiên Chúa đã đặt định cho Tôi tớ Ngài: không phải là đường uy quyền trần thế, mà là đường vinh quang thiên quốc đi qua nhục nhã khiêm hạ. Rồi quyền tối thượng trên trời duỗi đất mà Chúa Giêsu đã lãnh nhận từ Thiên Chúa, Người đã ủy thác lại cho các môn đồ quậy tụ trên núi Thăng thiên (28, 18-20). Cũng vậy, Giáo Hội sẽ có thể thực thi quyền đó nhân danh Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã hứa ở cùng Giáo Hội cho đến khi Người trở lại vinh quang, nếu Giáo Hội, theo gương Thầy chí thánh, không nghe lời Satan, mà bỏ con đường đưa đến vinh quang ngang qua thấp giá.

 

2) Việc biến hình của chúng ta hệ tại ở việc chúng ta trở nên giống Chúa Kitô bằng sự tiến bộ không những trong đường thiêng liêng (2 Cr 3, 18) và, sau cuộc vượt qua cái chết với Chúa Giêsu (Pl 3,10-11) bàng việc tôn vinh toàn hữu thể chúng ta, kể cả thân xác (Pl 3, 21). Việc Phục sinh của Chúa Kitô kéo theo việc phục sinh và biến hình toàn diện chúng ta như vậy đó.

 

3) Cũng như các sứ đồ trong cuộc sống âm thầm thường nhật, chúng ta phải biết gặp “một mình Chúa Giêsu” (c.8), Chúa Giêsu của mọi ngày, Chúa Giêsu nền tảng của cuộc sống nội tâm và tông đồ của chúng ta (Pl 1, 21), nhất là khi chúng ta mất hết mọi tình bằng hữu hoặc mọi nương tựa nơi người đời.

 

4) Đừng sợ hãi khi phải cùng với người và trong đám mây (c.5). Vì đây là một “đám mây sáng ngời” sẽ rợp bóng trên chúng ta. Đây là một sự hiện diện kín đáo trong đời sống cầu nguyện hay trong dời sống đức tin tinh ròng.

 

5) Chúng ta sẽ được chiêm ngưỡng Chúa Kitô trong vinh quang của Người trên trời, sẽ thấy Người trong vẻ đẹp kiều diễm sáng láng (Kh 1,13- 18), và sẽ được ở cùng với Người muôn đời (1Tx 4, 17). Trong khi chờ đợi ngày khải hoàn vinh phúc đó, ta hãy sống trong đức tin là tuân phục: ta hãy vâng nghe Người.

 

6) Việc Chúa biến hình trong phép Thánh Thể không nhằm tỏ hiển vinh quang người ra bên ngoài, nhưng nhằm che dấu vinh quang đó dưới các hình sắc bí tích. Tuy nhiên, nếu trung thành lắng nghe tiếng của Con yêu dấu, Đấng đã giáo huấn chúng ta về mầu nhiệm đó chúng ta sẽ nhận ra sự hiện diện của Người tiềm ẩn trong hình bánh hình rượu, và chúng ta sẽ kêu lên: Lạy Chúa, được ở đây thì tốt lắm”. Và rồi chúng ta sẽ có can đảm phục vụ người trong cuộc sống bình thường mọi ngày đời ta.

 

77.             Anh em hãy nghe Người

(Giải thích bản văn Tin Mừng của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)

 

Đoạn 17,1-9 nằm trong văn mạch tập trung bàn về cái chết và sự sống lại của Chúa Giêsu (16,21và 17,27), trong đó Chúa Giêsu tiên báo hai lần về cuộc khổ nạn và phục sinh của Người (16,21 và 17,22-23). Giữa hai lần ấy là bài tường thuật về sự biến hình của Chúa Giêsu (17,1-9). Xét mạch văn gần hơn, đoạn nói về Biến Hình cho thấy trước vinh quang của Chúa Giêsu mà câu 16,27 loan báo. Cũng thế nó liên kết với đoạn sau khi nhắc đến cuộc khổ nạn (17,12) và việc sống lại từ cõi chết (17,9). Đoạn nầy có cấu trúc đối đảo (chiasmus): Chúa Giêsu dẫn 3 môn đệ lên núi – xuống núi (cc. 1 và 9); Chúa biến hình có Môsê và Êlia – Chúa sau khi biến hình và một mình (cc. 2-3 và 7-8); Phản ứng của Phêrô – và của các môn đệ (cc. 4 và 6); Lời của Thiên Chúa về Con của Người (c. 5). Do dùng cấu trúc nầy, Matthêô muốn đặt trọng tâm chú ý vào nội dung của câu 5: Chúa Giêsu là Con của Thiên Chúa, và phải nghe Người.

 

Biến Hình của Chúa Giêsu diễn ra trong một thị kiến. Horama (c. 9) “thị kiến”, là điều con người thấy được do Thiên Chúa ban cho trong xuất thần hoặc trong giấc ngủ (x. Cv 7,31; 9,10, 12; 10,3, 17, 19; 11,5; 12,9; 16,9tt; 18,9); do đó, thị kiến có tính cách mạc khải. Những điều được nói đến trong Biến Hình không thuộc thế giới tại thế: các nhân vật như Chúa Giêsu “mặt sáng như mặt trời, áo trắng tinh như ánh sáng” (c. 2), Môsê và Êlia (c. 3), tiếng từ đám mây (c. 5), sự sợ của các môn đệ (c. 6).

 

Chúa Giêsu đem ba môn đệ Phêrô, Gioan và Giacôbê lên núi cao (c. 1)

”Núi cao” nhắc nhớ nơi Chúa Giêsu chịu cám dỗ (4,8). Nơi ấy Người không làm theo lời của ma quỉ, mà chỉ vâng lời ý của Thiên Chúa. Trên núi cao nầy, Người sẽ được biến đổi trước trong vinh quang, vì Người đã chấp nhận trước cuộc khổ nạn và cái chết do Chúa Cha chỉ định (x. 16,21). Vinh quang phục sinh nầy sẽ bày tỏ cách dứt khoát cho tất cả các môn đệ trên một ngọn núi tại Galilêa trước khi Người lên trời (28,16). Chúa Giêsu chỉ muốn cho nhóm ba môn đệ chứng kiến cuộc biến hình của Người, vì Phêrô đã không hiểu và phản đối việc chịu khổ nạn và cái chết của Chúa Giêsu (x. 16,22-23), và họ sẽ là những người loan báo sự phục sinh của Người cho muôn dân (c. 9). Nhóm ba người nầy sẽ chứng kiến Chúa Giêsu trong trạng thái buồn sầu và xao xuyến trước khi chịu khổ nạn (26,37), tương phản với vinh quang trong Biến Hình. Điều nầy cho thấy Biến Hình là cần thiết để có thể “vác thánh giá theo Chúa Giêsu” và mạnh mẽ “liều mất mạng sống vì Người” (16,24-25).

 

Metamorphoō (c. 2) “biến hình” là thay đổi hình dạng hay vẻ bên ngoài thấy được. Sự thay đổi nơi Chúa Giêsu được diễn tả là “mặt Người sáng láng như mặt trời” và “áo Người trắng tinh như ánh sáng”. Cụm từ “sáng láng như mặt trời” còn được áp dụng cho những người công chính sau khi sống lại trong Nước của Cha (13,43). Gioan cũng nói như Matthêô khi ông mô tả thị kiến về Chúa Giêsu xuất hiện giữa bảy trụ đèn vàng “Mặt Người sáng láng như mặt trời với cả sức chói lọi” (Kh 1,16). “Áo trắng tinh như ánh sáng” chỉ người của Thiên Chúa. Thiên sứ trong buổi sáng ngày phục sinh, từ trời xuống lăn viên đá cửa mồ đi, mặc áo “trắng như tuyết” (28,3). Như thế trong quang cảnh của Biến Hình chỉ có “mặt trời”và “ánh sáng”. Không có bóng đêm. Đó là cảnh vinh quang của Thiên Chúa và Chúa Giêsu (x. Kh 21,3; 22,5).

 

Môsê và Êlia xuất hiện (c. 3)

Matthêô không nói đến nội dung của cuộc đàm đạo giữa Chúa Giêsu – Môsê và Êlia (x. Lc. 9,31). Sự xuất hiện của hai ông và việc họ đàm đạo với Chúa Giêsu chứng tỏ Biến Hình diễn ra trong thế giới của Thiên Chúa. Trong Matthêô, Môsê được nhắc đến như là người đại diện của lề luật. Mọi thứ trong đời sống của dân Israel đều bị chi phối bởi luật Môsê: liên quan đến người mắc bệnh phong (8,4), vợ chồng (19,7.8; 22,24), quyền giảng dạy của các Pharisêô và kinh sư (23,2). Khi Chúa Giêsu đến, Người kiện toàn mọi lề luật của Môsê. Lề luật yêu thương của Người là luật cao trọng nhất và tóm kết mọi lề luật (22,40). Về Êlia mà dân chúng mong đợi sẽ đến trước ngày của Thiên Chúa để chấn hưng mọi sự (Mal 3,23-24), Chúa Giêsu đã đồng hoá ông với Gioan Tấy Giả (17,12). Như thế cả hai Môsê và Êlia đều đóng vai trò đi trước dọn đường cho ngày Con Thiên Chúa sẽ đến (x. 5,17-18). Vai trò chuẩn bị của họ đã xong và đã được thay thế bởi việc Chúa Giêsu đến. Bây giờ phải nghe lời của Con Thiên Chúa (c. 5).

 

Trung tâm của Biến Hình là lời của Thiên Chúa (c. 5)

Đám mây chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa (24,30; 26,64). Từ đám mây Thiên Chúa phán ra. Lời phán ra tương tự với lời trong buổi Chúa Giêsu chịu phép rửa (3:17). Điểm khác biệt là có thêm mệnh lệnh “Các anh hãy nghe Người”. Trong buổi chịu Phép rửa chỉ mình Chúa Giêsu có thị kiến về Thánh Thần ngự xuống trên Người trong hình chim bồ câu, và nghe tiếng Chúa Cha. Trong Biến Hình, lời Chúa Cha nói cho ba môn đệ. Người tuyên bố Chúa Giêsu là Con của Người; qua đó, Người xác nhận điều Phêrô tuyên xưng “Thầy là Con Thiên Chúa hằng sống” (16,16; x. 1,18-25; 2,15; 3,17; 21,37). Mệnh lệnh “Hãy nghe Người” bao hàm toàn bộ tin mừng Nước Trời mà Chúa Giêsu loan báo (x. Đnl 18,18).

 

Phản ứng của các môn đệ (cc. 4 và 6)

Các môn đệ sợ sấp mặt xuống đất (c. 6). Sự sợ thường xảy ra nơi những người chứng kiến những điều thuộc về Thiên Chúa: Giuse (1,20); dân chúng (9,8); các môn đệ (14,27; 17,6); viên bách quản và những người đứng gần thánh giá (27,54), các môn đệ sau khi Chúa phục sinh (28,10). Họ sợ vì đã gặp Thiên Chúa. Thị kiến về Biến Hình tách biệt các môn đệ khỏi dân chúng. Họ không được nói cho dân chúng biết trước khi Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết (c.9). Họ chỉ có thể hiểu rõ và mạnh dạn loan báo điều nầy cho mọi người sau khi đã thật sự kinh nghiệm sự sống lại của Chúa Giêsu.

 

Điều Thiên Chúa cho ba môn đệ biết trong Biến Hình nhắm đến mọi người. Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa và ai cũng phải lắng nghe lời Người để được chia sẻ vinh quang phục sinh của Người.

 

78.             Mùa chay đổi mới tâm hồn – Lm. Đan Vinh

  1. HỌC LỜI CHÚA

Ý CHÍNH: MÙA CHAY BIẾN ĐỔI TÂM HỒN.

Bài Tin Mừng thuật lại việc Đức Giêsu biến hình trên một núi cao trước mặt ba môn đệ thân tín là Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an. Mặt Người chiếu sáng như mặt trời. Áo người trở nên trắng như tuyết. Có hai nhân vật Cựu Ước là Mô-sê và Ê-li-a hiện ra đàm đạo với Người, có tiếng Chúa Cha giới thiệu Người là Con yêu dấu và đòi các môn đệ phải vâng nghe lời Người. Ba môn đệ từ vui mừng đến khiếp sợ khi đối diện với vinh quang Thiên Chúa.

CHÚ THÍCH:

– C 1-2: +Các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an là em ông Gia-cô-bê: Đây là ba môn đệ thân tín nhất của Đức Giêsu. Các ông là những người nhiệt thành yêu mến Thầy, và được trao các nhiệm vụ then chốt, nên Đức Giêsu đã cho các ông thấy trước vinh quang của Người, để thêm lòng tin, hầu đủ sức vượt qua giờ phút đau thương trong cuộc khổ nạn của Người (x. Mt 26,37). + Một ngọn núi cao: Theo truyền thống xa xưa, thì đó là núi Ta-bo. Tuy núi này chỉ cao 360 m so với Địa Trung Hải, nhưng do nằm trên cánh đồng rộng lớn Ét-rê-lon, cũng gây cho người ta cảm tưởng là một ngọn núi cao. Ngày nay nhiều người nghĩ tới ngọn Khéc-môn cao 2.795m gần thành Xê-da-rê của Phi-líp-phê. Đi từ Xê-da-rê tới nơi mất khoảng 5 ngày đường như Tin Mừng đã viết. Tuy nhiên có lẽ khi viết câu này, Mát-thêu chỉ chú trọng đến ý nghĩa tượng trưng của Núi: Núi là nơi khởi đầu và kết thúc mặc khải của Thiên Chúa đối với Mô-sê thời Cựu Ước hay với Đức Giêsu thời Tân Ước (x. Mt 5,1; 28,16). Núi cũng là nơi quy tụ muôn người nên một trong Nước Trời trong thời kỳ cánh chung hay tận thế (x. Mt 15,29; Is 2,2-3). + Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông: Đức Giêsu tỏ bày Thiên tính vinh quang của Người cho các môn đệ thấy. Trong thời Xuất Hành, sau mỗi lần đàm đạo với Đức Chúa, mặt Mô-sê sáng chói, đến nỗi dân Ít-ra-en sợ không dám lại gần ông (x. Xh 34,29-30). + Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng: “Chói lọi như mặt trời” là biểu hiện thuộc về thiên quốc (x. Mt 28,3; Cv 9,3) và thuộc về thời cánh chung (x. Kh 1,14; 4,4). Theo thể văn khải huyền thì y phục trắng tinh giống như ánh sáng là biểu hiện vinh quang thiên giới dành cho những người được Thiên Chúa tuyển chọn.

– C 3-4: + Ông Mô-sê và ông Ê-li-a: Hai ông này tượng trưng cho Luật Mô-sê và các ngôn sứ, nghĩa là cho toàn bộ Cựu Ước. Như thế tất cả Cựu Ước đều hiện diện để làm chứng và tôn vinh Đức Giêsu. Hai vị này đàm đạo với Đức Giêsu về cái chết của Người sắp được thực hiện tại Giê-ru-sa-lem như một cuộc Xuất Hành Mới (x. Lc 9,31). Qua đó cho thấy toàn bộ khung cảnh biến hình này đều qui hướng về cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Đức Giêsu. + Dựng ba cái lều: Theo truyền thống Do thái thì Thiên Đàng được gọi là “Lều vĩnh cửu” hay “Nhà tạm đời đời” (x. Lc 16,9). Vào thời cuối cùng, Thiên Chúa sẽ ngự giữa dân Người trong lều vinh quang của Người, và dân chúng sẽ cắm lều quanh Đấng Cứu Thế (x. Ga 1,14).

C 5-6: + Đám mây sáng ngời bao phủ các ông: Trong Cựu Ước, khi tiếp xúc với dân Ít-ra-en, Đức Chúa thường xuất hiện trong đám mây (x. Xh 24,15-16). Ở đây, Thiên Chúa dùng mây che phủ các ông, để nói lên sự can thiệp đặc biệt như Người đã từng cho mây rợp bóng trên dân Ít-ra-en xưa (x. Xh 13,21; 14,19-20), hay “rợp bóng” trên Đức Ma-ri-a trong ngày sứ thần truyền tin sau này (x. Lc 1,35). + Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người: Lời này nhắc lại lời Chúa Cha phán khi Đức Giêsu chịu phép rửa (x. Mt 3,17). Nhưng ở đây còn thêm mệnh lệnh cho các môn đệ: “Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”. Qua đó, cho thấy Đức Giêsu chính là vị Ngôn Sứ Mới sẽ xuất hiện thay thế Mô-sê vào thời cánh chung (x. Đnl 18,15). + Các môn đệ kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất: Thái độ và cử chỉ của các môn đệ là phản ứng khiếp sợ mà con người thường biểu hiện khi tiếp xúc với Thiên Chúa (x. Xh 19,21; Is 6,5).

C 7-9: + “Trỗi dậy đi, đừng sợ!”: Đức Giêsu đã ra lệnh các môn đệ giống như khi Người phục sinh đứa bé gái con viên thủ lãnh (x. Mt 9,25). + Chỉ còn một mình Đức Giêsu mà thôi: Khi tiếng nói vừa dứt, thì mọi sự cũng tan biến theo. Từ đây, chỉ còn một mình Đức Giêsu là Thầy dạy Luật mới, Luật hoàn hảo và vĩnh viễn. + “Đừng nói cho ai hay thị kiến ấy, cho đến khi Con Người từ cõi chết trỗi dậy”: Lệnh truyền: “Đừng nói cho ai hay thị kiến ấy” cho thấy một mầu nhiệm lớn lao vừa được mặc khải (x. Đn 12,4.9). Có lẽ Đức Giêsu muốn tránh sự xáo trộn về chính trị, vì dân Do thái lúc bấy giờ đang trông chờ một Đấng Thiên Sai đến giải phóng họ khỏi ách thống trị của đế quốc Rô-ma. Chỉ sau khi Chúa Giêsu sống lại thì vai trò của Người mới được hiểu đúng theo thánh ý của Thiên Chúa.

CÂU HỎI:

1) Tại sao ba ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an lại được Đức Giêsu cho chứng kiến cảnh Người biến hình? 2) Núi cao nói đây là núi nào? Thực ra, Núi ở đây ám chỉ điều gì? 3) Thời Xuất Hành, nhân vật nào cũng được biến hình giống như Đức Giêsu ở đây? 4) Việc Đức Giêsu biến đồi dung nhan và áo mặc mang ý nghĩa gì? 5) Hai ông Mô-sê và Ê-li-a là đại diện cho ai? Nội dung hai ông đàm đạo với Đức Giêsu xoay quanh đề tài nào? 6) Lều là hình ảnh tượng trưng điều gì? 7) Đám mây bao phủ các môn đệ tượng trưng cho điều gì? 8) Lời Chúa từ đám mây khẳng định gì về sứ mạng của Đức Giêsu? 8) Tại sao Đức Giêsu đòi ba môn đệ phải giữ kín điều họ mới chứng kiến?

  1. SỐNG LỜI CHÚA
  2. LỜI CHÚA: “Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng” (Mt 17,2).
  3. CÂU CHUYỆN:

1) Vị hoàng tử chiến thắng được dị tật gù lưng:

Có một hoàng tử kia đẹp trai lại văn võ song toàn. Nhất là luôn khiêm tốn hòa nhã, nên rất được vua cha và bá quan trong triều nể phục. Hoàng tử chỉ có một khuyết điểm duy nhất là cái tật gù lưng từ lúc mới sinh. Chính vì mang dị tật bẩm sinh này mà chàng luôn mang mặc cảm tự ti và không dám xuất hiện trước dân chúng. Triều đình có lệ này là tạc tượng các nhân vật thuộc hoàng tộc khi họ được 20 tuổi. Bức tượng ấy sẽ được trưng bày tại viện bảo tàng quốc gia cho thần dân chiêm ngưỡng. Năm đó, hoàng tử vừa tròn 20 tuổi. Dù không muốn cho người ta tạc tượng, nhưng do không dám trái lệnh vua cha, nên chàng chỉ yêu cầu hai điều và được vua cha chấp thuận: Một là bức tượng của chàng phải được tạc trong tư thế đứng thẳng chứ không gù lưng. Hai là chỉ được đặt bức tượng ấy tại phòng riêng của chàng khi chàng còn sống.

Từ khi có bức tượng trong phòng, mỗi ngày hoàng tử đều đến trước tượng ngắm nhìn hình ảnh của mình. Chàng rất thích dáng vẻ hiên ngang của bức tượng, và cố bắt chước tư thế của bức tượng. Sau một thời gian, mọi người đều ngạc nhiên nhận thấy hoàng tử đã được biến đổi không còn bị gù lưng như trước nữa. Trái lại càng ngày chàng càng có dáng vẻ hiên ngang oai vệ giống y như bức tượng trong phòng của chàng. Sau khi đã sửa được cái tật gù lưng, hoàng tử đã đồng ý cho trưng bày bức tượng của chàng tại viện bảo tàng quốc gia cho thần dân mặc sức chiêm ngưỡng.

2) Khỏi bệnh ung tư nhờ tin cậy vào Thánh Giá Chúa:

Năm 1982, các nữ tu Dòng Con Đức Bà Phù Hộ, quen gọi là Dòng nữ Sa-lê-siên ở thành phố Cáp tại Ha-i-ti, muốn nhờ điêu khắc gia nổi tiếng là PÊ-RI-KHÊT làm một cây thánh giá lớn để đặt trong nhà thờ mới của các chị, trong lúc ông đã bị mắc bệnh ung thư sang thời kỳ cuối.

Các nữ tu đã cử một chị cùng dòng đến gặp nhà điêu khắc để nói về yêu cầu này. Hôm đó viên bác sĩ của Pê-ri-khết cũng đang có mặt khám bệnh cho Pê-ri-khết. Ông nói với chị nữ tu:

– Lẽ ra chị đã phải đến đây từ lâu mới đúng. Còn bây giờ rất tiếc căn bệnh ung thư của ông Pê-ri-khêt đã trở nên quá nặng. Sau đó viên bác sĩ quay sang nói với nhà điêu khắc:

– Ông là tín hữu công giáo. Từ nay ông chỉ nên đặt trọn niềm tin vào Chúa để chữa bẹnh thôi. Còn những chuyện khác thì xin ông đừng quan tâm tới nữa.

Pê-ri-khêt đã nghe lời khuyên của viên bác sĩ điều trị cho mình nên từ ngày đó ông không còn thiết tha với việc cầm bút vẽ và điêu khắc để sáng tác bất cứ tác phẩm nghệ thuật nào khác. Tuy nhiên ít ngày sau, chị nữ tu kia lại xuất hiện gặp nhà điêu khắc và tiếp tục năn nỉ:

– Này ông Gio-va-ni Pê-ri-khêt. Chị em nữ tu ở nhà thờ mới tại Cáp rất mong ông làm cho nhà dòng một cây thánh giá thật đẹp, dài hai mét. Họ biết rõ khả năng Chúa ban cho ông. Hôm nay trước khi trả lời dứt khoát cho nhà dòng, tôi đến đây xin hỏi ý kiến ông thêm một lần nữa.

Nhà điêu khắc trầm ngâm suy nghĩ và cầu nguyện, rồi cuối cùng ông nói với chị nữ tu:

– Tôi xin nhận lời. Cây thánh giá này sẽ là tác phẩm cuối cùng tôi thực hiện trước khi về với Chúa, và tôi xin các chị em nữ tu cầu cùng Chúa ban ơn giúp tôi hoàn thành công việc này.

Thế là sau đó nhà điêu khắc bắt tay làm việc với tất cả nhiệt tâm của một người mong sớm được gặp Chúa. Đây quả thật là một công việc rất nặng nhọc đối với một bệnh nhân ung thu ở thời kỳ cuối như Pê-ri-khết. Nhưng chính ông lại cảm thấy có một điều gì rất lạ lùng đang diễn ra nơi mình: Mỗi nhát búa đập trên thanh sắt nóng đỏ, thay vì làm cho ông bị mất sức mệt mỏi, thì lại làm cho ông như được thêm sinh lực. Ông tiếp tục làm việc ngày này qua ngày khác như không hề bị bệnh cho đến khi hoàn thành được tác phẩm tuyệt đẹp là cây thánh giá vô giá. Ông thấy mình cũng đã hồi phục sức khỏe trở lại. Chính Chúa Giêsu đã chữa lành bệnh ung thư cho Pê-ri-khết, giải thoát ông khỏi căn bệnh quái ác nhờ lòng tin biểu lộ qua lòng cậy trông và yêu mến Chúa. Pê-ri-khêt tưởng rằng cây thánh giá ấy sẽ là tác phẩm cuối cùng ông thực hiện để chuẩn bị chết lành, nhưng với niềm tin cậy phó thác cao độ, thể hiện qua sự không ngừng cầu nguyện kết hiệp với Chúa đang khi làm việc, Pêrikhêt đã được Chúa biến đổi và chữa lành bệnh ung thư thời kỳ thứ ba cách đặc biệt. Đây là hình ảnh ơn cứu độ mà Chúa Giêsu đã, đang và sẽ còn mang đến cho nhân loại chúng ta.

Ngày nay, cây thánh giá do Pê-ri-khết thực hiện vẫn đang được treo trong gian thánh nhà thờ tu viện Sa-lê-siên thành phố Cáp và tiếp tục thu hút nhiều khách hành hương đến chiêm bái: Mỗi ngày rất nhiều người khỏe mạnh hay đau yếu đã hiện diện tại đây để kính viếng và ai nấy ra về đều nhận được hồng ân biến đổi cả phần hồn lẫn phần xác.

  1. SUY NIỆM:

1) Về hoàn cảnh cuộc biến hình của Đức Giêsu:

Cuộc biến hình đã xảy ra sau khi Đức Giêsu tiên báo về cuộc hành trình của Người lên Giê-ru-sa-lem để trải qua cuộc tử nạn và phục sinh theo thánh ý Chúa Cha. Tin Mừng thuật lại cuộc biến hình này như sau: “Từ lúc đó, Đức Giêsu Ki-tô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết Người phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại. Ông Phê-rô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy! “ Nhưng Đức Giêsu quay lại bảo ông Phê-rô: “ Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (x. Mt 16,22-23).

2) Về cuộc biến hình của Đức Giêsu:

– Cuộc biến hình của Đức Giêsu đã diễn ra trước mặt ba môn đệ thân tín là: Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an trên núi cao khi Người đang cầu nguyện: Khuôn mặt của Người “chói lọi như mặt trời” giống như khuôn mặt sáng ngời của ông Mô-sê sau khi được gặp Đức Chúa (x. Xh 34,29-35). Y phục của Người “trắng tinh như ánh sáng” biểu hiện cho vinh quang thiên giới dành cho những người được Thiên Chúa tuyển chọn.

– Có hai nhân vật Cựu Ước là ông Mô-sê đại diện Luật Pháp và ông Ê-li-a đại diện cho các ngôn sứ hiện ra đàm đạo với Người, cho thấy Tân Ước tiếp nối Cựu Ước và Đức Giêsu đến không phá hủy Lề Luật Mô-sê hay lời sấm của các ngôn sứ, nhưng để làm cho nên hoàn thiện. Điều đáng lưu ý là trong khung cảnh vinh quang ấy, Mô-sê và Ê-li-a đã hiện ra và cùng nhau đàm đạo về cái chết của Đức Giêsu như một cuộc Vượt Qua Mới mà Người sắp trải qua tại Giê-ru-sa-lem. Qua đó cho thấy sự liên quan mật thiết giữa hai biến cố tử nạn và phục sinh mà biến hình chỉ là sự hé mở phần nào cho thấy vinh quang của Đức Giêsu sau khi sống lại, hầu giúp các môn đệ khỏi bị thất vọng khi chứng kiến cuộc tử nạn đau thương của Người trên thập tự.

– Ngoài ra còn có đám mây xuất hiện tượng trưng cho sự hiện diện của Thiên Chúa, và từ trong đám mây có tiếng Chúa Cha phán rằng: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!” (Mt 17,5). Qua đó Chúa Cha đã chính thức xác nhận Đức Giêsu là Mô-sê Mới thời kỳ Cánh Chung, đúng như Mô-sê xưa có lần đã báo trước cho con cái Ít-ra-en như sau: “Từ giữa anh em, trong số các anh em của anh em, Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như tôi để giúp anh em. Anh em hãy nghe vị ấy” (Đnl 18,15).

3) Về các điều kiện để được biến hình giống Đức Giêsu:

Mùa Chay là mùa tập luyện thiêng liêng, là thời gian thuận tiện để các tín hữu lên núi cao của lòng mình để đối diện với Thiên Chúa và cầu xin Ngài giúp biến đổi nên giống Đức Giêsu hầu chuẩn bị mừng đại lễ Phục Sinh sắp đến. Muốn thay đổi con người mình, chúng ta cần bỏ mình đi, vác thập giá mình hằng ngày mà đi theo Người. Muốn bỏ mình đi thì việc trước hết là phải nhận biết mình có những điều tốt điều xấu, các thói hư quan trọng cần phải tu sửa, vì “Biết mình biết người, trăm trận trăm thắng”.

– Lên núi là vào trong lòng mình để cầu nguyện: Trong mùa Chay, chúng ta cùng các môn đệ Đức Giêsu đi theo Người lên núi cao, nghĩa là siêng năng tham dự các tuần tĩnh tâm Mùa Chay. Trong bầu khí thinh lặng của lòng mình, chúng ta sẽ cầu nguyện với Thiên Chúa noi gương Đức Giêsu. Cầu nguyện là điều kiện tiên quyết để được ơn biến đổi chói lọi như mặt trời như Đức Giêsu trong Tin Mừng hôm nay (x. Mt 17,2) hoặc như ông Mô-sê được biến đổi diện mạo nên sáng ngời khi ông đang ở trên núi Xi-nai với Thiên Chúa (x. Xh 34,29-35).

Thế giới hôm nay thiếu những con người cầu nguyện, và thừa những con người lăng xăng hiếu động… Có ba môn đệ cùng ở trên núi với Đức Giêsu, nhưng chỉ mình Người mới có sự thay hình đổi dạng nhờ sự cầu nguyện đàm đạo với Chúa Cha, đang khi ba ông kia lại mê ngủ. Về sau tại núi Cây Dầu, một lần nữa ba ông này lại mê ngủ đang lúc Thầy các ông canh thức cầu nguyện. Do đó, dù cùng lên núi với Thầy, nhưng các ông vẫn trơ trơ không thay đổi để nên tốt hơn. Trong cuộc sống hiện tại đầy vất vả cạm bẫy và thử thách, chính nhờ sự chuyên cần cầu nguyện, thường xuyên đón nhận Thần Khí soi dẫn, các tín hữu chúng ta mới không bị hoang mang sợ sệt, mê ngủ hoặc trốn trách nhiệm đối với công việc chung của Hội Thánh…

– Hãy vâng nghe lời Người!: Yếu tố thứ hai giúp các tín hữu được ơn biến đổi chính là Lời Chúa trong Thánh Kinh. Đang lúc hiển dung, Đức Giêsu đã được Chúa Cha giới thiệu: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người! “ (Mt 17,5). Ngày nay muốn được ơn biến đổi nên giống Đức Giêsu, chúng ta cần tin Người là Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa, chuyên cần lằng nghe Lời Người và xin Thánh Thần giúp chúng ta sống theo Lời Chúa dạy nơi bản thân, trong gia đình và ngoài xã hội.

Trong những ngày Mùa Chay cũng như trong suốt cuộc sống đời thường, mỗi tín hữu chúng ta cần siêng năng đến nhà thờ tham dự thánh lễ mỗi ngày để được nghe lời Chúa phán dạy trong phần Phụng Vụ Lời Chúa, và sau đó được hiệp thông với Chúa Giêsu Thánh Thể trong phần Phụng Vụ Thánh Thể khi rước lễ. Ngoài ra, chúng ta cũng phải chuyên cần tham dự tĩnh tâm Mùa Chay cả cộng đoàn hay riêng từng lứa tuổi, chăm chỉ tham dự các buổi Hiếp Sống Tin Mừng hay Chia sẻ Lời Chúa hằng tuần theo nhóm nhỏ của các hội đoàn tông đồ giáo dân…

– Đón nhận Thần Khí của Thiên Chúa: Tuy nhiên để có thể chuyên cần dự lễ cầu nguyện với Thiên Chúa noi gương Đức Giêsu trong Tin Mừng, sẵn sàng vâng nghe Lời Chúa Giêsu như lời Chúa Cha truyền dạy, mỗi tín hữu chúng ta cần ý thức vai trò quan trọng của Thần Khí Thiên Chúa để năng cầu xin ơn Ngài trợ giúp khi đọc kinh dự lễ, biết mở lòng đón nhận các ơn Chúa và luôn theo Thần Khí hướng dẫn như Đức Giêsu xưa. Chính nhờ Thần Khí cua Chúa Phục Sinh được thổi trên các Tông đồ vào chiều ngày phục sinh và nhất là Thần Khí của Chúa Phục Sinh đã biến thành gió bão đầy sức mạnh và ngọn lửa cháy sáng đức tin… mà chúng ta sẽ hy vọng được biến đổi nên một con người trưởng thành về nhân cách, nên người tín hữu đạo đức luôn có lối sống đẹp lòng Chúa Cha noi gương Đức Giêsu, năng thực tập sông giới răn yêu thương để nên môn đệ đích thực của Người (Ga 13.34-35), tích cực dấn thân đi loan báo Tin Mừng Nước Trời và làm chứng cho Chúa Giêsu ngay trong môi trường sống và làm việc của mình x. Mt 28,19-20), luôn sống tình mến Chúa yêu người như kinh Thương Người có Mười Bốn Mối, trở nên khí cụ gieo rắc bình an hòa thuân trong gia đình cũng như khu xóm, giáo xứ và bất cứ nơi nào mình đang sông như Kinh Hòa Bình của thánh Phan-xi-cô đã ký nhận.

  1. THẢO LUẬN:

1) Mùa Chay là mùa biến đổi: lọai bỏ tội lỗi xấu xa để trở nên tốt hơn. Vậy chúng ta cần biến đổi những gì trong lối sống đạo hiện tại, để xứng đáng được Thiên Chúa xác nhận là “Con rất yêu dấu” như Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay? 2) Chúa Cha đã phán với các môn đệ rằng: “Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”. Vậy chúng ta hôm nay phải làm gì để vâng nghe lời dạy của Chúa Giêsu?

  1. NGUYỆN CẦU:

Lạy Chúa Giêsu. xin biến đổi con, xin biến đổi cuộc đời con từng bước qua lời cầu nguyện:

Xin biến đổi cái nhìn của con mỗi lần con chiêm ngắm khuôn mặt dịu hiền của Chúa và nghe lời Chúa phán dạy: “Anh em hãy mang lấy ách của Tôi, và hãy học với Tôi, vì Tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng (Mt 11,29).

Xin biến đổi môi miệng con mỗi lần con được hạnh phúc đón rước Chúa vào lòng.

Xin biến đổi tai con mỗi lần con nghe Lời Chúa trong Sách Thánh tại nhà thờ hay tư gia.

Xin làm cho khuôn mặt của con rạng ngời hơn mỗi lần con được gặp gỡ Chúa.

Ước gì mọi người thấy nét mặt tươi tắn của Chúa trong nụ cười của con, thấy sự dịu dàng của Chúa trong lời ăn tiếng nói và cách ứng xử của con với tha nhân chung quanh.

Lạy Chúa. Thế giới hôm nay không cần những tín hữu mang bộ mặt buồn chán thất vọng. Xin cho chúng con luôn biết nhẫn nại và can đảm đồng hành với Chúa và với các anh em trên những nẻo đường đức tin nhiều sỏi đá để cuối cùng mới đến được với Thiên Chúa là nguồn vui, niềm tin cậy và hạnh phúc Nước Trời đời đời cho chúng con.

  1. X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.

 

79.             Biến đổi theo Thánh Ý Chúa

(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển)

Mỗi khi Mùa Chay về, ấy là lúc chúng ta nghe đây đó văng vẳng bên tai: hãy đi xưng tội; làm việc lành; bố thí; hy sinh hãm mình và ăn chay để đền tội…. Tuy nhiên, điều đó cần, nhưng không đủ, nên Mùa Chay vẫn cứ đến rồi lại đi mà ít làm cho người tín hữu suy tư và quyết định biến đổi con người cũ là con người ích kỷ, kiêu ngạo, tội lỗi, để mặc lấy con người mới, con người giống hình ảnh của Đức Giêsu.

Hôm nay, bài Tin Mừng thuật lại việc Đức Giêsu biến hình trên núi Tabor. Sự kiện này mời gọi mỗi chúng ta một phần biết sống những đòi hỏi của Tin Mừng. Mặt khác cũng cần phải biến đổi để trở nên con người mới thực sự theo ánh sáng của Tin Mừng, tức là theo thánh ý Thiên Chúa.

  1. Ý nghĩa Lời Chúa

Khởi đi từ bài đọc I: trình thuật việc Đức Chúa kêu gọi ông Abram: “Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi” (St 12, 1). Ông Abram đã sẵn sàng vâng nghe tiếng Chúa truyền, sẵn sàng từ bỏ cuộc sống yên ổn tại quê nhà, để lên đường đến nơi Chúa sẽ chỉ cho trong tương lai. Sự ra đi của Abram là một cuộc từ bỏ tiên quyết. Vì thế, Chúa đã hứa ban cho ông và dòng dõi ông hưng thịnh đến độ: trở nên một dân lớn. Ông được chúc phúc, được vinh quang và trở thành trung gian để chúc phúc cho người khác cũng như mọi dân tộc trên mặt đất sẽ nhờ ông mà được chúc phúc (x. St 12, 2-3).

Sang bài đọc II: thánh Phaolô mời gọi người môn đệ dấu yêu của mình là Timôthêô hãy bắt chước ngài như chính ngài đã bắt chước Đức Kitô; đồng thời cũng mời gọi ông cộng tác trên hành trình loan báo Tin Mừng mà thánh nhân đang loan báo. Lộ trình và kế hoạch đó là của Thiên Chúa đã được tiền định từ lâu. Khi được chọn và gọi để tham gia vào sứ mạng đến với muôn dân như thế, người môn đệ phải hiểu, sống và hăng say loan báo về Đấng “… đã tiêu diệt thần chết, và đã dùng Tin Mừng mà làm sáng tỏ phúc trường sinh bất tử” (2Tm 1, 10).

Cuối cùng là bài Tin Mừng: thánh Mátthêu trình thuật biến cố Đức Giêsu hiển dung như một sự kiện toàn cho tất cả những gì đã tiên trưng trong Cựu Ước mà sách Luật và lời các tiên tri đã loan báo.

Hình ảnh của Đức Giêsu sáng chói được hiện lên trong vai trò là nhân vật chính, nhân vật trung tâm. Ngài hiển dung giữa hai vị đặc biệt có liên hệ đến mình là Môsê và Êlia. Tại sao lại có sự xuất hiện hy hữu và đặc biệt này? Thưa! Điều đó dễ hiểu vì:

Môsê là nhà lập luật cho Đạo Dothái. Sự hiện diện của ngài muốn nói lên rằng: nhiều lần, Đạo luật Môsê báo trước về Đấng Cứu Độ, và hôm nay Đấng Cứu Độ ấy chính là Đức Giêsu đang xuất hiện. Tiếp theo, ngụ ý rằng, Đức Giêsu đến thế gian không phải để hủy bỏ Luật cũ, và lập lên một thứ đạo hoàn toàn mới. Nhưng Ngài đến để bổ xung, hầu cho nó được kiện toàn.

Còn Êlia chính là vị ngôn sứ quan trọng trong thời Cựu Ước. Sự hiện diện của ông có thể được hiểu là đại diện cho các ngôn sứ. Bởi vì ngài là người đã gìn giữ và canh tân Luật Môsê. Điều đặc biệt hơn cả nơi tiên tri Êlia chính là vị tiền hô của Đấng Cứu Thế (x. Ml 3, 23-24).

Sự hiện diện của hai nhân vật điển hình cho thời Cựu Ước có mặt trong cuộc biến hình của Đức Giêsu muốn nói lên sự gạch nối giữa Cựu Ước và Tân Ước. Đồng thời qua biến cố này, Đức Giêsu muốn mặc khải cho các môn đệ về bản tính của mình trong vinh quang, để các ông đi vào Mầu Nhiệm Ánh Sáng của ơn cứu độ. Vì thế, thật hạnh phúc cho các ông khi được nếm trải trước giây phút huy hoàng của Nước Trời.

Đây là một trong hàng trăm ngàn phần thưởng mà Đức Giêsu hứa ban cho những ai bỏ mọi sự mà đi theo Ngài. Vì thế, Phêrô đã thốt lên: “Lạy Ngài, chúng con ở đây, hay quá! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, Ngài một cái, ông Môsê một cái, và ông Êlia một cái” (Mt 17, 4). Khi các ông còn đang ngây ngất như thế, thì Chúa Cha xuất hiện như một lời chứng về Người Con yêu quý của mình; đồng thời cũng mặc khải cho các ông hiểu rằng: muốn được vào vinh quang thì phải vâng nghe lời Đức Giêsu.

  1. Hãy vâng nghe Lời Người

Nếu trước đó, Đức Giêsu đã mời gọi những môn đệ từ bỏ mọi sự để đi theo mình, đồng thời Ngài cũng đưa ra khuôn mẫu của người môn đệ cần có là: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16,24). Lúc khác, Ngài nhấn mạnh hơn khi nói: “Ai yêu cha hay yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai hay con gái mình hơn Thầy, thì không xứng với Thầy” (Mt 10, 37). Rồi ngài cũng tiên báo cho các ông biết rằng: “Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát” (Mt 10, 22).

Những điều kiện mà Đức Giêsu vạch ra và đòi hỏi các môn đệ đi theo như thế, không phải là một con đường xa lạ đối với Ngài, bởi chính Ngài đã vâng lời Thiên Chúa để đi trên con đường đau khổ đó hầu cứu chuộc nhân loại. Vì thế, đã nhiều lần Đức Giêsu tiên báo về cuộc thương khó của mình để các ông hiểu rõ sứ vụ của thầy và chính các ông sẽ tiếp bước (x. Mt 16, 24). Lời mời gọi này được Đức Giêsu đưa ra đúng vào thời điểm mà các môn đệ đang tranh nhau chỗ nhất, nhì trong vương quốc của Ngài; lại có những môn đệ đang so đo tính toán thiệt hơn, thì có thể sẽ làm cho các ông chùn bước vì phải bước đi theo Thầy trên hành trình đầy gian nan khốn khổ và chết chóc.

Tuy nhiên, Đức Giêsu đã không để các môn đệ của mình thất vọng, nên ngay sau khi tiên báo về cuộc thương khó lần thứ nhất, người đã đưa các ông lên trên núi để biến hình trước mặt các ông, hầu như một động lực nâng đỡ và khuyến khích họ tiến bước trên con đường khổ giá. Việc Đức Giêsu biến hình là một lời mời gọi cho các môn đệ: nếu muốn được vào vinh quang thì phải trải qua thập giá. Muốn tiến tới hạnh phúc vĩnh cửu thì cũng phải biến đổi hình dạng, tức thay đổi con người cũ trở thành con người mới, trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu.

Qua biến cố này, Đức Giêsu hé mở cho các ông thấy một chút tương lai của cuộc hành trình ấy. Đây chính là phần thưởng mãn nguyện, tuyệt vời nhất mà Đức Giêsu trao ban cho các môn đệ thân tín của mình.

Nhưng để được như vậy, người môn đệ phải trải qua con đường tập giá, phải biến đổi.

Ngày hôm nay, Đức Giêsu cũng đang mời gọi mỗi chúng ta đón nhận cùng một sứ điệp như đã mặc khải cho các môn đệ khi xưa.

  1. Một cuộc biến đổi của chúng ta

Thánh Phaolô đã nói với tín hữu Êphêsô: “Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối […] và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để sống thật sự công chính và thánh thiện” (Ep 4,22.24). Thật vậy, chúng ta theo Chúa, là chúng ta phải chấp nhận con đường phưu lưu, đầy gian khổ và đôi khi cả cái chết nữa. Chấp nhận biến đổi. Như vậy, người đi theo Chúa và sống những điều Chúa đòi hỏi phải là những người liều. Liều vì Chúa. Liều vì sứ mạng. Liều vì Giáo Hội. Chứ không phải liều cách mù quáng. Liều vì bị ép phải liều.

Biến đổi! Lời mời gọi mang tính quyết định. Nếu chúng ta không biến đổi con người cũ là con người tội lỗi như: tham, sân, si, của bản năng con người, thì chúng ta chẳng khác gì dòng sông không chảy, một cái ao tù được tạo thành ngay trong tâm hồn những ai cố chấp không chịu biến đổi.

Tuy nhiên, nói biến đổi thì dễ lắm, nhưng khi thực sự quan tâm mới thấy là khó.

Trong đời sống thực tế, chúng ta vẫn thấy đây đó có nhiều người hô hào canh tân, đổi mới, cách mạng, nhưng là thứ biến đổi mù quáng, nhằm tôn thờ khoái lạc, coi trọng tiền bạc, thượng tôn quyền thế, và đề cao những thứ hạnh phúc nhất thời, tạm bợ. Họ sẵn sàng bỏ qua hay coi thường sự hy sinh, nhẫn nại, khiêm nhường… Canh tân như vậy thì không những không đem lại cho con người hạnh phúc, mà lại mở đường đưa con người vào chốn diệt vong. Canh tân như thế chính là canh tân, hy sinh theo kiểu Biệt Phái, chứ không theo cung cách và đòi hỏi của Tin Mừng.

Trong đời sống đạo hiện nay nơi chúng ta, hẳn mỗi người không lạ gì khi vẫn thấy đây đó những người luôn tự hào, can đảm cũng như sẵn sàng vác thánh giá cho cả làng, nhưng thánh giá của chính mình thì đè đầu ấn cổ và bắt người khác vác thay. Hy sinh như thế là hy sinh người khác chứ không phải hy sinh chính mình. Lại có những người hy sinh giả tạo mà Đức Hồng y Fx. Nguyễn Văn Thuận đã nói đến trong sách Đường Hy Vọng: “Trong một cuộc hành hương long trọng, nghìn vạn người tham gia, ai cũng muốn vác thánh giá đi tiên phong. Nhưng trong cuộc hành hương của mỗi ngày, mấy ai sẵn lòng vác thánh giá của mình? Anh hùng thinh lặng khó lắm!” (ĐHV số 171).

Biến đổi giả tạo hay ngụy trang như vậy thì chẳng khác gì “đánh bùn sang ao”. Thậm chí còn tệ hơn trước. Họ hô hào cách mạng người khác, chứ bản thân thì không hề thay đổi. Những người như thế được ví như: “Thay quần, thay áo, thay hơi, thay dáng, thay dấp, mà người chẳng thay” (Ca dao). Những chuyện “đao to búa lớn” được cất lên hiệu triệu để làm cho con người, cuộc sống, xã hội được tốt hơn, nhưng trên thực tế không biết bao lần nhân loại đã phải đau đớn mà nhận định rằng: “thay đổi kiểu đó thì chẳng khác gì ‘treo đầu dê, bán thịt chó’”, hay “cái đầu thì không thay đổi mà chỉ ngồi bẻ mấy đốt ngón tay”.

Biến đổi và canh tân mà sứ điệp Lời Chúa hôm nay muốn chúng ta thi hành chính là: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16,24). Đòi hỏi này phải chăng rất khó! Tuy nhiên, con đường này là con đường dẫn đến hạnh phúc, bình an và hoan lạc. Nhưng tiếc thay, con đường này rất ít người đi.

Thật vậy, con người ngày hôm nay rất sợ hy sinh, và người ta tìm mọi cách để làm sao cho mình thoát ra khỏi những sự bất trắc của cuộc sống. Nhưng nên nhớ rằng: chúng ta là người kitô hữu, nên nếu tránh gian khổ, chúng ta đừng mong làm thánh. Hay thánh mà không qua đau khổ chính là thánh giả, thánh lâm thời. Khi những đau khổ, gian nan thử thách ập đến, nước sơn giả tạo bên ngoài phai nhạt đi thì lúc đó tượng thánh sẽ lộ hiện lên nguyên hình Quỷ.

Cuộc đời của chúng ta đi theo Chúa không chỉ có chuyện hoa thơm, trái ngọt; chỉ có niềm vui và hạnh phúc trong cuộc sống; nhưng vẫn luôn còn đó những thất bại, mật đắng, dấm chua… Nhưng điều quan trọng là ta “thay thái độ để đổi cuộc đời” và phải hiểu rằng: thử thách gian khổ là “giấy phép theo Chúa” để hưởng hạnh phúc hân hoan với Chúa: “Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình, vác thánh giá…” (ĐHV 714). Sống được như thế, thì trong mọi hoàn cảnh, mọi biến cố chúng ta đều: “loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại”.

Như vậy, Mùa Chay, Giáo Hội mời gọi con cái mình hãy xé lòng chứ đừng xé áo. Hãy hướng về Đức Giêsu để làm một cuộc cách mạng biến đổi cái cũ là tội lỗi, ích kỷ, tham lam, kiêu ngạo… để trở thành một con người mới với nhiều hoa thơm nhân đức như: hy sinh, từ bỏ, khiêm nhường, dấn thân, liên đới và bao dung…

Lạy Chúa, xin cho chúng con được ơn biến đổi và canh tân. Xin tăng thêm niềm tin cho chúng con để chúng con can đảm bước theo Chúa cho trọn cuộc đời, hầu qua đau khổ, chúng con được tiến vào vinh quang Nước Trời. Amen.

 

80.             Sống đức tin – Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng

Trong khi dân chúng còn thắc mắc về Chúa Giêsu, mỗi người nghĩ về Ngài một cách, thì ông Phêrô đã thay mặt nhóm môn đệ thân tín của Chúa tuyên xưng: “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa”. Lời tuyên xưng này là thành quả của giai đoạn huấn luyện của Chúa. Được theo sát bên Chúa, được chứng kiến mọi hoạt động của Chúa, lại được Chúa dạy dỗ riêng nhiều điều, các môn đệ được dẫn dắt từng bước để nhận ra Chúa Giêsu là ai. Nhưng cho đến lúc này các ông mới chỉ thấy quyền năng của Chúa, còn con đường Ngài phải đi thì các ông chưa biết, Chúa Giêsu muốn các ông phải chấp nhận toàn thể sứ mạng và thân phận của Ngài. Vì thế, khi ông Phêrô vừa tuyên xưng Ngài là Đấng Kitô, Ngài liền nói đến việc Ngài sẽ phải chịu đau khổ, bị xỉ nhục và phải chết rồi sống lại. Sau đó Ngài rời miền Galilê tiến lên Giêrusalem. Nhưng trước khi đi lên Giêrusalem, Ngài còn cho các ông được thấy vinh quang của Ngài, nghĩa là Ngài tỏ lộ cho các ông thấy phần nào chân dung thật của Ngài, mà chúng ta thường gọi là Chúa biến hình.

Nói rõ hơn, Chúa Giêsu đã đem theo ba môn đệ Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi Ta-bo, đang lúc cầu nguyện, Chúa biến hình: sắc diện Ngài biến đổi và có một dung mạo khác thường, nghĩa là Chúa tỏa lộ một ánh sáng đặc biệt cho các môn đệ thấy chính Ngài là ai, là “vinh quang của Thiên Chúa”, là “Chúa vinh quang”. Trước đây, các môn đệ sống bên Chúa, đã hiểu phần nào về con người của Chúa, nhưng hôm nay nơi núi biến hình, các ông mới đích thực cung chiêm uy linh vinh quang của Chúa.

Trong lúc Chúa biến hình có hai người đàm đạo với Chúa, đó là ông Môsê và Elia. Đàm đạo về cuộc khổ nạn mà Chúa sắp trải qua ở Giêrusalem, còn ông Phêrô và các bạn thì ngây ngất trong ánh sáng siêu linh ấy, nhưng giữa lúc đó có một đám mây bay đến phủ rợp các ngài, rồi mất hút hai vị đại ngôn sứ, và mọi sự trở lại bình thường.

Quang cảnh trên cho chúng ta thấy có ánh sáng rồi có bóng mây. Đời là thế. Có vinh quang có đau khổ, có vinh có nhục, có buồn vui đắp đổi, có khóc có cười, có nước trời có trần gian, có vàng thau lẫn lộn…Vì thế, ngay trong vinh quang của Ta-bo, Chúa đã đàm đạo với các ngôn sứ về cuộc khổ nạn của Ngài để nhắc nhở và củng cố đức tin của thánh Phêrô và các tông đồ, để giúp họ đứng vững giữa những thử thách và trung thành với sứ mệnh nặng nề của ngày mai. Thánh Phêrô, trong một khoảnh khắc thời gian, được sống trong hai thế giới: trần gian và thiên đàng. Và khi được cung chiêm hạnh phúc nước trời, ngài đã sung sướng quá và thốt lên: “Lạy Thầy, được ở lại đây thì tốt quá”. Nhưng rồi bóng mây bao phủ trên họ, và họ phải xuống núi, trở về với nhiệm vụ của mình.

Bài Tin Mừng hôm nay có nhiều điều đáng ghi nhớ, nhưng chúng ta đặc biệt ghi nhớ câu nói của thánh Phêrô trên đây và hình ảnh đám mây bao phủ trên các tông đồ lúc ấy làm bài học cho chúng ta. Chúng ta thấy đó, thánh Phêrô đã thốt lên như thế khi được thấy hạnh phúc nước trời ngay tại thế, nhưng chỉ trong một khoảnh khắc thôi rồi họ lại trở về với cuộc sống cam go và nhiệm vụ nặng nề của mình. Lời nói của thánh Phêrô được coi là niềm vui, đám mây tượng trưng cho nỗi buồn.

Chúng ta cũng vậy, có lẽ trong cuộc đời theo Chúa, chúng ta cũng sẽ được một số những an ủi, niềm vui, phước lộc. Nhưng chúng ta cần nhớ: bao lâu còn sống ở trần gian, niềm vui nào cũng mau qua, như người ta vẫn nói: Vui qua sầu tới. Cho nên, chúng ta cần phải có một thái độ đúng trước niềm vui, là đừng bao giờ chỉ biết có niềm vui của riêng mình, nhưng phải biết giới hạn và san sẻ niềm vui đó, và đừng bao giờ để cho niềm vui của mình trở nên đau khổ cho người khác, vì khi chúng ta vui thì còn nhiều người khác đang buồn. Cũng đừng bao giờ say sưa trong niềm vui mà quên bổn phận hay nhiệm vụ của mình. Lúc có niềm vui thì hãy nhớ tới lúc hết niềm vui. Nếu chúng ta có thái độ đúng đắn như thế, chúng ta sẽ không còn ngỡ ngàng, ngạc nhiên trước thuận cảnh hay nghịch cảnh, trước niềm vui hay nỗi buồn. Ngược lại, khi chúng ta không có được niềm vui như người khác, thì chúng ta cũng đừng bao giờ thất vọng, chán nản, buông xuôi.

Vì thế, chúng ta phải làm chủ được cuộc đời mình, là cuộc đời được đan dệt bằng những niềm vui và nỗi buồn. Chúng ta hãy sống với hoàn cảnh thực tại của mình, chúng ta hãy chu toàn nhiệm vụ hằng ngày của mình, chúng ta hãy lấy nhiệm vụ làm nguồn vui, chúng ta chỉ có quyền hưởng niềm vui khi đã làm xong nhiệm vụ. Nhiệm vụ nào cũng là gánh nặng, nhưng gánh nặng được chúng ta hoàn thành lại trở nên niềm vui cho chúng ta. Đó là bài học Chúa dạy các tông đồ xưa kia và dạy chúng ta hôm nay: “Qua đau khổ sẽ tới vinh quang”, sau cơn mưa, trời lại sáng.

 

81.             Chúa Giêsu biến hình

82.             Theo Chúa lên núi tâm linh để được biến hình

(Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng)

Đứng trước viễn tượng của cuộc khổ hình thập giá, Chúa Giêsu đem ba tông đồ thân tín là Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi để biểu lổ cho các ông thấy cảnh vinh quang của nước Chúa. Mặc dầu đã theo Chúa ba năm, nghe lời Chúa giảng dạy, chứng kiến phép lạ Chúa làm, các tông đồ vẫn còn mang quan niệm sai lầm về Đấng Cứu thế và sứ mạng của Người. Các ông vẫn nuôi hi vọng Đấng Cứu thế sẽ thiết lập một vương quốc trần gian, giàu có và hùng mạnh, khả dĩ có thể đánh đuổi quân ngoại bang là người La mã đang cai trị họ thời bấy giờ. Ba vị tông đồ được đưa lên núi biểu lộ những lợi điểm đặc sắc về việc làm môn đệ. Phêrô, mặc dầu nóng tính, lại ăn nói bộp chộp, nhưng với khả năng lãnh đạo có thể qui tụ các bạn đồng chí hướng. Giacôbê có lòng tin quả quyết. Còn Gioan biểu lộ lòng yêu mến nhiệt thành. Tuy nhiên ba vị tông đồ trên đây cũng sẽ chứng kiến cảnh khổ nạn của Thầy mình trong vườn cây dầu Ghếtsêmani. Sợ rằng cảnh khổ nạn và thập giá sẻ để lại một kinh nghiệm đau thương cho các tông đồ, Chúa đem ba ông lên núi biến hình, cho dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng như ánh sáng (Mt 17:2). Việc Chúa biến hình có mục đích là giúp củng cố đức tin và đức cậy của các tông đồ trước viễn tượng của ngày Thứ sáu Chịu nạn.

Phản ứng của các tông đồ về việc Chúa biến hình đáng cho ta lưu ý đặc biệt. Thoạt tiên, các ông tỏ ra say mê và chìm đắm trong cảnh vinh quang của nước Chúa, muốn kéo dài thị kiến cảnh biến hình, nên mới thỉnh nguyện: Thưa Thày, chúng con mà được ở đây thì tuyệt vời (Mt 17:4). Các ông cũng thấy sự hiện diện của Môsê và Êlia trong cảnh biến hình. Rồi các ông nghe tiếng phán từ đám mây: Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người (Mt 17:5). Trong Cựu ước, đám mây thường là biểu hiệu của việc Chúa hiện ra. Điều nên lưu ý ở đây là tiếng phán từ đám mây khi Chúa biến hình cũng chính là tiếng phán từ trời khi Người chịu Phép rửa (Mt 3:17). Như vậy tiếng phán từ đám mây chỉ cho bộ ba tông đồ thấy rằng Thầy mình chính là người Con làm đẹp lòng Thiên Chúa trong việc thi hành thánh ý Chúa Cha. Vậy còn sự hiện diện của Môsê và Êlia trong cảnh biến hình thì sao? Theo truyền thống Do thái, Môsê được coi là tác giả qui tụ của bộ Ngũ Thư và Êlia, vị ngôn sứ vĩ đại của Cựu ước. Do đó sự có mặt của hai vị nhằm giúp các tông đồ nhận thức rằng đạo Kitô giáo mà Thày mình sẽ thiết lập không tách rời khỏi những gì đã được mạc khải trong Thánh kinh Cựu ước.

Vậy ba thực tại của cảnh biến hình: dung mạo vinh quang của Đức Kitô, sự hiện diện của Môsê và Êlia và tiếng phán từ đám mây có ngụ ý giúp các tông đồ nhận ra cuộc khổ hình và thập giá của Thày mình sau này, không phải chỉ là một thất bại, nhưng là một biến đổi, và như thế sẽ giúp các ông giữ vững đức tin theo Thày. Có một lần ông Phêrô đã tỏ ra hèn nhát, khước từ mọi liên hệ với Thầy mình. Ông vừa tuốt gươm chém đứt tai tên đày tớ của thày cả thượng phẩm hầu bảo vệ Thầy mình. Thế mà trong sân và cổng dinh thượng tế, ông sợ hãi chối Thày mình ba lần. Khi vừa nghe tiếng gà gáy, sực nhớ lại lời Chúa tiên báo, ông ra ngoài khóc lóc thảm thiết (Mt 26:75). Những giọt nước mắt của ông tuôn trào dường như ông đang tự trách mình: Lạy Thày, sao con có thể phản phúc Thày như vậy khi chính con là người đã xin làm ba lều ở lại trên núi để chiêm ngưỡng cảnh vinh quang của nước Thày? Phúc thay cho ông Phêrô! Dòng nước mắt thống hối của ông đã được Chúa đoái thương tha thứ.

Người tín hữu đang bước vào tuần lễ thứ hai mùa chay. Mùa chay là thời giờ cho người tín hữu luyện linh chưởng để đi theo Chúa lên núi tâm linh hầu được Chúa cho biến hình trong phạm vi nhỏ bé nào đó. Để có thể đứng vững khi gặp gian nan thử thách, người tín hữu cần có được những cảm nghiệm về những giờ phút giao cảm giữa Thiên Chúa và tâm hồn. Các tông đồ cảm thấy say mê và chìm đắm trong cảnh vinh quang của nước Chúa, thì ít ra, người tín hữu cần xin Chúa cho đánh động tâm hồn, hay xin được điều mà sách tu đức thần bí gọi là hiện tượng xuất thần hay bay bổng. Dự một buổi tĩnh tâm sốt sắng; chứng kiến những gương nhân đức thánh thiện; nghe đọc những tư tưởng cao đẹp, khiến ta nhiệt tâm trước tiếng gọi nên thánh. Sau khi nghe một bài giảng hùng hồn sốt sắng, khiến lòng rạo rực, lửa yêu mến Chúa bừng cháy trong tâm hồn, thôi thúc loại bỏ những chướng ngại vật trong tâm hồn để làm lại cuộc đời. Những khi cảm thấy tâm hồn an vui thanh thoát sau khi đã làm những việc thiện hảo, ta muốn hiến thân phụng sự và phục vụ. Trước những gương hi sinh, bác ái, ta ao ước muốn dấn thân theo Thầy chí thánh để làm việc tông đồ, giúp đỡ người nghèo đói, tàn tật và đau khổ. Khi gặp sóng to bão lớn ngoài biển cả, nguy hiểm đến tính mạng, không còn gì để bám víu, ta kêu cầu đến Chúa: Nếu Chúa để con sống, cập bờ ghé bến, con sẽ trung thành phụng sự Chúa suốt đời con.

Thật là một điều ủi an, khi ta mang trong thân xác những yếu hèn, bệnh tật và bản tính chết được, lại có ngày được chung hưởng vinh quang nước trời. Thánh Phêrô trong lúc xuất thần đã xin Chúa ở lại trên núi, để chiêm ngưỡng cảnh vinh quang của nước Chúa. Nhưng Chúa bảo ông còn phải xuống núi đã để làm chứng cho đức tin vào Chúa, để chịu bách hại, xỉ nhục và khổ hình vì danh Chúa trước khi được hưởng vinh quang. Đó là đường lối Chúa đã đi: qua đau khổ thánh giá mới tới vinh quang phục sinh. Là môn đệ Chúa, sao ta có thể đi theo con đường khác ngoài đường Chúa đã đi.

 

83.             Con Yêu Dấu của Ta – Lm Augustine, SJ.

Khởi sự Tin Mừng Mátthêu nhìn nhận Đức Giêsu là Con Vua Đavít (1,6-16). Tên của Người là Giêsu có nghĩa là Thiên Chúa cứu” (1,21) Nhưng người ta còn gọi Người là Emmanuel, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (1,23). Chính Người năng tự xưng là Con Người (11,19; 12,8-)

 

Mầu nhiệm Đức Kitô phải đánh động ta

Riêng các môn đệ khi được yêu cầu phát biểu ý kiến, đã tuyên xưng “Thầy là Đấng được Xức Dầu Tấn Phong, Con Thiên Chúa hằng sống” (16,16). Điều quan trọng là lời ông Phêrô mới tuyên xưng được chính Đức Giêsu xác nhận là do Thiên Chúa Cha mạc khải (16,17)

Tiếp theo liền sau đó, Đức Giêsu tiên báo về cuộc Thương Khó lần thứ nhất. Rồi Người nêu điều kiện cho những ai muốn bước theo Người, là họ phải từ bỏ chính mình, phải vác thập giá mình mà theo Người (16,24). Kế đến Đức Giêsu tiên báo “Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của Cha Người” (16,27). Chính Người liền sau đó, đã lên núi và biến đổi hình dạng như được kể trong bài Tin Mừng hôm nay (17,1-9)

Như vậy, điều được hàm ý là không ngôn ngữ loài người nào có thể nói cho ta biết Đức Giêsu là ai nếu không có sự can thiệp từ trời cao.

Với môn đệ Simon Phêrô, sự can thiệp của Thiên Chúa đã đến với ông qua lời giới thiệu của ông Gioan Tẩy Giả với hai môn đệ của ông này trong đó có người anh ruột của Simon Phêrô, là Anrê. Và ông Anrê này đến lượt đã giới thiệu cho em mình khi nói “Chúng tôi đã gặp Đấng được Xức Dầu Tấn Phong” (Ga 1,41). Tin Mừng Gioan còn cho biết chính việc Đức Giêsu biến nước lã thành rượu ngon tại Cana khiến các môn đệ tin vào Đức Giêsu (Ga 2,11)

Một cách nổi bật, quyền năng của Thiên Chúa còn đụng chạm tới ông Simon Phêrô cách riêng, khi Đức Giêsu chiếu cố đến nhà ông và đụng vào tay bà mẹ vợ của ông, để cho bà ta đang nằm liệt, được chỗi dậy khỏi cơn sốt (8,14)

Tin Mừng Mátthêu còn cho thấy quyền năng của Đức Giêsu không những cứu các môn đệ khỏi chết giữa biển động (8,25) mà còn đặc biệt cứu Phêrô khi ông bắt đầu chìm nên kêu xin Đức Giêsu cứu ông (14,30)

Nhưng tất cả những trường hợp nói trên cũng chỉ giúp Phêrô nhận ra sự bé nhỏ của mình trước mầu nhiệm vô song của Thiên Chúa hiện diện nơi Đức Giêsu. Phêrô sẽ chẳng bao giờ thấu hiểu được mầu nhiệm đó, mà chỉ được ban cho ơn hiểu biết từng chút một về bản thân Đức Giêsu và về chương trình cứu độ Ngài đến để thực hiện. Do đó đă xảy ra tình trạng tiền hậu bất nhất nơi Phêrô. Ông được Thiên Chúa Cha mạc khải cho biết Đức Giêsu là ai; hơn nữa Đức Giêsu còn chúc phúc cho ông và gọi ông bằng danh xưng Phêrô do Ngài ban tặng, để ông trở nên Tảng Đá, trên đó Ngài sẽ xây Hội Thánh của Ngài (16,18). Thế mà khi Đức Giêsu tiết lộ chương trình Chúa Cha giao phó cho Ngài là lên Giêrusalem lãnh lấy nỗi chết, để rồi sẽ sống lại, thì Phêrô đã kháng cự lại chương trình đó và đã bị quở trách nặng lời (16,23)

Vấn đề không phải chỉ là Đức Giêsu thực hiện chương trình đó, mà cả Phêrô cũng phải đặt mình để Ngài lãnh đạo theo chương trình đó.

Thực ra, không riêng Phêrô, mà tất cả những ai muốn làm môn đệ Đức Giêsu đều không có con đường nào khác ngoài con đường vác thập giá mình mà theo Ngài (16,24). Bởi lẽ trò không trọng hơn Thầy, nếu “Đức Giêsu đã mang lấy các tật nguyền của ta và gánh lấy các bệnh hoạn của ta” (x. 8,17), thì làm sao ta có quyền từ khước vác lấy cây thập giá Ngài dành cho ta để ta theo Ngài?

Nhưng đường thánh giá theo chân Đức Giêsu là đường đưa ta tới vinh quang vì “Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của Người, và bấy giờ, Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng với việc họ làm.” (16,27)

Lời khẳng định tiếp theo của Đức Giêsu khi nói: “Thầy bảo thật anh em: trong số người có mặt ở đây, có những kẻ sẽ không phải nếm sự chết trước khi thấy Con Người hiển trị” (16,28), lời khẳng định ấy cho thấy Nước Thiên Chúa không xa. Nước ấy gắn liền với bản thân Đức Giêsu, Đấng hy sinh chịu đau khổ và chịu chết, nhưng đến ngày thứ ba sẽ sống lại.

 

Mầu nhiệm ấy phải lôi cuốn ta

Vậy biến cố Đức Giêsu biến đổi hình dạng (17,1-9) là để giúp các môn đệ thấy rõ hơn Ngài là ai theo mầu nhiệm của Thiên Chúa. Ta được đặt đối diện với vực thẳm của mầu nhiệm Thiên Chúa nơi Đức Giêsu – mầu nhiệm ấy phải đánh động ta, lôi cuốn ta, khiến ta say mê! Nhưng chìa khoá để mở cho ta thấy mầu nhiệm lại do chính Đức Giêsu nắm giữ! Một câu chuyện nhỏ có thể giúp ta nhận ra vấn đề vừa nêu.

Tác giả cuốn “Bảy Thói Quen của Những Người Thành Đạt” (The Seven Habits of Highly Effective People. Fireside. New York 1989) là ông Trần Cao Vọng (Stephen R. Covey).

Sáng Chúa Nhật hôm ấy, ông Vọng bước vào toa xe điện ngầm ở Nữu Ước. Ông đặt mình vào bầu khí yên lặng, trong đó người thì đọc báo, người trầm ngâm suy nghĩ, người trầm ngâm suy nghĩ, người lim dim ngủ. Thật là một cảnh an bình.

Bỗng một người đàn ông và các con ông bước vào toa tầu. Bọn trẻ ồn ào, khó bảo, làm cho không khí trong toa tầu thay đổi hẳn.

Ông Vọng kể lại: “Người đàn ông ngồi xuống cạnh tôi, nhắm mắt, hình như không chú ý đến những gì đang xảy ra. Bọn trẻ la hét, ném đồ vật, vồ cả mấy tờ báo của người khác. Chúng quấy phá quá sức, nhưng người đàn ông ngồi cạnh tôi vẫn không làm gì.

Thật khó mà không nổi cáu. Tôi không thể tin rằng ông ta vô tâm đến thế, để cho bọn trẻ chạy loạn lên mà không làm gì cả, choi như không có trách nhiệm. Dễ nhìn thấy những người khác trong toa cũng đều nổi giận. Sau cùng, không thể chịu đựng được nữa, tôi quay sang ông ta và nói: “Thưa ông, bọn trẻ nhà ông quấy đảo quá, ông không bảo chúng được một câu hay sao?”

Người đàn ông ngước mắt như lần đầu tiên biết được tình hình này và nhẹ nhàng nói: “Vâng, thưa ông, ông nói phải. Tôi nghĩ rằng tôi phải làm một cái gì. Vâng, chúng tôi vừa ở bệnh viện ra, mẹ các cháu vừa mất cách đây khoảng một giờ. Tôi không biết nghĩ như thế nào. Tôi cho rằng chúng cũng không biết xử trí ra sao.”

Ông Vọng nói tiếp: “Bỗng tôi nhìn sự vật một cách khác và bởi vì tôi nhìn khác nên tôi cũng nghĩ khác, cảm thấy khác, hành động khác. Cơn giận của tôi biến mất. Tôi không phải lo kiểm soát thái độ hay hành vi của tôi; con tim tôi tràn đầy nỗi đau của người đàn ông ấy. Một thiện cảm và lòng thương dâng lên trong tôi: “Vợ ông mới mất ư? Ồ, xin lỗi! Ông có thể cho tôi biết chuyện được không? Tôi giúp gì được ông đây?” Mọi cái đã thay đổi trong chốc lát.” (ibd., trang 30-31)

 

Mầu nhiệm phải khiến ta say mê

Cuộc biến đổi hình dạng của Đức Giêsu là một thị kiến như chính Ngài cho biết (Mt 17,9). Thị kiến ấy mang lại một nhận thức hoàn toàn mới về nhân vật chính trong thị kiến là Đức Giêsu. Trước đó, Ngài chỉ là một người giữa muôn người, lại là người Nadarét nên dễ bị coi thường (x.Ga 1,46). Sau thị kiến, con người ấy còn gặp phải biết bao nỗi gian truân. Ngài bị phản bội, bị bắt, bị vu khống và cuối cùng bị giết chết trơ trụi trên thập giá. Cả sau khi Ngài chỗi dậy từ cõi chết, không phải thế giới ùn ùn kéo đến để chấp nhận quyền lãnh đạo của Ngài. Nhưng điều quan trọng là từng người phải được hoán cải do nhận thức hoàn toàn mới về con người Giêsu làng Nadarét. Nhận thức ấy do ơn đức tin có thể được tóm tắt như sau:

+ Dung nhan chói lọi gợi ý cho thấy Đức Giêsu là Môsê mới đến để kiện toàn Lề Luật cho dân mới của Thiên Chúa (Mt 5,17).

+ Hai nhân vật Môsê và Êlia đàm đạo (Mt 17,3) về điều mà Luca gọi là “Cuộc xuất hành Ngài sắp hoàn thành tại Giêrusalem” (Lc 9, 31) vì chính Ngài cứu dân Ngài khỏi tội lỗi của họ (Mt 1,21). Điều này phải làm cho người có nhận thức mới trào dâng một lòng thống hối và tri ân – Khác với ông Vọng chỉ tỏ thiện cảm và lòng thương mà thôi.

+ “Đây là Con yêu dấu của Ta – Hãy vâng nghe lời Người” (17,5). Tùy ở mức lắng nghe Thần Khí của Đức Giêsu nói, ta mới hiểu sâu hơn được về mầu nhiệm Thiên Chúa nơi Đức Giêsu và mới được hoán cải để sống hợp với nhận thức mới.

 

84.             Qua Thập Giá để đến vinh quang

(Suy niệm của Huệ Minh)

Tin mừng Mt 17: 1-9: Ngay từ đầu đoạn Tin Mừng, thánh Matthêu đã ghi rõ: Chúa Giêsu đem ông Phêrô cùng hai anh em ông Giacôbê và Gioan đi riêng với mình….

Ngay từ đầu đoạn Tin Mừng, thánh Matthêu đã ghi rõ: Chúa Giêsu đem ông Phêrô cùng hai anh em ông Giacôbê và Gioan đi riêng với mình. Đồng thời trong Phúc Âm chúng ta cũng thấy không thiếu gì những trường hợp chỉ có ba ông này được chứng kiến một số hành động của Chúa Giêsu.

Ngoài việc làm chứng nhân cho cuộc biến hình, các ông còn được độc quyền đi theo Ngài trong những giây phút hấp hối cuối cùng nơi vườn cây dầu. Độc quyền chứng kiến việc Chúa Giêsu làm cho con gái ông Giairô sống lại. Các ông cũng là những người đã hỏi riêng Chúa Giêsu về những dấu hiệu báo trước ngày sụp đổ của đền thờ.

Có thể nói: Phêrô, Giacôbê và Gioan tượng trưng cho hàng ngũ lãnh đạo trong Gháo Hội. Việc Chúa Giêsu đem những người có nhiệm vụ lãnh đạo Giáo Hội để các ông chứng kiến cho sự biến hình không phải là không có ý nghĩa cho sự sinh hoạt của Giáo Hội ngày hôm nay.

Giờ đây, ông nghĩ rằng việc Hiển Dung có thể là con đường tắt để thực hiện ơn cứu độ. Ông hiểu đôi chút về điều đang xảy ra, có một cái gì đó rất lớn lao, và một lần nữa, ông cố gắng thuyết phục Đức Giêsu đừng đi Giêrusalem, bằng cách xin dựng lều ở trên núi này.

Với Đức Giêsu, vinh quang hôm nay chỉ là chốc lát, chỉ là khởi đầu, chỉ là lời báo trước cho vinh quang vĩnh cửu sau cuộc Khổ Nạn. Còn với Phêrô, đây là vinh quang của ơn cứu độ, và ông phải dấn mình vào: ông tưởng rằng không cần có thập giá vẫn có vinh quang. Mãi đến sau này, sau biến cố Phục Sinh, ông mới hiểu rõ và thuật lại toàn bộ sự kiện (x. 2 Pr 1,16-20).

Hiểu được vinh quang Thiên Chúa nằm trong chính thập giá quả là điều khó. Ngay cả Phêrô cũng còn lâu mới chấp nhận nổi điều này (x Mc 8,31-33). Điều đó cho thấy chiêm ngắm và tin vững chắc vào một Thiên Chúa giầu lòng từ nhân và hay thương xót không phải là dễ. Chấp nhận một Thiên Chúa oai hùng và công thẳng còn dễ hơn nhiều. Các tôn giáo đều muốn tôn vinh Thiên Chúa và ca ngợi sự uy nghi cao cả của Ngài mà không bị bóng thập giá phủ mờ. Trong khi đó Đức Giêsu, bằng trọn cuộc sống trần thể, và nhất là qua cái chết thập giá, chỉ muốn hé mở một điều duy nhất: vinh quang vĩ đại nhất của Thiên Chúa, và yếu tính đặc sắc nhất của Ngài chính là tự hiến và cứu độ, là tha thứ và xót thương. Thập giá là mạc khải toàn diện nhất về Thiên Chúa, đồng thời cũng biểu lộ tột cùng vinh quang tình yêu của Ngài.

Thập giá là những biến cố xảy đến trong cuộc sống con người; có thập giá do Chúa gửi đến; có thập giá do tự con người đem đến, và có thập giá do người khác, do xã hội đem đến. Đó là những điều cần thiết cho cuộc sống con người, để thanh luyện, để đào tạo con người ngày càng trưởng thành hơn.Thật vậy, sống ở đời, không ai tránh được những đau khổ mà chúng ta gọi là những thập giá Chúa muốn chúng ta vác. Bậc sống nào cũng có thập giá riêng của mình. Ngay chính lúc này, có lẽ mỗi người chúng ta đều có những lo âu, những buồn phiền, những khổ đau… Tất cả đều là thập giá.

Nếu chúng ta biết đón nhận và vác thập giá hằng ngày với thái độ khiêm nhường, với cái nhìn tích cực, cái nhìn đức tin, thì những thập giá ấy sẽ được thánh hóa, để trở thành những Thánh Giá đem lại sự sống đời đời cho chúng ta. Còn nếu ngược lại, chúng ta từ chối vác thập giá, chúng ta tránh né thập giá, thì chắc chắn những thập giá kia sẽ trở thành khổ giá cho chúng ta.

Mỗi người chúng ta hãy xem lại thập giá mà mình đang vác đó là gì, chắc chắn nó làm ta đau đớn lắm, khó chịu lắm và ngao ngán lắm; nếu chúng ta biết tận đụng để thông phần với đau khổ của Chúa thì thập giá kia sẽ được thánh hóa và trở thành Thánh Giá cho chúng ta. Một hình ảnh rất cụ thể, khi ta vô ý té đau, cái đau làm chúng ta tức tối, khó chịu; cái tức tối, khó chịu đó có ích gì đây, nó chỉ làm cho ta đau hơn; nhưng nếu ta ý thức cái đau này do lỗi của chúng ta, cái đau này giúp chúng ta kết hiệp với Chúa để hy sinh cứu rỗi các linh hồn,… thiết nghĩ lúc đó cái đau không còn nữa.

Hình ảnh hai tên trộm treo trên thập giá cùng với Chúa Giêsu trên đồi Golgôtha cũng cho ta thấy rõ:

Tên trộm dữ không chịu trách nhiệm về mình, anh ta than thở, trách móc, nguyền rủa cây thập giá và những người treo anh; anh ta còn chỉ cách cho Chúa Giêsu làm phép lạ nữa; anh ta là hình ảnh đại diện cho những ai thích bắt Chúa làm theo ý mình. Thập giá lúc này trở thành khổ giá cho anh.

Còn tên trộm lành thì khác, anh dám nhận trách nhiệm, anh nhận ra lỗi của mình và ăn năn thống hối, anh chạy đến với Chúa. Thập giá lập tức trở thành Thánh giá cho anh.

Ta đừng dừng lại ở thập giá để rồi than van, khóc lóc, kêu la với Chúa; nhưng chúng ta hãy vác lấy nó mà theo Chúa; Chúng ta hãy dùng đau khổ, bệnh tật, chết chóc để kết hiệp với Chúa Giêsu, để mang ơn cứu độ đến tận cùng trái đất; thật vậy, đau khổ, bệnh tật, chết chóc không những có lý do mà còn hữu ích mang ơn cứu độ cho mình và cho người khác. Đó là lý do mà Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II khi đi thăm một bệnh viện, ngài đã đến bắt tay từng người và nói với họ: “Xin hãy nâng đỡ Giáo Hội”; tức là ngài muốn xin họ dâng những đau khổ mà họ đang chịu lên Chúa để cầu nguyện cho Giáo Hội, đó là những lời cầu nguyện có giá trị thật cao cả.

Để củng cố tinh thần sa sút của các ông, nhằm giúp các ông vượt qua thử thách đau thương sắp đến và bền chí theo mình đến cùng, Chúa Giêsu bộc lộ cho ba môn đệ thân tín thấy chân tướng của Người: Người là Đấng uy nghi sáng láng, là Con yêu dấu của Chúa Cha. Sự kiện nầy được thánh sử Mat-thêu thuật lại như sau: “Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan … tới một ngọn núi cao. Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng. Và bỗng các ông thấy ông Môsê và ông Êlia hiện ra đàm đạo với Người.” … “Chợt có đám mây sáng ngời bao phủ các ông, và có tiếng từ đám mây phán rằng: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!”

Lắm khi Thiên Chúa cũng gởi đến cho chúng ta những món quà được bao bọc bằng hình thù của thập giá. Sự sần sù và dáng vẻ thê thảm của thập giá làm ta ngao ngán, khó chịu. Tuy nhiên, chúng ta cần phải luôn xác tín rằng, Thiên Chúa yêu thương chúng ta, Thiên Chúa không bao giờ muốn điều dữ cho chúng ta. Tất cả mọi sự xảy đến cho chúng ta đều nhằm dẫn đưa chúng ta đến nguồn hạnh phúc cao cả hơn, như lời Thánh Phaolô nói trong thư gửi tín hữu Roma: “Thiên Chúa làm cho mọi sự sinh ích cho những ai yêu mến Người” (Rm 8, 28)

Thánh Phaolô cũng xác tín rằng: “Những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta.” (Rm 8,18); và ngài còn nói thêm: “Một chút gian truân tạm thời trong hiện tại sẽ mang lại cho chúng ta cả một khối vinh quang vô tận, tuyệt vời.” (2 Cr 4, 17). Cầu xin Chúa cho mỗi người chúng ta luôn biết đón nhận mọi biến cố xảy đến trong cuộc sống; dù là vui hay buồn, dù là sướng hay khổ, dù là thành công hay thất bại,… chúng ta đều đón nhận với niềm tin yêu, phó thác; và luôn xác tín, qua thập giá sẽ đến Vinh Quang.

=> Tài liệu dạng Word, xin nhấn vào đây để tải về máy