Các bài suy niệm Chúa Nhật 2 Mùa Vọng – Năm C

06/12/2024

Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 2 MÙA VỌNG C

Lời Chúa: Br 5,1-9; Pl 1,4-6. 8-11; Lc 3,1-6 

MỤC LỤC

  1. Hãy dọn đường cho Chúa.
  2. Có Lời Thiên Chúa phán.
  3. Con đường nội tâm..
  4. Dọn đường cho Chúa.
  5. Chúa Nhật 2 Mùa Vọng.
  6. Chúa Nhật 2 Mùa Vọng.
  7. Dọn lòng đón Chúa đến.
  8. Chúa Nhật 2 Mùa Vọng.
  9. Mở đường để Chúa đến.
  10. Gioan Tiền Hô.
  11. Hãy dọn đường Chúa đến.
  12. Sám hối canh tân.
  13. Chúa Nhật 2 Mùa Vọng.
  14. Sa mạc.
  15. Chết
  16. Chúa Nhật 2 Mùa Vọng.
  17. Sa mạc.
  18. Tiếng kêu trong sa mạc.
  19. Chúa Nhật 2 Mùa Vọng.
  20. Chúa Nhật 2 Mùa Vọng.
  21. Hãy dọn đường cho Chúa.
  22. Sám hối
  23. Lá phải thay đi
  24. Chúa Nhật 2 Mùa Vọng.
  25. Dọn đường, dọn lòng.
  26. Hãy dọn đường.
  27. Dọn đường cho Chúa đến.
  28. Chúa Nhật 2 Mùa Vọng.
  29. Sửa đường Chúa đến.
  30. Thế gian này ta là ai?.
  31. Chúa Nhật 2 Mùa Vọng.
  32. Dọn đường cho Chúa đến.
  33. Nhập thể dọn đường.
  34. Chúa Nhật 2 Mùa Vọng.
  35. Dọn đường cho Chúa đến.
  36. Hãy dọn sẵn con đường.
  37. Chúa Nhật 2 Mùa Vọng.
  38. Mẫu gương Mùa Vọng.
  39. Hãy sám hối và đổi mới
  40. Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa.
  41. Cú sút trật đích rồi
  42. Sám hối, hoán cải tâm lòng.
  43. Hãy dọn lòng ngay thẳng!
  44. Chúa Nhật 2 Mùa Vọng.
  45. Đổi mới
  46. Dọn đường đón Chúa.
  47. Dọn đường cho Chúa.
  48. Chúa Nhật 2 Mùa Vọng.
  49. Chúa Nhật 2 Mùa Vọng.
  50. Chúa Nhật 2 Mùa Vọng.
  51. Lỗi tại tôi
  52. Con đường tâm hồn.
  53. Hoá đất tốt
  54. Chúa Nhật 2 Mùa Vọng.
  55. Dọn đường.
  56. Dọn đường đón Chúa.
  57. Cản trở.
  58. Chúa Nhật 2 Mùa Vọng.
  59. Dọn đường Chúa đến.
  60. Chúa Nhật 2 Mùa Vọng.
  61. Chúa Nhật 2 Mùa Vọng.
  62. Chúa Nhật 2 Mùa Vọng.
  63. Hãy dọn đường cho Chúa.
  64. Tiếng kêu trong sa mạc.
  65. Đường ngay nẻo chính.
  66. Chúa Nhật 2 Mùa Vọng.
  67. Sửa đường là sám hối
  68. Người phu quét lá.
  69. Hãy dọn đường cho Chúa.
  70. Sứ giả của Chúa Kitô.
  71. Chúa Nhật 2 Mùa Vọng.
  72. Chúa Nhật 2 Mùa Vọng.
  73. Chúa Nhật 2 Mùa Vọng.
  74. Chúa Nhật 2 Mùa Vọng.
  75. Chúa Nhật 2 Mùa Vọng.
  76. Chúa nhật 2 Mùa Vọng.
  77. Chúa Nhật 2 Mùa Vọng.
  78. Chúa Nhật 2 Mùa Vọng.
  79. Lời mời gọi
  80. Tiếng kêu.
  81. Tiếng động tĩnh lặng.
  82. Hãy dọn đường.
  83. Sám hối và dọn đường.
  84. Quo Vadis.
  85. Hóa đất tốt
  86. Tiếng kêu trong hoang địa.
  87. Chúa Nhật 2 Mùa Vọng.
  88. Gioan tiền hô.
  89. Dọn đường tâm hồn.
  90. Chúa Nhật 2 Mùa Vọng.
  91. Đại lượng đón Chúa.
  92. Chúa Nhật 2 Mùa Vọng.
  93. Chúa Nhật 2 Mùa Vọng.
  94. Chúa Nhật 2 Mùa Vọng.
  95. Chúa Nhật 2 Mùa Vọng.
  96. Chúa Nhật 2 Mùa Vọng.
  97. Gioan Tẩy Giả rao giảng.
  98. Chúa Nhật 2 Mùa Vọng.
  99. Chúa Nhật 2 Mùa Vọng.

 

*****************

1. Hãy dọn đường cho Chúa

(Trích trong ‘Manna’ – Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.) 

Suy Niệm

Đôi khi trong cuộc sống, chúng ta muốn tự định nghĩa về mình. Chúng ta tự hỏi mình là ai. Đây là một câu hỏi quan trọng và cần thiết. Gioan Tẩy Giả cũng đã đặt cho mình câu hỏi tương tự. Nhiều người nghĩ rằng ông là đấng Mêsia, là Êlia… Còn ông, ông biết rõ ông là ai. Gioan không đánh lừa mình hay đánh lừa người khác. Ông tự định nghĩa: “Tôi là tiếng kêu trong sa mạc. Hãy dọn đường cho Chúa đến” (Ga 1, 23).

Cả cuộc đời Gioan là một tiếng kêu. Tiếng kêu ấy đã vang lên từ khi ông được thụ thai, một cuộc thụ thai lạ lùng khi cha mẹ ông đã luống tuổi. Tiếng kêu ấy rõ dần qua cuộc sống đặc biệt của ông: nơi hoang địa, mặc áo lông thú, ăn châu chấu và mật ong rừng. Tiếng kêu ấy vang động khắp vùng ven sông Giođan. Một tiếng kêu khẩn thiết: hãy sám hối. Một tiếng kêu cấp bách: hãy dọn đường cho Chúa đến. Tiếng kêu cuối cùng của Gioan đã đưa ông đến cái chết: “Vua không được phép lấy bà ấy làm vợ” (Mt 14,4).

Gioan hấp dẫn vì ông sống điều ông giảng: ông sống khổ hạnh và mời gọi người ta sám hối. Gioan mãi mãi hấp dẫn vì ông không bao giờ tìm mình. Ông sống vai trò của người mở đường, người giới thiệu cho Đấng đến sau ông nhưng lại quyền thế hơn ông. Ông vui mừng tự xóa mình đi để Đức Giêsu được nổi bật. Chính vì thế mà ông trở nên cao trọng. Con người chỉ cao trọng khi sống cho Thiên Chúa. Mỗi lần mùa Vọng trở về, chúng ta có dịp gặp lại Gioan, người dọn đường.

Chúa Giêsu hôm nay vẫn cần những Gioan Tiền Hô mới biết tiếng kêu thức tỉnh nhân loại, biết dạy cho họ chờ đợi và nhận ra ơn cứu độ đã đến. Dọn đường là lội ngược dòng, là chấp nhận bị khai trừ, bị từ chối. Gioan đã dọn đường bằng cả cuộc đời để cuộc hôn nhân giữa Chúa Kitô và nhân loại thành tựu. Hội Thánh vẫn cần những người dám sống điều mình nói, và dám nói điều mình sống. 

Gợi Ý Chia Sẻ

– Giáo Hội mời gọi chúng ta lội ngược dòng trước sự lôi kéo của vật chất, hưởng thụ. Có khi nào bạn dám đi ngược với tập thể, vì muốn sống theo ý Chúa?

– Trong cuộc sống của Gioan Tẩy Giả, điều gì đánh động bạn hơn cả? 

Cầu Nguyện

Lạy Chúa, Khi đến với Chúa con tháo bỏ đôi giày: những tham vọng của con; con cởi bỏ đồng hồ: thời khóa biểu của con; con đóng lại bút viết: các quan điểm của con; con bỏ xuống chìa khóa: sự an toàn của con; để con được ở một mình với Ngài, lạy Thiên Chúa duy nhất và chân thật. 

Sau khi được ở với Ngài, con sẽ xỏ giày vào để đi theo đường của Chúa, con sẽ đeo đồng hồ để sống trong thời gian của Chúa, con sẽ đeo kính vào để nhìn thế giới của Chúa, con sẽ mở bút ra để viết những tư tưởng của Chúa, con sẽ cầm chìa khóa lên để mở những cánh cửa của Chúa.

 

2. Có Lời Thiên Chúa phán

(Trích trong ‘Manna’ – Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.) 

Suy Niệm

Mỗi lần mùa Vọng đến, ta lại gặp Gioan. Một cuộc sinh ra kỳ lạ, một lối sống khác thường. Hoang địa là nơi vắng người, trơ trụi, thiếu sự sống. Nhưng chính ở đó mà Gioan đã lớn lên và trưởng thành, trong sự gặp gỡ thâm trầm với Thiên Chúa. Càng lúc ông càng ý thức về sứ mạng của mình, nhưng ông đã kiên nhẫn chờ đợi nhiều năm tháng, cho đến ngày ông nghe thấy Thiên Chúa ngỏ lời với ông. Lời của Ngài đưa ông ra khỏi hoang địa để đến với mọi vùng ven sông Giođan mà gặp con người. Lời Chúa ông nghe trở thành Lời Chúa ông công bố.

Tiếng Chúa gọi ông trở thành tiếng ông mời gọi mọi người. Gioan là vị ngôn sứ cho dân tộc ông sau gần năm thế kỷ vắng bóng ngôn sứ. Ông sống trong dòng lịch sử của đạo lẫn đời: một hoàng đế Tibêriô, hai thượng tế Khanna và Caipha, một Philatô tham lam, tàn bạo, tổng trấn vùng Giuđê, một Hêrôđê, tiểu vương vùng Galilê, kẻ sẽ giết ông sau này. Gioan đón nhận toàn bộ dòng lịch sử ấy.

Lịch sử dân tộc là nơi diễn ra lịch sử cứu độ. Gioan biết mình là Tiền Hô cho Đấng Cứu Thế, và ông cố làm tròn sứ mạng của mình trước lịch sử. Gioan mời dân chúng sám hối. Không thể tiếp tục sống như xưa nữa. Đã đến lúc phải đổi đời, đổi lối nhìn, đổi lối nghĩ. Ông kêu gọi cả nước hãy sửa sang đường sá, để đón lấy Vua Mêsia, đấng ông không dám cởi dây giày.

Đường quan trọng là đường vào cõi lòng. Có bao lối nghĩ quanh co, bao tính toán lệch lạc. Có những lũng sâu tăm tối, thiếu vắng ánh sáng tình yêu. Có những núi đồi ngạo nghễ của tự kiêu, tự mãn. Có những chỗ mấp mô, lồi lõm giữa người với người. Phải sửa cho thẳng, lấp cho đầy, uốn cho ngay. Phải san cho phẳng, bạt cho thấp…

Sám hối là dọn con đường của lòng mình và mời mọi người cùng dọn các con đường thành đại lộ. Điều đó chẳng dễ dàng chút nào, và thường gây đau đớn. Vấn đề không phải chỉ là đi xưng tội qua loa, nhưng là dẹp bỏ những chướng ngại trong tâm hồn, để Chúa có thể dễ dàng đến và ở lại.

Gioan đã là ngôn sứ chuẩn bị cho Chúa đến lần đầu. Chúng ta phải là ngôn sứ chuẩn bị cho Ngài đến lần cuối. Làm ngôn sứ cho dân tộc mình, cho thời đại mình: đó là ơn gọi của mọi Kitô hữu chẳng trừ ai. Cần cất tiếng hô bằng lời nói và bằng cuộc sống.

Ơn cứu độ đã đến từ hai mươi thế kỷ nay, nhưng vẫn thiếu những con đường phẳng phiu, ngay thẳng, để Thiên Chúa có thể đến gặp con người. Xin Thánh Thần giúp chúng ta xây dựng những con đường mới trên những nẻo đường quen thuộc của nhân loại. 

Gợi Ý Chia Sẻ

– Ngôn sứ là người nói lời của Thiên Chúa. Có khi nào bạn dám nói một điều do lương tâm đòi buộc, nhưng đem lại cho bạn nhiều thiệt thòi, nguy hiểm không?

– Đường sá là cơ sở hạ tầng cần thiết cho việc phát triển. Bạn đã làm gì trong mùa Vọng này để dọn đường cho Chúa đến? 

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu,

Sám hối không phải là điều dễ dàng, bởi lẽ chúng con không đủ khiêm tốn để nhận mình lầm lỗi. 

Chúng con ngỡ ngàng khi thấy Chúa là Đấng vô tội mà lại đứng chung với các tội nhân, chờ Gioan ban phép Rửa. 

Chúa đã muốn nên bạn đồng hành với phận người mỏng dòn yếu đuối chúng con; xin cho chúng con biết thường xuyên điều chỉnh lối nghĩ và lối sống của mình, tỉnh táo để khỏi rơi vào ảo tưởng, thành thật để khỏi tự dối mình. 

Ước gì Chúa ban cho chúng con ơn hoán cải, dám đi đến những hành động cụ thể, và chấp nhận những cắt tỉa đớn đau. 

Nhưng xin đừng quên ban cho chúng con niềm vui của Giakêu, hạnh phúc vì được tự do và được yêu mến.

 

3. Con đường nội tâm

(Suy niệm của ĐTGM. Ngô Quang Kiệt)

Bài Tin Mừng mở đầu thật long trọng khi nêu tên tất cả những vị lãnh đạo cao cấp thời đó. Từ Tibêriô, hoàng đế của đế quốc La mã, quyền uy phủ trên toàn thế giới thời ấy, đến Philatô, tổng trấn, đại diện cho hoàng đế cai trị nước Do Thái. Từ Hêrôđê, dù là bù nhìn, cai trị miền Bắc, đến em ông cai trị miền Nam. Từ Anna đến Caipha cùng trong gia đình làm thượng tế nắm giữ quyền đạo Do Thái. Tên tuổi những vị lãnh đạo cao cấp đầy quyền uy nói lên thực trạng của đất nước Do Thái thời đó: bị nô lệ. Chính vì thế, hơn bao giờ hết người Do Thái mong chờ Đấng Cứu Thế đến giải thoát dân Người. Chúa đã đến, không phải bằng con đường phô trương nhưng bằng con đường nội tâm. Thánh Gioan Baotixita hôm nay khi kêu gọi mở đường cũng nhắm đến con đường nội tâm. Chỉ những ai đi đường nội tâm mới gặp được Chúa. Qua lời rao giảng của Thánh Gioan Tiền Hô, đường nội tâm có những đặc điểm sau: 

Đường nội tâm đi trong cô tịch. Thật lạ lùng. Một chương trình cứu thế lớn lao như thế mà Chúa chẳng ngỏ lời với các vị lãnh đạo cao cấp uy quyền, nhưng lại ngỏ với Thánh Gioan Baotixita. Một chương trình lớn lao như thế không khởi đầu từ thủ đô đất nuớc nhưng lại phát xuất từ vùng hoang địa xa xôi. Thực ra Chúa vẫn ngỏ lời với nhân loại. Nhưng tiếng Chúa nói âm thầm, sâu thẳm. Các vị lãnh đạo cao cấp sống trong ồn ào của đô thị phồn hoa, bị tiếng thét gào của đam mê, dục vọng, quyền lực lấn át, nên không nghe được tiếng Chúa. Thánh Gioan Baotixita nghe được tiếng Chúa nhờ đi vào con đường cô tịch. Sống ẩn thân nơi hoang địa. Chuyên chăm cầu nguyện trong tu viện. Bỏ ngoài tai tất cả những tiếng ồn ao thế tục. Chỉ khao khát lắng nghe Lời Chúa. Nên đã gặp được Chúa và được biết chương trình cứu độ của Chúa.

Đường nội tâm đi trong đi trong khiêm nhường. Chúa là Đấng vô cùng khiêm nhường. Chỉ những ai khiêm nhường mới gặp được Chúa. Các vị lãnh đạo uy quyền nói trên rất tự mãn. Tự mãn vì Tự mãn vì quyền uy bao trùm khắp mặt đất. Tự mãn vì dinh thự đền đài nguy nga. Tự mãn vì quần áo lụa sang trọng. Tự mãn yến tiệc linh đình. Thánh Gioan Baotixita thật khiêm nhường. Khiêm nhường trong đời sống âm thầm nơi hoang địa. Khiêm nhường trong tu viện đơn sơ. Khiêm nhường trong thực phẩm tự nhiên rất đạm bạc: chỉ ăn châu chấu và mật ong rừng. Khiêm nhường trong trang phục giản dị bằng da thú, chỉ có mục đích che thân. Khiêm nhường xưng mình chỉ là tiếng kêu trong hoang địa. Nhờ thế đã gặp được Chúa, được Chúa tuyển chọn trở thành người mở đường cho Chúa. 

Đường nội tâm đi trong chiến đấu. Không phải chiến đấu với người khác. Nhưng chiến đấu với chính mình. Cuộc chiến đấu được Thánh Gioan Tiền Hô dùng lời tiên tri Isaia diễn tả trong việc sửa chữa con đường. Con đường là tâm hồn. Sửa chữa con đường vật chất tuy khó mà dễ. Sửa chữa con đường tâm hồn khó biết bao. Tâm hồn có những núi đồi kiêu ngạo tự mãn. Để sửa chữa phải bát núi đồi xuống. Phải cắt đi một phần tâm hồn không phải dễ dàng. Tâm hồn có những khúc quanh co, để uốn nắn lại phải vạt bớt chỗ quanh co. Gọt dũa tâm hồn đau đớn lắm. Từ bỏ mình là một cuộc chiến khốc liệt. Thắng được mình khó hơn thắng vạn quân.

Đời sống ta quá lo lắng bon chen nên thiếu chiều sâu nội tâm. Hôm nay ta hãy nghe lời Thánh Gioan Tiền Hô dạy, biết ăn năn sám hối trở về với Chúa. Biết rửa sạch tội lỗi. Biết đổi mới tâm hồn bằng cuộc sống đi vào nội tâm. Tìm những giờ phút thanh vắng cô tịch để lắng nghe tiếng Chúa. Sống đơn sơ khiêm nhường để nên giống Chúa. Muốn được như thế ta phải chiến đấu để từ bỏ ý riêng. Chúa đã đến ở đầu đường. Ta chưa nhìn thấy chỉ vì con đường tâm hồn còn lồi lõm quanh co. khi nào ta cắt bỏ được hết những lồi lõm quanh co trong tâm hồn, ta sẽ được thấy Chúa. 

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

  1. Đường nội tâm có những đặc điểm nào? Cô tịch, khiêm nhường và chiến đấu, đặc điểm nào cần thiết nhất cho đời sống bạn hiện nay?
  2. Thánh Gioan Tiền Hô có sống những lời Ngài rao giảng không?
  3. Con đường nội tâm của bạn còn phải sửa chữa ở những đoạn nào? Có dễ không? Tại sao?

 

4. Dọn đường cho Chúa

(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt) 

Trong những trận bão lụt tại miền Trung nước Việt, nhiều làng bị nước ngập; nhiều đoạn đường bị nước lũ cuốn đi hay bị sạt lở, xe cộ không đi lại được… Dân làng muốn thoát ra nhưng không đi được vì đường sá không còn xử dụng được nữa. Nhiều đoàn cứu trợ muốn đến những làng xa xôi, nhưng không có đường đi, nên đành chịu bó tay.

Những con đường thật là quan trọng. Đường đi giúp cho người bị nạn có thể thoát ra. Đường đi giúp cho người bị nạn đón nhận được sự cứu trợ. Đường đi nối liên lạc giữa người với người. Đường sá hư hỏng làm giao thông ngừng trệ, chậm trễ việc cứu trợ, ngăn cách người với người. Muốn cho giao thông mau lẹ, muốn việc cứu trợ có kết quả, muốn cho con người gần gũi nhau, phải sửa chữa đường đi cho thật tốt.

***

Bạn thân mến, Con đường vật lý đã cần, nhưng “con đường thiêng liêng” còn cần hơn…Con đường thiêng liêng có thật tốt mới giúp ta lãnh nhận Ơn Chúa và nhất là đón nhận chính Chúa đến. Thật ra Chúa đã đến từ lâu, nhưng ta chưa đón nhận được Ngài vì con đường thiêng liêng trong tâm hồn ta đã bị hư hỏng. 

Con đường thiêng liêng trong tâm hồn ta có những đỉnh đồi kiêu ngạo, luôn muốn nâng mình lên, luôn khoe khoang, không chịu thua kém người khác. Tâm hồn ta có những ngọn núi tự ái cao ngất trời xanh, không bao giờ chịu nhận lỗi, không bao giờ chịu tha thứ.

Con đường thiêng liêng trong tâm hồn ta có những hố sâu tham lam muốn chiếm đoạt tất cả, muốn thu vén tất cả vào túi riêng. Tâm hồn ta có những hố sâu chia rẽ, luôn gây ra bất hoà, luôn giận hờn, luôn ganh ghét, luôn nghi kỵ. Tâm hồn ta có những hố sâu đam mê, miệt mài đuổi theo danh lợi, thú vui dục vọng

Con đường thiêng liêng trong tâm hồn ta có những khúc quanh co của sự dối trá, không thành thật với Chúa, không thành thật với người khác và không thành thật với chính mình. Tâm hồn ta có những khúc quanh co của sự trốn tránh bổn phận, của sự giả hình, của sự thiếu duyệt xét lương tâm.

Con đường thiêng liêng trong tâm hồn ta có những lượn sóng gồ ghề của những lời nói độc ác, tàn nhẫn. Tâm hồn ta gồ ghề vì sự lười biếng không chịu cố gắng thăng tiến bản thân. Tâm hồn ta gồ ghề vì những phê bình chỉ trích thiếu tính cách xây dựng.

Tất cả những ngọn đồi, những hố sâu, những khúc quanh co, những lượn sóng gồ ghề ấy ngăn chặn Chúa đến với ta.. Trong Mùa vọng này, chúng ta được mời gọi hãy sửa chữa con đường thiêng liêng trong tâm hồn ta cho tốt đẹp hơn để đón Chúa đến. Hãy bạt đi những thói kiêu căng tự mãn; tính tự ái ngang ngạnh. Hãy lấp đầy những hố sâu tham lam, chia rẽ, bất hoà; những đam mê, dục vọng. Hãy uốn thẳng lại những quanh co dối trá, giả hình. Hãy san bằng những lượn sóng gồ ghề độc ác; những câu nói hành nói xấu trong cuộc sống hằng ngày.

***

Lạy Chúa, Đổi mới một con đường bằng cách lấp đầy những hố sâu, uốn thẳng những khúc quanh thì thật dễ, dọn dẹp cho sạch sẽ một con đường thì dễ hơn… Nhưng đổi mới tâm hồn, dọn dẹp con đường thiêng liêng trong tâm hồn thì không dễ chút nào. Để chuẩn bị cho ngày Con Thiên Chúa lại đến, xin ban ơn giúp sức cho con trên con đường phấn đấu bản thân, để mỗi ngày con biết “bắt đầu lại” công việc dọn dẹp đổi mới con đường thiêng liêng trong tâm hồn con. Amen.

 

5. Chúa Nhật 2 Mùa Vọng

(Suy niệm của Gm Barthôlômêô Nguyễn Sơn Lâm) 

CHÚNG TA HÃY DỌN ÐƯỜNG

Chúa nhật 1 mùa vọng đã loan báo ngày Chúa đến. Người sẽ trở lại khi thời gian đã mãn. Người sẽ đến trong vinh quang và lấy vinh quang biến đổi chúng ta nên con cái của sự trường sinh bất tử. Bài đọc sách Barúc hôm nay còn nói đến việc ấy. Nhưng chủ yếu của lời Chúa này là việc dọn đường Chúa đến. Chúng ta sẽ được nghe tiếng nói của Gioan Tẩy Giả. Ông được Phụng vụ mùa Vọng nhắc nhiều, vì ông là tiên tri cuối cùng của Cực Ước, và sứ mạng của ông là hoàn tất việc Cứu Ước chuẩn bị ngày Chúa đến.

Hơn nữa, ông còn là người giới thiệu và trỏ cho mọi người thấy Ðấng Cứu Thế đã đến. Tiếng nói của ông vì thế có khả năng giúp đỡ chúng ta dọn đường Chúa đến và nhận ra Người. Nhưng phải nói như thư Phaolô còn trực tiếp hơn nữa vì nhắm thẳng vào ngày Chúa trở lại trong vinh quang. Chúng ta xin ơn Chúa soi sáng để biết hiểu và thi hành Lời Chúa hôm nay. 

  1. Ðây Là Ngày Thiên Chúa làm Nên

Trước hết, chúng ta hãy mở sách Barúc. Ðó là một tác phẩm rất ngắn, chỉ gồm tất cả năm chương. Tác giả tự coi như là “Thư ký” của tiên tri Giêrêmia, nên văn phẩm của ông được tính vào ngay sau phần “Ai ca” của sách Giêrêmia. Tác giả còn giới thiệu bản văn của mình như là một bức thư gửi từ Babylon trong buổi lưu đày về con cái Israen còn ở lại Giêrusalem, để họ thống hối ăn năn, suy nghĩ lại về đường lối ăn ở, hầu nhận được Lời Hứa cứu độ và giải thoát. Bài đọc hôm nay loan báo Tin Mừng cứu độ này.

Nhưng dần dần khoa chú giải Kinh Thánh đã nhận ra sự thật không đơn sơ như thế. Sách Barúc là một tác phẩm của một cây viết vô danh. Nói đúng hơn, đó là văn phẩm hỗn hợp đã do một người đạo đức nào đó ở giữa thế kỷ thứ hai ghép thành. Tác giả đã lấy nhiều bản văn khác nhau để làm nổi bật một lời kinh thú tội thống hối, đọc trong một buổi lễ xá tội nào đó. Tuy nhiên ý tưởng và lời văn ở mọi chương đều đạo đức sâu xa và trình bày rất khôn khéo. Chương thứ năm cũng là chương cuối cùng trong sách Barúc mà chúng ta đọc hôm nay, chứng tỏ điều ấy.

Vậy, muốn hiểu, chúng ta phải đọc đoạn văn tiên tri này trong bối cảnh “giả định” của tác giả. Tức là ở đây chúng ta có những lời Chúa muốn an ủi dân Người khi họ thống hối ăn năn. Người loan báo cho họ về ngày vinh quang sau lưu đày, ngày cứu độ sau đau thương, ngày ân thưởng sau cuộc đời lao nhọc. Ðối với chúng ta, đó là ngày Chúa lại đến.

Ngày ấy, chính Thiên Chúa sẽ làm ra chứ không phải ai khác. Người sẽ lấy vinh quang bất diệt của Người choàng lên Giêrusalem, tức là trên chúng ta và tất cả tạo vật, sự vinh quang ấy cũng là sự công chính thánh thiện mà Thiên Chúa sẽ ban cho nhân loại được cứu độ khiến tên của Giêrusalem mới tức là của nhân loại mới, sẽ là Hòa bình và vinh quang, Hòa bình vì có sự công bằng của Chúa, và vinh quang nhờ có lòng thương xót của Người. Tất cả những điều này nói lên rằng chính Chúa là tác giả của thời đại sau này. Chính Người sẽ làm ra cảnh trời mới, đất mới. Những nét đẹp, nét tốt của thời đại mai sau hoàn toàn là của Chúa. Do đó Nước Trời sẽ đến không bao giờ thay đổi và suy vi nữa, vì tất cả sẽ được bao bọc trong vinh quang thánh thiện đời đời của Thiên Chúa.

Tự nhiên chúng ta muốn hỏi: như vậy, loài người chúng ta không đóng góp gì được vào ngày Chúa đến sao? Chắc chắn có phần nào đó mà chúng ta sẽ nói sau. Nhưng cũng chắc chắn, phần đóng góp của chúng ta sẽ không đáng kể sánh với ơn ban của Chúa. Có thể nói trời với đất xa nhau bao nhiêu thì phần trao ban của Chúa còn vượt xa phần lãnh nhận của chúng ta bấy nhiêu và hơn nữa. Chúng ta hãy cứ nói như Barúc: ngày vinh quang sau này của chúng ta khi Chúa Kitô hiện đến hoàn toàn là công trình của Chúa. Người đem vinh quang thánh thiện đến biến đổi chúng ta và tất cả nên thành trì “hòa bình của công bình và vinh quang của thương xót”.

Thành trì ấy được đứng lên mỏm cao để thấy con cái khắp nơi, nhân loại khắp xứ tuôn về. Khi xưa, tội lỗi đã làm chúng phiêu bạt ra đi tiều tụy, bây giờ Thiên Chúa công chính thánh thiện đưa tất cả về vinh quang như trên một ngai vua.

Không những thế, Thiên Chúa còn cho bạt núi, lấp sông để đường đi của con cái Chúa được vững chắc trong vinh quang. Ðang khi ấy cỏ cây bên đường sẽ rợp bóng, tỏa hương và ánh sáng quang vinh phổ… xuống… Ðoàn người trở về với Chúa, đi về nhà Cha, tuôn về gặp Chúa thật là ngoạn mục và sung sướng…

Chúng ta có thể bảo đây là những lời thơ. Nhưng cũng là những lời ấp úng trước một cảnh tượng chưa thể nào tưởng tượng được. Trong ngày ấy, Chúa sẽ thánh hóa dân Người, sẽ quy tụ dân Người lại, sẽ làm cho cảnh vật thiên nhiên được chia sẻ sự vui mừng tự do của con cái Thiên Chúa. Bằng ấy ý tưởng đúc nên bài sách Barúc hôm nay. Những ý tưởng ấy nằm trong nhiều trang Thánh Kinh Cựu Ước và Tân Ước. Ðó là nội dung Lời Hứa ngàn đời của Chúa về thời đại người viếng thăm, về ngày Chúa trở lại với Dân Người.

Và Lời Hứa của Người bền vững trung kiên. Ðã bao lần Chúa thi hành trong lịch sử Do Thái. Nhưng đó mới chỉ là những lần tập dượt cho ngày Ðức Giêsu Kitô Giáng Sinh làm người. Và Hội Thánh từ ngày được Ngài sáng lập không mang nhiều màu sắc của Giêrusalem trong bài sách Barúc đó sao? Nhưng Giêrusalem đích thực mà sách này muốn loan báo là Giêrusalem thiên quốc, là Hội Thánh sau này trên Trời, là Dân Chúa trong vinh quang của Ngày Chúa đến. Chúng ta đang vọng ngày đó, đang chờ Chúa Kitô trở lại. Chúng ta sung sướng hân hoan nghĩ về Ngày Chúa sẽ làm ra, không phải để mơ mộng, nhưng để cầu xin Chúa ban cho mình được tham dự ngày vinh quang ấy và nhất là để chuẩn bị. Và muốn làm công việc này, chúng ta hãy nghe Lời Tin Mừng trong sách Luca. 

  1. Chúng Ta Hãy Dọn Ðường

Tác giả khai mạc cuộc đời hoạt động của Gioan Tẩy Giả một cách rất long trọng. Ðã đành ông muốn viết sử có đầu có đuôi và một cách khoa học. Ông phải đặt các biến cố vào lịch sử có các niên hiệu chắc chắn. Nhưng vì sao khi kể việc Ðức Giêsu ra giảng đạo, ông không viết một cách long trọng như vậy? Thực ra trong những chương đầu tiên của tác phẩm Tin Mừng mang tên ông, tác giả Luca thuật những chuyện về Gioan chen lẫn với những chuyện về Ðức Giêsu. Ông viết về Gioan để làm nổi bật Ðức Giêsu thế nên không phải vì Gioan mà ông viết bản văn long trọng chúng ta đọc hôm nay. Bản văn này có ý giới thiệu Ðức Giêsu. Nó là tiền đề đưa vào những câu chuyện về Ðức Giêsu, giống như Gioan chỉ là tiền hô của Ngài.

Vậy chính vì Ðức Giêsu mà chúng ta có bản văn long trọng hôm nay. Tác giả Luca muốn cho chúng ta thấy cuộc đời hoạt động của Ngài đã được khai mạc cách trọng thể nhờ việc Gioan bắt đầu rao giảng phép rửa thống hối. Luca đặt việc này vào khung cảnh Lịch sử đạo đời để chúng ta có sẵn khung cảnh lịch sử này mà hiểu biết về các hoạt động của Ðức Giêsu, vì khi Gioan bắt đầu rao giảng, thì Ðức Giêsu cũng đã sẵn sàng xuất hiện.

Bấy giờ là năm thứ 15 triều hoàng đế Tibêrô cai trị Ðế quốc La Mã, rộng lớn như cả thế giới. Ở đất Do thái, về đời có Philatô trấn nhiệm xứ Giuđê và Hêrôđê làm quận vương xứ Galilê. Về đạo có thượng tế Hanna và Caipha. Chúng ta có thể thắc mắc vì sao lại có hai thương tế, điều chẳng bao giờ thấy trong lịch sử Dân Chúa. Nói đúng ra, bấy giờ là thời thượng tế Caipha; nhưng thực quyền lại nằm trong tay nhạc phụ là Hanna. Ông này cũng là Thượng tế. Ông đã từ chức nhượng lại cho con rể, nhưng thực tế vẫn nắm quyền, ít ra về vấn đề ảnh hưởng. Do đó, không phải vô lý mà tác giả Luca đã viết: Bấy giờ là thời thượng tế Hanna và Caipha. Ông đã viết sự thật và là sự thật đau đớn!

Cũng như ông đã hữu ý khi nói đến những nhà cầm quyền đời lúc bấy giờ. Ông kể tên Philatô và Hêrôđê cai trị hai vùng đất của Dân Chúa; và ông cũng nói đến Philíp và Lysania, trấn nhiệm hai phần đất kề cận mà dân cư lại là kẻ ngoại. Phải chăng tác giả Luca đã không muốn nói rằng: môi trường hoạt động của Chúa Giêsu sẽ là cả Dân Chúa và cả Dân ngoại? Người sẽ mang ơn cứu độ đến cho mọi người chẳng kỳ là Do Thái hay Hy Lạp.

Vậy sau khi đã kể hai tọa độ không gian và thời gian, tác giả bắt đầu viết sử. Người ta thấy Gioan nhận được lời Chúa. Kiểu nói này làm chứng ông lãnh được sứ mạng tiên tri từ trời cao. Ông không làm việc tự ý. Khi ông đang ở trong sa mạc thì được gọi; tức là sứ mạng đã được trao cho ông đang lúc ông sống cho Chúa và tận hiến đời mình cho Người.

Tác giả Luca nói rằng ông đến giảng ở miền sông Giođan, trong khi Ðức Giêsu sẽ không hoạt động ở đây. Phải chăng Luca không muốn phân biệt hoạt động của hai Ðấng, khi viết như vậy? Ý muốn phân biệt thật rõ khi tác giả nói: phép Rửa của Gioan chỉ để được tha thứ tội khiên, chứ chưa tha thứ tức thời đâu. Ðó là công việc chuẩn bị, dọn đường theo lời sách Isaia: tiếng của Người hô trong sa mạc: Hãy dọn đường Chúa, hãy bạt lối Người đi.

Những lời này có khác với những lời mà Barúc đã công bố không? Nhà tiên tri ngày xưa nói rằng: chính Chúa san phẳng đường lối cho dân được cứu độ. Còn ở đây, dường như đó lại là việc của chúng ta. Sự thật, lời sách Isaia không phải chỉ có bấy nhiêu. Luca đã có lý để tiếp tục trích dẫn. Bốn câu nữa đã được thêm vào hai câu trên. Và những câu này cho thấy việc lấp đầy hạ thấp để đường đi được phẳng lỳ sẽ là công trình của Chúa; nhưng Người đã làm gì khi người ta có thái độ thống hối ăn năn. Chính Chúa đã làm ra đường lối cứu độ, nhưng con người phải tỏ thiện chí muốn lãnh nhận. Và đường lối phẳng lỳ mà Chúa làm ra đòi lấp đầy hạ thấp tức là Chúa vẫn nâng cao những người phận nhỏ và hạ xuống những phường tự cao tự đại. Ðề tài này luôn được Luca yêu thích. Có lẽ chính nó đã khiến Luca trích hết lời sách Isaia, đang khi Mátthêu và Marcô đã dừng lại ở hai câu đầu.

Nhưng điều quan trọng hơn cả mà Luca muốn nhấn mạnh để kết thúc đoạn văn hôm nay, là việc mọi người sẽ nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa. Không những ông nhấn mạnh tư tưởng “mọi người” tức là tính cách phổ cập của ơn Ðức Giêsu dành cho hết thảy chúng ta; Nhưng ông cũng muốn nhắc đó là công trình của Thiên Chúa chứ không phải của chúng ta. Và như vậy Luca cũng như Barúc muốn nói với chúng ta hãy trông đợi ngày Chúa đến như là ơn cao cả. Người sẽ làm cho những ai có thái độ thống hối ăn năn và khiêm nhường khó nghèo. Tác giả Tân Ước chỉ khác nhà tiên tri Cựu Ước ở chỗ trỏ cho chúng ta thấy Ngày ấy đã đến trong lịch sử rõ rệt, nơi Ðức Giêsu Kitô. Nhưng ngay trong đoạn văn này, Luca còn mượn lời của Gioan để bảo chúng ta phải chờ đợi nữa, vì tuy Ðức Giêsu đã đến, nhưng chưa phải mọi người đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa. Chúng ta còn phải vọng đến ngày ấy nữa. Và chúng ta phải nghe lời thư Phaolô để dọn đường cho Chúa. 

  1. Và Tiếp Tục Cho Ðến Hoàn Thành

Trong đoạn thư này, Phaolô nói rằng luôn luôn Người cầu nguyện cho giá dân Philíp một cách vui sướng. Chúng ta hãy chú trọng đến sự hân hoan toát ra từ những lời thư này. Phaolô không có gì phải lo cho giáo dân Philip cả. Từ ngày nhận được Tin Mừng đến nay, họ vẫn tốt, không những họ đã thông phần vào việc rao giảng Tin Mừng khi họ đón nhận ơn Chúa kêu gọi; mà họ còn phấn đấu sống Tin Mưng ấy và giúp đỡ Phaolô cũng như các giảng viên Tin Mừng. Nghĩ đến họ, Phaolô như rộn lòng trìu mến lên. Giống như Thiên Chúa và Chúa Giêsu Kitô luôn rộn lòng yêu mến cứu chuộc chúng ta.

Vậy Phaolô luôn cầu nguyện cho giáo dân Philip, không phải vì họ đang gặp những khó khăn nào, mà chỉ vì Người vui sướng thấy giáo đoàn đó tốt lành, cần được cầu nguyện để “một công trình thiện hảo như vậy sẽ tiếp tục cho đến hoàn thành trong ngày của Ðức Giêsu Kitô”. Tức là dù nếp sống đạo đã tốt lành đến đâu, cũng vẫn còn phải tiến bộ để được kiện toàn trong Ngày Chúa trở lại. Chính vì vậy mà Phaolô phải cầu nguyện cho giáo dân Philip được lòng mến dẫy tràn nhiều hơn mãi mãi về trí tri và thông hiểu để biết biện phân ra điều ưu hảo mà ăn ở cho vô phương trách cứ, hầu dư đầy hoa quả công chính nhờ Ðức Giêsu Kitô.

Những lời súc tích này rõ ràng có tính cách khuyên nhủ và dạy dỗ, Ðó là cả một chương trình sống đạo phải đi đôi với việc cầu nguyện cho mình được ơn cứu độ trong ngày Chúa đến. Ðành rằng đời sống mai sau là việc Chúa làm mà chúng ta phải cầu xin để Người ban cho chúng ta. Nhưng Người đã khởi sự ban khi cho chúng ta được đón nhận Tin Mừng. Bây giờ hằng ngày cho đến khi Chúa trở lại chúng ta phải cầu nguyện để luôn được thêm lòng mến, lòng tin, để biết ăn ở một cách ưu hảo hầu sau này sẽ vô phương trách cứ và dư đầy hoa quả thánh thiện. Chúng ta không thể làm được những việc ấy nếu không khiêm nhường và cố gắng.

Thánh lễ này là nơi để chúng ta khiêm nhường đón nhận ơn Chúa. Chúng ta phải thấy mình còn tội lỗi và yếu ớt. Chính Mình Máu Thánh Chúa sẽ vừa tẩy sạch tâm hồn và củng cố sự sống. Nhờ Chúa Giêsu Kitô chúng ta có thể bước đi trên đường, tuy nhiều gồ ghề nhưng có thể vẫn cảm thấy phẳng lì khi chúng ta nhiều lòng mến trông đợi ngày Chúa đến.

 

6. Chúa Nhật 2 Mùa Vọng

(Suy niệm của Dã Quỳ) 

DỌN TÂM HỒN SỬA LỐI SỐNG

Thời gian mùa vọng đặt chúng ta trong một lối sống “Chờ đợi”, là thời gian đặc biệt chuẩn bị cho một cuộc gặp gỡ giữa con người với Thiên Chúa. Đây là thời gian của hồng ân, nhưng đây cũng là thời gian của thách đố. 

– Thời gian của hồng ân là những khoảnh khắc chờ đợi với nhớ nhung và nóng lòng. Trong Kinh Thánh, sự chờ đợi là thời gian tham dự vào niềm vui và bồn chồn chờ mong. Điều này ta cũng đã trải nghiệm trong cuộc sống của mình. Để chuẩn bị cho một cuộc đón tiếp, niềm vui và sự tưởng tượng thường xâm chiếm con người của ta và nếu sự chuẩn bị kéo dài, ta sẽ đoán trước ra khung cảnh gặp gỡ như thế nào và đặt ta ở trong tâm tình hy vọng, hân hoan. Ta sẽ cảm nhận một cảm xúc thật dễ thương trong khi ước mong cuộc hội ngộ sớm hiện thực.

Đây là thời gian của hồng ân khi ta tin rằng Thiên Chúa đang thực hiện kế hoạch của Người là đem hạnh phúc đến cho nhân loại. Thiên Chúa hy vọng được thấy chúng ta hạnh phúc nên Người gởi Con Một đến cho ta. Tình yêu của Thiên Chúa có một khuôn mặt và Người mong muốn chúng ta nhận biết khuôn mặt của Người. Niềm vui của chúng ta chỉ được nhân lên tột đỉnh khi kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện và lúc ấy chúng ta không ngừng thán phục về một Thiên Chúa, Đấng yêu thương chúng ta từ thuở đời đời và chúng ta được yêu thương mãi mãi trong suốt hành trình cuộc sống của mình vì “Cha đã khắc ghi tên con trong lòng bàn tay Cha” như ngôn sứ Isaia xác định.

Đây là thời gian của hồng ân để ta nhận diện, ta thấy rõ mình và nhận ra ta đã chuẩn bị đời ta thế nào cho cuộc gặp gỡ Ngôi Lời của Thiên Chúa? Thời gian trầm lắng của chờ đợi cũng là lúc ta nhận dạng căn phòng hồn ta, căn phòng nội tâm ấy có còn là Đền Thờ của Chúa Thánh Thần, còn là nơi cầu nguyện; là nơi Thiên Chúa gặp gỡ ta hay không? Hay với thời gian… chốn ấy đã trở thành thung lũng của tội lỗi, núi đồi của kiêu căng, hay quanh co của gian dối… (x Lc 3,5-6) mà ta cần phải sửa đổi, hoán cải. 

– Thời gian của thách đố, của sám hối tận căn là lúc “Dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi.” (Lc. 3,4) Dọn đường, sửa lối cho Chúa đi là những thách đố vì nó dẫn đến sự sửa chữa, cắt tỉa, gọt dũa, thay đổi tâm hồn và cả con người.

Đó là lúc ta phải nhận ra cái thung lũng tội lụy trong con đường tâm hồn mà lâu nay ta đã xúc phạm tới Chúa và tha nhân, đã sai lỗi trong tình yêu với Chúa và thiếu yêu thương với anh em. Là lúc ta cần bồi đầy thung lũng ấy bằng cầu nguyện, tham dự Thánh Lễ, làm các việc lành, bác ái… Thung lũng ấy được bồi phẳng bằng tình yêu vì để cho chính Đấng là Tình Yêu sẽ đi lên.

Đó là khi ta nhận ra cái núi đồi kiêu ngạo tự mãn trong con đường tâm hồn cần phải bạt xuống bằng chuyên chăm đọc, suy niệm Lời Chúa và đem ra thực hành, học sống khiêm nhường như Chúa Giêsu trong hành xử và trong mọi lối sống hằng ngày của ta. Vì Đấng sẽ đến trên con đường ấy chính là Đấng tự hạ, hiền lành và khiêm nhường. Và chỉ những ai khiêm nhường mới gặp được Chúa.

Đó cũng là giờ phút ta xét lại con đường tâm hồn mình có những khúc quanh co của gian dối nào cần uốn nắn lại hay phải vạt bỏ đi. Chỗ lồi lõm nào nên san lại cho bằng. Cắt bỏ hay uốn nắn con đường tâm hồn không dễ chút nào, cần phải có quyết tâm và ơn Chúa giúp. Phải từ bỏ mình, từ bỏ những thói quen không tốt làm lồi lõm tâm hồn và đó như là một cuộc chiến đấu cần lắm sức mạnh trợ giúp của Chúa.

Đó là lúc mà ta cần ý thức thân phận yếu đuối tội lỗi của mình và thật lòng sám hối bằng việc cải thiện đời sống, bằng cách đổi mới toàn diện con người của mình. Sám hối là việc hoán cải nội tâm nên đòi hỏi ta phải khiêm tốn nhìn nhận những lầm lỗi thiếu sót của mình và quyết tâm trở về với Chúa, lãnh nhận Bí Tích Hòa Giải để được Chúa thứ tha. Khi chúng ta ý thức được thân phận của mình, chúng ta mới cần đến ơn cứu độ và lòng xót thương của Thiên Chúa. Như vậy lòng sám hối là nền tảng của ơn cứu độ, là con đường để con người gặp gỡ được Thiên Chúa như Lời Chúa Giêsu đã mời gọi “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 4, 17)

Lắng nghe lời thánh Gioan Tiền Hô kêu gọi: “Tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội… Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa… Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa.” (Lc 3,3-4.6) Ta có muốn thấy ơn cứu độ và gặp gỡ Đấng Emmanuel hay không? Đây là sự tự do chọn lựa của mỗi người. Ơn cứu độ đã bắt đầu khởi sự ngay nơi trần gian này khi mỗi ngày Chúa vẫn đến với ta bằng nhiều cách, nhưng nhiều lần ta đã cố tình tránh gặp Chúa. Vậy ta hãy quyết tâm sửa đổi con đường tâm hồn, ăn ăn hoán cải về những yếu đuối tội lỗi để rồi ngày Chúa đến trong vinh quang, ta sẽ hân hoan như lời thánh Phaolô khuyên “Vui lên anh em… Chúa đã đến gần” (Pl 4,4-5) và ngẩng cao đầu đón Chúa vì trong đời thường ta đã quen gặp gỡ Người, đã chuẩn bị kỹ con đường cho Người ngự đến.

Lạy Chúa Giêsu, xin thanh tẩy tâm hồn chúng con theo lòng thương xót của Chúa và xin hãy đến ban ơn cứu độ chúng con. Amen.

 

7. Dọn lòng đón Chúa đến

(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)

Trên vách núi của Chùa Huyền Không Thượng ở Huế có ghi: “Ta còn hơi thở nụ cười, là còn bát ngát một trời hương xuân”. Câu thơ muốn nói lên một thái độ thường hằng và là động lực giúp ta vượt qua bao gian khổ để đi tới phía trước với tất cả niềm hy vọng. Qủa thế, khi chúng ta hy vọng nghĩa là hướng tới một thực tại, một điều gì đó tốt rất xa, có khi vượt qua cái chết và dĩ nhiên hy vọng như thế sẽ chi phối toàn bộ hành động, lời nói, việc làm trong cuộc sống hiện tại của chúng ta để đạt được điều chúng ta đang hy vọng. Vâng, các bài Lời Chúa hôm nay soi sáng cho chúng ta thấy rằng chúng ta có niềm hy vọng rằng hết mọi người phàm sẽ thấy, gặp gỡ và đón nhận ơn cứu độ, là chính Chúa Giêsu đến trong đời mỗi người chúng ta dù chúng ta có bất toàn và bất xứng, dù chúng ta hạnh phúc hay đau khổ, mạnh khỏe hay bệnh tật. Chính vì vậy mà ông Gioan tẩy giả kêu gọi: hãy dọn đường, sửa lối cho thẳng để Chúa đến làm cho đời ta tươi sáng, bình an và hạnh phúc bát ngát một trời hương xuân. 

Lời Chúa mời gọi hãy dọn đường? Đường nào, và dọn bằng cách nào? Đường đó chính là con đường tấm lòng ra cung cách sống của chúng ta, nó bằng phẳng êm đềm (là bình an, sự thánh thiện, sự siêu thoát vật chất) hay quanh co gồ ghề, lồi lõm (là sự buồn bả thất vọng hay tội lỗi). Cho nên, nếu chúng ta đặt tất cả niềm hy vọng vào tiền bạc, danh vọng, dục vọng và quyền lực, chúng ta làm mọi cách dù phải gian xảo mưu mô độc ác gian tà miễn sao có được chúng thế là đủ rồi, còn chuyện sống yêu thương hay sự sống đời sau không quan tâm, tội lỗi mặc kệ. Ngược lại, nếu không có những thứ đó thì mình đau khổ, tủi hổ bực tức khó chịu, chua cay gắt gỏng. Nếu đặt niềm hy vọng vào sức khỏe, trí thức hay nhan sắc, chúng ta tìm mọi cách đạt cho được, không được thì tuyệt vọng.

Đó chỉ là niềm hy vọng của tính xác thịt, của nhục vọng. Chúa nói tất cả những thứ đó không xuất phát từ Thiên Chúa, nhưng xuất phát từ lòng người, từ thế gian, mà thế gian sẽ qua đi cùng với dục vọng của nó, chẳng có gì bền vững. Ngược lại, nếu chúng ta đặt niềm hy vọng vào cuộc sống hiệp nhất và yêu thương, sẻ chia và đồng hành với nhau, xử sự công bằng và đồng tâm xây dựng hạnh phúc bình an cho nhau, thì chắc chắn chúng ta sẽ nhận Chúa làm gia nghiệp và Lời Chúa làm lẽ sống và kim chỉ nam cho mọi lời nói và hành vi luân lý của chúng ta trong đời sống. Cho nên, Thánh Phaolô trong bai đọc 2 khẳng định với chúng ta rằng: “Tôi tin chắc rằng: Đấng đã bắt đầu thực hiện nơi anh chị em một công việc tốt lành như thế, cũng sẽ đưa công việc đó tới chỗ hoàn thành cho đến ngày Đức Ki-tô Giê-su quang lâm. Như thế, anh chị em sẽ đem lại hoa trái dồi dào là sống một đời công chính nhờ Đức Giê-su Ki-tô, để tôn vinh và ngợi khen Thiên Chúa” (Pl 1,6.11).

Chúng ta đã đặt niềm hy vọng vào Chúa và mục đích của chúng ta nhắm đến là Thiên Chúa và sự sống đời sau, hạnh phúc thiên đàng: đúng đấy, đẹp đấy nhưng con đường và phương tiện chúng ta dùng để tới không đúng và hợp với ý Chúa, Lời Chúa và Giáo lý của Hội Thánh. Chẳng hạn, vì cuộc sống vợ chồng tối ngày sào xáo, chửi bới la lối thóa mạ, gây đau khổ cho nhau dù có một hai ba mặt con, thôi ly dị cho rồi, đường ai nấy đi để tìm hạnh phúc khác và đỡ mắc tội Chúa phạt chết, còn con cái ai nuôi cũng được, nếu không thì cho nó vào trung tâm trẻ em đường phố hay vào cô nhi viện của các Bà Sơ là xong. Chúa và Giáo Hội đâu dạy như thế! Rồi chuyện trai gái yêu nhau thời yêu cuồng sống vội, chưa cưới đã sống chung trước, lỡ mang thai, thôi kéo nhau đi phá cái thai lỡ lầm này cho rồi vừa đỡ khổ nhục vừa không bị tai tiếng gì đến bà con, họ hàng hay Đạo hạnh nữa. Chúa và Giáo hội đâu bảo làm thế! Chưa hết, vì chuyện phụng dưỡng ông bà, cha mẹ già bệnh tật mà vợ chồng phải khổ cực, mất giờ, mất tiền, cãi cọ phân bì… thôi gửi ông bà vào viện dưỡng lão có người chăm sóc kỹ hơn; nếu đau nặng nói bác sĩ tiêm một liều thuốc chết êm dịu đỡ kéo dài sự đau khổ ông bà, cha mẹ tội nghiệp. Đó đâu phải là ý Chúa và Giáo Hội dạy! Và cuối cùng, vì thất tình, vì thất bại làm ăn, vì gặp đau khổ thể xác tinh thần bệnh tật triền miên thôi tự tử cho rồi sống chi cho thêm đau lòng. Chúa và Giáo hội đâu cho phép làm thế!

Tất cả những con đường ấy đâu phải con đường của Chúa vì trái với Tin Mừng, không hợp ý Chúa, và cũng chẳng đúng với Giáo huấn của Hội Thánh. Bài đọc hai, Thánh Phaolô nói với chúng ta rằng anh chị em phải có lòng mến trong Chúa Giêsu Kitô, hãy làm việc thiện, ăn ở ngay lành, biết cái gì là tốt hơn nên làm và cái gì xấu nên từ bỏ hay tránh đi để trở nên tinh tuyền, thánh thiện trong mọi việc chúng ta làm. Đó là con đường chắc chắn dẫn ta đến một đời sống công chính nhờ Đức Giêsu Kitô và một lối sống phù hợp với ý Thiên Chúa và Lời Ngài, Ngài sẽ đảm bảo cuộc sống bình an, trường thọ và hạnh phúc đích thực. Cho nên, Lời Chúa của Chúa nhật thứ 2 Mùa Vọng này mời gọi chúng ta dọn đường có nghĩa rằng phải sám hối, thay đổi cái nhìn về tiền của, thay đổi lối cư xử thiếu đạo đức, có cái nhìn khách quan khi các biến cổ xảy đến trong cuộc sống hằng ngày, nhất là luôn hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả để rồi dẫn đến lối sống phù hợp với ý Thiên Chúa và Giáo Hội. Và khi chúng ta chấp nhận san bằng đồi núi kiêu căng, lấp hô sâu tự ái, uốn thẳng tính gian tham và làm sạch tội lỗi trong tâm hồn nhờ cầu nguyện và siêng năng lãnh nhận các Bí tích, nhất là Bí tích Hòa Giải, chắc chắn chúng ta sẽ thấy, gặp và nhận được Chúa nguồn bình an hạnh phúc đích thực ngay trong cuộc đời này và đời sau.

Chúng ta đang sống trong năm phụng vụ với lời mời gọi của Các Đức Giám Mục Việt Nam năm nay: Đồng hành với các gia đình gặp khó khăn. Ước gì Lời Chúa hôm nay thúc đẩy mỗi người trong chúng ta cố gắng sống tâm tình sám hối, sửa lại những tính hư tật xấu từ trong ra ngoài để xứng đáng được ơn cứu độ của Thiên Chúa đến ngự trong tâm hồn của chúng ta làm cho chúng ta hạnh phúc và bình an đồng thời thúc bách chúng ta hăng hái đồng hành sẻ chia, giúp đỡ và an ủi với các gia đình đang sống quanh chúng ta gặp khó khăn, khủng hoảng trong cuộc sống hầu họ cũng được Thiên Chúa đồng hành và ban niềm vui và hy vọng làm cho họ cảm thấy cuộc đời nở hoa chứ không bao giờ bế tắc. Amen.

 

8. Chúa Nhật 2 Mùa Vọng

(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn) 

DỌN ĐƯỜNG ĐÓN LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA ĐẾN

Trên vách núi của Chùa Huyền Không Thượng ở Huế có ghi: “Ta còn hơi thở nụ cười, là còn bát ngát đất trời nguyên xuân”. Câu thơ nói lên tất cả niềm hy vọng, một thái độ thường hằng và là động lực giúp ta vượt qua bao gian khổ để đi tới phía trước. Qủa thế, khi chúng ta hy vọng nghĩa là hướng tới một thực tại, một điều gì đó rất xa, có khi vượt qua cái chết. Và dĩ nhiên nó sẽ chi phối toàn bộ cuộc sống hiện tại của chúng ta. Các bài Lời Chúa hôm nay soi sáng cho chúng ta thấy rằng phải có niềm hy vọng đó là hết mọi người phàm sẽ thấy, gặp gỡ và đón nhận ơn cứu độ, là Lòng Thương Xót của Chúa, là chính Chúa Giêsu đến trong đời chúng ta. Chính vì vậy mà ông Gioan tẩy giả kêu gọi: hãy dọn đường, sửa lối cho thẳng để Lòng Thương Xót Chúa đến làm cho đời ta tươi sáng và bình an.

Con đường đó chính là lối sống của chúng ta, nó bằng phẳng, êm đềm hay quanh co gồ ghề, lồi lõm tùy thuộc vào niềm hy vọng mà chúng ta đang ấp ủ trong tâm hồn. Nếu chúng ta đặt tất cả niềm hy vọng vào tiền bạc, danh vọng và quyền lực thì chúng ta làm mọi cách dù phải gian xảo mưu mô độc ác gian tà miễn sao có được chúng thế là đủ rồi, còn ai sống chết mặc kệ. Đó chỉ là niềm hy vọng của tính xác thịt, của nhục vọng. Chúa nói tất cả những thứ đó không xuất phát từ Thiên Chúa Cha, như xuất phát từ thế gian, mà thế gian sẽ qua đi cùng với dục vọng của nó, chẳng có gì bền vững. Ngược lại, nếu chúng ta đặt niềm hy vọng vào cuộc sống hiệp nhất và thương xót nhau, xử sự công bằng và đồng tâm xây dựng hạnh phúc cho nhau, thì chắc chắn chúng ta sẽ lấy Lời Chúa làm lẽ sống ngay trong cuộc đời mình. Cho nên, Thánh Phaolô trong bai đọc 2 khẳng định với chúng ta rằng: “Như thế, anh em sẽ đem lại hoa trái dồi dào là sống một đời công chính nhờ Đức Giê-su Ki-tô, để tôn vinh và ngợi khen Thiên Chúa” (Pl 1,11).

Nhiều khi chúng ta đặt niềm hy vọng vào Chúa nhưng cuộc sống hiện tại chúng ta đâu phải thế! Mục đích của chúng ta nhắm đến là Thiên Chúa và hạnh phúc thiên đàng: đúng đấy, đẹp đấy nhưng con đường và phương tiện chúng ta dùng để tới không đúng và hợp với ý Chúa. Chẳng hạn, vì cuộc sống vợ chồng tối ngày sào xáo, đánh đập nhau, gây đau khổ nhau dù có một hai mặt con, thôi ly dị cho rồi, đường ai nấy đi để tìm hạnh phúc khác và đỡ mắc tội Chúa phạt chết, còn con cái ai nuôi cũng được, nếu không thì cho nó vào trung tâm trẻ em đường phố hay vào cô nhi viện của các Bà Sơ là xong. Chúa đâu dạy như thế! Rồi chuyện trai gái yêu nhau thời yêu cuồng sống vội, chưa cưới đã mang thai, thôi kéo nhau đi phá cái thai lỡ lầm này cho rồi vừa đỡ khổ nhục sau này vừa không bị tai tiếng gì đến bà con, họ hàng hay đạo hạnh nữa. Giáo hội đâu bảo làm thế! Chưa hết, vì chuyện phụng dưỡng ông bà, cha mẹ già bệnh tật mà vợ chồng phải khổ cực, mất giờ, mất tiền, cãi cọ phân bì… thôi gửi ông bà vào viện dưỡng lão có người chăm sóc kỹ hơn; nếu đau nặng nói bác sĩ tiêm một liều thuốc chết êm dịu đỡ kéo dài sự đau khổ ông bà, cha mẹ tội nghiệp. Đó đâu phải là ý Chúa!

Tất cả những con đường ấy đâu phải con đường của Chúa vì trái với Tin Mừng, không hợp ý Chúa, và cũng chẳng đúng với giáo huấn của Hội Thánh. Bài đọc hai, Thánh Phaolô nói với chúng ta rằng anh em phải có lòng mến trong Chúa Giêsu Kitô, hãy làm việc thiện, ăn ở ngay lành, biết cái gì là tốt hơn nên làm và cái gì xấu nên từ bỏ hay tránh đi để trở nên tinh tuyền, thánh thiện trong mọi việc chúng ta làm. Đó là con đường chắc chắn dẫn ta đến một đời sống công chính nhờ Đức Giêsu Kitô và một lối sống phù hợp với Lời Thiên Chúa, Ngài sẽ đảm bảo cuộc sống trường thọ, thịnh vượng và hạnh phúc đích thực của chúng ta. Cho nên, Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta dọn đường có nghĩa rằng sám hối, thay đổi cái nhìn về tiền của, thay đổi lối cư xử thiếu đạo đức, không có lòng thương xót nhau trong cuộc sống hằng ngày để rồi dẫn đến lối sống phù hợp với ý Chúa, là anh em phải thương xót nhau. Và khi chúng ta chấp nhận san bằng đồi núi kiêu căng, lấp hô sâu tự ái, uốn thẳng tính gian tham và làm sạch đường tội lỗi nhờ cầu nguyện và siêng năng lãnh nhận các Bí tích, nhất là Bí tích Hòa Giải, chắc chắn chúng ta sẽ thấy, gặp và nhận được Lòng Thương Xót của Chúa ngay trong cuộc đời này.

Chúng ta sắp bước vào Năm Thánh Lòng Thương Xót, ước gì Lời Chúa hôm nay thúc đẩy mỗi người trong chúng ta cố gắng sống tâm tình sám hối, sửa lại những tính hư tật xấu từ trong ra ngoài để xứng đáng được ơn cứu độ của Thiên Chúa, Lòng Thương Xót của đến ngự trong tâm hồn của chúng ta trong Mùa Vọng này và Mùa Giáng Sinh sắp đến. Lúc ấy chính Chúa Giêsu Kitô chính là dung nhan Lòng Thương Xót của Thiên Chúa ở cùng chúng ta làm cho chúng ta hạnh phúc và bình an đồng thời thúc bách chúng ta hăng hái ra đi loan báo, sống và làm chứng cho Lòng Thương Xót của Chúa cho mọi người trong xã hội chúng ta biết thương xót nhau. Amen.

 

9. Mở đường để Chúa đến

(Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành)

Tiếp tục chủ đề Tỉnh Thức Chờ Đợi Chúa Đến của Chúa nhật I Mùa Vọng năm C, Lời Chúa của Chúa Nhật hôm nay mời gọi chúng ta: Mở Đường.

Khi đề cập đến sự cần thiết của con đường, người ta thường hay nói: “Đường, trường, trạm”. Thật vậy, con đường rất cần thiết trong cuộc sống. Có con đường thì mới tới được Trường, có con đường thì mới đến được Trạm. Con người muốn gặp gỡ, giao lưu buôn bán với nhau cần có những con đường. Vì vậy, người ta đã tạo ra biết bao con đường: Đường bộ, đường sắt, đường thuỷ, đường không. Đường càng tốt đi lại càng dễ dàng. Đó là những con đường cao tốc: bằng phẳng, thẳng thắn, rộng rãi. Gần đây chúng ta nghe nói tới dự án “Đường bay vàng” từ Hà Nội tới Sài Gòn nhằm đem lại những lợi ích về thời gian và kinh tế.

Từ sự cần thiết của con đường vật chất giúp chúng ta liên tưởng tới sự cần thiết của con đường thiêng liêng, là tâm hồn mỗi người chúng ta. Cũng như con đường vật chất, Chúa muốn chúng ta mở những “Con đường vàng”. Có hai con đường thiêng liêng cần thiết chúng ta cần phải mở. Đó là con đường giữa ta với Chúa và con đường giữa ta với tha nhân. 

Thứ nhất, để Chúa dễ dàng đến với chúng ta và chúng ta dễ dàng đến với Chúa: Cần phải lấp đầy những hố sâu ích kỷ; Phải làm thẳng những lối suy nghĩ quanh co; Phải san phẳng những núi đồi kiêu ngạo; Phải bạt cho thấp những bất công; Phải loại bỏ những thói hư tật xấu. Đó là nội dung lời mời gọi của tác giả sách Barúc và của Gioan Tẩy Giả: “Phải bạt thấp núi cao và gò nổng có tự lâu đời, phải lấp đầy thung lũng cho mặt đất phẳng phiu” (Br 5,7). Và, “Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng”(Lc 3,5). Trong bài đọc II, Thánh Phaolô cũng mời gọi chúng ta trong khi chờ đợi Chúa đến cần phải “Tăng cường lòng mến” và “Không làm gì đáng trách”, Ngài nói: “Điều tôi khẩn khoản nài xin, là cho lòng mến của anh em ngày thêm dồi dào, khiến anh em được ơn hiểu biết và tài trực giác siêu nhiên, để nhận ra cái gì là tốt hơn. Tôi cũng xin cho anh em được nên tinh tuyền và không làm gì đáng trách, trong khi chờ đợi ngày Đức Ki-tô quang lâm”(Pl 1, 9-10). 

Thứ hai, để mở những con đường giữa ta với tha nhân: Cần phải loại bỏ những hận thù ghen ghét, hờn giận; Cần phải bắc những chiếc cầu cảm thông tha thứ, giải toả những hiểu lầm, nghi kỵ: Có thể giữa làng xóm láng giềng với nhau, có thể giữa cha mẹ với con cái, có thể giữa vợ chồng, hoặc giữa anh chị em ruột thịt với nhau. Khi gỡ bỏ được những bức tường ngăn cách đó, chúng ta sẽ gặp được sự bình an và niềm vui. Câu chuyện cảm động sau đây đáng chúng ta suy nghĩ. 

Một thương gia trong một thị trấn nhỏ nọ có hai người con trai sinh đôi. Hai chàng trai cùng làm việc tại cửa hàng của cha mình. Khi ông qua đời, họ thay ông trông coi cửa hàng. Mọi việc đều êm đẹp cho đến một ngày kia, khi một tờ giấy bạc biến mất… Người em đã để tờ giấy bạc đó trên máy đếm tiền rồi đi ra ngoài với khách. Khi quay lại, tờ giấy bạc đã biến mất. Người em hỏi người anh: – “Anh có thấy tờ giấy bạc đâu không?”. – “Không!”, người anh đáp. 

Tuy thế, người em vẫn không ngừng tìm kiếm và gạn hỏi: – “Anh không thể không đụng đến nó. Tờ giấy bạc không thể tự đứng dậy và chạy đi được! Chắc chắn anh phải thấy nó!” Sự buộc tội phảng phất trong giọng nói của người em. Căng thẳng bất đầu tăng lên giữa hai anh em. Sự oán giận cũng theo đó mà len vào. Không lâu sau, một hố ngăn cách gay gắt và sâu thẳm đã chia cách hai chàng trai trẻ. Họ không thèm nói với nhau một lời nào. Cuối cùng không làm chung với nhau, và một bức tường ngăn cách đã được xây ngang giữa cửa hàng. Sự thù địch và oán giận cũng lớn lên tiếp theo 20 năm sau đó, lan đến cả gia đình họ. 

Một ngày nọ, một người đàn ông đỗ xe ngay trước của hàng. Ông bước vào và hỏi người bán hàng: – “Anh đã ở đây bao lâu rồi?”. Người bán hàng đáp rằng anh đã ở đây cả cuộc đời. Vị khách nói tiếp: – “Tôi phải nói với anh điều này 20 năm trước tôi đang đi xe lửa và tạt vào thị trấn này. Lúc đó vì tiền khô cháy túi tôi đã phải chịu đói khát suốt 3 ngày trời. Khi tôi đến đây bằng cửa sau thấy tờ giấy bạc trên máy tính tiền, tôi đã bỏ vào túi mình rồi ra ngoài. Những năm qua tôi không thể quên điều đó. Tôi biết nó không phải là món tiền lớn nhưng tôi phải quay lại đây và xin anh tha thứ lỗi.” Người đàn ông ngạc nhiên khi thấy những giọt nước mắt lăn trên má của người bán hàng trạc tuổi trung niên này. “Ông có vui lòng sang cửa hàng bên và kể lại chuyện này cho người đàn ông trong cửa hàng đó được không”. Anh ta đề nghị. 

Rồi người khách lạ càng ngạc nhiên hơn khi thấy hai người đàn ông trung niên, trông giống nhau, ôm nhau khóc ngay trước cửa hàng. Sau 20 năm, rạn nứt giữa họ đã được hàn gắn. Bức tường thù hận chia cắt hai anh em họ đã được đập bỏ.

Lạy Chúa, xin cho con biết dọn dẹp con đường tâm hồn mình: Lấp đầy những hố sâu, san phẳng những mô cao, uốn thẳng những khúc quanh co, để Chúa dễ dàng đến với con và con dễ dàng đến được với Chúa. Xin cho con biết đập bỏ những bức tường thù hận, ghen ghét, nghi kỵ, biết xây những chiếc cầu yêu thương tha thứ giữa con với anh chị em con. Amen.

 

10. Gioan Tiền Hô

Bên bờ sông Giocđan, Gioan đã chu toàn sứ mạng của mình. Ông đã rao giảng sự sám hối ăn năn, đó chính là điều kiện để được đón nhận vào Nước Trời. Nước Trời hiện giờ là đời sống ân sủng, là trở nên phần tử của Giáo Hội. Còn Nước Trời mai sau chính là niềm hạnh phúc vĩnh cửu.

Gioan đã rao giảng bằng những lời nói đơn sơ, không văn hoa bóng bảy: Hãy sám hối ăn năn vì Nước Trời đã gần đến. Hãy dọn đường cho Chúa: quanh co uốn chon gay, gồ ghề san cho phẳng, hố sâu lấp cho nay và nơi cao phải bạt xuống. Ông không phải chỉ rao giảng bằng lời nói suông, mà còn bằng chính đời sống của mình. Và như vậy, lời nói của ông luôn đi đôi với việc làm. Ông sống, ông làm trước đã, rồi sau đó ông mới giảng, mới dạy, nên lời giảng dạy của ông luôn có một sức lôi cuốn và hấp dẫn.

Thực vậy. Đời sống của ông là một đời sống khắc khổ: Ông mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da thú, ăn châu chấu với mật ong rừng. Thái độ và cung cách của ông là thái độ và cung cách của một kẻ khiêm nhường: Tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Ngài. Ông chỉ biết một việc, đó là tìm mọi cách để làm vinh danh Chúa: Ngài cần phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi. Ông đã sai các môn đệ đến với Chúa Giêsu, có ý cho các ông nhận biết Chúa. Dù các môn đệ có từ bỏ mình mà đi theo Chúa, thì ông cũng không buồn. Chính ông đã giới thiệu Chúa Giêsu cho đám đông: Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian. Và dù dân chúng có tin theo Chúa, thì ông cũng không bao giờ tỏ ra hậm hực và tức tối. Ông sẵn sàng rút vào bóng tối, để Chúa được nhận biết, và ông đã chết một cách đau thương trong ngục tù của vua Hêrôđê.

Sau cùng, đời sống của ông là một đời sống cầu nguyện. Thực vậy, ông đã ở trong hoang địa ngay từ thời còn niên thiếu, để được lắng nghe tiếng Chúa và để được kết hiệp mật thiết với Ngài. Ông đã chu toàn sứ mạng của một vị tiền hô, như lời tiên tri Isaia đã loan báo: Đây ta sai sứ thần của Ta đi trước mặt ngươi, để dọn đường cho ngươi.

Chúng ta cũng vậy. Mỗi người chúng ta cũng phải trở nên một vị tông đồ nhiệt thành, một vị tiền hô hăng hái của Chúa. Cái nguyên tắc hướng dẫn cho mọi hành động của chúng ta, đó là ở mọi nơi và trong mọi lúc, với bất kỳ hoàn cảnh nào, chúng ta cũng hãy tìm vinh danh Chúa và lợi ích của các linh hồn. Vì thế, hãy thực thi tinh thần của Gioan: Ngài can phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi. Hãy làm mọi việc, miễn sao Đức Kitô được rao giảng và được nhận biết.

Muốn chu toàn sứ mạng ấy, thì lời nói mà thôi chưa đủ, chúng ta còn phải sống niềm tin của chúng ta. Hay nói cách khác: Hãy làm rồi mới giảng, như Chúa Giêsu. Ngài đã khởi sự thi hành trước đã, rồi sau đó mới loan truyền, chứ không như bọn biệt phái, đã bị Chúa kết án: Họ nói mà không làm.

Mỗi người chúng ta phải là một Gioan tiền hô của Chúa, thế nhưng chúng ta đã nói gì và nhất là đã làm gì để chuẩn bị cho những người chung quanh đón nhận Chúa? Hay chỉ vì những gương mù gương xấu của chúng ta với một đời sống khô khan và nguội lạnh, đã làm thui chột hạt giống Tin Mừng đã nảy mầm trong cõi long những người anh em.

 

11. Hãy dọn đường Chúa đến

(Suy niệm của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)

Phần đông thế giới đang chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh, các cửa tiệm tràn ngập những thiếp mừng Giáng Sinh, cây thông Giáng sinh bao nhiêu quà Giáng sinh, món ăn, quần áo, đồ chơi Giáng sinh. Ở Việt Nam chúng ta nghèo khó, nhỏ bé, chỉ có hơn 6 triệu dân người Công giáo, thế mà đâu đâu cũng chuẩn bị Giáng sinh, nhiều cửa tiệm đã trình bày đầy dẫy những bông hoa và cây thông tuyệt đẹp, những cây thông giả lấp lánh ánh điện màu, những cành lá xanh tươi, mềm dịu hơn những cây thông thật rất nhiều. Tôi nghĩ những cây thông đó rất đắt tiền, tôi không dám hỏi chỉ đứng ngẩn người chiêm ngắm hồi lâu, rồi đành bỏ đi, lòng trí thầm khao khát có một cây về trưng hang đá.

Các thương gia vì lợi lộc tiền của đã dọn đồ mừng lễ Giáng sinh từ lâu và rất công phu, khó nhọc, còn các con Chúa mang tiếng đạo dòng thì sao?

Tôi tới một số nhà thờ vẫn im lìm, chưa thấy có gì là chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh. Một hai nhà thờ thông báo chương trình Tĩnh tâm Giới trẻ từ ngày 12-15 tiếp theo là gia trưởng, hiền mẫu, bô lão, nghĩa là chỉ chuẩn bị sơ sơ dọn mình mừng lễ Giáng sinh trước một hai tuần. Nhưng phải dọn mừng lễ Giáng sinh thế nào cho xứng đáng, đúng theo Tin Mừng của Chúa hôm nay mà thánh Gioan đã hô hào: “Hãy dọn đường Chúa đến”.

Khung cảnh đế quốc Rôma và đất nước Do thái đã biểu hiện cả thế giới. Thánh Gioan tiền hô đã dấn thân vào đó để hô hào dọn đường cho Chúa Cứu thế đến với nhân loại. Sứ mệnh của ông thật lớn lao, nhưng đầy chông gai khó khăn. Ông đã thấy từ Hoàng đế Tibêriô đến Tổng trấn Philatô, các vua Hêrôđê, Philip, Lyxaria và cả các Thượng tế Hanna, Caipha, đạo cũng như đời, quan cũng như dân, lòng người như những con đường trong hoang địa, đầy những thung lũng hố sâu, những núi đồi hiểm trở, những khúc quanh co, gồ ghề, lồi lõm. Làm sao có thể sửa cho thẳng, lấp cho đầy, bạt cho thấp, uốn cho ngay, san cho phẳng, những con đường đó làm ách tắc giao thông với Thiên Chúa mà còn gây nhiều tai nạn kinh khủng cho con người.

Chúng giống như con đường 13 từ Pleiku về Nha Trang không ai quên được cả một Quân đoàn II thời Cộng hòa đầu năm 1975 đã chạy tháo lui theo con đường đá xuyên qua núi đồi, thung lũng, hố sâu, gồ ghề, quẹo khúc quanh co giữa rừng rậm mịt mù, hàng trăm ngàn người, hàng ngàn xe cộ bít nghẽn kẹt cứng lối đi, hàng chục ngàn người chạy loạn, hỗn độn, xô đẩy, bơ vơ, chết mất xác trên con đường kinh hoàng đó. Con đường chỉ dài gần 200 cây số nếu nó được sửa cho ngay thẳng, lấp cho đầy, bạt cho thấp, uốn cho ngay, san cho phẳng thì đoàn xe, đoàn người đó chỉ mất độ 2-3 giờ là thoát chết mà còn an bình vô sự nữa.

Hình ảnh con đường kinh hoàng ngoài mặt đất phản ảnh con đường bên trong tâm hồn, nó còn kinh hoàng tai hại hơn nhiều như Đức Giêsu đã nói rõ: “Từ lòng con người, phát xuất những ý định xấu như tà đâm, trộm cướp, giết người, ngoại tình tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tị, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng” (Mc.7,21-22). Cho nên thánh Gioan đã khẩn thiết kêu gọi những núi đồi kiêu ngạo phải bạt xuống lòng tham không đáy phải lấp đầy, những gian dối quanh co, phải uốn cho ngay, những chia rẽ hận thù phải san cho an hòa, những bất công gồ ghề phải cho sòng phẳng. “Rồi hết mọi người sẽ được thấy ơn Thiên Chúa cứu độ”. “Những nòi rắn độc hại không thể trốn được cơn thịnh nộ Thiên Chúa sắp giáng xuống, đừng tự phụ mình là con cháu Abraham, cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt, đều bị chặt đi và quăng vào lửa” (Lc. 3, 7-9).

Lời kêu gọi của Thánh Gioan rất cấp bách: Nếu không mau mau dọn đường Chúa đến thì cơn thịnh nộ Thiên Chúa sắp giáng xuống, cái rìu đã đặt sẵn vào gốc cây rồi, nếu biết mau mau dọn đường cho Đấng Cứu thế đến thì mọi người sẽ được ơn cứu độ, “sẽ được cởi bỏ áo tang khổ nhục và muôn đời được mặc lấy ánh huy hoàng của vinh quang Thiên Chúa, sẽ được đội lên đầu vinh quang của Đấng vĩnh cửu..” (Bài đọc I). Đấng mà bao nhiêu tiên tri đã dọn đường cho Ngài đến, Đấng mà dân chúng đã trông chờ hàng ngàn năm rồi và tiên tri Isaia đã hô hào đón rước từ hơn 500 năm trước. Nay Ngài đang đến rồi: thật là một công việc rất vĩ đại sắp xảy ra, thật vinh phúc cho mọi người đang sống mà các tổ phụ, các tiên tri, các ông cha họ khát mong mà không được đón rước. Ngài đã đến rồi, chỉ còn chốc lát nữa Gioan sẽ chỉ cho họ được thấy: “Đây chiên Thiên Chúa, đây Đấng cứu độ trần gian”. Ngài sẽ đến giải phóng cho họ khỏi cảnh đui mù, câm điếc, tàng tật, tê liệt, quỷ ám, khỏi cảnh tối tăm sự chết. “Ngài sẽ dẫn họ đi trong niềm hoan lạc, dưới ánh sáng vinh quang của Chúa, cùng với lòng thương xót và sự công chính của Ngài” (Bài I) 

Lạy Chúa, xin cho tâm hồn con trở nên chính lộ “rộng rãi bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục nhân hậu, từ tâm trung tín, hiền hòa tiết độ” (Gal.5,22-23) mới mong được đón rước Chúa đến.

 

12.        Sám hối canh tân

(Trích trong ‘Như Thầy đã yêu’ – Thiên Phúc)

 

Ðời chiến Quốc, nhà du thuyết Tô Tần sang Nước sở, phải đợi suốt ba ngày mới được vào ra mắt vua Sở. Nói xong câu chuyện, Tô Tần xin cáo biệt đi ngay.

Vua Sở bảo:

  • Quả nhân nghe tiếng tiên sinh quý như nghe tiếng một bậc danh nhân xưa. Nay tiên sinh đã không quản xa xôi, đến chơi với quả nhân, lại không chịu ở lại là cớ làm sao?

Tô Tần thưa:

  • Tôi xem ra thấy nước Sở này có đồ ăn đắt hơn ngọc, củi đắt hơn quế, quan khó được trông thấy như ma, vua khó được yết kiến như trời. Nay nhà vua muốn bắt tôi ở lại để ăn ngọc thổi quế, nhờ ma thấy trời hay sao?

Vua Sở khẩn khoản nói:

  • Xin mời tiên sinh cứ ở lại, quả nhân đã hiểu rõ quá rồi.

Một đất nước mà vật giá đắt đỏ: “Củi quế gạo châu”, vua quan xa cách dân chúng, thì nhân dân trong nước khổ sở biết bao. Cái đáng khen của vua Sở là sau khi nghe Tô Tần bình phẩm về tình hình kinh tế chính trị của đất nước mình, thì ông liền nhận ra sai lầm và quyết tâm sửa chữa.

***

Mỗi lần Mùa Vọng đến, lại có một Tô Tần xuất hiện để vạch ra những lỗi lầm của chúng ta và nhắc chúng ta sám hối canh tân. Ðó chính là Gioan Tẩy Giả: “Có tiếng kêu trong hoang địa. Hãy dọn đường cho Chúa sửa lối cho thẳng để Người đi” (Lc 3,4).

 

Nếu Tô Tần là nhà du thuyết cho nước Sở, thì Gioan chính là ngôn sứ của dân tộc Do Thái. Ông đã thấy các nhân vật đạo đời: Từ hoàng đế Tibêriô đến quan tổng trấn Philatô, từ vua Hêrôđê, Philip, Lyxaria cho đến các vị thượng tế Hanna và Cai pha; lòng người đầy những khúc quanh lồi lõm, thung lũng hố sâu, núi đồi hiểm trở.

 

Gioan nhắc lại lời ngôn sứ Isaia: “Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, p hải san cho phẳng (Lc 3,5). Ông kêu gọi mọi người sửa sang đường sá. Nhưng con đường quan trọng chính là đường vào cõi lòng:

  • Phải lấp cho đầy những hố sâu tham lam ích kỷ hẹp hòi.
  • Phải uốn cho ngay những lối nghĩ quanh co, tính toán lệch lạc.
  • Phải san cho phẳng những núi đồi ngạo nghễ của tự mãn tự kiêu.
  • Phải bạt cho thấp những gồ ghề lồi lõm của bất công, bất chính.

 

Nếu sám hối là dọn đường của lòng mình, thì chúng ta hãy dẹp bỏ những chướng ngại của tâm hồn, để Chúa có thể đến và ngự lại trong đó. Nếu Gioan là ngôn sứ chuẩn bị cho Chúa đến lần đầu, thì chúng ta sẽ là sứ giả chuẩn bị cho Người đến từng ngày trong cuộc sống của anh em. Thiên Chúa chỉ có thể đến gặp con người trên những con đường ngay thẳng, phẳng phiu. Và ơn Cứu Ðộ của Người cũng chỉ ban cho những ai rộng tay đón nhận.

***

Lạy Chúa, thật là khó khi nhận mình lầm lỗi, và cũng không dễ dàng khi phải sửa chữa lỗi lầm. Xin ban cho chúng con ơn sám hối, dám đi đến những hành động cụ thể, và can đảm chấp nhận cắt tỉa đớn đau, để chúng con xứng đáng đón rước Chúa đến mang nguồn vui ơn Cứu Ðộ. Amen.

 

13.        Chúa Nhật 2 Mùa Vọng

      (Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)

 

HÃY DỌN ĐƯỜNG CHO CHÚA NGỰ ĐẾN

 

Tin mừng Lc 3:1-6: Mùa Vọng là mùa mọi người đang chờ đón Chúa đến. Chúa muốn chúng ta hãy đi mở đường cho Chúa. Chúa muốn chúng ta làm chứng cho Chúa. Chúa muốn chúng ta giới thiệu Chúa cho anh em…

 

Hoang địa thường được nhắc đến trong Thánh Kinh. Những cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người thường diễn ra trong hoang địa. Môsê đã phải lẩn trốn vào hoang địa để biết Ý Chúa và nhận lãnh sứ mạng giải phóng dân tộc. Bốn mươi năm trong hoang địa là thời kỳ thanh luyện cần thiết để dân riêng được vào Đất Hứa. Truyền thống đi vào hoang địa đã không ngừng được các tiên tri làm sống lại như một kinh nghiệm cần thiết trước khi thi hành sứ vụ. Nhưng điển hình và mang nhiều ý nghĩa hơn cả vẫn là 40 đêm ngày chay tịnh của Chúa Giêsu trong hoang địa và những đêm cầu nguyện lâu giờ của Ngài trong nơi vắng vẻ.

 

Chính vì thế từ trong hoang địa, thánh Gioan Tẩy Giả không những đã nắm được tiếng Chúa, mà còn can đảm hô lớn cho mọi người được nghe thấy: “hãy dọn đường cho Chúa, hãy sửa đường cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi. Đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, đường gồ ghề hãy san cho bằng.”

 

Hưởng ứng lời kêu mời của thánh Gioan, chúng ta cũng phải sửa lại những con đường trong tâm hồn cho ngay thẳng, sạch đẹp. Nghĩa là tâm hồn ta phải luôn ngay thẳng, chính trực, không quanh co, gian dối, giả tạo… Ngay thẳng là một trong những yếu tố chính yếu của sự công chính, thánh thiện. Thiết tưởng người Kitô hữu cần phải tạo cho mình một tư cách ngay thẳng chính trực, nói hay làm gì cũng phải “công minh chính đại”, không lén út, không quanh co. Tư cách của người Kitô hữu là phải tôn trọng sự thật, nghĩ thế nào, nói thế ấy; “hễ có thì phải nói có, không thì phải nói không, thêm thắt điều gì là do ma quỷ” (Mt 5,37). Nghĩ một đàng nói một nẻo là thói của bọn tiểu nhân, của phường gian ác. Nguyên nhân biến con người thành quanh co, giả hình, mưu mô…chính là tâm địa ích kỷ, nhiều tham vọng, muốn phình to bản ngã. Tâm địa này khiến người ta cố gắng đạt được những điều mình ham muốn như danh vọng, quyền lực, tiền bạc – với bất cứ phương tiện nào, kể cả những phương tiện xấu xa, và bằng bất cứ giá nào, kể cả tội ác. Tệ hơn nữa, nhiều khi chúng ta còn cam tâm hãm hại tha nhân, làm phương hại đến của cải cũng như danh thơm tiếng tốt của người khác. Hủy hoại danh thơm tiếng tốt của người khác, Trời Đất sẽ không dung tha như nhân gian kể lại câu truyện của Tôn Nham như sau:

 

“Lý Thúc Khanh là một vị quan thanh liêm chính trực, nhưng lại bị một đồng sự là Tôn Nham ghen ghét đố kỵ. Nhằm mục đích hủy hoại danh tiết của Lý Thúc Khanh, Tôn Nham đã tung tin đồn rằng: “Lý Thúc Khanh bề ngoài thì có vẻ đạo đức đấy, nhưng tôi thấy ông ta thật không bằng súc vật.” Mọi người hỏi tại sao ông lại có những lời lẽ như thế, thì ông ta ngang nhiên nói rằng: “Lý Thúc Khanh và em vợ có quan hệ bất chính với nhau, thử hỏi ông ta có còn là con người nữa không?” Thế là lời vu khống đã lan truyền đi khắp nơi.

 

Sau khi Lý Thúc Khanh nghe được, ông muốn hỏi em vợ cho ra lẽ nhưng lại không dám, cuối cùng, không hiểu tại sao mình lại bị dèm pha như vậy, nên ông đã chết vì quá uất ức. Về phần người em vợ, khi nghe được lời đồn đại cũng đau khổ khôn xiết, không giải được nỗi oan nên cũng đã thắt cổ tự vẫn. Chỉ vài ngày sau khi hai người mất, trời bỗng nhiên mưa to dữ dội, sấm chớp đùng đùng một cách lạ thường. Tôn Nham đã bị bị sét đánh chết. Ngay cả sau khi được mai táng rồi Tôn Nham vẫn còn bị sét đánh nữa. Mộ phần và quan tài bị sét đánh bật tung ra, thi thể lộ ra ngoài.

 

Chỉ vì sự ghen ghét đã hủy hoại thanh danh của người khác, làm hại đến sinh mạng con người là một tội ác tày trời. Tôn Nham buông lời xấu xa đã làm tổn hại đến danh tiết và sinh mạng của hai người, bị Thiên Thượng trách phạt, vì thế nên Tôn Nham bị sét đánh đến hai lần. Thế nhân hãy lấy đây làm tấm gương cảnh tỉnh bản thân, không được ghen ghét tung tin mê hoặc, hủy hoại danh thơm tiếng tốt của người khác.”

 

Kính thưa cộng đoàn,

Mùa Vọng là mùa mọi người đang chờ đón Chúa đến. Chúa muốn chúng ta hãy đi mở đường cho Chúa. Chúa muốn chúng ta làm chứng cho Chúa. Chúa muốn chúng ta giới thiệu Chúa cho anh em. Nhưng rất nhiều khi, thay vì mở đường cho Chúa, chúng ta lại chỉ lo mở đường cho chính những tham vọng của chúng ta. Rất nhiều khi thay vì làm chứng cho Chúa, chúng ta lại lo làm chứng cho một cái gì đó. Rất nhiều khi thay vì giới thiệu Chúa, chúng ta lại chỉ giới thiệu “cái tôi” của chính bản thân mình.

 

Hôm nay thánh Gioan Tẩy Giả mời gọi chúng ta dọn đường cho Chúa ngự đến: “Hãy dọn đường cho Chúa, hãy sửa đường cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi. Đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, đường gồ ghề hãy san cho bằng.” Amen.

 

14.        Sa mạc

 

Sa mạc vốn là một chủ đề quen thuộc trong Kinh Thánh. Thực vậy, những cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người thường diễn ra trong sa mạc. Maisen phải lẩn trốn vào sa mạc để được nhận biết Chúa và lãnh nhận sứ mạng giải phóng dân tộc. Dân Do Thái đã phải lang thang trong sa mạc suốt 40 năm trời, đây là thời gian thanh luyện cần thiết trước khi được đặt chân vào miền đất hứa. Và điển hình hơn cả đó là 40 đêm ngày trong sa mạc của Chúa Giêsu. Tại đây, Ngài đã ăn chay, cầu nguyện và chịu cám dỗ.

 

Qua phim ảnh, chúng ta thấy sa mạc đồng nghĩa với nắng cháy, nghèo nàn và trơ trụi. Phải chăng có trở nên trống rỗng và nghèo nàn, có trút bỏ bớt đi những cái không cần thiết, chúng ta mới lắng nghe được tiếng Chúa và thanh luyện được niềm tin?

 

Lịch sử Giáo Hội đã chứng minh rằng những cuộc bách hại luôn là yếu tố thanh luyện và canh tân Giáo Hội. Trong thử thách và khổ đau, trong nghèo nàn và trơ trụi, Giáo Hội lại càng vững mạnh hơn. Có trút bỏ được những cái không cần thiết va làm cho vướng mắc thì Giáo Hội mới trở nên sáng suốt và giàu có. Giàu có không do những phương tiện vật chất và các thứ đặc quyền đặc lợi, mà giàu có bởi một niềm tin được tinh luyện và can trường hơn.

 

Từ trong sa mạc, Gioan đã nghe được tiếng Chúa, đã lãnh nhận sứ mạng của ngài và đã loan truyền cho mọi người: Hãy dọn đường Chúa đến, quanh co uốn cho ngay, gồ ghề san cho phẳng, hố sâu lấp cho đầy và nơi cao phải bạt xuống. Lời kêu gọi này, Chúa chẳng những đã ngỏ với đám dân nghèo hèn, thấp cổ bé miệng, mà còn nhắn gởi với cả giai cấp thống trị nữa.

Ngồi tù và cuối cùng bị chém đầu vì dám lên tiếng tố cáo hành vi tội ác của Hêrôđê. Số phận của Gioan cho chúng ta thấy ông đã đi đến tận cùng sứ mạng đã lãnh nhận. Ông đã dám nói thẳng và nói thật bởi vì ông không có gì để tiếc nuối, không có gì để bám víu, không có gì để giữ lấy, không có gì để mất mát.

 

Còn chúng ta thì khác. Chén cơm manh áo hay một ít vinh hoa có thể là động lực thúc đẩy con người thoả hiệp và sống dối trá. Đó cũng có thể là cơn cám dỗ của mỗi người chúng ta trong thời buổi hiện nay. Một ít đặc lợi vật chất, một vài ưu đãi và dễ dãi, đó là miếng mồi ngon khiến nhiều người nếu không bán đứng lương tâm, nếu không uốn cong miệng lưỡi, thì cũng chấp nhận thoả hiệp bằng một thái độ yên lặng.

 

Mùa Vọng là mùa của sa mạc. Có đi vào sa mạc của nghèo khó và siêu thoát, chúng ta mới dễ dàng nhận ra tiếng Chúa. Và có từ sa mạc của nghèo khó và siêu thoát, chúng ta mới có đủ nghị lực để gióng lên tiếng của Chúa: Hãy dọn đường Chúa đến.

 

15.        Chết

 

Chúng ta đang sống trong Mùa Vọng. Mùa Vọng của năm phụng vụ cũng như mùa vọng của cuộc đời chúng ta. Chúng ta không phải chỉ đón nhận việc Chúa đến như một biến cố lịch sử trong đêm Giáng sinh, cũng không phải chỉ đón nhận việc Ngài đến mỗi lần chúng ta lên rước lễ, mà đặc biệt là còn đón nhận việc Ngài đến vào ngày cuối cùng của cuộc đời chúng ta, cũng như vào ngày sau hết của vũ trụ vật chất này. Vậy để đón mừng Chúa đến, chúng ta đã chuẩn bị như thế nào?

 

Chúng ta nên thực thi sứ điệp Gioan Tiền Hô đã gởi đến cho người Do Thái bên bờ sông Giócđan, đó là hãy ăn năn sám hối, từ bỏ con đường tội lỗi để quay trở về cùng Chúa. Ông đã thẳng thắn cảnh cáo họ: Hãy sinh hoa trái tốt lành để chứng tỏ cõi lòng sám hối của các ngươi, bằng không thì này đây cái rìu đã được đặt dưới gốc cây. Và cây nào không sinh trái tốt thì sẽ bị chặt và ném vào lửa.

 

Chúng ta hãy nghiêm chỉnh tự vấn lương tâm xem: nếu như lúc này Chúa đến với tôi, thì liệu tôi có sẵn sàng để trình diện, để tính sổ cuộc đời với Ngài hay không?

 

Có một cậu bé 17 tuổi, người Hoà Lan, đã từng trốn khỏi trại tập trung của Đức Quốc Xã hồi thế chiến lần thứ II, nhưng rồi cậu bị bắt trở lại và bị kết án tử hình. Ngay trước khi bị hành quyết, cậu đã gởi cho bố cậu lá thư như thế này:

 

“Thưa bố quý yêu!

Thật là khó khăn lắm con mới viết được những hàng chữ này cho bố, để báo tin rằng con đã bị toà án quân sự kết tội tử hình. Xin bố đọc lá thư này một mình và khéo léo báo cho mẹ biết giùm con. Chẳng bao lâu nữa, điều đó sẽ xảy đến với con. Và chỉ trong thoáng chốc, thế là con sẽ về với Chúa. Nói cho cùng đấy có phải là một cuộc chuyển tiếp đáng kinh hãi hay không? Con cảm thấy rõ ràng mình đang ở gần bên Chúa. Con đã chuẩn bị mọi sự cần thiết để đón chờ cái chết. Con nghĩ rằng con sẽ đỡ đau khổ hơn bố nhiều vì con biết rằng mình đã xưng thú hết mọi tội lỗi và hiện tâm hồn con hoàn toàn thanh thản.

Con của bố”.

 

Ước chi vào những giây phút cuối cùng của cuộc đời, chúng ta cũng nói lên được như vậy. Mùa Vọng là thời gian thuận tiện để chúng ta chuẩn bị những hành trang cần thiết cho cuộc gặp gỡ định mệnh với Chúa. Thế nhưng cho đến lúc này, chúng ta đã làm được những gì để chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ định mạng ấy.

 

16.        Chúa Nhật 2 Mùa Vọng

(Suy niệm của Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng)

 

SỨ ĐIỆP CỦA GIOAN TẨY GIẢ

 

Tin mừng Lc 3:1-6: Bản văn Tin Mừng ghi lại ơn gọi của Gioan và sứ điệp ông muốn gửi đến cho dân chúng.

 

Khuôn mặt Gioan Tẩy giả nổi bật trong thời gian Mùa Vọng, vì ông là vị Tiên Tri cuối cùng của Cựu Ước. Ông không chỉ loan báo mà con chứng kiến sự khởi đầu sứ vụ của Chúa Giêsu và giới thiệu Ngài là Đấng Cứu Độ cho mọi người. Hoạt động của Gioan trong một bối cảnh lịch sử không gian, thời gian cụ thể căn cứ vào vị Hoàng đế bá chủ hoàn cầu lúc bấy giờ là César, như là một sự kiện cho thấy tính phổ quát của Tin Mừng được Gioan loan báo. Bản văn Tin Mừng ghi lại ơn gọi của Gioan và sứ điệp ông muốn gửi đến cho dân chúng.

 

  1. Tìm hiểu Lời Chúa: Lc 3, 1-6

Thánh Luca đưa chúng ta tham dự vào sự khởi đầu sứ mạng của Gioan Tẩy Giả tại sông Giođan: Gioan, quả nhiên, đã được trao sứ mạng chuẩn bị cho đồng bào của mình đón Đấng Messia sắp ngự đến.

 

Trước hết, bằng sự am hiểu lịch sử, Luca tham chiếu nhiều đến các dữ liệu lịch sử đương thời cả đạo lẫn đời “thời Hoàng Đế Tibêriô năm thứ 15, Philatô làm Toàn Quyền xứ Giudêa, Hêrôđê làm Thủ Hiến xứ Galilêa… Anna và Caipha là Thượng Tế…” cho thấy sứ mạng của Gioan và của Chúa Giêsu không phải chỉ dành riêng cho dân Do Thái mà còn cho mọi dân tộc cả đạo lẫn đời. Tất cả các nhân vật lịch sử này đều liên quan đến cuộc đời Chúa Cứu thế sau này…Luca quan tâm ghi các mốc thời gian đương thời để đánh dấu việc khởi đầu sứ vụ của Gioan Tẩy Giả và sự xuất hiện công khai của Đức Giêsu Kitô. Khi đánh dấu thời gian xuất hiện của Gioan và của Đức Giêsu Kitô với các Vua và Thượng Tế bấy giờ, Luca muốn xác định thời gian của hai sự xuất hiện này trong lịch sử trần thế. Tất nhiên, khi đưa những mốc thời gian sử liệu, Luca không chú tâm đến lịch sử trần thế mà chủ đích là muốn lồng lịch sử này vào trong lịch sử Cứu độ.

 

Tiếp theo, Luca trình bày vắn tắt tổng quát về lời rao giảng sám hối của Gioan. Sứ mạng của Gioan Tẩy Giả bắt đầu tạo nên một giai đoạn chuẩn bị cận kề vì Đấng Cứu Thế đã đến. Lấy lại lời Tiên tri Isaia loan báo, Luca minh chứng Gioan xuất hiện là giai đoạn cuối cùng của Cựu ước. Giai đoạn này, Dân Chúa được kêu gọi trở về với Thiên Chúa của mình trong tinh thần sám hối và khiêm nhường. Sứ mạng của Gioan là loan báo lần cuối cùng về ơn Cứu độ của Thiên Chúa và bắt nối vào Đức Giêsu Kitô, Đấng đến thực hiện ơn Cứu độ.

 

Trong bối cảnh mùa vọng, Bản văn này được chọn đọc nhằm mục đích cho thấy rõ điều thiết yếu trong nỗ lực sống đức tin của Kitô hữu là phải khai mở trong tâm hồn một con đường cho Vương quốc của Đấng Cứu Thế ngự đến. Khai mở bằng việc chỉnh sửa lại ý hướng bản thân, bằng việc quyết tâm chống lại những tính hư tật xấu, và bằng việc chấm dứt những mối bất hòa với anh em.

 

  1. Gợi ý sống Lời Chúa
  2. Từ Gioan Tẩy Giả đến Kitô hữu ngày nay, cùng chia sẻ một sứ mạng:

Gioan Tẩy Giả có sứ mạng chuẩn bị dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến với dân Ngài. Sứ mạng của ông gắn liền với một bối cảnh lịch sử cụ thể như Thánh Sử Luca đã tỉ mỉ ghi lại những dữ liệu lịch sử, mốc thời gian mà Gioan Tẩy Giả xuất hiện. Chắn chắn không phải là việc thừa thãi khi Luca cố ý ghi lại những nhân vật lịch sử, mốc thời gian: “Đời Hoàng Đế Tibêriô năm thứ 15, Phongxilô Philatô làm Tổng trấn xứ Giuđêa… có lời Chúa đã kêu gọi Gioan, con Giacaria, trong hoang địa”. Chúa kêu gọi một con người gắn liền với một không gian, thời gian cụ thể để làm một việc Chúa muốn trong chương trình Cứu độ của Ngài, chương trình trải dài suốt lịch sử nhân loại này. Từng thời gian, từng không gian Chúa sẽ chọn gọi những người Chúa muốn để loan báo sứ điệp Cứu độ của Ngài cho mọi người. Nói cách khác, Gioan đã chấm dứt sứ mạng của mình cách tốt đẹp. Ngày nay, sứ mạng đó lại được tiếp nối qua ơn gọi Kitô hữu của mỗi người. Chúng ta không phải là những người của quá khứ, cũng không phải là những người được chọn cho tương lai mà là những con người của ngày hôm nay. Những Kitô hữu của Việt Nam, thời thế kỷ thứ XXI, sống trong đất nước Xã Hội Chủ Nghĩa… Thiên Chúa đã muốn như thế. Ngài đã chọn mỗi người chúng ta là những Gioan Tẩy Giả cho ngày hôm nay, cho những anh chị em thời đại của mình, nơi chốn của mình.

 

Như thế, trách nhiệm của mỗi Kitô hữu là phải xây dựng niềm tin và ý thức sứ mạng: mỗi tín hữu là một Gioan Tẩy Giả được sai đến trong gia đình, xứ đạo và môi trường xã hội của mình. Từ đó, biết mình phải làm gì, nói gì? để chuẩn bị cho anh chị em chung quanh biết đón nhận Chúa. Để Thực Sự là Gioan Tẩy Giả chính bản thân phải biết hối cải và sống niềm hy vọng chờ đón Chúa. Cần phải chuẩn bị thích đáng cho vai trò Tiền hô của mình. Chuẩn bị bằng mọi cách: từ cách mạng thông tin, đấu tranh chống khủng bố, ủng hộ phong trào hoà bình, đến xây dựng nền văn minh sự sống để chờ Chúa đến.

 

  1. Sứ điệp của Gioan Tẩy Giả, một thông điệp thời sự cho Kitô hữu ngày nay:

Gioan kêu gọi mọi người sám hối, dọn đường cho Chúa ngự đến. Sứ mạng của ông đã kết thúc khi Đức Giêsu Kitô xuất hiện công khai để loan báo Tin Mừng, thực hiện công trình cứu độ. Gioan là Tiên tri cuối cùng của Cựu ước, là bản lề nối thời Cựu ước với Tân ước, nhưng không vì thế mà sứ điệp của ông không còn gia trị nữ. Đành rằng ngày nay, Đức Giêsu Kitô đã hoàn tất công trình cứu độ của Ngài, ơn cứu độ đã tuôn đổ cho nhân loại, nhưng để đón nhận được ơn cứu độ thì chính mỗi người phải biết chuẩn bị tâm hồn để lãnh nhận. Trên bình diện cá nhân cũng như trên bình diện xã hội ngày nay, Thiên Chúa muốn đến với con người, đến giữa lòng nhân loại cũng vẫn đang phải đi vào những con đường quanh co khúc khuỷu của lòng người thâm hiểm, những con đường đầy vực thẳm hố sâu của tệ nạn xã hội, những con đường cụt không lối ra của lòng hận thù, chiến tranh và bạo lực trong thế giới. Cho nên, sứ điệp của Gioan vẫn còn đó tính thời sự của nó. Con người và xã hội hôm nay rất cần phải dọn đường để Chúa ngự đến. Dọn từ tâm hồn mỗi người cho đến toàn xã hội. Bên cạnh đó, tuy dẫu ơn Cứu độ của Chúa đã được thực hiện, đã được trao ban nhưng vẫn còn rất nhiều người, nhiều nơi chưa được thấy.

 

Nhận ra tính thời sự trong sứ điệp của Gioan tẩy Giả sẽ giúp mỗi người sống mùa vọng này ý nghĩa hơn thiết thực hơn. Mùa vọng không chỉ là khoảng thời gian trong chu kỳ của niên lịch phụng vụ, đến hẹn lại lên để rồi làm mọi sự như một thói quen máy móc, thành một nếp sống nhàm chán. Nhưng nhờ đó, sống tích cực hơn, mùa vọng sẽ như làm một điểm mốc để kiểm điểm bản thân, làm mới lại sức sống đức tin; mùa vọng sẽ như là một dấu nhấn để can đảm dấn bước lên đường và mùa vọng sẽ như là một cánh cửa hy vọng mở ra một giai đoạn mới trong hành trình đức tin.

 

  1. Canh tân cuộc sống theo lời Gioan Tẩy Giả, một đòi hỏi khần thiết:

Gioan tẩy Giả kêu gọi sám hối canh tân cuộc sống để chuẩn bị đón Chúa, nhưng bây giờ Chúa đã đến rồi, ơn cứu độ đã trao ban rồi. Mùa vọng chỉ là thời gian nhắc nhớ đến việc Chúa đến lần thứ nhất để hướng lòng chờ đón Chúa đến lần thứ hai. Vậy thì không còn thời gian để lần lữa, để trì hoãn hay để chuẩn bị mà bây giờ là thời gian dứt khoát đón nhận hay không đón nhận Chúa và ơn cứu độ của Ngài. Chính vì thế, lời mời gọi sám hối, canh tân cuộc sống là một đòi hỏi khẩn thiết. Chúa đã đến nhà và Ngài đang đứng gõ cửa chờ đợi mỗi người mở cửa để Ngài vào. ‘Hãy lấp mọi hố sâu, hãy san mọi núi đồi, sám hối canh tân là một đòi hỏi của lòng trong sạch, phải loại bỏ mọi tư tưởng tội lỗi xấu sa thấp hèn, mọi dục vọng bất chính. Chính chúng là cội rễ của mọi tính hư tật xấu: kiêu ngạo, ích kỷ, ghen tuông, hung hăng, bạo lực… Đức Kitô không thoả hiệp với sữ xấu, không ở chung với chúng. ‘Con đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng’, sám hối canh tân là một đòi hỏi về sự công chính, sự công chính trong chiều cao đối với Thiên Chúa, Đấng Tạo Dựng và là Chủ tể muôn vật; là Cha đầy lòng nhân từ, chúng ta sống công chính với Ngài khi tôn thờ và đón nhận Ngài với tất cả tình yêu mến. Sự công chính trong chiều ngang đối với anh chị em, họ là những người cùng chung sống, cùng đồng hành với chúng ta. Biết bao người anh chị em của chúng ta đang lâm vào cảnh bất hạnh, khó nghèo, mồ côi. Sống công chính với họ là chúng ta phải biết yêu thương cảm thông và làm sao mang lại cho họ phẩm giá và sự giải thoát, làm sao chia sẻ cho họ hạnh phúc của mình. ‘ Con đường gồ ghề hãy san cho bằng”, sám hối canh tân là một đòi hỏi về đời sống nội tâm. Tâm hồn chúng ta gồ ghề bởi biết bao những chi phối, lo toan của cuộc sống hàng ngày. Cơm áo gạo tiền, danh vọng, quyền lợi… chiếm hữu tất cả tâm trí, tình cảm của cá nhân, khiến cho tâm hồn không còn chỗ cho Chúa nữa. Chúa đã đến, chúng ta phải liên kết chặt chẽ với Ngài. Trong tâm khảm phải níu giữ Lời Ngài, trong cuộc sống phải thực thi Lời Ngài.

 

III. Lời Cầu Chung

* Lời Mở: Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu Kitô đã đến để ban tặng cho chúng ta hồng ân cứu độ. Trong tâm tình chúc tụng, ngợi khen Chúa, chúng ta cùng dâng lời nguyện xin.

 

  1. Hội Thánh có sứ mạng loan báo Tin mừng cứu độ. Chúng ta cùng cầu xin cho mọi thành phần Hội Thánh luôn biết đồng hành, hiện diện với con người và xã hội hôm nay để làm cho thế giới này ngày càng phát triển những gía trị Tin Mừng.
  2. Chúa đã đến hơn hai ngàn năm qua nhưng thế giới ngày này vẫn còn biết bao nhiêu tệ nạn xã hội, chiến tranh, hận thù và bất công. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các nhà lãnh đạo các quốc gia luôn biết đối thoại, cộng tác với nhau xây dựng một thế giới văn minh, hòa bình và tràn đầy tình người.
  3. Hãy dọn đường Chúa cho ngay thẳng. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta, đặc biệt trong năm thánh Giáo Hội Việt Nam được tràn đầy ơn Chúa Thánh Thần để ai nấy biết nỗ lực canh tân đổi mới cuộc sống theo những giá trị của Tin Mừng.

 

* Kết Nguyện: Lạy Thiên Chúa là Cha đầy lòng thương xót, Chúa đã yêu thương cho Con Một của Ngài là Đức Giêsu Kitô đến để cứu độ, giải thoát chúng con khỏi kiếp nô lệ cho tọi lỗi, ma quỉ và sự chết. Xin thương đoái nhận những ý nguyện chân thành của chúng con, cho chúng con biết dọn mình sẵn sàng đón chờ ngày Đức Kitô ngự đến trong vinh quang. Người là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.

 

17.        Sa mạc

 

Thomas Morton là một tiểu thuyết gia nổi tiếng. Mặc dù theo Anh giáo, nhưng khi còn trẻ, chàng đã sống như một kẻ vô thần. Sau khi trở lại, chàng đã vào dòng khổ tu. Chàng đã ghi lại biến cố làm đảo lộn cuộc đời chàng như sau:

 

Hôm đó tình cờ tôi bước chân vào một nhà thờ Công giáo. Điều đầu tiên lôi kéo sự chú ý của tôi đó là một cô gái duyên dáng đang quỳ cầu nguyện một cách sốt sắng, không để ý tới những gì xảy ra chung quanh. Tôi tự hỏi: Tại sao một thiếu nữ trẻ đẹp lại có thể quỳ cầu nguyện trong một ngôi thánh đường lặng lẽ, một cách hết sức tự nhiên và say đắm như thể bị hút hồn?

 

Dĩ nhiên cô gái vào nhà thờ không phải là để cho người ta nhìn ngắm, mà là để cầu nguyện và chỉ để cầu nguyện mà thôi. Cuộc gặp gỡ thân tình của cô gái với Thiên Chúa trong khung cảnh vắng lặng ấy đã là một trong những yếu tố dẫn đưa tôi đến chỗ gặp Chúa và theo đạo sau này.

 

Ngôi thánh đường, trong bầu khí trang nghiêm và thinh lặng ấy, phải chăng là hình ảnh của một sa mạc, nơi con người có thể gặp gỡ và sống thân mật với Thiên Chúa giữa dòng chảy của một cuộc đời nhiều bon chen và dao động này. Thực vậy, theo Kinh Thánh sa mạc vừa là nơi con người chịu thử thách, vừa là nơi con người gặp gỡ Thiên Chúa. Như chúng ta thường thấy: sa mạc thì khô cằn sỏi đá. Ban ngày thì nắng cháy, còn ban đêm thì lạnh buốt.

 

Đó chính là hình ảnh cuộc sống của con người không có bóng dáng và sự hiện diện của Thiên Chúa. Giữa cảnh hoang vu của cát đá, con người đói khát và lạc hướng. Thảm trạng ấy sẽ giúp con người ý thức được cái bé bỏng của thân phận, cái vô nghĩa của đời mình, bởi vì con người là gì nếu không phải chỉ là cát bụi. Nhận thức này sẽ giúp chúng ta từ bỏ mọi ý nghĩ kiêu căng và ngạo mạn, đồng thời mở rộng tâm hồn mình cho ơn sủng của Chúa hoạt động.

 

Đường vào sa mạc như thế là con đường dẫn đưa con người đến điểm hẹn, gặp gỡ với Thiên Chúa và đón nhận những ơn phúc của Ngài. Trong cuộc sống thiêng liêng, càng biết vào sa mạc, nghĩa là càng sống thinh lặng và cầu nguyện, thì càng cảm nghiệm được sự gặp gỡ với Thiên Chúa một cách mật thiết và gắn bó hơn.

 

Dân Do Thái đã phải lang thang trong sa mạc suốt bốn mươi năm trời. Trong thời gian này, họ đã phải gặp nhiều thử thách, nhưng cũng đã được chứng kiến biết bao việc kỳ diệu Thiên Chúa đã làm vì yêu thương họ.

 

Chúa Giêsu trước khi bắt đầu cuộc sống công khai, cũng đã vào sa mạc suốt bốn mươi đêm ngày. Và Phúc âm đã ghi nhận trong thời gian này, Ngài đã ăn chay, cầu nguyện và chịu cám dỗ.

 

Còn chúng ta thì sao? Giữa những bon chen của cuộc sống, chúng ta có biết vào sa mạc, có biết dành lấy những giây phút thinh lặng để thực sự cầu nguyện, gặp gỡ và kết hiệp mật thiết với Chúa hay không?

 

18.        Tiếng kêu trong sa mạc

(Suy niệm của Lm. Phanxicô Xavie Lê Văn Nhạc)

 

Tin mừng Lc 3:1-6: Tin Mừng hôm nay kêu gọi chúng ta hãy cày xới và vun trồng cho sa mạc tâm hồn chúng ta nở hoa đón mừng Chúa Cứu Thế: “Có tiếng kêu trong sa mạc: ‘Hãy dọn đường cho Chúa, sửa lối cho thẳng để Ngài đi”.

Một mẩu chuyện của người Phi Châu kể lại rằng: Một người Ả-Rập sống ở sa mạc có thói quen nằm sát xuống đất, úp tai trên cát từng giờ lâu. Có người hỏi tại sao làm thế. Anh ta giải thích như sau: “Tôi nghe sa mạc khóc vì nó rất muốn được làm một ngôi vườn xinh tươi”.

 

Sa mạc mong mỏi được trở thành ngôi vườn, cũng vậy tâm hồn con người luôn hướng về điều thiện. Khoảng cách giữa sa mạc và ngôi vườn xinh tươi đó là nước non, điều kiện thời tiết và nhất là công lao của con người. Không có sự chăm sóc của con người, sa mạc vẫn tiếp tục là bãi cát khô cằn. Cõi lòng con người cũng sẽ mãi mãi là một sa mạc cằn cỗi nếu nó không được vun xới và tưới bằng cố gắng, phấn đấu, hy sinh và tình yêu. Phải tốn biết bao là kiên nhẫn, biết bao chống đỡ, biết bao cương nghị, biết bao mồ hôi… để biến sa mạc của tâm hồn thành một khu vườn tươi tốt… Sa mạc tâm hồn của chúng ta sẽ khóc mãi nếu chúng ta không ra tay cày xới và vun trồng mỗi ngày.

 

Tin Mừng hôm nay kêu gọi chúng ta hãy cày xới và vun trồng cho sa mạc tâm hồn chúng ta nở hoa đón mừng Chúa Cứu Thế: “Có tiếng kêu trong sa mạc: ‘Hãy dọn đường cho Chúa, sửa lối cho thẳng để Ngài đi”. Đó là tiếng kêu của Gioan Tiền Hô. Là tiếng kêu trong sa mạc, Gioan không thể vắng bóng trong Mùa Vọng Giáng Sinh, vì đời sống của Gioan đã gắn liền với đời sống của Chúa Cứu Thế như “tiếng kêu” gắn liền với Đấng là “Lời của Thiên Chúa“. Đàng khác, đời sống của vị Tiền Hô chỉ có lý do khi có Đấng Cứu Thế xuất hiện phía sau; và đời sống của vị Tẩy Giả làm phép rửa sám hối chỉ có ý nghĩa khi có Chúa Giêsu, Đấng sáng lập bí tích Thánh Tẩy để tha tội.

 

Từ ngàn xưa, Thiên Chúa đã làm xuất phát những tiếng kêu qua các Ngôn Sứ trong Cựu Ước để tiên báo Đấng Thiên Sai Cứu Thế sẽ đến. Là Ngôn Sứ cuối cùng của Cựu Ước, tiếng kêu của Gioan Tiền Hô đã đúc kết, tổng hợp mọi tiếng kêu của các Ngôn Sứ khác, như tiếng kêu của Isaia, tiếng kêu của Êlia, tiếng kêu của Giêrêmia, của Barúc (Bđ.1). Chính vì vậy “Tiếng kêu trong sa mạc” là tên gọi của Gioan, một tên rất mông lung, có vẻ vô danh, nhưng lại rất súc tích: “Hãy dọn đường cho Chúa, sửa lối cho thẳng để Ngài đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng. Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn Thiên Chúa cứu độ”.

 

Thưa anh chị em,

Ngày nay, khi nói “Tiếng kêu trong sa mạc”, người ta thường hiểu là tiếng kêu vô ích, lời hô hào không được ai hưởng ứng, không được đón nghe. Nhưng tiếng Gioan đã kêu lên trong sa mạc không phải là “tiếng kêu trong sa mạc” theo nghĩa đó. Trái lại, tiếng kêu ấy đã lôi kéo đủ thứ mọi hạng người từ khắp sứ Palestine đến với Gioan trên bờ sông Giođan. Tiếng ấy mặc dù kêu lên trong sa mạc nhưng đã vang vọng tới tận thủ đô Giêrusalem và một phái đoàn chính thức đã được các vị lãnh đạo tôn giáo sai đến chất vấn Gioan tận nơi sa mạc.

 

Tiếng kêu của Gioan không vô ích và cũng không lỗi thời, vì ngày nay, sau gần 2000 năm, tiếng kêu ấy vẫn còn tác động mạnh mẽ trong lòng nhiều người. Những điều xưa kia Gioan nói với dân chúng, hiện nay vẫn còn hợp thời, vẫn còn có giá trị. Và trong thực tế, ở khắp nơi trên thế giới, bao lâu hỗn loạn, tranh chấp, hận thù vẫn còn thì công cuộc dọn đường cho Chúa đến vẫn còn cấp bách. Như vậy, tiếng kêu của Gioan vẫn mãi mãi cần thiết để con người thay đổi đời sống cho tốt đẹp hơn.

 

Mỗi Mùa Vọng, tiếng kêu của Gioan trong sa mạc lại lay động, thức tỉnh chúng ta; đặt chúng ta đối diện trước một số vấn đề thuộc phạm vi lương tâm và công bình xã hội, để chúng ta xét mình, kiểm điểm nếp sống, để cải thiện đời sống mỗi ngày thêm trọn hảo, để dọn đường tâm hồn chúng ta cho Chúa Cứu Thế ngự đến. Tuy nhiên, đối với một số người, tiếng kêu của Gioan đã trở thành thực sự là “tiếng kêu trong sa mạc”, không được họ lắng nghe và hưởng ứng; bởi vì lòng họ là những đô thị ồn ào, nhộn nhịp, hỗn độn, ô nhiễm…, lòng họ thiếu sự thanh vắng, cô tịch của sa mạc, nên họ không nghe được tiếng kêu của Gioan: hãy dọn đường cho Chúa. Tiếng kêu của Gioan không gặp được một âm vang nào trong lòng họ, hoặc có đi nữa thì cũng chỉ là nhất thời và hời hợt như “hạt giống rơi vào bụi gai” mà Chúa đã giải thích là “những hạng người nghe lời Chúa, rồi bị những mối bồn chồn lo lắng, đam mê khoái lạc trên đời làm nghẽn đi mà không sinh hoa kết quả được” (Mt 13,18-23).

 

Vì vậy, muốn nghe được tiếng kêu của Gioan Tiền Hô thì phải tạo cho lòng mình trở nên sa mạc. Sa mạc là nơi thuận tiện cho cuộc hẹn hò gặp gỡ thân tình để nghe rõ tiếng Chúa hơn và để nhận lãnh sứ mạng của mình. Như ngôn sứ Hôsê đã viết: “Thiên Chúa sẽ dẫn đưa Israen vào sa mạc, vào nơi thanh vắng, để ở đó, lòng kề lòng, Ta sẽ tâm tình với nó” (Hs 2,16). Ở sa mạc Sahara ngày nay, người ta vẫn còn thấy có những cộng đoàn tu sĩ, như các Tiểu đệ, Tiểu muội Chúa Giêsu, theo tinh thần Cha Charles de Foucauld, các tu sĩ ấy dù ở đâu cũng phải qua một thời gian tu luyện sống với Chúa, lắng nghe tiếng Chúa gọi giữa sa mạc, giữa cảnh cô tịch, nghèo khó, để sau khi đã có kinh nghiệm cụ thể về sa mạc các tu sĩ ấy có thể tạo cho lòng mình trở nên sa mạc trong khi dấn thân phục vụ con người ở giữa lòng đời. Đó chính là công việc vun xới cho sa mạc nở hoa đón mừng Chúa Cứu Thế.

 

Anh chị em thân mến,

Chúng ta không đi vào sa mạc như các tu sĩ Tiểu đệ, Tiểu muội của Chúa Giêsu được, nhưng chúng ta cần phải tạo cho lòng mình trở thành một sa mạc, một nơi trầm lặng, yên tĩnh, bình an, để dễ dàng lắng nghe tiếng Chúa mời gọi giữa cuộc sống ồn ào, nhộn nhịp, bề bộn, căng thẳng nầy. Có nghe được tiếng Chúa nói qua tiếng kêu của Gioan Tiền Hô hôm nay, chúng ta mới bắt tay vào việc dọn đường tâm hồn chúng ta cho Chúa ngự đến: Phải sửa lại đường xưa lối cũ, uốn nắn cho ngay thẳng những lối đi quanh co theo sở thích trái chướng của mình, lúc thế này khi thế khác… Phải trung thành trước sau như một, thi hành mọi đòi hỏi của Tin Mừng. Mọi gồ ghề ngăn trở các quan hệ tốt đẹp với Thiên Chúa, với tha nhân, phải bạt xuống và san phẳng đi, để tình Chúa, tình người đến với hết mọi người. Có như vậy, xã hội mới dần dần trở thành huynh đệ hơn, tốt đẹp hơn, sẵn sàng cho Chúa đến, rồi cuối cùng như Gioan loan báo: “Hết mọi người phàm sẽ thấy ơn Thiên Chúa cứu độ”.

 

19.        Chúa Nhật 2 Mùa Vọng

(Suy niệm của Nguyễn Hiếu)

 

MỌI NGƯỜI SẼ THẤY ƠN CỨU ĐỘ CỦA THIÊN CHÚA

MINH HỌA LỜI CHÚA

 

  1. Điều gì thúc đẩy tôi?

Theo truyền thuyết, lúc nhà danh họa Leonardo da Vinci vẽ bức tranh “Bữa Tiệc ly” của Chúa Giêsu, ông có việc cải vã với một người và đi đến xô xát nhau. Sau đó, ông vào phòng làm việc, cầm cọ lên định vẽ gương mặt của Chúa, nhưng ông không phác họa được nét nào. Ngồi mãi không vẽ được, buộc lòng ông phải quyết định làm một việc mà ông tin chắc nó sẽ giúp ông vẽ được gương mặt Chúa… Ông đặt cọ xuống, đi thẳng đến gặp người ông vừa ẩu đả và làm hòa. Sau đó, ông trở lại phòng làm việc, và vẽ được gương mặt Chúa dễ dàng.

***

Có bao giờ tôi trải qua một kinh nghiệm như ông Leonardo không? Điều gì thúc đẩy tôi thống hối tội lỗi? Điều khiến tôi thống hối tội lỗi, không những vì tội lỗi đưa đến hỏa ngục, mà nhất là vì tội lỗi ngăn cản Chúa đến với tôi, không thể đem ơn cứu rỗi cho tôi và mọi người cũng như ngăn cấm ông Leanardo vẽ gương mặt Chúa. (Theo “Vision 2000”). Trong mùa Vọng, thánh Gioan Tiền hô mời gọi chúng ta dọn đường cho Chúa đến: “Mọi thung lũng phải lấp cho đầy, mọi núi đồi phải bạt xuống thắp…” Thung lũng, núi đồi chính là tội lỗi chúng ta. Chúng ta phải lo sám hối ăn năn, để dọn đường cho Chúa đến cứu thoát chúng ta và mọi người.

 

  1. Cú sút này sẽ trật đích

Một buổi chiều Chúa nhật, hàng triệu người Mỹ đang theo dõi truyền hình trận tranh giải toàn quốc môn Golf. Vào một phút gay go, máy thu hình tập trung vào cầu thủ Jack Nicklaus. Anh đang giữ banh, chuản bị sút, nhưng đột nhiên anh bỏ mặc quả banh và thốt to: “Cú sút này sẽ trật đích!…” Về sau Nicklaus giải thích tại sao anh làm thế. Anh nói: Trước mỗi cú sút bóng, tôi sắp xếp trong trí tôi thế nào cho nó trúng đích. Nếu thấy nó không thể trúng đích được, tôi phải ngưng và sắp xếp lại…

***

Điều Jack Nicklaus thực hiện trên sân Golf chính là điều Chúa dạy chúng ta làm hằng ngày, nhất là trong Mùa Vọng này. Chúng ta phải sắp đặt tâm hồn xứng đáng đón rước Chúa hằng ngày, nhứt là trong ngày Người Giáng Sinh và ngày Người phán xét. Nếu thấy tâm hồn không thể đón rước Chúa được vì tội lỗi, chúng ta phải thay đổi cách làm cách sống, như Jack Nichlaus sắp xếp lại các sút bóng cho trúng đích. (Theo Cha M. Link)

 

  1. Con đã chuẩn bị sẵn sàng

Tạp chí This Week có thuật câu chuyện cảm động của cậu trẻ 17 tuổi, người Hòa Lan, trốn trại tập trung Đức Quốc Xã, nhưng đã bị bắt lại và bị kết án tử hình. Trước khi bị hành hình, cậu viết thơ gởi cho bố cậu với mấy lời sau đây: “Bố thân mến, con đã bị kết án tử hình!… chẳng bao lâu nữa, điều đó sẽ xảy đến với con, và con sẽ được về với Chúa. Con cảm thấy con đang ở gần bên Chúa. Con đã chuẩn bị sẵn sàng đón chờ Chúa đến với con… Con đã xưng hết tội lỗi, và hiện giờ tâm hồn con hoàn toàn thanh thản… Ký tên: Kless

***

Phúc cho tôi, nếu tôi nói được như cậu Kless: “Con đã chuẩn bị sẵn sàng đón chờ Chúa đến với con…” Nếu Chúa đến giờ này, tôi có xứng đáng đón rước Chúa không? Nếu không, tôi sẽ làm như cậu Kless: “Con đã xưng hết tội lỗi, và hiện giờ tâm hồn con hoàn toàn thanh thản…”

  1. Người giàu có nhất

Một chủ nông trài về nhà sau một chuyến du lịch. Sau khi gặp gỡ gia đình mừng rỗ, ông đi thăm nông trại và người đầu tiên ông gặp là người tá điền trung thành nhất của ông. Ông gặp ngay lúc người tá điền vào bàn ăn, và trước khi ăn, người đó đọc kinh cầu nguyện và cám ơn Chúa.

 

Thấy vậy, ông ta nói:

  • Nếu Chúa ban cho tôi bữa ăn tồi tệ như thế, tôi không bao giờ cám ơn Chúa.

Nghe vậy, người tá điền liền nói:

  • Tôi rất mừng được gặp lại ông hôm nay, vì tối qua tôi mơ thấy người giàu nhất trong làng này sẽ qua đời trong đêm nay.

Người chủ nông trại nghe nói thế thì hết sức bối rối lo sợ, vì có ai là người giàu nhất trong làng nầy. Thế là tối hôm đó ông ta mời bác sĩ đến khám sức khỏe. Bác sĩ bảo ông rất khỏe mạnh, dù vậy ông vẫn ăn ngủ không yên. Đêm đó ông nằm mãi vẫn không ngủ được, bỗng có tiếng gõ cửa. Ông hé cửa ra, một gương măt hớt hải loan báo:

  • Thưa ông, người tá điền của ông vừa qua đời:

Người chủ ông nông trại thở ra nhẹ nhõm, vì tử thần chưa gõ cửa nhà ông. Nhưng ông lại chợt nghĩ: “Người giàu nhất trong làng này không phải là ta…”

***

Chúng ta mong đợi Chúa Cứu Thế đến giải thoát chúng ta khỏi khốn khổ. Một trong những khốn khổ của con người là nghèo khó, nhứt là nghèo khó tâm hồn. Vì thế thánh Phaolô nói Chúa đến ban cho chúng ta sự giàu có: “Sự giàu có mà Thiên Chúa mang đến cho con người là gì nếu không phải là những giá trị vĩnh cửu, những gì sẽ mãi mãi tồn tại bên kia cái chết. Chính người tá điền trên đây đã được Chúa Cứu Thế đến ban cho sự giàu có đó. Thế nên ông ta là người giàu có nhiều còn ông chủ nông trại trên đây tuy có nhiều của cải vật chất, nhưng lại là người nghèo về tinh thần, về ơn Chúa!… (Theo “Phút cầu nguyện cuối ngày”, tập 1)

 

  1. Tìm Chúa

Một thiếu nữ nghe nói Chúa ở trên ngọn núi tận cùng trái đất. Nàng muốn tìm gặp Chúa để Chúa cứu giúp nàng. Nàng đi lên ngọn núi đó. Nhưng ngay lúc nàng khởi sự leo lên thì Thiên Chúa tự nhủ:

  • Làm thế nào Ta chứng tỏ cho loài người biết Ta thương mến họ. Ta biết rồi: Ta sẽ xuống núi ở giữa họ.

Thế là khi cô thiếu nữ leo lên đến đỉnh núi, thì Chúa không còn ở đó nữa. Nàng nghĩ:

  • Thiên Chúa không có ở đây, như thế là chẳng có Thiên Chúa.
  • ***

Câu chuyện trên muốn nói với chúng ta: Nhiều khi chúng ta tìm Chúa sai chỗ: Thiên Chúa đã xuống thế làm ngời ở giữa chúng ta. Ngạn ngữ Do thái có câu: “Thiên Chúa ngự ở bất cứ nơi nào chúng ta để cho Ngài vào ở”.

 

Muốn Chúa đến ở với chúng ta, cứu vớt chúng ta, chúng ta phải nghe tiếng Người: “hoán cải tâm hồn”, phải nghe lời thánh Gioan Tiền hô: “Mọi thung lũng phải lấp cho đầy, đường lồi lõm phải san cho phẳng. Rồi mọi người phàm sẽ thấy ơn Thiên Chúa cứu độ”

(Theo “Phút Cầu nguyện cuối ngày”, tập 1).

 

20.        Chúa Nhật 2 Mùa Vọng

(Suy niệm của Lm. Anfonso)

 

Tin mừng Lc 3:1-6: lời mời gọi của vị Gioan Tiền hô có còn hữu hiệu cho chúng ta ngày nay không? Chúng ta đang sống trong mùa Vọng, không phải là mùa đợi chờ một biến cố đã xảy ra trong quá khứ, cũng không phải là mùa để trang hoàng cây thông, ông già tuyết…

 

Suy niệm:

Niên lịch chúng ta sử dụng tới nay đã là năm thứ 2018. Vậy đâu là mốc điểm để bắt đầu tính niên lịch cho đến năm hiện nay? Đó là cách tính lịch được tu sĩ Dionysius Exiguus đặt ra vào thế kỷ thứ VI khi ngài tính lịch cho các ngày lễ Phục Sinh và được dùng với các lịch Julius và Gregory. Theo đó, Công Nguyên là kỉ nguyên theo truyền thống được bắt đầu bằng năm của Chúa Giêsu sinh ra. Các năm trước đó được gọi là trước Công Nguyên hay trước Tây lịch. Điều này cho thấy, việc sinh hạ của Chúa Giêsu không phải là một huyền thoại mà có tính chất lịch sử. Và lịch sử ấy được Thiên Chúa hoạch định với một chương trình cứu độ nhân loại, nên còn được gọi bằng lịch sử cứu độ.

 

Bài đọc I trình bày về tiên tri Barúc xuất hiện vào sau thời kỳ dân Chúa được hồi hương sau thời gian lưu đày. Nhưng dân chúng lại thất vọng vì thấy cảnh khó khăn trong việc tái thiết Đền thờ và xây dựng lại đất nước. Trong bối cảnh đó, tiên tri Barúc đã khích lệ dân Chúa với một niềm hân hoan về việc dân được Thiên Chúa đưa từ một cuộc sống đau khổ lầm than trở về quê cha đất tổ. Như vậy, giữa bao thăng trầm lịch sử, Thiên Chúa không hề bỏ rơi nhưng luôn đồng hành và dẫn dắt dân.

 

Thiên Chúa còn ở với dân qua Người Con Một. Chính thánh sử Luca cũng đã trích lại sự kiện mang tính cụ thể thời gian chuẩn bị cho cuộc giáng sinh của Chúa Giêsu. Ðời hoàng đế Tibêriô năm thứ mười lăm, Phongxiô Philatô làm toàn quyền xứ Giuđêa, Hêrôđê làm thủ hiến xứ Galilêa, còn em là Philipphê làm thủ hiến xứ Ituria và Tracônitêđê; Lysania làm thủ hiến xứ Abilêna; Anna và Caipha làm thượng tế. Vào thời điểm này, Chúa đã kêu gọi Gioan, con ông Giacaria, trong hoang địa rao giảng phép rửa sám hối xin ơn tha tội. Gioan mời gọi dân chúng thực hành những việc cụ thể: “Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng” như lấp mọi hố sâu, bạt mọi núi đồi, sửa cho thẳng con đường cong queo, san cho bằng con đường gồ ghề…

 

Và liệu lời mời gọi của vị Gioan Tiền hô có còn hữu hiệu cho chúng ta ngày nay không? Chúng ta đang sống trong mùa Vọng, không phải là mùa đợi chờ một biến cố đã xảy ra trong quá khứ, cũng không phải là mùa để trang hoàng cây thông, ông già tuyết, những dây kim tuyến với đèn màu nhấp nháy như ở tại các cửa hiệu người ta trang trí thật rực rỡ, trang bị những chiếc nón ông già noel cho nhân viên bán hàng để bắt mắt khách hàng, hy vọng khách tới cửa hiệu họ đông hơn. Thưa không! Mùa Vọng mời gọi chúng ta về một sự thống hối với niềm hy vọng và hướng về phía trước, hầu có thể sẵn sàng để đón nhận ơn cứu độ khi Chúa đến.

 

Câu chuyện “Tìm Chúa” trích từ Phút cầu nguyện cuối ngày”, tập 1 kể về một chàng thanh niên nọ nghe nói Chúa ở trên ngọn núi tận cùng trái đất. Anh muốn tìm gặp Chúa để Chúa xin Chúa cứu giúp. Nhưng ngay lúc anh khởi sự hành trình leo núi thì Thiên Chúa tự nhủ: Làm thế nào Ta chứng tỏ cho loài người biết Ta thương mến họ? Ta biết rồi: Ta sẽ xuống núi và ở lại giữa họ. Khi leo đến đỉnh núi, tìm Chúa không gặp, anh thanh niên kia bèn nghĩ: Chẳng có Chúa, vì nếu có thì Chúa đã ở đây.

 

Vâng, nhiều khi chúng ta tìm Chúa sai chỗ: Thiên Chúa đã đi bước trước, xuống thế làm ngời ở giữa chúng ta. Ngài muốn cứu vớt chúng ta, và chờ đợi chúng ta nghe tiếng Người để “hoán cải tâm hồn” để thấy ơn Thiên Chúa cứu độ.

 

Lời thánh Gioan Tiền hô trong đoạn Tin Mừng mời gọi mỗi chúng ta đi vào sa mạc hoang vắng để có thể dễ dàng gặp gỡ Thiên Chúa. Đi vào nơi hoang vắng không phải là tìm mua một vé máy bay qua Sahara hay leo lên dãy Hoàng Liên Sơn. Ở giữa sự nhộn nhịp của chốn phồn hoa đô hội cũng có thể có những sa mạc lòng. Đó chính là khi chúng ta dành ít phút có thể đầu ngày sống, hay trước khi đi ngủ, khi lái xe một mình trên phố, hoặc quỳ lại bên Chúa ít phút sau giờ Lễ…

 

Chúng ta được mời gọi đến nơi hoang vắng để gặp Chúa bằng cách ra khỏi nếp sống bon chen thường nhật, bỏ qua một bên những lo lắng bộn bề của cuộc mưu sinh, khỏi con người cũ cùng những tính cố hủ, khỏi những lời kinh nhẩm đi nhẩm lại theo một thói quen mà có khi đọc cách máy móc. Và với chính kinh nghiệm cá nhân của mỗi người, chúng ta có thể cảm nhận được Chúa còn hoán cải chúng ta khỏi những tâm tư, thái độ và lời nói đầy kiêu ngạo, nóng giận và ghen ghét, trước những ước muốn chứng tỏ quyền lực làm tổn thương biết bao người trong cuộc sống hàng ngày, khỏi những tật xấu đam mê, khỏi những yếu đuối đòi hỏi tính xác thịt, lòng ham mê của cải, hay khỏi tính ù lì lười biếng, khỏi sự nguội lạnh trong đời sống đức tin…

 

Trong bài giảng Thánh lễ sáng thứ ba mồng 4/12/2018 tại nhà nguyện Santa Marta, Đức thánh cha Phanxicô mời gọi tín hữu đừng nói xấu, gây hại cho những người khác, khiêm nhường hạ mình như chính Chúa Giêsu đã hạ mình xuống trên chúng ta. Người Kitô hữu hoán cải tâm hồn, xây dựng hòa bình phải là người luôn tiến về phía trước, bắt chước Thiên Chúa, đi bước trước trao tặng Con Ngài đến để làm hòa chúng ta với Chúa, vậy chúng ta cũng hãy trở nên những Kitô hữu biết lấp đi những hố sâu ngăn cách nhau, thay vì xây những bức tường, chúng ta hãy xây những cây cầu để nối lại tình thân với nhau.

 

Lạy Chúa Giêsu là Hoàng Tử Bình An, xin cho chúng con biết sửa cho ngay những nẻo đường quanh co trong con người mình để có thể sẵn sàng đón Chúa đến. Amen.

 

21.        Hãy dọn đường cho Chúa

(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ)

 

Chúa đang đến! Hãy nhìn để thấy, hãy chuẩn bị tâm hồn, Chúa sẽ hoàn tất những gì người đã khởi sự nơi mỗi người chúng ta.

 

  1. Hãy đứng lên cao và hãy quan sát, để thấy…

Dân chúng, số sót lại tại Yêrusalem thời Barúc rất bi quan vì vua quan và những người tài giỏi đã phải đi đày ở Babylon. Đất nước tiêu điều tang thương. Làm sao mà vui được khi đất nước trong hoàn cảnh như vậy!

 

Chính trong hoàn cảnh âu sầu đó, tiên tri loan báo cho dân một tin mừng: dân con Do Thái sẽ trở về từ khắp đông tây. Chính Thiên Chúa sẽ đem con dân Ngài trở về quê hương thoát cảnh lưu đày biệt xứ.

 

Vui mừng trên toàn đất nước, cả đến suối nước rừng cây cũng cùng dân vui mừng hoan hỉ, vì chính Thiên Chúa lãnh đạo dân và tình thương lan toả trên khắp đất nước.

 

  1. Thiên Chúa đã và đang làm những điều vĩ đại

Đưa dân Do Thái trở về từ nơi lưu đày, làm sao người có thể làm được. Làm sao người Do Thái có thể mạnh, để đánh thắng nước đang bắt những người Do Thái lưu đày để giải phóng họ, khi “số sót” những người không bị lưu đày là những người hèn yếu kém tài? Thiên Chúa đã sai Đấng Kitô của Ngài tới để giải phóng dân Do Thái đang bị lưu đày trở về, đó là vua Kyrô, một vua ngoại không phải là người Do Thái, đã ban lệnh cho người Do Thái lưu đày được trở về quê hương, và được phép tái thiết đền thờ đã bị vua Babylon phá hủy (Is.45, 1). Điều con người không thể ngờ, không dám mong chờ thì Thiên Chúa vẫn làm cho con người. “Đức Chúa đã làm những điều trọng đại cho chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan”!

 

“Tin vào Tin Mừng, tin rằng Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể, là Thiên Chúa làm người”, là điều vô cùng khó đến độ có thể nói, không ai có thể làm được. Ấy thế mà Thiên Chúa vẫn làm; Ngài đã cho chúng ta và bao người tin vào Thiên Chúa, tin vào Đức Giêsu.

 

Yêu người, cũng là những điều khó mà Thiên Chúa vẫn giúp chúng ta thực hiện. Người ta có kinh nghiệm yêu thương khó đến mức nào, khi người đó bị xúc phạm hay bị làm hại nặng nề. Con người không thể làm được, thì Thiên Chúa vẫn có thể và luôn giúp con người thực hiện.

 

  1. Chúa đang tới

Những nhân vật quan trọng trước khi đến đâu, thường có những người tới trước để dọn đường, để chuẩn bị. Chúa sắp tới, nên Gioan Tẩy Giả đã được sai tới để chuẩn bị cho dân đón Chúa. Điều Gioan Tẩy Giả hô hào dân chúng chuẩn bị đón mừng Đấng Thiên Sai, là “hãy dọn đường cho Chúa trong tâm hồn mỗi người, hãy uốn cho thẳng những chỗ quanh co không ngay thẳng, san bằng những hố sâu ngăn cách”.

 

Chỉ khi nào con người chuẩn bị sẵn sàng đón Chúa, con người mới có thể nhận ra Chúa mà thôi. Ngày xưa dân Bêlem không nhận ra Chúa tới với họ, nên Chúa đã phải được sinh trong chuồng chiên cừu; dân chúng không nhận ra Chúa, nên đã không tin theo và còn đóng đinh Ngài vào thập giá.

 

Hôm nay, tôi có nhận ra Chúa tới với tôi qua những “dấu chân” không? Tạo vật và mỗi người chúng ta, cũng có thể trở thành “dấu chân” của Chúa. Nếu tôi không biết nhìn, không biết trèo lên nơi cao để nhìn, hoặc không biết vào nơi kín đáo để thấy, hoặc không sẵn sàng, thì không thể thấy Ngài được. Xin cho chúng ta cũng biết lên núi (cầu nguyện) để nhận ra Chúa đang tới, đang ở với chúng ta.

 

Hãy dọn đường Chúa, hãy bạt cho bằng, hãy uốn cho ngay …! Nếu không làm vậy, không thể nhận ra Chúa được. Xin Chúa giúp chúng con chuẩn bị bằng từ bỏ chính mình, để nhận ra và đón mừng Chúa.

 

22.        Sám hối

(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)

 

Gioan con Zacaria xuất hiện rao giảng sám hối. Đây là sứ điệp tiên tri Barúc đã từng loan báo: “hãy dọn đường cho Chúa, thung lũng hãy lấp đầy, đồi núi hãy san phẳng…”. Dân Do Thái mong chờ Chúa, hàm chứa, Chúa sai vị Thiên Sai (Kitô) để giải phóng họ khỏi cảnh lưu đầy ở Babylon. Tiên tri đã loan báo phải bạt các núi đồi, san phẳng những thung lũng để dân Chúa trở về. Người ta sẽ thấy vinh quang của Thiên Chúa qua việc Ngài đưa dân từ nơi lưu đầy trở về quê hương. Điều này xảy ra khi vua Kyrô người Ba Tư ban hành chiếu chỉ cho dân Do Thái lưu đầy được trở về quê cha đất tổ. Dân Do Thái vui mừng. Họ nhận ra Thiên Chúa yêu thương họ. Mỗi người đều được mời gọi trở về để đón nhận hồng ân của Thiên Chúa.

 

  1. Sám hối để có thể sống hạnh phúc

Sám hối hàm chứa nhận ra mình chưa sống như phải sống. Thiên Chúa vẫn yêu thương và mời gọi con người sống tốt hơn, sống như Thiên Chúa muốn. Thiên Chúa muốn tôi sống hạnh phúc. Tôi có hạnh phúc như Thiên Chúa muốn không? Tại sao tôi không hạnh phúc?

 

Phải chăng tôi đang quá bận tâm lo lắng về cơm ăn áo mặc? Phải chăng tôi muốn có nhiều tiền, tôi muốn có những gì cần thiết về của ăn áo mặc cho tôi và những người thân yêu trong khoảng thời gian an toàn? Phải chăng tôi muốn có sự an toàn của người phú hộ ”hãy ngủ nghỉ yên vì ngươi có nhiều của” (Lc.12, 13-21)? Phải chăng tôi lo lắng mọi sự và không biết rằng Thiên Chúa yêu tôi, Ngài sẽ cho tôi những thứ tôi thật sự cần (Mt.6, 25-34)?

 

Tôi có buồn bực vì không được người tôi yêu đáp trả? Tôi có thông cảm nỗi lòng của người tôi yêu, có thể họ cũng yêu ai đó mà cũng không được đáp trả? Tôi có muốn người khác yêu tôi, và tôi không cần biết những bận tâm và ao ước của người tôi yêu? Nếu tôi không chấp nhận con người của tôi, và nếu tôi không tôn trọng tự do của người khác, thì làm sao tôi có thể sống hạnh phúc đích thực?

 

  1. Yêu thương để sống hạnh phúc

Con người tùy thuộc nhiều yếu tố để sống hạnh phúc. Có lẽ khi dân lưu đầy trở về, sẽ gặp nhiều vấn đề phát sinh: chẳng hạn vấn đề nhà cửa, cơm bánh hằng ngày, vấn đề tương giao giữa con người với nhau, vấn đề phát triển tối đa con người của mình. Chỉ cần không dung hợp hài hòa những điều trên, con người cũng không cảm thấy hạnh phúc; hoặc nữa, nếu con người muốn một điều gì “quá mức” mà không có được, họ cũng không cảm thấy hạnh phúc. Đức Phật đã đề xuất lý thuyết “diệt dục”, đừng muốn nữa, thì sẽ không khổ. Đức Yêsu dạy con người: hãy yêu thương nhau (Ga.13, 34), nghĩa là, muốn điều tốt cho người khác, vui với người vui khóc với người khóc, giúp người khác triển nở và hạnh phúc.

 

Thiên Chúa là tình yêu. Thiên Chúa làm tất cả vì yêu. Con người được mời gọi để trở nên giống Thiên Chúa, được mời gọi để chia sẻ hạnh phúc với Thiên Chúa. Chính khi con người nên giống Thiên Chúa, thì con người được hạnh phúc. Con người được mời gọi để sống yêu thương như Thiên Chúa là Đấng yêu thương. Chính khi con người sống yêu thương, thì con người được hạnh phúc. Cho đi thì hạnh phúc hơn là nhận. Con người hạnh phúc khi phục vụ và giúp người khác triển nở.

 

Hãy lấp bằng những hố sâu ngăn cách, hãy bạt những núi đồi kiêu kỳ làm ngăn trở mình sống yêu thương như Thiên Chúa. Mỗi người được mời gọi để nhìn lại chính mình, để thấy mình chưa sống như Thiên Chúa muốn, để thấy mình chưa yêu thương như Thiên Chúa mời gọi, để trở lại với Thiên Chúa là Đấng làm tất cả vì yêu thương.

 

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

  1. Chính khi yêu thương là đã hạnh phúc! Bạn có kinh nghiệm về điều này không?
  2. Yêu là làm đẹp mình, bạn có đồng ý với câu nói này không? Xin dẫn chứng.

 

23.        Lá phải thay đi

(Suy niệm của Lm. Nguyễn Khoa Toàn)

 

Cứ thử tưởng tượng khuôn mặt của bạn bị dị hình vì bẩm sinh, hoặc do tai nạn, và bạn đuợc ‘ráp’ một khuôn mặt khác của ai đó đã… chết rồi! Thân hình “quanh co uốn cho ngay” hoặc “lồi lõm san cho phẳng” thì còn có thể tin đuợc, nhưng thay cả khuôn mặt thì cứ như trong chuyện thần thoại hoang đuờng.

 

Mà không thần thoại hoang đuờng làm sao đuợc vì chỉ cách đây vài thập niên, đã có ai dám nghĩ dám tin rằng tim gan mình đuợc thay bằng tim gan người khác! Hoặc phẩu thuật mà chẳng cần kéo cần dao! Và với những tiến bộ vượt bực về y khoa, chuyện tưởng chừng như không thể kia sẽ trở thành hiện thực một ngày không xa lắm.

 

Nhưng thay hình đổi dạng bên ngoài không phải là trọng tâm và chủ đích của mùa Vọng. Mùa mong “trời cao đổ sương xuống” và mùa đợi “mây mưa Đấng Cứu Tinh” đòi buộc sự lột xác toàn diện của mỗi một người. Một thay đổi từ tận nguồn căn. Từ trong ra và từ đáy rễ.

 

Như tiên tri Ba-rúc bắt đầu bằng thay đổi xiêm y: “Hỡi Giêrusalem! Hãy cởi bỏ áo tang khổ nhục, và muôn đời mặc lấy ánh huy hoàng của vinh quang Thiên Chúa, hãy khoác vào mình đức công chính của Thiên Chúa như tấm áo choàng, đội lên đầu vinh quang của Đấng vĩnh cửu..”

 

Và thay đổi ngay cả tên gọi mình: “Mãi mãi Người sẽ gọi tên ngươi là ‘Bình-an-xây-dựng-trên-công-chính’ và ‘Vinh-quang-phát-xuất-tự-lòng-tôn-sùng-Thiên-Chúa.” Từ nơi hoang địa, Gioan Tiền Hô chân đất mình trần kêu gọi mọi người quanh bờ sông Giođan trù phú hãy vuợt ra khỏi những sa mạc hoang vắng đời mình. Thật thế, tuy sống thảnh thơi trong dinh thự lầu cao giữa những phố phường ngựa xe tấp nập, chúng ta dễ tự tạo cho mình những sa mạc xa vắng cách ly. Với gia đình. Với bà con chòm xóm. Với bạn hữu thân quen…

 

Và điều cực kỳ nguy hiểm là khi sống cô lập trong những hoang địa tự tạo kia, chúng ta xem thường và dần quen với ngàn muôn thú dữ. Thú dữ của ganh tỵ ghen tương. Thú dữ của đua đòi thèm muốn. Thú dữ của quyền bính tham lam.

 

Mùa Vọng, vì thế, không phải là thời gian thụ động bó gối chờ mong mưa mây và sương mai từ trời cao đổ xuống, mà là lúc tay áo xắn cao vượt ra khỏi những tháp ngà cao đóng khung vị kỷ. Hãy xẻ núi phân chia và hãy bạt đồi hiềm khích. Hãy uốn nắn những dối trá quanh co và hãy san bằng những đảo điên lồi lõm.

 

Thật dễ dàng khi thản nhiên sống nhỡn nhơ trong sa mạc cô vắng đời mình. Nhưng một đời sống xiềng xích không biết người chỉ biết mình kia không mang nghĩa “tốt lành” theo ý Đấng Tạo Thành. Mùa Vọng không chỉ là mùa của đợi chờ. Đó là mùa lá vàng phải rụng xuống. Là mùa cây cỏ phải khô đi…

 

24.        Chúa Nhật 2 Mùa Vọng

 

“Mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa” (Lc 1,6)

 

Thánh Gioan Tẩy Giả là một trong những nhân vật nổi bật vào các ngày của Mùa Vọng. Bối cảnh cuộc đời và chính cách sống của ngài đã nói lên tâm tình của Mùa Vọng. Ngài đóng vai trò Tiền Hô, sống chay tịnh và kêu gọi mọi người sám hối và tin vào Tin Mừng, chuẩn bị tâm hồn xứng đáng đón Chúa Kitô, Đấng cứu độ loài người. Chúa Nhật II Mùa Vọng, Thánh Gioan Tẩy Giả mời gọi chúng ta thực hành tâm tình cầu nguyện thiết thực và sâu sắc hơn. Tâm hồn hướng về Chúa với việc dọn đường, sửa lối, lấp đầy, san bằng để có thể đón nhận ơn cứu độ của Chúa.

 

Lời mời gọi của Thánh Gioan nhắc lại lời của tiên tri Iasia với những từ ngữ rất tượng hình và hổn độn. Đó cũng chính là tình trạng tâm hồn của mỗi chúng ta, do khuấy động của cuộc sống bên ngoài và tội lỗi của chúng ta.

 

Trong cuộc sống thường ngày, chúng ta vẫn luôn có những tâm tình và thời giờ dành cho Chúa cũng như nhìn lại những gì mình đã sống, đã làm. Nhưng có lẻ chưa đủ nó còn rất nhiều thứ chi phối những tác động của môi trường bên ngoài ồn ào, bề bộn do những nhu cầu hằng ngày cũng như những cám dỗ làm cho chúng ta không trung thành với Chúa. Nhưng nhất là tình trạng tâm hồn của chúng ta với những lo toan của cuộc sống âu lo, buồn phiền và tội lỗi. Giờ đây với tâm tình Lời Chúa của Chúa Nhật II Mùa Vọng chúng ta nhìn lại chính tâm hồn mình và quyết tâm điều chỉnh lối sống của mình. Chuẩn bị, sửa sang mảnh đất tâm hồn của mình để đón Chúa để nó là nơi tốt đẹp, sạch trong cho ơn cứu độ của Chúa.

 

Mùa Vọng là thời gian quý báu để chỉnh sửa tâm hồn mình. Một thời gian chờ đợi trong niềm vui và tin tưởng vì chúng ta biết rằng chắc chắn ơn cứu độ sẽ dành chúng ta nếu chúng ta thật tâm quay về với Chúa. Thời gian này cũng mời gọi chúng ta dành thời giờ cho Chúa nhiều hơn, lắng động nhiều hơn và hướng lòng lên Chúa nhiều hơn.

 

Sống với tâm thế của một tâm hồn khao khát và ước mong thật sự Chúa đến ngự vào tâm hồn ta. Tư thế của người cầu nguyện, chờ đợi và thiện chí muốn sửa đổi đời sống của mình. Một đời sống nội tâm kết hợp với Chúa mật thiết không chỉ trong giây phút hiện tại mà còn liên lỉ trong mỗi ngày sống và suốt hành trình đời người của chúng ta.

 

25.        Dọn đường, dọn lòng

(Suy niệm của Anmai, CSsR)

 

Hơn bao giờ hết, người Việt Nam đang phải đối diện với “văn hoá giao thông” vì lẽ mở mắt bước chân ra đường lúc nào thì đều ngán ngẫm với cảnh kẹt xe. Nguyên nhân kẹt xe do lòng đường thu hẹp bởi các công trình đang thi công. Thế nhưng, nguyên nhân chính vẫn không phải là nguyên nhân ấy nhưng lại là nguyên nhân do lòng con người bị thu hẹp lại. Khi ra đường, ai cũng giành đi trước thì ai sẽ nhường cho ai để rồi kẹt xe là chuyện dĩ nhiên. Người ta càng gào càng thét nhưng lòng người ta không lay chuyển, không biến đổi thì muôn đời vẫn bị kẹt xe.

 

  • Để đi đến một nơi nào đó thì cần lắm một cái lòng đường thông thoáng cộng với lòng người vui tươi hớn hở. Đối diện với cái cảnh kẹt xe thì chẳng tìm thấy một nụ cười trên môi được. Có chăng là những tiếng xì xầm khó chịu. Lòng đường và lòng người có cái gì đó đi đôi với nhau thì phải. Lòng người đủ lớn thì lòng đường mới lớn lên được. Lòng đường lớn lên thì người đi trên đường cảm thấy thoải mái và vui tươi.
  • Để đón một ai nào đó đến chơi nhà, điều hết sức tự nhiên là ta phải dọn con đường dẫn vào nhà ta được thông thoáng cũng như lòng ta phải rộng mở. Đơn giản thế thôi.
  • Để đón Chúa vào nha thì ta cũng cần có một lòng đường đủ lớn và lòng ta cũng đủ rộng.

 

Thánh Luca có nét đặc biệt hơn các thánh sử khác đó chính là khai mở sứ vụ rao giảng của Gioan. Sứ vụ rao giảng ấy được Luca mô tả trong một bối cảnh lịch sử khá chi tiết của thế giới ngoại giáo và của thế giới dân thánh. Mục đích của thánh sử nhằm đánh dấu thời gian bắt đầu sứ mệnh của Chúa Giêsu mà Gioan chỉ là kẻ dọn đường.

 

  • Hoàng đế Cêsarê Tibêriô kế nghiệp Augustô lên ngôi trị vì ngày 19 tháng 8 năm 14 sau Công nguyên. Như vậy năm thứ 15 của vua này là khoảng tháng 8 năm 28 hay năm 29. Nhưng hầu chắc Thánh Luca sử dụng niên lịch của người Syriên: theo lịch Syriên, năm mới bắt đầu ở đầu tháng 10. Vì thế từ tháng 9 trở về trước, được kể như là thuộc năm trước. Như vậy năm thứ 15 ở vào khoảng ngày 1 tháng 10 năm 27 hay 30 tháng 9 năm 28: lời rao giảng của Gioan cũng như khởi đầu sứ mệnh của Chúa Giêsu xảy ra khoảng năm 27 hay 28 (sau Công nguyên).
  • Philatô cai quản xứ Giuđêa với tước hiệu tổng trấn (thái thú), vào năm 26 đến 36 (sau Công nguyên). Ông thuộc quyền quan toàn quyền xứ Syria. Lãnh thổ của ông còn bao gồm cả Samaria và Idumêa.
  • Hêrôđê Antipa con của Hêrôđê Đại đế và của Malthakê. Đây là kẻ mà sau này Chúa Giêsu gọi là “con cáo già” (Lc 13,32). Arkêlaô cũng là con của Hêrôđê Đại đế và Malthakê song bị truất phế vào năm 6 (trước Công nguyên). Hêrôđê Antipa làm quận vương xứ Galilêa và Pêrêô vào năm thứ 4 (trước Công nguyên). Ông cai trị cho đến năm 39 (sau Công nguyên). Tước hiệu quận vương chỉ một thứ phó vua cai quản một phần lãnh thổ của Hoàng đế Thánh sử Maccô (6,14) gọi Hêrôđê là Vua theo cách xưng hô bình dân.
  • Philip cũng là con của Hêrôđê Đại đế và Clêopâtre (không phải hoàng hậu Ai Cập), tức là anh em cùng cha khác mẹ với Hêrôđê Antipas. Làm quận vương xứ Iturê và Trakhônitô, cũng như gồm cả Auranitô, Batanêa, Gaulinitô. Philip cai quản năm 4 trước Công nguyên cho đến chết vào năm 34 sau Công nguyên. Vì không có con nối ngôi, vua Tibêriô sáp nhập phần đất này vào miền Syria.
  • Lysania, không thuộc về gia đình Hêrôđê. Làm quận vương xứ Abilênê. Vùng này Chúa Giêsu ít qua lại.
  • Anna và Caipha: vị thượng tế chính thức là Giuse tên gọi Caipha. Ông làm thượng tế từ năm 18 đến năm 36 (sau Công nguyên). Anna là cha vợ của Caipha, làm thượng tế trước đó, từ năm 6 (trước Công nguyên) đến năm 15 thì bị hoàng đế Gratô bãi chức. Tuy thế, uy tín của ông vẫn còn lớn đối với dân Do Thái.

 

Các ngôn sứ trước hoạt động trong khung lịch sử của Guđêa hay Israel (x. Is 1,1; Gr 1,2; Ed 1,2; Hs 1,1; Am 1,1 v.v…). Chắc hẳn Thánh Luca có dụng ý khi nới rộng khung cảnh lịch sử trong toàn đế quốc Rôma nhắm đến sự phổ quát của ơn cứu độ. Đấng Cứu thế sẽ đem ơn cứu độ đến cho mọi dân không trừ ai, trong mọi lãnh thổ và dưới mọi sinh hoạt xã hội khác nhau.

 

Để được cứu độ thì con người phải thay đổi con người cũ của mình, phải ăn năn thống hối như Gioan mời gọi. Gioan, con của Giacaria (câu 2b): Thánh Luca quy chiếu vào Gr 1,1: “Xảy đến lời của Thiên Chúa cho Giêrêmia, con của kelkiel…”. Thánh sử đặc biệt lưu ý tới sứ mệnh của Gioan tiếp tục vai trò ngôn sứ của Giêrêmia. Được thánh hiến từ trong dạ mẹ (Gr 1,1; Lc 1,13) vị ngôn sứ loan báo cuộc phán xét cánh chung (Gr 1,10; Lc 3,9t) công bố vinh quang Đấng Thiên Sai (Gr 31; Lc 1,14; 3,15t) và giao ước mới của Thiên Chúa ký kết với mọi người dù họ là kẻ thấp hèn nhất (Gr 31,31-34; Lc 7,18-23).

 

Mọi xác phàm sẽ thấy sự cứu thoát của Thiên Chúa (câu 6): Đối với Thánh Luca, điều quan hệ không phải là những niên biểu chi tiết của lịch sử trần tục mà Thánh sử nêu ra. Ngài sử dụng khung cảnh đó để trình bày lịch sử cứu độ. Khi trích dẫn lời ngôn sứ Isaia 40,3-5 Thánh Luca minh chứng rằng nơi những sự việc này đã hoàn tất lời tiên báo của Cựu ước. Thánh sử cho thấy tầm vóc chính xác: sứ mệnh của Gioan chính là loan báo lần cuối về ơn cứu rỗi của Thiên Chúa. Và sứ mệnh của Chúa Giêsu: Người là “Con Thiên Chúa đến ban ơn cứu rỗi cho mọi xác phàm”.

 

Qua những lời tiên báo trên của Isaia, độc giả Tin mừng, nhờ ánh sáng phục sinh chiếu dọi, có thể nhận ra thiên tính của Chúa Giêsu cũng như ơn cứu rỗi Người mang đến cho mọi người. Bởi vì ơn cứu rỗi được mời gọi đón nhận một cách phổ quát, nên Thánh Luca đặt nó vào trong bối cảnh lịch sử dân Chúa (ở Giuđêa, Galilê khắp vùng quanh sông Gardan dưới thời thượng tế Caipha v.v…) cũng như trong lịch sử dân ngoại (ở Iturê, Abilênê, dưới thời hoàng đế Tibêriô Gêdarê v.v…)

 

Tất cả những ai nghe lời hối cải, “hạ thấp đồi cao, lấp hố sâu”, thì sẽ nhìn thấy Đấng Thiên Sai. Hay nói cách khác, điều kiện ắt có của ơn cứu độ là phải thay đổi tâm hồn. Gioan Tẩy giả cũng như các ngôn sứ Cựu ước đều rao giảng sứ điệp đó.

 

Ngôn sứ Baruc trong bài đọc thứ nhất mà chúng ta vừa nghe cũng thấp thoáng tâm tình hạ đồi lấp hố hay đơn giản là dọn đường và dọn lòng để Chúa đến:

Vì Thiên Chúa đã ra lệnh phải bạt thấp núi cao

và gò nổng có tự lâu đời,

phải lấp đầy thung lũng cho mặt đất phẳng phiu,

để Ít-ra-en tiến bước an toàn

dưới ánh vinh quang của Thiên Chúa.

Theo lệnh của Thiên Chúa, rừng xanh và đủ loại quế trầm

sẽ toả bóng che rợp Ít-ra-en,

vì Thiên Chúa sẽ dẫn Ít-ra-en đi trong hoan lạc,

dưới ánh sáng vinh quang của Chúa,

cùng với lòng từ bi và sự công chính của Người. (Br 5, 7-9)

 

Sứ điệp, tâm tình của Baruc và của Gioan Tẩy giả gửi đến chúng ta hết sức rõ ràng. Chúa thật sự đã đến trong cuộc đời này rồi, Chúa đã vào nhà của Người nhưng hình như người nhà không đón tiếp.

 

Dừng lại một chặng đường để nhìn lại cuộc đời, đôi lần đôi lúc chúng ta đã để những hố thật sâu, những núi thật cao của tiền tài và danh vọng trong cuộc đời của ta che lấp lối đi cũng như chỗ của Chúa trong lòng chúng ta. Chúa thì đã sẵn, phần còn lại lại của chúng ta. Nguyện xin Chúa cho chúng ta biết thay đổi lòng dạ chúng ta, biến dọn đường trong cuộc đời chúng ta để Chúa đến và ở lại trong cuộ đời chúng ta. Chỉ có Chúa mới là nguồn bình an đích thực và là Chúa của cuộc đời chúng ta mà thôi.

 

26.        Hãy dọn đường

(Suy niệm của Lm. GB. Trần Văn Hào)

 

Khi thành phố bắt đầu về đêm, dòng người và xe cộ trở nên thưa thớt, người ta thấy xuất hiện những công nhân cặm cụi đi ra quét dọn các con đường. Niềm vui của họ là nhìn những con đường sạch bóng cho ngàn người đi qua. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn trong một bài hát cũng mượn những vần thơ diễn tả hình ảnh người phu quét rác: “Người phu quét lá bên đường, quét cả nắng vàng quét cả chiều thu”. Có một vị chính khách nọ khi ra tranh cử tổng thống cũng nói với mọi người: “Nếu tôi được bầu chọn làm nguyên thủ quốc gia, công việc đầu tiên tôi sẽ làm là cho xây dựng những con đường”.

 

Cũng vậy, Giáo hội ngày hôm nay mời gọi chúng ta đóng vai người phu quét lá để dọn con đường trong tâm hồn đón Chúa đến. Giáo hội trích mượn lời hiệu triệu của Thánh Gioan tiền hô để nhắn gửi chúng ta: “Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để người đi. Mọi thung lũng phải lấy cho đầy, mọi núi đồi phải bạt cho thấp, khúc quanh co phải uốn cho ngay, đường lồi lõm phải san cho phẳng (Lc 3, 4)”.

 

Nhưng dọn đường như thế nào?

Đạo là đường. Đạo Công giáo không phải là một pháo đài gồm chứa những luật lệ cứng ngắc để chúng ta rút lui vào đó cố thủ. Đạo mà Chúa Giêsu khai sáng là một con đường rộng mở thênh thang để chúng ta bước tới, đi đến gặp gỡ Thiên Chúa và anh em. Chúa Giêsu đã nói: “Tôi là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6). Cuộc hành trình đức tin của chúng ta cũng chính là con đường đưa dẫn chúng ta tiến về ánh sáng và sự sống vĩnh cửu. Nhưng con đường đó nhiều khi ngập đầy bụi bặm và rác rưởi của tội lỗi mà chúng ta cần phải quét dọn hằng ngày.

 

Thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Rôma đã viết “Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Vậy anh em hãy loại bỏ những việc làm đen tối và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu. Chúng ta hãy ăn ở cho đúng đắn như người đang sống giữa ban ngày: không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tương” (Rm 13, 12.13).

 

Bóng tối của màn đêm là hình tượng biểu trưng tội lỗi và sự chết. Vũ khí của sự sáng mà Thánh Phaolô nhắc bảo chính là sức mạnh Thiên Chúa ban cho những ai được Thần khí hướng dẫn để không sống theo xác thịt. Điều mà Thánh Phaolô nói tới cũng tương hợp với lời hiệu triệu của thánh Gioan mà chúng ta nghe trong bài Tin mừng hôm nay. Con đường cong queo của những luồn lẹo gian dối phải uốn cho ngay. Lũng sâu chất chứa những thù hận và cách ngăn phải lấp cho đầy. Núi cao của tham vọng và ích kỷ phải bạt cho bằng. Muốn sửa lại những con đường đó, chúng ta phải đi vào hành trình hoán cải nội tâm một cách sâu xa.

 

Hoán cải và trở về

Có một người đàn ông nọ vô tình đọc thấy một bản cáo phó trên một trang báo. Người ta nhầm lẫn đưa tin ông vừa mới chết. Ông xúc động, nhưng bàng hoàng hơn cả vì bản cáo phó xem ông như một kẻ giết người hàng loạt, vì ông đã chế tạo nhiều vũ khí để sử dụng trong chiến tranh. Bản cáo phó đã đánh động tâm hồn ông, và ông quyết định chuyển hướng. Thay vì phục vụ chiến tranh như trước đây, ông bắt đầu dấn thân phục vụ cho hòa bình. Ông đã hiến dâng toàn bộ tài sản ông sở hữu để cổ vũ cho công lý và hòa bình trên khắp thế giới. Người đàn ông ấy chính là Alfred Nobel, người đã khai lập giải Nobel hòa bình để phục vụ cho mục đích này. Đó là một con người đã biết thức tỉnh và trở về trong sám hối.

 

Hoán cải (metanoia)

Theo nguyên ngữ Hy lạp chính là trở về, trở về với Chúa và trở về với anh em. Trong mùa vọng cũng như trong mùa chay, chúng ta được nhắc nhở thực hành việc sám hối. Tuy nhiên, nếu hiểu theo nghĩa rộng, thì trong suốt cuộc lữ hành trần thế, chúng ta vẫn luôn cần phải trở về liên tục, bởi vì đây là thái độ nội tâm căn bản thể hiện đức tin của mọi tín hữu quy hướng về Thiên Chúa. Sám hối không phải chỉ là nhớ lại một vài lỗi phạm và đến tòa cáo giải xưng thú để lương tâm được thanh thản.

 

Sám hối: Trước hết và trên hết chính là một tư thế nội tâm để quay trở về. Cuộc lữ hành đức tin chúng ta giống như một con thuyền nhỏ trên dòng sông chảy ngược. Con thuyền không thể đứng yên một chỗ mà phải tiến tới, nếu không, con thuyền sẽ bị dòng nước cuốn ngược lại. Vì thế cuộc hành trình trở về được Giáo hội nhắc nhở trong mùa vọng như một động thái cần thiết để đón chờ Chúa đến. Chúng ta không thể trở về với Chúa mà lại không biết cách trở về làm hòa với nhau.

 

Cũng thế, sự hoán cải mà thánh Gioan Tiền hô nói đến, đòi hỏi chúng ta phải phá đổ bức tường cách ngăn của những thù hận, phải uốn lại cho ngay những luồn lẹo gian dối trong cách hành xử thường ngày làm phương hại đến cận nhân chung quanh.

 

Có lẽ chúng ta đều biết bức tranh nổi tiếng vẽ bữa tiệc ly của danh họa Leonardo da Vinci. Ông tập trung cao độ để phác họa dung mạo Chúa Giêsu ngồi giữa các học trò trong giờ phút ly biệt đầy thân thương và quyến luyến. Nhưng cầm cọ lên, ông lại buông xuống vì không thể vẽ nổi. Nguyên nhân vì chiều hôm trước, ông mới cự cãi kịch liệt với anh hàng xóm bên cạnh và tâm hồn trở nên bất an. Cuối cùng ông quyết định gác bút, đi làm hòa với người bạn ấy rồi mới trở về xưởng vẽ. Chúng ta thấy dung mạo Chúa Giêsu trong bức tranh rất sống động và toát lên một tình yêu vô hạn. Không có bình an trong tâm hồn, Leonardo da Vinci không tài nào thể hiện được chân dung Đức Giêsu trong bức họa nổi tiếng ấy. Cũng vậy, chúng ta không thể nào đến với Chúa mà tâm hồn vẫn còn những rào chắn khổng lồ cách ngăn chúng ta với anh chị em chung quanh mình.

 

Hình mẫu nơi Gioan tiền hô

Gioan tiền hô là người gác cổng dẫn vào Tin mừng. Ngài là nhịp cầu nối giữa cựu ước và tân ước. Gioan mời gọi dân chúng sám hối để trở về, nhưng ông tự thú ông không phải là đấng Messia, mà chỉ là người phu quét đường, còn Đức Giêsu mới chính là con đường để chúng ta bước tới. Ông chỉ là tiếng kêu giữa sa mạc vọng lại lời, còn Đức Giêsu mới chính là ‘Lời’, là ngôi Lời đã trở thành xác phàm. Vì thế Gioan tóm kết sứ mạng của mình trong câu châm ngôn ‘Người phải lớn lên còn tôi phải nhỏ lại. Có Đấng đến sau tôi nhưng cao trọng hơn tôi. Tôi không đáng cúi xuống xách dép cho Ngài’. Sự khiêm tốn mà Gioan nêu gương chính là chìa khóa căn bản để chúng ta bày tỏ tâm thức sám hối, trở về với Chúa và với nhau. Khiêm tốn nhận ra những giới hạn và bất toàn nơi mình, chúng ta mới có thể quét sạch rác rưởi trong tâm hồn, dọn đường cho Chúa đến. Thánh Gioan đã nêu gương mẫu cho chúng ta về thái độ khiêm tốn căn bản này.

 

Kết luận

Trong một cuộc triển lãm, họa sĩ Vangog có trưng bày một bức tranh tuyệt đẹp với tựa đề ‘Chúa đến’. Ông vẽ Chúa Giêsu đang đứng gõ cửa trước một căn phòng. Một người bạn đến xem tranh, tấm tắc khen ngợi tài nghệ của ông, nhưng anh bạn góp ý: “Này Vangog, bức tranh của anh khá hoàn hảo nhưng còn thiếu xót một chi tiết, có lẽ anh quên không để ý tới. Căn phòng Chúa đứng gõ cửa còn thiếu một nắm đấm để mở ra”. Vangog trả lời: “ Không phải thế đâu. Chúa đang đứng gõ cửa căn phòng tâm hồn mỗi người chúng ta. Còn bạn hay tôi, chúng ta có mở hay không là do chúng ta quyết định. Nắm đấm để mở cửa phòng nằm ở bên trong, chứ không nằm phía bên ngoài”.

 

Trong mùa vọng, chúng ta đợi chờ Chúa đến. Ngài đang đến gõ cửa tâm hồn từng người. Cửa phòng có được mở ra hay không, và Chúa có đi vào được căn phòng tâm hồn chúng ta hay không, còn tùy nơi cá nhân mỗi người.

 

27.        Dọn đường cho Chúa đến

(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)

 

Có vô vàn ngăn trở khiến con người không thể đến được với nhau. Trước đây, những ngăn cách vì tường cao, luỹ sâu, vì đồi núi chập chùng hiểm trở… đã từng là những trở ngại lớn cản trở con người qua lại với nhau; hôm nay những ngăn cách như thế không còn đáng kể.

 

Ngăn cách vì đường xa vạn dặm đã dần dần bị thu ngắn lại; hai người ở cách nhau nửa quả địa cầu có thể gặp nhau sau vài ngày du hành bằng máy bay. Thậm chí ngăn cách giữa các hành tinh xa xôi diệu vợi cũng đã được bắc cầu. Bên cạnh những ngăn cách về không gian, về đường sá thì ngăn cách về quan điểm, về ý thức hệ đáng quan ngại hơn nhiều.

 

Đã có thời, ngăn cách bởi ý thức hệ (cộng sản và tư bản), bởi những quan điểm đối nghịch và những chủ trương khác nhau, đã tạo nên những chia cắt rất sâu sắc giữa cộng đồng nhân loại, tạo nên những khoảng cách tưởng chừng không bao giờ có thể vượt qua. Vậy mà hôm nay những ngăn cách như thế xem ra đã được thu hẹp rất nhiều.

 

Rốt cuộc, chỉ còn ngăn cách vô hình trong lòng người, do lòng hận thù, do ghen tị, do hiểu lầm nhau mới là ngăn cách đáng quan ngại nhất và tồn tại lâu dài nhất trong lịch sử loài người. Những ngăn cách loại nầy đã khiến cho hai người láng giềng cách nhau một bức vách không thể đến với nhau được; khiến cho hai người bạn cùng chung sở làm không nhìn mặt nhau; thậm chí hai anh em ruột thịt, hai vợ chồng chung sống dưới một mái nhà, ngồi quanh một mâm cơm, nhưng tâm hồn xa nhau vạn dặm.

 

Con người đã xây dựng được nhiều nhịp cầu thật dài và kiên cố, bắc qua những dòng sông rộng mênh mông, để nối kết đôi bờ; nhưng ai có thể xây dựng những nhịp cầu thiêng liêng để kết nối những tâm hồn xa cách? Thánh Gioan Tẩy Giả là người được sai đến để dựng xây những nhịp cầu như thế.

 

Theo Tin Mừng hôm nay, Ngài được sai đến làm tiền hô, làm kẻ bắc cầu, dọn đường cho Chúa đến: “Có tiếng người hô trong hoang địa: hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng.” (Lc 3, 4-5)

 

Phải dọn đường đón tiếp Chúa thế nào đây?

Người con cái Chúa rất sùng mộ Thiên Chúa uy linh ngự trên cõi trời cao thẳm nhưng lại hay thờ ơ, lạnh nhạt, thậm chí bạc đãi chính Thiên Chúa đang hiện diện nơi những người chung quanh; Thế nên việc mở cửa lòng đón tiếp anh chị em chung quanh vốn là hiện thân của Chúa là điều phải ưu tiên thực hiện mỗi ngày.

 

Chúa Giêsu luôn nhắc nhở chúng ta nhớ rằng Ngài đang hiện diện trong các anh chị em chung quanh và những gì chúng ta làm cho những người chung quanh là làm cho chính Chúa. (Mt 25, 40). Vậy thì dọn đường Chúa đến với ta không gì khác hơn là tiếp nhận, yêu thương, phục vụ Chúa đang hiện diện nơi người cha, người mẹ, nơi người láng giềng đang sống quanh ta.

 

  • Chính khi các chủ quán Bê-lem hôm xưa khước từ hai người lữ hành lạc lõng đi tìm chỗ trọ (thánh Giu-se và Mẹ Maria) là họ trực tiếp khước từ Thiên Chúa.
  • Chính khi các chủ quán Bê-lem không cho hai người khách lạ trọ nhà là họ từ khước không cho Hài Nhi Giêsu được sinh ra trong nhà mình. Chính Chúa Giêsu thường cảnh báo chúng ta về điều đó: “Ta là khách lạ mà các ngươi không tiếp rước” (Mt 25, 43)

 

Vậy thì đón tiếp Chúa là sẵn lòng tiếp nhận mọi người không trừ ai. Dọn đường đón Chúa là xoá bỏ đi những ngăn cách do chúng ta dựng lên giữa mình với tha nhân mà chúng ta giáp mặt hằng ngày.

 

Chỉ khi nào giữa chúng ta và mọi người chung quanh không còn phân li ngăn cách, ấy mới là lúc đường sá đã dọn xong và Chúa mới có thể đến được với mình.

 

28.        Chúa Nhật 2 Mùa Vọng

 

LÀM NGƯỜI DỌN ĐƯỜNG ĐÓN CHÚA

 

Hàng năm, cứ vào Mùa Vọng là chúng ta có dịp nhắc nhiều đến Gioan Tẩy Giả, người dọn đường cho Đấng Cứu Thế ngự đến.

 

Gioan tẩy giả sống trong thời kỳ đất nước Do thái bị chia năm xẻ bảy, chịu sự cai trị của những kẻ thân Rôma, ngay cả vị thượng tế cũng do Rôma đặt lên chứ không phải là người xứng đáng trong hàng tư tế được bầu chọn! Chính lúc đó, Thiên Chúa kêu gọi Gioan Tẩy Giả đi dọn đường cho Đấng Cứu Thế.

 

Bên dòng sông Giođan, Gioan Tẩy Giả kêu gọi mọi người lấp mọi hố sâu hằn thù ghen ghét, bạt đi những kiêu căng tự phụ, chỉnh sửa lối sống mình cho ngay chính và nhận phép rửa tỏ lòng sám hối.

 

Chắc chắn, thánh Gioan Tẩy Giả đã gặp nhiều khó khăn trong nhiệm vụ tiền hô vì trong dân Do thái có quá nhiều phe phái với chủ trương có phần trái nghịch nhau: Phái Sađôc phần lớn thân Rôma, họ không tin vào sự sống lại và chỉ lo tìm chức tước, quyền lợi của Rôma ban bố hơn là lo cho dân nước. Trong khi đó, Biệt Phái và Luật sĩ công nhận có đời sau nhưng lại kiêu căng mù quáng, họ quá tự hào về sự chính thống của mình, cho rằng mình hiểu biết lề luật và đạo đức hơn mọi người nên chẳng cần nghe ai. Chính Chúa Giêsu nhiều lần cảnh cáo về sự kiêu căng và giả hình của họ trong đời sống đạo nhưng họ bịt tai, nhắm mắt trước những lời giảng dạy của Ngài! Ngoài ra còn phe theo hêrôđê, phe theo đế quốc Rôma và những nhóm chủ trương giải phóng dân tộc.

Giữa những phức tạp của xã hội đó, Gioan Tẩy Giả tẩy giả đươc kêu mời làm người dọn đường, giúp mọi thành phần dân Do thái biết trở về với Chúa, biết hoán cải thật lòng để xứng đáng đón Đấng Thiên Sai ngự đến. Thánh Gioan Tẩy Giả tẩy giả đã đón nhận một nhiệm vụ hết sức khó khăn, không đơn giản chút nào. Thế nhưng, Gioan Tẩy Giả xem ra không lo sợ trước những khó khăn đó vì ngài đã dâng trót thân mình cho Chúa và công cuộc dọn đường này. Từ lúc thiếu thời, ngài đã tôi luyện mình trong hoang địa, đêm ngày cầu nguyện, ăn chay, từ bỏ mọi quyến luyến thế gian, bỏ của cải vật chất, danh vọng và cả gia đình vì bổn phận Tiền Hô. Trong dòng nước Giođan, ngài đã giúp cho biết bao người sám hối trở về cùng Chúa. Tuy nhiên, cũng chính vì nhiệt tình với luật Chúa mà ông phải thiệt thân. Ông đã không ngần ngại nói sự thật về tội của Hêrôđê và mong vua hoán cải, nhưng vua đã không nghe, lại còn ỷ quyền ỷ thế tống giam Gioan Tẩy Giả vào ngục và chiều theo ý mụ hêrôđiađê mà giết người công chính. Gioan Tẩy Giả đã hết mình chu toàn nhiệm vụ dọn đường cho Đấng Messia và ông làm chứng cho Chúa bằng mạng sống của mình.

 

Đối với chúng ta ngày hôm nay, chúng ta cũng được Chúa kêu mời làm những Gioan Tẩy Giả trong thời đại hôm nay, chúng ta cũng có bổn phận sống gương mẫu để kêu mời mọi người đến với Chúa, chúng ta hãy là những tiếng kêu cho mọi người thức tỉnh, biết hoán cải thật lòng để xứng đáng đón Chúa ngự đến lần thứ hai trong uy quyền và vinh quang.

 

Để tiếng kêu của chúng ta được rõ ràng và mạnh mẽ, chúng ta hãy gia tăng cầu nguyện, sửa đổi chính mình, hãm dẹp tính hư tật xấu và nhất là tập các nhân đức như bác ái, khôn ngoan, tiết độ…để chúng ta mỗi ngày một nên giống Chúa Giêsu hơn. Đó cũng là những món quà chúng ta dâng lên Chúa Hài Đồng trong dịp lễ Giáng Sinh sắp tới.

 

29.        Sửa đường Chúa đến

(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)

 

Mùa vọng luôn mời gọi: hãy dọn đường cho Chúa – hãy sửa lối cho thẳng để Chúa ngự đến. Hành vi dọn đường và sửa lối cho thẳng được thánh Gioan tiền hô mời gọi là hãy “Sám Hối”. Sám hối bao gồm nhận biết tội mình, hối tiếc vì đã phạm tội, và trông cậy vào ơn Chúa giúp mình chừa bỏ nó. Thiếu một trong ba yếu tố đó thì việc sám hối xem ra chưa trọn vẹn. Giuđa biết tội, hối tiếc vì tội đã làm nhưng ông thiếu niềm tin tưởng cậy trông vào sự tha thứ của Chúa, nên ông đã treo cổ tự vẫn. Thánh Phêrô cũng biết tội, cũng hối tiếc tội, nhưng thánh nhân còn trông cậy vào ơn Chúa nên đã trở lại với tình thương của Ngài.

 

Chúng ta thử nhìn lại lối đường của chúng ta là thẳng ngay hay quanh co để sám hối những lối đường lầm lỗi của mình. Chúng ta có khúc quanh co, lồi lõm nào cần uốn nắn, sửa đổi. Lối mòn của chúng ta đang đi là nhân đức hay tội lỗi thành thói quen không thể sửa? Nhìn lại con đường chúng ta đang đi để uốn nắn sửa đổi cho phù hợp với tin mừng của Chúa.

 

Trước tiên chúng ta cùng nhìn vào thế giới hôm nay, một thế giới có quá nhiều những lối mòn sai lầm nhưng người ta cố tình không nhìn nhận và không chịu sửa đổi như gian dối trong mọi lãnh vực: thông tin, giáo dục, thương trường. Tình trạng đó dẫn đến sự phá sản khắp nơi và trong mọi lãnh vực từ vật chất đến tinh thần.

 

Thực vậy, trong những năm gần đây, người ta thường hay xôn xao về những vụ phá sản, bể nợ, thua lỗ và mất khả năng chi trả của rất nhiều công ty xí nghiệp. Song song với những phá sản về tài chính, chúng ta cũng chứng kiến những phá sản về đạo đức và tinh thần. Khủng bố, chiến tranh, bắt cóc, giết người, các tệ nạn xã hội ngày một gia tăng: xì ke, ma tuý, mại dâm. Mỗi ngày xem tivi chúng ta lại đau buồn khi thấy biết bao người đã chết do chiến tranh, khủng bố, cướp bóc, đói nghèo, bệnh tật. Ở Việt Nam còn có một vụ phá sản về tình người, ngay giữa gia đình vẫn không có tình yêu chân thành. Cụ thể: mỗi ngày hơn 1 người tự tử vì thiếu tình yêu từ gia đình. Vợ chồng thiếu chung thuỷ vơi nhau. Con cái thiếu tin tưởng nơi cha mẹ. Anh em lừa dối nhau.

 

Trước sự phá sản về đạo đức, về giá trị làm người, Đức Piô X đã nói một cách xót xa: “Con người hôm nay đã đánh mất ý thức về tội”. Nghĩa là họ không còn sống theo lẽ phải, họ cố tình làm ngơ trước tiếng cảnh tỉnh của lương tâm, họ quá quen với khuynh hướng tuyệt đối về tự do nên họ không còn thấy những điều gì là cấm. Họ muốn, họ thích và họ làm mà không cần suy xét có hợp với luân thường đạo lý hay không?

 

Có lẽ đây là lúc phải trực diện với một trong những chủ đề then chốt nhất của mầu nhiệm cứu độ: vấn đề sự dữ, tức là tội. Tại sao sự dữ vẫn hoành hành, tỗi lỗi vẫn tràn lan? Đâu là nguyên nhân đưa đến sự xấu hiện diện trong thế giới hôm nay?

 

Trước tiên cũng nên nhớ lại: tội là toàn bộ những hành vi ác hại, sai quấy, mất trật tự của con người; đó là hành động ác hại làm đổ máu hoặc xúc phạm đến danh dự, là trộm cướp, vu khống, phẫn nộ, lười biếng, là kiêu căng chà đạp người khác, là đam mê nhục dục, v.v… mà truyền thống gọi là bảy mối tội đầu. Như vậy nguồn gốc sự dữ hệ tại ở chính lòng người. Chính lòng dạ con người là nguyên nhân dẫn đến những sự dữ ở trần gian.

 

Căn nguyên của tội chính là con người đã dùng sai sự tự do. Sự tự do đích thực là tự do hướng về sự thiện, là điều khiển hành vi nhân linh của con người theo lề luật tự nhiên, theo những quy tắc của luân thường đạo lý, hay nói cách khác chính là biết sử dụng tự do để điều khiển hành vi của mình theo lẽ phải. Nhiều người lầm tưởng rằng, tự do là muốn làm gì thì làm, nhưng thực ra họ đã đánh mất tự do khi buông mình theo những đam mê thấp hèn, những thói hư tật xấu. Họ bị lệ thuộc vào đam mê nghĩa là họ mất tự do đích thực. Họ trở thành nô lệ của những thói hư tật xấu mà các nhà luân lý gọi là nô lệ tội lội. Adam tưởng đã sử dụng tự do theo ý mình nhưng thực ra ông đã đánh mất tự do khi không chế ngự được bản tính kiêu căng của mình. Cain đã đánh mất tự do khi để sự ghen tương làm chủ dẫn đến án mạng mà hậu quả là cả đời trốn chạy, bất an và lo sợ. Con người ngày hôm nay tưởng rằng mình có khả năng làm ra vật chất và tận hưởng theo ý mình, nhưng thực ra họ đã để mình lệ thuộc vào những tiện nghi vật chất, trở thành nô lệ cho vật chất một cách mù quáng đến độ, số tiền làm ra chỉ đủ để trang trải cho những tiện nghi, những trò vui chơi giải trí. Rốt cuộc vẫn cảm thấy thiếu thốn vì chẳng bao giờ con người thỏa mãn những nhu cầu vật chất tầm thường.

 

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta cần xét lại con đường chúng ta đang đi có phải là con đường quanh co, thiếu chân thành với nhau, thế nên, vẫn còn đó sự gian dối, thiếu cởi mở, với nhau không? Con đường chúng ta vẫn còn đó khúc quanh co của sự trốn tránh bổn phận, của sự giả hình, của sự thiếu duyệt xét lương tâm nên hành động hồ đồ và làn thương tổn đến tha nhân. Con đường chúng ta đang đi là con đường gồ ghề bởi những lời nói thiếu suy nghĩ, thiếu bác ái, thiếu xây dựng, luôn chỉ trích nặng lời với nhau, dẫn đến một đời sống thiếu hoà nhã với mọi người, thiếu khiêm tốn nên luôn bẳn gắt, luôn khó chịu về người khác một cách vô cớ, đôi khi nóng giận một cách hồ đồ mà không có nguyên do. Con đường chúng ta vẫn còn những thung lũng của những tư tưởng lỗi đức trong sạch, những ước muốn lầm lạc, luôn làm chúng ta quyến luyến các tạo vật mà xa lìa Chúa, vẫn còn đó những hố sâu của chia rẽ, hận thù, luôn gây ra bất hoà, luôn ganh ghét, luôn nghi kỵ với nhau. Con đường chúng ta đang đi, vẫn còn đó những đỉnh đồi kiêu ngạo luôn đề cao mình quá đáng đến coi khinh anh em, không bao giờ chịu thua kém người khác.

 

Tất cả những ngọn đồi, những vực sâu, những khúc quanh co, những lượn sóng gồ ghề ấy ngăn chặn Chúa đến với ta. Vì thế mùa vọng, là thời gian mời gọi chúng ta hãy sửa chữa lại con đường thiêng liêng cho tốt đẹp để đón Chúa đến. Hãy bạt đi thói kiêu căng tự mãn. Hãy bạt đi tính tự ái ngang ngạnh. Hãy lấp đi những hố sâu tham lam, chia rẽ, bất hoà. Hãy lấp đi những sự trống vắng Thiên Chúa nơi tâm hồn bằng đời sống cầu nguyện và hy sinh. Hãy uốn thẳng lại những quanh co dối trá và giả hình. Hãy san bằng những nghi kỵ, ganh ghét, bất hoà. Hãy san bằng những lượn sóng gồ ghề nói hành, nói xấu nhau nhưng hãy luôn nói tốt, nghĩ tốt về nhau.

 

Đó là cách duy nhất để dọn lòng Chúa đến, để Chúa giáng sinh mang lại niềm vui cho tâm hồn chúng ta.

 

Lạy Chúa, xin hãy cất khỏi chúng con tất cả những gì làm cho chúng con xa lìa Chúa, và xin ban cho tâm tình thống hối ăn năn để sửa đổi con người theo tinh thần phúc âm của Chúa. Amen.

 

30.        Thế gian này ta là ai?

(Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)

 

Tình vẫn phân vân về bài thơ: “tôi là ai”?

“Thử hỏi một lần ta là ai?

Mà sao mộng mãi giữa đêm dài

Đêm dài quên ngủ trong sinh tử

Thử hỏi một lần ta là ai?”

 

Ta là ai vậy nhỉ? Ta có phải là cái tên người ta vẫn gọi không? Không rồi, cái tên là do cha mẹ đặt cho, nên nó không thuộc về mình. Ta là ai phải chăn glà thân xác này? nhưng thân xác này rồi cũng không ra khỏi vòng sinh lão bệnh tử, sẽ có ngày trở về cát bụi. Ta là ai mà giữa trốn hồng trần này, cứ mải miết, mải miết trong những vòng xoáy cuộc đời, và rồi cứ luẩn quẩn trong kiếp sinh tử cát bụi. Và như thế, ta chẳng là gì, chỉ là cát bụi hư vô. Và một khi ta trở về hư vô thì chẳng ai biết ta và ta cũng chẳng còn quan trọng với ai?

 

Nhưng có một Đấng biết ta, và ta thuộc về Đấng ấy. Đó chính là Đấng tạo thành ta. Một mai ta sẽ trở về hư không, chẳng ai biết ta, cần đến ta, nhưng lại là thời gian ta ở trọn vẹn bên Đấng đã tạo thành nên ta. Đấng đã nuôi dưỡng ta và mãi mãi yêu ta, thế nên, ở đời này ta chẳng là gì nhưng với Đấng đã sinh ra ta thì ta mãi mãi là hình ảnh của Ngài, là con cái thần linh của Ngài. Như vậy, cuộc đời này ta thuộc về Đấng tạo Hoá. Ta đang sống sự sống của Ngài, và cũng được mời gọi phải sống làm theo thánh ý Ngài. Nếu ta làm theo ý Ngài hôm nay thì sẽ là công phúc cho ta khi trở về với Ngài. Đấng đó theo niềm tin Ky-tô giáo chính là một Thiên Chúa toàn năng, đấng sáng tạo mọi loại, Đấng điều khiển vũ trụ vạn vật và con người.

 

Trình thuật tin mừng hôm nay cho ta thấy ý Ngài là muốn ta hãy mở một con đường cho Ngài đến với nhân loại. Như Gioan đã mời gọi con ngừời thời đại ông: hãy mở một con đường cho Chúa đến. Con đường mà Gioan muốn nói là lối sống của chúng ta. Hãy sống và loan báo về lòng thương xót của Chúa. Hãy làm chứng cho nhân loại thấy một chân dung đầy yêu thương của Chúa. Hãy mang Chúa đến một cách cụ thể cho những mảnh đời bất hạnh quanh ta. Họ có thể là người nghèo, là người già nua, là người bệnh tật… Họ có thể là những người đang cô đơn vì ly dị, hay bị giầy vò lương tâm khi đang sống rối vợ rối chồng… Họ có thể là những người nam người nữ đang túng thiếu tình cảm lẫn tiền bạc… Họ có thể là những đứa trẻ đang bị lạm dụng khi phải bươn chải bán vé số, đánh giày, nhặt ve chai…

 

Họ là những người bất hạnh mà năm nay Giáo hội đang mời gọi chúng ta hãy đồng hành với họ. Đồng hành có nghĩa là cùng chờ nhau bước đi, cũng có thể cần phải nắm tay dìu nhau cùng bước. Đồng hành nghĩa là không để ai ở lại phía sau, nhất là họ đang bị tai nạn, bị đói lả, bị bệnh tật hoành hành… hãy quay lại để cứu giúp họ, hãy dìu họ qua khó khăn. Đây là con đường yêu thương, con đường mà nhân loại hôm nay đang cần phải mở rộng và mở nhiều hơn nữa. Vì thế giới vật chất càng để cao thì tình người càng bị lu mờ. Con đường của kinh tế càng phát triển thì đường tình yêu lại bí đóng vào. Người ta nói: con đường là do lối mòn đi nhiều sẽ thành. Thế nên, người ky-tô hữu hãy quảng đại dấn thân mở lối mòn tình yêu đến cho mọi người. Hãy mở một con đường tình yêu, lòng cảm thông, quan tâm, chia sẻ tới tha nhân. Hãy mở con đường của tình người không biên giới bằng việc phá bỏ bức tường của ích kỷ hưởng thụ cho bản thân đến hướng tới đồng loại. Ước gì Chúa sẽ đến với tha nhân qua lối mòn yêu thương mà các tín hữu đã tạo ra nên trong cuộc sống hôm nay. Amen.

 

31.        Chúa Nhật 2 Mùa Vọng

(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)

 

HÃY MỞ ĐƯỜNG THƯƠNG XÓT CHÚA

 

Cuộc đời là một chuỗi những đợi chờ. Có đợi chờ đương nhiên sẽ đến. Có đợi chờ hoài cổ mà chẳng bao giờ thấy! Có đợi chờ mang lại niềm vui như chờ người yêu, chờ nhận quà, nhưng cũng có đợi chờ chỉ mang lại thất vọng chán chường như chờ kết quả xét nghiệm khi khám bệnh…

 

Vì có đợi chờ nên cũng có chờ hụt, hay còn gọi là leo cây. Ngày xưa Hồ Zếnh chắc cũng từng bị cô bồ cho leo cây nên mới sáng tác bài thơ:

Em cứ hẹn nhưng em đừng tới

Để lòng buồn anh dạo mãi quanh sân

Cầm điếu thuốc trên tay cháy lụi dần

Anh khẽ nói gớm sao mà lâu thế!

 

Rồi cũng có biết bao lần chúng ta chờ đợi trong hụt hẫng, “tưởng là thế nhưng không phải thế” như những câu chuyện vui sau:

Mẹ ơi! Sáng nay có cô Mười ở bên Mỹ mới đến nhà chơi. Cô tặng cho nhà mình một món quà và nói rằng: “Món quà của cô tuy nhỏ nhưng cũng đủ cho gia đình cháu dùng trong một năm”.

Nghe thế, mẹ cu Tý mừng quýnh, hỏi ngay:

– Món quà gì thế con?

– Dạ, một quyển lịch!

 

Hoặc câu chuyện khác:

Chàng: Anh sẽ tặng em một món quà làm cho ngón tay em xinh thêm. Nàng: (tưởng là những chiếc nhẫn kim cương hay cũng ít là hột xoàn bèn nói) Anh đừng tặng những thứ mắc quá. Chàng: Em vớ vẩn, cái cắt móng tay có cái nào mắc đâu!

 

Dân Do Thái ngày xưa cũng đã chờ đợi. Họ chờ đợi rất nhiều thế kỷ rồi mới tới ngày Con Chúa hạ sinh như ai đó đã từng nói:

Giê-su Giê-su không bỗng dưng mà có

Cả pho cựu ước còn đó

Trăn trở bao đời mới sinh hạ Giê-su.

 

Nhưng họ cũng mừng hụt vì Đấng Messia không đến theo ý họ. Theo ý họ là một Đấng Messia đánh đông dẹp tây, hùng dũng nhưng Chúa lại đến trong thân phận một hài nhi yếu đuối. Họ thất vọng và đáng tiếc là đã không chấp nhận sự thật ấy. Họ đã để niềm vui trôi qua vì không nhận được hồng ân Con Chúa giáng trần.

 

Thế nên, khởi đầu mùa vọng chúng ta thường nghe Gioan mời gọi: hãy mở một con đường cho Chúa đến. Con đường mà Gioan muốn nói là lối sống của chúng ta. Hãy sống và loan báo về lòng thương xót của Chúa. Hãy làm chứng cho nhân loại thấy một chân dung đầy yêu thương của Chúa. Hãy mang Chúa đến một cách cụ thể cho những mảnh đời bất hạnh quanh ta. Họ có thể là người nghèo, là người già nua, là người bệnh tật… Họ có thể là những người đang cô đơn vì ly dị, hay bị giầy vò lương tâm khi đang sống rối vợ rối chồng… Họ có thể là những người nam người nữ đang túng thiếu tình cảm lẫn tiền bạc… Họ có thể là những đứa trẻ đang bị lạm dụng khi phải bươn chải bán vé số, đánh giày, nhặt ve chai…

 

Họ là những người bất hạnh. Họ không chờ đợi một vì Thiên Chúa ở trên trời hay nơi nào xa xăm. Họ đang chờ một Thiên Chúa xót thương đang ở giữa họ, đang cùng họ chia sẻ gánh nặng cuộc đời và nâng đỡ, ủi an họ.

 

Thế nên, hãy mang Chúa đến để thăm viếng nâng đỡ họ. Có thể Thiên Chúa của chúng ta không mang đến cho con người sự giầu có tiền bạc, sự trường sinh bất tử, nhưng mang đến cho nhân loại những tín hữu đang hăng hái “đi ra” xoa dịu nỗi đau cho anh em.

 

Người ta nói: con đường là do lối mòn đi nhiều sẽ thành. Ước mong mọi người ky-tô hữu hãy can đảm mở lối cho mọi người. Hãy mở một con đường tình yêu, lòng cảm thông, quan tâm tới tha nhân. Hãy mở con đường chân thiện mỹ bằng chính đời sống của mình. Ước gì Chúa sẽ đến với tha nhân qua lối mòn yêu thương mà các tín hữu đã tạo ra nên trong cuộc sống hôm nay. Amen.

 

32.        Dọn đường cho Chúa đến

(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)

 

  1. Dẫn vào Thánh lễ

Anh chị em thân mến

Lẽ ra con người phải tìm đến với Chúa, thế mà chính Chúa tìm đến với con người. Chúa đến với chúng ta, đó là một vinh dự và là một ơn lành trọng đại. Nhưng vì không ý thức về vinh dự và ơn lành trọng đại đó nên chúng ta không thiết tha mấy với việc Chúa đến, và cũng chẳng quan tâm chờ đón Ngài. Xin Chúa giúp chúng ta hiểu được tình thương của Ngài và tích cực đón tiếp Ngài.

 

  1. Gợi ý sám hối
  • Chúa biết chúng con khốn khổ nên muốn đến cứu chúng con. Vậy mà chúng con cứ muốn ở lì trong khốn khổ và không cần tới Chúa.
  • Chúa chính là Ðấng cứu độ duy nhất của chúng con. Vậy mà chúng con vẫn coi tiền tài, danh vọng và lạc thú của thế gian này như là cứu tinh của đời mình.
  • Chúa luôn chờ đón chúng con, nhưng chúng con ít khi tìm đến với Chúa.

 

III. Lời Chúa

  1. Bài đọc I (Br 5,1-9)

Ba-rúc là thư ký của ngôn sứ Giêrêmia. Quyển sách mang tên ông cũng được viết vào thời dân Do thái đang bị lưu đày. Trong trích đoạn này, tác giả an ủi dân bằng cách loan báo ngày giải thoát: Ðó sẽ là một ngày đổi đời: “Hãy cởi bỏ áo tang khổ nhục và mặc lấy ánh vinh quang vĩnh cửu”. Là ngày con cái Israel sẽ được quy tụ lại và trở về Giêrusalem thân yêu: “Kìa xem con cái ngươi từ Ðông sang Tây tụ họp về”

 

Tất cả mọi điều tốt đẹp đó đều là việc làm của Thiên Chúa: “Thiên Chúa sẽ dẫn Israel đi trong hoan lạc, dưới ánh vinh quang của Chúa, cùng với lòng từ bi và sự công chính của Ngài”

 

  1. Ðáp ca (Tv 125)

Tâm tình hân hoan của người thoát cảnh lưu đày trở về quê hương. Kèm theo tâm tình hân hoan này là tâm tình cảm tạ và tôn vinh Thiên Chúa: “Khi Chúa dẫn tù nhân Sion trở về, ta tưởng mình như giữa giấc mơ… Bấy giờ trong dân ngoại người ta bàn tán: việc Chúa làm cho họ vĩ đại thay”

 

  1. Tin Mừng (Lc 3.1-6)

Thánh Luca viết đoạn Tin Mừng này nhằm 3 ý:

  1. Muốn cho thấy Chúa Giêsu là một nhân vật có thật trong lịch sử. Bởi thế Luca liệt kê những nhân vật lịch sử đang hành quyền lúc Gioan Tẩy giả bắt đầu rao giảng. Trong số những nhân vật ấy,
  • Có những người đang nắm quyền thuộc lãnh vực chính trị, như Hoàng đế Tibêriô, Tổng trấn Phonxiô Philatô, các Tiểu vương Hêrôđê, Philípphê, Lyxania.
  • Có những người đang nắm quyền thuộc lãnh vực tôn giáo, như các thượng tế Khanna và Caipha.
  • Lãnh địa mà họ đang hành quyền vừa là phần đất Do Thái (như Giuđê, Galilê), vừa là phần đất lương dân (như Iturê, Trakhônít, Abilên).

 

  1. Khi kê khai những nhân vật đang cầm quyền vừa trong lãnh vực tôn giáo lẫn lãnh vực chính trị, vừa ở đất Do Thái vừa ở đất lương dân, Thánh Luca còn muốn nói Chúa Giêsu là Ðấng Cứu Ðộ phổ quát, chẳng những cho người Do Thái mà còn cho mọi dân tộc.

 

  1. Và Gioan Tẩy giả chính là kẻ tiền hô dọn đường cho Ngài.

 

  1. Bài đọc II (Pl 1,4-6.8-11)

Philipphê là giáo đoàn được Phaolô yêu thương đặc biệt, bởi họ luôn trung thành thực hiện những lời ông khuyên nhủ. Trong trích đoạn hôm nay, Phaolô khuyến khích họ gia tăng lòng mến, tiếp tục hoàn thành điều tốt đẹp Thiên Chúa đã khởi sự nơi họ, để trở nên tinh tuyền không có gì đáng trách trong ngày Chúa lại đến.

 

  1. Gợi ý giảng

* 1. Thiên Chúa không quên dân Ngài

Không ai trong chúng ta muốn bị người ta quên lãng. Dù vậy ai trong chúng ta cũng có chút ít kinh nghiệm về cảm giác bị lãng quên.

 

Người ta tổ chức một cuộc họp có liên quan đến chúng ta, thế mà người ta quên mời chúng ta. Chúng ta đã đóng góp công sức rất nhiều vào một công trình nào đó, nhưng dường như chẳng ai biết đến phần đóng góp ấy. Ngày sinh nhật của chúng ta đã đến, nhưng không ai nhớ mà mừng cả. Thực ra những trường hợp vừa kể chỉ là chúng ta bị quên vì người ta sơ ý mà thôi. Vậy mà chúng ta cũng rất buồn, vì chúng ta nghĩ rằng người ta đã không nhớ đến chúng ta, người ta không coi chúng ta ra gì.

 

Có một loại quên khác trầm trọng hơn, đó là người ta hoàn toàn không còn nhớ đến chúng ta nữa. Chẳng còn ai quan tâm tới chúng ta, mọi người như không nhớ là chúng ta vẫn còn hiện hữu. Nghĩa là không những chúng ta bị quên mà còn bị bỏ rơi nữa. Bị cảm giác như thế này thì đau khổ hơn nhiều.

 

Một linh mục kia được các linh mục bạn và các giáo dân ngưỡng mộ, quý mến. Thế rồi ngài mắc một chứng bệnh nên bị buộc phải về hưu, cả quãng đời còn lại phải ngồi trên chiếc xe lăn. Ban đầu, người ta đến nhà hưu thăm ngài rất đông. Nhưng năm tháng trôi qua, dòng người tuôn đến thăm viếng ngày càng giảm bớt và cuối cùng khô cạn hẳn. Không một bức thư, không một cú điện thoại. Tuyệt đối không còn gì cả, mà chỉ toàn là cô độc, lặng thinh, trống vắng. Ngài buồn nản vô cùng, nhất là những khi nhớ lại bao nhiêu công sức mình đã nhiệt tình đổ ra để phục vụ mọi người.

 

Rồi một hôm có một linh mục cùng lớp ngày xưa ghé thăm. Vị linh mục về hưu mừng rỡ vô hạn. Hai người đã nói chuyện huyên thuyên với nhau rất lâu. Cuối cùng vị linh mục về hưu hỏi: “Anh nghĩ là có ai còn nhớ đến tôi không?” Vị linh mục bạn không trả lời. Mà biết trả lời thế nào đây!

 

Quả thực, bị quên lãng là điều chẳng tốt đẹp gì cả, trái lại còn cực kỳ đau khổ. Chúng ta cũng có thể nghĩ như thế về Chúa. Khi một điều gì xấu xảy đến cho ta thì ta nghĩ “Chúa đã quên tôi rồi”. Và chúng ta nghĩ tiếp: “Chúa không còn thương tôi nữa, Ngài không chăm sóc tôi nữa”.

 

Ðó cũng là cảm nghĩ của dân Do Thái thời ngôn sứ Ba-rúc, thế kỷ II trước công nguyên. Ðất nước họ đã rơi vào tay quân thù, thành thánh của họ bị tàn phá, Ðền thờ chỉ còn là một đống gạch vụn, con cái họ bị lưu đày. Bởi thế họ hỏi nhau “Thiên Chúa ở đâu rồi? Ngài có còn nhớ đến những lời đã hứa chăng?” Và họ kết luận: Chúa đã quên chúng ta!

 

Nhưng ngôn sứ Ba-rúc trấn an rằng Thiên Chúa không bao giờ quên dân Ngài, những đau thương sầu khổ của họ sẽ sớm chấm dứt, Thiên Chúa sẽ mang con cháu họ trở về quê hương. Họ cần phải dọn đường cho Ngài đến cứu họ. Những lời này có sức an ủi rất lớn lao, và dân chúng lại hồ hỡi. Quả thực, những tù nhân lưu đày đã trở về cố hương. Dù vậy, lời Chúa hứa vẫn chưa thực hiện trọn vẹn mà phải chờ tới khi Ðấng Messia đến.

 

Gioan Tẩy Giả là người loan báo rằng Ðấng Messia đã đến. Chúa Giêsu chính là Ðấng Messia ấy, và còn là Con Thiên Chúa. Việc Con Thiên Chúa đến với loài người là bằng chứng rõ ràng Thiên Chúa không bao giờ quên dân Ngài. Dù khi mọi người đều đã quên chúng ta, nhưng Thiên Chúa vẫn nhớ đến chúng ta. Ngài không thể nào không nhớ đến chúng ta, bởi vì chúng ta là con cái yêu dấu của Ngài.

 

Hơn nữa, vì chúng ta thích được người khác nhớ đến, nên chúng ta cũng hãy nhớ đến người khác, nhất là nhớ đến những người đã làm điều tốt cho chúng ta và những người đã từng hy sinh cho chúng ta. Mùa Giáng sinh là thời gian nhớ đến tha nhân. Những cách thức nho nhỏ biểu lộ lòng mình nhớ đến người khác là gởi một món quà, hay một tấm thiệp, đi kèm với một lời chúc xuất phát tự tấm lòng và củng cố bằng lời cầu nguyện cho nhau. (FM)

 

* 2. Mở rộng lòng ra đón nhận ơn cứu độ

Ơn cứu độ là một đề tài lớn của Mùa Vọng. Hôm nay phụng vụ hô lớn cho mọi người nghe rằng: “Hãy dọn đường Chúa cho ngay thẳng, thung lũng phải lấp cho đầy, núi đồi phải san cho phẳng và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Chúa”. Thật là những lời rất an ủi vì chúng cho thấy Thiên Chúa rất yêu thương con người.

 

Thế nhưng có người nghĩ rằng để được Chúa yêu thương thì mình phải hoàn hảo. Nghĩ thế nên họ cố gắng luyện tập mọi nhân đức và tránh không bao giờ phạm tội. Tuy nhiên đó là dựa vào sức mình. Phần Thiên Chúa thì khó mà cứu độ những kẻ dựa vào sức mình như vậy.

 

Có một thầy tu kia tên là Ambrôsiô, rất đạo đức, rất thông minh, và cũng rất cần cù. Thầy được mời đi giảng tĩnh tâm nhiều nơi, và ai nấy đều kinh ngạc vì kiến thức và uy tín của Thầy. Thầy sung sướng vì đã làm chủ được mọi việc mình làm.

 

Nhưng đột ngột thầy ngã bệnh, không còn làm gì được nữa. Ban đầu thầy rất tuyệt vọng. Nhưng sau một thời gian, thầy chợt nghĩ phải biết cách dùng cơn bệnh của mình để hiểu được những khổ đau của người khác. Thế là thầy vui sống với cơn bệnh của mình. Khi có ai đến với thầy, thầy chia xẻ những suy nghĩ của mình và an ủi, khuyến khích họ. Kết quả là thời gian nằm bệnh của thầy còn sinh hoa quả nhiều hơn thời gian thầy còn khoẻ mạnh. Trước khi chết, Thầy viết: “Trước đây tôi đã đi theo một hướng, rồi thình lình tôi bị buộc phải đi theo một hướng khác. Nhưng nhờ đó tôi đã học biết về bản thân mình và về người khác nhiều hơn gấp bội so với những gì tôi học biết trong những năm trước khi bệnh”.

 

Có rất nhiều hoàn cảnh lạ lùng mở lòng chúng ta ra đón nhận những điều Chúa muốn ban cho chúng ta. Khi chúng ta đến với Chúa trong tư thế của người tự mãn và hùng mạnh, thì khi đó chúng ta đẩy Ngài ra xa. Còn khi chúng ta đến với Ngài mà cảm thấy yếu đuối, nghèo nàn, thì khi đó chúng ta mời Ngài vào lòng mình. Chính những sự bất toàn của linh hồn chúng ta mở rộng lòng chúng ta đón nhận ơn ban của Chúa, vì đó là những vết thương thu hút cặp mắt nhân từ của Chúa, làm cho chúng ta đáng được Ngài thương xót và chữa lành. Chúa Giêsu đã nói: “Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần”. (FM)

 

 

*3. Sám hối canh tân

Ðời chiến Quốc, nhà du thuyết Tô Tần sang Nước sở, phải đợi suốt ba ngày mới được vào ra mắt vua Sở.Nói xong câu chuyện, Tô Tần xin cáo biệt đi ngay.

Vua Sở bảo:

  • Quả nhân nghe tiếng tiên sinh quý như nghe tiếng một bậc danh nhân xưa. Nay tiên sinh đã không quản xa xôi, đến chơi với quả nhân, lại không chịu ở lại là cớ làm sao?

Tô Tần thưa:

  • Tôi xem ra thấy nước Sở này có đồ ăn đắt hơn ngọc, củi đắt hơn quế, quan khó được trông thấy như ma, vua khó được yết kiến như trời. Nay nhà vua muốn bắt tôi ở lại để ăn ngọc thổi quế, nhờ ma thấy trời hay sao?

Vua Sở khẩn khoản nói:

  • Xin mời tiên sinh cứ ở lại, quả nhân đã hiểu rõ quá rồi.

 

Một đất nước mà vật giá đắt đỏ: “Củi quế gạo châu”, vua quan xa cách dân chúng, thì nhân dân trong nước khổ sở biết bao. Cái đáng khen của vua Sở là sau khi nghe Tô Tần bình phẩm về tình hình kinh tế chính trị của đất nước mình, thì ông liền nhận ra sai lầm và quyết tâm sửa chữa.

 

Mỗi lần Mùa Vọng đến, lại có một Tô Tần xuất hiện để vạch ra những lỗi lầm của chúng ta và nhắc chúng ta sám hối canh tân. Ðó chính là Gioan Tẩy Giả: “Có tiếng kêu trong hoang địa. Hãy dọn đường cho Chúa sửa lối cho thẳng để Người đi” (Lc 3,4). Nếu Tô Tần là nhà du thuyết cho nước Sở, thì Gioan chính là ngôn sứ của dân tộc Do Thái. Ông đã thấy các nhân vật đạo đời: Từ hoàng đế Tibêriô đến quan tổng trấn Philatô, từ vua Hêrôđê, Philip, Lyxaria cho đến các vị thượng tế Hanna và Cai pha; lòng người đầy những khúc quanh lồi lõm, thung lũng hố sâu, núi đồi hiểm trở.

 

Gioan nhắc lại lời ngôn sứ Isaia: “Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, p hải san cho phẳng (Lc 3,5). Ông kêu gọi mọi người sửa sang đường sá. Nhưng con đường quan trọng chính là đường vào cõi lòng:

  • Phải lấp cho đầy những hố sâu tham lam ích kỷ hẹp hòi.
  • Phải uốn cho ngay những lối nghĩ quanh co, tính toán lệch lạc.
  • Phải san cho phẳng những núi đồi ngạo nghễ của tự mãn tự kiêu.
  • Phải bạt cho thấp những gồ ghề lồi lõm của bất công, bất chính. Nếu sám hối là dọn đường của lòng mình, thì chúng ta hãy dẹp bỏ những chướng ngại của tâm hồn, để Chúa có thể đến và ngự lại trong đó.

 

Nếu Gioan là ngôn sứ chuẩn bị cho Chúa đến lần đầu, thì chúng ta sẽ là sứ giả chuẩn bị cho Người đến từng ngày trong cuộc sống của anh em. Thiên Chúa chỉ có thể đến gặp con người trên những con đường ngay thẳng, phẳng phiu. Và ơn Cứu Ðộ của Người cũng chỉ ban cho những ai rộng tay đón nhận.

 

Lạy Chúa, thật là khó khi nhận mình lầm lỗi, và cũng không dễ dàng khi phải sửa chữa lỗi lầm. Xin ban cho chúng con ơn sám hối, dám đi đến những hành động cụ thể, và can đảm chấp nhận cắt tỉa đớn đau, để chúng con xứng đáng đón rước Chúa đến mang nguồn vui ơn Cứu Ðộ. Amen. (Thiên Phúc)

 

*4. Cách dọn đường cho Chúa ngày hôm nay

Nếu chúng ta muốn đón Chúa – dù Ngài đến bằng cách nào chăng nữa – thì chúng ta cũng phải chuẩn bị, phải dọn đường cho Ngài đến với chúng ta. Ngôn sứ Ba-rúc cũng như Gioan Tiền Hô đều nhắc lại lời Kinh Thánh dạy chúng ta cách dọn đường cho Chúa: “Vì Thiên Chúa đã ra lệnh phải bạt thấp núi cao và gò nồng có tự lâu đời, phải lấp đầy thung lũng cho mặt đất phẳng phiu, để Ít-ra-en tiến bước an toàn dưới ánh sáng vinh quang của Thiên Chúa”. Và “Hãy dọn sẵn con đường cho Ðức Chúa, sửa lối cho thẳng để Ngài đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng”.

 

Cách nói đầy hình tượng của Thánh Kinh thật đơn sơ dễ hiểu: Công việc dọn đường cho Chúa của chúng ta là chấn chỉnh đời sống, là điều chỉnh tư tưởng, lời nói, việc làm của mình. Ðó chính là ý nghĩa của từ “metanoia”, nghĩa là hoán cải, thay đổi, trở lại, không chỉ trong hành động vi phạm các nguyên tắc luân lý, mà cả trong lời nói và suy nghĩ, não trạng, trong hiểu biết của chúng ta nữa.

 

Ngày nay việc chuẩn bị đón Chúa trong Mùa Vọng dễ bị “nhiễu” bởi những cách chuẩn bị bề ngoài và nặng tính thương mại. Hang Ðá, Máng Cỏ đủ kiểu đủ mầu, đèn hoa rực rỡ, cờ xí tung bay… đẹp thì đẹp thật đấy, nhưng là những hình ảnh rất xa lạ với cảnh Bê-lem đích thực. Tệ hơn nữa, có không ít người lại bị nhiễm cách người đời mừng Lễ Thiên Chúa giáng trần, bằng những hàng hóa “de luxe” (=sang trọng) và những bữa tiệc linh đình, phung phí, thậm chí tội lỗi nữa. Vì thế, mỗi người, mỗi gia đình, mỗi cộng đoàn Kitô hữu chúng ta hãy tự kiểm điểm một cách chân thành và khiêm tốn:

 

Sự hiểu biết của tôi về Thiên Chúa, về Giáo Hội, về cách sống Ðạo… và rao giảng Tin Mừng đã tạm đủ và phù hợp với Tin Mừng và Giáo Huấn của Giáo Hội chưa? Tôi phải làm gì để có được một hiểu biết đầy đủ hơn về Thiên Chúa, về Giáo Hội, về cách sống Ðạo, về cách rao giảng Tin Mừng? Cách suy nghĩ, cách đánh giá con người và sự việc của tôi dựa vào Phúc Âm và Giáo Huấn của Giáo Hội hay dựa vào dư luận và thói thường của thế gian?

 

Mọi hành động của tôi (làm ăn, buôn bán, việc đạo, việc đời…) nhằm mục đích làm đẹp lòng Thiên Chúa và sinh ích sinh lợi (vật chất, tinh thần, tâm linh) cho bản thân tôi và những người chung quanh (gia đình, bạn bè, lối xóm, khu vực… xã hội) hay chỉ nhằm thỏa mãn lòng ích kỷ và các dục vọng xấu trong tôi? Chắc chắn khi thành thật trả lời các câu hỏi trên mỗi người, mỗi cộng đoàn chúng ta sẽ thấy “thung lũng” phải lập đầy, “núi đồi” phải san bằng, “đường quanh co” cần phải uốn ngay trong tư tưởng, lời nói, hành động thường ngày của mình.

***

Lạy Chúa, xin hãy đến với con! với gia đình, với giáo xứ và với dân tộc con! Lạy Chúa, xin hãy tu sửa lòng trí và cách sống của chúng con! (Giêrônimô Nguyễn văn Nội)

 

* 5. Lạc quan

Biết bao người bi quan với cuộc đời và với thế giới. Chúng ta đã nghe quá nhiều những nhận định chán chường, như: Ðời là bể khổ; đời là con đường đi vào ngõ cụt; tha nhân là hỏa ngục v.v.

 

Nhưng giọng điệu của Lời Chúa hôm nay khác hẳn: “Thiên Chúa sẽ cho khắp cả hoàn cầu thấy hào quang rực rỡ của Ngài” (bài đọc 1); Ngay cả những người đang “nghẹn ngào ra đi gieo giống” cũng có thể mong chờ “mùa gặt mai sau khấp khởi mừng” (Ðáp ca); “Ðấng đã bắt đầu thực hiện nơi anh em một công việc tốt lành như thế, cũng sẽ đưa công việc đó cho tới chỗ hoàn thành” (bài đọc 2); “Hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa” (Tin Mừng)

 

Người đời bi quan là vì họ không có đức tin. Kitô hữu thì phải lạc quan vì có đức tin. Ánh sáng đức tin giúp chúng ta giúp chúng ta thoát khỏi kiểu nhìn những biến cố một giới hạn và cục bộ, nhưng mở rộng tới tầm nhìn toàn diện lịch sử diễn tiến theo chương trình của Thiên Chúa.

 

* 6. Bài giải thích của Origène (+ 253)

Câu Cựu Ước được trích dẫn là của ngôn sứ Isaia: “Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Ðức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi” (Is 40,3) Con đường mà chúng ta phải dọn cho Chúa là con đường nào? Phải chăng là con đường vật chất? Thế nhưng Lời Chúa có cần đi con đường này không? Hay là phải dọn cho Chúa con đường nội tâm và thu xếp trong tâm hồn chúng ta những con đường ngay thẳng và liền lạc? Vâng, đây chính là con đường mà Ngôi Lời Thiên Chúa vạch trong tâm hồn con người để nó có khả năng đón nhận Lời Ngài.

 

Tâm hồn con người thật rộng rãi và dễ đi, miễn là nó thanh sạch. Bạn có muốn biết con đường ấy rộng lớn thế nào không? Hãy xem nó có thể chứa đựng biết bao hiểu biết thần linh. Chính tâm hồn con người thố lộ: “Quả chính Ngài ban cho tôi trí tri cách vật, biết được cơ cấu càn khôn và năng lực của ngũ hành, mối đầu, mút cuối và khoảng giữa các thời, đông chí hạ chí đắp đổi và thời tiết tuần hoàn, tần niên chu kỳ, vị trí tinh sao, bản tính loài vật, bản năng mãnh thú, sức mạnh tinh thần, tâm tư người thế, phân loại thảo mộc, dược tính rễ cây. Mọi điều ẩn tàng hay minh bạch, tôi đều đã biết. Phải, chính tay thợ làm ra mọi sự đã dạy dỗ tôi, sự khôn ngoan” (Kn 7,17-23). Bạn thấy đấy, tâm hồn con người đâu phải là nhỏ vì có thể chứa đựng bấy nhiêu điều ấy. Bạn phải hiểu rằng nó rộng lớn không phải về những chiều kích thể chất, mà về năng lực của tư tưởng, có thể ôm trọn những hiểu biết chân lý to lớn dường ấy.

 

Ðể giúp những người đơn sơ nhận biết sự to lớn của tâm hồn con người, tôi sẽ đưa ra những thí dụ quen thuộc. Tất cả mọi thành thị chúng ta đi qua, chúng ta đều giữ lại trong tâm trí: những nét đặc thù của chúng, hoàn cảnh ở các nơi, những tường lũy, những dinh thự… Tất cả đều ở lại trong tâm hồn chúng ta. Con đường mà chúng ta đã đi qua, nó cũng ở lại như vẽ như in trong trí nhớ của chúng ta. Biển cả mà chúng ta đã bơi lội, chúng ta vẫn còn giữ lại trong ý tưởng một cách thầm lặng. Tôi xin lặp lại, chẳng nhỏ bé đâu cái tâm hồn có khả năng ôm ấp biết bao điều như thế ấy! Và nếu nó không nhỏ vì có thể ôm ấp bao điều như vậy, ta có thể dọn đường cho Chúa và sửa thẳng lối lại để cho Ðấng là Lời và Khôn ngoan có thể đi. Hãy dọn đường cho Chúa bằng một cách sống đáng khen, bằng những việc làm tuyệt hảo; hãy san phẳng con đường để Ngôi Lời có thể đi mà không gặp cản trở nào. Rồi Ngài sẽ ban cho bạn được hiểu biết về những mầu nhiệm và về việc Ngài ngự đến, “kính dâng Ngài vinh quang và uy quyền đến muôn thuở muôn đời” (1 Pr 4,11)

 

  1. Chuyện minh họa ý nghĩa Mùa Vọng

Tôi đưa một người bạn mù ra sân bay. Khi đến nơi, tôi bảo người đó “Tôi đi lo chút việc. Anh đứng đây chờ tôi nhé. Ðừng đi đâu cả”. Rồi tôi đi mua vé, gởi một lá thư và đọc thông báo về các chuyến bay. Khi tôi quay lại, tôi thấy người bạn mù vẫn đứng đấy. Người ta chen lấn chung quanh anh, một người phu khuân vác đây xe trước mặt anh, một đứa bé ngạc nhiên nhìn anh chăm chăm, một người bán báo rao inh ỏi trước mặt anh… Nhưng anh vẫn đứng yên, nét mặt bình thản, không chút nghi ngờ, không hề sợ sệt. Anh tin chắc tôi sẽ trở lại đón anh.

 

Cảnh một người mù nhắm mắt đứng yên chờ tôi trở lại khiến tôi liên tưởng tới thái độ người tín hữu phải có trong Mùa Vọng để đón chờ Chúa đến. (Willi Hoffsuemmer).

 

  1. Lời nguyện cho mọi người

Chủ tế: Anh chị em thân mến, Thiên Chúa mời gọi con người hiệp thông với Chúa và với nhau. Ðể đáp lại lời mời gọi đó, con người phải hoán cải con tim, rồi suốt cuộc đời, phải ăn năn sám hối. Với lòng thống hối chân thành vì những lỗi lầm đã phạm, chúng ta cùng khiêm tốn nguyện xin:

  1. Sứ điệp của thánh Gioan Tẩy giả được đúc kết trong lời mời gọi; / Anh em hãy sám hối / vì Nước Trời đã đến gần / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành phần trong Hội thánh / luôn ý thức thân phận tội lỗi của mình / và quyết tâm đổi mới đời sống / để xứng đáng đón mừng mầu nhiệm Giáng sinh.
  2. Trên thế giới ngày nay / tội ác vẫn lan tràn khắp nơi / đặc biệt là tội buôn bán phụ nữ và trẻ em / Chúng ta hiệp lời cầu xin hiệp lời cầu xin cho các nhà lãnh đạo của hết thảy mọi quốc gia / tìm được những biện pháp thích hợp / để tiêu diệt tội ác đáng ghê tởm này.
  3. Ngày nay có một số người hầu như mất hết ý thức về tội lỗi / họ coi việc phạm tội là bình thường / vì lương tâm họ đã trở nên xơ cứng / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ban ơn soi sáng / để mọi người biết cố gắng lánh xa tội lỗi / và tích cực làm nhiều việc thiện.
  4. Trong một thế giới còn nhiều bạo lực / bất công / hận thù / chia rẽ / cần có những người dám xả thân / mang sứ điệp yêu thương của Chúa đến cho mọi người / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành viên trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta / trở nên những chứng nhân của Thiên Chúa là tình yêu / bằng chính đời sống bác ái yêu thương của mình.

Chủ tế: Lạy Chúa là Cha nhân hậu từ bi, để hết thảy mọi người có thể nhìn thấy ơn cứu độ của Chúa, chúng con phải sống gương mẫu trong đời sống tin cậy mến. Vì thế, xin Chúa thương ban ơn trợ giúp để chúng con biết sống theo lời dạy dỗ của Chúa Giêsu Kitô, Con Chúa, là Ðấng hằng sống và hiển trị muôn đời.

  1. Trong Thánh Lễ

Trước kinh Lạy Cha: Chúng ta hãy hướng lòng về Cha trên trời và tha thiết cầu xin Ngài khấng cho Con của Ngài đến thăm viếng chúng ta.

 

Trước lúc Rước Lễ: Chúa Giêsu sắp đến với tâm hồn chúng ta bằng chính Mình và Máu Thánh Ngài. Chúng ta hãy dọn con đường tâm hồn mình cho ngay thẳng và thanh sạch để đón rước Ngài.

 

VII. Giải tán

Ðáp lại lời kêu gọi của Thánh Gioan Tẩy giả, tuần này chúng ta hãy dọn dẹp con đường tâm hồn của mình: lấp đầy những chỗ trũng, san bằng những mô cao, uốn thẳng những quanh co. Có như thế chúng ta mới có thể lãnh nhận ơn cứu độ Chúa ban.

 

33.        Nhập thể dọn đường

(Suy niệm của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL)

 

Mùa Vọng là Mùa đợi trông Đấng Thiên Sai Cứu Thế, Đấng mang đến cho chung loài người và riêng dân Do Thái Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa. Bởi vì, từ sau nguyên tội, loài người đã sống trong đau thương, về cả tâm hồn lẫn thể xác, đến độ, đúng như cảm nghiệm của Phật giáo: “đời là bể khổ”.

 

Thế nhưng, vì Thiên Chúa dựng nên con người là để được sống đời đời, để được hưởng phúc trường sinh bất diệt, mà họ không thể nào chấp nhận được thân phận khổ đau bất hạnh của mình. Theo giòng lịch sử, họ đã tìm đủ cách để làm sao có thể “vượt qua sự chết mà vào sự sống” (Gioan 5:24).

 

Đó là là lý do mới có các “đạo” giáo khác nhau, tức là có những “con đường”, những “đạo lộ” khác nhau để con người vừa có thể thoát khổ vừa có thể được đạt được hạnh phúc. Một trong những “con đường” hay “đạo lộ” rõ ràng có chủ trương “cứu độ” con người như “đạo” Do Thái và “đạo” Thiên Chúa (Kitô giáo) đó là “đạo” Phật (Phật giáo).

 

Tuy nhiên, trong khi “đạo” Phật chủ trương “tự độ”, nghĩa là tự cứu mình, bằng cách diệt dục là tham sân si khi còn sống trên đời này cũng như bằng đường lối đầu thai luân hồi sau khi chết nếu chưa hoàn toàn diệt dục, cho tới khi giác ngộ mới được siêu thoát vào cõi niết bàn, thì Do Thái giáo và Kitô giáo lại trông chờ “Ơn Cứu Độ” từ Trời Cao.

 

Thật vậy, tự bản tính thụ tạo của mình, một tạo vật hữu hình và hữu hạn, so với Thiên Chúa Hóa Công là Đấng tự hữu, toàn thiện và toàn năng, con người chẳng là gì ngoài bản chất bất toàn và bất lực của mình, chỉ có thể trở thành viên mãn nhờ Ngài và trong Ngài, như họ đã được thông phần vào sự hiện hữu của Ngài nhờ được Ngài dựng nên.

 

Thậm chí khi mới được tạo dựng, còn sống trong tình trạng công chính nguyên thủy, chưa biết đến tội lỗi là gì: “trần truồng không biết xấu hổ” (Khởi Nguyên 2:25), loài người còn sa ngã phạm tội, huống chi bởi nguyên tội họ lại càng mù quáng, sai lạc và yếu nhược hơn nữa, làm sao có thể “tự độ”, tự cứu được bản thân mình như lòng mong ước.

 

Đó là lý do, ngay từ ban đầu, nghĩa là ngay sau nguyên tội, Thiên Chúa chẳng những đã tự động hứa ban Ơn Cứu Độ cho con người qua Đấng Thiên Sai Cứu Tinh của Ngài (xem Khởi Nguyên 3:15), mà còn khôn ngoan không để con người có thể “tự độ”, bằng cách đuổi họ ra khỏi địa đường, kẻo họ hái cây sự sống mà ăn (xem Khởi Nguyên 3:22).

 

Thế là lịch sử của loài người nói chung và lịch sử của dân Do Thái được Thiên Chúa tuyển chọn nói riêng đã trở thành Lịch Sử Cứu Độ, lịch sử đợi trông Ơn Cứu Độ, một Mùa Vọng đợi trông cho được giải thoát khỏi tội lỗi và sự chết là những gì liên lỉ chẳng những hành hạ con người mà còn giúp cho con người càng có lý do sâu xa chính đáng mãnh liệt trông chờ Đấng Thiên Sai Cứu Thế mau đến.

 

Lời Chúa qua miệng Tiên Tri Barúc trong Bài Đọc 1 cho Chúa Nhật Thứ Hai Mùa Vọng hôm nay đã cho thấy Thiên Chúa không quên lời hứa cứu độ của Ngài từ ban đầu, trái lại, Ngài vẫn hiện diện trong giòng lịch sử của loài người nói chung và Lịch Sử Cứu Độ của dân Do Thái nói riêng. Bởi thế, trong Bài Đọc 1 hôm nay, Ngài đã phấn khởi dân Ngài chẳng những ở chỗ kêu gọi họ sống cả về mặt tiêu cực lẫn tích cực mà còn hướng họ về một tương lai sáng lạn tràn đầy sự sống như sau:

Trước hết, Thiên Chúa đã phấn khởi dân Ngài sống cả về mặt tiêu cực lẫn tích cực: “Hỡi Giêrusalem, hãy cởi áo tang chế và sầu khổ của ngươi (“vượt qua sự chết” – Gioan 5:24), hãy mặc lấy sự huy hoàng và vinh quang đời đời của Chúa mà Chúa ban cho ngươi (“mà vào sự sống” – Gioan 5:24). Chúa sẽ mặc cho ngươi áo công lý (“được sự sống” – Gioan 10:10), và đặt vương miện vĩnh cửu trên đầu ngươi (“và được sự sống viên mãn” – Gioan 10:10). Vì chưng, Chúa sẽ tỏ bày huy hoàng của Chúa trong ngươi cho mọi kẻ trần gian (ám chỉ việc Thiên Chúa tỏ mình ra qua Con của Ngài nơi dân Do Thái: “Ơn cứu độ xuất phát từ dân Do Thái” – Gioan 4:22). Vì Thiên Chúa sẽ đời đời gọi tên ngươi là Hoà bình trong công lý và Vinh dự trong hiếu nghĩa”.

 

Sau nữa, Thiên Chúa hướng họ về một tương lai sáng lạn tràn đầy sự sống: “Hỡi Giêrusalem, hãy chỗi dậy, đứng nơi cao, và nhìn về hướng đông (là hướng mặt trời mọc, mặt trời Công Chính là Chúa Kitô – xem Luca 1:78). Hãy nhìn con cái ngươi từ đông sang tây (ám chỉ cả dân ngoại, cả loài người cũng được thừa hưởng giao ước Thiên Chúa đã thiết lập với dân Do Thái)họp lại theo lệnh của Ðấng Thánh (“Thiên Chúa muốn mọi người được cứu độ” – 1Timothêu 2:4), họ hân hoan thấy Chúa nhớ đến họ. Họ bị quân thù dẫn đi xa ngươi, nhưng Chúa đã đem họ về cho ngươi trong vinh dự như các hoàng tử (có thể là ám chỉ loài người bị ngụy thần bắt cóc, sống nô lệ cho hắn, nhưng được lấy lại chức phận con cái Thiên Chúa). Vì Chúa đã ra lệnh triệt hạ (bằng cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô) mọi núi cao và mọi đồi từ ngàn xưa (có thể là ám chỉ các thứ quyền lực sự dữ), lấp đầy những hố sâu (có thểlàám chỉ các cám dỗ gian tà dối trá lừa đảo), để trái đất được bằng phẳng, hầu Israel vững vàng bước đi cao rao vinh quang Thiên Chúa. Theo lệnh Chúa, những cánh rừng, những cây có hương thơm, đã cho Israel núp bóng, vì Chúa sẽ hân hoan lấy lòng từ bi và công bình của Người dẫn dắt Israel đến ánh vinh quang”.

Theo chiều hướng được Thiên Chúa cứu độ kêu gọi và phấn khích trong Bài Đọc 1 hôm nay, dân Do Thái cảm thấy hân hoan vui sống với tràn đầy những tâm tình hứng khởi được chất chứa trong Bài Đáp Ca hôm nay:

  1. Khi Chúa đem những người Sion bị bắt trở về, chúng tôi dường như người đang mơ, bấy giờ miệng chúng tôi vui cười, lưỡi chúng tôi thốt lên những tiếng hân hoan.
  2. Bấy giờ dân thiên hạ nói với nhau rằng: Chúa đã đối xử với họ cách đại lượng. Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan.
  3. Lạy Chúa, xin hãy đổi số phận chúng con, như những dòng suối ở miền nam. Ai gieo trong lệ sầu, sẽ gặt trong hân hoan.
  4. Thiên hạ vừa đi vừa khóc, tay mang thóc đi gieo. Họ trở về trong hân hoan, vai mang những bó lúa.

 

Phải, lịch sử của loài người nói chung và của dân Do Thái nói riêng là một Mùa Vọng trông chờ Ơn Cứu Độ, trông chờ Ngày Giải Thoát, một thời điểm quan trọng nhất trong lịch sử nhân loại và Do Thái, như thể tất cả mọi sự đều chẳng những hướng về thời điểm định mệnh ấy, thời điểm được Tiên Tri Giêrêmia của Cựu Ước trong Bài Đọc 1 của Chúa Nhật Thứ Nhất Mùa Vọng tiên báo một cách trống trống là “Ngày ấy” (liên quan đến lần đến thứ nhất của Chúa Kitô), mà còn từ thời điểm quyết liệt ấy, thời điểm được Thánh Tông Đồ Phaolô của Tân Ước xác định rõ 2 lần trong Bài Đọc 2 hôm nay là “ngày của Ðức Giêsu Kitô” (liên quan đến lần đến thứ hai của Chúa Kitô): “anh em đã thông phần vào việc rao giảng Phúc Âm từ ngày đầu cho tới nay. Tôi tin tưởng rằng Ðấng đã khởi đầu việc lành đó trong anh em, cũng sẽ hoàn tất cho đến ngày của Ðức Giêsu Kitô…”

 

Đúng thế, đối với Kitô hữu thì Chúa Kitô đã tới rồi, như mặt trời công chính chiếu tỏa khắp nhân gian, như một “Ngày” vô tận. Bởi thế, khi lãnh nhận Phép Rửa, tức khi họ chấp nhận Chúa Kitô “là ánh sáng thế gian” (Gioan 8:12), họ đã mặc lấy Người và nhờ đó cũng trở nên “ánh sáng trần gian” (Mathêu 5:14), trở thành “con cái sự sáng, con cái ban ngày” (1Thessalonica 5:5), ở chỗ, như Thánh Phaolô viết trong Bài Đọc 2 hôm nay: “Lòng bác ái của anh em ngày càng gia tăng trong sự thông biết và am hiểu, để anh em xác định những điều quan trọng hơn, nhờ đó anh em được trong sạch và không đáng trách cho đến ngày của Ðức Kitô”.

 

Vẫn biết là Ơn Cứu Độ được ban nhưng không cho con người từ Vị Thiên Chúa vô cùng nhân hậu qua Đấng Thiên Sai Cứu Thế Con của Ngài. Thế nhưng, về phần mình, con người phải làm sao để có thể lãnh nhận và xứng đáng hoan hưởng Ơn Cứu Độ nhưng không và vô cùng cao quí đó nữa.

 

Trong việc sửa soạn cho con người có thể đón nhận Ơn Cứu Độ vô cùng cao quí này, tức là đón nhận chính Đấng Thiên Sai Cứu Thế được Thiên Chúa sai đến, Thiên Chúa đã phải cho xuất hiện vào một thời điểm lịch sử trong “đời hoàng đế Tibêriô năm thứ mười lăm, Phongxiô Philatô làm toàn quyền xứ Giuđêa, Hêrôđê làm thủ hiến xứ Galilêa, còn em là Philipphê làm thủ hiến xứ Ituria và Tracônitêđê; Lysania làm thủ hiến xứ Abilêna; Anna và Caipha làm thượng tế”, một Vị Tiền Hô của Con Ngài và cho Con Ngài là “Gioan, con Giacaria, trong hoang địa”, như được Bài Phúc Âm Thánh Luca hôm nay đề cập tới.

 

Nhân vật lịch sử Tiền Hô Gioan Tẩy Giả này xuất hiện với mục đích “đi trước Chúa để sửa soạn đường lối ngay thẳng cho Người, bảo cho dân Chúa biết: Người sẽ cứu độ là tha cho họ hết mọi tội khiên” (Luca 1:76-77). Bằng cách, như Phúc Âm hôm nay cho biết: “Ông liền đi khắp miền sông Giođan, rao giảng phép rửa sám hối cầu ơn tha tội, như lời chép trong sách Tiên tri Isaia rằng: ‘Có tiếng kêu trong hoang địa: Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi; con đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, con đường gồ ghề hãy san cho bằng. Và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa”.

 

Vâng, Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả, với tư cách là “tiếng kêu trong hoang địa”, được Thiên Chúa sai đến trước Chúa Kitô là “Lời đã hóa thành nhục thể” (Gioan 1:14) để thực hiện sứ vụ “sửa soạn đường lối ngay thẳng cho Chúa” nơi dân Do Thái, nhờ đó “dân Chúa” mới có thể nhận biết Đấng Thiên Sai Cứu Thế của họ. Và ngài đã “sửa soạn đường lối ngay thẳng cho Chúa” nơi dân Do Thái, ở chỗ “rao giảng phép rửa sám hối cầu ơn tha tội”, bằng cáchngài ra tay “lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi; con đường cong queo hãy uốn cho ngay thẳng, con đường gồ ghề hãy san cho bằng”.

 

Điển hình là thành phần Pharisiêu và Saducê đến chịu phép rửa với mình, Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả này đãthẳng thắn “lấp… bạt” và “uốn… san” như thế này: “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy? Các anh hãy sinh hoa quả để chứng tỏ lòng sám hối. Đừng tưởng có thể bảo mình rằng: ‘Chúng ta đã có tổ phụ Áp-ra-ham.’ Vì, tôi nói cho các anh hay, Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Áp-ra-ham. Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa” (Mathêu 3:7-10).

 

“Hỡi Chúa Hài Đồng, xin cho con biết hạ mình xuống, khiêm nhượng và đơn sơ như trẻ con, để con được làm bạn thân của Chúa!” (Lời nguyện tắt của Linh Mục Đaminh Maria Trần Đình Thủ, CRM).

 

34.        Chúa Nhật 2 Mùa Vọng

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

 

ĐỂ MỌI NGƯỜI NHẬN BIẾT ƠN CỨU ĐỘ

 

Ngày khai mạc năm thánh nhân kỷ niệm 50 năm ngày thành lập Hàng Giáo Phẩm Việt Nam vừa qua tại Sở Kiện, những ai trực tiếp tham dự hay theo dỏi cách nào đó đêm diễn nguyện, hẳn ít nhiều cũng cảm thấy xúc động về phần sám hối của giáo hội Việt Nam. “Giáo Hội chúng con xin chân thành thú tội. Giáo hội chúng con xin cúi đầu tạ tội.” Câu ca thú lỗi lặp đi lặp lại sau những lời xưng thú với từng đối tượng về những lỗi lầm cụ thể khiến lòng người chìm hẳn xuống trong sự khiêm nhu. Một trong những lỗi lầm mà đoàn con Chúa dân Việt cần xưng thú đó là thái sống đạo ích kỷ, nghĩa là chỉ biết lo giữ đạo cho mình mà quên, đúng hơn là xao nhãng nghĩa vụ chia sẻ hồng ân tin mừng cứu độ mình đã lãnh, cụ thể là chưa tạo điều kiện để cho mọi người nhận biết ơn cứu độ.

 

Các bài trích đọc lời Chúa trong Chúa Nhật II Mùa Vọng C, đặc biệt bài trích sách Tiên tri Baruc và bài Tin mừng theo thánh Luca hướng cái nhìn của chúng ta đến hạnh phúc của tha nhân. Để cho đoàn dân đã bị lưu đày khắp cõi Đông Tây hân hoan thấy Chúa nhớ đến họ, đem họ trở về Giêrusalem trong vinh dự như các ông hoàng, Thiên Chúa ra lệnh hãy triệt hạ mọi núi cao, lấp bằng mọi hố sâu (x. Bar 5,7). Thánh Gioan Tẩy Giả đã lấy lại lời ngôn sứ Isaia để xác định sứ vụ của mình là kêu gọi người ta “hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi; con đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, con đường gồ ghế hãy san cho bằng. Và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa.” (Lc 3, 4-6)

 

Mùa Vọng về, chúng ta vốn quen với nhiều lối suy tư mang tính luân lý như hãy bạt đi những núi đồi của sự cao ngạo, hống hách; hãy lấp đầy các hố sâu chia rẽ hay hố sâu của lòng tham vô đáy; hãy sửa cho ngay các con đường gian dối, xảo trá, bất công…Tuy nhiên cần để ý rằng những suy tư này thường mang tính cá nhân vị kỷ, nghĩa là hãy sửa lại những tâm tư, lối sống sai lạc, bất chính của mình để bản thân mình có khả năng hay gọi là xứng đáng đón nhận Đấng Cứu Độ.

 

Xin được hướng cái nhìn ra khỏi lòng mình để đến với tha nhân theo thánh ý Chúa là muốn cho mọi người nhận biết chân lý hầu được hưởng ơn cứu độ (x.1Tim 2,4). Theo viễn kiến này thì việc bạt núi đồi, lấp hố sâu, sửa đường quanh co… không hạn chế ở chiều kích cá nhân mà còn mang chiều kích xã hội.

 

Bạt đi núi đồi kiêu căng, ngông cuồng: Chước cám dỗ thưở ban đầu sáng tạo vẫn còn đó. Nhân loại hôm nay dường như tiến bộ vượt bực trong các lãnh vực khoa học kỹ thuật. Dù còn nhiều hạn chế và bất cập, nhưng có thể nói rằng con người ngày nay có thể làm chủ các quy luật tự nhiên một cách nào đó. Và rồi đã có lúc con người những tưởng rằng mình có thể không chỉ thay trời làm mưa mà có thể tự mình làm ra cả trời. Việc kiếm tìm sự thiện, việc phân biệt điều thiện ác, lành dữ là việc đáng làm và phải làm hầu xứng với phận người. Tuy nhiên con người lại bị cám dỗ lấy bản thân mình làm điểm quy chiếu cho sự thiện sự ác. Khi chủ trương rằng không có sự thiện sự ác khách quan mà chỉ có điều dữ, điều lành theo sự thẩm định chủ quan của mình thì vô tình hay hữu ý con người muốn tự phong thần phong thánh cho bản thân. Cái nguy hiểm của sự kiêu ngạo còn nhân lên gấp bội khi được khoác chiếc áo tập thể. Biết rằng cái đa số chưa hẳn là chân lý, thế nhưng người ta cũng dễ an tâm khi thuộc về số đông ngay cả trong những điều nghịch lý hay vô luân. Người ta lại còn dễ bị cám dỗ đề cao cái tập thể của mình lên hàng muôn năm để rồi cá nhân của mình trở thành bất diệt. Chúng ta đừng quên bất cứ tập thể nào cũng do từng cá nhân gộp lại.

 

Khi nói đến các hố sâu, chúng ta dễ liên tưởng đến lòng tham lam vô đáy của con người. Thánh Kinh đã từng ví sự tham lam là một hình thức thờ ngẫu tượng. Cần nhìn nhận rằng sự tham lam khi mang tính cá nhân thì dễ bị trách cứ hay lên án, thế nhưng khi nó mang tính tập thể thì rất dễ được châm chước hay được biện minh, cho dù lắm khi chỉ là sự ngụy biện. Xin được nói đến các hố sâu của sự chia rẽ. Cần phải lấp đầy những hố sâu chia rẽ do hận thù, do bất đồng quan điểm, do khác nhau về niềm tin, về chính kiến. Ở đây không bàn đến những khác biệt mang tính cá nhân. Những sự khác biệt mang chiều kích tập thể, xã hội rất có thể là nguyên nhân phát sinh nhiều sự tranh chấp, loại trừ khủng khiếp. Các cuộc chiến tranh mang tính tôn giáo hay mang tình ý thức hệ mà lịch sử ghi lại cho chúng ta xác tín sự thật này.

 

Và cuối cùng là hình ảnh con đường quanh co. Với cá nhân thì có thể nghĩ đến sự thiếu ngay thẳng trong tâm tư, ý nghĩ và hành động của con người. Tuy nhiên dưới chiều kích xã hội thì chúng ta có thể nói đó là sự thiếu công minh trong các chủ trương, đường lối, chính sách, luật lệ. Hoặc nếu có luật lệ, chủ trương chính sách xem ra công minh nhưng việc áp dụng lại không công bình. Hiện tương “quan xử tình, dân xử nhặt” là một đan cử. Chính cái quanh co của các thể chế luật lệ đã hình thành nhiều tệ nạn như gian dối, tham ô, hối lộ, cửa quyền… mà không dễ gì diệt trừ ngày một ngày hai.

 

Phải sửa, phải lấp, phải bạt những gì cần bạt, cần lấp, cần sủa nơi con người mỗi người chúng ta. Thánh Gioan Tẩy giả đã nói với đám đông dân chúng là: “Ai có hai áo thì chia cho người không có; ai có của ăn cũng hãy làm như vậy”. Với người thu thuế thì rõ ràng “đừng thu thuế quá mức ấn định” Với binh lính thì “đừng hà hiếp dân, hãy bằng lòng với lương bổng của mình” (x. Lc 3,-14). Thế nhưng với nhiều người Pharisiêu và nhóm Sađốc thì Ngài mạnh mẽ vạch mặt: “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy?” (Mt 3,7).

 

Đọc Tin Mừng chúng ta thấy Chúa Giêsu rất độ lượng, khoan dung với những người bé mọn, yếu đuối và cả tội lỗi, thế nhưng Người lại có vẻ cương quyết và nghiêm khắc với nhiều người lãnh đạo Do Thái giáo, hoặc có vai vế, có ảnh hưởng trên dân thời bấy giờ. Cái nguyên nhân chính đó là vì không chỉ cung cách sống của họ bất minh mà còn vì lề lối hướng dẫn, sự chỉ đạo của họ không ngay thẳng khiến cho nhiều người lầm lạc. “Khốn cho các ngươi, hỡi các kinh sư và người Pharisiêu giả hình! Các ngươi khóa cửa Nước Trời không cho thiên hạ vào! Các ngươi đã không vào mà những kẻ muốn vào, các ngươi lại không để họ vào…Các ngươi rảo khắp biển cả đất liền để rủ cho được một người theo đạo; nhưng khi họ theo rồi, các ngươi lại làm cho họ đáng xuống hỏa ngục gấp đôi các ngươi…” (Mt 23, 13-32; x. Lc 11,39-48).

 

Sự cao ngạo, xấu xa, bất minh, quanh co…trong đời sống cá nhân là điều đáng trách nhưng cũng có thể đáng thương vì ít nhiều còn vấn vương sự yếu đuối. Sự xấu xa, quanh co, bất chính, bất minh, ngông cuồng trong các chủ nghĩa, chủ trương, đường lối, chính sách…và cơ chế vận hành của chúng thì cần phải mạnh mẽ lên án và loại trừ, không nguyên chỉ vì chúng được hình thành bằng sự chủ ý, mà con vì hậu quả khôn lường mà chúng di hại cho xã hội, đặc biệt cho những người bé mọn.

 

Vừa qua, giám mục Thomas J. Tobin, giám mục Providence đã mạnh mẽ khẳng định rằng trong việc tranh luận” (bàn về chân lý), thì không thể chấp nhận chuyện đưa má bên kia cho người ta tát, nghĩa là luôn luôn tỏ ra dịu dàng, dễ thương. ” Khi đối chứng với điều ác, Chúa Giêsu đã không dễ chịu, tử tế, nhẹ nhàng, và dịu ngọt “. ” Chuá đã sống trong một thế giới thô bạo và đảo ngược và Người đã tuyên xưng thông điệp của Người trên đường phố.” (x. Chân dung một Giám Mục Mỹ: Khi tranh luận, sẽ không đưa ra má bên phải -VietCatholic News (12 Nov 2009 18:17)

 

Để mọi người nhận biết ơn cứu độ, thì còn đó rất nhiều việc Kitô hữu chúng ta, con chiên lẫn chủ chiên, cần phải làm, và lắm khi phải can đảm lội ngược dòng. Dĩ nhiên khi đã làm thì chúng ta khó tránh khỏi chuyện phải vác thập giá. Và chuyện cũng đương nhiên đó là có vác thập giá mình đi theo Đấng đã bỏ trời xuống làm người để làm chứng cho sự thật thì mới đích thực là môn đệ của Người (x. Lc 14,27; Ga 18,37).

 

35.        Dọn đường cho Chúa đến

(Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)

 

  1. DẪN NHẬP

Chúa nhật thứ nhất mùa Vọng Giáo Hội dạy chúng ta hãy trông đợi chúa đến. Chúa sẽ đến với chúng ta trong ngày kết thúc vũ trụ hay ngày kết thúc của đời mình. Trong ngày đó, chúng ta đừng sợ, hãy đứng dậy và ngẩng cao đầu lên vì ơn cứu rỗi của chúng ta đã gần đến.

 

Chúa nhật thứ hai Mùa Vọng hôm nay, thêm một bước nữa, Giáo hội dạy chúng ta hãy dọn đường để đón tiếp Chúa. Trông đợi và dọn đường là hai sự việc móc nối với nhau, để việc Chúa đến sẽ gây một chú ý đặc biệt nơi chúng ta.

 

Ra vào phải có cửa, qua lại phải có đường là lẽ cố nhiên. Nhưng đối với Chúa đường lối Ngài đến với chúng ta có điều hơi khác. Chúa đến với chúng ta bằng con đường thiêng liêng, hay nói cách khác, con đường Chúa đến phải là con đường lòng của chng ta. Tiên tri Barúc cũng như Gioan Tiền hô đều nhắc lại lời Kinh thánh dạy chúng ta cách dọn đường cho Chúa: “Thiên Chúa đã ra lệnh phải bạt thấp núi cao và gò nỗng có tự lâu đời, phải lấp đầy thung lũng cho mặt đất phẳng phiu, để Israel tiến bước an toàn dưới ánh sáng vinh quang của Thiên Chúa”. Và “Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Ngài đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm phải san cho bằng”.

 

  1. TÌM HIỂU LỜI CHÚA

+ Bài đọc 1: Br 5,1-9

Đối với cộng đoàn Do thái tha phương, Giêrusalem tượng trưng cho thành đô lý tưởng, nơi qui tụ những người lưu lạc khắp nơi dưới sự hướng dẫn của Thiên Chúa.

Tuy còn sống trong cảnh lưu đầy xa quê hương, tiên tri Barúc, thư ký của tiên tri Giêrêmia, đã loan báo tin mừng cho dân và phác họa ra một quang cảnh chứa chan hy vọng và phấn khởi: đã đến lúc Thiên Chúa chấm dứt cảnh lưu đầy đau thương, để đưa dân trở về quê hương trong danh dự và vinh quang:”Con cái ngươi từ đông sang tây tụ họp về, chúng hớn hở vui mừng, chúng được kiệu vinh quang rực rỡ khác chi một ngai vàng”.

 

Thiên Chúa sẽ thay đổi sống phận Israel. Do đó, Israel sẽ là dân mới có thành Giêrusalem mới. Thật ra quang cảnh này chỉ thành hiện thực trong nước Chúa Kitô thôi.

 

+ Bài đọc 2: Pl 1,4-6.8-11.

Trong bài đọc 2 hôm nay, thánh Phaolô viết thư gửi cho tín hữu Phlilipphê nhiều điều tương tự như ngài đã viết cho tín hữu Thessalonica tuần trước. Ngài khen ngợi lòng quảng đại của tín hữu Philipphê, đồng thời cũng nhắc nhở cho họ hãy tỏ ra xứng đáng đón tiếp Đức Kitô vào ngày Người trở lại. Ngài khuyên họ hãy gia tăng tình bác ái, sống tinh tuyền và đừng để có gì đáng trách:”Tôi cũng xin cho anh chị em được nên tinh tuyền và không làm gì đáng trách, trong khi chờ đợi ngày Đức Kitô quang lâm” (Pl 1,10).

 

Vì thế, cả đời người Kitô hữu là ngóng đợi ngày Chúa quang lâm. Cả đời người Kitô hữu là chuẩn bị, là dọn dường cho Chúa đến. Đấy chính là những điều mà Giáo hội mượn lời thánh Tông đồ để khuyên chúng ta.

 

+ Bài Tin mừng: Lc 3,1- 6

Khi nhắc lại cho chúng ta hoàn cảnh lịch sử trong đó Đức Giêsu giáng sinh, thánh Luca cho thấy Đức Giêsu là một nhân vật có thật trong lịch sử, một Đấng Cứu thế phổ quát mà Thiên Chúa hứa ban từ xưa và dân Israel đã chờ đợi qua muôn thế hệ, đã đến. Thánh Gioan Tẩy giả chính là kẻ tiền hô dọn đường cho Ngài.

 

Thánh Gioan phải mượn lời tiên tri Isaia mà lớn tiếng rao giảng và kêu gọi mọi người tỏ lòng sám hối bằng cách chấp nhận được rửa trong dòng sông Giođan để đợi chờ Chúa Cứu thế, vì Ngài sắp xuất hiện.

 

Sứ mạng mà Gioan phải thực hiện là “Hãy dọn con đường cho Đức Chúa; sửa lối cho thẳng để Người đi; mọi thung lũng, phải lấp cho đầy; mọi núi đồi phải bạt cho thấp; quanh co phải uốn cho ngay; đường lồi lõm, phải san cho bằng”. Chúng ta phải sống theo lời thánh Gioan khuyên bảo, để có thể đón Đấng Cứu thế đến với chúng ta hôm nay.

 

  1. THỰC HÀNH LỜI CHÚA

Hãy dọn đượng cho Chúa đến

 

  1. NHU CẦU DỌN ĐƯỜNG

Trên thế giới ngày nay có rất nhiều con đường để di chuyển vừa dài vừa rộng lại đẹp đẽ tối tân, để giúp cho việc di chuyển được nhanh chóng, tiết kiệm được thời giờ và tiền của. Nhưng từ những con đường rộng rãi thênh thang ấy cũng cần có những con đường nhỏ để dẫn tới từng ngôi nhà. Nhà nào mà không có đường vào? Vì thế, trước khi xây nhà, người ta phải tính chuyện mở con đường vào nhà trước, nếu không có đường vào, không ai xây nhà cả.

 

Sách có chữ rằng:”Thùy năng xuất tất do hộ, nhi bất hành tất do đạo”: ai ra vào phải qua cửa, cũng như đi lại tất phải có đường. Có đường đi là một điều cần, không có đường đi thì việc di chuyển bị bế tắc. Đường đi thì có muôn ngàn lối và cần phải sửa sang cho việc di chuyển được dễ dàng. Chúng ta cũng đã có con đường đến với Chúa và Chúa đến với chúng ta, nhưng con đường đó nhiều khi bị bỏ hoang, gây khó khăn cho việc di chuyển nên cần phải sửa sang lại cho việc di chuyển được dễ dàng.

 

Chúa nhật tuần trước chúng ta đã nghe Giáo hội dạy phải ngửa mặt lên để mong chờ Chúa. Chúa nhật hôm nay Giáo hội lại dạy chúng ta phải dọn đường để đón tiếp Ngài. Mong chờ và dọn đường là hai sự việc móc nối với nhau, để việc Chúa đến gây một sự chú ý đặc biệt nơi chúng ta. Bài Tin mừng hôm nay hô hào chúng ta dọn đường cho Chúa, tất nhiên dạy chúng ta phải dọn lòng để đón rước Chúa:”Có tiếng kêu trong hoang địa. Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi: Con đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, con đường gồ ghề, hãy san cho bằng. Và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa”.

 

  1. Dọn đường cho vua chúa đến

Gioan là sứ giả được Thiên Chúa sai đến hô hào cho dân chúng dọn đường cho Chúa đến.

 

Sau một thời gian tôi luyện bằng đời sống khắc khổ trong sa mạc, ông đã xuất hiện với một sứ điệp quả quyết từ Thiên Chúa lôi cuốn quần chúng đông đảo đến thung lũng Giođan, để nghe giảng đạo và tiếp nhận lễ rửa như một dấu hiệu và dấu chứng cho lòng ăn năn. Bản chất của chức vụ ông là làm ứng nghiệm lời báo trước của tiên tri Isaia “Tiếng kêu trong hoang địa”, người được Thiên Chúa sai đến để dọn đường cho Đấng Cứu thế đến.

 

Sự chuẩn bị này có tính cách Đông phương, khi một vị vua định đi tuần tra một vùng nào trong vương quốc mình thì sai một vị quan đi trước để hô hào dân chúng sửa sang đường sá. Chỗ trũng phải lấp đầy, chỗ cao phải bạt xuống, đường quanh co phải nắn lại cho thẳng, đường gồ ghề phải sửa cho êm. Như vậy, muốn cho người ta sẵn sàng tiếp nhận Chúa Kitô, những trở ngại đạo đức cần phải dẹp sạch, phải sám hối ăn năn và từ bỏ tội lỗi. Luca đã kết thúc câu trích Isaia rằng:”Và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa” để phù hợp với tính cách phổ thông của Tin mừng.

 

  1. Lời kêu gọi vẫn còn tính thời sự

Đức Giêsu đã đến trần gian thực hiện công cuộc cứu độ loài người từ 2000 năm nay rồi. Vậy phải chăng lời loan báo của Gioan Tẩy giả đã trở thành quá cũ kỹ với tín hữu chúng ta ngày hôm nay chăng? Vâng, quả thực Đức Kitô đã đến và làm mọi sự để cứu độ con người và lẽ ra với sự hy sinh tuyệt vời của Ngài, nhân loại đã được giải thoát mọi tội lỗi để sống trong yêu thương và hạnh phúc. Thế nhưng, chính sự tôn trọng phẩm giá, tự do và ý thức của con người nên Thiên Chúa đã không dùng bất cứ một hình thức cưỡng chế nào để bắt con người phải chấp nhận chân lý của Ngài. Nên thực tế là sự lầm lạc, tội lỗi và đau khổ vẫn còn tồn tại.

 

Gioan Tẩy giả đến rao giảng sự thống hối bằng việc chịu phép rửa để xin ơn tha tội. Chịu phép rửa là nói lên quyết tâm sám hối, thay đổi cuộc sống. Sám hối hay hoán cải mà chúng ta nói ở đây (Metanoia: sự trở lại) là một sự quay trở lại với Thiên Chúa. Nếu hoán cải chỉ là một sự thay đổi luân lý hay xã hội, thì cuộc sống Kitô hữu có lẽ chỉ là một thứ nhân bản như những học thuyết khác, có khi lại còn không hoàn hảo bằng những học thuyết đó. Nhưng đúng ra là ta “quay trở lại với Chúa” cùng với những hậu quả luân lý và xã hội: chống lại tính ích kỷ, bất công, khuynh hướng duy vật thực dụng, sự nô lệ lạc thú và tiền bạc, nếp sống thiếu trong sạch, tính lười biếng. Thái độ chế ngự kẻ khác (Quesson).

 

  1. NHỮNG CON ĐƯỜNG TRẦN THẾ
  2. Những con đường tinh thần

Thánh Gioan không nhọc công hô hào sửa đường cho vua chúa – việc đó thuộc về xã hội – mà muốn chúng ta chú trọng vào con đường thiêng liêng: những con đường ấy ở ngay trong lòng chúng ta, những con đường ấy bị bom đạm của tội lỗi làm hư hỏng, đã trở nên con đường kinh hoàng mà thánh Matcô đã mô tả:”Từ lòng con người, phát xuất những ý định xấu, trộm cướp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tị, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng”(Mc 7,21-22).

 

Người Pharisêu và Saducêu cho rằng chỉ cần giữ Lề luật là đủ, là hết bổn phận với Thiên Chúa. Gioan khẳng định rằng điều cần thiết là cần phải có sự đổi mới tâm hồn:”Hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng, hãy lấp hố sâu (tội lỗi), hãy bạt núi đồi, con đường gồ ghề hãy san cho bằng”.

 

Dọn đường có nghĩa là sám hối canh tân. Muốn sám hối cần phải biết mình, biết những sở trường sở đoản của mình. Một mình mình biết, một mình mình hay là một điều tốt, nhưng chưa đủ, còn cần những lời của người khác thức tỉnh, con người mới thoát ra khỏi cảnh u mê lầm lạc. Lời thánh Gioan là những nhắc nhở mà Giáo hội muốn chúng ta thực hiện trong Mùa Vọng này.

 

Truyện: Tô Tần và vua nước Sở.

Đời Chiến quốc, nhà du thuyết Tô Tần sang nước Sở, phải đợi suốt ba ngày mới được vào ra mắt vua Sở. Nói xong câu chuyện, Tô Tần xin cáo biệt đi ngay.

Vua Sở bảo:

  • Quả nhân nghe tiếng tiên sinh quí như nghe tiếng một bậc danh nhân xưa. May tiên sinh đã không quản xa xôi, đến chơi với quả nhân, lại không chịu ở lại là cớ làm sao?

Tô Tần thưa:

  • Tôi xem ra thấy nước Sở này có đồ ăn đắt hơn ngọc, củi đắt hơn quế, quan khó được trông thấy như ma, vua khó được yết kiến như trời. Nay nhà vua muốn bắt tôi ở lại để ăn ngọc thổi quế, nhờ ma thấy trời hay sao?

Vua Sở khẩn khoản nài:

  • Xin mời tiên sinh cứ ở lại, quả nhân đã hiểu rõ quá rồi.

Một nước mà vật giá đắt đỏ:”Củi quế gạo châu”, vua quan xa cách dân chúng, thì nhân dân trong nước khổ sở biết bao. Cái đáng khen của vua Sở là sau khi nghe Tô Tần bình phẩm về tình hình kinh tế chính trị của đất nước mình, thì ông liền nhận ra sai lầm và quyết tâm sửa chữa.

(Thiên Phúc, Như Thầy đã yêu, năm C, tr 13).

 

Đọc xong câu truyện nhà du thuyết Tô Tần với vua nước Sở, chúng ta cũng phải suy nghĩ về hoàn cảnh của chng ta: có cái gì nhắc nhở chúng ta trong dịp mừng lễ Giáng sinh không? Mỗi lần Mùa Vọng đến, lại có một Tô Tần xuất hiện để vạch ra những lỗi lầm của chúng ta và nhắc nhở chúng ta sám hối canh tân. Đó chính là Gioan Tẩy giả”(Lc 3,4).

 

  1. Những con đường phải sửa.

Nghe theo lời kêu gọi của thánh Gioan, chúng ta hãy dùng Mùa Vọng này như là bầu khí thuận tiện để sám hối và quay về với Chúa bằng cách:

  1. a) Hy lấp đầy những hố sâu.

Hố sâu hay lũng sâu bao giờ cũng tượng trưng cho hố thẳm của mọi nguy hiểm, mọi bất trắc. Hố sâu tượng trưng cho túi tham vô đáy của con người. Vì gian tham, con người có thể thực hiện được mọi tội ác để vơ vét. Tưởng rằng càng vơ vét nhiều, mình càng giầu, càng đầy. Nhưng oái oăm thay, mình lại cng thấy cuộc đời trống rỗng. Hành động “lấp đầy” theo nghĩa siêu nhiên ở đây là lấp đầy những hố thẳm mênh mông (những khát vọng vô biên) của con người bằng đạo đức, bằng công chính, bằng chính Thiên Chúa, là Đấng Cội nguồn sự sống, là chính Chân, Thiện, Mỹ.

 

Truyện: Lòng tham vô đáy.

Người Trung hoa có câu truyện ngụ ngôn nói lên được cái dục vọng thầm kín của con người muôn thuở: Một người bị giam ở địa ngục, sắp được đi đầu thai. Anh ta tâu với Diêm Vương:

  • Như quả thật Đại Vương muốn cho tôi trở về dương thế, thì xin cho tôi được mấy đặc ân.

Diêm Vương hỏi:

  • Ngươi xin điều chi?

Anh ta đáp:

  • Tôi xin đầu thai làm con một vị tể tướng, làm cha một vị trạng nguyên. Tôi xin được một ngôi nhà ở giữa một khu đất vạn mẫu, có ao thả cá, có cây trái đủ thứ. Tôi xin có một người vợ tuyệt sắc, nhiều tì thiếp diễm lệ, tất cả đều chung tình ngoan ngoãn chiều chuộng tơi. Tôi xin được châu báu chất đầy phòng, lúa thóc đầy lẫm, tiền bạc đầy rương. Tôi xin được làm một vị quan công khanh, suốt đời vinh hoa phú quí, sống lâu trăm tuổi. Chỉ bấy nhiêu thôi.

Diêm Vương đáp:

  • Trần thế mà có được người như vậy, thì ta đây đã đầu thai thế cho ngươi rồi.

(Nguyễn văn Y, Có chí thì nên, tr 100-102)

 

  1. b) Hãy bạt núi đồi xuống.

Đồi núi đây là tính kiêu ngạo. Chúng ta thường nghe câu: “Tam sơn tứ hải nhất phần điền”, nhưng đọc Thánh kinh không nghe nói Chúa đã dựng nên đồi núi lúc nào cả. Có người đoán: có lẽ đồi núi đã mọc lên sau ngày nguyên tổ Adong Evà phạm tội kiêu ngạo, do đó kiêu ngạo lại là của gia truyền.

Con người mãi mãi chỉ là tạo vật, không phải là “Chúa”. Phải biết mình là con người bất toàn như người ta nói:”Nhân vô thập toàn” nên phải ý thức sự bất toàn và giới hạn của mình, hay đúng hơn, “biết mình để đừng tự cao tự đại, để cải quá tự tân”.

 

Truyện: Giỏi gì đâu.

Trần-nghiêu-Tử làm quan tiết độ sứ đời Tống, là người tài bắn, thiên hạ khen phục, Nghiêu Tử cũng lấy làm kiêu căng tự đắc. Nghiêu Tử thường bắn ở trong vườn nhà mình. Một hôm có ông lão bán dầu đi qua, thấy Nghiêu Tử bắn, đặt gánh xuống, ngấp nghé đứng xem. Ông lo thấy Nghiêu Tử bắn 10 phát trúng 7, 8 thì hơi gật gù và mỉm miệng cười.

Nghiêu Tử thấy thế, gọi vào bảo:

  • Nhà ngươi cũng biết bắn chứ? Người cười ta bắn không được phải không?

ông lão đáp:

  • Giỏi gì đâu, chẳng qua là quen tay đấy thôi.

Nghiêu Tử giận, nói:

  • A, nhà ngươi dám khinh ta không bắn giỏi có phải không?

Ông lão bán dầu đáp:

  • Khinh hay không ngài cứ xem, tôi rót dầu đây thì biết!

Nói xong, ông lão lấy ngay cái bầu đặt xuống đất, trên miệng bầu để một đồng tiền rồi từ từ rót dầu qua lỗ mà không nhiễu một tí dầu nào ra lỗ đồng tiền cả.

Rót đoạn, ông lão ngẩng mặt lên Trần nghiêu Tử:

  • Như tôi đây cũng chẳng giỏi gì đâu, chỉ quen tay đó thôi.

Nghiêu Tử cười, khen phải và từ đó không lên mặt là tay bắn giỏi nữa.

(Thái Bạch, Đông tây kim cổ tinh hoa, 1971, tr 84-85)

  1. c) Đường con queo phải uốn cho thẳng.

Cong queo đây là thiếu ngay thẳng. Nhiều người suốt đời đã sống bằng mưu mô, bằng thủ đoạn, chỉ cốt mưu lợi cho mình, bất chấp tội phúc và sự thiệt hại cho người khác.

Đường quanh co đây còn có thể là gian dối, tính tự phụ, kiêu căng, thích khoe khoang, coi mình hơn kẻ khác, coi khinh người ta. Vì thế, phải tập sống lương thiện, sống hồn nhiên tự tại theo “nhân chi sơ tính bản thiện” như trẻ thơ (x. Mt 18,3) mới có thể vào Nước trời.

 

Truyện: Bán cam thối.

Lưu Cơ một danh sĩ nước Tầu về đời nhà Minh có viết một bài văn kể lại câu chuyện sau đây. Chuyện kể rằng: Ở Hàng Châu (bây giờ là tỉnh Chiết giang) có người bán các thứ hoa quả, anh ta để dành cam rất khéo, để lâu không ủng, vỏ vẫn đỏ tươi, trông đẹp như vàng ngọc. Anh đem ra chợ bán rất đắt người người tranh nhau mua.

Ta thấy vậy, cũng lại mua một quả đem về. Nhưng bóc ra thì hơi xông lên mũi như xác bông nát. Vì thế, ta phải ra chợ tìm người bán cam, trách rằng:

  • Anh bán cam cho người ta để làm cúng lễ, để đi khách khứa, hay là chỉ làm cho choáng bề ngồi để đánh lừa người ta. Tệ thật, sao anh làm người mà giả dối như vậy?

Người bán cam cười đáp:

  • Tôi làm nghề này đã lâu năm để kiếm tiền nuôi thân. Tôi bán, thiên hạ mua chẳng ai nói gì chi nhiều. Ông ơi, người đời giả dối nhiều, há phải một mình thằng tôi đâu. Sao ông trách tôi mà không nghĩ. Kìa người đeo hổ phù ngồi da cọp, hùng dũng trông thật đáng quan võ, nhưng xét sự thật được bằng Tôn Tẫn, Ngô Khởi hay không? Người đội mũ cao, thắt đai dài, đường hoàng ra vẻ quan văn lắm, nhưng xét sự thật hỏi được như Y Doãn, Cao Dao hay không? Than ôi, giặc giã không biết dẹp, dân khổ không biết cứu, quan lại tham nhũng không biết trừng trị, pháp độ mục nát không biết sửa, ngồi rồi ăn lương không biết xấu. Thế mà lúc ở công đường ăn của quí, uống rượu ngon, đi xe ngựa, trông thật oai vệ, thật vô cùng hách dịch. Đó bề ngoài chẳng như vàng như ngọc mà trong như bông nát là gì? Sao ông không xét những người ấy lại chỉ chú ý vào quả cam của tôi.

Ta nghe nói, nín lặng không trả lời sao được, và nghĩ người ấy có giọng khôi hài nên có cảm tưởng:

Dễ chừng anh ta ghét kẻ gian tà, giận phường thế tục, mới nhận chuyện bán cam để dạy mình đây chăng?

(Thái Bạch, Đông tây cổ kim tinh hoa, tr 194-195).

 

  1. d) Đường lồi lõm san cho bằng

Đường lồi lõm đây là những tính xấu như cáu kỉnh, nóng nảy, nhẹ dạ, gây gỗ, nghi kỵ, ghen tương, cố chấp, vị kỷ, giận hờn, bất hòa. Phải nỗ lực chỉnh đốn và sửa sang lại những chỗ “lồi lõm”. Chính là những tính mê nết xấu lớn nhỏ, những sỏi đá làm cho lời Chúa không thể đâm chồi nảy lộc và đâm rễ sâu vào trong tâm hồn.

 

III. MÙA VỌNG VÀ VIỆC DỌN ĐƯỜNG

Đây là giờ phút phải lựa chọn và quyết định, phải đắm mình vào tầm sâu của nội tâm sám hối, để tính toán việc loại bỏ đi những chướng ngại cản đường Chúa tới giải phóng.

 

Cái đáng ăn thua là được trở thành một thọ tạo mới, trở nên những con người đã được tôi luyện và can trường… Vậy để cho Thiên Chúa có thể đi đến được, ta hãy khai mở những con đường thênh thang của tâm hồn rộng mở và chan hoà yêu thương, hãy đạp đổ những bức tường cách ngăn kỳ thị và phân biệt chủng tộc, hãy cất đi những rào chắn của tư lợi nhỏ nhen, hãy đập tan những xiềng xích bất công và bất bình đẳng mà người ta đang la ó đả đảo, hãy để cho lưỡi gươm Lời Chúa được thảnh thơi tung hoành, hãy thức dậy và đứng thẳng người lên (Fiches dominicales, C, tr 11).

 

  1. Dọn đường mừng lễ Giáng sinh

Hôm nay bước vào tuần lễ thứ hai của Mùa Vọng, phần đông thế giới đang chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh, các cửa tiệm tràn ngập những thiệp Giáng sinh, cây thông Giáng sinh, bao nhiêu quà Giáng sinh, món ăn, quần áo, đồ chơi Giáng sinh. Ở Việt nam chúng ta tuy còn nghèo khó nhưng bầu khí Giáng sinh đã tới, mọi người đang nô nức mua sắm, dọn dẹp nhà cửa, nhạc Giáng sinh đã vang rộn khắp nơi, lòng người đã thấy rạo rực.

 

Nhưng phải dọn mừng lễ Giáng sinh thế nào cho xứng đáng, đúng theo Tin mừng của Chúa hôm nay mà thánh Gioan đã hô hào:”Hãy dọn đường cho Chúa đến”. Con đường lòng của chúng ta đã tốt chưa? Và lòng chúng ta đã trở nên thửa đất mầu mỡ để đón ơn Chúa chưa? Hay lòng chúng ta lại trở nên một sa mạc cằn cỗi?

 

Nếu biết biến sa mạc thành đất tốt, có sự sống, con người phải mất sức, mất của, và chấp nhận nhiều khó khăn. Cũng vậy, dọn đường tâm hồn là chấp nhận biến đổi sa mạc của cõi lòng thành miền đất trù phú, miền đất thắm đẫm ơn Chúa. Bởi vậy, người ta phải chấp nhận sự hao mòn sức lực, chấp nhận tự gọt giũa chính mình, chấp nhận nhiều khó khăn khác nhau. Vì biến đổi như thế là sám hối. Và sám hối thật lòng đòi phải có dấn thân thực sự để tự mình từ nay dám cắt bỏ một thói quen, một đam mê, một tật xấu… để lòng mình biết yêu hơn, khiêm nhường hơn, sống phục vụ hơn, vị tha hơn…

 

Chỉ khi nào dám chối từ những rườm rà chung quanh mình, con người ta mới dám mong ước thuộc về Thiên Chúa. Thái độ sám hối tận căn ấy, mới là sám hối đúng nghĩa. Điều đó không dễ chút nào, vì nó làm ta đau đớn, xót xa, mất mát. Chỉ có sám hối trọn vẹn mới sống đúng nghĩa hai chữ “dọn đường”. Chúa cần một thái độ dọn đường một cách tự nguyện, dứt khoát như thế, để Ngài đi vào tâm hồn, và tâm hồn có chỗ chứa đựng ơn thánh của Ngài. Khi tâm hồn có Chúa, tâm hồn không còn àl sa mạc và cũng chẳng hề sợ sa mạc hĩa, nếu biết giữ mọi ơn Chúa trong tâm hồn mình bằng một đời sống tốt lành, vươn lên trong sự thánh thiện (JKN).

 

  1. Dọn đường chờ đợi Chúa đến

Mùa Vọng là thời gian chờ đợi Chúa đến, Chúa sẽ đến lần thứ hai trong vinh quang của Ngài, nhưng Ngài cũng âm thầm đến gọi chúng ta ra về với Ngài. Cũng có thể nói Mùa Vọng là thời gian chuẩn bị tâm hồn chúng ta đến giờ chết. Đó là thời gian để chúng ta hồi tâm và chuẩn bị. Đây là thời gian để tự vấn chính mình: chúng ta có sẵn sàng đón tiếp Chúa Giêsu vào giờ chết không? Lúc này chúng ta đã sẵn sàng chưa?

 

Truyện: Sẵn sàng về với Chúa.

Vài năm trước đây, tạp chí This Week có thuật lại câu chuyện cảm động về một cậu bé 17 tuổi người Ha lan đã từng trốn khỏi trại tập trung Đức quốc xã, nhưng đã bị bắt lại và bị kết án tử hình. Ngay trước khi bị hành hình, cậu đã gửi cho bố cậu lá thư sau đây. Xin trích lại:”Bố thân yêu, thật khó khăn lắm con mới viết được cho bố lá thư này, nhưng con vẫn phải cho bố hay rằng con đã bị toà án quân sự kết tội tử hình. Xin bố đọc lá thư này một mình và khéo léo bảo cho mẹ biết dùm con… Chẳng bao lâu nữa, lúc đúng 5 giờ, điều đó sẽ xẩy đến cho con… chỉ một chốc thôi thế là con sẽ về với Chúa, Nói cho cùng đấy có phải là cuộc chuyển tiếp đáng kinh hãi không?…Con cảm thấy rõ ràng rằng mình đang ở gần bên Chúa, con đã chuẩn bị sẵn sàng đón chờ cái chết… Con nghĩ rằng con còn đỡ đau khổ hơn bố nhiều, vì con biết rằng mình đã xưng hết tội lỗi, và hiện tâm hồn con hoàn toàn thanh thản… Ký tên: “Kless”.

 

  1. Dọn đường còn là làm chứng cho Chúa

Mừng lễ Giáng sinh là chúng ta kỷ niệm việc Chúa đã xuống trần và sẽ còn đến nữa. Chúng ta có trách nhiệm làm cho người biết Chúa để cùng mừng lễ Giáng sinh. Nếu thánh Gioan Tiền hô đã làm chứng cho Chúa bằng lời nói, bằng việc làm và bằng chính đời sống của Ngài. Ngày hôm nay cũng vậy, chúng ta phải làm chứng cho Chúa trong môi trường của chúng ta. Nhưng muốn cho lời chứng hay bằng chứng của chúng ta có hiệu quả, trước hết chúng ta phải có đời sống xứng đáng, đoạn tuyệt với tội lỗi và những tính mê nết xấu và thể hiện một đời sống bác ái yêu thương. Đó là những việc chúng ta cần làm để chuẩn bị mừng Chúa Giáng sinh.

 

36.        Hãy dọn sẵn con đường

(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)

 

Hàng năm, cứ vào Mùa Vọng, Giáo Hội lại giới thiệu cho chúng ta một nhân chứng sống động là thánh Gio-an Tiền Hô, để thúc đẩy chúng ta bắt chước thái độ của ngài, trước sứ điệp cứu độ. Có lẽ đôi khi chúng ta có cái nhìn “hơi hà tiện” đối với thánh Gio-an, và cho rằng đời ngài chỉ là thứ “quét dọn mở đường”. Dĩ nhiên đó là hình ảnh trước Chúa Cứu Thế. Nhưng thật ra danh hiệu và sự nghiệp của ngài gắn liền với chương trình cứu chuộc của Chúa Giêsu, thậm chí không thể nào nói đến Chúa Giêsu mà không nhắc đến vị Tiền Hô của Người. Chính phụng vụ đã để cả Mùa Vọng nhắc đến ngài.

 

Ngài là con hiếm muộn duy nhất của ông Da-ca-ri-a và bà Ê-li-sa-bét. Ngay từ trong lòng mẹ ngài đã được thánh hiến cho Thiên Chúa, nghĩa là được Thiên Chúa cho khỏi tội tổ tông khi còn trong lòng mẹ và được tràn đầy Chúa Thánh Thần. Lớn lên, ngài sống một cuộc đời khắc khổ: vào trong “hoang địa” tu thân, ăn châu chấu với mật ong rừng và mặc áo nhặm. Tới tuổi trưởng thành, ngài được Thiên Chúa thúc đẩy đi hành nghề ngôn sứ: vào năm 15, thời hoàng đế Ti-bê-ri-ô là vị vua uy hùng lúc ấy. Trong bối cảnh lịch sử đó còn có tổng trấn Phi-la-tô, vua Hê-rô-đê, quan Phi-líp-phê, tiểu vương Ly-xa-ni-a làm mốc thời gian. Về phần tôn giáo có thượng đế Kha-nan và Cai-pha làm nhân chứng cho ngài.

 

Ngài xuất hiện trong lịch sử Do Thái sau 5 thế kỷ vắng bóng ngôn sứ. Ngài hành nghề khắp vùng sông Gio-đan. Dân chúng từ khắp Giê-ru-sa-lem và cả miền Giu-đê tuôn đến với ngài. Ngài rao giảng kêu gọi thống hối và làm phép rửa cũng nhắm tới sự thống hối. Ngài tha thiết kêu gọi dân chúng trở về với Chúa bằng cách đoạn tuyệt với tội lỗi.

Sứ mạng của ngài là dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến, nên ngài kêu gọi mọi người hãy thay đổi đời sống: “Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung lũng phải lấp cho đầy, mọi núi đồi phải bạt cho thấp, khúc quanh co phải uốn cho ngay, đường lồi lõm phải san cho phẳng”.

 

Cụ thể, bạt núi đồi là hãy dẹp bỏ tính kiêu ngạo, khoe khoang, tự hào, tự phụ, khoác lác ba hoa. Lấp mọi hố sâu là hãy điều chỉnh lại cho tròn đầy những thiếu sót bổn phận đối với Chúa, đối với người, đối với gia đình và với chính bản thân mình. Uốn nắn lại những quanh co, cong queo là hãy sửa chữa lại những gian dối, giả hình, ăn không nói có, thay trắng đổi đen, thay đen đổi trắng, ngôn hành bất nhất, lời nói và việc làm không đi đôi với nhau. San phẳng những gồ ghề lồi lõm là từ bỏ những tính khó nết, khó sống, chẳng sống được với ai và cũng chẳng ai sống được với mình v.v…

 

Thánh Gio-an đã lãnh sứ mạng Thiên Chúa trao phó cho ngài trong một khung cảnh của lịch sử thời ngài, và làm tròn sứ mạng là chuẩn bị tâm hồn mọi người đón Chúa Cứu Thế đến. Chúng ta cũng lãnh nhận sứ mạng Ki-tô hữu trong thời đại chúng ta. Sứ mạng của chúng ta vẫn là dọn đường cho mọi người được thấy, được biết ơn cứu độ của Thiên Chúa. Thánh Gio-an đã dạy cho người thời ngài: bạt đồi lấp hố, uốn nắn cong queo, san bằng lồi lõm để dọn đường cho Chúa. Chúng ta hôm nay cũng phải dọn đường cho Chúa như thế. Đâu là những đồi cao, những hố sâu, những cong queo, những lồi lõm gồ ghề nơi bản thân, trong gia đình, trong cộng đoàn, trong xã hội. Và chúng ta phải quyết tâm sửa chữa những sai lầm, những thiếu sót ấy.

 

Mùa Vọng là dịp nhắc nhở chúng ta hãy xét mình, kiểm điểm đời sống qua lời kêu gọi của thánh Gio-an Tiền Hô, để cải thiện đời sống mỗi ngày thêm tốt đẹp hơn. Mỗi người chúng ta đều có một giấc mơ về một thế giới tốt đẹp hơn, đầy yêu thương và an hòa. Nhưng phương thế duy nhất để xây dựng một thế giới tốt đẹp là xây dựng con người chúng ta tốt đẹp hơn, thiện hảo hơn.

 

Đối với chúng ta hôm nay, ơn kêu gọi của chúng ta cũng là làm chứng cho Chúa. Thánh Gio-an Tiền hô đã làm chứng cho Chúa trong thời đại của ngài bằng lời nói, bằng việc làm và bằng chính đời sống của ngài. Chúng ta cũng vậy, chúng ta phải làm chứng cho Chúa trong môi trường chúng ta sống. Nhưng muốn cho lời chứng hay bằng chứng của chúng ta có hiệu quả, trước hết chúng ta phải có một đời sống xứng đáng, đoạn tuyệt với tội lỗi và những tính mê nết xấu và thể hiện một đời sống bác ái yêu thương. Đó là những việc chúng ta cần làm để chuẩn bị mừng Chúa giáng sinh.

 

Tóm lại, dù chúng ta sống trong hoàn cảnh nào thì lời Chúa hôm nay vẫn là một lời khẩn thiết. Xin mỗi người hãy lắng nghe và thực thi để kinh nghiệm được ơn lộc của Mùa Vọng năm nay như cách đây hai ngàn năm, những người Do Thái đã nghe lời Gio-an Tiền Hô. Xin Chúa cho mỗi người chúng ta đều hăng say nhiệt tình thực hiện lời Chúa hôm nay để đổi mới cuộc đời mình, vừa chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh vừa lãnh nhận được nhiều hồng ân của Chúa.

 

37.        Chúa Nhật 2 Mùa Vọng

(Suy niệm của Lm. Giacobê Tạ Chúc)

 

MỖI NGÀY TÔI CHỌN MỘT NIỀM VUI

 

Lời của ca khúc: “Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui”, của cố nhạc sỹ họ Trịnh, mang âm vọng của những ca từ mộc mạc, lạc quan và yêu đời cho mọi người. Nhạc sỹ Trịnh Công Sơn không phải là người công Giáo, thế nhưng bài hát của ông, dòng nhạc của ông trên một bình diện hết sức là con người, cũng có thể mời gọi người Kitô hữu hãy mang tâm tình của một con người đầy hoan hỉ, để mặc lấy chiếc áo cưới huy hoàng, diễm lệ và thật lộng lẫy mà đón mừng Mầu Nhiệm Nhập Thể, Cứu Thế của Ngôi Lời là Đức Giêsu Kitô, Chúa của chúng ta. Mùa Vọng đã khai mở một kỷ nguyên mới và đã dần khép lại với những sợi tơ lòng run rẫy, bởi những niềm vui, và vui mãi trong cuộc đời có Chúa và có nhau.

 

Chứng minh điều này không khó, Tiên tri Sô-phô-ni-a trong bài đọc thứ nhất đã gợi lên: “Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Xi-on, hò vang dậy đi nào, nhà It-ra-el hỡi! Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy nức lòng phấn khởi” (Xp 3,14). Thánh Phao-lô Tông đồ cũng hồ hỡi bảo mọi người rằng: “ Thưa anh em, anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa” (Pl 4,4). Như thế niềm vui và nối tiếp những niềm vui trong Chúa Nhật thứ 3 mùa vọng, không phải là màu tím buồn mà là màu hồng hớn hở và hân hoan. Niềm vui trong lòng, niềm hạnh phúc sung sướng sẽ toát ra trên khuôn mặt, trong giọng nói và trong những nụ cười rạng rỡ trên môi. Vui vì Chúa sắp đến, vui vì một đại lễ Giáng sinh, chất chứa biết bao là ân tình, là tín thác, là bác ái, sẻ chia. Người Kitô yêu đời và nhìn đời dưới lăng kính của đức tin. Một làn gió, một sợi sương, một nghĩa cử yêu thương, bốn phương xa gần là anh em, là hình ảnh của Đấng Tạo thành vạn vật. Không lạ gì mà Gioan Tẩy Giả, một con người của sa mạc lại là người có sức mạnh giảng thuyết để thu hút đám đông lũ lượt kéo nhau đến xin đón nhận đức tin. Niềm hạnh phúc của mỗi người không chỉ giữ riêng mình, mà phải biết trao ban. Thánh Gioan Tẩy Giả đề nghị những người đến với ông: “ Ai có hai áo, thì chia cho những người không có, ai có gì ăn thì cũng làm như vậy”. Người Kitô hữu không sống với một đức tin sáo rỗng, không có hành động cụ thể. Trái lại, niềm vui vủa Tin mừng luôn là một xác tín, một hướng đi cho mọi người thực ý Thánh ý Chúa. Những người dân, hay những người thu thuế, hoặc binh sỹ, phải biết thực thi trách nhiệm với toà án lương tâm của mình.

 

Chúng tôi phải làm gì? Biết và làm chẳng phải là hai thái độ của con người trước những sức công phá của chủ thuyết hoài nghi, hưởng thụ, của những lối sống hẹp hòi, ích kỷ. Tin Mừng đòi hỏi những việc làm cụ thể, những trách nhiệm liên đới và yêu thương. Mong đợi Chúa đến, đón mừng ngày Chúa Quang lâm là một biểu hiện của những người có niềm tin vào sự xuất hiện của Chúa trong thế giới ngày hôm nay. Cuộc sống có Chúa thì niềm vui mới trường tồn mãi được. Đó chính là những đòi buộc đầy thách đố của Tin Mừng, mà Thánh Gioan Tẩy Giả đã đề nghị với từng lớp người đến với ông qua trang Tin Mừng, của Chúa Nhật Mùa Vọng thứ 3, Phụng vụ năm C.

 

Lời Chúa là Tin vui mang con người thoát khỏi những nỗi sầu thương, những đoạn trường khổ đau. Trong mọi hoàn cảnh rất thực của cuộc đời, niềm tin vào sự yêu thương của Thiên Chúa luôn mời gọi mọi người, anh em hãy vui luôn, hãy hân hoan và ca hát, hãy lạc quan vì Chúa đến và vì luôn có Chúa trong cuộc đời của mỗi chúng ta.

 

38.        Mẫu gương Mùa Vọng

 

Ba nhân vật tiêu biểu cho tinh thần mùa vọng là ngôn sứ Isaia, ngôn sứ Gioan Baotixita và Đức Trinh nữ Maria. Và trong mùa vọng ta thấy kinh tiền tụng số 2 ca lên rằng: “Người là Đấng các tiên tri loan báo, Đức Mẹ Đồng Trinh đã cưu mang với tình yêu khôn tả, thánh Gioan đã loan tin sắp đến và đã chỉ cho thấy khi xuất hiện”. Nếu xét về tầm quan trọng thì Gioan Baotixita là khuôn mặt nổi hạng nhì của mùa vọng. Chính phúc âm cho ta biết về thời thế xã hội khi ông ra đời, cho ta hiểu gia cảnh thân thế và chức vụ của ông”Tiền hô” làm nổi bật lên sứ điệp ông rao giảng. Ông đi khắp vùng ven sông rao truyền sự ăn năn thống hối, làm phép rửa. Nhất là chấp nhận bị lãng quên, và ví mình như một ngọn đèn bị lu mờ để Đấng Cứu Thế sáng lên. Đời sống của ông hầu hết là ẩn dật trong hoang địa và chỉ xuất hiện khi sứ mệnh đòi hỏi, để rồi lại tự xóa mình đi khi sứ mệnh chấm dứt. Ông thật chẳng khác nào một tiếng kêu nơi hoàng địa, vẳng lên không trung để rơi vào hư vô. Nếu nhìn toàn bộ cuộc đời của Gioan.B ta dễ dàng nhận thấy cả đời ông là chứng nhân cho Chúa Kitô và kêu gọi người ta ăn năn sám hối trở về với Chúa. Tất cả những công việc của Gioan Baotixita làm cũng chỉ nhằm “dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi”. Gioan Baotixita thật là mẫu gương tuyệt vời cho chúng ta chiêm ngắm qua hành động:

 

  1. Kêu gọi thống hối

Phép rửa của Gioan Baotixita tuy không phải là Bí Tích nhưng nó cũng có giá trị thật lớn lao. Phép rửa đó chính là dấu chỉ của lòng thống hối. Nếu con người không khước từ những khuynh hướng tội lối, không làm một cuộc đổi thay hoàn toàn đưa đến việc trở lại, và không thể đón nhận được Đấng Cứu Thế nếu không có lòng ao ước, không có sự thống hối như đòi buộc bước đầu. Vì sự thống hối là cốt lõi của ơn cứu Độ. Đó là một đòi hỏi mà con người không bao giờ muốn tự ý nhắc nhở mình, nhưng lại rất cần thiết cho họ

 

  1. Sửa đường cho ngay thẳng

Lời Tin Mừng được chen vào như để làm trọn lời ngôn sứ Isaia: “Hãy dọn đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để người đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, phải bạt cho thấp, khúc quanh co phải uốn cho ngay đường lồi lõm phải sang cho thẳng. Rồi hết người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa”. Bản văn ngôn sứ bàn về việc tái trở về từ nơi lưu đày của dân Do Thái. Giavê trở lại dẫn đầu dân Ngài trong sa mạc để vào đất hứa. Vì thế, đám rước khải hoàn đi qua thì đường sá phải bằng phẳng, không còn ghồ ghề nữa. Đến lúc này, lời tiên tri đã nên trọn vẹn với một ý nghĩa cao cả và nặng về tinh thần hơn. Nó không còn nói về sứ sở hay chỉ về con đường trần tục, mà nói về một hành trình thiêng liêng. Con người đã thoát khỏi cảnh lưu đày tội lỗi lên đường về Nước Chúa với một thái độ cương quyết, vá chính Đức Giêsu Đấng Cứu Thế sẽ dẫn đầu đoàn rước. Vì thế con đường thiêng liêng ắt hẳn sẽ phẳng lì, do việc sử soạn tinh thần và tâm hồn. Do đó, mà ta không có gì ngạc nhiên sau lời kêu gọi của Gioan Baotixita dân chúng đã bị lay chuyển và lũ lượt kéo đến với Ngài.

 

  1. Gioan Baotixita mẫu gương trong mùa vọng

Sau khi nghe tiếng “hô” của Gioan Baotixita người ta đã lũ lượt kéo đến với ngài. Còn chúng ta ngày nay không những chỉ kéo đến với ông, mà còn phải trở nên giống ông, để trông chờ Chúa và được đón rước Chúa. Người Kitô hữu cũng phải bắt chước như ông Gioan Baotixita vậy. Ai muốn tìm gặp Chúa mà không phải lui vào sa mạc của tâm hồn để nghe Chúa nói rót vào lòng, giữa thinh lặng? Ai muốn gặp Chúa mà không phải noi gương Gioan Baotixita, sống bản tính khắc khổ. Ai muốn được chiếm hữu Thiên Chúa mà không phải bắt chước Gioan Baotixita, xóa bỏ con người cũ tội lỗi của mình đi? Ai muốn được kết hợp với Chúa mà không phải mô phỏng Gioan Baotixita, để hy sinh mạng sống mình vì Chúa, vì chân lý, vì anh em. Gioan Baotixita là ngôn sứ được Chúa khen thưởng bởi đã sống khiêm tốn, khắc khổ, âm thầm, đã nhiệt tình rao giảng sự ăn năn thống hối, đã chấp nhận hy tình cảm và mạng sống để dọn đường cho Chúa ngự đến. Tóm lại, mầu nhiệm Gioan Baotixita đang còn tiếp tục nơi trần thế, vì ông là gương mẫu cho ta trong mùa vọng nói riêng, và cả trong cuộc đời trông đợi Chúa nói chung.

 

Lạy Chúa, trong một xã hội bon chen nhiều náo động. Xin cho con biết học theo Gioan Baotixita, biết ăn năn thống hối, biết rửa sạch tội lỗi, đổi mới tâm hồn để đón Chúa trong mùa vọng này. Amen.

 

39.        Hãy sám hối và đổi mới

 

Mỗi khi mùa vọng tới, chúng ta như được đánh động bởi mẫu gương của Gioan Tẩy Giả. Một con người sống đời sống đơn giản và được trao cho sứ mạng dọn đường cho Đấng Cứu Thế: “Có tiếng kêu trong hoang địa.Hãy dọn đường cho Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi ” (Lc 3, 4). Gioan Tẩy Giả đã chứng kiến cuộc đời muôn mặt và lòng người thì đầy nham hiểm, hố sâu, lồi lõm. Do đó, thánh nhân đã mời gọi mọi người hãy ăn năn sám hối, canh tân đổi mới để đón chờ Đấng Cứu Độ.

 

Đọc kỹ đoạn Tin Mừng của thánh sử Luca 3, 1-6, chúng ta sẽ thấy bối cảnh chính trị khi Gioan Tẩy Giả xuất hiện. Tin Mừng vạch rõ đủ mặt các vị vì vọng như hoàng đế Tibêriô, Phongxiô Philatô, các tiểu vương vùng Palettin là Hêrôđê, Philip, Lysiana, sau cùng là các vị lãnh đạo tôn giáo Do Thái: Ông Anna và ông Caipha. Gioan chỉ là một người vô danh tiểu tốt, một người khó nghèo, khiêm tốn và đơn sơ. ” Có lời Thiên Chúa phán cùng con ông Dacaria là ông Gioan trong hoang địa…”.Vâng, đã từ lâu từ thời các ngôn sứ, dân Israen không được nghe chính Thiên Chúa trực tiếp dạy bảo. Nay, Thiên Chúa lên tiếng qua một con người xem ra rất dân dã, hoang dã mình khoác mảnh da lạc đà. Thiên Chúa không lên tiếng trong đền thờ nhưng Ngài lên tiếng trong hoang địa, gần sông Giođanô.Gioan Tẩy Giả là người hoang dã, nhưng ông được Thiên Chúa ban ơn. Nên, ông thông minh, ăn nói lưu loát, miệng lưỡi đầy Thần Khí của Chúa. Thánh nhân trưng dẫn lời ngôn sứ Isaia rằng dân Israen đã được Thiên Chúa giải thoát ra khỏi cảnh lưu đầy ở Babylon, họ được trở về quê hương cũ và được chính Thiên đến nâng đỡ, an ủi, vỗ về. Gioan Tẩy Giả đã loan báo rằng: ” Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy; khúc quanh co, phải uốn cho ngay; đường lồi lõm, phải san cho phẳng ” (Lc 3, 5). Thánh Gioan đã làm phép rửa thống hối. Ngài đã dìm những hối nhân xuống nước để họ chết đi cho tội lỗi và tâm hồn được sạch hầu đón nhận ơn cứu rỗi mà Thiên Chúa sẽ ban cho họ. Đây là nghi thức nói lên rằng con người phải thay đổi tận gốc rễ.Con người phải ăn năn sám hối, đổi mới con tim, chia sẻ với tha nhân và chờ đợi Chúa Kitô đến.

 

Hậu quả việc làm của Gioan là làm cho cả xã hội lúc đó biến đổi khiến những nhà lãnh đạo đời và cả đạo đâm ra lo lắng, hoang mang. Gioan Tẩy Giả bị hành hình, nhưng ” Đấng đến sau Gioan quyền năng hơn ông đến nỗi ông nói không sợ hãi rằng ông không xứng đáng cỏi giây giầy cho Ngài “. Đấng đến sau là Chúa Kitô lại tiếp tục đương đầu với bọn cầm quyền đạo đời khiến họ cũng theo một sách lược là kiếm cách khử trừ Ngài để tránh hậu họa.

 

Tuy nhiên, trước mặt họ những nhà cầm quyền đạo đời lúc đó chỉ thấy một vị vua phục vụ: “Đến để hầu hạ chứ không để được hầu hạ”. Nhưng họ vẫn cam tâm khử trừ Ngài.

 

Gioan Tẩy Giả luôn lớn tiếng kêu mời mọi người sửa sang đường sá. Nhưng ý của Gioan Tẩy Giả là đường vào tâm hồn mới thật quan trọng: Con người phải lấp cho đầy những tỵ hiềm, tham lam, ích kỷ hẹp hòi, nông cạn. Con người phải uốn cho những lối nghĩ đúng theo suy nghĩ của Chúa. Phải san cho bằng những nẻo đi trệch đường của ngạo mạn, tự tôn, tự đắc. Phải bạt cho thấp, cho bằng những gồ ghề của bất chính, bất công, bất nghĩa.

 

Những chướng ngại ngăn cản con người đến với Chúa, chúng ta phải thật lòng ăn năn sám hối, đổi mới tâm hồn để Chúa có thể đến và ngự lại trong tâm hồn chúng ta. Gioan Tẩy Giả là ngôn sứ đến dọn đường cho nhân loại đón Chúa lần đầu, chúng ta là ngôn sứ chuẩn bị cho Chúa đến từng ngày trong cuộc sống của tha nhân.

Chúa Kitô chỉ có thể đến với con người trên những con đường ngay nẻo chính. Ơn cứu độ của Chúa cũng chỉ được ban cho những con tim, những tâm hồn, những bàn tay biết mở rộng.

 

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết nhận ra những lỗi lầm của chúng con để chúng con biết ăn năn, sám hối hầu Chúa thứ tha và thi ân giáng phúc cho chúng con. Amen.

 

40.        Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa

(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)

 

Mỗi người hãy tự hỏi: Mùa Vọng này là Mùa Vọng thứ mấy trong đời tôi? Mùa Vọng đến và đi khi nào tôi không mấy để ý, như mùa thu hay mùa hạ. Vì thế, tâm hồn tôi luôn là bãi cát dài, trống trải. Bao nhiêu mùa vọng qua đi không để lại một dấu vết nào. Tâm hồn tôi vẫn như không thấy có gì mới lạ. Mọi sự đều bình thường. Nếu như thế thì dù thiên đàng hay hỏa ngục cũng không làm tôi chú ý.

 

Chúng ta quá quen thuộc với những lễ nghi phụng vụ đến độ không còn biết chú ý. Vì thế, sống bao nhiêu năm, tâm hồn chúng ta vẫn lơ đãng, không thay đổi gì. Những lời kêu gọi của Chúa không thấm nhập vào trí não. Giữ đạo như chuyện bình thường. Tất cả đều mang một màu như nhau. Chú ý đến những lễ nghi, mùa vọng hay mùa nào cũng vậy thôi. Đó là tâm trạng của rất nhiều người Công giáo. Sống đối với họ là lo làm giàu, lo cho gia đình đầy đủ tiện nghi, mọi sự khác chỉ là thứ yếu, không quan trọng. Đa số đã bị duy vật hóa.

 

Không, không thể sống duy vật như thế được, Giáo hội luôn nhắc nhở chúng ta: cuộc sống của chúng ta không chỉ có trần gian này. Sống là hướng về hạnh phúc mai sau, là hướng về Chúa. Chúa mới là hạnh phúc thật, tất cả chỉ là phù du, mong manh. Chúng ta biết điều đó, nhưng cám dỗ hưởng thụ vẫn là một cám dỗ triền miên.

 

Mùa Vọng là lúc chúng ta tìm về Chúa, Đấng đã đi tìm chúng ta trong trần gian này, trong vũng lầy tội lỗi của chúng ta. Ngài mới là niềm hy vọng cuối cùng của chúng ta. Cuộc đời chỉ có ý nghĩa khi nó được sống trong Chúa. Những người không tin, dù giàu có đến mức độ nào đi nữa, cũng không thể nào hiểu được ý nghĩa của cuộc sống, không biết sống để làm gì. Họ chỉ biết kiếm tiền và hưởng thụ trần gian mà thôi. Người tín hữu chúng ta không thể bằng lòng với những phù phiếm nay còn mai mất. Khi mọi sự tan rã, chỉ còn Chúa thôi. Chúa vẫn không thôi kêu gọi chúng ta trở về với Ngài, vì chỉ có Ngài mới là sự bình an cho tâm hồn, là hạnh phúc mà chúng ta đang mơ ước.

 

Trong Cựu Ước, dân Do Thái vẫn được gọi là một dân cứng cổ, thế nhưng Chúa không bao giờ bỏ dân, Ngài tìm hết mọi cách để đem nó về trong tình yêu của Ngài, dù đôi khi Ngài cũng mạnh tay, cho chúng nếm mùi đau khổ, lưu đày… Con người không trung tín, nhưng Chúa vẫn trung thành. Khi thời gian viên mãn, Con Chúa sắp ra đời để thực hiện ý định yêu thương của Chúa, Ngài sai Gioan Tẩy Giả đến dọn đường bằng cách kêu gọi mọi người trở về với Ngài.

 

Gioan đã đến, trong một khung cảnh lịch sử chính xác. Thánh Luca, tuy không là một sử gia đúng nghĩa như thời nay, nhưng ngài không quên định vị Gioan trong thời điểm mà chúng ta có thể tìm lại và hiểu được hoàn cảnh địa dư, chính trị, tôn giáo. Gioan đã nghe tiếng Chúa và đã đi khắp vùng ven sông Giođan, rao giảng kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội. Gioan tiếp nối truyền thống các tiên tri: ông là tiếng người hô trong sa mạc: Hãy dọn sẵn đường cho Đức Chúa.

 

Tiếng gọi ấy hôm nay được Giáo hội lặp lại, kêu gọi chúng ta dọn con đường tâm hồn để đón mừng Chúa đến. Chúng ta có lắng nghe không? Chúng ta có chú ý không? Chúa đến tìm chúng ta, cứu vớt chúng ta, chúng ta có xem như một hồng ân không? Hay chỉ là một tin ngắn trên mặt báo?

 

Thánh Luca dùng lời tiên tri Isaia kêu gọi mọi người ăn năn sám hối, hoán cải con người, trở về với nguồn cội của ơn cứu độ: “Mọi thung lũng phải lấp cho đầy, mọi núi đồi phải bạt cho thấp, khúc quanh co phải uốn cho ngay, đường lồi lõm phải san cho phẳng, và hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa”.

 

Ai trong chúng ta cũng cần phải hoán cải, trở về với Chúa, nguồn sống thật của chúng ta. Chúng ta mãi mãi là một dân tộc được hoán cải, được gọi để sống trong tình yêu Chúa. Hoán cải là từ bỏ Satan và những việc làm của nó để thuộc trọn về Chúa.

 

  • Hoán cải là bẻ gãy xiềng xích đang trói buộc chúng ta. Chúng ta đang bị ràng buộc như thế nào? Chúng ta có thấy được những xiềng xích đó không? Ích kỷ, tham lam, kiêu căng, nóng giận… Rất nhiều xiềng xích đang trói buộc chúng ta mà chúng ta không biết, vì rất ít khi chúng ta nhìn về bản thân mình. Khi đi xưng tội, việc xét mình chỉ là một thủ tục làm cho có lệ, làm sao đào bới được đống rác đang chất đầy trên tâm hồn chúng ta? Chúng ta không còn tự do nữa, thế nhưng chúng ta đã quá quen với xiềng xích đó rồi. Cần phải can đảm bứt đi những trói buộc đó. Chúng ta có đủ can đảm không? Vì thế bao nhiêu mùa vọng qua rồi, tâm hồn chúng ta vẫn tê liệt, cuộc sống chúng ta tầm thường, không có gì đáng chú ý, không có màu sắc Phúc Âm.
  • Hoán cải tức là đổi mới tâm hồn và cuộc sống, như thế chúng ta góp phần đổi mới thế giới. Chúng ta phải sống để xây dựng một thế giới mới trong đó con người không còn là đối thủ mà là anh em. Là anh em, để xây dựng một tình huynh đệ đích thực. Chúng ta không đủ quyết tâm vì thế, thế giới này càng lún sâu vào tội ác.

 

Nói như thế, chúng ta có ảo tưởng không? Chắc chắn không. Nếu đa số người Công giáo dám đi vào hoán cải thì mọi sự sẽ đổi mới. Mỗi người có thể đóng góp vào việc canh tân thế giới bằng những cố gắng hằng ngày của mình và không bao giờ vô ích. Lúc ấy mọi người phàm mới nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa.

 

Chúng ta đang hướng nhìn về Đấng đang đến, Vị Cứu Tinh của nhân loại, Con Thiên Chúa. Hãy xin Ngài thương xót chúng ta đang kêu cầu Ngài, đang chờ mong Ngài đến đem bình an cho mỗi người, cho toàn thể nhân loại. Hãy tha thiết tìm Ngài khi còn tìm được. Hãy trở về trong tin yêu.

 

Ngài vẫn có mặt đây, mặc dù chúng ta còn phải đợi chờ. Ngài đến hằng ngày dưới hình thức một của ăn, Ngài không bao giờ quên chúng ta, chỉ có chúng ta quên Ngài. Hãy đến ăn lấy Ngài như Ngài vẫn bảo chúng ta. Ăn lấy Ngài để trở thành tình yêu như Ngài. Con đường hạnh phúc chỉ có một: tình yêu.

 

41.        Cú sút trật đích rồi

(Suy niệm của Lm. Mark Link, SJ.)

 

Chủ đề: “Mùa Vọng là thời gian chuẩn bị chào đón Chúa Kitô. Chúng ta hãy chấn chỉnh lại cuộc sống của mình.”

 

Một ngày chúa nhật vào tháng sáu oi ả, hàng triệu người Mỹ đang theo dõi truyền hình trận tranh giải toàn quốc môn Golf tổ chức trên sân cỏ lộ thiên. Ở phút gay go của trận đấu: máy thu hình tâp trung vào Jack Nicklaus. Anh đang giữ banh ở khu đất lởm chởm và đang chuẩn bị sút bóng. Chậm rãi nhưng quả quyết, anh giơ chiếc gậy nhắm vào quả banh, và suốt 20 giây trên màn hình người ta thấy anh chần chừ, chuẩn bị sút bóng. Nhưng rồi đột nhiên vào giây cuối cùng anh bỏ mặc qủa bóng và nói to cho mọi người nghe: “Cú sút này trật đích rồi.” Bình luận viên thể thao trận đấu bối rối thốt lên: “Nhưng anh đã không sút bóng: không hiểu chuyện gì xảy ra với anh?” … và cuộc tranh giải lại tiếp tục.

 

Về sau Nicklaus giải thích rõ ràng tại sao như vậy trong cuốn sách của anh nhan đề: Golf My Way (lối chơi gôn của tôi). Anh mô tả cách thức anh chuẩn bị cho từng cú sút bóng như thế nào: đầu tiên, anh sắp xếp các cú sút trong trí, nghĩa là anh tưởng tượng ra trước từng cú sút, sau đó anh mới vung gậy đánh thực sự trên sân. Anh nói: “Y hệt một cuộn phim màu, trước hết tôi mường tượng trái banh tôi sắp vung gậy đánh, trái banh trông xinh xắn, trắng trẻo đang nằm trên sân cỏ xanh thắm, rồi hình ảnh trong trí chuyển biến thật lẹ làng và tôi thấy đường banh đang lăn, và thấy cả cách thức nó chạm đất ra sao nữa, rồi cảnh ấy nhoà đi nhường cho cảnh tiếp theo. Cảnh này chỉ cho tôi cách vung gậy để đưa những hình ảnh đã mường tượng trước đó trở thành hiện thực.

 

Điều mà Jack Nicklaus thực hiện trên sân golf vào trưa chúa nhật nóng bức ấy chính là điều Giáo Hội khuyên chúng ta nên làm trong suốt Mùa Vọng này, nghĩa là chúng ta phải chuẩn bị tâm trí để đón tiếp Chúa Kitô. Đây chẳng phải chỉ là sự đón tiếp liên quan đến cuộc giáng lâm có tính cách lịch sử của Ngài thường được chúng ta tưởng niệm vào dịp lễ Giáng Sinh, cũng không phải chỉ liên quan đến cuộc giáng lâm mầu nhiệm của Ngài nơi bí tích Thánh Thể, mà đặc biệt là cuộc giáng lâm sau cùng của Ngài ngày tận thế. Chúng ta hãy nói đến cuộc giáng lâm cuối cùng này của Chúa Giêsu.

 

Để đón Chúa Giêsu đến, chúng ta đã chuẩn bị thế nào? Chúng ta nên vâng theo lời dạy của thánh Gioan tẩy giả khi ông chuẩn bị cho dân Do Thái thời ông đón chờ Đức Giêsu đến với thế gian lần đầu tiên. Ông dạy bảo họ ăn năn thống hối từ bỏ tội lỗi. Có một vài câu Tin Mừng hôm nay. “Hãy sinh hoa trái tốt lành để chứng tỏ lòng ăn năn thống hối của các ngươi” (Lc 3: 8). Đây là điều Giáo Hội mời gọi chúng ta thực hiện trong mùa chờ đợi này. Chúng ta hãy từ bỏ tội lỗi và bắt đầu sống đúng như Chúa Giêsu từng dạy chúng ta; chúng ta hãy nghiêm chỉnh tự vấn xem “Liệu chúng ta có thể trình diện trước Chúa ngay lúc này không?”

 

Có lẽ sau khi hồi tâm dò xét kỹ, chúng ta cũng sẽ làm giống như Jack Nicklaus trên sân golf, đó là rời bỏ quả bóng và thốt lên: “cú sút trật đích rồi!” để sau đó, chúng ta sẽ phải thay đổi một số điều trong cuộc sống.

 

Vài năm trước đây, tạp chí This Week có thuật lại câu chuyện cảm động về một cậu bé 17 tuổi người Hoà Lan đã từng trốn khỏi trại tập trung Đức Quốc Xã, nhưng đã bị bắt lại và bị kết án tử hình. Ngay trước khi bị hành hình, cậu đã gởi cho bố cậu lá thư sau đây. Tôi xin trích lại: “Bố thân yêu, thật khó khăn lắm con mới viết được cho bố lá thư này, nhưng con vẫn phải cho bố hay rằng con đã bị toà án quân sự kết tội tử hình. Xin bố đọc lá thư này một mình và khéo léo báo cho mẹ biết dùm con… chẳng bao lâu nữa, đúng 5 giờ, điều đó sẽ xảy đến cho con… chỉ một chốc thôi thế là con sẽ về với Chúa. Nói cho cùng đấy có phải là cuộc chuyển tiếp đáng kinh hãi không?… con cảm thấy rõ ràng rằng mình đang ở gần bên Chúa, con đã chuẩn bị sẵn sàng đón chờ cái chết… con nghĩ rằng con còn đỡ đau khổ hơn bố nhiều, vì con biết rằng mình đã xưng hết tội lỗi, và hiện tâm hồn con hoàn toàn thanh thản… ký tên “Kless”.

 

Phúc cho ai vào giờ chết có thể nói được như cậu ta. Mùa vọng là thời gian chuẩn bị tâm hồn anh chị em để đến giờ chết anh chị em có thể nói được như thế. Đó là thời gian để anh chị em hồi tâm tỉnh trí và chuẩn bị; đây là thời gian tự vấn chính mình; chúng ta có sẵn sàng đón tiếp Chúa Giêsu vào giờ chết không? Chúng ta có sẵn sàng đón Chúa Giêsu vào ngày tận thế không? Chúng ta có sẵn sàng gặp Chúa Giêsu ngay lúc này không? Chúng ta có nói được như cậu bé trên không? “con cảm thấy rõ ràng con đang ở gần bên Chúa. Con đã chuẩn bị sẵn sàng đón chờ cái chết… con đã xưng hết tội lỗi và tâm hồn con hoàn toàn thanh thản”.

 

Vậy nếu hiện giờ chúng ta chưa có thể nói lên câu ấy thì liệu đến cuối Mùa Vọng chúng ta có thể thốt lên được câu nói ấy không?

 

42.        Sám hối, hoán cải tâm lòng

(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’ – Radio Veritas Asia)

 

Thomas Merton là một tiểu thuyết gia nổi tiếng lan rộng khắp thế giới. Vào thập niên 60, chàng theo Anh giáo, nhưng sống như người vô thần. Một ngày nọ, tình cờ đi ngang một nhà thờ Công Giáo, chàng được Chúa thúc đẩy ghé vào nhà thờ trong chốc lát. Từ trước tới nay Thomas Merton cũng đôi lần đi nhà thờ đó, nhưng vì tò mò, vì theo anh em bạn cho vui hơn là vì lòng tin, dầu chàng đã được cha mẹ cho rửa tội ngày còn nhỏ. Sau này, khi đã theo đạo Công Giáo và nhập vào Trappiste khổ tu, Thomas Merton đã kể lại biến cố ấy như sau:

 

“Khi bước vào trong nhà thờ, điều đầu tiên lôi kéo sự chú ý của tôi đó là, tôi trông thấy một cô gái duyên dáng tuổi chừng 15, 16 đang quì cầu nguyện một cách vô cùng sốt sắng, không để ý đến chuyện gì khác xảy ra chung quanh. Khi cả lúc tôi bước vào nhà thờ, tôi rất đỗi ngạc nhiên trước sự kiện, một thiếu nữ từng ấy tuổi lại quì cầu nguyện trong ngôi thánh đường lặng lẽ, một cách hết sức tự nhiên và say đắm trong lời cầu, như thể bị hút hồn. Dĩ nhiên, là cô gái nọ vào nhà thờ không phải là để cho người ta ngắm nghía, mà là để cầu nguyện và chỉ để cầu nguyện mà thôi. Và nàng đã cầu nguyện chăm chú, sốt sắng như các thánh trong một ngôi thánh đường thanh vắng. Cuộc gặp gỡ và thân tình ấy của thiếu nữ đó với Thiên Chúa trong khung cảnh hoàn toàn vắng lặng của ngôi thánh đường hôm đó, đó là một trong các nhân tố dẫn đưa tôi đến chỗ gặp Chúa và theo đạo sau này”.

 

Ngôi thánh đường công giáo vắng lặng ấy, đó là một bãi sa mạc nơi con người có thể gặp gỡ Thiên Chúa giữa lòng xã hội loài người nhiều bôn chôn, dao động này. Qua các bài đọc Chúa nhật II Mùa Vọng, Giáo Hội cũng kêu mời chúng ta hãy biết tạo ra sa mạc trong tâm lòng mình khi nào đó để gặp gỡ Thiên Chúa. Chương 5,1-9 sách tiên tri Barúc, là một lời sấm liên quan đến ơn cứu độ theo truyền thống Kinh Thánh. Barúc đã là bạn kiêm thư ký của tiên tri Giêrêmia, nhưng thật ra sách Barúc là một tổng hợp các văn bản thần học góp nhặt đó đây và được soạn chung lại bằng tiếng Hy Lạp vào thế kỷ thứ II trước Tây lịch. Tiên tri Barúc muốn khẳng định với dân Do Thái rằng: Cuộc sống và niềm hạnh phúc là những điều có thể thực hiện được sau những năm tháng họ phải sống trong cay đắng, tủi nhục, đen tối của kiếp sống lưu vong. Để diễn tả sứ điệp hy vọng và tin tưởng ấy, tiên tri dùng một số hình ảnh biểu tượng như chiếc áo, tên gọi, và các kỳ công vĩ đại của Thiên Chúa. Chiếc áo đó ám chỉ phẩm giá của con người khi giới thiệu thành thánh Giêrusalem, là biểu tượng của toàn dân Chúa. Trong chiếc áo mới rực rỡ của mừng vui, chớ không phải chiếc áo tang của sầu buồn mà tiên tri Barúc cố ý loan báo cho dân chúng biết, Thiên Chúa sẽ trao ban trở lại cho họ phẩm giá làm dân riêng Chúa chọn và chấm dứt sự sống khổ nhục họ phải chịu trong thời lưu đày. Chiếc áo tang của sầu thương diễn tả thời gian và khung cảnh sống lưu đày tủi nhục. Hình ảnh chiếc áo mới mừng vui trên đây hé mở cho chúng ta thấy ý nghĩa việc Thiên Chúa can thiệp vào lịch sử nhân loại khi cho Đức Giêsu Kitô nhập thể làm người. Chúa Giêsu Kitô mặc lấy chiếc áo yếu hèn của thân phận làm người, mặc lấy chiếc áo rách nát, tả tơi, hôi thúi của tội lỗi từng biến dạng con người khiến cho nó không còn giống Thiên Chúa nữa, vì đã đánh mất đi phẩm giá làm con Thiên Chúa và là thụ tạo tuyệt diệu nhất trong mọi loài thụ tạo. Chúa Giêsu mặc lấy nó để đánh đổi cho loài người chiếc áo mới, chiếc áo mừng vui được làm con cái Thiên Chúa và giống hình ảnh Ngài. Với phẩm giá mới ấy, thành thánh Giêrusalem đại diện cho dân Chúa, cũng mang một tên gọi mới trong ngôn ngữ của Kinh Thánh.

 

Đặt tên cho một người, một vật, có nghĩa là tuyên bố người đó hay vật đó thuộc quyền sở hữu của mình. Nó cũng có nghĩa là người đó hay vật đó được che chở yêu thương và săn sóc. Giêrusalem từ nay, Thiên Chúa sẽ đặt tên cho là Hòa Bình, Công Chính và Vinh Quang của lòng thương xót. Dân riêng của Thiên Chúa từ nay, sẽ làm một dân tộc diễn tả sự an bình, công chính, lòng nhân từ, thương xót và vinh quang mà Thiên Chúa hiện thực trong vương quốc thiêng linh của Ngài. Vương quốc mà Thiên Chúa cống hiến cho nhân loại ngay từ bây giờ, trên trần gian này, với biến cố Đấng Thiên Sai nhập thể làm người. Trong tên gọi mới này cũng tiềm ẩn tên gọi Giêsu mà Thiên Chúa sẽ dành riêng cho Đấng Cứu Thế. Chúa Giêsu là ơn cứu rỗi, là sự che chở Thiên Chúa gởi đến cho loài người luôn bị sự dữ cám dỗ và thường bị tội lỗi chiếm hữu. Công trình cứu độ và giải phóng ấy được Thiên Chúa ra tay hiện thực và trao ban cho dân Người, với sự cộng tác của mọi loài, mọi vật, y như trong biến cố xuất hành khỏi Ai Cập thời xa xưa. Thiên Chúa sẽ ra tay gạt bỏ mọi chướng ngại, khó khăn. Đường vào sa mạc dẫn đưa dân Ngài vào Đất Hứa sẽ thẳng băng, không còn gò cao. Sa mạc nắng cháy khô cằn sẽ nở hoa xanh tươi.

 

Trong chương 3 Phúc Âm của mình, thánh sử Luca ghi lại các biến cố ấy trong khung cảnh lịch sử của thế giới chính trị và tôn giáo thời bấy giờ. Ơn gọi và hoạt động loan báo Tin Mừng của thánh Gioan Tẩy Giả xảy ra vào năm thứ 15, dưới thời hoàng đế Tibêriô, năm 28, sau Tây lịch, bởi vì hoàng đế lên ngôi năm thứ 14. Quan toàn quyền Giuđêa lúc đó là Phongxiô Philatô, Palestine hồi ấy cũng gồm 3 châu quận do 3 quận vương cai trị là Hêrôđê Antipa, Philipphê và Lysania. Hai thượng tế vào thời này là thượng tế Anna (vào năm thứ 6 đến năm 14 sau Tây lịch) và thượng tế Caipha (trị vì từ năm 18 đến năm 36 sau Tây lịch).

 

Tuy nhiên, điểm thánh sử Luca cố ý nêu bật ở đây chẳng phải là các biến cố lịch sử chính trị và xã hội, mà là ý nghĩa thần học của lịch sử. Thánh Luca muốn khẳng định rằng, chính Lời của Thiên Chúa tạo ra lịch sử. Tất cả mọi biến cố, mọi nhân vật, mọi thời đại, cách tiếp nối của các quyền bính và giới lãnh đạo trần gian, chỉ là khung cảnh trong đó Ngôi lời của Thiên Chúa nhập thể làm người để cống hiến ơn cứu độ cho nhân loại. Lời thánh Gioan Tẩy Giả rao giảng diễn tả trước sứ điệp mà Chúa Giêsu Kitô loan báo sau này: Muốn được ơn cứu độ, con người phải lãnh nhận bí tích rửa tội, sám hối, hoán cải tâm lòng, thay đổi lối sống, canh tân tư tưởng và cung cách hành sự của mình, bởi vì Đấng Thiên Sai đã hiện diện giữa lòng trần gian.

 

Sa mạc nơi thánh Gioan Tẩy Giả rao giảng phép rửa sám hối là một điểm thần học nổi bật khác của truyền thống Kinh Thánh. Trong Kinh Thánh, sa mạc là nơi gặp gỡ Thiên Chúa. Sa mạc khô cằn, nóng bỏng ban ngày, giá buốt ban đêm, là hình ảnh cuộc sống của con người không có bóng dáng và không có sự hiện diện của Thiên Chúa. Giữa cảnh hoang vu của cát đá, con người đói khát và lạc hướng. Những tình trạng đó giúp con người ý thức được cái bé bỏng hư không, vô nghĩa của đời mình. Bởi vì nó chỉ là gì, nếu không phải là cát bụi, hư vô? Nhận thức ấy khiến cho con người từ bỏ mọi ý nghĩ kiêu căng, ngạo mạn, mọi chủ trương coi mình là thần thánh và có thể tự giải thoát lấy mình. Thái độ và tâm tình ấy khiến cho con người rộng mở tâm lòng mình, cho hành động và ơn thánh cứu độ của Thiên Chúa. Đường vào sa mạc như thế là con đường dẫn đưa con ngươì về đến chỗ gặp gỡ Thiên Chúa và đón nhận ơn cứu độ Ngài ban. Trong cuộc sống thiêng liêng càng biết năng vào sa mạc, chúng ta càng sống cảm nghiệm gặp gỡ Thiên Chúa sâu đậm hơn.

 

Sông Giođan, cũng là hình ảnh thần học nổi bật khác. Như tường thuật Phúc Âm thánh Luca, Giođan là con sông của hai thời giao ước, nó là chứng nhân của các biến cố lịch sử ý nghĩa của dân Do Thái. Nước sông Giođan là nước thanh tẩy của cuộc sống phục sinh và của bí tích rửa tội.

 

Hình ảnh nổi bật sau cùng trong tường thuật Tin Mừng của thánh Luca là hình ảnh thánh Gioan Tẩy Giả, vị tiên tri của hai thời giao ước, người đã nhận được Lời Chúa trong sa mạc, Thánh nhân loan báo rằng chính Ngôi Lời của Thiên Chúa là động lực hướng dẫn dòng lịch sử của nhân loại, chớ không phải con người và các chương trình loài người đưa ra. Do đó, càng biết san bằng các chướng ngại ngăn cách chúng ta nhìn thấy Thiên Chúa, chúng ta càng dễ nhận ra sự hiện diện cứu độ của Chúa Giêsu trong đời ta, giữa lòng thế giới.

 

Trong chương 1 thư gởi tín hữu Philipphê, thánh Phaolô chỉ cho chúng ta một con đường, một cách thế giúp chuẩn bị hữu hiệu cho ngày Chúa trở lại. Đó là luôn kiên trì sống tình yêu thương, bác ái, biết vun trồng lòng tin, cậy, mến và khả năng bén nhạy giúp nhận ra đâu là thánh ý Chúa và điều đẹp lòng Ngài. Sống được như thế, là tín hữu sinh hoa trái thiêng liêng phong phú và hiện thực nơi con người điều gọi là con cái Chúa và là dân riêng của Ngài.

 

43.        Hãy dọn lòng ngay thẳng!

 

Trong những ngày gần đây, chúng ta nghe tin tức trên các đài phát thanh, trang báo đều nói về những việc chuẩn bị cho ngày đại lễ Giáng sinh sắp tới. Nhiều nước trên thế giới đang chuẩn bị thật tốt để mừng lễ Giáng sinh. Người ta chuẩn bị các cây thông và còn trang trí trên đó nhiều đèn đèn sao, thiệp mừng, quà mừng giáng sinh… Các cửa tiệm cũng đã bày bán đầy những món hàng phục vụ cho dịp lễ Giáng sinh, nào là thiệp chúc mừng Giáng sinh đủ màu đủ loại, rồi cây thông, đèn sao, tượng Chúa để làm hang đá, rồi đèn màu, đèn chớp, rồi những kiểu chữ Noel, chữ mừng Chúa Giáng sinh, rồi những dây treo đủ màu lấp lánh. Rồi cũng phải kể đến những chiếc mũ Noel, những bộ quần áo để làm ông già Noel… rồi trong các tiệm bánh cũng đã có bánh Sinh nhật, ai muốn chọn loại nào thì họ có đủ để cung cấp loại đó…

 

Những tin tức nghe được, và ở ngoài xã hội, người ta đã chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh rồi, đặc biệt các nhà kinh doanh họ đã chuẩn bị cho lễ Giáng sinh từ lâu rồi, chuẩn bị một cách chu đáo, chuẩn bị bằng nhiều công sức, và còn phải đầu tư vào đó với rất nhiều tiền bạc.

 

Ngoài xã hội, người ta đã đầu tư vào dịp lễ Giáng sinh với nhiều công sức như vậy, còn chúng ta, chúng ta đã vào mùa vọng được một tuần rồi, vậy chúng ta có chuẩn bị gì cho lễ Giáng sinh của chúng ta chưa?

 

Còn các họ đạo Công gáo mừng lễ Giáng sinh cũng lớn lắm, nào là làm văn nghệ, làm nhạc cảnh canh thức, nào là rước kiệu Chúa Hài đồng cách trọng thể, nào là làm lễ ngoài trời. Cũng có họ đạo chỉ tổ chức lễ đơn sơ hơn tổ chức vài ngày cho giáo dân xưng tội, làm hang đá, treo cờ, treo đèn sao là được rồi. Như vậy, có họ đạo thì mừng Giáng sinh thật lớn, có họ đạo cũng chỉ mừng lễ Giáng sinh đơn sơ vậy thôi.

 

Hôm nay, đọc qua bài Phúc âm, chúng ta thấy Lời Chúa đã hướng dẫn chúng ta một cách thức để chúng ta chuẩn bị lễ Giáng sinh cho thật đúng, cách thức đó đã được Thánh Gioan nói lại lời của tiên tri Isaia một cách rõ ràng rằng:”Hãy dọn đường cho Chúa ngự đến,hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng, những thung lũng sâu, hãy lấp cho đầy,những núi đồi hãy bạt xuống,những khúc quanh co, hãy làm lại cho ngay thẳng,và mọi chỗ lồi lõm, hãy sửa lại cho bằng”.

 

Như vậy, cách thức mà Thánh Gioan nói tới ở đây, là dọn những con đường cho Chúa ngự đến, mà phải dọn những con đường đó cho ngay thẳng, nhưng những con đường phải dọn, đó là những con đường nào? Đó chính là những con đường để mỗi người chúng ta đi đến gặp gỡ Chúa, và cũng là những con đường để chúng ta đi đến gặp gỡ những anh chị em của chúng ta. Vậy thì phải dọn những con đường đó như thế nào? như Thánh Gioan đã gợi trong bài Phúc âm thì:

 

Trước hết, những thung lũng sâu, hãy lấp cho đầy, nghĩa là hãy lấp đầy những hố sâu là sự ngăn cách giữa tôi và tha nhân, lấp đầy những ngăn cách do mặc cảm tội lỗi, do hận thù, do tranh chấp với nhau, lấp đầy những ngăn cách do đầu óc bè phái, do ganh tỵ, do phân biệt giai cấp, do sự chênh lệch về giàu nghèo.

 

Tiếp đến, Thánh Gioan kêu gọi mỗi người hãy bạt xuống những đồi núi, nghĩa là hãy bạt xuống những đồi núi của tính kiêu căng, của sự tự mãn, của thói giả hình giả bộ; rồi cũng phải bạt xuống những núi đồi của thành kiến, của sự “ta đây”, của lòng tự ái, của sự hơn người, của óc kỳ thị khinh bỉ kẻ khác.

 

Tiếp theo nữa, Thánh Gioan kêu gọi hãy sửa lại cho ngay thẳng những khúc quanh co, sửa lại, có nghĩa là hãy dẹp bỏ mọi trở ngại trên lối đi, dẹp bỏ mọi ngăn cách, dẹp bỏ mọi lối suy nghĩ quanh co, dẹp bỏ những tính toán sai lầm, dẹp bỏ mọi cái nhìn sai lạc về người khác.

 

Cuối cùng, Thánh Gioan cũng kêu gọi, hãy sửa lại cho bằng mọi chỗ lồi lõm, những chổ lồi lõm đó, chính là những sự chênh lệch giữa người với người, đó cũng là những lối phân biệt trong đối xử, đó là những sự chênh lệnh giữa những người không cùng giai cấp, địa vị trong xã hội. Sửa lại cho bằng phẳng, tức là mở lối cho Chúa đến với tôi, mở lối cho tôi đến với Chúa; mở lối cho mọi anh chị em đến được với tôi, và cũng là mở lối để tôi đến được với mọi anh chị em trong tình yêu thương chan hòa.

 

Trong cuộc sống thường ngày của mỗi chúng ta, thường có rất nhiều những hoàn cảnh trái ngang, làm cho con người thường hay hiểu lầm và nghi kỵ lẫn nhau, có khi đối với những người mà chúng ta thân thích nhất, trong cả môi trường mà chúng ta thấy thân thuộc nhất.

 

Trong Mùa Vọng, nhiều người nghĩ đến việc chỉ cần đi xưng tội trước lễ Giáng sinh thì tôi đã dọn được một đại lộ rộng thênh thang, tha hồ mà đi thoải mái trên đó để vui với lễ Giáng sinh. Nhưng khi nhìn lại, thì ta mới thấy được rằng: trong cuộc sống này, không phải chỉ có đi xưng tội là xong, nhưng chúng ta còn phải dẹp bỏ những chướng ngại trên con đường đi, nhưng đến nay vẫn còn thiếu những con đường ngay thẳng, vẫn còn rất nhiều những núi đồi kiêu căng, còn rất nhiều những hố sâu ngăn cách giữa người với người… Trái lại, càng ngày lại càng xuất hiện thêm những con đường cong queo, những con đường ngoằn ngoèo, những con đường giả dối, những con đường chia rẻ có từ trong thẳm sâu cõi lòng của các con người trong xã hội…

 

Xin Chúa cho chúng ta luôn biết nghe theo lời của Thánh Gioan trong bài Phúc âm hôm nay là “Hãy dọn đường Chúa”, để chúng ta can đảm dẹp bỏ mọi con đường quanh co, để từ tôi đến với Chúa, từ tôi đến với mọi anh chị em sẽ có những con đường thẳng tắp, để rồi tất cả chúng ta đều đến được với nhau trong yêu thương hoà thuận, và trong tình nghĩa thật chân thành.

 

Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa mau đến với chúng con. Amen.

 

44.        Chúa Nhật 2 Mùa Vọng

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

 

KHẨN TRƯƠNG DỌN ĐƯỜNG ĐỂ CHÚA ĐẾN

 

Bước vào Chúa Nhật II Mùa Vọng, với hai viễn tượng mà chúng ta đang sống là tưởng niệm biến cố nhập thể làm người của Đức Giêsu, hiện thân của Lòng Thương Xót, sinh bởi Ðức Trinh Mữ Maria, Mẹ của Lòng Thương Xót và chờ đợi Chúa trở lại trong vinh quang để “phán xét kẻ sống và kẻ chết”, như chúng ta vẫn đọc trong kinh Tin Kính. Phụng vụ Lời Chúa đề nghị chúng ta suy gẫm về Gioan Tẩy Giả, Vị Tiền Hô của Chúa Cứu Thế và nghe lời ông khẩn trương “dọn đường Chúa” (Lc 3,4).

 

Gioan Tẩy Giả

Gioan là người được Isaia nhắc đến trong lời sấm: “Có tiếng kêu trong hoang địa: Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi; con đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, con đường gồ ghề hãy san cho bằng” (Lc 3, 4-5). Ngay từ khi còn ở trong lòng mẹ, Gioan đã được gọi làm Tiền Hô cho Đấng Mêsia. Việc loan báo việc ông sinh ra đã khiến nhiều người phải ngạc nhiên: Dacaria cha Gioan đã bị câm vì đã không tin lời của sứ thần Thiên Chúa. “Láng giếng ai nấy đều kinh sợ. Và các sự việc ấy được đồn ra khắp miền núi Giuđa” (Lc 1, 65).

 

Gioan Tẩy Giả thực thi sứ mạng Tiền Hô của mình một cách thầm lặng. Trước hết, ông lui vào trong hoang địa, ăn châu chấu, uống mật ong rừng, mặc áo lông để chuyên tâm cầu nguyện, hãm mình và sám hối. Chúng ta biết, hoang địa tượng trưng cho sự từ bỏ hoàn toàn, là nơi con người không thấy gì khác ngoài sự yếu hèn, nhỏ bé, giới hạn, bất lực của mình trước sự cao cả của Đấng Tạo Hóa. Chính trong hoang địa mà Gioan Tẩy Giả nâng hồn lên tới Chúa và sống hiệp thông mật thiết với Ngài để kín múc lấy sức mạnh cho sứ mạng tương lai. Sau một thời gian chuẩn bị kỹ lưỡng, Gioan Tẩy Giả mới công bố Phép Rửa sám hối để được tha tội. Ông là người mà Chúa Giêsu đã nói: “Cho đến thời ông Gioan, thì có Luật và các ngôn sứ, còn từ thời đó, thì Tin Mừng Nước Thiên Chúa được loan báo, và ai cũng dùng sức mạnh mà vào” (Lc 16,16).

 

Sống trong cảnh nghèo, Gioan Tẩy Giả muốn nói: “Chứng tá Kitô đích thực là hết sức cần thiết cho ngày hôm nay, vì con người thời nay tin các chứng nhân hơn là các thầy dạy” (Tông huấn Giáo hội tại Á Châu, 42). Bằng đời sống khắc khổ, Gioan giúp chúng ta hiểu rằng, chứng tá của đời sống Kitô đích thực là phó thác đời mình cho Thiên Chúa và hiệp thông với Ngài. Gioan Tẩy Giả đã kêu gọi người ta “hãy dọn đường Chúa” (Lc 3,4).

 

Dọn đường Chúa

Khi chiêm ngắm sứ vụ Tiền Hô của Gioan Tẩy Giả, sứ vụ mà ông phải hy sinh đến cả mạng sống. Nhận mình chỉ là một “tiếng kêu” (Lc 3,4) trong hoang địa để dọn đường cho Đấng Mêsia đến, Đấng mà ông “không xứng để cởi dép cho Người” (Lc 3,16). Toàn bộ cuộc sống và sứ mạng như ống nói là cho Đấng Mêsia: “Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi”. Chúa Giêsu càng xuất hiện thì Gioan ngày càng tự nguyện biến đi. Dựa vào chỉ dẫn của ông, những môn đệ tốt nhất của Gioan đã đi theo Chúa Giêsu. Đó chính là sứ vụ, là cách sống và là con người của Gioan Tẩy Giả. Đó cũng là sứ vụ, cách sống và con người của chúng ta: “Tất cả cho Chúa!”

 

Bổn phận của chúng ta hôm nay là chỉ cho người khác biết Chúa Giêsu, hiện thân của Thiên Chúa Cha, Đấng giầu lòng thương xót và chuẩn bị giúp người khác tin theo Chúa. Đây là cốt yếu của việc tông đồ mà chúng ta phải thực hành trong cuộc sống: biểu lộ Chúa Giêsu cho bạn bè, cho người láng giềng. Điều quan trọng là Chúa Giêsu “khuôn mặt của lòng thương xót Chúa Cha” (Ep 2, 4) được nhận ra và đón rước, “một Thiên Chúa nhân từ và đầy thương xót, chậm bất bình, giàu nhân nghĩa và thành tín” (Xh 34, 6), đã không ngừng thể hiện bằng nhiều cách khác nhau trong suốt lịch sử, bản tính Thiên Chúa của Ngài (Tông thư “Misericordiæ Vultus – Khuôn Mặt Xót Thương, số 1).

 

Làm chứng cho lòng thương xót Chúa

Dịp Đại hội Giới Trẻ thế giới lần III ngày 27.3.1988. Đức thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nói: Đức Maria, Mẹ của Lòng Thương Xót, chỉ cho chúng ta Con của Mẹ: “Người bảo gì các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,5), có nghĩa là chúng ta hãy đón rước Chúa Giêsu, vâng lời Chúa Giêsu, tuân giữ các giới răn của Người và tin tưởng nơi Người. Người là phương án duy nhất của một cuộc sống thật sự thành công và hạnh phúc. Người cũng là nguồn mạch duy nhất về ý nghĩa cuộc đời của chúng ta.

 

Thực vậy, Trước Tin Mừng của một Vị Thiên Chúa vì yêu thương chúng ta đã tự hạ chính mình và mặc lấy thân phận con người, chúng ta không thể nào không mở rộng tâm hồn, ăn năn hối cải, càng không thể nào đóng kín mình trong sự kiêu ngạo và giả hình, làm cho chúng ta không thể nào tìm gặp Hoàng Tử Bình An. Hơn bao giờ hết, chúng ta được mời gọi trở nên người loan báo Chúa Kitô bằng lời nói và đời sống chúng ta, làm chứng cho một Chúa Kitô tốt lành, khiêm nhường, nghèo khó và nhân từ; một Chúa Kitô đã đến trần gian vâng lời Chúa Cha cho đến chết và chết trên cậy thập giá; một Chúa Kitô nhập thể làm người, giống chúng ta mọi đàng ngoại trừ tội lỗi; một Chúa Kitô đến để hầu hạ chứ không phải để được hầu hạ, một Chúa Kitô xót thương nhân loại cho đến chết.

Chúng ta còn được mời gọi san phẳng đường lối cho Chúa, nghĩa là dẹp tan lòng kiêu ngạo, chia rẽ, hận thù, bất hòa, giận dữ trong chúng ta; xóa bỏ ranh giới còn tồn tại trong não trạng của nhiều người; tinh luyện tâm hồn; chiến đấu cho công lý, hòa bình, bác ái, tình huynh đệ và liên đới; khước từ Satan, tội lỗi và tất cả những gì đưa chúng ta đến tội lỗi; là sống thánh thiện nơi thân xác và tâm hồn (1 Cr 7,34).

 

Ngày 8 tháng 12 sắp tới, lễ Ðức Maria Vô Nhiễm, toàn thể Giáo hội bước vào Năm Lòng Thương Xót. Chúng ta hãy xin với Đức Maria, Nữ Vương Lòng Thương Xót, Ðấng đầy ơn phúc, Mẹ của Ðấng Cứu Thế được gìn giữ khỏi mắc tội, và được đầy tràn ân sủng của Thiên Chúa dạy cho chúng ta biết thương xót như Chúa Cha và dẫn dắt chúng ta bước vào Năm Thánh và nhất là trở nên khí của của Lòng Thương Xót Chúa nữa. Amen.

 

45.        Đổi mới

(Suy niệm của Lm Nguyễn Nguyên)

 

Có thể nói, cuộc đời của mỗi người chúng ta được ví như một con đường. Và trên con đường ấy, mỗi người phải tiến về cùng đích của mình. Cuộc đời chỉ có ý nghĩa nếu ta biết chọn cho mình đường đi đúng đắn. Cho nên, cuộc sống mỗi người cũng là quyết định của một sự chọn lựa tự do. Chúa muốn mỗi người trong chúng ta hãy tự quyết định phần rỗi cho chính mình. Ngài là Người Cha đầy yêu thương và cũng ban đủ mọi phương thế để giúp chúng ta chọn lựa con đường đúng đắn nhất để chúng ta có thể trở về với Ngài. Cũng có những chọn lựa thật đúng đắn, khôn ngoan; nhưng cũng có những chọn lựa lệch lạc, chủ quan dẫn tới những sai lầm, khiến chúng ta ngày càng xa Thiên Chúa, lắm khi trở thành kẻ đối nghịch với Ngài. Vì thế, mỗi năm vào mùa vọng chúng ta luôn được nghe lại lời kêu mời của Thánh Gioan Tẩy Giả là “hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng” để nhắc nhở chúng ta hãy uốn nắn con đường tâm hồn, cách sống cho thích hợp, để sẵn sàng đón chào ngày Chúa đến.

 

Chúa muốn chúng ta “hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng”, bởi Ngài không thích và không muốn chúng ta đi trong sự quanh co, sống trong sự lừa đảo và lệch lạc. Thiên Chúa, Ngài muốn con cái của mình luôn sống và đi trong đường lối của Ngài, con đường dẫn đến sự sống. Gioan Tẩy giả đã dùng lời tiên tri Isaia mà kêu gọi “hãy lấp mọi hố sâu, bạt mọi núi đồi, nắn lại con đường cong queo, san bằng con đường gồ ghề”. Chúa muốn chúng ta hãy sống trong sự công chính, trong sự thánh thiện và cũng đừng chậm trễ thi hành những giới luật của Chúa, vì “ngày của Chúa đến như kẻ trộm”. Chúa muốn ta sống trong sự trung thực, thẳng thắn.

 

“Hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng”. Chúa đang đến gần và thực sự Ngài đang bên cạnh, ngày đêm chờ đợi sự sám hối, ăn năn của mỗi người chúng ta. Chúa không muốn chúng ta đánh mất cuộc đời mình bằng “sự thiếu hiểu biết”. Chính Ngài đã sẵn sàng đánh đổi tất cả, để chỉ mong chúng ta sống và đi trong đường lối của Ngài, con đường sự thật dẫn đến sự sống. Điều quan trọng là mỗi người chúng ta biết nắn lại cho thẳng những gì đang quanh co của gian dối, lừa đảo; lấp đi mọi hố sâu đam mê, ích kỷ, tham vọng; bạt đi mọi gò nổng kiêu ngạo, tự mãn, để tâm hồn chúng ta thật xứng đáng và bình an đón nhận tin mừng cứu rỗi của Chúa.

 

“Hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng” Chúa muốn đến với tất cả chúng ta bằng con đường thẳng, ngắn nhất, bởi con đường mà Ngài giới thiệu và sống chính là con đường của tình yêu, của tha thứ và cứu độ. Chính bản thân Ngài đã không chọn lựa con đường nào ngoài con đường của thí mạng, để làm gương cho tất cả chúng ta. Chính khi yêu thương là lúc chúng ta đang đi đúng con đường của Chúa. Chính khi yêu thương và tha thứ cho anh em, là chúng ta đang đến gần hồng ân cứu rỗi và thuộc trọn về Ngài.

 

Lời mời gọi “Hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng” đang đặt ra cho chúng ta sự lựa chọn: ưu tiên cho những gì thuộc về Chúa, loại trừ ra khỏi tâm hồn chúng ta sự dối trá, quanh co. Uốn nắn những gì lệch lạc, điều đó luôn đòi hỏi mỗi chúng ta phải nỗ lực hằng ngày để cải thiện cuộc sống, đổi mới cách sống để xứng đáng hơn với tình thương của Chúa. Chúa đã và đang đến thật gần với từng người chúng ta, đừng chậm trễ, đừng ươn hèn trong chính những lẫm lỗi của mình, nhưng can đảm và quảng đại để ngày càng xứng đáng hơn với tình yêu của Thiên Chúa. Dọn đường cho Chúa bằng cách lấp đầy những thung lũng, bạt những núi cao ấy và sửa lại những con đường quanh co hiện đang ở trong tâm hồn từng người chúng ta. Đó là những trở ngại khiến cho Chúa không đến được với ta. Những trở ngại ấy ở từng người không ai giống ai. Nhưng chắc chắn có chung một điểm: để chuẩn bị một con đường cho Chúa ngự đến trong tâm hồn mỗi người chúng ta không gì khác hơn là chúng ta phải luôn ý thức được tình trạng yếu đuối và tội lỗi của mình để sám hối và thay đổi. Thay đổi cuộc sống, thay đổi lối nhìn, thay đổi cách suy nghĩ. Chúng ta thường nhìn người khác bằng những định kiến, những nhãn hiệu do chính chúng ta tạo nên. Những định kiến đó là những lũng sâu tăm tối, nơi thiếu vắng ánh sáng tình yêu làm chúng ta không thể đến với tha nhân.

 

Chúng ta thường vô cảm trước những nhu cầu của người khác, nhưng chỉ lo toan tính tìm lợi ích cho bản thân mình. Những toan tính ích kỷ đó, là những khúc quanh co, những mấp mô, lồi lõm của tâm hồn khiến chúng ta không thể mở rộng cõi lòng để cảm nhận và chia sẻ những nhu cầu của người khác. Chúng ta thường tự mãn về những khả năng và thành quả mình thủ đắc được. Chúng ta luôn xem mình là “trung tâm”, luôn muốn áp đặt quan điểm, suy nghĩ của mình trên người khác nhằm thỏa mãn khát vọng thống trị của bản thân. Những khát vọng đó, là những núi đồi ngạo nghễ của tự cao, tự mãn làm chúng ta không thể khiêm nhường đến với người khác.

 

Đổi mới một con đường thì dễ, nhưng đổi mới tâm hồn không dễ chút nào. Đổi nơi sinh sống thì dễ, nhưng thật khó mà thay đổi lối sống. Ước gì qua lời Chúa hôm nay, xin Chúa cho chúng ta luôn ý thức rằng: con đường sám hối và thay đổi bản thân mỗi ngày chính là con đường xứng đáng để Chúa ngự vào tâm hồn mỗi người chúng ta, để từ đó chúng ta biết từ bỏ những ham muốn ích kỷ của bản thân để có thể nhạy cảm hơn trước những nhu cầu của người khác và khiêm nhường mở rộng tâm hồn chia sẻ với tha nhân. Amen.

 

46.        Dọn đường đón Chúa

 

Chúa Giêsu đã từng công khai tuyên bố với mọi người: “Thầy là Đường”. Ngài là con đường dẫn đưa con người đến với Thiên Chúa. Đồng thời, Ngài cũng là con đường để Thiên Chúa đến với con người. Con đường Chúa đến với con người là con đường từ “trái tim đến trái tim”. Bởi lẽ, Thiên Chúa là Tình yêu. Thánh Gioan Tẩy giả loan tin cho mọi người hãy chuẩn bị con đường cho Chúa đến. Con đường đó chắc chắn phải là con đường tình yêu. Vì Gioan tẩy Giả đã loan báo rằng: “Hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi; con đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng; con đường gồ ghề hãy san cho bằng” (Lc 3,4-5). Con đường Chúa đi là con đường bằng phẳng của tình yêu; không có hố sâu của chia rẽ của hận thù, không có núi đồi của sự cố chấp, kiêu căng, tự mãn; không có chỗ quanh co của tội lỗi và không có chỗ gồ ghề của những tính mê nết xấu cáu kỉnh, nóng nảy, nhẹ dạ, ghen tương, bất hòa, tranh chấp… Khi con đường không còn những chướng ngại vật đó nữa thì đó quả là con đường của tình yêu, con đường được lót bằng hoa thơm của lòng bát ái yêu thương, rất êm ái và mát mẻ. Chúa sẽ đến với từng người chúng ta bằng con đường như thế và Ngài cũng sẽ dẫn dắt chúng ta đi trên con đường ấy để về lại Nhà Cha trên trời.

 

Khi yêu thương nhau rồi, con người ta sẽ có nhiều sáng kiến hay và tuyệt vời lắm. Người ta kể về sáng kiến độc đáo của một nông dân như sau. Ngày nào người nông dân cũng phải khàn cả tiếng để đuổi đám gà của những người hàng xóm chúng cứ chui qua hàng rào vả bới nát cả vườn tược của ông. Người nông dân này đã xin những người láng giềng vui lòng nhốt gà lại. Thế nhưng không ai thèm chú ý đến lời yêu cầu của ông, đám gà cứ thản nhiên chui qua hàng rào và phá nát hoa màu của ông ta. Là một con người ưa chuộng hòa bình, người nông dân không muốn ăn miếng trả miếng. Ông liền nghĩ ra một giải pháp độc đáo: ông đi mua một ít trứng gà, cho vào trong giỏ và cứ vài ngày lại mang sang cho những người láng giềng và giải thích rằng đó là trứng mà đám gà của họ đã đẻ trong vườn của ông. Ông làm như thế liên tiếp ba lần, và quả thật kết quả đã diễn ra nhanh chóng: Chỉ trong một tuần lễ người láng giềng nào cũng rào dậu cẩn thận để giữ không cho gà của mình sang đẻ bên nhà bác nông dân nữa. Chỉ mất một ít trứng gà mà người nông dân đã tránh được những tranh chấp vô ích có thể làm sứt mẻ tình hàng xóm láng giềng.

 

Người biết tạo dựng tinh thần hòa thuận và yêu thương nơi mọi người chính là hình ảnh của người dọn đường cho Chúa ngự đến. Anh nông dân trong câu chuyện mà chúng ta vừa nghe quả đã có một sáng kiến tình yêu rất tuyệt vời. Anh chính là mẫu gương rất đẹp về hình ảnh của người dọn đường đón Chúa ngự đến. Xây đắp tình thương, tạo sự cảm thông và tha thứ cho nhau mới là khó; còn đạp đổ và phá hủy thì dễ dàng lắm! Chúa Giêsu là Đấng không muốn “dập tắt tiêm đèn còn leo lét khói, không nở bẻ gãy cây lao bị giập”. Ngài cũng muốn mời gọi mọi người chúng ta hãy dùng mọi khả năng Chúa ban để kiến tạo sự hòa thuận và xây đắp tình yêu.

 

Nhưng trong thực tế, con người ngày nay xem ra không thích giải hòa với nhau khi có những bất đồng xảy ra, mà chỉ muốn chiến tranh, thích trả thù, thích dùng bạo lực để giải quyết những bất đồng đó. Thung lũng sâu của sự thù hằn trong lòng con người xem ra ngày càng quá rộng, quá sâu, khiến nhiều người không thể ngồi lại với nhau nhưng có khuynh hướng muốn loại trừ mà thôi. Thế giới ngày nay tuy văn minh, tiến bộ về khoa học kỹ thuật, nhưng là một thế giới bất ổn hơn bao giờ hết. Tệ nạn khủng bố, đánh bom tự sát, xử nhau theo kiểu Mafia…đang lan tràn lan khắp nơi trên thế giới. Ở Việt Nam, nạn xã hội đen, đâm thuê chém mướn diễn ra hằng ngày nơi những khu dân cư đông đúc… Gần đây nhất (ngày 27/11/2009) là vụ đánh bom trong chiếc xe lửa dài 14 toa ở nước Nga, một đất nước được coi là “quốc gia hòa bình”, đã cướp đi sinh mạng của 40 người và 130 người khác bị thương! Hố sâu nơi tâm hồn con người xem ra quá rộng, quá sâu, quá đen tối!

 

Trong lớp bồi dưỡng kiến thức Quốc Phòng – An Ninh dành cho các nhà chức sắc, nhà tu hành vừa được tổ chức tại Tỉnh Bến Tre vừa qua, người ta đánh giá rằng: những xứ đạo có đông người có đạo như Cái Mơn chẳng hạn, thì tệ nạn xã hội ít xảy ra, nhất là tệ nạn hành xử theo lối xã hội đen. Nghe điều đó, tôi rất mừng và rất hãnh diện vì những người con cái Chúa sống tốt lành như thế. Đó là những tấm gương sáng, là ngọn đèn soi rọi vào chốn tối tăm của thế giới hôm nay. Chúng ta hãy tiếp tục là ánh sáng cho trần gian như lời Chúa Giêsu đã nói với chúng ta: “Các con là muối đất, là ánh sáng của thế gian”. Chúng ta hãy siết chặt tay nhau để xây đắp hòa bình và yêu thương. Chúng ta hãy tiếp tục chiếu sáng như “những vì sao trên bầu trời” vào một thế giới sa đọa và tối tăm. Hãy trở thành những người mở đường và dọn đường cho Chúa ngự đến- con đường của TÌNH YÊU!

 

47.        Dọn đường cho Chúa

(Suy niệm của Cố Lm. Hồng Phúc)

 

Gioan Tiền hô có sứ mạng

dọn đường cho Chúa Cứu Thế đến.

Luca, như một sử gia, nhập đề một cách trang trọng. Người viết: “Đời Hoàng đế Tibêriô năm thứ mười lăm…” Bằng sáu mốc điểm, Người định vị trí cuộc rao giảng Tin Mừng cho thế giới được coi như những trang đầu của lịch sử nhân loại mới. Năm thứ 15 thời Vua Tibêriô (14-17) khởi đầu tháng 10 năm 27. Vậy Gioan “xuống núi” như một nhà đạo sĩ, bắt đầu rao giảng vào cuối mùa thu năm ấy và việc Chúa Giêsu chịu phép rửa đã xảy ra vào đầu tháng giêng năm 28 kỷ nguyên. Gioan xuất hiện như một nhà ẩn sĩ, mình mặc áo da thú, ăn châu chấu, uống mật ong rừng và bắt đầu rao giảng. Ông là một nhà tiên tri chuyển tiếp từ đạo cũ Do-thái sang đạo mới của Chúa Giêsu và đề tài rao giảng cũng là đề tài của các nhà tiên tri, là “Hãy ăn năn trở lại, hãy dọn đường Chúa”.

 

Qua đoạn Phúc âm này, chúng ta chú trọng đến hai điểm.

  • Một là “Lời Chúa đã kêu gọi Gioan, con Giacaria, từ trong hoang địa”.

Nói một cách chung, chúng ta thấy rằng trong Thánh Kinh, Thiên Chúa thường kêu gọi các vị sứ giả từ trong hoang địa, sau một thời gian sống trong thinh lặng, suy tư và cầu nguyện. Moisê lùa đàn chiên của nhạc phụ ở Madian đi vào sa mạc đến núi của Chúa là Koreb (X.H. 3,1). Isaia kêu lên: “Tôi phải nín thinh, vì môi tôi nhơ uế” (Is. 6,5). Sống suy tư, thinh lặng và cầu nguyện vẫn là đòi hỏi hiện nay của mọi Kitô hữu; không phải đòi hỏi sống đời tu trì, nhưng phải có những lúc đi vào nội tâm, suy tư cầu nguyện, nhất là đối với những ai giữ trọng trách trong Giáo hội, những người làm việc Tông đồ. Phaolô, trong thư gửi giáo đoàn Philiphê (bài đọc II) đã minh xác như vậy. Lời kinh đó ôm choàng cả Giáo hội hoàn vũ. Lời kinh chiêm ngắm ca tụng và “ngày đêm, trong mọi lúc”. Không phải chỉ đọc máy móc bên ngoài mà là, như lời Thánh Augustinô, “một sự cầu mong, ước muốn là cầu nguyện, lời kinh liên lỉ, vì yêu mến”. Mùa Vọng là mùa mong đợi, ước muốn và cầu nguyện sốt sắng. Thánh Gioan, Cha sở họ Ars, nhìn thấy một giáo dân ngồi cầu nguyện lâu trước nhà Chầu, đến gần và hỏi:

  • “Ông nói gì với Chúa?”
  • “Tôi nhìn Ngài và Ngài nhìn tôi” (Je l’avise et II m’avise).

  Đó là lời kinh Mùa Vọng.

 

  • Điểm thứ hai: Gioan rao giảng một “phép rửa sám hối, cầu ơn tha tội”. Người Biệt phái và Saducêô cho rằng chỉ cần giữ Lề Luật là đủ, là hết bổn phận với Thiên Chúa. Gioan khẳng định rằng điều cần thiết là phải có một sự đổi mới tâm hồn: “hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu (tội lỗi), hãy bạt mọi núi đồi, con đường gồ ghề hãy san cho bằng”. Sau này, Chúa Giêsu sẽ nói: điều làm cho con người nên dơ bẩn là những điều xuất phát từ tâm hồn như thù oán, ghen tương, dâm ô, bất chính, sống vật chất trụy lạc, và Chúa dạy phải rửa sạch và đổi mới tâm hồn. Vậy, mùa Vọng là mùa “dọn đường Chúa” (Isaia); khi một vị Thượng khách đến, người ta trải thảm đỏ, khánh thành đại lộ mới. Chúng ta hãy canh tân đời sống, dọn tâm hồn đón Chúa đến trong thân phận thấp hèn. “Thuở ấy có một Hoàng đế, thuở ấy có một Hài nhi. Suốt ngày Hoàng đế đến đếm đi đếm lại số người dân, số súc vật, số vàng bạc của cải. Còn Hài nhi niềm nở đón tiếp các mục đồng, đám chiên cừu, đoàn thần thiêng… Hoàng đế không còn nữa, chỉ còn lại Hài nhi. Ai cũng có thể đến gần Người. Thời đại nào cũng có Người, vì thế mà có Giáng Sinh”. (Trích “Prier”)

 

48.        Chúa Nhật 2 Mùa Vọng

(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’ – Radio Veritas Asia)

 

SỐNG TRỌN VẸN MÙA VỌNG TRONG ƠN CHÚA.

 

Với Chúa nhật này, chúng ta đang bước sang tuần thứ II của Mùa Vọng, Giáo Hội mời gọi chúng ta gia tăng niềm hy vọng bằng cách chuẩn bị tâm hồn để đón Chúa đến cứu chuộc con người.

 

Nơi bài đọc thứ nhất, tiên tri Barúc gợi lên niềm hy vọng cho dân chúng Israel đang tản mác khắp nơi. Sau khi thành thánh Giêrusalem bị thất thủ, ông với một số người cùng với tiên tri Giêrêmia chạy trốn sang Ai Cập. Barúc kêu gọi dân chúng đừng mất niềm tin, niềm hy vọng vào Thiên Chúa. Ông phác họa cho dân lưu đày thời gian nô lệ, lưu vong sắp kết thúc. Một thời đại huy hoàng của Giêrusalem đang gần kề.

 

Và Giêrusalem sẽ vui mừng thấy mình trút bỏ được áo tang chế, mặc lấy áo vinh quang, đầu đội vương miện và hớn hở mở rộng tầm mắt, dang rộng đôi tay để nhìn xem và đón nhận con cái từ các nơi trở về. Đó là hình ảnh của Giêrusalem thiên quốc. Nơi đó, Chúa Giêsu Kitô là vua hiển trị các dân. Các nước tôn thờ Người, trở về với Người sau khi đã bị tội lỗi và sự dữ phân tán tản mác khắp nơi. Và muốn cho sự trở về được dễ dàng, cho sự gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người được nhanh chóng: “Hãy san bằng những núi cao và những đồi gồ ghề. Hãy lấp đầy những hố sâu, những vực thẳm. Uốn cho ngay những con đường quanh co, hiểm trở, để mọi người vững vàng bước đi và cao rao vinh quang của Thiên Chúa”.

 

Qua hình ảnh tiên tri đó, Barúc kêu gọi chúng ta hãy hoán cải tâm hồn bằng cách hồi tâm, suy nghĩ về những việc hiện tại mình đang làm, để xem con đường của mình có ngay thẳng không? Không những quanh co, lên đèo, xuống hố, mà nhất là có phải là đường hầm không, con đường đi trong tối tăm và mờ ám?

 

Nơi bài đọc thứ hai trong thư gởi tín hữu thành Philipphê, thánh Phaolô mở ra con đường lạc quan trong công cuộc trở về cùng Thiên Chúa. Thánh nhân tin tưởng rằng Thiên Chúa đã hứa, để thực hành lời hứa thì việc gì Thiên Chúa đã bắt đầu, Người sẽ hướng dẫn cho đến hoàn thiện, nhất là trong đời sống của những kẻ tin nơi Người. Tin tưởng vào Thiên Chúa thì thánh Phaolô hết lòng tin tưởng. Nhưng điều ngài lo, ngài ao ước, ngài cầu nguyện, là làm sao cho mọi người biết thương yêu nhau, biết thông minh sáng suốt và biết phán đoán mọi sự. Việc yêu thương nhau còn gọi là bác ái, còn gọi là yêu người, sẽ dễ dàng thực hiện khi tất cả mọi người trong một cộng đoàn, một tập thể biết suy nghĩ đến hạnh phúc của nhau, biết sống vì ích lợi, vì sự thăng tiến của tập thể mình đang sống. Bao lâu còn những kẻ lộng hành, chèn ép, bóp nghẹt người khác, thì thánh Phaolô muốn mọi người phải biết sáng suốt phán đoán mọi việc.

 

Một người bị ức hiếp một cách bất công mà tôi bảo người đó cố gắng bằng lòng chịu vì Chúa, yêu kẻ ghét mình và làm ơn cho kẻ làm khốn mình, tức là tôi đồng lõa với kẻ làm điều gian ác, là tôi dùng tôn giáo như á phiện ru ngủ con người. Đành rằng Chúa đã dạy: “Chúng con hãy yêu kẻ ghét chúng con và làm lành cho kẻ làm khốn cho chúng con”, nhưng phải sáng suốt phán đoán như thánh Phaolô dạy, để phân biệt con người và điều ác người đó đang làm hại cho kẻ khác. Con người thì phải yêu thương cầu nguyện cho họ, mong cho họ cải tà qui chánh, sống trong tình anh em con một Cha trên trời. Nhưng điều ác họ đang thi hành là nọc độc tác hại cho người khác, phải tận diệt những nọc độc đó mới là yêu thương nhau thật sự.

 

Dầu vậy, thánh Phaolô cũng khuyên tất cả, trong hoàn cảnh nào cũng hãy sống không có gì đáng trách cho đến ngày của Chúa Kitô. Và thánh nhân đưa ra bằng chứng đời sống của ngài để làm gương nơi câu 7 của đoạn thánh thư này. Nhưng rất tiếc, không hiểu sao khi chọn làm bài đọc phụng vụ thánh lễ, người ta lại bỏ câu 7. Từ câu 6 nhảy đến câu 8 ngay, trong câu 7 đó thánh Phaolô nói: “Tôi cầu xin anh em như thế là điều hợp lý, bởi vì tôi mang anh em trong lòng tôi khi tôi bị xiềng xích, cũng như lúc tôi bênh vực củng cố Tin Mừng, anh em đều thông phần vào ơn sủng tôi đã nhận được”. Nói thế, tức là trong mọi hoàn cảnh, thánh Phaolô đều dâng lên Thiên Chúa mọi vui buồn, sướng khổ để cầu nguyện cho nhau.

 

Nơi bài Phúc Âm, thánh Luca ghi lại rất rõ ràng ngày tháng, niên hiệu hẳn hoi của những nhà lãnh đạo Rôma cũng như Do Thái, đạo cũng như đời, lúc Gioan Tẩy Giả bắt đầu rao giảng. Một phần vì thánh Luca chú ý đến khía cạnh lịch sử, nhưng dựa vào đó chúng ta thấy rằng, ơn cứu độ bắt đầu thực hiện ngay trên trần gian này, đừng chờ đâu nữa. hãy bắt đầu ngay và dĩ nhiên là đã bắt đầu từ thời xa xưa trong Cựu Ước. Nhưng thời kỳ quyết liệt bắt đầu, với sứ mạng của Gioan Tẩy Giả để cho thấy Cựu Ước và Tân Ước cũng là một công cuộc chuẩn bị. Gioan đã lấy lại lời tiên tri của Barúc trong Cựu Ước mà chúng ta đọc thấy trong bài đọc thứ nhất: “Hãy dọn đường cho Chúa, hãy sửa soạn đường Chúa cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi. Con đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, con đường gồ ghề hãy san cho bằng và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa”.

 

Trong khoảng ba tuần nữa, chúng ta sẽ mừng lễ Giáng sinh của Đấng Cứu Thế. Ước gì lễ Chúa Giáng sinh không qua đi như bao ngày lễ tết khác trong năm. Nhưng phải làm sao để Chúa Giêsu sinh lại trong đời sống, trong gia đình, trong cộng đoàn của mỗi người chúng ta. Đó là ý nghĩa của Mùa Vọng và sống được như thế tức là chúng ta sống trọn vẹn Mùa Vọng trong ơn Chúa.

 

Để có việc làm cụ thể trong tuần này, tôi nhìn lại xem, trong những công việc mệt nhọc hằng ngày của tôi, cái gì giúp tôi càng ngày càng gần Chúa hơn? Để được thế, tôi cũng hãy tìm xem chỗ nào trên con đường nối kết Chúa với cá nhân tôi cần được sửa chữa, để khỏi cản trở việc Chúa đến với tôi. Và nếu được, cũng hãy chuẩn bị tham dự một nghi thức thống hối và coi đó là một sự khai thông bế tắc giữa tôi với Đấng tôi yêu mến và Người luôn yêu tôi hết lòng.

 

49.        Chúa Nhật 2 Mùa Vọng

 

HÃY DỌN LÒNG MỪNG CHÚA ĐẾN!

 

Chúa nhật này, chúng ta đang bước sang tuần thứ II của Mùa Vọng, Giáo Hội mời gọi chúng ta gia tăng niềm hy vọng bằng cách chuẩn bị tâm hồn để đón Chúa đến cứu chuộc con người.

 

Để đón khách người ta phải chuẩn bị. Vị khách quan càng quý thì việc chuẩn bị lại càng quan trọng hơn. Chúa Cứu Thế hẳn là vị khách vô cùng đáng quý trọng, Ngài là Ngôi Hai đến trần gian để cứu chuộc nhân loại. Nhân loại đang khao khát đón chờ Ngài, hy vọng vào Ngài. Chính trong bài Phúc âm hôm nay, Thánh Luca cho chúng ta thấy ơn cứu chuộc của Ngôi Hai quan trọng vì có liên quan đến không gian và thời gian của nhân loại. Ngài đến trong không gian cụ thể là nước Do thái và thời gian có những vị lãnh đạo cả đời lẫn đạo: “Năm thứ mười lăm dưới triều hoàng đế Tibêriô, thời Phongxiô Philatô làm tổng trấn miền Giuđê, Hêrôđê làm tiểu vương miền Galilê, người em là Philípphê làm tiểu vương miền Iturê và Trakhônít, Lyxania làm tiểu vương miền Abilên, Khanan và Caipha làm thượng tế” (Lc 3, 1 – 2). Như thế, thánh Luca ghi lại rất rõ ràng ngày tháng, niên hiệu hẳn hoi của những nhà lãnh đạo Rôma cũng như Do Thái, đạo cũng như đời, lúc Gioan Tẩy Giả bắt đầu rao giảng. Một phần vì thánh Luca chú ý đến khía cạnh lịch sử, nhưng dựa vào đó chúng ta thấy rằng, ơn cứu độ bắt đầu thực hiện ngay trên trần gian này. Thánh Luca dẫn chúng ta vào trong thời gian mà người dọn đường là Gioan Tẩy Giả và con Đường là Đức Giêsu đưa ta tới ơn cứu độ của Thiên Chúa. Ơn cứu độ diễn ra ngay trong chính cuộc sống hằng ngày.

 

Con đường mà Phúc âm chỉ cho chúng ta để gặp Thiên Chúa không ở đâu xa nhưng nằm ngay trong lòng mỗi người. Chúa Giêsu đã đến, không bằng sức mạnh của quyền thế cũng như không phải ở nơi giàu sang. Chúa đến một cách âm thầm và đơn sơ. Con người cũng chỉ có thể gặp được Chúa khi con người biết quay về với lòng mình trong sự khiêm nhường và chiến đấu. Đời sống và lời loan báo của Gioan Tẩy Giả mời gọi ta đến gặp Chúa qua những con đường ấy. Ta chỉ có thể gặp Chúa khi trở lại với lòng mình. Thật vậy, ơn cứu độ của Thiên Chúa không được mạc khải cho những vị lãnh đạo quyền đời và tôn giáo, nhưng được mạc khải cho một con người bé nhỏ là Gioan Tẩy Giả. Cuộc sống ồn ào náo nhiệt của đô thị phồn hoa làm cho các vị lãnh đạo không còn nhận ra lời mời gọi của Thiên Chúa. Nếp sống văn minh đô thị, tiếng kêu mời của dục vọng quá lớn làm các vị ấy không thể gặp được Chúa. Ngược lại, Gioan Tẩy Giả đã từ bỏ tất cả để vào trong hoang địa, xa rời sự náo nhiệt của thế giới bên ngoài. Chính sự tĩnh lặng của hoang địa đã giúp Gioan Tẩy Giả quay về với lòng mình. Đời sống cầu nguyện trong hoang địa giúp Gioan nuôi dưỡng bầu nhiệt huyết. Từ đó ông nhận ra lời mời gọi của Chúa. Chính sự từ bỏ và quay về với lòng mình giúp Gioan gặp được Chúa và nhận ra chương trình cứu độ của Người. Chỉ những ai dám từ bỏ, dám quay về trong sâu lắng của lòng mình trong cầu nguyện thì mới có thể nhận ra được tiếng Chúa và gặp được Người. Chính thái độ tự mãn, tự kiêu làm con người đóng kín lòng mình lại trước lời mời gọi của Thiên Chúa. Gioan Tẩy Giả sống âm thầm trong hoang địa, khiêm nhường mở lòng mình ra và đã khám phá được ý định của Thiên Chúa. Ông sống đơn sơ trong áo lông lạc đà và thắt lưng bằng dây da; ăn uống đơn sơ bằng những gì có sẵn trong hoang địa như châu chấu và mật ong.

 

Còn các vị lãnh đạo sống trong giàu sang, yến tiệc linh đình… Thái độ kiêu căng tự mãn làm các vị lãnh đạo quên mất cõi lòng đơn sơ và khiêm nhường của mình. Uy quyền và địa vị làm các vị quên đi lòng khiêm nhường cần có của người lãnh đạo. Gioan khiêm nhường nhìn nhận mình chỉ là tiếng kêu trong hoang địa. Nhờ vậy Gioan đã gặp được Chúa và hoàn thành sứ mạng của mình. Ta cũng chỉ gặp được Chúa trong tinh thần phấn đấu không ngừng, chiến đấu với bản thân, trong tâm hồn của mỗi người. “Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng. Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn Thiên Chúa cứu độ”. (Lc 3, 5 – 6). Gioan Tẩy Giả mời gọi mọi người chúng ta hãy sửa lại cho thẳng lối đi quanh co. Lối đi ấy là cách sống của mỗi người. Có thể đó là lối sống chỉ quy về của cải, vật chất hay địa vị và quyến thế nên bất chấp tất cả. Đó cũng có thể là thái độ sống gây nên chia rẻ, bất hoà trong cộng đoàn. Sửa lại cho thẳng lối quanh co trên là một cuộc chiến cam go. Đó là cuộc chiến với lòng mình mà chúng ta chỉ có thể thắng được khi chúng ta nhận ra và dám sống yêu thương. Gioan Tẩy Giả còn mời gọi chúng ta lấp cho đầy những thung lũng và san cho bằng con đường lồi lõm trong lòng mỗi người. Thung lũng và con đường lồi lõm có thể đó là lối sống thờ ơ, thiếu tinh thần quảng đại của mỗi người. Chiến đấu với lối sống như trên đòi hỏi mỗi người chúng ta phải dám đi ra khỏi ốc đảo của lòng mình để thấy, để thông cảm và chia sẻ nhu cầu tha nhân. Để có thể lấp đầy thung lũng và sửa cho ngay khúc quang co trước hết chúng ta cần bạt đi những núi đồi lòng ta. Đó là thái độ tự mãn, kiêu căng. Chính thái độ này làm cản trở con đường Chúa đến với chúng ta cũng như tạo ngăn cách làm cho lòng ta khó gặp được Chúa và qua tha nhân.

 

Nghe lời Gioan kêu gọi, chúng ta dùng thời gian của mùa vọng này như là bầu khí thuận tiện để sám hối và quay về với Thiên Chúa bằng cách: sửa đường Chúa ngay cho thẳng. Ngay thẳng về tư tưởng: không có ý tưởng xấu, quanh co, gian dối, lừa đảo…Ngay thẳng về lời nói: không ăn gian nói dối, không chửi mắng. Ngay thẳng về việc làm: chu toàn tròn bổn phận hằng ngày, làm đến nơi đến chốn chứ không làm dối trá. Ngay thẳng trong tâm hồn: sống tình cảm chính đáng trong tương quan với tha nhân, không chạy theo tiếng gọi bừa bãi của con tim, nhưng giữ vững niềm tin cậy mến theo ơn Chúa gọi. Hãy lấp mọi hố sâu, mọi chia rẽ, hận thù ghen ghét…phải được lấp đầy bằng sự tha thứ hoà giải trong tình huynh đệ yêu thương. Tâm hồn trống rỗng khô khan phải được lấp đầy bằng lý tưởng yêu mến Thiên Chúa và đời sống hăng say làm việc Tông Đồ. Hãy làm cho ngay thẳng những điều quanh co, cần uốn nắn những tính tự phụ, kêu căng thích khoe khoang, coi mình hơn kẻ khác, phải sống khiêm nhường để dám sống từ bỏ tính háo danh, lợi lộc…Đồng thời, con đường ghồ ghề hãy san cho bằng, sửa chữa những tính nết xấu: cáu kỉnh, nóng nảy, nhẹ dạ, gây gỗ, nghi kỵ, ghen tương, cố chấp, ích kỷ, giận hờn, bất hoà…Sống tâm tình yêu thương của Chúa.

 

Hãy bày tỏ lòng mừng Chúa đến. Khiêm tốn trở về với lòng mình giúp chúng ta nhận ra con người mình. Khi nhận ra con người yếu đuối bất toàn của mình thì chúng ta mới dám khiêm nhường và chạy đến với Chúa, để cầu khẩn Người sửa đổi và uốn nắn con người chúng ta. Cùng với ân thánh Chúa giúp, chúng ta dám quay lại, dám từ bỏ và sống đời sống mới, sống đức tin mạnh mẽ trong ân sủng. Như thế, chúng ta sẽ gặp Chúa trong cuộc sống và nhận ra con đường mà Người dành cho mỗi người chúng ta trong cuộc sống hiện tại.

 

Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con quyết tâm dọn lòng mừng Chúa đến bằng những việc thiết thực, sống đức tin và đức ái trong đời sống thường ngày của chúng con. Ước gì từng giây phút, từng nhịp đập của quả tim con là lời ca tụng Chúa, sống đẹp lòng Chúa để đón mừng lễ Chúa Giáng sinh sắp đến. Amen.

 

50.        Chúa Nhật 2 Mùa Vọng

 

Anh chị em thân mến.

Trong thời gian gần đây, chúng ta nhìn thấy những con đường đã được mở rộng, cảnh quang đô thị mỗi ngày được đổi mới, trật tự giao thông cũng được chỉnh đốn tốt đẹp hơn. Để có được quang cảnh như thế, chắc anh chị em biết, có nhiều người phải hy sinh. Trước tiên là những người buôn bán trên vỉa hè, kế đến là những ngôi nhà lấn chiếm lòng lề đường, còn những ngôi nhà trước kia được ở hợp pháp, nhưng vì ích lợi chung của xã hội, giờ đây cũng phải chịu nhường bước để cho con đường được ngay thẳng, được mở rộng tốt đẹp. Chính vì những hy sinh, phải di dời, phải tháo dở, phải dẹp bỏ đi những gì cản trở, mà chúng ta mới có được quang cảnh tốt đẹp của ngày hôm nay. Nếu mọi người cứ ngoan cố, cứ tùy tiện lấn chiếm, không muốn theo trật tự chung; thử nghĩ xem, xã hội sẽ như thế nào.

 

Trong tâm tình của mùa vọng, Gioan xuất hiện, kêu gọi mọi người ăn năn sám hối để được ơn tha tội. Ngài mượn lời Ngôn Sứ Isaia: “Hãy dọn đường Chúa, hãy sữa đường Chúa cho ngay thẵng, Thung lũng phải lấp cho đầy, núi đồi hãy bạt xuống, Đường quanh co hãy sữa cho ngay, Đường lồi lõm hãy san cho bằng “. Gioan kêu gọi mọi người chuẩn bị đón tiếp Thiên chúa qua việc chuẩn bị con đường tâm hồn, không để một chướng ngại vật nào làm ngăn bước đi của Thiên Chúa đến với tâm hồn của mỗi người.

 

Chúng ta đang sống trong một xã hội ngày càng văn minh hơn, trật tự hơn. Đó là vì con người ngày càng sống có xã hội tính nhiều hơn, biết từ bỏ đi những gì là riêng tư không cần thiết. Chính vì thế mà con người ngày càng đến với nhau dễ dàng hơn

 

Nhưng ngày hôm nay, Thiên Chúa muốn đến với con ngưới có dễ dàng không? Thiên Chúa muốn đến với từng người trong chúng ta, Ngài muốn viếng thăm, an ủi, yêu thương và đem chúng ta về với Ngài.. Nhưng không biết bao nhiêu chướng ngại vật, bao nhiêu rào cản, bao nhiêu vực thẩm ngăn cách, khiến Ngài không thể đến gần tâm hồn chúng ta được. Cứ nhìn vào cuộc sống đã qua của mỗi người, chúng ta sẽ thấy tại sao Chúa không thể đến với tâm hồn của mình được.

 

Trong tâm hồn chúng ta, có những dãy trường sơn ngăn cách ngọn gió yêu thương, che chắn những cơn mưa hồng ân mà Thiên Chúa muốn tưới xuống tâm hồn khô cằn của chúng ta. Những ngọn núi cao ngất ngưởng cũng che chắn không cho chúng ta nhìn thấy được ánh sáng chân lý, không cho chúng ta hưởng được hơi nắng ấm của tình yêu thương đồng loại qua những người bên cạnh. Đó là những ngọn núi cao của tự phụ kiêu căng. Tự phụ về con người của chính mình, cho dù chúng ta chẵng có gì đáng tự phụ. Tự phụ về những gì mình đang có, cho dù những thứ đó xét cho cùng chẵng đáng là gì. Đôi khi còn tự phụ về những điều mình không có, nhưng do trí tưởng tượng vẽ nên, hoặc do người khác gán ghép cho mà chúng ta cảm thấy vui thích mặc dù những điều không có thật, nhưng không muốn từ chối nó. Chính những thứ đó đã che chắn, bao vây không cho chúng ta nhìn thấy Chúa và làm cho Chúa không thể nào đến gần chúng ta được.

 

Còn những hố sâu ngăn cách của sự nghi kỵ, hận thù, tìm cách loại trừ nhau. Những hố sâu của sự ích kỷ hẹp hòi. Đó là những hố sâu khi chúng ta lo sợ hao tốn đi một chút sức lực, của cải, quyền lợi, để rồi chỉ biết có mình và không bao giờ có thể nhìn thấy Chúa trong những người anh em, thì làm sao chúng ta có thể tiếp nhận, nhưng rất nhiều lần đã xua đuổi, loại trừ khi Chúa đến với chúng ta qua những người anh em thân cận.

 

Tâm hồn chúng ta có là một con đường thẳng, hay toàn là những khúc quanh co gập ghềnh, với những toan tính mưu mô để lừa lọc, để che giấu, để hại ngưới khác. Với con đường như thế thì làm sao Chúa có thể thong dong mà đến với tâm hồn mỗi người chúng ta.

 

Lời kêu gọi của gioan Tẩy giả từ 2000 năm qua vẩn còn vang động, khẩn thiết và cấp bách cho những con người của thời đại hôm nay, cho từng người trong chúng ta: “Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng để Người đến”.

 

Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho chúng ta biết chuẩn bị tâm hồn, biết sửa đổi con người của mình thật sự, để xứng đáng đón rước Chúa.

 

51.        Lỗi tại tôi

(Suy niệm của Lm. Giuse Trần Việt Hùng)

 

Ông Baruc là vị thơ ký của tiên tri Giêrêmia cũng đang bị lưu đầy tại Babylon. Vào thời quân Canđê đánh chiếm và phóng hỏa thành Giêrusalem, ông đã đứng ra qui tụ mọi người cùng đến để nghe đọc sách thánh, ăn chay cầu nguyện và đóng góp tiền bạc gởi về Giêrusalem. Ông đã cầu khẩn và gióng lên niềm hy vọng vào quyền năng can thiệp của Thiên Chúa. Ông dùng những cảnh thiên nhiên sống động để diễn tả hình ảnh nội tâm bên trong: Vì Thiên Chúa đã ra lệnh phải bạt thấp núi cao và gò nổng có tự lâu đời, phải lấp đầy thung lũng cho mặt đất phẳng phiu, để Ít-ra-en tiến bước an toàn dưới ánh vinh quang của Thiên Chúa (Bar 5, 7). Dân tin tưởng vào lượng từ bi của Thiên Chúa sẽ dẫn dắt họ trở về trong vinh quang.

 

Từ bảy trăm năm trước khi Đấng Cứu Thế xuất hiện, ngôn sứ Isaia đã tiên báo rằng: Có tiếng người hô trong hoang địa: hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi (Lc 3, 4). Tiếng hô trong hoang địa chính là lời kêu gọi của Gioan Tẩy Giả. Gioan xuất hiện mời gọi mọi người sám hối trở về. Gioan đã dùng lại lời của tiên tri Isaia: Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng (Lc 3, 5). Sám hối là một cách chữa lành bệnh tật cả tâm bệnh lẫn thân bệnh. Ai trong chúng ta cũng vương vấn với sai lầm, tội lỗi và bệnh tật thể xác. Lời mời gọi sám hối là phương cách chữa lành. Con người gồm có xác và hồn. Xác hồn kết hợp và hòa lẫn trong nhau. Nên sự mạnh khỏe của xác hồn luôn cuốn quyện lấy nhau. Xác khỏe thì hồn cũng thư thái. Hồn an vui thì thân xác cũng thảnh thơi. Chúng ta cần chú tâm đến cả hai phương diện thể xác và tâm hồn. Nếu chúng ta chỉ chú tâm lo lắng cho thân xác mà quên phần bổ dưỡng tâm linh, cuộc sống sẽ bị khập khễnh. Vì kết hợp với thân xác nên tâm linh con người cũng không thoát khỏi các thứ bệnh tật. Chúng ta gọi là tâm bệnh. Tâm bệnh cũng cần tìm thầy và tìm thuốc chữa trị. Tâm bệnh khởi đi từ tâm. Từ trong tâm phát xuất ra những sự xấu xa. Chúa Giêsu nói: Cái gì từ trong con người xuất ra, cái đó mới làm cho con người ra ô uế (Mc 7, 20).

 

Chúng ta hãy tìm cội nguồn của bệnh tật cả hồn lẫn xác để chữa lành. Trước hết là thân bệnh có trăm ngàn thứ. Chúng ta không biết có bao nhiêu phương thuốc để chữa lành. Kinh nghiệm cho chúng ta thấy người trẻ kẻ già, người giầu kẻ nghèo, người sang kẻ hèn, ai ai cũng có thể mắc bệnh. Có các loại bệnh nặng, bệnh nhẹ, bệnh mãn tĩnh hay cấp tính, nan y hay sơ cấp, bệnh ngoại tạng hay nội tạng và thân bệnh hay tâm bệnh. Đã có bệnh thì phải chữa. Chúng ta có thể uống thuốc, tập tành, kiêng cữ và chay tịnh. Trong các tiệm bán thuốc có muôn vàn thứ thuốc chữa muôn ngàn loại bệnh. Chúng ta có thuốc Bắc, thuốc Nam, thuốc Tây và thuốc gia truyền đủ loại. Bệnh nào thuốc đó. Có nhiều bệnh về phần xác chúng ta không thể phát hiện. Biết rằng không có thuốc nào trị bá bệnh. Thuốc nào chữa lành bệnh, đó là thuốc tốt. Đây là những môn thuốc chữa về thân bệnh. Xét mình, ai trong chúng ta cũng bị con bệnh quấy rầy. Chỉ khi mắc bệnh, chúng ta mới nhận ra sự yếu đuối, khổ đau và lệ thuộc của thân phận con người. Thân bệnh thì dễ chữa hơn là tâm bệnh. Tuy nhiên có những bệnh chết người như ung thư, tai biến và đột qụy. Thân bệnh có thể đưa đến cái chết tự nhiên vì hết sinh lực. Tâm bệnh thì nguy hiểm hơn nhiều. Tâm bệnh cũng có thể xuất hiện nơi mọi tâm hồn. Không phải những người nghèo đói, tàn tật và già cả mới có tâm bệnh. Chúng ta được biết có nhiều người quyền cao chức trọng và giầu sang phú quí cũng ngã đủ thứ bệnh. Những cặp trai trẻ khỏe mạnh đầy sức sống cũng tự quyên sinh vì tâm bệnh. Bệnh về tâm linh là những đột phá thất vọng và tuyệt vọng, đưa đến khổ tâm. Tâm bệnh rất cần các phương thuốc hữu hiệu là sự thức tỉnh tìm giải thoát.

 

Bệnh tâm linh là các thứ tật bệnh nội tâm, thói hư tật xấu, tội lỗi, mê lầm cả trong tư tưởng, lời nói và việc làm sai trái. Làm sao chúng ta có thể biết được các tật bệnh trong tâm hồn? Có nhiều triệu chứng giúp chúng ta nhận ra các loại bệnh này: Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo và ngông cuồng (Mc 7, 21-22). Bệnh nào cũng nguy hiểm xói mòn cuộc sống. Chúng ta cần tìm thầy chạy chữa cho kịp thời. Có nhiều toa thuốc giúp chữa lành tâm linh. Chữa cho dứt các mầm bệnh trong ngoài. Đôi khi chúng ta bị đánh lừa vì những xuất hiện da non bên ngoài, nhưng bên trong còn âm ỷ mưng mủ đau nhức.Thánh Phaolô viết: Tôi cũng xin cho anh em được nên tinh tuyền và không làm gì đáng trách, trong khi chờ đợi ngày Đức Kitô quang lâm (Phil 1, 10).

 

Bệnh là khổ đế. Bệnh cũng là phương pháp giúp tu học. Một người suốt đời khỏe mạnh không đau bệnh thì tâm tư dễ ngang tàng kiêu ngạo. Khi mắc bệnh, chúng ta mới thấy đời sống mỏng manh, thời gian ngắn ngủi và mọi sự đều thay đổi mau qua chóng hết. Người bệnh cần thức tỉnh nhận biết ý nghĩa cuộc đời để sống vui. Nhờ có bệnh, chúng ta mới biết dừng lại. Chúng ta biết rằng nếu sống không hạnh phúc thì chết không được an vui. Cuộc sống lê thê thì cái chết sẽ đau khổ. Khi con người mang bệnh thì người ta thường có mặc cảm, rồi lo âu sợ hãi bệnh nặng hay nhẹ, chết sớm hay muộn. Họ không dám tiếp xúc với bạn bè, người thân và xa lánh mọi người. Thân tâm ray rứt khổ sở.

 

Lời mời gọi thung lũng lấp cho đầy. Nơi cao phải bạt xuống. Quanh co uốn cho ngay. Đây là những đòi hỏi cấp bách trong qúa trình sám hối. Muốn có một tâm hồn thanh thản và an vui, chúng ta phải chữa lành mọi tật bệnh. Chẩn đúng bệnh. Tìm đúng thầy. Chữa đúng cách. Cả thân tâm được lành mạnh. Dù thuốc tiên cũng không thể chữa hết mọi bệnh về tâm linh và thể xác. Chúng ta hãy đặt niềm tin vào Đấng có thể chữa lành mọi loại bệnh hoạn tật nguyền. Cầu nguyện để nhận lãnh ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh. Xin ơn can đảm, ơn chịu đựng và ơn tha thứ để tâm hồn của chúng ta được gội sạch vết nhơ của kiêu căng, bất tín và gian tà. Thánh Phaolô trong thơ gởi cho Philipphê đã tha thiết nài van: Điều tôi khẩn khoản nài xin, là cho lòng mến của anh em ngày thêm dồi dào, khiến anh em được ơn hiểu biết và tài trực giác siêu nhiên, để nhận ra cái gì là tốt hơn (Phil 1, 9).

 

Sám hối được khởi đi từ tâm. Vượt qua mọi thách đố để giữ tâm an lạc. Đời sống nội tâm mỗi người khác xa nhau rất nhiều. Để tiến bước trên con đường nhân đức, chúng ta nên bớt bỏ nhưng vấn vương cuộc đời. Đừng quá chấp nhất, đừng gieo hận thù, đừng gây chia rẽ, đừng gian dối hại người và đừng nuôi lòng oán giận. Khi đó tâm hồn chúng ta sẽ tìm được niềm an vui trên con đường thẳng tắp ngút ngàn. Chúng ta không thể lừa dối lương tâm sống đạo bằng những hình thức phô trương bên ngoài làm cho đầy đủ lệ bộ, giống như khi chuẩn bị đón tiếp những vị chính khách. Đời sống tâm linh của chúng ta cần đâm rễ sâu. Các nhân đức cần có nền móng vững chắc. Đời sống đức tin mới có thể tăng triển vững mạnh.

 

Lạy Chúa, tâm hồn con tội lỗi. Thân xác con bệnh hoạn. Ý chí của con yếu đuối. Trí khôn con chậm chạp. Đức tin con yếu kém. Lỗi tại con. Xin Chúa soi lòng mở trí để chúng con biết cách dọn đường Chúa cho ngay thẳng. Xin giúp chúng con dọn tâm hồn thanh sạch để hân hoan mừng đón Con Chúa đến viếng thăm.

 

52.        Con đường tâm hồn

 

“Hãy dọn đường cho Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi… rồi hết mọi người sẽ thấy ơn Thiên Chúa cứu độ” (Lc 3, 4-6) Trên đời này, nói về đường đi, có rất nhiều từ để diễn tả về: “đường đi” như: đường nhựa – xa lộ – quốc lộ – đường sông – đường biển – đường núi – đường đèo – đường nhỏ – đường đất – lối đi – lối mòn (đường rất nhỏ) …

 

Cũng có một con đường siêu nhiên, theo nghĩa tinh thần: đó chính là con đường tâm hồn, là cách sống, cách ở đời…. Vd. như nói: anh chàng đó khi xưa là tay đầu trộm đuôi cướp, nhưng nay đã bỏ đường xấu, đường tà mà theo đường chánh, đường sáng rồi; tất nhiên muốn nói anh chàng này nay đã sửa đổi cuộc sống, ăn ngay ở lành rồi… Con đường này chính là con đường ngày xưa, cách nay 20 tk, thánh Gioan Tiền Hô đã kêu mời mọi người đi theo, mời mọi người chuẩn bị con đường đó để đón mời Đấng Cứu Thế đến. Mỗi năm khi Mùa Vọng đến, ta đều nghe vang lời kêu mời này. Kính mời anh chị em cùng suy niệm.

 

  1. Mùa Vọng là mùa Hội Thánh kêu mời chúng ta sẵn sàng, chuẩn bị, dọn đường cho Đức Kitô ngự đến, không phải dọn dẹp làm Máng cỏ bên ngoài cho đẹp, sạch sẽ, điều cần hơn cả là dọn con đường tâm hồn mình… Thánh Gioan Tiền hô chính là người đi trước dẫn đường, người hô vang lên trong sa mạc: hãy dọn đường cho Chúa, hãy sửa lối Người đi cho ngay thẳng. chính thánh Gioan đã thực hiện lời đã được loan báo trước từ tiên tri Isaia, cách đó 8 thế kỷ, thường người ta giải thích: Mùa Vọng là mùa trông đợi Đấng Cứu Thế đến; giải thích như thế chưa đủ, vì Mùa Vọng không phải chỉ có ý nghĩa trông chờ Đấng Cứu Thế mà thôi, mà còn phải là mùa của mọi người, khi muốn nhận Đấng Cứu Thế, phải dọn con đường tâm hồn của mình trước, như lời Isaia nói: thung lũng phải lấp đầy, núi đồi phải bạt xuống, quanh co phải uốn cho ngay, lồi lõm phải ban cho bằng…. và khi mọi việc chuẩn bị xong, mọi người sẽ được thấy ơn cứu độ…

 

  1. Có một số câu hỏi: Gioan Tiền Hô đã loan báo 20 thế kỷ rồi, lời loan báo đó ngày nay còn thực tế không, có cần thiết không? Đức Kitô đã đến 20 tk rồi, vậy tại sao hôm nay vẫn phải chờ đón, không lẻ chúng ta chỉ chờ đón Ngài trong đêm Giáng sinh thôi sao?

 

Thực ra, lời loan báo này của Thánh Gioan Tiền hô, đã vang động từ 20 tk qua, vì thế có người đã nại vào đó mà nói: nó cũ kỹ quá rồi, nhất là hôm nay nhân loại đã lên tới Mặt trăng, và còn sửa soạn lên Sao Hỏa nữa, phải nói cái gì mới hơn chứ! Lời loan báo này lại nói về Đức Kitô sẽ đến, nhưng mà Ngài cũng đã đến trong lịch sử, trong trần gian từ lâu rồi, cả 2000 năm nay, vậy hôm nay ta cần gì phải nói lại?

 

Để trả lời cho các vấn nạn trên có hai câu hỏi tôi muốn đặt ra cho người hoài nghi lời loan báo của Gioan, đó là: 1. Đức Kitô đã đến rồi, nhưng Người có đến với bạn, đến trong tâm hồn bạn không? 2. Thánh Gioan đã loan báo: hãy dọn đường cho Chúa đến, thực ra câu này bạn nghe gần nhàm tai, nhưng bạn đã dọn đường để Chúa đến chưa? Hay bạn đã dọn thế nào rồi?

 

  1. c. Gợi ý sống và chia sẻ:
  • Đức Kitô đã đến rồi, không phải chỉ đến sau Mùa Vọng, nhưng cụ thể nhất là Người có đến trong bạn trong tôi không?
  • Thánh Gioan đã loan báo: hãy dọn đường cho Chúa đến…có phải vì cố chấp, lầm lạc mà tôi cho rằng lời loan báo này xưa cũ quá, hay là tại tôi không muốn dọn đường tâm hồn cho Chúa đến? Thực tình tôi có muốn không?
  • Tôi đã dọn đường cho Chúa đến thế nào? Tôi có muốn bạt núi đồi xuống là tính kiêu căng tự phụ không? Tôi có muốn lấp đầy thung lũng là những ước muốn, đam mê xác thịt không? Đường nẻo quanh có, tôi có muốn sửa cho ngay, đó là các tội gian tà, tham lam, ganh tị, xảo trá không?

 

53.        Hoá đất tốt

(Suy niệm của Lm. Vũ Xuân Hạnh)

 

Để sa mạc thành nơi có sự sống, điều kiện cần thiết trước hết là nước. Bên cạnh đó là sự chăm sóc, lao công vất vả của con người để cải tạo sa mạc. Không thể tìm được một khu vườn xinh tươi nơi sa mạc nếu trước hết người ta không tính đến hai điều kiện tiên quyết này. Không có nước, không có sự khai phá và chăm sóc của con người, đời đời sa mạc vẫn chỉ là sa mạc khô cằn. Ngày nay, nhiều nơi trên thế giới, hiện tượng phá rừng đã làm cho đất canh tác bị thu hẹp, hiện tượng sa mạc hóa đất đai ngày càng gia tăng. Để kiến tạo thảm xanh và chống sa mạc hóa, hai điều kiện trên đây cũng lại là hai điều kiện hàng đầu. Cũng vậy, tâm hồn con người ví như sa mạc. Vì thế sa mạc tâm hồn cũng cần những điều kiện tối ưu. Nếu so sánh điều kiện nước như là ơn Chúa; điều kiện cải tạo sa mạc và sự ra công chăm sóc tưới bón của con người là nỗ lực sống thánh thiện, là sự cố gắng vun bồi cho đời Kitô hữu của mình bằng cộng tác với ơn Chúa, bằng vâng phục thánh ý Chúa và yêu thương con người, đó chính là lúc ta hóa sa mạc lòng mình thành nơi tươi tốt, nơi mang sức sống của hoa trái thánh thiện, của ơn Chúa.

 

Bởi đó, để có thể mở lòng đón nhận ơn Chúa và để tiếp sức cho sự kiến tạo lòng mình thành mảnh đất tốt tươi, ta hãy lắng nghe Lời Chúa hôm nay thúc giục. Đó là “Tiếng kêu trong sa mạc”. Tiếng kêu ấy thúc giục ta hãy khẩn trương lên, thúc giục lòng ta đừng cố chấp, đừng ở lỳ trong tình trạng thoái hóa, đừng để lòng mình vốn đã là sa mạc, bị sa mạc hóa nhiều hơn. Vì thế: “Hãy dọn đường cho Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi phải bạt cho thấp, khúc quanh co phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho bằng”. Ta cần phải thực hiện lời mời gọi ấy không phải ngày một hoặc ngày hai, mà là cả một đời. Có như thế, kết quả cuối cùng sẽ là một kết quả vui mừng lớn lao: “Hết mọi người phàm sẽ thấy ơn Thiên Chúa cứu độ”.

 

Nhưng sa mạc mà chúng ta đề cập, có hai nghĩa. Thông thường, trong tu đức, sa mạc có nghĩa rất tốt. Sa mạc là nơi thanh vắng, và sa mạc tâm hồn là một nội tâm trầm lặng, yên tĩnh, bình an, nơi mà lòng ta có thể lắng nghe tiếng Chúa. Nhiều tu sĩ, nhiều vị ẩn tu đã tìm đến sa mạc để đi vào sa mạc tâm hồn sống với Chúa trọn vẹn. Thánh Gioan Tẩy Giả đã từng tu luyện nơi sa mạc để hiệp thông với Chúa như thế. Nhưng khi vào trong làng mạc để mời gọi sám hối, thì sa mạc mà thánh Gioan đề cập, lại là một thứ hoang địa thiếu sự sống. Đó là nơi gió quay cuồng, đất khô cằn, nắng nóng cháy. Đúng hơn, khi khẳng định “Tôi là tiếng kêu trong sa mạc” (Ga 1, 23), thánh Gioan muốn nói rằng “tôi là tiếng kêu trong lòng người”, vì lòng người đã bị sa mạc hóa. Bởi đó, sa mạc của lòng người cũng sẽ là nơi tối tăm, chứa đầy nguy hiểm, là nơi thiếu ơn Chúa, thiếu tình yêu và đầy tham vọng, mưu mô, đam mê xấu… Chúng ta cùng nhau suy nghĩ về sa mạc theo nghĩa thứ hai này.

 

Mỗi mùa Vọng, ta lại gặp khuôn mặt đáng yêu của thánh Gioan Tẩy Giả, người đã từng có một cuộc sinh ra kỳ diệu, một lối sống khác thường. Sa mạc là nơi vắng người, trơ trụi, thiếu sự sống, lại là nơi thánh Gioan sinh sống, lớn lên và trưởng thành. Cũng chính nơi sa mạc đầy dẫy sự khắc nghiệt, lại là nơi thánh Gioan gặp gỡ Thiên Chúa. Bên cạnh sự lớn lên về thể lý, thánh Gioan còn được sống trong ơn Chúa, lớn lên trong tình yêu của Chúa và trưởng thành trong thánh ý Người. Thánh Gioan đã lắng nghe Lời Chúa đúng như Tin Mừng hôm nay cho biết: “Có Lời Chúa phán cùng con ông Giacaria là ông Gioan trong sa mạc”. Lời của Chúa đã đưa thánh gioan ra khỏi sa mạc, đến mọi vùng ven sông Giodan mà gặp gỡ con người. Lời Chúa thánh nhân đã nghe, giờ đây trở thành Lời Chúa thánh nhân công bố. Tiếng Chúa mời gọi thánh nhân, trở thành tiếng thánh nhân mời gọi mọi người. Thánh Gioan đúng là tiếng kêu trong sa mạc như chính người đã khẳng định.

 

“Tiếng kêu trong sa mạc” đòi chúng ta hãy sửa đường cho Chúa. Nhưng không phải con đường đất, đường nhựa, mà chính là con đường của cõi lòng người, đường đi vào tâm hồn. Bởi đó, bằng những cách nói đầy gợi ảnh: thung lũng; núi đồi; đường quanh co; lối đi lồi lõm…, thánh Gioan kêu mời chúng ta ăn năn sám hối: Hãy cải đổi nếp sống, nếp nghĩ, nếu cần, cải đổi toàn diện, cải đổi cả não trạng của mình. Vì tận trong tâm hồn ta, có ai lường hết bao nhiêu lối suy nghĩ quanh co, sự tính toán lệch lạc. Tận trong tâm hồn ta có bao nhiêu hố sâu tăm tối, vì thiếu ánh sáng của tình yêu. Hoặc chính nơi ấy, có bao nhiêu núi đồi của sự ngạo ngễ, của tự kiêu, tự mãn… Vì thế, Ta đừng tiếp tục sống như xưa nữa, nhưng hãy uốn nắn những quanh co, lấp bằng những lồi lõm của tội lỗi, của thói hư tật xấu, của những tham vọng và dục vọng thiếu ngay chính… Bạn và tôi hãy sám hối. Vì sám hối là dọn con đường của lòng mình.

 

Dọn đường tâm hồn là để đón chờ Chúa đến. Chúa cần tâm hồn xứng đáng để làm nơi trú ngụ. Chúa cầm tâm hồn rỗng, không chứa đầy tội lỗi để tuôn đổ ơn của Người. Nhưng để dọn tâm hồn thật lành thánh như thế, chỉ cần đi xưng tội qua loa, xưng tội để trấn an lương tâm mà thôi chưa đủ. Vì như thế chưa phải là cải đổi tâm hồn, chưa đi tới hoàn thiện chính mình. Xưng tội như thế là xưng cho có, cho rồi. Xưng tội như thế là biến bí tích giải tội thành phương tiện cho mình lạm dụng, và lợi dụng để tự đánh lừa bản thân. Đó là một sự cố chấp, là ở lỳ trong tội.

 

Nếu biến sa mạc thành đất có sự sống, con người phải mất sức, mất của, và chấp nhận nhiều khó khăn. Cũng vậy, dọn đường tâm hồn là chấp nhận biến đổi sa mạc của cõi lòng thành miền đất trù phú, miền đất thấm đẫm ơn Chúa. Bởi vậy, người ta phải chấp nhận sự hao mòn sức lực, chấp nhận tự gọt giũa chính mình, chấp nhận nhiều khó khăn khác nhau. Vì biến đổi như thế là sám hối. Và sám hối thật lòng đòi phải có dấn thân thật sự để tự mình từ nay dám cắt bỏ một thói quen chưa hay, một đam mê thiếu trong sáng, một tật xấu… để lòng mình biết yêu hơn, khiêm nhường hơn, sống tinh thần phục vụ hơn, vị tha hơn… Vì chỉ khi nào dám chối từ những rườm rà xung quanh mình, con người ta mới dám mong ước thuộc về Thiên Chúa. Thái độ sám hối tận căn ấy, mới là sám hối đúng nghĩa. Điều đó không dễ chút nào, vì nó làm ta đau đớn, xót xa, trầy trụa, mất mát. Chỉ có sám hối trọn vẹn mới sống đúng nghĩa hai chữ “dọn đường”. Chúa cần một thái độ dọn đường một cách tự nguyện, dứt khoát như thế, để Người đi vào tâm hồn và tâm hồn có chỗ chứa đựng ơn thánh của Người. Khi tâm hồn có Chúa, tâm hồn không còn là sa mạc và cũng chẳng hề sợ sa mạc hóa. Chỉ có thể đong đầy Thiên Chúa trong chính mình, nếu biết giữ mãi ơn Chúa trong tâm hồn bằng một đời sống tốt lành, vươn lên trong sự thánh thiện.

 

Vậy chúng ta hãy đi vào sa mạc như các nhà ẩn sĩ (chứ không phải sa mạc thiếu sự sống), nghĩa là biết trở về với nội tâm của mình, xua đi những ồn ào, những lo toan của cuộc sống. Ta hãy đi vào sự tĩnh mịch của sa mạc lòng mình mà lắng nghe tiếng Chúa, lắng nghe những đòi hỏi của Tin Mừng: Phải sửa đường xưa lối cũ, uốn nắn cho ngay thẳng những lối đi quanh co theo sở thích trái chướng của bản thân, lúc thế này, khi thế khác. Mọi gồ ghề ngăn cản các liên hệ tốt đẹp với Chúa, với tha nhân hãy bạt xuống và san phẳng để hiến dâng tình yêu của mình đến với anh em và với Thiên Chúa. Có như thế, ta mới “Thấy ơn Thiên Chúa cứu độ” như lời thánh Gioan loan báo.

 

54.        Chúa Nhật 2 Mùa Vọng

(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’ – Radio Veritas Asia)

 

ĐI VÀO SA MẠC CỦA NGHÈO KHÓ VÀ SIÊU THOÁT.

 

Tin Mừng hôm nay giống như một bức tranh với hai cảnh trí đối nghịch nhau. Trên một cái phông lờ mờ, chúng ta như thấy được cảnh đô thị giàu sang nơi ngự trị của hoàng đế Lamã, người đại diện của ông là tổng trấn Phongxiô Philatô, và các thứ vua bù nhìn là Hêrôđê và Philipphê. Cũng trong cái phông lờ mờ ấy, người ta còn thấy được như hai cái bóng ẩn tàng là Anna và Caipha, hai vị thượng tế lãnh đạo tôn giáo thời bấy giờ, Trên cái phông lờ mờ ấy, thánh Luca như muốn tô đậm một cảnh trí khác đó là cảnh sa mạc vắng vẻ, nơi cư ngụ của môt kẻ nghèo nàn ấy là Gioan, con của Giacaria. Thánh Luca có lẽ đã muốn làm nổi bật cái cảnh sa mạc nghèo nàn vắng vẻ ấy, để nói với chúng ta rằng chỉ có trong sa mạc vắng vẻ nghèo nàn, con người mới lắng nghe được tiếng nói của Thiên Chúa.

 

Sa mạc vốn là một phạm trù ưu việt của Kinh Thánh. Những cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người thường diễn ra trong sa mạc. Môisen đã phải lẫn trốn vào sa mạc để được nhận biết Chúa và nhận lãnh sứ mạng giải phóng dân tộc. Bốn mươi năm lang thang trong sa mạc là thời kỳ thanh luyện cần thiết để dân riêng được vào đất Hứa. Truyền thống đi vào sa mạc đã không ngừng được các tiên tri về sau sống lại như một kinh nghiệm cần thiết trước khi thi hành sứ vụ. Nhưng điển hình và mang nhiều ý nghĩa hơn cả vẫn là 40 đêm ngày chay tịnh của Chúa Giêsu trong sa mạc và những đêm cầu nguyện lâu giờ của Ngài trong nơi vắng vẻ.

 

Sa mạc là đồng nghĩa với nắng cháy trơ trụi, nghèo nàn. Phải chăng có trở nên trống rỗng và nghèo nàn, có trút bớt đi những cái không cần thiết thì con người mới lắng nghe được tiếng nói của Chúa và thanh luyện được niềm tin của mình. Lịch sử Giáo Hội luôn chứng minh rằng những cuộc bách hại luôn là yếu tố thanh luyện và canh tân Giáo Hội. Trong thử thách và khổ đau, trong nghèo nàn và trơ trụi Giáo Hội lại càng vững mạnh hơn. Có trút bỏ được những cái không cần thiết và làm cho vướng mắc thì Giáo Hội mới trở nên sáng suốt và giàu có. Giàu có không do những phương tiện vật chất và các thứ đặc quyền đặc lợi, mà giàu có bởi một niềm tin được tinh luyện và can trường hơn.

 

Tư trong sa mạc của thánh Gioan Tẩy Giả, chúng ta cũng có thể rút ra được một bài học khác cho niềm tin. Không những từ trong sa mạc Gioan đã nắm được tiếng Chúa, mà còn can đảm để hô lớn tiếng Chúa cho mọi người được nghe thấy: “Hãy dọn đường cho Chúa, hãy sửa đường cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi. Đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, đường gồ ghề hãy san cho bằng”. Lời kêu gọi ấy, Gioan chẳng những đã ngỏ với đám dân nghèo hèn, thấp cổ bé miệng, mà còn nhắn gởi với cả giai cấp thống trị trong cả nước nữa. Ngồi tù và cuối cùng bị chém đầu vì dám lên tiếng tố gaíc hành vi tội ác của một Hêrôđê, số phận của Gioan cho chúng ta thấy rằng ngài đã đi đến tận cùng sứ mạng tiên tri của ngài. Thánh nhân đã dám nói thẳng và sống thực là bởi vì ngài không có gì để tiếc nuối, không có gì để bám víu, không có gì để giữ lấy ngoài chiếc áo da thú của ngài.

 

Chiếc áo vẫn là tượng trưng của sứ mạng tiên tri. Đó là lý do tại sao trong dịp tấn phong Hồng Y cho một số chức sắc trong Giáo Hội, Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói đến ý nghĩa của phẩm phục màu đỏ mà chúng ta quen gọi là Hồng Y. “Màu đỏ là màu của hy sinh, là màu của máu, các Hồng Y phải là những người hy sinh đến độ có thể đổ máu đào”. Lời nhắc nhở này chắc phải có một giá trị đặc biệt đối với các vị Hồng Y đến từ những nơi Giáo Hội đang bị bách hại và thử thách, những nơi mà các vị cần phải lên tiếng, cho dẫu phải hy sinh mạng sống của mình. Gioan Tẩy Giả đã lên tiếng tố cáo và kêu gọi san bằng bất công. Ngài đã can đảm lên tiếng là bởi vì ngài không có gì để mất. Ngài không sợ phải mất một ít đặc quyền đặc lợi hay bất cứ một thứ ân huệ nào.

 

Nồi cơm manh áo hay một ít bả vinh hoa có thể là động lực thúc đẩy con người thỏa hiệp và sống dối trá. Đó cũng có thể là cơn cám dỗ của các tín hữu chúng ta trong giai đoạn hiện nay. Một ít đặc lợi vật chất, một vài ưu đãi, một số đặc quyền đặc lợi, một lời dễ dãi, đó là miếng mồi ngon khiến cho nhiều người nếu không bán đứng lương tâm của mình, nếu không uốn cong miệng lưỡi thì cũng chấp nhận thỏa hiệp im tiếng. Mùa Vọng là mùa của sa mạc, có đi vào sa mạc của nghèo khó và siêu thoát chúng ta mới dễ dàng nhận ra được tiếng nói của Chúa. Và có từ sa mạc của nghèo khó và siêu thoát, chúng ta mới có đủ can đảm để gióng lên tiếng của Chúa: “Hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu, hãy bạt mọi núi đồi. Đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, đường gồ ghề hãy san cho bằng”.

 

Khi cuộc sống của các tín hữu trở thành một lời mời gọi, khi miệng lưỡi của họ nói lên những lời can đảm chân thực, thì lúc đó như Tin Mừng nói với chúng ta, mọi người sẽ được thấy ơn cứu độ của Chúa.

 

55.        Dọn đường

 

Một đất nước được coi là phồn thịnh, một thành phố được xem là phát triển thì một trong những yếu tố mà người ta đánh giá đó là hệ thống giao thông của đất nước đó, của thành phố đó có thông thoáng và hiện đại không? Để chuẩn bị đón một nhân vật quan trọng đến thăm đất nước hay một thành phố nào đó thì người ta phải chuẩn bị nhiều thứ: an ninh công cộng, vệ sinh môi trường, giao thông đi lại…. Thế nên chuẩn bị đón Chúa trở lại ta cũng phải dọn con đường trong tâm hồn cho quang đãng, bằng phẳng để Chúa có thể đến được với tâm hồn ta. Chủ đề của Chúa Nhật trước, Chúa Nhật thứ I Mùa Vọng mời gọi ta chuẩn bị sẵn sàng, tỉnh thức chờ đón Chúa trở lại. Tin Mừng thánh Luca hôm nay cho ta thấy cách thức đón Chúa trở lại theo lời rao giảng của Gioan Tiền hô là hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi, mọi thung lũng hãy lấp cho đầy, mọi núi đồi phải bạt cho thấp, khúc quanh co phải uốn cho ngay, đường lồi lõm phải san cho phẳng. Con đường mà Gioan kêu gọi hãy sửa lối đó chính là tâm hồn mỗi người chúng ta. Thế ta phải chuẩn bị thế nào để đón Chúa? Thiết tưởng có nhiều cách thế nhưng ở đây tôi chỉ đưa ra 3 cách thế tiêu biểu.

 

Thứ nhất: Hãy hoán cải.

Hoán cải là đổi chiều, là từ bỏ con đường lầm lạc để quay về nẻo ngay. Gioan mời gọi hãy dọn có hoang đãng con đường tâm hồn, dọn sạch những vướng víu của những đam mê, sửa cho thẳng những quanh co gian dối, lấp cho đầy những tỵ hiềm ghen ghét, bạt cho phẳng những ích kỷ tự kiêu…Nhưng để được hoán cải trước tiên phải là một ân ban của Thiên Chúa sau là con người thật của mình. Thiên Chúa thì luôn tha thứ cho con người nên việc hoán cải tùy thuộc vào mỗi người chúng ta. Hoán cải phải được thực hiện liên lỷ vì khi còn sống trong thân xác ta vẫn còn phải chiến đấu với ba thù đang rình rập chống lại ta. Hoán cải chính là nhận ra con người thật của mình.

 

Thứ hai: Thiên Chúa muốn mọi người được ơn cứu độ.

Thiên Chúa hằng yêu thương con người, Người chẳng bao giờ khước từ đến cư ngụ trong tâm hồn người khao khát. Đây là một ý thức quan trọng vì ta được nên tốt không phải bởi công nghiệp ta lập được nhưng là do lòng nhân từ của Thiên Chúa. Lễ vật của Abel không được chọn vì Abel công chính nhưng Abel công chính vì đã được chọn. Thế nên, ơn gọi người Kitô hữu là ơn gọi nên thánh trong bậc sống, trong hoàn cảnh của mình nhờ ơn Chúa trợ giúp. Chắc chắn với tấm lòng quảng đại Thiên Chúa sẽ lấp đầy những yếu đuối còn thiếu trong ta.

 

Thứ ba: Sống chứng nhân cho thời đại.

Gioan đã có một thời gian dài cô tịch trong hoang địa để đón nhận Lời Chúa và hôm nay ông rao giảng cho những người cùng thời với ông. Ông đã thâm tín lời dạy của các tiên tri xưa hôm nay ông nhắc lại. Giống như ơn gọi của Gioan, ơn gọi Kitô hữu của chúng ta là trở nên chứng nhân cho thời đại chúng ta. Con người ngày nay muốn nhìn thấy những chứng nhân hơn là những thầy dạy suông. Thế nên cách thế để đón Chúa trở lại là cầm đèn sáng chính là thực thi ý Chúa trong đời sống hằng ngày và chiếu tỏ ánh sáng đó cho mọi người chung quanh. Lời Chúa hôm nay mời gọi ta hãy hoán cải tâm hồn, sửa đổi những quanh co, lồi lõm, những nghi kỵ ghét ghen…biến đổi con người để xứng đáng là một con người mới, một con người đã được Đức Kitô cứu chuộc. Nhưng việc đổi mới này không phải là một việc làm vu vơ nhưng phải được thực hiện hằng ngày trong cuộc sống của ta, phải nâng cấp con người của ta hầu xứng đáng đón nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa.

 

56.        Dọn đường đón Chúa

 

Gioan Tẩy Giả là anh em bà con với Chúa Giêsu, là con ông Dacaria và bà Êlisabét. Ông xuất hiện như một ngôn sứ, để công bố sự thật, nhiệm vụ của ông là dẫn đường chỉ lối cho dân chúng đi về sự sống. Gioan rất ý thức về vai trò tiền hô của mình, là dọn đường cho Đấng Messia sắp đến nay mai. Ông mặc áo lông lạc đà, chứ không mặc áo rộng thùng thình như các ông Pharisêu, ông ăn châu chấu với mật ong rừng, ông dốc toàn lực rao giảng, kêu gọi dân chúng chuẩn bị dọn đường để Chúa đến. Ông cảnh cáo rằng: nếu ai không thay đổi đời sống, không ăn năn sám hối, thì sẽ bị trừng phạt, bị lửa thiêu rụi.

 

Lời kêu gọi của Thánh Gioan xem ra thật gay gắt, không thay đổi đời sống nên tốt hơn, không nhận lỗi, không sám hối sẽ phải chết. Nhưng phải thay đổi đời sống như thế nào đây? Đó là: “Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uống cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng”.

 

Hãy dọn sẵn con đường, nhưng con đường nào đây? Có phải đó là những con đường nhựa, những con đường “Xi-măng”, chưa khánh thành đã hư chăng? Hay là những con đường sắt kém chất lượng đã làm hại sinh mạng nhiều người trong những năm qua? Hoặc những con đường lầy lội, trơn trượt hằng năm trong mùa mưa bão?

 

Con đường mà lời Chúa qua miệng thánh Gioan, là con đường của cõi lòng con người, đường đi vào tâm hồn chúng ta. Con đường mà lầy lội, trơn trượt, con đường mà quanh co, con đường mà đầy núi đồi hay thung lũng sâu sẽ rất khó đi và đầy nguy hiểm, có thể sẽ không lưu thông được nữa. Đường quanh co, núi đồi làm cản trở và gây nguy hiểm trong lưu thông.

 

Trong tâm hồn ta cũng đầy những cản trở:

  • Của những suy tính quanh co, không ngay thật, không trong sáng, những ước muốn tham lam, chiếm đoạt;
  • Của những núi đồi của sự kiêu ngạo chẳng xem ai ra gì, coi mình là Chúa để xét xử phê phán anh chị em, mà quên mình cũng đẩy dẫy tội lỗi;
  • Của những thung lũng tối tăm tội lỗi thầm kín, những ham muốn bất chính, những dục vọng ngông cuồng…

 

Rất nhiều người đã nghe lời thanh Gioan kêu gọi, từ Giêrusalem đến các vùng phụ cận đều tuôn đến để được Gioan thanh tẩy, họ thú nhận sự bất trung đối với Thiên Chúa và những tội ác đã phạm. Mỗi người chúng ta hôm nay thì sao? Chúng ta có nghe lời kêu gọi sám hối và sửa đổi đời sống của Gioan không? Sám hối là dọn con đường của lòng mình để Chúa ngư đến”trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi biết ăn năn sám hối”, tâm hồn đẹp nhất là tâm hồn biết ăn năn sám hối vì vậy sẽ làm cho các triều thần thánh trên trời vui mừng hoan hỷ (Lc 15, 10). Biết mình sai lầm, rồi chấp nhận thay đổi bằng một hành động thiết thực, đó là điều Thiên Chúa mong muốn nơi mọi người chúng ta.

 

Xin Chúa cho chúng ta biết “tiên trách kỷ, hậu trách nhân” để luôn nhận ra lỗi lầm của mình, cố gắng sửa sai, tránh mọi tật xấu, để dễ dàng đón nhận ơn Chúa.

 

57.        Cản trở

(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)

 

Ngày kia tôi đứng trên đồi cao phóng tầm mắt tận chân trời. Hàng hàng lớp lớp núi non bao bọc, ngọn này che khuất ngọn kia. Hùng vĩ mấy cũng có ngọn khác hùng vĩ hơn. Tôi thấy cây cao phủ bóng che nắng của cây thấp và cây thấp cố vươn lên hút ánh nắng trời cho lá thêm xanh. Những tia sáng mặt trời dọi chiếu trên cành lá tạo ra những mảng màu sắc khác nhau. chỗ ươm vàng óng ả, chỗ lại sáng chói chang, chỗ màu xanh lục gần như tím thẫm. Đảo mắt quanh chỗ nào cũng gợi lên cảm giác hữu tình, ngây ngất lòng người, tâm thanh thản, lòng trải rộng và trí bay bổng tận cao xanh. Lồng trong rừng lá xanh tươi có những đường mòn chân thú chạy ngược, xuôi, lớn nhỏ, đan chéo chằng chịt. Bỗng một cơn gió bay đến làm rung động cành lá, cành lá vươn dài che khuất lối mòn như trò chơi trốn, bắt của gió rừng. Phía kia là đại dương xanh ngắt mang nhiều lớp sóng bạc thi nhau vỗ bờ. Hết lớp này đến lớp khác thi nhau nhảy múa trên sóng nước. Mỗi lớp sóng đến tạo thành một sợi chỉ nhỏ màu trắng lăn theo chiều gió, lúc hai lớp sóng hợp, khi xé ra. Cảnh hợp tan xảy ra trong nháy mắt. Gần hơn nữa trên đỉnh đầu là lớp mây nhảy múa, thành quả nước biển bốc hơi tạo thành.

 

Khung cảnh thiên nhiên tuyệt vời trên sẽ giảm sức thu hút lòng người nếu núi có chiều cao như nhau, nếu các đồi đều là đồi trọc, nếu cây cối cùng màu sắc và các đường mòn thẳng tắp như kẻ. Thử hỏi làm sao còn tạo được sức hấp dẫn nữa. Đây không phải í nghĩa những gì thánh Gioan Tẩy Giả kêu gọi trong bài Phúc Âm thánh Luca 3,4

 

Có tiếng người hô trong hoang địa: hãy dọn sẵn con đuờng cho Đức Chúa, sửa lối thẳng để Người đi. Mọi thung lũng phải lấp cho đầy, mọi núi đồi phải bạt cho thấp, khúc quanh co phải uốn cho ngay, đường lồi lõm phải san cho bằng. Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa.

 

Lời nguyện nhập lễ Chúa Nhật thứ hai Mùa Vọng giải thích làm sáng tỏ điều Gioan kêu gọi. Xin phá vỡ những gì ngăn cản chúng con được vui mừng đến gần Chúa, để chúng con chia sẻ ơn khôn ngoan Chúa ban và được liên kết khi Ngài đến trong vinh quang.

 

Có ai ngờ cảnh rừng xanh bao la tuyệt vời làm rung động lòng người ẩn dấu bao hiểm nguy. Ẩn nấp sau vỏ cây khô là những con bò cạp rừng. Dưới hốc đá nào đó có rắn hổ ẩn mình và đâu đó nhện cắn độc đang rình rập con mồi. Không ai đoán biết khi nào chết chóc xảy đến, đâu đâu cũng có hiểm nguy. Gioan Tiền Hô dùng kinh nghiệm hoang địa bản thân cho biết cảnh rừng bao la, bát ngát là nơi thanh tĩnh để ngắm nhìn, không phải là chốn an toàn để náu thân bởi vì rắn độc, bò cạp và khí độc đến lúc chúng ta không ngờ. Gioan liệt kê một số những chứng bệnh thời đại làm hại đến tâm hồn con người, ngăn cản con người đến gần Chúa, ngăn cản con người đón nhận Lời Chúa. Thánh nhân kêu gọi con ngưòi sống đường lối ngay thẳng, đừng quanh co, uấn éo, lươn lẹo trong lối sống. Gioan hy vọng con người sống đường lối công chính, thật thà. Gioan mời gọi con người hãy san bằng gánh nặng cuộc đời, đừng để công việc chồng chất trên đôi vai gầy, đừng để gánh nặng mối lo làm còng lưng son trẻ. Gioan hướng dẫn cuộc sống mới bằng cách cân bằng thời gian giữa làm việc và cầu nguyện, dành thêm giờ cho tâm linh và biết để giờ cho việc truyền bá Phúc Âm, Tin Mừng. Quan trọng hơn hết là hãy làm cho tình yêu Chúa mỗi ngày mỗi lớn lên trong cuộc sống. Làm được những điều trên con người sẽ cảm thấy cuộc sống nhiều í nghĩa hơn và ơn cứu độ là điều nằm trong tầm tay với.

 

58.        Chúa Nhật 2 Mùa Vọng

(Suy niệm của Lm. John Nguyễn Tươi)

 

SỬA LẠI CON ĐƯỜNG TÂM HỒN

 

Khi thánh Gioan Tẩy giả đi khắp miền sông Giođan, rao giảng phép rửa sám hối, cầu ơn tha tội, thì ngài dùng lời trong sách Tiên tri Isaia nói rằng: “Có tiếng kêu trong hoang địa: Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi; con đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, con đường gồ ghề hãy san cho bằng. Và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa”.

 

Đoạn Tin mừng này thì rất quen thuộc với chúng ta. Nhưng, khi suy nghĩ đến việc dọn đường Chúa, sửa lại đường Chúa cho ngay thẳng, thì chúng ta có thể tự hỏi: Con đường của Chúa là con đường nào?. Và con đường nào cần sửa lại?.Tại sao Gioan Tẩy Giả đi rao giảng trong hoang địa lại kêu dân chúng dọn đường?. Từ những vấn đề được đặt ra, tôi thiết nghĩ chúng ta sẽ có một cái nhìn thấu đáo hơn về ý nghĩa của Lời Chúa hôm nay. Đó là: Thiên Chúa không cần chúng ta sửa đường cho Ngài, vì Ngài là Thiên Chúa toàn năng, nhưng chính chúng ta mới cần sửa lại những con đường quanh co, gồ ghề và hố sâu nơi trong tâm hồn của mỗi người chúng ta.

 

Trở về bối cảnh của Tin mừng, chúng ta nhận thấy rằng, dân Do thái phải sống nô lệ, lầm than khốn khổ bởi các vua chúa quan quyền. Thánh Luca đã thuật lại như sau:” Năm thứ mười lăm dưới triều hoàng đế Tibêriô, Phongxiô Philatô làm toàn quyền xứ Giuđêa, Hêrôđê làm thủ hiến xứ Galilêa, còn em là Philipphê làm thủ hiến xứ Ituria và Tracônitêđê; Lysania làm thủ hiến xứ Abilêna; Anna và Caipha làm thượng tế”. Điều này nói lên rằng, lời kêu gọi của Gioan Tẩy Giả lúc bấy giờ là rất quan trọng và cấp bách. Nó không chỉ cho những dân Do thái đang sống trong cảnh nô lệ, lầm than, đói khổ mà là cho các vua chúa quan quyền hãy sửa lại lối sống của họ. Sự thống trị kiêu căng, độc tài, gian ác của họ trên dân chúng. Hình ảnh con đường là lối minh họa dẫn chúng ta đi vào con đường của nội tâm, con đường của tâm hồn đang mắc phải bởi hố sâu của tội lỗi, bởi những dục vọng ham muốn của con người. Những đam mê dục vọng đang lôi kéo chúng ta vào thế giới của hưởng thụ, trụy lạc và ích kỷ. Hơn nữa, khi đồi núi của thói kiêu ngạo, tự mãn đang lấp đầy nơi tâm hồn, thì làm sao Thiên Chúa có thể ngự trị. Khi lòng người quanh co, giả dối, gian xảo, thì làm sao Con Thiên Chúa có thể đến viếng thăm.

 

Nếu chúng ta so sánh hoàn cảnh của thánh Gioan Tẩy Giả với cuộc sống chúng ta ngày nay, thì có sự khác biệt rất lớn. Gioan thì sống trong hoang địa đơn sơ, nghèo nàn, đói khát, lam lũ. Con đường thì đồi núi, gồ ghề, sỏi đá. Trái lại, ngày nay chúng ta đang sống trong một thế giới có đầy đủ phương tiện vật chất. Con đường thì bằng phẳng, rộng thênh thang, nhưng lòng người thì hẹp lại. Con đường đến nhà thờ thì không xa, nhưng lòng người thì ngại ngùng và không muốn đến. Thánh lễ ngày càng vắng bóng người trẻ. Khi tôi hỏi các bạn trẻ: “Thánh lễ có ý nghĩa đối với bạn”, thì họ cho biết rằng, họ đi lễ là vì bị bắt buộc hơn là yêu mến. Đã đến lúc chúng ta cần nhìn nhận sự thật trong bối cảnh sống của chúng ta ngày nay. Cho nên, Lời Chúa hôm nay không phải là dọn đường cho Chúa đến ở đâu xa xôi, mà là ngay chính nơi cõi lòng mỗi người chúng ta đang còn có những khúc quanh của bóng tối và tội lỗi bởi dục vọng, gian ác, tham lam, tính toán, lọc lừa, giả dối, ích kỷ. Giá trị đời sống thiêng liêng đang bị đảo lộn. Sự thánh thiện đang bị tha hóa bởi đồng tiền, thú vui, danh vọng và quyền lực. Từ đó, đời sống tâm linh của chúng ta đang bị xuống dốc, bấp bênh, chơi vơi giữa dòng đời và mất đi định hướng sống.

Đổi mới một con đường thì dễ, uốn thẳng khúc quanh co thì không khó, nhưng đổi mới tâm hôn, bỏ đi một tật xấu, dọn lại con đường thiêng liêng thì không dễ chút nào. Con đường ngắn nhất để cho chúng ta làm lại cuộc đời, sửa lại những vết thương của tâm hồn, chính là tin vào tình yêu thương khoan dung của Thiên Chúa, và chúng ta quyết tâm sống theo Lời Chúa dạy. Chính thái độ khiêm tốn và vâng phục giúp cho chúng ta nhận ra yếu đuối và tội lỗi của mình.

 

Mùa vọng là thời gian cho ta sửa lại con đường của tâm hồn đang còn thiếu vắng Thiên Chúa, thiếu vắng lòng khoan dung, yêu thương và tha thứ cho nhau. Những hố sâu của hận thù, ghen ghét đang dằn xé cõi lòng.

  • Hãy học nơi Chúa Giê-su, Ngài yêu thương chúng ta để đến trong thế gian sống kiếp con người và chết và giải thoát tội lỗi cho chúng ta.
  • Hãy học nơi thánh Gioan Tẩy Giả, ngài đã cái chết để chống lại sự giả trá, lọc lừa và gian ác.
  • Hãy học nơi Mẹ Maria, Mẹ đã chấp nhận sống vâng theo thánh ý Chúa để nói lên hai tiếng: “Xin Vâng”. Nhờ đó, mọi người đã thấy được ơn cứu độ của Thiên Chúa.

 

59.        Dọn đường Chúa đến

 

Cuộc sống hôm nay có nhiều phương tiện giúp con người có thể đến với nhau và gần nhau dễ dàng. Hệ thống giao thông đường bộ thì có các loại xe từ bình dân đến đắt tiền. Muốn nhanh hơn thì có máy bay. Còn muốn nhanh và đỡ mất thời gian hơn thì có các loại phương tiện thông tin liên lạc hiện đại hơn như điện thoại, internet…Nói chung phương tiện không thiếu nhưng điều cần là đường để nối lại phải thông thoáng. Chẳng hạn trên đường bộ, xe có hiện đại cách mấy mà gặp phải đường gồ ghề và chật hẹp thì cũng phải chịu.

 

Là con Thiên Chúa, cần nhất là ta nên giữ cho mình mối liên lạc thật tốt với Ngài. Thiên Chúa đã dọn sẵn đường cho, nhưng nhiều khi ta lại tạo nên những trở ngại khiến sự liên lạc quý báu ấy không còn tốt nữa. Điều đáng nói bấy lâu để mất liên lạc với Chúa do những trở ngại ấy thì ta sẽ phải đi trong mù tối. Muốn được ánh sáng Chúa soi dẫn nhất thiết ta cần phải khai thông. Như vậy, ta phải khai thông bằng cách nào?

 

Rất may mắn, Thánh Gioan đã chỉ cho ta: “Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng. Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa.” (Lc 3, 4 – 6)

 

Đây là việc làm của mỗi cá nhân, không ai có thể giúp ai được. Bởi lẽ, con đường nối kết giữa ta với Chúa là con đường riêng tư. Vả lại, trên con đường ấy mỗi người tự biết mình cần phải khai thông những gì và chỗ nào.

 

  • Có khi ta đang gặp trở ngại bởi thung lũng ngăn cách tình người. Sự ngăn cách ấy có thể xảy ra giữa ta với bạn bè, lối xóm hay đồng nghiệp. Có khi sự ngăn cách ấy lại xảy ra với chính những người thân thuộc hay chính trong gia đình ta.
  • Có khi ta gặp trở ngại bởi núi đồi kiêu căng. Kiêu căng từ trong suy nghĩ đến việc làm. Sự kiêu căng ấy thể hiện ở chỗ tự cho mình là nhất và không coi ai ra gì. Nguy hiểm hơn, thái độ này ta lại đem áp dụng với cả Thiên Chúa. Bất cần ơn Chúa là thái độ hết sức nguy hiểm.
  • Có khi ta lại gặp trở ngại bởi những lời nói và cách sống gian dối. Câu “Thật thà thẳng thắn thường thua thiệt. Lươn lẹo luồn lách lại lên lương”dường như là châm ngôn sống cho mình.

 

Trên đây chỉ là một vài trở ngại trong vô số những trở ngại khác. Ước mong nhờ ơn Chúa giúp mỗi người sẽ thấy được những trở ngại của mình. Khi đã thấy được những trở ngại, hãy can đảm và mạnh dạn dẹp bỏ nó. Hãy luôn nhớ, bao lâu những trở ngại ấy còn lại trong ta thì bấy lâu ánh sáng Chúa không thể soi bước đường ta đi. Mà nếu như không được ánh sáng Chúa soi dẫn, thì có lẽ ơn cứu độ của Thiên Chúa sẽ khó mà đến được với ta.

 

60.        Chúa Nhật 2 Mùa Vọng

(Suy niệm của Achille Degeest)

 

TUÂN GIỮ LUẬT CHÚA TỪ TRONG LÒNG

 

Sứ vụ thánh Gioan Tẩy Giả là chuẩn bị việc Đấng Cứu Thế đến. Ông rời bỏ hoang địa sau thời gian tĩnh tâm lâu ngày. Để trả lời cho những kẻ nghĩ rằng cứ giữ đúng những nghi thức Lề Luật là được Thiên Chúa thương yêu, ông giảng về sự cần thiết phải hồi tâm và thay đổi nếp sống. Thật ra, ông chỉ tiếp nối lời giảng dạy của các ngôn sứ. Ông là người cuối cùng, đến trước Đức Kitô, trong chuỗi dài những ngôn sứ không ngớt nhắc nhở Israel về sự cần thiết chuẩn bị nghênh đón Chúa. Công việc chuẩn bị này là nhiệm vụ toàn dân cũng như của mỗi người. Sửa soạn đón Đức Giêsu là không được quên lãng việc thờ phượng Thiên Chúa, là xua đuổi ngẫu tượng, là uốn thẳng những đường ngõ bị bất công và ích kỷ làm cho cong queo khúc khuỷu.

 

Chúng ta có thể từ đoạn Phúc Âm trên đây rút ra hai câu quan trọng:

 

1) Thiên Chúa phán với Gioan Tẩy Giả trong hoang địa.

Nói chung, người ta nhận thấy trong Kinh Thánh điều này: Thiên Chúa chuẩn bị những sứ giả của Người bằng một thời gian tĩnh tâm vắng vẻ lâu dài. Trong thế giới hiện tại, lối chuẩn bị như thế vẫn có giá trị đối với bất cứ Kitô hữu nào. Không phải tất cả các tín đồ đều phải dành nhiều ngày giờ để sống trong cô tịch. Nhưng chính trong chừng mực mà, theo ơn gọi, Kitô hữu nào đảm nhận một trách vụ trong Giáo Hội, thì phải sắp đặt thời giờ cần thiết để cầu nguyện mặt đối mặt với Chúa.

 

2) Gioan Tẩy Giả rao giảng một sự thanh tẩy bằng sám hối, trở lại để lĩnh ơn tha thứ.

Biệt phái và Sa đốc là giới thính giả được thánh Gioan chú trọng đặc biệt. Họ dễ tin rằng hễ tuân giữ đúng Lề Luật là giữ đạo cách đầy đủ. Nhưng ông nói với họ: Điều chủ yếu là phải đổi mới tâm hồn. Ít lâu sau, Đức Giêsu sẽ phán dạy rằng những điều làm cho người ta ô uế, chúng xuất phát từ trái tim: Đó là thù hận, tà dâm, ghen ghét, bất công, là chủ trương duy vật thực tế của thế gian. Để chuẩn bị nghênh đón Đức Giêsu, thánh Gioan Tẩy Giả loan báo sự cần thiết phải thanh luyện tâm hồn. Chúng ta có thể ghi lấy điều sau đây: Tuân giữ giới răn Chúa mới chỉ là bề ngoài; còn phải kèm theo một nội tâm thật sự xua đuổi sự tội. Tâm tình ấy chính là thái độ thành thật đối với Thiên Chúa.

 

61.        Chúa Nhật 2 Mùa Vọng

(Suy niệm của McCarthy)

 

Suy Niệm 1. CHUẨN BỊ CON ĐƯỜNG CHO CHÚA

Có một nhà giảng thuyết nổi tiếng, cứ hết Chúa nhật này đến Chúa nhật khác, đều đến giảng tại một cộng đoàn rộng lớn. Họ rất chăm chú lắng nghe. Vào một Chúa nhật, khi ông đang đi đến bục giảng, thì những lời trong Tin Mừng vang bên tai ông: “Hãy dọn sẵn con đường cho Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi”. Một ý tưởng bất chợt đến với ông: “Thiên Chúa không cần chúng ta phải sửa đường cho Người, nhưng chính chúng ta mới cần”.

 

Từ trên bục giảng, ông nhìn vào các gương mặt đang chờ đợi của giáo dân, và tự hỏi không biết những lời đó có ý nghĩa gì đối với họ. Những điều cần phải chấn chỉnh trong cuộc sống của họ là gì? Ông nhận ra rằng chỉ bản thân họ mới có thể trả lời câu hỏi này. Tuy nhiên, có một lãnh vực mà ông cảm thấy đáng nói đến: các mối quan hệ thường xuyên bị bóp méo và rối loạn của họ.

 

Ông đã quen biết những người này cả một thời gian dài. Họ đã từng đến với ông, để được giúp đỡ và hướng dẫn qua những vấn đề của họ. Ông biết những đố kỵ nhỏ nhặt làm cho tâm hộn họ bực bội, những hận thù khiến cho người này chống lại người kia, những cuộc cãi vã vặt vãnh vẫn còn tồn tại, những ghen tỵ và hiểu lầm, sự tự hào xuẩn ngốc.

 

Ông quyết định gởi một thông điệp cho những con người cố chấp, đầy cay đắng, không chịu tha thứ và bỏ qua đó. Ông sẽ ghi khắc nơi họ ý tưởng rằng cuộc đời vốn dĩ quá ngắn ngủi rồi, không ai nên gây hận thù và bất mãn cho nhau nữa. Ông sẽ van nài họ nên cư xử trong sự hiểu biết và khoan dung đối với nhau. Ông sẽ nói với họ từ tận tâm hồn của ông, như thể ông đang nói riêng với từng người vậy. Thế là ông bắt đầu:

 

Anh chị em thân mến,

Tôi xin được nhắc lại những lời trong Tin Mừng: “Hãy dọn sẵn con đường cho Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi”. Thiên Chúa không cần chúng ta phải sửa đường cho Người, nhưng chính chúng ta cần.

  • Chúng ta cứ để mặc cho những chuyện hiểu lầm diễn ra từ năm này sang năm khác, với ý nghĩ rằng một ngày nào đó sẽ khai thông chúng. Chúng ta cứ để cho những cuộc cãi vã tiếp tục tồn tại, bởi vì chúng ta không thể sắp xếp tư tưởng, để dẹp bỏ và chấm dứt lòng tự hào của chúng ta.
  • Chúng ta đi ngang qua những người khác với vẻ mặt sưng sỉa, không hề nói với họ một lời nào, mà không có một vài thái độ đố kỵ vớ vẩn, mặc dù chúng ta biết rằng mình sẽ hối hận và xấu hổ nếu nghe tin rằng ngày mai một trong những người đó sẽ qua đời.
  • Chúng ta cứ để mặc cho người đồng loại của mình bị đói khát, cho đến khi chúng ta nghe tin rằng người đó đang chết đói, hoặc chúng ta làm cho người bạn của mình bị đau lòng, vì một lời đánh giá mà một ngày nào đó chúng ta đã nói với họ.

 

Nếu chúng ta nhận ra rằng “thì giờ ngắn ngủi”, thì câu nói này sẽ gây ảnh hưởng mạnh đến thế nào. Làm sao để chúng ta có thể ra đi ngay tức khắc, và làm được những điều, mà có thể không bao giờ chúng ta có cơ hội khác để thực hiện. “Tôi xin nhắc lại: Thiên Chúa không cần chúng ta phải sửa đường cho Người nhưng chính chúng ta cần. Vì thế, nếu chúng ta có thái độ quanh co, hoặc lối sống không ngay thẳng, hoặc mối quan hệ không chân thật nào đó cần được chấn chỉnh lại, thì chúng ta hãy sửa đổi ngay. Sau đó, chúng ta sẽ thực sự chuẩn bị đường cho Chúa đến với chúng ta”.

 

Ông kết thúc bài giảng của mình ở đó. Nhưng lời nói của ông thật đáng suy gẫm. Đối với những người đang đi trên một con đường quanh co, thì quả thật mọi sự đều khó khăn. Nhưng mọi sự đều trở nên dễ dàng, đối với những người đi trên đường ngay nẻo chính –đường lối của sự thật, lương thiện và tốt đẹp. Nhưng để đi trên một con đường ngay thẳng, người ta cần có sức mạnh, sự khôn ngoan và chân thật.

 

Thiên Chúa không hề từ bỏ con người, khi chúng ta bị lạc khỏi đường lối ngay thật. Người vẫn mời gọi chúng ta rời bỏ con đường quanh co, để đến với đường ngay nẻo chính. Mùa Vọng là một thời gian tuyệt vời, để chúng ta biết nhắm bản thân đến đường hướng ngay thẳng, và tự mình cam kết đi trên đường lối đúng đắn. Chúng ta phải cầu xin Chúa cất đi sự mù lòa khỏi cặp mắt chúng ta, sự yếu đuối khỏi ý chí chúng ta, và sự cứng cỏi trong tâm hồn chúng ta, để sao cho cuộc sống chúng ta được tràn đầy ân sủng trong ngày Người đến.

 

Suy Niệm 2. TỰ MỞ LÒNG RA CHO ƠN CỨU ĐỘ

Ơn cứu độ là một trong những chủ đề lớn của Mùa Vọng. Hôm nay, một lời mời gọi lớn lao xuất phát từ Phụng vụ “Hãy dọn sẵn con đường cho Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy. Mọi núi đồi, phải bạt cho thấp; khúc quanh co, phải uốn cho ngay; đường lồi lõm, phải san cho phẳng. Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa”.

 

Đây là những lời tuyệt vời. Đây là lời tuyên bố về tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta. Nhưng ở đây, có thể phát sinh ra một vấn đề. Một số người cứ nghĩ rằng để được Thiên Chúa yêu thương, thì họ phải hoàn hảo. Họ nói: “Thiên Chúa không bao giờ muốn gặp tôi trong tình trạng tội lỗi và bất toàn của tôi”. Vì thế, họ nỗ lực trở nên con người hoàn hảo, nhằm đạt được tình yêu của Thiên Chúa. Điều này đưa đến hậu quả là họ cứ cố gắng tự mình xoay sở lấy. Thiên Chúa khó cứu độ những người như vậy.

 

Lần kia, có một tu sĩ tên là Ambrose. Vốn là một chuyên gia về đời sống thiêng liêng, tu sĩ Ambrose rất đòi hỏi trong cách nói chuyện và suy niệm. Ông còn là một người rất thông minh, và chăm chỉ làm việc. Vì là một con người ưa sự triệt để hoàn hảo, nên ông luôn luôn thích được sắp xếp và kiểm soát mọi sự. Ông làm cho mọi người lóa mắt thán phục về năng lực và kiến thức của ông.

 

Nhưng khi đang ở trên đỉnh cao của sự nổi tiếng, thì ông bị một căn bệnh ở giai đoạn cuối làm cho ông quỵ ngã. Dường như thể sứ mạng của ông đã kết thúc. Tuy nhiên, sự việc lại không diễn ra như vậy. Trái lại, chính khi ông trở nên yếu đuối, và hoàn toàn không kiểm soát được mọi sự, thì ông lại trở nên có hiệu quả nhất.

 

Điều này diễn ra như thế nào? Ông quyết định sử dụng căn bệnh của mình để tiếp cận với những người đau khổ khác. Và nhờ đó, ông đã quá thành công, đến nỗi chính căn bệnh ở giai đoạn cuối của ông lại chuyển thành một giai đoạn hiệu quả nhất. Trước khi qua đời, ông nói “Tôi đã đi theo một phương hướng, thì đột nhiên, tôi lại bị bắt buộc phải đi theo một hướng khác. Nhưng trong quá trình đó, tôi được học hỏi về bản thân mình, và về tấm lòng tốt của người khác, nhiều hơn là tôi đã từng học hỏi được trong suốt những năm tháng trước đây của cuộc đời tôi”.

 

Và về mức độ cá nhân, thì tu sĩ Ambrose đã trải qua một sự biến đổi tuyệt vời. Dường như thể cái vỏ bọc bảo vệ nào đó đã nứt vỡ ra, và làm nổi bật lên một con người thực sự có sức quyến rũ. Trước đây, ông là một người có vẻ cô độc trong cộng đoàn. Bây giờ, ông đã tự đặt mình vào giữa cộng đoàn, cùng ăn uống với các tu sĩ bạn, nhưng cũng đóng góp một cách rộng rãi vào tinh thần của cộng đoàn, nhờ sự dịu hiền và an bình mà ông tỏa ra. Đây là công trình của ân sủng, và điều này chứng tỏ sự thật trong vài câu ngắn sau đây:

 

Hãy rung lên những hồi chuông nào vẫn còn có thể vang vọng được. Hãy quên đi sự hiến thân hoàn hảo của bạn. Trong tất cả mọi sự, đều có một vết nứt. Đó là cách để ánh sáng thâm nhập vào.

 

Những hoàn cảnh làm cho chúng ta mở lòng mình ra, để đến với điều mà Thiên Chúa mong muốn ban cho chúng ta quả thật lạ lùng. Khi chúng ta đến với Thiên Chúa từ trạng thái đầy đủ và mạnh mẽ của bản thân, thì chúng ta đặt Thiên Chúa sang một bên. Nhưng khi chúng ta đến với Thiên Chúa từ tình trạng yếu đuối và có nhu cầu, là chúng ta mời gọi Người đi vào tâm hồn của mình. Thông qua sự bất toàn của mình, mà tâm hồn của chúng ta được mở ra cho ân sủng của Thiên Chúa. Sự bất toàn của chúng ta chính là những vết thương thu hút sự chú ý của Thiên Chúa, khiến chúng ta xứng đáng được Người thương xót và chữa lành.

 

Trong cuộc sống chúng ta, có một thái độ quanh co, hoặc cách cư xử không ngay thẳng cần được chấn chỉnh lại, chúng ta hãy cố gắng làm điều đó. Nhưng chúng ta không được suy nghĩ rằng Chúa sẽ không đến với chúng ta, trừ phi chúng ta vẹn toàn. Nếu chúng ta đã hoàn hảo rồi, thì Thiên Chúa không đến với chúng ta nữa. Thiên Chúa đến, bởi vì chúng ta là những tội nhân cần được cứu độ. Người đến, bởi vì chúng ta là những đứa con bị thương tích, cần được chữa lành. Điều mà chúng ta cần, đó là lòng khiêm tốn và sự chân thành, để tỏ cho Người thấy những tội lỗi và vết thương của chúng ta.

Có những người nói rằng chúng ta không nên bộc lộ sự yếu đuối, bởi vì điều này không tạo ra được sự kính trọng, và do đó, tốt hơn là nên mang lấy gánh nặng của bản thân mình trong sự bí mật. Nhưng chính sự am hiểu về nỗi đau khổ của cá nhân, lại càng làm cho chúng ta có khả năng cống hiến kinh nghiệm bản thân mình, như một nguồn suối để chữa lành cho người khác. Những ai không che đậy sự đấu tranh của họ, nhưng biết sống bằng chính con người thật, nhờ sự trợ giúp của Thiên Chúa, thì có thể mang lại niềm hy vọng cho người khác.

 

62.        Chúa Nhật 2 Mùa Vọng

(Suy niệm của André Sève)

 

THIÊN CHÚA MUỐN CỨU ĐỘ MỌI NGƯỜI

 

Luca là tác giả Tin Mừng của lịch sử cứu độ mà ông triển khai thành ba điệp khúc như trong đoạn rất súc tích này chẳng hạn: “Cho đến thời ông Gio-an, thì có Lề Luật và các ngôn sứ; còn từ thời đó, thì Tin Mừng Nước Thiên Chúa được loan báo, và ai cũng dùng sức mạnh mà vào” (Lc 16,16) Luca muốn xây dựng những chiếc cổng qua đó ông làm cho chúng ta đi vào trong lịch sử một cách long trọng. Vào lúc hạ sinh Chúa Giêsu: “Hồi ấy Xêda đại đế ra chiếu chỉ …”. Và đối với bước đầu công khai của Ngài, cùng với Gioan tẩy giả vén màn lịch sử: “Năm thứ mười lăm triều đại vua Xêda Tibê…” Đây là tiếng chuông lớn của lịch sử.

 

Có một lời loan báo phi thường: “Mọi người sẽ được ơn cứu độ”. Đây là điều ông già Simêon đã công bố một cách âm thầm hơn: “Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân: Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Israel Dân Ngài”. Chúng ta thường quá thu hẹp các chân trời này, loại bỏ những chân trời này, quên lãng những chân trời kia. Và chúng ta luôn có nguy cơ mất đi trên các con đường của lịch sử điều phải là nỗi ám ảnh của chúng ta: Thiên Chúa là Thiên Chúa của tất cả mọi người, Ngài muốn cứu độ tất cả những người ấy. Người Do thái thời bấy giờ mong chờ Đấng Cứu Thế đến độ trái tim họ rung động khi nhìn vị tiên tri mới xuất hiện là Gioan Tẩy giả: “Có phải người này là Đấng Cứu Thế hay không?”. Điều này sẽ còn khó tin hơn nữa! Sẽ phải có toàn bộ Tin Mừng, sự phục sinh và hiện xuống để người Do thái độc thần triệt để lòng trí mở ra (một cách khó khăn!) cho điều không thể tưởng tượng được: Đấng Cứu Thế chính là Chúa Giêsu, và Chúa Giêsu chính là Thiên Chúa. Gioan Tẩy giả phác hoạ chân dung đầu tiên đó: “Có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa”. Nhưng cũng sẽ phải có các thần học gia giám mục vĩ đại của các thế kỷ đầu tiên, kinh nghiệm của các thánh, nhất là Chúa Thánh Thần để nói lên điều không thể được trình bày: Thiên Chúa duy nhất là Cha, Con và Thánh Thần; và Chúa Con đã làm người, dưới thời Xêda đại đế, dưới triều vua Tibê.

 

Mùa vọng lại đặt chúng ta trước những chân trời rộng lớn của việc cứu độ tất cả mọi người mà Chúa Cha đã sai phái Con của Ngài cho họ. Còn việc tiếp nhận: Gioan Tẩy giả yêu cầu chúng ta chuẩn bị cho Ngài một con đường. Hai hình ảnh giải toả và tẩy sạch có thể giúp chúng ta hình dung công việc này một lần nữa: làm bung ra những cái cửa quá rỉ sét và làm sập đổ sự từ chối mà chúng ta đã làm cho chai cứng nơi chúng ta, những núi đồi do dự và bác bẻ. Nói với Chúa: “Xin hãy vào trong con” đòi buộc một sự hoạt động tích cực.

 

Tôi có đi quá nhanh từ lời loan báo lớn lao của Gioan Tẩy giả “tất cả mọi người sẽ xem thấy ơn cứu độ” đến những lo toan cá nhân nhỏ nhặt hay không? Chúng không nhỏ nhặt đâu, những cái nhìn rộng lớn trên thế giới không được làm cho chúng ta quên đi khu vườn của chúng ta. Trả lời cho một lãnh chúa người Tây Ban Nha, thánh Pierre ở Alcantara nói: “Ông hãy tỏ ra có tấm lòng tốt, thì đó đã là một phần của thế giới sẽ trở nên tốt đẹp”. Nói với Chúa trong mùa vọng: “Hãy đến cứu độ tất cả chúng con” sẽ là một lời nguyện của kẻ mơ mộng nếu lời nguyện đó không hướng chúng ta về điều phải được cứu độ nơi mỗi người trong chúng ta.

 

63.        Hãy dọn đường cho Chúa

 

Người ta kể lại rằng, một khoa học gia và cũng là họa sĩ nổi danh Leonardo da Vinci vẽ bức tranh Bữa Tiệc Ly, bức tranh được rất nhiều người khen ngợi cho đến ngày hôm nay. Ông có một tranh chấp mạnh mẽ với người láng giềng, tâm tình thù hận trong tâm hồn không cho phép ông vẽ một chân dung nhân từ dịu dàng của Chúa Giêsu. Ngồi trong phòng vẽ hàng giờ, nhưng Leonardo da Vinci không thể nào tập trung tinh thần để vẽ chân dung. Cuối cùng, ông quyết định đi tìm để làm hòa với người đang có tranh chấp, rồi với tâm hồn an bình thư thái, ông đã vẽ được dung mạo Chúa Giêsu trong bức tranh nổi tiếng Bữa Tiệc Ly, và dung mạo của Chúa Giêsu do ông vẽ ra đó thể hiện tuyệt vời đặc sắc tinh thần của Chúa Giêsu mà cho đến ngày hôm nay chưa có hay ít có họa sĩ nào theo kịp.

 

Hơn Leonardo da Vinci, mỗi người chúng ta được mời gọi không phải chỉ vẽ chân dung Chúa Giêsu trên trang giấy trong bức họa mà thể hiện chính Chúa Giêsu, trở thành một Chúa Giêsu Kitô thứ hai. Chúng ta không thể nào thành công làm công việc này, nếu tâm hồn chúng ta còn tích chứa những tật xấu, những tội lỗi, những tâm tình thù hận, ganh tị với anh chị em. Mỗi người chúng ta cần thực hiện điều mà thánh Phaolô tông đồ gọi là lớn lên trong đức bác ái: “Lòng bác ái của anh em càng ngày càng gia tăng trong sự thông biết và am hiểu, để anh em được trong sạch và không đáng trách cho đến ngày của Chúa Kitô ngự đến”. Đây có thể nói là mục tiêu chính của Mùa vọng chúng ta đang cử hành, mùa chuẩn bị tâm hồn của chúng ta hay đúng hơn tẩy sạch tâm hồn chúng ta khỏi những gì là tiêu cực xấu xa, nghịch lại sự thật của Chúa, để chúng ta có thể không phải là họa lại mà là trở thành chính Chúa Giêsu, đón nhận hoàn toàn ân sủng cứu rỗi của Ngài. Đây cũng là điều mà Gioan tiền hô trong bài Phúc âm hôm nay lớn tiếng nhắc lại cho mọi thành phần dân Do thái thời Ngài đang bị cám dỗ bỏ quên Thiên Chúa, hoặc làm méo mó dung mạo Thiên Chúa mà họ đã được mời gọi làm chứng giữa muôn dân. Bí quyết đó là việc ăn năn thống hối, thay đổi nội tâm đã được Gioan rao giảng. Đón tiếp một vị khách phàm trần, người ta chỉ cần chưng diện treo hoa đèn, biểu ngữ, chào đón, chúc tụng và hô to những khẩu hiệu ngoài môi miệng cho qua lượt, nhưng để đón Chúa đến và họa lại chân dung của Chúa trong chính đời sống của mình thì con người phải thay đổi thực sự tâm hồn, phải thực hiện cuộc canh tân thay đổi nội tâm khỏi những tâm tình xấu xa tội lỗi.

 

Ước chi trong Mùa vọng này giúp chúng ta lắng nghe lời mời gọi của Gioan tẩy giả và nhất là lời mời gọi của chính Chúa đang đứng ngoài gõ cửa chờ ta để trở nên hiện ảnh, hiện thân của Chúa Giêsu giữa anh chị em, làm vinh danh Thiên Chúa và cũng vừa xây dựng được một xã hội tốt đẹp xứng đáng với con người mỗi ngày một hơn.

 

Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta biết hoán cải, canh tân đời sống trở về với Chúa mỗi ngày một nhiều hơn, thiết thực hơn. Amen.

 

64.        Tiếng kêu trong sa mạc

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

 

Một mẩu chuyện của người Phi Châu kể lại rằng: Một người Ả Rập sống ở sa mạc có thói quen nằm sát xuống đất, úp tai trên cát từng giờ lâu. Có người hỏi tại sao làm thế. Anh ta giải thích như sau: “Tôi nghe sa mạc khóc vì nó rất muốn được làm một ngôi vườn xinh tươi”.

 

Sa mạc mong mỏi được trở thành ngôi vườn, cũng vậy, tâm hồn con người luôn hướng tới về điều thiện. Khoảng cách giữa sa mạc và ngôi vườn xinh tươi đó là nước non, điều kiện thời tiết và nhất là công lao của con người. Không có sự chăm sóc của con người, sa mạc vẫn tiếp tục là bãi cát khô cằn. Cõi lòng con người cũng sẽ mãi mãi là một sa mạc cằn cỗi nếu có không được vun xới và tưới bằng cố gắng, phấn đấu, hy sinh và tình yêu. Phải tốn biết bao là kiên nhẫn, biết bao chống đỡ, biết bao cương nghị, biết bao mồ hôi… để biến sa mạc của tâm hồn thành một khu vườn tươi tốt… Sa mạc tâm hồn của chúng ta sẽ khóc mãi nếu chúng ta không ra tay cày xới và vun trồng mỗi ngày.

 

Tin Mừng hôm nay kêu gọi chúng ta hãy cày xới và vun trồng cho sa mạc tâm hồn chúng ta nở hoa đón mừng Chúa Cứu Thế: “Có tiếng kêu trong sa mạc: “Hãy dọn đường cho Chúa, sửa lối cho thẳng để Ngài đi”. Đó là tiếng kêu của Gioan Tiền Hô. Là tiếng kêu trong sa mạc, Gioan không thể vắng bóng trong Mùa Vọng – Giáng Sinh, vì đời sống của Gioan đã gắn liền với đời sống của Chúa Cứu Thế như “tiếng kêu” gắn liền với Đấng là “Lời của Thiên Chúa”. Đàng khác, đời sống của vị Tiền Hô chỉ có lý do khi có Đấng Cứu Thế xuất hiện phía sau; và đời sống của vị Tẩy Giả làm phép rửa sám hối chỉ có ý nghĩa khi có Chúa Giêsu, Đấng thiết lập Bí tích Thánh Tẩy để tha tội.

Từ ngàn xưa, Thiên Chúa đã làm xuất phát những tiếng kêu qua các Ngôn Sứ trong Cựu Ước để tiên báo Đấng Thiên Sai Cứu Thế sẽ đến. Là Ngôn Sứ cuối cùng của Cựu Ước, tiếng kêu của Gioan Tiền Hô đã đúc kết, tổng hợp mọi tiếng kêu của các Ngôn Sứ khác, như tiếng kêu của Isaia, tiếng kêu của Êlia, tiếng kêu của Giêrêmia, của Baruc (Bđ.1). Chính vì vậy “Tiếng kêu trong sa mạc” là tên gọi của Gioan, một tên rất mông lung, có vẻ vô danh, nhưng lại rất súc tích: “Hãy dọn đường cho Chúa, sửa lối cho thẳng để Ngài đi. Mọi thung lung, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng. Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn Thiên Chúa cứu độ”.

 

Thưa anh chị em,

Ngày nay, khi nói “Tiếng kêu trong sa mạc”, người ta thường hiểu là tiếng kêu vô ích, lời hô hào không được hưởng ứng, không được đón nghe. Nhưng tiếng Gioan đã kêu lên trong sa mạc không phải là “tiếng kêu trong sa mạc” theo nghĩa đó. Trái lại, tiếng kêu ấy đã lôi kéo đủ thứ mọi hạng người khắp xứ Palestine đến với Gioan trên bờ sông Giođan. Tiếng ấy mặc dù kêu lên trong sa mạc nhưng đã vang vọng tới tận thủ đô Giêrusalem đến nỗi một phái đoàn chính thức đã được các vị lãnh đạo tôn giáo sai đến để chất vấn Gioan tận nơi sa mạc.

 

Tiếng kêu của Gioan không vô ích và cũng không lỗi thời, vì ngày nay, sau gần 2000 năm, tiếng kêu ấy vẫn còn tác động mạnh mẽ trong lòng nhiều người. Những điều xưa kia Gioan nói với dân chúng, hiện nay vẫn còn hợp thời, vẫn còn có giá trị. Và trong thực tế, ở khắp nơi trên thế giới, bao lâu hỗn loạn, tranh chấp, hận thù vẫn còn thì công cuộc dọn đường cho Chúa đến vẫn còn cấp bách. Như vậy, tiếng kêu của Gioan vẫn mãi mãi cần thiết để con người thay đổi đời sống cho tốt đẹp hơn.

Mỗi Mùa Vọng, tiếng kêu của Gioan trong sa mạc lại lay động, thức tỉnh chúng ta, đặt chúng ta đối diện trước một số vấn đề thuộc phạm vi lương tâm và công bình xã hội, để chúng ta xét mình, kiểm điểm nếp sống, để cải thiện đời sống mỗi ngày thêm trọn hảo, để dọn đường tâm hồn chúng ta cho Chúa Cứu Thế ngự đến. Tuy nhiên, đối với một số người, tiếng kêu của Gioan đã trở thành thực sự là “tiếng kêu trong sa mạc”, không được họ lắng nghe và hưởng ứng bởi vì trong lòng họ là những đô thị ồn ào, nhộn nhịp, hỗn độn, ô nhiễm…, tâm hồn họ thiếu sự thanh vắng, cô tịch của sa mạc khiến họ không nghe được tiếng kêu của Gioan: Hãy dọn đường cho Chúa. Tiếng kêu của Gioan không gặp được một âm vang nào trong lòng họ, hoặc có đi nữa thì cũng chỉ là nhất thời và hời hợt như “hạt giống rơi vào bụi gai” mà Chúa đã giải thích là “những hạng người nghe lời Chúa, rồi bị những mối bồn chồn lo lắng, đam mê khoái lạc trên đời làm nghẽn đi mà không sinh hoa kết quả được” (Mt 13,18-23).

 

Vì vậy, muốn nghe được tiếng kêu của Gioan Tiền Hô thì phải tạo cho lòng mình trở nên sa mạc. Sa mạc là nơi thuận tiện cho cuộc hẹn hò gặp gỡ thân tình để nghe rõ tiếng Chúa hơn và để nhận lãnh sứ mạng của mình. Như ngôn sứ Hôsê đã viết: “Thiên Chúa sẽ dẫn đưa Israen vào sa mạc, vào nơi thanh vắng, để ở đó, lòng kề lòng, Ta sẽ tâm tình với nó” (Hs 2,16). Ở sa mạc Sahara ngày nay, người ta vẫn còn thấy có những cộng đoàn tu sĩ, như các Tiểu đệ, Tiểu muội Chúa Giêsu, theo tinh thần Cha Charles de Foucauld, các tu sĩ ấy dù ở đâu cũng phải qua một thời gian tu luyện sống với Chúa, lắng nghe Chúa gọi giữa sa mạc, giữa cảnh cô tịch, nghèo khó, để sau khi đã có kinh nghiệm cụ thể về sa mạc, các tu sĩ ấy có thể tạo cho lòng mình trở nên sa mạc trong khi dấn thân phục vụ con người ở giữa lòng đời. Đó chính là công việc vun xới cho sa mạc nở hoa đón mừng Chúa Cứu Thế.

 

Anh chị em thân mến,

Chúng ta không đi vào sa mạc như các tu sĩ Tiểu đệ, Tiểu muội của Chúa Giêsu được, nhưng chúng ta cẩn phải tạo cho lòng mình trở thành một sa mạc, một nơi trầm lặng, yên tĩnh, bình an, để dễ dàng lắng nghe tiếng Chúa mời gọi giữa cuộc sống ồn ào, nhộn nhịp, bề bộn, căng thẳng nầy. Có nghe được tiếng Chúa nói qua tiếng kêu của Gioan Tiền Hô hôm nay, chúng ta mới bắt tay vào việc dọn đường tâm hồn chúng ta cho Chúa ngự đến: Phải sửa lại đường xưa lối cũ, uốn nắn cho ngay thẳng những lối quanh co theo sở thích trái chướng của mình, lúc thế này khi thế khác… Phải trung thành trước sau như một, thi hành mọi đòi hỏi của Tin Mừng. Mọi gồ ghề ngăn trở các quan hệ tốt đẹp với Thiên Chúa, với tha nhân, phải bạt xuống và san phẳng đi, để tình Chúa, tình người chan hòa đến với hết mọi người. Có như vậy, xã hội mới dần dần trở thành huynh đệ hơn, tốt đẹp hơn, sẵn sàng cho Chúa đến, và cuối cùng để đón nhận ơn cứu độ từ chính Đấng Cứu Độ như Gioan loan báo: “Hết mọi người phàm sẽ thấy ơn Thiên Chúa cứu độ”.

 

65.        Đường ngay nẻo chính

(Suy niệm của Lm. Anphong Trần Đức Phương)

 

Chúng ta đã bước sang Chúa Nhật II Mùa Vọng. Trong Mùa Vọng, qua các Bài Đọc trong Thánh lễ, chúng ta được sống lại lịch sử Ơn Cứu Độ. Các Bài Đọc Cựu Ước thường trích ra từ sách Tiên Tri Isaia, một vị Tiên Tri lớn trong thời Cựu Ước, sống vào khoảng hậu bán thế kỷ VIII trước Chúa Giáng Sinh. Tiên Tri đã được linh ứng và tuyên sấm về ngày Đấng Cứu Thế đến, mặc thân  xác loài người và sống giữa nhân loại như một con  người để chia sẻ thân phận con người như chúng ta, rao giảng Tin Mừng tình thương và Ơn Cứu Độ, chịu bao khổ hình, và chết trên Thập Giá để đền tội và cứu chuộc nhân loại tội lỗi; rồi Ngài đã sống lại và về Trời vinh hiển để mở đường cứu rỗi cho mọi người tin và sống theo tinh thần Tin Mừng mà Ngài đã rao giảng. Ngài được sinh ra từ cung lòng một Trinh Nữ và được gọi là Emmanuel, có nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Tiên Tri Isaia đã loan báo trước: “Này một Trinh Nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai…” (Isaia 7: 14)

 

Tiên Tri Isaia cũng nói đến Đấng Cứu Thế như một “Hoàng Tử Hòa Bình”, và triều đại của Ngài là một thời thanh bính: “Người ta lấy gươm mà rèn nên lưỡi cầy, lấy dao rèn nên lưỡi liềm. Nước này sẽ không còn tuốt gươm để chống nước kia!” (Isaia 2: 4). Đó cũng là thời đại của tình yêu thương, hòa hợp: Sói sống chung với chiên con, beo nằm chung với dê, bò con, sư tử và chiên sẽ sống chung với nhau; các trẻ thơ sẽ chăn dắt đoàn thú vật, bò con và gấu sẽ ăn chung một nơi! …” (Isaia 11: 6-9).

 

Nhưng để có thể đi vào thời đại của Đấng Cứu Thế trong một “Trời Mới Đất Mới”, mỗi người phải sửa đổi cuộc sống cho ngay thẳng, lương thiện, sống công chính và yêu thương. Tiên Tri Isaia đã hô hào: “Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng, hãy lấp các hố sâu, và bạt mọi núi đồi. Con đường cong queo hãy sửa cho ngay thẳng, con đường gồ ghề hãy san cho bằng; rồi vinh hiển của Chúa sẽ xuất hiện; mọi người sẽ thấy vinh quang của Thiên Chúa…” (Isaia 40: 3-5).

 

Chúa Nhật hôm nay (Bài Phúa Âm trích trong Phúc Âm Thánh Luca 3: 1-6), Thánh Gioan Tiền Hô cũng nhắc lại lời Tiên Tri Isaia để kêu gọi mọi người chuẩn bị tâm hồn đón Đấng Cứu Thế: “Hãy ăn năn thống hối, vì Nước Trời đã gần đến. Chính Người là Đấng Tiên Tri Isaia đã loan báo: “Có tiếng kêu trong hoang địa: Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng…”

 

Bài Đọc I (Sách Baruc 5: 1-9) nói đến ngày Thiên Chúa đến giải thoát Dân Chúa khỏi cảnh lưu đầy và đưa về quê hương. Tiên Tri hô hào dân chúng hãy hân hoan vui mừng, “hãy cởi áo tang chế.” Hãy vui mừng vì ngày giải thoát đã đến. Các núi đồi đã bị triệt hạ, các hố sâu được lấp đầy, mặt đất được bằng phẳng để mọi người bước đi ca hát tôn vinh danh Chúa trong niềm hân hoan. “Khi Chúa đưa dân Sion bị bắt trở về, người người hân hoan như trong một giấc mơ…” (Đáp Ca trích trong Thánh Vịnh 125). Đây cũng là hình ảnh ngày Chúa Cứu Thế đến, ngày công lý và hoà bình ngự trị!

 

Những hình ảnh cụ thể về công việc “sửa đường và dọn đường đón Đấng Cứu Thế…” đều nói lên công cuộc sửa đổi đời sống của mỗi người chúng ta, để chúng ta luôn đi theo “đường ngay nẻo chính” sẵn sàng đón Chúa đến với chúng ta. Đó là công việc thánh hóa bản thân và thánh hóa môi trường sống của chúng ta. Thời đại nào, xã hội cũng có những ‘tệ đoan’, những cảnh bất công, gian tham, hà hiếp lẫn nhau. Nhưng chúng ta, những tín hữu của Chúa, chẳng những phải tránh xa những tệ đoan đó, phải tránh xa những sự gian tham, ích kỷ tư lợi, mà còn có bổn phận phải góp phần vào việc sửa đổi xã hội khỏi những tệ đoan đó. Hơn nữa, chúng ta còn phải sống khiêm tốn, hòa hợp yêu thương với mọi người. Vì thế, Thánh Phaolô trong Bài Đọc II (Philipphê 1: 4-6, 8-11) đã nói với chúng ta: “Tôi cầu xin cho anh em được nên tinh tuyền, không gì đáng trách trong khi chờ đợi ngày Đức Kitô lại đến. Như thế, anh em có thể mang lại hoa trái dồi dào là sống một đời sống công chính nhờ Đức Giêsu Kitô, để tôn vinh và ngợi khen Thiên Chúa.”

 

Mùa Vọng là mùa tĩnh tâm dài để mọi người chúng ta dành nhiều thời giờ hơn vào việc cầu nguyện, và trong thinh lặng của đáy tâm hồn, và “từ trong sa mạc ‘của đời sống, chúng ta có thể lắng nghe thấy tiếng Chúa mời gọi chúng ta: ‘Hãy sửa đường lối cuộc đời chúng ta cho ngay thẳng, tránh những quanh co, gian dối; hãy lấp đầy lòng chúng ta bằng công việc lành phúc đức “hoa quả của sự công chính” (Bài Đọc II) thay vì những gian tham; bạt núi đồi của tính kiêu ngạo khoe khoang để tâm hồn chúng ta luôn sống khiêm tốn và hòa hợp yêu thương với mọi người, và “chúng ta sẽ cảm nghiệm được Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa đến với chúng ta và gia đình chúng ta.”

 

Trong Thánh Lễ hôm nay, chúng ta cùng hiệp lời cầu nguyện để mỗi người chúng ta, dù sống trong điạ vị nào, hoàn cảnh nào, là giáo sĩ, tu sĩ hay giáo dân, chúng ta luôn cố gắng sống theo ‘đường ngay nẻo chính’ và lo chu toàn bổn phận của mình. Xin cho các Chủ Chăn, các Linh Mục, tu sĩ nam nữ, luôn cố gắng tận hiến cuộc đời phục vụ Chúa và dân Chúa. Xin cho các bậc cha mẹ biết sống đức tin mạnh mẽ để làm gương sáng cho con cháu. Xin cho các cặp vợ chồng biết sống yêu thương, chịu đựng lẫn nhau, chung thủy trong tình yêu. Xin cho giới trẻ lớn lên được hưởng một nền giáo dục tốt từ nơi gia đình để nắm vững đức tin và luôn cố gắng sống theo đường lối của Chúa.

“Hãy san bằng đồi núi cho Người đi,

Lấp vũng sâu ham hố cho Người qua:

Núi kiêu căng và hố tham lợi danh và hố của hờn ganh!  Hãy lấp cho thật nhanh!

Người đang đến, kìa Người đang đến giữa chúng ta.

Người mang đến, kìa Người mang đến ơn cứu độ.

Người đang đến thăm chúng ta, và cứu rỗi,

và Người cứu rỗi chúng ta khỏi tội.”

 

(Ngọc Kôn: Thánh ca “Hãy San Bằng Đồi Núi”).

 

66.        Chúa Nhật 2 Mùa Vọng

(Suy niệm của Lm. John Eckert)

 

Có bao giờ bạn để ý những cuốn phim vào mùa Giáng sinh hấp dẫn nhất diễn tả những đổ vỡ tan tành như thế nào chưa? Nào là những cảnh tập trung thật đông nhân viên cảnh sát, rồi âm thanh chí chóe chói tai của những con sóc trong phim Kỳ nghỉ Giáng sinh (Christmas Vacation); nào là đàn chó săn quậy phá ở phần kết của phim A Christmas Story muốn làm nổ tung con mắt người xem; hoặc, (một trong những phim tôi yêu thích), cảnh Tòa tháp Nakatomi gần như bị phá hủy hoàn toàn vào cuối bữa tiệc Giáng sinh khó quên trong phim Die Hard. Bất kể những kế hoạch dù là tốt nhất được dàn xếp, cuối cùng mọi thứ đều tiêu tan. Chưa hết. . . chúng ta quen xem lại các phim này khi mùa Giáng Sinh đến. Tại sao? Cuộc sống quanh ta hiếm khi yên tĩnh, dù vậy những kết cục tốt đẹp nhất vẫn có thể xảy đến. Tất nhiên, điều đó không chỉ có trong phim ảnh đâu.

 

Hãy đọc từng bài sách thánh của Chủ nhật này; tất cả đều diễn ra trong một bối cảnh không mấy hoàn hảo – Nào là Ngôn sứ Ba-rúc sống ở thời bị lưu đày, rồi Thánh Phao-lô từ trong ngục tù viết thư cho tín hữu Phi-líp-phê, và danh sách các nhân vật cai trị cả dân sự lẫn tôn giáo vào thời điểm Thánh Gio-an Tẩy Giả lên tiếng kêu gọi, không có lấy một nhóm người Thánh thiện nào. Trên thực tế, kẻ ngẫu nhiên giết Gio-an lại được kể vào số trong danh sách. Tại sao lại đề cập đến những chi tiết không mấy đẹp đẽ của các bài đọc và các cuốn phim kể trên? Bởi vì áp lực xung quanh chúng ta vào thời điểm này trong năm để có một Giáng sinh hoàn hảo, hoặc những tin tức liên tục quanh ta nói chung đều là những tin xấu, tất cả đều có thể khiến chúng ta không còn chú ý đến những gì thực sự quan trọng khi chúng ta đi vào tâm điểm của Mùa Vọng là sự hối cải. Angelus Silesius, nhà thần bí người Đức ở thế kỷ XVII nói: “Chúa Kitô có thể sinh ra một nghìn lần ở Bét-lê-hem – nhưng tất cả đều vô ích cho đến khi Người sinh ra trong tôi”. Chúng ta chỉ còn 20 ngày nữa là đến Giáng sinh, và bây giờ là lúc thích hợp để chắc chắn rằng đây không phải là việc sẽ mừng lễ một cách vô ích. Lời nguyện mở đầu Thánh lễ hôm nay cầu xin “Thiên Chúa toàn năng và nhân từ đừng để chúng con mải mê sự thế gian, chẳng còn thiết tha đi đón mừng Con Chúa…” Thành thật mà nói, vào lúc này trong năm, có rất nhiều “công việc mang tính chất trần gian”. Dù chúng ta có sớm hát Đêm Thánh Vô Cùng, nhưng tất cả sẽ không thể bình an và tươi sáng trong tâm hồn nếu chúng ta không dọn đường cho Vua các vua “sinh ra trong tôi”. Để làm được điều này, điều căn bản đầu tiên là đừng bận tâm đến mọi thứ nằm ngoài tầm kiểm soát của bạn. Danh sách các nhà lãnh đạo thế tục cũng như tôn giáo từ 2,000 năm trước ở đầu bài Phúc âm hôm nay cho thấy đã không có một Thời đại lãnh đạo vàng son nào cả. Chúa chúng ta không sinh ra trong một thời đại như thế. Thời đại đó chắc chắn không hiện diện lúc này. Rồi cho đến khi Chúa chúng ta và Vua Vũ trụ hoàn tất sự mong chờ của chúng ta trong niềm hy vọng hân hoan và cho đến khi Người giáng lâm, thì thời đại cai trị đức độ như vậy vẫn chưa hiện diện. Vì thế, hãy tắt máy xem tin tức 24 giờ của bạn trong Mùa Vọng này, ngừng đọc các dòng tin ngắn cứ mười phút xuất hiện một lần, và bắt các việc thế gian thường xuyên quấy rầy ta phải câm đi trong ba tuần tới và hãy để cho Chúa chúng ta nói với bạn.

 

Bạn cần phải sám hối ở lãnh vực nào? Đâu là những trở ngại khiến bạn không gặp được Con Một Thiên Chúa? Đừng nói tôi không có thời giờ để đi xưng tội.  Cũng đừng nói tôi không có thời giờ xét mình xưng tội. Khi tiếng kêu cất lên trong hoang địa, bạn hãy bước đi trong không khí giá lạnh mùa đông và hãy xin Chúa nói với tâm hồn bạn về những tháng qua kể từ khi xưng tội lần trước. Điều gì bạn đã làm hoặc đã không làm khiến cho bạn bị ngăn cách với Ngài? Tình yêu của bạn dành cho Chúa đã nguội lạnh ở điểm nào? Bạn đã thể hiện tình yêu hy sinh như thế nào đối với những người Chúa đã đặt trong cuộc đời bạn? Hãy xin Người ban ơn để bạn nhận biết tội lỗi mình cũng như ơn biết tín thác vào lòng Chúa thương xót. Sau cuộc đi bộ trong thanh vắng giúp bạn để cho tiếng nói của Đấng kêu gọi bạn hãy nói với tâm hồn mình, bạn hãy tận dụng một trong những món quà lớn nhất Người đã từng ban tặng cho Giáo hội là Bí tích Hòa Giải. Sau khi nghe những lời xá giải ban ơn tha thứ tội lỗi, đó là lúc tấm áo thực sự của ưu phiền và đau đớn được rũ bỏ để mặc vào tấm áo đẹp đẽ của vinh quang Thiên Chúa. Bạn có thể tổ chức hoặc tham dự hàng nghìn bữa tiệc Giáng sinh tầm cỡ của Martha Stewart (doanh nhân truyền hình Hoa Kỳ nổi tiếng dạy nấu ăn, viết sách nấu ăn, dụng cụ nấu ăn …), nhưng nếu bạn vẫn còn sa lầy trong vũng bùn của những gì ngăn cách bạn với bình an của Chúa Giêsu Kitô, thì vấn đề nằm ở những gì xung quanh bạn. Nếu Người không sinh ra trong tâm hồn bạn, thì việc mừng lễ Giáng Sinh của bạn cũng vô ích thôi.

 

Lời cầu nguyện nhập lễ kết thúc với lời cầu “Xin dạy chúng con biết yêu thích những sự trên trời, hầu được cùng Người vui hưởng phúc trường sinh.” Sự thật của vấn đề là Thiên Chúa đã hoàn tất công việc của Người là làm cho những con đường quanh co trở nên ngay thẳng và mọi điều khác đi song song với con đường đó để Người đến với chúng ta. Ngay cả trong hoàn cảnh tồi tệ nhất, Con Thiên Chúa vẫn đến với chúng ta. Vấn đề của bạn khi Mùa Vọng đang thực sự diễn tiến là bạn có để những cản trở do công việc trần thế, dù ở gần hay ở xa, không cho bạn có được sự khôn ngoan trên trời mà ở cùng Đấng đã đến với bạn hay không. Bạn thân mến, hãy dành thời giờ cho Người, hãy sám hối, hãy lãnh nhận ơn tha thứ của Người, chứ đừng để dòng lũ không ngừng của những hoàn cảnh bất toàn ngăn cản không cho bạn cùng ở với Người.

 

67.        Sửa đường là sám hối

(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)

 

Chúa nhật II Mùa Vọng hàng năm, chúng ta chiêm ngắm dung mạo Gioan Tiền hô, một ngôn sứ đầy tràn ơn Thánh Linh. Gioan mời gọi: “Hãy sám hối vì nước trời đã cận kề”. Giống như các Ngôn sứ tiền bối, Gioan tố giác một nếp sống đạo giả hình, chỉ hoàn toàn ở bên ngoài (x. Am 5,21-27; Is 1,10-20; Gr 7,1–8,3…), dần dần đưa tới một tình trạng cứng cỏi. Ba bài Tin Mừng từ Nhất Lãm (Mt 3, 1-12; Mc 1, 1-8; Lc 3, 1-6), thuật lại niềm hăng say rao giảng của Đấng Tiền Hô, kêu mời sám hối và loan báo sẽ có một đấng quyền năng hơn, Ngài sẽ rửa tội trong Chúa Thánh Thần.

 

Sự xuất hiện của Gioan không phải là chuyện ngẫu nhiên, đột xuất, bất ngờ nhưng là kế hoạch của Thiên Chúa đã được loan báo trong Cựu ước.

  • Trong sách Xuất hành, Thiên Chúa tuyên bố với dân của Giao ước: “Này Ta sai thiên sứ đi trước ngươi, để gìn giữ ngươi khi đi đường và đưa ngươi vào nơi Ta đã dọn sẵn” (Xh 23,20).
  • Trong sách ngôn sứ Malakhi: “Này Ta sai sứ giả của Ta đến dọn đường trước mặt Ta. Và bỗng nhiên Chúa Thượng mà các ngươi tìm kiếm, đi vào Thánh điện của Người” (Ml 3,1).
  • Trong sách ngôn sứ Isaia: “Có tiếng hô, trong hoang địa, hãy mở một con đường cho Đức Chúa, giữa đồng hoang, hãy vạch một con lộ thẳng băng cho Thiên Chúa chúng ta. Mọi thung lũng sẽ được lấp đầy, mọi núi đồi sẽ phải bạt xuống, nơi lồi lõm sẽ hóa thành đồng bằng, chốn gồ ghề nên vùng đất phẳng phiu” (Is 40,3-4).
  • Trong sách Xuất hành, Thiên Chúa sai thiên sứ đi trước để gìn giữ và đưa dân vào Đất Hứa. Trong sách Isaia, Thiên Chúa gởi tiếng hô dọn đưởng để Thiên Chúa đưa dân lưu đày trở về. Trong sách Malakhi, Thiên Chúa sai sứ giả dọn đường trước mặt Thiên Chúa, để Ngài đến cứu độ. Ba lời này gom lại để diễn tả hai nhân vật: “Đúng theo lời đó, ông Gioan đã xuất hiện trong hoang địa…” Trước hết, sự xuất hện của ông Gioan Tẩy Giả trong hoang địa, rao giảng kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội. Isaia nói về dọn một con đường trong hoang địa để Thiên Chúa đưa dân lưu đày trở về; Maccô di chuyển dấu phết để nói về ông Gioan xuất hiện trong hoang địa. Con đường ông dọn không phải là con đường trong hoang địa, nhưng là con đường trong lòng người, được uốn thẳng san bằng nhờ lòng sám hối, để được ơn cứu độ tức là ơn tha tội. Sách Malakhi nói về dọn đường trước mặt Ta, tức là Thiên Chúa. Maccô ghép với lời sách Xuất hành để nói sứ giả dọn đường trước mặt Con, tức là Đức Giêsu, như tiếng từ trời xác nhận sau khi Đức Giêsu chịu phép rửa. (x.Tĩnh tâm với sách Tin Mừng Maccô, Lm Giuse Nguyễn Công Đoan, SJ).

 

Gioan là cầu nối giữa hai giai đoạn của lịch sử cứu độ.Ông vừa thuộc nhóm những ngôn sứ của giai đoạn trước, vừa là người đã chạm đến Nước Trời ở giai đoạn sau. Giai đoạn trước của những lời Thiên Chúa hứa, và giai đoạn sau khi Thiên Chúa thực hiện những lời hứa này. Đức Giêsu là Đấng khai mở giai đoạn sau. Nhưng Ngài cần Gioan để làm người tiền hô, dọn đường.

 

Con đường Gioan mời gọi tu sửa là đường trong lòng người. Con đường nội tâm của mọi người. Sửa con đường nội tâm là thay đổi cõi lòng, thay đổi cuộc sống để xứng đáng đón tiếp Chúa Cứu Thế. Sửa đường theo Gioan là sám hối. Nhìn lại con đường mình đã đi qua, sửa lại những sai lệch nếu có. Những gì cong queo, hãy san cho thẳng. Những gì gò cao cần phải bạt xuống. Lúc đó mới nhìn thấy ơn cứu độ của Chúa. Sửa cho thẳng, lấp cho đầy, uốn cho ngay, san cho phẳng, bạt cho thấp; đó là sứ điệp Gioan gởi tới chúng ta trong Mùa Vọng này, để chúng ta dọn lòng mình thành đại lộ thênh thang mở ra với Chúa Cứu Thế.

 

Sửa đường cho Chúa đến là cần thiết và hợp lý. Khi đón tiếp một vị khách quý, người ta thường sửa sang đường sá, làm sạch đẹp nơi vị khách sẽ đến. Như thế là biểu lộ lòng kính trọng đối với vị khách. Khi Đức Giáo Hoàng hay vị nguyên thủ quốc gia đất nước nào muốn đến thăm viếng đất nước khác, vị Đại sứ hay đoàn Sứ giả được cử đến nơi đó hội đàm dọn đường, sắp đặt chương trình cho cuộc viếng thăm, có thể cả hằng năm trước đó.

 

Thiên Chúa là vị khách cao trọng nhất. Người hạ mình đến thăm và ở lại cùng sống với thần dân của Người. Đó là hạnh phúc tuyệt vời nên cần phải dọn tâm hồn xứng đáng. Như con đường cho Chúa đi qua; như căn nhà cho Chúa ngự tới; Chúa đứng ngoài cửa lòng và gõ cửa, ai mở thì Ngài đi vào. Con đường có thể có chông gai tội lỗi, có nỗi đam mê tiền lợi danh, có những tính hư nết xấu.

 

Sửa đường là sám hối, không nói suông, không chỉ là đấm ngực, xé áo. Sám hối là nhận ra cái sai của mình và quyết tâm sửa đổi. Sám hối sẽ không là nô lệ cho của cải, tiền bạc, quyền lực; sám hối là sống công bằng, không tham lam nhũng lạm, không dùng quyền để cưỡng đoạt, áp bức người khác. Đường vào tâm hồn có những khúc quanh co: lén lút sống trong vòng tội lỗi, dối lừa. Sách Cách Ngôn có dạy “Thiên Chúa ghê tởm tâm địa quanh co” (Cn 11,20). Cứu cánh của kẻ quanh co là gian ác, cho nên cần phải uốn nắn lòng mình thẳng ngay như sách Cách Ngôn nói: “Đường lối của kẻ gian ác thì quanh co, hành động của người trong sạch thì ngay thẳng” (Cn 21,28). Uốn những quanh co là sống Chính trực công minh ngay thẳng ví như tác giả thư Do Thái nhấn mạnh: “Thiên Chúa ưa điều chính trực, ghét điều gian ác” (Dt 1,9); Nếu lòng còn mãi quanh co, gập ghềnh, đầy những dối lừa biện minh cho những sai trái của mình… thì làm sao mà sửa đổi được! Nếu không nhìn nhận mình sai lỗi thì làm sao có lòng thật tâm sửa lỗi. Sám hối đích thực là hoán cải. Hoán cải đòi hỏi phải hành động, phải trả giá, sẵn sàng chấp nhận những hy sinh, mất mát liên quan đến sự an toàn và tiện nghi của bản thân. Chỉ có sám hối và hoán cải cách đích thực thì mới dọn đường tâm hồn xứng đáng để đón Chúa.

 

Sửa đường còn là tỉnh thức đợi chờ Chúa đi xa trở về. Như năm cô khôn ngoan có sẵn dầu đèn. Như những đầy tớ làm lợi những nén bạc cho chủ. Như người lính canh thành luôn chú ý những biến chuyển chung quanh. Mỗi cá nhân, ai cũng có những tật xấu, những khuyết điểm, vị kỷ kiêu căng tham lam đố kỵ ghen ghét, lười biếng, hèn nhát… Xã hội nào cũng có bất công, những lạm dụng quyền bính, những hủ tục, những tệ đoan, những điều ấy làm cho con người đau khổ, trì trệ, không phát triển. 

 

Dọn đường căn bản là ở trong nội tâm, sám hối để canh tân, sửa đổi để trở nên tốt lành thánh thiện hơn. Những con đường được làm bằng đất đá, nhựa bê tông. Những con đường trên mặt đất, trên sông trên biển, trên bầu trời là những con đường vật lý. Những con đường tâm lý, con đường tinh thần, con đuờng lòng người mới quan trọng hơn. Nguyễn Bá Học đã nói: đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi mà chỉ vì lòng người ngại núi e sông.

 

Sống đạo luôn là một thách đố đầy quyết liệt và phong phú. Hiểu đạo, tin đạo, giữ đạo xem ra khá dễ dàng vì thuộc lãnh vực cá nhân. Còn sống đạo thường khó khăn hơn vì liên quan đến tha nhân, đòi hỏi một sự quên mình, vượt thắng bản thân. Cũng như thực hiện việc dọn đường qua nghi thức sám hối bên ngoài như rửa tội, xưng tội khá dễ dàng, nhưng nếu mà trong lòng không thật tâm sám hối đưa đến canh tân bản thân, thì hành vi sám hối chỉ là việc làm lấy lệ hình thức mà thôi. Chính vì thế, Giáo hội muốn chúng ta sống 4 tuần lễ Mùa Vọng này như sống trong sa mạc: bình tâm hơn, ăn uống đạm bạc hơn, cầu nguyện nhiều hơn để biết rõ ý Chúa.

 

Gioan đã giúp người ta sám hối, thú tội và lãnh nhận phép rửa, sửa đường nội tâm. Nếp sống giản dị của Gioan mang tâm tình sám hối, sửa đường. Gioan kêu gọi mọi người dọn tâm hồn để đón Đấng Cứu Thế, và chính Gioan đã sống như con đường thẳng. Gioan mời gọi người ta sám hối, và chính đời ngài đã mang nét sửa chữa bằng tâm tình sám hối tâm thành.

 

“Hãy làm việc lành cho xứng với lòng sám hối”, lòng sám hối đích thực của Mùa Vọng chính là tích cực đổi mới ngay trong đời sống cụ thể. Sống đạo bao giờ cũng đòi hỏi nhiều cố gắng và tỉnh thức. Mùa Vọng, Giáo hội cho chúng ta chiêm ngắm mẫu gương của Gioan. Sống gắn bó với Thiên Chúa và gần gũi với con người. Như thế mỗi người sẽ sống đạo hôm nay với tất cả niềm vui hạnh phúc cho bản thân và cho tha nhân.

 

68.        Người phu quét lá

(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)

 

Trong tác phẩm “Người phu quét lá”, ĐGM Nguyễn Khảm đã ví von, đời Linh mục như người phu quét lá: “Người phu quét lá bên đường. Quét cả nắng chiều quét cả mùa thu” (Ns. Trịnh Công Sơn). Người phu quét lá, hàng ngày dù mưa dầm hay nắng hạn, vẫn luôn có mặt từ sáng sớm tinh sương trên mọi nẻo đường thành phố để dọn đường sạch sẽ cho ngàn ngàn con người sắp đi qua. Linh mục, mỗi ngày cũng dọn đường tâm hồn cho con người đi đến với Thiên Chúa và để Thiên Chúa đến với con người.

 

Trong ý nghĩa đó, có thể nói Gioan Tiền Hô cũng là “Người phu quét lá” dọn đường cho Chúa Cứu Thế đến với nhân loại. Bước vào Mùa Vọng, chúng ta gặp lại Gioan Tiền Hô, vị ngôn sứ đi trước dọn đường và dọn lòng người để đón Đấng Cứu Thế. Thực thi sứ vụ dọn đường, Ngôn Sứ Gioan luôn gắn bó với Thiên Chúa và sống gần gũi với con người. Lời Chúa, Gioan chiêm niệm trong hoang địa qua nhiều năm tháng đã giúp ông tiếp xúc, gặp gỡ với nhiều hạng người qua những vùng ven sông Giođan. Lời Chúa, Gioan nghe đã trở thành Lời Chúa ông công bố. Tiếng Chúa gọi Gioan đã trở thành tiếng ông mời gọi mọi người.Gioan trở nên trung gian làm người dọn con đường tâm hồn cho anh chị em mình đến với Chúa Cứu Thế.

 

Gioan là vị ngôn sứ cuối cùng của Cựu ước. Sau 5 thế kỷ vắng bóng ngôn sứ, nay Gioan xuất hiện với sứ mạng Tiền hô. Ông đáp lại tiếng Chúa gọi, ra đi rao giảng về Nước Trời, dọn đường cho Chúa Giêsu, Đấng Cứu Tinh nhân loại đến trần gian. Ông đã chu toàn ơn gọi cách nhiệt thành và đã chết anh hùng cho sứ vụ. (x. Mt 14,3012; Mc 6,17-19). Cuộc đời Gioan là một thiên anh hùng ca, bất khuất trước cường quyền, bao dung với tội nhân. Gioan có một cuộc sinh ra kỳ lạ, một lối sống khác thường. Gioan chọn con đường tu khổ chế: ăn châu chấu và mật ong rừng, uống nước lã và mặc áo da thú. Sống trong hoang địa trơ trụi, vắng người, thiếu sự sống. Nhưng chính ở đó mà Gioan đã lớn lên và trưởng thành trong sự gặp gỡ thâm trầm với Thiên Chúa.

 

Gioan nhắc lại lời tiên tri Isaia: “Mọi thung lũng phải lấp cho đầy, khúc quanh co phải uốn cho ngay, đường lồi lõm phải san cho phẳng” (Lc 3,5). Gioan mời dân chúng sám hối. Không thể tiếp tục sống như xưa nữa. Đã đến lúc phải đổi đời, đổi lối nhìn, đổi lối nghĩ. Như thế, Gioan kêu gọi hãy dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến. Phải lấp cho đầy những hố sâu tham lam ích kỷ hẹp hòi. Phải uốn cho ngay những lối nghĩ quanh co, những tính toán lệch lạc. Phải san cho phẳng những đồi núi kiêu căng tự mãn. Phải bạt cho thấp những gồ ghề của bất công bất chính.

 

  • Đạo là con đường dẫn đến Thiên Chúa. Đạo là ngón tay chỉ mặt trăng. Nếu không có đường thì không đi đến đâu cả. Một đất nước có văn minh hay không là do hệ thống đường sá.
  • Đạo từ nguyên thuỷ luôn mang ý nghĩa trong sáng, ngay thẳng, công minh. Đạo dẫn đưa con người đến chân thiện mỹ.
  • Đạo là đường nên có thể nói sống đạo là sống ngoài đường, sống với người khác, sống với cuộc đời. Abraham khởi đầu sứ mạng mới bằng việc lên đường từ giã thành Ur để sang đất hứa. Và lịch sử Do thái là những chuyến xuất hành di cư, lang thang trong sa mạc, lưu đầy và mất quê hương trong một thời gian dài. Gioan rao giảng và làm phép rửa khắp mọi nẻo đường. Chúa Giêsu sống ở thế gian bằng những cuộc lên đường sang Ai cập, về Nazareth, lên sa mạc, vào đền thánh và trở lại Galilêa. Cuộc sống công khai của Chúa ít là có ba cuộc hành trình lên Giêrusalem. Và sau cùng Ngài lên đường về nhà Cha.

 

Vì là đường nên nên đạo luôn mở ra nối kết và đón nhận cuộc sống, đón nhận mọi người, không phân biệt ai với tinh thần yêu thương của Thiên Chúa. Tin Mừng chính là đạo, là con đường mà Chúa Giêsu vạch ra cho chúng ta đi theo Ngài. Đường quan trọng nhất là đường vào cõi lòng. Gioan đã chỉ cho thấy rằng, mỗi con người đều có ít nhiều đồi núi kiêu ngạo, thung lũng ích kỷ, ghồ ghề khúc khuỷu trong các mối quan hệ. Có bao lối nghĩ quanh co, có bao tính toán lệch lạc, có những lũng sâu tăm tối thiếu vằng ánh sáng tình yêu. Sửa đường theo Gioan là sám hối. Nhìn lại con đường mình đã đi qua, sửa lại những sai lệch nếu có. Những gì cong queo hãy san cho thẳng. Những gì cao cao, cần bạt xuống thấp. Lúc đó mới nhìn thấy ơn cứu độ của Chúa. Sửa cho thẳng, lấp cho đầy, uốn cho ngay, san cho phẳng, bạt cho thấp. Đó là sứ điệp Gioan gởi tới chúng ta trong Mùa Vọng này, để chúng ta dọn lòng mình thành đại lộ thênh thang mở ra với Chúa Cứu Thế.

 

Con đường mà Gioan nói tới đây chinh là đường vào cõi lòng. Con đường nội tâm của mọi người. Sửa con đường nội tâm là thay đổi cõi lòng, thay đổi cuộc sống để xứng đáng đón tiếp Chúa Cứu Thế. Sửa đường cho Chúa đến là cần thiết và hợp lý. Khi đón tiếp một vị khách quý, người ta thường sửa sang đường sá, làm sạch đẹp nơi vị khách sẽ đến. Như thế là biểu lộ lòng kính trọng đối với vị khách. Thiên Chúa là vị khách cao trọng nhất. Người hạ mình đến thăm và ở lại cùng sống với thân dân của Người. Đó là hạnh phúc tuyệt vời nên cần phải dọn tâm hồn xứng đáng. Như con đường cho Chúa đi qua. Như căn nhà cho Chúa ngự tới. Chúa đứng ngoài cửa lòng và gõ cửa, ai mở thì Ngài đi vào. Con đường có thể có chông gai tội lỗi, có nổi đam mê tiền lợi danh, có những tính hư nết xấu. Cho nên trong cõi lòng đó phải có im lặng như cõi lòng Mẹ Maria ghi nhớ, suy niệm và không nói gì. Chỉ nói những lời để giúp đỡ người khác. Tâm hồn Mẹ bình an nên nghe rõ tiếng Chúa và chỉ nghe được tiếng Chúa mà thôi. Như thế dọn đường chính là tạo im lặng cho tâm hồn để nghe được tiếng Chúa và chỉ nghe được tiếng Chúa mà thôi.

 

Dọn đường còn là tỉnh thức đợi chờ Chúa đi xa trở về. Như năm cô khôn ngoan có sẵn dầu đèn. Như những đầy tớ làm lợi những nén vàng cho chủ. Như tên lính canh thành luôn chú ý những biến chuyển chung quanh. Mỗi cá nhân, ai cũng có những tật xấu, những khuyết điểm, vị kỷ kiêu căng, tham lam đố kỵ ghen ghét lười biếng hèn nhát… Xã hội nào cũng có bất công, những lạm dụng quyền bính, những hủ tục, những tệ đoan, những điều ấy làm cho con người đau khổ, trì trệ, không phát triển.

 

Dọn đường căn bản là ở trong nội tâm, sám hối để canh tân, sửa đổi để trở nên tốt lành thánh thiện hơn. Những con đường, thường được làm bằng đất đá nhựa bê tông. Những con đường trên mặt đất, trên sông trên biển trên bầu trời là những con đường vật lý. Những con đường tâm lý, con đường tinh thần, con đuờng lòng người mới quan trọng hơn. Nguyễn Bá Học đã nói: đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi mà chỉ vì lòng người ngại núi e sông.

 

Sống đạo luôn là một thách đố đầy quyết liệt và phong phú. Hiểu đạo, tin đạo, giữ đạo xem ra khá dễ dàng vì thuộc lãnh vực cá nhân. Còn sống đạo thường khó khăn hơn vì liên quan đến tha nhân, đòi hỏi một sự quên mình, vượt thắng bản thân. Cũng như thực hiện việc dọn đường qua nghi thức sám hối bên ngoài như rửa tội, xưng tội khá dễ dàng, nhưng nếu mà trong lòng không thật tâm sám hối đưa đến canh tân bản thân, thì hành vi sám hối chỉ là việc làm lấy lệ hình thức mà thôi.

Sống đạo bao giờ cũng đòi hỏi nhiều cố gắng và tỉnh thức. Mùa Vọng, Giáo hội cho chúng ta chiêm ngắm mẫu gương của Gioan. Sống gắn bó với Thiên Chúa và gần gũi với con người. Như thế mỗi người sẽ sống đạo hôm nay với tất cả niềm vui hạnh phúc cho bản thân và cho tha nhân.

 

Cả cuộc đời Gioan chỉ một tâm nguyện là làm “Người phu quét lá” dọn lòng người khác cho Chúa đến. Mỗi người chúng ta cũng theo mẫu gương của Gioan trở thành “Người phu quét lá” cho chính tâm hồn mình, cho gia đình mình và rồi cho người khác nữa. Dọn đường cũng chính là lên đường theo Chúa Cứu Thế, cho nên dọn đường cho Chúa vừa là một hồng ân vừa là trách nhiệm đòi hỏi mỗi người thi hành nghiêm túc trong cuộc sống hàng ngày của mình.

 

69.        Hãy dọn đường cho Chúa

(Suy niệm của Lm. Phêrô Trần Đình)

 

  1. Thế giới càng văn minh hiện đại bao nhiêu, người ta lại càng chú trọng đến những con đường bấy nhiêu. Là bởi vì đường là phương tiện giúp người ta dễ đến gần, dễ tiếp xúc với nhau hơn. Xa nhau hay gần nhau thường là do con đường mà ra.

 

Giữa con người với nhau đã thế, thì giữa Thiên Chúa và con người cũng vậy. Vì thế, thật dễ hiểu khi Gioan Tiền Hô dùng hình ảnh “con đường” kêu gọi mọi người “ăn năn sám hối để được tha tội”, ngõ hầu có thể “thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa”:

“Hãy dọn sẵn con đường cho Chúa,

sửa lối cho phẳng để Người đi.

Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy,

mọi núi đồi, phải bạt cho thấp,

khúc quanh co, phải uốn cho ngay,

đường lồi lõm, phải san cho bằng”.

 

  1. Bảo rằng đó là lời kêu gọi của Gioan Tiền Hô thì cũng đúng, nhưng nói đó thật ra là tiếng Chúa kêu mời ta thì càng hữu lý hơn, bởi vì Gioan thật ra chỉ là “tiếng của người hô” trong sa mạc. “Tiếng” là tiếng của Chúa, còn “người hô”â chính là Gioan.

 

Gioan là khí cụ Chúa dùng để hô to lên, để thức tỉnh con người, bởi vì biết đâu đó có ai đó đang “mê ngủ” chăng?. Tiếng Chúa thường được nói qua những con người. Đây là bài học lớn mà nhân loại dễ quên. Vì thế rất nhiều khi ta đã vô tình đánh mất những cơ hội Chúa đến viếng thăm và Người vẫn “đứng ngoài cửa” mà ta không mở để đón vào. Mãi mãi Chúa vẫn sẽ là “kẻ xa lạ ấy” (cet inconnu). Và rồi một Mùa Vọng nữa sẽ trôi vào dĩ vãng, chẳng để lại dấu tích nào. Năm tháng cũng sẽ qua đi và ơn Chúa không có tác động mảy may nào trong ta. Có bao giờ chúng ta ý thức như vậy không?.

 

  1. Vì vậy, điều cần thiết là để cho lời của Chúa chất vấn ta. Những con đường mà Gioan nói đến không phải là những con đường chạy bên ngoài cho bằng là những nẻo đường trong tâm hồn ta.

 

Những con đường ấy nhiều khi như “thung lũng sâu”, tức những tư tưởng đen tối che lấp ánh sáng của Chúa. Có khi là những “núi đồi”, nghĩa là những sự “kiêu căng lòng trí”. Cũng có khi là những “khúc quanh co” bởi cách sống thiếu thẳng thắn trong tư tưởng cũng như hành động. Và cuối cùng là những chỗ “gồ ghề”, những khúc mắc giữa ta với Chúa và với tha nhân.

 

  1. Bao giờ, những con đường ấy được dọn dẹp, được khai thông, chúng ta mới hi vọng “nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa”. Ơn cứu độ là gì nếu không phải là “mến yêu, vui mừng và bình an” như Thánh Phaolô đã nói?.

 

70.        Sứ giả của Chúa Kitô

 

Gioan là vị tiên tri được linh hứng đầu tiên đến đập tan sự yên lặng của bao thế kỷ trôi qua từ đời tiên tri Malaki. Sự quan trọng của chức vụ của ông được Luca nêu ra bằng cách liệt kê những chi tiết xác thực định vị thời kỳ của ông. Khi nói đến tên những nhà cầm quyền chính trị và tôn giáo, ông đã cho biết trong thời ấy có sáu cuộc bổ nhiệm, để đưa dần tới tính cách phổ thông của Tin Mừng. Với thiên tài của một sử gia, Luca đã liên kết câu chuyện ông kể với các biến cố của thế giới. Trước hết, ông phải nêu tên vị hoàng đế đang trị vì đế quốc La mã là Xêda Tibêriô, rồi ông kể đến Philatô, tổng đốc xứ Giuđê, người đã mang một vết nhơ muôn đời là kẻ lên án tử cho Chúa Giêsu, Hêrôđê Antipa, con người quyến dụ và sát nhân, con của Hêrôđê đại vương, được bổ nhiệm cai trị xứ Galilê, Philipphê và Lyxania làm tổng đốc các xứ lân cận.

 

Về phương diện giáo quyền, ông nhắc tới Anna và Caipha. Chưa bao giờ có hai thượng tế cùng một lúc. Vậy Luca có ý gì khi nêu ra hai tên? Thượng tế là người đứng đầu Do thái cả về phương diện tôn giáo lẫn chính trị. Ngày xưa chức thượng tế được cha truyền con nối và mãn đại, nhưng khi người La mã đến, chức vị đó làm đầu mối cho đủ thứ gian lận. Kết quả là từ khoảng năm 37TC-26SC đã có đến hai mươi tám thầy thượng tế khác nhau. Anna hành chức thực thụ từ năm 7TC-14SC. Cho nên khi ấy ông đã mãn nhiệm, nhưng kế vị ông là bốn người con trai và Caipha là con rể ông. Do đó, tuy Caipha là thượng phẩm đương chức, nhưng thực quyền vẫn ở trong tay Anna. Vì thế, sau khi Chúa Giêsu bị bắt đã phải điệu đến chỗ ông trước tiên, dẫu lúc đó ông không còn tước vị gì. Luca đem ghép tên ông vào với Caipha để muốn nói lên tình trạng “bất thường” về tôn giáo thời ấy.

 

Một bản danh sách của những lãnh tụ như thế cho ta thấy sự thoái hoá tột bậc về đạo đức lẫn tôn giáo lúc bấy giờ và sự cần thiết phải có một người kêu gọi Israel trở lại thờ phượng và phụng sự Thiên Chúa.

 

Vị sứ giả ấy đã đến trong con người của Gioan, con Giacaria. Sau một thời gian dài tôi luyện bằng kỷ luật khắc khổ trong sa mạc, ông đã xuất hiện với một sứ điệp quả quyết từ Thiên Chúa, lôi cuốn quần chúng đông đảo đến thung lũng Giođan, để nghe giảng đạo và tiếp nhận phép rửa như một dấu hiệu và ấn chứng cho lòng ăn năn. Bản chất của chức vụ ông làm ứng nghiệm lời báo trước của tiên tri Isaia “Tiếng kêu trong hoang địa”, người được Thiên Chúa sai đến để dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến. Sự chuẩn bị này có tính cách Đông phương: khi một vị vua định đi tuần tra một vùng nào trong vương quốc mình thì sai một vị quan đi trước để hô hào dân chúng sửa sang đường sá. Chỗ trũng phải lấp đầy, chỗ cao phải bạt xuống, đường quanh co phải nắn lại cho thẳng, đường gồ ghề phải sửa cho êm. Cũng thế, Gioan được coi như sứ giả của Vua, nhưng sự sửa soạn của ông nhấn mạnh là sự sửa soạn tâm hồn và đời sống. Như vậy, muốn cho người ta sẵn sàng tiếp nhận Chúa Kitô, những trở ngại đạo đức cần phải dẹp sạch, phải sám hối ăn năn và từ bỏ tội lỗi. Luca đã kết thúc câu trích Isaia rằng: “Và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa”, để phù hợp với tính cách phổ thông của Tin Mừng.

 

Vicka là một trong sáu thị nhân tại Mễ du, được chính Đức Mẹ dạy dỗ, khi có người hỏi: “Theo cô biết, ăn năn trở lại là thế nào?”.

 

– Ăn năn hối cải là ý thức rằng chúng ta đang sống trước mặt Thiên Chúa, đêm cũng như ngày, và chúng ta chịu trách nhiệm về tất cả những gì thuộc bản thân ta, cũng như những gì thuộc quyền sở hữu của ta. Mẹ đã đến kêu gọi mọi người thế hãy nghe theo các sứ điệp của Mẹ mà ăn năn hối cải. Sống trong tội quả là điều nguy hiểm! Những tai hoạ ghê gớm đang chờ đợi những kẻ không quay trở về cùng Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa luôn tha thứ cho ta, dầu tội lỗi đến như thế nào đi nữa. Không có tội nào quá lớn đến nỗi Thiên Chúa không tha thứ được. Tình yêu Thiên Chúa luôn mãi lớn hơn tội lỗi chúng ta. Tất cả những gì ta có thể làm là nài xin. Đức Mẹ đến để bảo ta nài xin Chúa tha thứ ngay bây giờ. Mẹ nhắc lại cho ta rằng Thiên Chúa không bao giờ từ chối tha thứ cho bất cứ ai xin Người.

 

– Và khi được hỏi về mức độ khẩn trương phải ăn năn, Vicka đáp: “Đức Mẹ phải khóc vì những đứa con của mình không biết Thiên Chúa, hoặc quay lưng với Thiên Chúa, hoặc bất tuân các giới răn của Người.

 

– Rồi sau khi được Đức Mẹ dắt đi tham quan thiên đàng, luyện ngục và hoả ngục, cùng với Jakov, trong một cuộc phỏng vấn, có người hỏi: “Từ khi thấy hoả ngục lời cầu nguyện của cô có khác gì không?” Vicka đáp ngay: “Ồ! Dĩ nhiên là có. Bây giờ tôi cầu nguyện cho kẻ tội lỗi ăn năn hối cải. Tôi biết cái gì đang chờ đợi họ, nếu họ từ chối quay trở về.

 

Vậy điều gì xảy ra đối với kẻ phạm tội?

– Hết thảy chúng ta đều phạm tội. Đó là lý do Đức Mẹ kêu gọi ta làm hoà lại với Thiên Chúa và với anh em ta, chị em ta, ngay từ bây giờ. Ta càng cứng đầu chống nghịch đường lối của Thiên Chúa, thì ta càng rời xa Nước Thiên Chúa. Và khi được hỏi: “Làm sao để chúng ta quay trở lại?”. Vicka cho biết: “Đức Mẹ bảo rằng bao lâu còn sống trên trần, ta còn có thể trở lại với Thiên Chúa mọi giờ mọi phút, bằng cách ăn năn sám hối. Và cũng vì thế, ăn năn hối cải không phải là một việc nhất thời, làm một lần là xong. Đó là con đường xuyên suốt đời người, và lúc đầu, người ta có thể gặp nhiều khó khăn, vì satan rất mạnh, nó tìm mọi cách để cản trở việc ăn năn hối cải của ta. Càng gặp khó khăn ta càng phải cầu nguyện. Ăn năn hối cải không thể là chuyện trên đầu môi chót lưỡi, song bằng hành động, bằng tình yêu, một công việc kiên trì mỗi ngày”.

– Còn Jakov, khi được hỏi ăn năn hối cải có ý nghĩa thế nào đối với cậu? Cậu trả lời: “Khi em còn nhỏ, em chỉ biết sơ sơ về Thiên Chúa. Cũng có đi dự lễ, đi nhà thờ, nhưng không bao giờ thực sự cảm nghiệm được Thiên Chúa. Đi là chỉ do sự thúc đẩy. Cần nhất là Thiên Chúa phải sống trong ta. Em không cảm nghiệm được điều ấy cho đến khi các cuộc hiện ra xảy ra. Em có thể nói ăn năn trở lại là Thiên Chúa sống trong em và em nhận biết sự ấy”.

– Rồi khi được hỏi: “Làm thế nào để cảm nghiệm được Thiên Chúa hiện diện trong đời sống? Jakov được Đức Mẹ dạy, trả lời: nhờ cầu nguyện. Và như vậy, phương thế để ăn năn trở lại đó là: dành thời giờ để cầu nguyện.

 

Bạn đã sám hối như thế nào? Và quyết định mỗi ngày dành ra bao nhiêu thời giờ để cầu nguyện?

 

71.        Chúa Nhật 2 Mùa Vọng

(Suy niệm của Lm. Phêrô Nguyễn Thanh Hùng)

 

Kính thưa quý ông bà và anh chị em,

Ngày tận thế, ngày kết thúc lịch sử của nhân loại luôn là đề tài gây nhiều chú ý cho con người. Chẳng hạn như ở năm 1843-1844, giáo chủ Cơ đốc phục lâm William Miller (1782-1849) ở Mỹ tin Chúa sẽ trở lại vào ngày 21.03.1844. Ông lan truyền thông điệp: “Chúa đã chọn thời điểm hủy diệt trái đất, thế giới sẽ hoàn toàn biến mất. Hãy sẵn sàng để gặp Chúa”. Thông tin trên khiến hàng nghìn người dân trong vùng bán hoặc cho hết toàn bộ tài sản. Tuy nhiên, “ngày tận thế” bình yên trôi qua mà không thấy Chúa xuất hiện.

 

Năm 1992, một mục sư người Hàn Quốc, tên Lee Jang Rim, viết trong cuốn sách thuộc loại bán chạy có tựa đề “Sắp đến gần ngày tận thế” (Getting Close to the End), ông dự đoán ngày 28.10.1992 là ngày tất cả tín đồ Ki-tô giáo đều được lên trời”. Tuyên bố này gây nên sự hỗn loạn trong xã hội Hàn Quốc. Tại Seoul, 5.000 người bỏ việc, bán nhà và từ bỏ gia đình vì tin vào tin đồn trên. Và theo tin đồn gần đây nhất, 21.12.2012 sẽ là ngày diệt vong của nhân loại dựa theo sự kết thúc lịch của người Maya. Tin đồn này khiến nhiều người trên thế giới lo sợ. Họ đã tích cực mua nến, tích đồ lương thực, xây dựng hầm trú ẩn… để mong muốn khỏi bị những thảm họa của ngày tận thế.

 

Thưa anh chị em,

tất cả những dự đoán trên về ngày tận thế nơi con người đều không đúng, không xảy ra nhưng đã làm cho con người hoang mang sợ hãi. Con người sợ hãi vì không biết ngày Chúa đến sẽ như thế nào, theo Tin Mừng Luca chúng ta nghe ở Chúa Nhật I MV, ngày Chúa đến sẽ có những điềm lạ xảy ra trên mặt trời, mặt trăng, và các vì sao, còn dưới đất muôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét. Những điều ấy làm cho con người ta sợ hãi đến hồn xiêu phách lạc (Lc 21,25). Còn về ngày giờ Chúa đến thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay cả người Con cũng không; chỉ một mình Chúa Cha biết mà thôi (Mt 24,36).

 

Thế nhưng, theo niềm tin của người Kitô hữu cho chúng ta biết rằng: ngày Chúa đến lần thứ hai một cách rất bất ngờ, có thể đến bất cứ lúc nào, vào ngày mai, ngay hôm nay và thậm chí ngay tại lúc này. Bởi vì, ngày tận thế là có thật, như trong thư thánh Phaolô gởi tín hữu Philipphê đã nói: “Tôi cầu xin cho anh em được nên tinh tuyền và không làm gì đáng trách, trong khi chờ đợi ngày Đức Ki-tô quang lâm” (Pl 1,10). Như thế, chắc chắn có ngày Chúa sẽ đến, nhưng đó phải là ngày của niềm vui và hạnh phúc, như lời Chúa Giêsu đã nói: “anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc” (Lc 21,28).

 

Kính thưa quý ông bà và anh chị em,

Mong đợi ngày Chúa đến, Linh mục nhạc sĩ Nguyễn Duy đã phát họa tâm tình của dân Chúa trong sự vui mừng của ơn cứu độ qua lời bài hát “Để Chúa Đến” như sau:

“Để Chúa đến trong cuộc đời,

để Chúa đến mang ơn trời.

Nguồn hạnh phúc cho con người.

Mùa cứu rỗi cho mọi nơi”.

 

Vậy ngày Chúa đến, không chỉ là ngày mong đợi của dân Chúa thời gian lưu đày, sống trong cảnh tủi nhục, lầm than đang mong chờ Đấng Cứu Thế đến để giải thoát dân, đưa dân trở về quê cha đất tổ, mà đây còn là niềm vui mong chờ ơn cứu độ của Chúa đến với từng người chúng ta nữa.

 

Do đó, để cho ngày Chúa đến là ngày của hồng ân cứu độ, Gioan Tẩy Giả đã lấy lại tinh thần của tiên tri Isaia kêu gọi dân Chúa rằng: “hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng”, như thế:

 

– Dọn con đường cho Chúa đến, là phải lấp đầy những thung lũng của tham lam, ích kỷ, chỉ muốn phần lợi cho riêng mình, cho phe nhóm của mình mà quên đi lợi ích chung của cộng đoàn, của tập thể.

– Dọn con đường cho Chúa đến là phải bạt cho thấp những núi cao tự ái, của tính kêu ngạo, khoe khoang… bắt mọi người phải qui hướng về mình, không biết nhận lỗi, và cũng không biết tha thứ.

– Dọn con đường cho Chúa đến là phải uống cho thẳng những suy nghĩ và những việc làm xấu xa, làm mất đi hình ảnh Thiên Chúa là Đấng Chân – Thiện – Mỹ nơi con người của mình.

– Dọn con đường cho Chúa đến là phải san cho phẳng những gồ ghề của sự lười biếng không biết nỗ lực thăng tiến hơn trong đời sống thiêng liêng để giúp ích cho mình và cho tha nhân.

 

Hãy dọn con đường cho Chúa đến

Vì tất cả những ngọn đồi, hố sâu, khúc quanh co, gồ ghề là những cản trở, ngăn chặn để Chúa đến với chúng ta. Vậy trong mùa vọng này, mỗi người chúng ta hãy chuẩn bị con đường cho Chúa đến với tâm hồn bằng một đời sống sám hối chân thành. Để cho dù Chúa đến bất cứ khi nào, lúc nào chúng ta cũng luôn đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì là ngày Thiên Chúa cứu độ chúng ta. Amen.

 

72.        Chúa Nhật 2 Mùa Vọng

(Suy niệm, Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)

 

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật II Mùa Vọng chuẩn bị cho người tín hữu tâm tình chờ đón Chúa đến. Giáo Hội mời gọi người Ki-tô hữu tìm lại ý nghĩa của việc Chúa đến qua những bản văn Kinh Thánh.

 

Br 5: 1-9

Bài Đọc I, trích từ một bản văn rất muộn thời, mô phỏng lại những đề tài về cảnh giam cầm tại Ba-by-lon và cuộc hồi hương trở về. Thiên Chúa sẽ đích thân đến cứu dân Người và dọn sẵn một con đường để dẫn họ trở về thành thánh Giê-ru-sa-lem.

Pl 1: 4-11

Bài Đọc II được trích từ thư gởi tín hữu Phi-líp-phê, trong đó thánh Phao-lô kêu mời người Ki-tô hữu hãy thăng tiến trên con đường thánh thiện và mở rộng lòng mình trước ân sủng để sống trong tâm thế sẵn sàng chờ đón ngày Đức Ki-tô trở lại.

Lc 3: 1-6

Tin Mừng tường thuật bước khởi đầu sứ vụ của thánh Gioan Tẩy Giả. Vị Tiền Hô khuyên bảo mọi người hãy sống trong tâm thế sẵn sàng đón chào Đức Ki-tô sắp ngự đến.

 

BÀI ĐỌC I (Br 5: 1-9)

Ông Ba-rúc là “bạn tâm giao” và là “thư ký” của ngôn sứ Giê-rê-mi-a, nhưng không là tác giả của sách mang tên ông. Sách Ba-rúc này được viết rất muộn thời, chắc chắn từ thế kỷ thứ hai trước Công Nguyên. Sách này thật sự là một tuyển tập: những phần khác nhau của sách không do cùng một tác giả và cũng không thuộc cùng niên biểu.

 

  1. Bối cảnh

Dù thế nào, sách Ba-rúc đưa chúng ta trở về thời kỳ trào lưu ngôn sứ vắng bóng từ lâu, người ta lấy lại những bản văn cũ, suy niệm chúng và thích ứng chúng (như chúng ta đã đọc bản văn của Giê-rê-mi-a được sửa đổi ở Chúa Nhật I Mùa Vọng). Người ta cố gắng hiện tại hóa sứ điệp khi đặt nó dưới sự bảo trợ của một nhân vật quá khứ nổi tiếng. Tác giả của sách Ba-rúc cũng theo một cách thức như vậy (thể loại văn chương này được gọi là “trào lưu ngôn sứ ẩn danh”).

 

Tác giả chọn cảnh giam cầm tại Ba-by-lon làm khung cảnh lịch sử, bằng cách tưởng tượng ông Ba-rúc ở giữa những người lưu đày, để báo trước cho họ biết họ sắp được trở về quê cha đất tổ và kêu mời Giê-ru-sa-lem hân hoan vui mừng. Thật ra, ông Ba-rúc cũng như ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã không bị phát lưu sang Ba-by-lon. Những đề tài, hình ảnh, ngôn từ được mượn ở I-sai-a đệ nhị (Is 40-55), vị ngôn sứ an ủi những người lưu đày, cũng như ở I-sai-a đệ tam (Is 56-66), vị ngôn sứ của thời kỳ những người lưu đày được hồi hương trở về Giê-ru-sa-lem.

 

  1. Sấm ngôn

Rất dễ nhận ra đoạn văn Ba-rúc này mô phỏng vài bản văn của I-sai-a đệ nhị (Is 40-55) và I-sai-a đệ tam (Is 56-66), ở đó chúng ta gặp thấy cũng một lời mời gọi thành thánh Giê-ru-sa-lem hãy vui lên như thế: “Hỡi Xi-on, thức dậy, thức dậy đi, hãy biểu dương sức mạnh! Hỡi thành thansah Giê-ru-sa-lem, hãy mặc lễ phục huy hoàng! Vì từ nay kể không cắt bì cũng như người ô uế sẽ không còn bước vào thánh điện nữa. Hỡi Giê-ru-sa-lem bị tù đày, hãy giũ bụi, đứng lên! Nào thiếu nữ Xi-on bị tù đày, hãy mở tung xích xiềng buộc cổ!” (Is 52: 1-2).“Đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu tỏa trên ngươi. Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân; còn trên ngươi Đức Chúa như bình minh chiếu tỏa, vinh quang Người xuất hiện trên ngươi. Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước. Đưa mắt nhìn tứ phía mà xem, tất cả đều tập hợp, kéo đến với ngươi: con trai ngươi từ phương xa tới, con gái ngươi được ẵm bên hông” (Is 60: 1-4).

 

Và cũng ở đó chúng ta cũng gặp thấy chính thành thánh Giê-ru-sa-lem hân hoan vui mừng như vậy: “Tôi mừng rỡ muôn phần nhờ Đức Chúa, nhờ Thiên Chúa tôi thờ, tôi hớn hở biết bao! Vì Người mặc cho tôi đức chính trực công minh, như chú rễ chỉnh tề khăn áo, tựa cô dâu lộng lẫy điểm trang” (Is 61: 10).

 

Ngôn sứ I-sai-a đệ nhị đã sánh ví rồi cuộc hồi hương của những người lưu đày với cuộc Xuất Hành mới ở đó Thiên Chúa còn thực hiện những điều kỳ diệu cho dân Ngài: “Mọi thung lũng sẽ được lấp đầy, mọi núi đồi sẽ phải bạt xuống, nơi lồi lõm sẽ hóa thành đồng bằng, chốn gồ ghề nên vùng đất phẳng phiu” (Is 40: 4), “trong vùng hoang địa, Ta sẽ trồng bá hương, keo, sim với ô-liu; trên những dải đất hoang, Ta sẽ cho mọc lên một trật nào trắc bá, nào du, nào hoàng dương” (Is 41: 19).

 

  1. Những danh hiệu biểu tượng

Những danh hiệu mà tác giả sách Ba-rúc gán cho Giê-ru-sa-lem như “Bình-an-xây-dựng-trên-công-chính” hay “Vinh-quang-phát-xuất-từ-lòng-kính-sợ-Thiên-Chúa”, được định vị vào hàng những danh hiệu thuộc trào lưu ngôn sứ: ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã trao cho Giê-ru-sa-lem danh hiệu “Đức-Chúa-là-sự-công-chính-của-chúng-ta” (Gr 33: 16); ngôn sứ I-sai-a đệ tam gọi thành thánh là “Xi-on-của-Đức-Thánh-Ít-ra-en” (Is 60: 14) hay “Thành-không-bị-bỏ-rơi” (Is 62: 12), …

 

Bù lại, việc Thiên Chúa được gọi là “Đấng Vĩnh Hằng” là một nét mới và đặc thù của sách Ba-rúc. Danh hiệu này được lập đi lập lại đến bảy lần trong toàn bộ bài thơ; đây là một ví dụ độc nhất trong toàn bộ Cựu Ước. Qua đó tác giả nhấn mạnh: tất cả những gì Thiên Chúa làm đều “vĩnh hằng”: “mặc lấy ánh vinh quang vĩnh cửu Thiên Chúa ban cho ngươi”, “Mãi mãi Người sẽ gọi ngươi…”.

 

  1. Hiện tại hóa sứ điệp

Vấn đề tất yếu được nêu lên: tại sao có sự mô phỏng này? Tại sao mô phỏng theo cách thức này? Tại sao “loan báo” cuộc hồi hương vốn đã xảy ra bốn trăm năm trước đó? Tại sao thánh thánh Giê-ru-sa-lem lại được tán dương nhiều thế kỷ sau này? Phải đọc ẩn dụ này như thế nào để gặp lại độ nhạy bén của những người đương thời mà tác phẩm được gởi đến?

 

Thay vì đọc và nghĩ đến “những người Do thái lưu đày”, chúng ta nên đọc và nghĩ đến “những người Do thái tha hương”, điều này giúp chúng ta giải đáp được một phần điều bí ẩn này. Đây là những cộng đoàn Do thái Hải Ngoại gởi gắm những tâm tư nguyện vọng của mình vào nơi sách Ba-rúc. Bị phân tán trong thế giới Hy-La và trong miền Trung Đông, sống xa thành thánh Giê-ru-sa-lem, các cộng đồng này cảm thấy mình như “những kẻ lưu đày”; tuy xa mặt nhưng không cách lòng: mọi tâm tư tình cảm của họ đều hướng về Thành Thánh; họ hiệp nhất với Thành Thánh qua lời cầu nguyện (phần thứ nhất của sách Ba-rúc), qua việc thực hành Lề Luật, tức sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa (phần thứ hai của sách) và qua niềm hy vọng (phần thứ ba, từ đó đoạn trích dẫn của chúng ta).

 

  1. Giê-ru-sa-lem thời Mê-si-a

Bản văn được đọc lại trong viễn cảnh này: bài thơ ngợi tán dương thánh thánh Giê-ru-sa-lem thời Mê-si-a. “Ánh vinh quang vĩnh cửu của Thiên Chúa” sẽ được biểu lộ trong Thành Thánh. Thành Giê-ru-sa-lem sẽ là Thành Đô Bình An vì được xây dựng trên sự công chính, tức là sự thánh thiện của Thiên Chúa; Thành Thánh sẽ rạng ngời vinh quang của Thiên Chúa, do “lòng kính sợ Thiên Chúa”. Chính “Lời Đấng Thánh” sẽ quy tụ mọi con cái Thiên Chúa. Kỷ nguyên Mê-si-a này sẽ là Triều Đại chứa chan niềm vui, tràn ngập ánh sáng “của lòng từ bi và sự công chính của Người”.

 

Người Do thái đã đọc lại bài thánh thi này vào năm 63 trước Công Nguyên, để lấy lại can đảm sau khi tướng Rô-ma là Pom-pê đánh chiếm Giê-ru-sa-lem; họ cũng đã đọc lại bài thánh thi trong nước mắt vào ngày kỷ niệm các đạo binh của tướng Ti-tô phá hủy Đền Thờ thành bình địa vào năm 70; như vậy họ khẳng định niềm hy vọng muôn đời bất biến của họ.

 

Người Ki-tô hữu đọc bản văn này bởi vì họ hiểu được tầm quan trọng mang tính ngôn sứ của bài thơ này: Thiên Chúa sắp viếng thăm dân Ngài “để dân Ngài tiến bước bình an dưới ánh vinh quang của Thiên Chúa, cùng với lòng từ bi và sự công chính của Người”.

 

BÀI ĐỌC II (Ph 1: 4-6, 8-11)

Thánh Phao-lô sáng lập cộng đoàn Ki-tô hữu đầu tiên ở thành Phi-líp-phê thuộc miền Ma-kê-đô-ni-a, trên vùng đất Châu Âu vào năm 49-50, khi thánh nhân dự tính thực hiện một cuộc mạo hiểm lớn: vượt qua biển Ê-gi-ê để loan báo Tin Mừng cho một lục địa khác.

 

  1. Bối cảnh

Thành Phi-líp-phê được đặt tên theo vua Phi-líp-phê II, thân phụ của A-lê-xan-đê đại đế. Sau khi đã sáp nhập miền này vào năm 360 trước Công Nguyên, vị đại đế Hy lạp này đã tái thiết và phát triển thành phố. Vào năm 42 trước Công Nguyên, hai tướng Rô-ma, Mác-cô An-tô-ni-ô và Ốt-ta-vi-a-nô (Âu-gút-tô), đã đánh bại Bru-tô và Ca-xi-ô, và đã thiết lập một khu cho các cựu chiến binh thuộc các binh đoàn chiến thắng. Vào thời thánh Phao-lô, thành phố đã trở thành một đô thị Rô-ma, có những quan tổng trấn Rô-ma cai trị và được cấu trúc theo kiểu thành thị Rô-ma.

 

Vào năm 56 hay 57, thánh Phao-lô có dịp gởi một bức thư cho các Ki-tô hữu Phi-líp-phê. Đối với thánh nhân đó là một niềm vui, vì ngài rất quý mến giáo đoàn này, vả lại họ đã chứng tỏ tấm lòng trung thành đến cảm động. Thánh nhân đã hai lần chấp nhận sự hỗ trợ vật chất của các tín hữu Phi-líp-phê thân yêu này, trong khi ngài từ chối bất kỳ sự hỗ trợ nào từ phía các cộng đoàn Ki-tô hữu khác. Thư thánh Phao-lô gởi cho các tín hữu Phi-líp-phê bộc lộ lòng quý mến của thánh nhân đối với giáo đoàn này mà không có bất kỳ hậu ý trách cứ cũng như vấn đề đạo lý; bức thư này cũng là bức thư hấp dẫn nhất.

 

Phụng Vụ chọn đoạn văn hôm nay vì nó gợi lên ngày Đức Giê-su trở lại và cách thức người Ki-tô hữu chuẩn bị chờ đón. Đoạn văn này gồm có hai phần, chứa đựng một suy tư thần học có tầm mức lớn lao theo hình thức tạ ơn và khuyến dụ.

 

  1. Công trình của Đức Giê-su

Trước hết, thánh Phao-lô nói lên niềm vui và lòng biết ơn của mình đối với các tín hữu Phi-líp-phê vì họ nhiệt tâm đối với Tin Mừng và góp phần vào sứ mạng tông đồ của ngài; thánh nhân nhận ra đó là công việc tốt lành của Thiên Chúa ở nơi họ. Viễn cảnh này vẫn là một quan điểm thường hằng của thánh nhân: chúng ta không thể tự mình thánh hóa chính mình bằng sức riêng của mình, như vậy thánh Phao-lô khẳng định “quyền ưu tiên của ân sủng”.

 

Tuy thế, người Ki-tô hữu phải luôn luôn sống trong tâm thế sẵn sàng, đó là điều tất yếu. Thánh nhân cũng gởi đến các tín hữu Phi-líp-phê những khuyên nhủ khẩn thiết bằng những lời lẽ trìu mến.

 

  1. Sự cộng tác của con người

Sau khi bày tỏ niềm vui, thánh Phao-lô nói lên tâm tình của mình: thánh nhân nhắc các tín hữu Phi-líp-phê nhớ đến tấm lòng của ngài đối với họ: “Có Thiên Chúa làm chứng cho tôi, là tôi hết lòng yêu quý anh em tất cả, với tình thương của Đức Giê-su Ki tô”. Từ ngữ Hy lạp diễn tả “tình thương của Đức Ki-tô” theo nghĩa rất mạnh; nó gợi lên “tình phụ tử”; Đức Ki-tô đã sinh ra họ trong đức tin qua sứ vụ của vị tông đồ của Ngài; vị tông đồ yêu thương họ bằng tình yêu có nguồn gốc ở nơi tình yêu của Đức Ki tô.

 

Qua lời khẩn nguyện dâng lên Thiên Chúa, thánh Phao-lô khuyên các tín hữu Phi-líp-phê hãy kiên tâm bền chí: động lực thăng tiến tinh thần của họ cốt ở nơi tình yêu, vừa lòng mến đối với Thiên Chúa vừa đức ái đối với nhau. Chính nhờ tình yêu này mà họ đạt được “ơn hiểu biết và tài trực giác siêu nhiên”. Thánh Phao-lô nhấn mạnh tầm quan trọng của sự phân định: “nhận ra cái gì là tốt hơn” mà thánh nhân thường lập lại ở đây. Sự phân định này là một khía cạnh của đức khôn ngoan Ki-tô giáo, đổi mới thật sự lòng trí con người.

 

  1. Ngày của Đức Ki-tô

Trong đoạn văn này, thánh Phao-lô hai lần nhắc đến “ngày của Đức Ki-tô”. Như hai thư gởi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca, thư gởi tín hữu Phi-líp-phê làm chứng rằng các thế hệ Ki-tô hữu đầu tiên nao nức mong chờ ngày Quang Lâm của Đức Giê-su Ki-tô sắp đến gần. Vào ngày đó, những người Ki-tô hữu phải được tinh tuyền và không làm gì đáng trách, sinh nhiều hoa trái dồi dào từ đời sống công chính nhờ Đức Ki-tô (từ ngữ công chính theo nghĩa Kinh Thánh là sống cuộc sống đạo hạnh phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa). Chúng ta gặp lại ở đây Thần Học về ân sủng. Đây là phương thức quen thuộc của thánh Phao-lô, thánh nhân thích lập lại ở phần cuối lời khẳng định ban đầu.

 

Tất cả cuộc sống Ki-tô hữu này, được định vị trong Đức Ki-tô, nhằm một mục đích tối hậu là “tôn vinh và ngợi khen Thiên Chúa”. Đây là cứu cánh của con người.

 

TIN MỪNG (Lc 3: 1-6)

Thánh Lu-ca giới thiệu sứ vụ của ông Gioan Tẩy Giả với lời mào đầu long trọng (3: 1-2), qua đó thánh ký định vị biến cố này vào trong lịch sử thế giới khi trích dẫn hoàng đế Rô-ma. Điều này cho thấy thánh Lu-ca quan tâm đến lịch sử, tuy nhiên thánh ký cũng muốn nói rằng lời rao giảng của ông Gioan Tẩy Giả, loan báo kỷ nguyên cứu độ, liên quan đến hết mọi người. Chính cũng vì lý do này, khi viện dẫn Is 40, thánh Lu-ca tuân theo truyền thống Mc 1: 3 và Mt 3: 3; tuy nhiên, thánh Lu-ca đem đến một điều mới mẽ khi trích dẫn trọn vẹn sấm ngôn của I-sai-a, vì sấm ngôn này chấm dứt với những từ: “Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa”. Qua câu này, thánh Lu-ca khẳng định tính cách phổ quát của ơn cứu độ mà Is 40: 6 đã loan báo, cũng như thánh Lu-ca đã nói trước ở 2: 30-31: “Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân”.

 

  1. Bối cảnh lịch sử (3: 1-2a)

Lời mào đầu giới thiệu sự xuất hiện của Gioan Tẩy Giả trước quần chúng một cách long trọng trong bối cảnh lịch sử thế giới qua đế quốc Rô-ma; lịch sử trong và ngoài miền đất Pa-lét-tin qua ba tiểu vương, các con của vua Hê-rô-đê Cả; cũng như lịch sử dân thánh qua hai vị thượng tế vào thời đó.

 

– “Năm thứ mười lăm dưới triều hoàng đế Ti-bê-ri-ô”: Năm thứ mười lăm dưới triều hoàng đế Ti-bê-ri-ô xem ra từ ngày 1 tháng 10 năm 27 đến ngày 30 tháng 7 năm 28. “Thời Phong-xi-ô Phi-la-tô làm tổng trấn miền Giu-đê”, tổng trấn Phi-la-tô đại diện chính quyền Rô-ma. Kể từ năm thứ sáu Công Nguyên, miền Giu-đa không còn có chính quyền bản địa nữa; vào năm này chính quyền Rô-ma đã truất quyền vua Ác-khê-lao, con và người kế vị vua Hê-rô-đê Cả, và nắm quyền trực tiếp trên miền Giu-đê, miền thường gây ra những cuộc bạo động. Như vậy miền Giu-đê có một thể chế đặc biệt. Chúng ta biết điều đó trong cuộc xét xử Đức Giê-su.

 

– “Hê-rô-đê làm tiểu vương miền Ga-li-lê”: Miền Ga-li-lê vẫn duy trì chính quyền bản địa do tiểu vương Hê-rô-đê, biệt hiệu An-ti-pát, con Hê-rô-đê Cả. Chính vị tiểu vương này đã giết Gioan Tẩy Giả và Đức Giê-su bị điệu đến trước ông.

 

– “Phi-líp-phê làm tiểu vương miền I-tu-rê và Tra-khô-nít”: Tiểu vương Phi-líp-phê, cũng là con của Hê-rô-đê Cả, cai trị lãnh địa đông bắc biển hồ Ti-bê-ri-a. Ông là vị tiểu vương ôn hòa, không nhiệt thành lắm với Do thái giáo, thậm chí ưu đãi những việc thờ cúng ngoại giáo.

 

– “Ly-xa-ni-a làm tiểu vương miền A-bi-lên”: Miền A-bi-lên là một lãnh địa nhỏ bé được định vị ở Anti-Liban, phía tây Đa-mát. Tiểu vương Ly-xa-ni-a rất ít được biết đến. Vì thế người ta có thể tự hỏi trong danh sách của thánh Lu-ca vị tiểu vương này đóng vai trò gì. Đế quốc Rô-ma cho ba người con của Hê-rô-đê Cả làm tiểu vương ba lãnh địa, hai trong đất Pa-lét-tin và một ở ngoài đất Pa-lét-tin. Thật hợp lý khi kể thêm tiêu vương Ly-xa-ni-a cho đủ số ba người con của Hê-rô-đê Cả. Nhưng lý do thật sự xem ra còn sâu xa hơn. Rõ ràng ý định của thánh Lu-ca là muốn thông tri cho đọc giả hiểu rằng “biến cố Gioan Tẩy Giả” vượt quá bên ngoài ranh giới miền đất Pa-lét-tin.

 

– “Kha-nan và Cai-pha làm thượng tế”: Sau khi nói đến thế quyền, thánh Lu-ca đề cập đến giáo quyền: Kha-nan, vị thượng tế mãn nhiệm, và Cai-pha, người con rể, vị thượng tế đương nhiệm. Kha-nan được nêu tên, vì thế lực của ông vẫn còn ảnh hưởng rất lớn. Theo thánh Gioan, sau khi bị bắt, Đức Giê-su bị điệu trước tiên đến thượng tế Kha-nan, sau đó mới đến thượng tế Cai-pha.

 

Đối diện với thế quyền và giáo quyền này, thánh Lu-ca đưa vào một nhà khổ hạnh sống ẩn dật trong hoang địa, ông Gioan, con ông Da-ca-ri-a. Chính nơi nhân vật khiêm hạ này mà Lời Chúa được gởi đến.

 

  1. Sứ vụ của ông Gioan Tẩy Giả (3: 2b)

“Có Lời Thiên Chúa phán cùng con ông Da-ca-ri-a là ông Gioan trong hoang địa”. Thánh Lu-ca mượn văn phong Kinh Thánh để mô tả ơn gọi ngôn sứ như Hs 1: 1 hay Gr 11:

 

  1. Như vậy thánh ký ghi nhận rằng ông Gioan Tẩy Giả là một vị ngôn sứ, ông nói với tư cách một vị ngôn sứ. Sự kiện này lại càng gây chú ý hơn nữa vì từ năm trăm năm qua đã không có một ngôn sứ nào xuất hiện.

 

Ông Gioan xuất thân từ gia đình tư tế; cha ông, ông Da-ca-ri-a, là tư tế phụng sự đền thờ Giê-ru-sa-lem. Ấy vậy, chức vụ tư tế của dân Ít-ra-en là cha truyền con nối. Ông Gioan khước từ chức vụ và danh dự này; được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, ông vào sống ẩn mình “trong hoang địa cho đến ngày ra mắt dân Ít-ra-en” (Lc 1: 80).

Hoang địa này là sa mạc Giu-đê, dưới chân những ngọn đồi khô cằn, trong miền này được định vị giữa thành Giê-ri-cô và địa danh Qum-ran, có dòng sông Gio-đan đổ nước vào Biển Chết. Để thi hành sứ vụ của mình, ông Gioan Tẩy Giả tiếp cận với dân cư quanh vùng: “Ông liền đi khắp vùng ven sông Gio-đan”.

 

  1. Phép rửa tỏ lòng sám hối (3: 3)

Phép rửa mà Gioan Tẩy Giả đề xướng không nhằm mục đích nào khác ngoài việc tỏ lòng sám hối. Các vị lãnh đạo Do thái giáo đòi buộc các dự tòng muốn gia nhập vào cộng đồng Ít-ra-en phải chịu phép rửa cùng với phép cắt bì. Các nghi thức thanh tẩy thì rất nhiều; thậm chí người Do thái thời hậu lưu đày vì lòng sốt sáng đã thêm một số lượng lớn; nghi thức thanh tẩy được thực thi hằng ngày và đa dạng tại các tu sĩ Qum-ran. Nhưng phép rửa mà Gioan đề xướng là một nghi thức duy nhất, bất khả lập lại, cũng không thuần túy chỉ là nghi thức. Thanh tẩy của thánh nhân là dấu hiệu thanh tẩy nội tâm, chuẩn bị tâm hồn đón nhận ơn tha thứ tội lỗi, nhưng tự nó chưa có quyền ban ơn tha thứ này.

 

  1. Ơn cứu độ phổ quát (3: 4-6)

Cả bốn tác giả Tin Mừng đều trích dẫn sấm ngôn của I-sai-a đệ nhị hứa với những người lưu đày ở Ba-by-lon, họ sẽ sớm được hồi hương. Thiên Chúa sẽ sai phái một sứ giả “trong sa mạc, mở một con đường cho Đức Chúa” (Is 40: 3-5), vì chính Thiên Chúa sẽ dẫn đường cho dân Ngài trở về Giê-ru-sa-lem.

 

Cả ba tác giả Tin Mừng nhất lãm đều đã thấy ở nơi vị sứ giả này dung mạo của ông Gioan Tẩy Giả khi hiện tại hóa bản văn của I-sai-a vào trong hoàn cảnh hiện nay của mình: thay vì “Trong sa mạc, mở một con đường cho Đức Chúa”, thì lại “Có tiếng người hô trong hoang địa: hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa”, bởi vì Gioan Tẩy Giả thi hành sứ vụ dọn đường cho Đức Chúa ở trong hoang địa. Tuy nhiên, chỉ duy thánh Lu-ca trích dẫn trọn vẹn sấm ngôn của ngôn sứ I-sai-a, nhưng thánh ký chủ ý thay đổi một chút câu cuối: thay vì “Bấy giờ vinh quang Đức Chúa sẽ tỏ hiện, và mọi người phàm sẽ cùng được thấy”, thánh ký viết: “Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa”. Thật ra vinh quang của Đức Chúa được bày tỏ ở nơi quyền năng rực rỡ của Ngài, Đấng, sau một thời gian dài xem ra không đoái hoài đến dân Ngài, ra tay giải thoát dân Ngài khỏi cảnh giam cầm tại Ba-by-lon, tiên trưng một cuộc giải thoát khác, chính xác hơn, giải thoát khỏi mọi giam cầm của tội lỗi.

 

73.        Chúa Nhật 2 Mùa Vọng

(Suy niệm của Lm. Ga. Phan Tiến Dũng)

 

Tin mừng hôm nay (Lc 3, 1-6) qua chính lời rao giảng và mời gọi của Gioan Tẩy Giả, đã làm vang vọng lại sứ điệp cũng như lời tiên sấm của Ngôn sứ Isaia, không những thế, sứ điệp này của Gioan sẽ được ứng nghiệm cho những ai thực sự khiêm tốn, mở lòng để đón nhận và tin vào Chúa Giêsu là Đấng cứu thế cho nhân loại. “Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi; con đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, con đường gồ ghề hãy san cho bằng. Và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa”.

 

Thưa ACE, sứ điệp và lời mời gọi từ Lời Chúa hôm nay có thực sự mang lại ý nghĩa và ơn ích gì cho chúng ta trong cuộc sống hiện tại không? Hay nói khác hơn, việc dọn đường, sửa đường, lấp hố sâu hay bạt núi đồi…mà Tin mừng mời gọi có giúp làm cho chúng ta có những quyết tâm hay hành động ra sao trong đời sống đức tin của chúng ta với Chúa và với tha nhân? Điều thú vị là, khi suy niệm dưới sự soi dẫn của ánh sáng Lời Chúa, thì chúng ta sẽ nhận ra câu trả lời ngay trong câu cuối của Tin mừng hôm nay là: để cho “Mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa”. Thật vậy, thánh ý Chúa muốn cho chúng ta cần sống và thực thi trong chính ơn gọi, sứ vụ hiện tại của mình, nhờ đó chính bản thân cũng như mọi người có thể đón nhận được ơn thánh cứu độ của Thiên Chúa. Như vậy, việc dọn và sửa đường cho Chúa, chính là cách mà chúng ta cần chuẩn bị cho tâm hồn, lòng trí và đời sống chúng ta có thể phần nào trở nên xứng hợp với quà tặng ơn thánh vô giá mà Thiên Chúa thương trao tặng cho chúng ta. Vậy, điều gì là động lực để thúc bách chúng ta thực thi sứ điệp này?

 

Trong bài đọc một (Br 5, 1-9) Ngôn sứ Baruc đã tha thiết mời gọi dân chúng năm xưa trong cảnh sống lưu đày tại Babylon là hãy tin tưởng vào Thiên Chúa, hãy có lòng kính sợ Giave Thiên Chúa, qua cung cách của những con người biết sống khiêm tốn, nhân hậu, từ bi và công chính. Vì đây là cung cách, là đường lối của Thiên Chúa. “Chúa sẽ hân hoan lấy lòng từ bi và công bình của Người dẫn dắt Israel đến ánh vinh quang”. Thế nên, chỉ khi nào, con người tin vào Chúa và sống như vậy, thì Thiên Chúa là Đấng sẽ đến để giải thoát và cứu dân Ngài, Chúa sẽ đích thân đem dân Ngài trở về Giêrusalem trong an bình và hạnh phúc.

 

Thật ra thưa ACE, lời mời gọi của Ngôn sứ Baruc vẫn đang rất thiết thực và cấp bách cho mỗi người chúng ta trong cuộc sống hiện tại. Dẫu rằng chúng ta đang được sống tự do không phải đang sống trong cảnh nô lệ hay bị lưu đày. Thế nhưng, có rất nhiều thứ đang trói buộc chúng ta, đó chính là những đam mê quyến rũ của thú vui, tiền bạc, của cải, danh vọng hay chức quyền. Nếu chúng ta vì yếu đuối mà chiều theo mà phạm tội, thì chúng ta đang làm nô lệ cho ma quỷ và những thứ của cải vật chất đời tạm này. Nếu suy cho cùng và hồi tâm trước mặt Chúa, làm sao chúng ta không vướng bận bởi những đam mê và lo lắng sự đời. Thế thì, để được trở nên con người tự do của con cái Chúa, con người có sự bình an, hạnh phúc và thanh thoát trong cuộc đời thì không có cách nào tốt hơn đó là hãy tín thác vào Chúa, hãy mặc lấy sự công chính, từ bi và nhân hậu của Ngài.

 

Khi con người chúng ta đối diện với cuộc sống thực tại, đặc biệt trong hoàn cảnh đau thương như hiện nay, ai trong chúng ta cũng đều mong muốn có được một cuộc sống bình an, an lành và thánh thiện. Đây cũng chính là những lời nguyện cầu, chúc phúc mà chúng ta ước nguyện cũng như trao gởi cho nhau trong những ngày của mùa vọng này. Thế nhưng, để trở nên và mặc lấy con người mới như thánh ý Chúa và như ước nguyện của chúng ta thì thật là khó. Tại sao lại khó thưa ACE?

 

Bài đọc hai (Pl 1, 4-6. 8-11) Thánh Phaolô đã cho chúng ta câu trả lời. Vì chúng ta phải luôn kiên nhẫn để chờ đợi Chúa đến với chúng ta; chúng ta phải chuẩn bị luôn qua cách sống thánh thiện công chính, cách sống này không phải chỉ thực thi một hay hai ngày, một hay vài tháng, vài năm, nhưng là suốt cả cuộc đời của chúng ta. Hơn thế nữa, trong mọi ngày sống, chúng ta cần phải sống liên kết mật thiết với Chúa Giêsu Kitô, để trong mọi sự Thiên Chúa được tôn vinh và ngợi khen, chứ không phải vì chúng ta sống cho nhu cầu và lợi ích của bản thân.

 

Thưa ACE, vậy thì giờ đây Lời Chúa đang thực sự rất hữu ích và có ý nghĩa cho chúng ta biết sống khiêm tốn, mở lòng hầu chuẩn bị cho xứng hợp với ơn thánh Chúa. Chúa thật sự đang chờ đợi chúng ta để Ngài ban ơn giúp sức, miễn là chúng ta chịu lắng nghe, chịu tin vào Ngài, chịu để cho Ngài hướng dẫn và hành động qua con người và sứ vụ của chúng ta. Lạy Chúa, nguyện cho Lời Chúa uốn nắn lòng trí và tâm hồn chúng con, để đời sống chúng con được sửa đổi, biến đổi nên tốt hơn, hầu chúng con luôn tôn vinh danh Chúa và đem lại ơn ích cho tha nhân. Amen.

 

74.        Chúa Nhật 2 Mùa Vọng

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên)

 

“Mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa”

 

Bài Tin Mừng CN hôm nay khởi đầu với một chi tiết, có lẽ chúng ta thường để ngoài tai: “Đời Hoàng Đế Tibêriô năm thứ mười lăm, Hêrôđê làm thủ hiến xứ Galilê…”, những yếu tố lịch sử. Thế nhưng, chính cái yếu tố này lại là một phần thiết yếu của Tin Mừng. Chúng ta thường thấy các kitô hữu của chúng ta trong đời sống đạo cũng qúa thường gạt bỏ yếu tố lịch sử ra khỏi niềm tin của mình: người ta thường bảo nhau “Đạo tại tâm”.

 

Gioan Tiền Hô được Chúa kêu gọi “trong hoang điạ”, con người được Thiên Chúa kêu gọi trong chính cảnh vực nhân sinh của họ, nhưng cảnh vực ấy phải thích hợp và không che lấp tiếng gọi của Chúa. Hoang điạ gợi lên sự đồng hành của Thiên Chúa với con người trong lịch sử. Hành trình của Abraham từ đất Ur đến Canaan, hành trình của Môsê và dân Người từ Ai Cập về đất hứa, hành trình của Elia về núi Horeb, và sau này trước khi ra loan báo Tin Mừng, Đức Giêsu cũng từ hoang điạ đi lên. Hội thánh ngay từ thưở ban đầu suốt 300 năm cũng đã chỉ xuất hiện vững vàng từ những hầm trú, những hang toại đạo, thậm chí ngay tại VN Tin Mừng cũng chỉ được sáng tỏ trên các pháp trường, trong rừng thiêng nước độc…: Lịch sử đã là yếu tố không thể tách rời với Tin Mừng. Nhưng là một LỊCH SỬ PHẢI ĐƯỢC THANH TẨY. Thực ra Tin Mừng chính là LỊCH SỬ ĐÃ HOÀN TẤT CUỘC THANH TẨY để đạt tới tầm vóc viên mãn.

 

“Hãy lấp mọi hố sâu, hãy bạt mọi núi đồi”: lịch sử là hố, là núi, là đồi, là những con đường cong quẹo, gồ ghề. Chúng ta thường bảo đấy không có chỗ cho Tin Mừng, biết bao người Kitô hữu thường sống như thế đó: trong công việc, trong kinh doanh, trong xưởng máy, trong các chức phận xã hội không còn chỗ cho Tin Mừng. Và khi đến Nhà Thờ, trong các cử hành tôn giáo thì họ lại bảo ở đấy không có chỗ cho lịch sử.

 

Bản thân Tin Mừng như chúng ta đang chờ đợi trong mùa vọng chính là NGÔI LỜI NHẬP THỂ trong một lịch sử nhất định: Lịch sử của Đức Giêsu trong toàn vẹn là chính Tin Mừng. Điều ấy được chuyển qua người Kitô Hữu nhờ Nhiệm Cục Cứu Độ khi họ tiếp nhận qua Lời, qua Bí Tích và qua Hội Thánh, là sự tiếp nối và hiện tại hóa Lịch Sử của chính Đức Kitô, để trong chính lịch sử hôm nay của mỗi người, Đức Kitô hoàn thành Lịch Sử của mình cho tới ngày cánh chung. Ngày mà theo Phaolô là ngày Thiên Chúa trở nên mọi sự trong mọi người.

 

Đó cũng chính là nội dung loan báo của các tiên tri. Tiên tri Baruk đã hình dung Tin Mừng bằng một hình ảnh rất thân quen “Hỡi Giêrusalem, hãy cởi áo tang chế và sầu khổ của ngươi, hãy mặc lấy sự huy hoàng và vinh quang…”. Đó là một sự đổi đời, đó là sự thanh tẩy lịch sử.

 

Tuy nhiên, cuộc đổi đời ấy, công trình thay đổi lịch sử ấy tuy diễn ra trong bản thân mỗi người, nhưng cũng như nơi Đức Kitô, lại là tác động của Tình Yêu Thần Linh.

 

Vi thế lời cầu nguyện của thánh Phaolô mãi mãi còn là lời cầu nguyện của chúng ta trong Mùa Vọng cuộc đời: “Tôi hân hoan khẩn cầu cho anh em, vì anh em đã thông phần vào việc rao giảng Tin Mừng từ ngày đầu cho tới nay. Tôi tin tưởng rằng Đấng đã khởi đầu việc lành đó trong anh em, cũng sẽ hoàn tất cho đên ngày của Đức Giêsu Kitô…”

 

75.        Chúa Nhật 2 Mùa Vọng

(Gợi ý suy niệm của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt)

 

VIỆC GIẢNG DẬY CỦA GIOAN TẤY GIẢ

 

  1. Khuôn mặt Gioan Tẩy giả nổi bật trong suốt thời gian mùa vọng vì ông là vị tiên tri cuối cùng của Cựu Ước là người duy nhất trong các tiên tri chỉ cho thấy Đấng mình loan báo, là Đấng cứu độ thế gian, ĐGK Chúa chúng ta (kinh tiền tụng lễ thánh Gioan tẩy giả).

 

Đoạn văn này tường thuật ơn gọi tiên tri của ông bằng cách lồng vào trong khung cảnh lịch sử trần thế và tôn giáo. Nhưng theo lời trình bày long trọng lúc mở đầu, ta có thể đoán được, và sẽ cố gắng minh chứng bằng bản văn còn nhắm xa hơn con người Gioan tẩy giả; đàng sau vị Tiền hô, chính Chúa Giêsu mà bản văn muốn loan báo và đặt vào trung tâm lịch sử nhân loại.

 

  1. Thật vậy, mới nhìn qua, thì hình như trong đoạn văn chúng ta đang nghiên cứu đây, Lc chỉ chú ý đến sứ vụ tiên tri của ông Gioan tẩy giả. Nhưng nhiều dấu chứng cho thấy là qua sự kiện này, Lc muốn nhắm đến việc Chúa Giêsu ngự đến.

 

  1. Trước hết, điểm đáng chú ý là Lc tham chiếu nhiều đến lịch sử đương thời để đánh dấu việc khai mào sứ vụ của Gioan tẩy giả, mà không nói gì đến sứ vụ của Chúa Giêsu (3,21), mặc dù đối với ông, đó là việc chủ yếu. Điều bất thường này sẽ làm ta ít ngạc nhiên nếu ta nhận xét là ngay từ đầu phúc âm, Luca xem Gioan tẩy giả và Chúa Giêsu liên đới với nhau (xem phần trước: những sự song đối giữa truyền tin và sinh hạ). Cũng như sự kiện thời hiệu của Luca 1,5 (dưới thời vua Hêrođê) được áp dụng cho cả hai lần truyền tin về Gioan tẩy giả và Chúa Giêsu (Lc 1,5-25 và 26-38), thì thời hiệu lịch sử của Lc 3,1-2 cũng có giá trị cho những bước đầu của sứ vụ Gioan và Chúa Giêsu. Luca sẽ không trình bày một cách long trọng như thế, nếu chỉ muốn đánh dấu những bước đầu trong sứ vụ của Gioan tẩy giả mà thôi.

 

  1. Việc kể tên hoàng đế Roma, tổng trấn Philatô và các vị quận vương khác không nhất thiết liên quan đến sứ vụ của tiên tri Gioan cho bằng liên hệ đến vua Giêsu. Như chúng ta đã thấy, Luca thường đề cập cách song đối trong phúc âm của ông vương quyền của Chúa Giêsu với vương quyền của các vua trần thế đương thời. Cho nên ở đây, ông phải nghĩ đến Chúa Giêsu nhiều hơn là Gioan tẩy giả.

 

  1. Luca trích dẫn tiên tri Is 40,3 như các tác giả phúc âm khác để mặc cho sứ vụ Gioan tẩy giả một ý nghĩa. Nhưng ông còn kéo dài câu trích dẫn đó cho tới việc loan báo ơn cứu độ của Thiên Chúa đã tỏ hiện, là để cho thấy trước tiên ông muốn nói đến ngày xuất hiện của Chúa Giêsu.

 

Bởi thế có thể kết luận rằng, khác với các đoạn song song trong Mt và Mc, đoạn văn này của Lc loan báo việc xuất hiện của Chúa Giêsu ngay trong sứ vụ của Gioan tẩy giả. Cái nhìn này không làm ta ngạc nhiên, vì trong hai chương đầu nói về thời thơ ấu, Lc đã minh chứng dài dòng rằng sứ mạng của Gioan tẩy giả hoàn toàn hệ tại trong việc loan báo, rao giảng vế Chúa Giêsu (Lc 1,14.17, 19.41-44. 76-77.)

 

  1. Như vậy, Lc đã nhìn hai sự xuất hiện của Gioan tẩy giả và của Chúa Giêsu thế nào?
  2. Khi đánh dấu thời gian xuất hiện của Chúa Giêsu và Gioan tẩy giả tương quan với các vua và thượng tế thời bấy giờ, Lc muốn xác định thời gian của hai sự xuất hiện đó trong lịch sử trần thế, như các sử gia Hy Lạp thường làm. Cách tính thời gian này cũng không được chính xác, vì nó chỉ cho niên hiệu của triều đại Tiberiô Xêda (Tibère Cêsar) mà thôi, và một khoảng cách thời gian giữa sứ vụ của Gioan và Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ của Ngài không xa thời gian Gioan rao giảng bao nhiêu. Ông ước tính Chúa Giêsu chịu phép rửa vào năm thứ 15 triều đại vua Tiberiô và dữ kiện này trùng hợp với Ga 2,20 (Chúa Giêsu ở tại Giêrusalem vào dịp lễ vượt qua năm 28).

 

  1. Khi nói đến sự xuất hiện của Gioan và Chúa Giêsu, Lc không mấy quan tâm đến lịch sử trần thế cho bằng lồng chúng vào lịch sử cứu rỗi. Khi trích dẫn dài dòng Is 40,3-5 ông cho thấy qua các sự kiện đó, việc hoàn tất lời tiên tri của CƯ và xác định đúng tầm quan trọng của chúng: sứ mạng của Gioan là việc loan báo lần cuối cùng ơn cứu độ, sứ mạng của Chúa Giêsu là việc Thiên Chúa ngự đến và là ơn cứu độ cho mọi người.

 

  1. Sứ mạng của Gioan tẩy giả bắt đầu, tạo nên một giai đoạn chuẩn bị của thời tiên tri: là thời gian mà Israel được kêu gọi trở về với Thiên Chúa của mình trong tinh thần sám hối và khiêm hạ. Đây là giai đoạn cuối cùng của Cực ước.

 

  1. Sứ mạng của Chúa Giêsu chỉ mới được loan báo như là việc cao điểm lời rao giảng của vị tiền hô mà thôi. Sứ mạng đó sẽ là việc Chúa ngự đến, là ơn cứu độ của Thiên Chúa cho mọi người. Qua những lời tiên báo của Isaia, độc giả phúc âm, khi đã biết được mạc khải của biến cố phục sinh, có thể nhận ra thiên tính của Chúa Giêsu và ơn cứu độ Ngài đem đến cho mọi người.

 

Luca giúp nắm vững tầm quan trọng phổ quát của biến cố bằng cách đặt nó vào lịch sử thánh của dân Chúa (tại Giuđea, Galilê, dưới thời thượng tế) cũng như vào lịch sử của thế giới ngoại giáo (đời hoàng đế Tiberiô, vùng Iturêa). Nhưng việc loan báo vẫn còn kín đáo, vì Luca muốn tôn trọng đường lối sư phạm tiệm tiến của mạc khải.

 

  1. Tại sao phụng vụ mùa vọng lại dùng bản văn này là bản văn không liên quan đến việc sinh hạ của Chúa Giêsu và chỉ nhắm tới sứ mạng của Ngài một cách gián tiếp qua sứ mạng của Gioan?

 

Điều này có thể do bởi sự kiện các phúc âm ít tường thuật các việc xẩy ra trước khi Chúa Giêsu ra đời. Và nhất là do bởi mối quan tâm muốn trình bày một bản văn công bố ngày Chúa Giêsu gần đến. Ngày Chúa đến thật ra không phải chỉ thể hiện trong ngày giáng sinh mà thôi nhưng còn xẩy ra trong suốt chuỗi xuất hiện liên tục, từ truyền tin đến dâng mình đền thánh, từ lúc chịu phép rửa bởi Gioan cho đến Phục sinh.

 

Mỗi một lần xuất hiện trên, thực ra cũng chỉ là lời hứa và bảo chứng cho lần xuất hiện cuối cùng trong vinh quang và uy quyền của ngày quang lâm. Người Kitô hữu hôm nay, khi đọc phúc âm kể lại các lần xuất hiện đã qua của Chúa Giêsu, phải luôn luôn hướng về lần ngự đến cuối cùng đó như là ơn cứu độ của mình.

 

Trong lúc gần đến ngày Giáng sinh, đoạn phúc âm này kêu mời chúng ta chuẩn bị ngày Chúa đến. Qua lời kêu gọi thống hối ăn năn, qua lời hứa ban ơn cứu độ cho mọi người, bản văn soi sáng cho chúng ta về mầu nhệm của hài nhi nằm trong máng cỏ và qui hướng chúng ta về ngày hài nhi ấy trở lại trong vinh quang.

 

  1. Nét quan trọng trong sứ vụ của Gioan mà truyền thống đã giữ lại để làm nổi bật cá vị của ông là phép rửa của ông ban trên sông Giođan. Tước vị ho baptistês (12 lần trong phúc âm nhất lãm; trong Flavius Josèphe) là một dấu chứng. Những người đương thời của Chúa Giêsu rất kinh ngạc về nghi thức này, vì nó mang môt cái gì mới lạ.

 

Trước Gioan tẩy giả đã có một phong trào “thanh tẩy” khá mạnh ở Palettin và Xiri, nơi xuất phát là sông Giođan và các nguồn của nó ở phía bắc. Có nhiều ảnh hưởng đã gây nên phong trào đó. Phong trào bành trướng hơn 400 năm, từ 150 trước Chúa Giêsu đến khoãng năm 300 sau Chúa Giêsu, chia ra nhiều môn phái “thanh tẩy” (x. J. Thomas. Le mouvement baptiste en Palesine et Syrie).

 

Một vài nghi lễ dưới thời Gioan cũng na ná như phép rửa của ông. các người biệt phái đã lập thói quen thanh tẩy thường nhật: luật thứ sáu trong sách Mishna, chia thành khái luận, có bàn đến những tập tục thanh tẩy này. Những người tân tòng muốn gia nhập Do thái giáo phải tắm là chuyện bình thường (ngày nay vẫn còn trong đạo Do thái chính thống) được xem như là phần bổ túc cắt bì (x. R.E.O White, The Biblical Doctrine of Initoation, Londres, 1960, tr. 56-72; G.R.Beaslay Murray, Baptism in the New Testatement, Londres, 1962, tr. 18-31). Mới đây những nghi thức thanh tẩy của môn phái Cumran được sửa lại gần giống như phép rửa của Gioan. Những cuộc khai quật trong ngành khảo cổ đã cho thấy có nhiều giếng ở Cumrân, ít nhất là hai trong số đó được dùng cho nghi thức thanh tẩy. Các bản văn nói về vấn đề này đều có trong qui luật của Cộng đoàn. Chẳng rõ ràng gì: chắc chắn có một lời thề long trọng biểu thị việc gia nhập vào cộng đoàn, nhưng người ta không biết chắc chắn có việc tắm rửa đặc biệt bổ túc cho nghi thức gia nhập hay không. Về sau thì việc tắm rửa có nghi thức này được làm lại mỗi ngày. Người ta kết luận là việc thanh tẩy của Gioan không trực tiếp mượn nghi thức của Cumrân, hai nghi thức này có lẽ là hai cách diễn tả song song với nhau của cùng một phong trào rộng lớn (về liên quan giữa nghi thức áp dụng tại Qumân và phép rửa của Gioan, x.J.A. T.Robinson, The Baptism of John and the Qumân Community, Havard Theo. Rev. 50 (1957), 175-191; G.R.Beaslay- Murray, Baptism in the N.T. 11-18).

 

Đâu là những nét phân biệt phép rửa của Gioan với các nghi thức tương tự áp dụng trong thời đại ông? Mặc dù đã nghiên cứu tìm tòi, người ta vẫn không biết được nguồn gốc chính xác phép rửa của Gioan; không thể nào xác định cho đúng môi trường trực tiếp mà Gioan đã mượn nghi thức này. Dù phép rửa của Gioan được ban cho người đã từng quen với loại nghi thức này, chúng ta vẫn phải giả thiết là nghi thức của ông có một yếu tố thật độc đáo, vì dân chúng kinh ngạc.

 

Trong các nghi thức thanh tẩy của người biệt phái và người Esséniens, thì chính đương sự tự làm lấy nghi thức, trái lại Gioan thanh tẩy cho ai thú nhận tội lỗi mình. Những nghi thức thanh tẩy cũng như các việc tắm rửa các môn phái trên được làm lại mỗi ngày, trong lúc phép rửa của Gioan hình như chỉ một lần thôi, hoặc ít ra là đã ghi dấu một biến chuyển quan trọng trong đời sống của một người. Trên điểm này thì phép rửa của các người mới tòng giáo có thể so sánh với phép rửa của Gioan. nhưng khác với phép rửa của các người mới tòng giáo, phép rửa của Gioan được ban cho những người Do thái, sự kiện này nói lên một xác quyết quan trọng là: hệ thống luật lệ của Do thái giáo, dưới cái nhìn của Gioan, không thể nào cứu rỗi con người khỏi tội lỗi. Các nghi thức khác chú trọng ít nhiều đến cử chỉ bên ngoài, còn Gioan thì nhấn mạnh đến tâm tình thống hối mà phép rửa chỉ là dấu chỉ ngoại diện mà thôi. Sự nội tâm hóa các việc đạo đức chuẩn bị cho những lời huấn dụ của Chúa Giêsu. Được tuyên bố hoặc tỏ ra thanh sạch chưa đủ, cần phải thanh sạch bên trong nữa. Sau hết, phép rửa của Gioan khác biệt bởi đặc tính cánh chung và thiên sai. Phép rửa đó tạo nên việc sám hối sinh ơn thanh tẩy cho dân, mà các tiên tri đã báo trước để chuẩn bị cho thời cứu độ (Is 1,16; Ez 36,25; Zac 13,1…)

 

Làm thế nào để so sánh phép rửa của Gioan và phép rửa của Chúa Giêsu? Chính Gioan đã nói là ông rửa “trong nước”, còn Đức Kitô sẽ rửa “trong Thánh Thần” (Mc 3,12;Lc 3,16; Ga 1,31-33). Phép rửa của Gioan tự nó thông ban đời sống mới.

 

Hiệu quả phép rửa của Gioan (để thanh tẩy dân chúng khỏi tội lỗi) hình như được đặt vào giữa tâm tình thống hối thuần túy bên trong và nghi thức Kitô giáo phát sinh hiệu quả mà nghi thức đã biểu thị. Nghi thức của Gioan xem ra dính liền với hành động tượng trưng, đặc thù của thời tiên tri (1V 22,11; Is 20,2; Gr 19,10; 28,10; Ez 4,3). Không phải là một tâm tình suông nhưng là một tâm tình được thể hiện bằng một hành vi tượng trưng.

 

KẾT LUẬN

Đó là hoạt động của vị Tiền hô được lồng vào trong khung cảnh lịch sử. Thời gian hoạt động của ông không còn được căn cứ vào triều đại của một vị vua Giuda hay Israel như các tiên tri xưa nữa (x.Is 1,1; Gr 1,2; Ez 1,2; Am 1,1; Mi 1,1; So 1,1) nhưng căn cứ vào triều đại của vị chúa tể hoàn cầu là César. Sự kiện này nói lên tính cách phổ quát của Tin mừng được Gioan loan báo.

 

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

  1. Giống như ơn gọi của Gioan tẩy giả, ơn gọi chúng ta cũng gắn liền chúng ta với thời đại hiện tại. Chúng ta không phải là những con người của thời xa xưa hay tương lai. Phải sống trong ngày hôm nay của Thiên Chúa (Dt 4,7) là thời gian duy nhất thuận lợi cho việc phát triển con người Kitô hữu chúng ta (2Cr 6,2). Như Gioan tẩy giả, Chúa muốn chúng ta sống trong một khung cảnh cụ thể từ đó chúng ta xuất phát. Khung cảnh này là giòng giống, gia đình, xứ sở, khí hậu… sẽ chi phối thái độ và cuộc sống của ta. Gioan là con người của sa mạc, con người thời Tibère César, chúng ta là những con người của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam của thế kỷ 20. Chúa quan phòng đã muốn như vậy. Và cách thế duy nhất giúp chúng ta đáp ứng ơn gọi cách trung tín như Gioan tẩy giả là cương quyết chấp nhận thời đại và môi trường chúng ta để biến thành nơi phục vụ lời Chúa và là nơi hành động với tư cách là Kitô hữu, theo chân Chúa Giêsu.

 

  1. Vào thời đại Gioan, các vị hoàng đế và vương hầu, các tổng trấn và quận vương, cũng như các chính khách của mọi thời đại, đều tưởng rằng họ là những người thực hiện những biến cố quan trọng nhất của lịch sử. Tuy nhiên, ngày nay người ta chỉ nhắc tới họ chỉ vì họ có chút liên hệ với một vị tiên tri không tên tuổi của đế quốc La mã: vị tiên tri đó là Gioan tẩy giả, người đã loan báo trong sa mạc vương quốc sắp đến của Thiên sai. Nhìn về phía Thiên Chúa, thì không phải những cuộc chinh phục vĩ đại của đế quốc La mã hay những ân mưu của Herôđê là quan trọng. Nhưng đúng hơn là Lời Chúa xảy đến cho Gioan, con của Giacaria. Trong phạm vi tâm linh là phạm vi duy nhất mang tính cách quyết định cho cuộc sống con người, những cái vỏ uy quyền và vinh quang bên ngoài không có giá trị gì. Vì Thiên Chúa thực hiện những ý định lớn lao của người về thế gian. Đời sống của ta cũng thế: bất chấp khả năng chính trị, kinh tế hay văn hóa của chúng ta, Thiên Chúa cũng có thể dùng chúng ta để thay đổi bộ mặt thế giới, nếu chúng ta biết lắng nghe tiếng gọi của Ngài mà trở về với Ngài mỗi ngày.

 

  1. Trong sa mạc của cuộc sống chúng ta (nỗi cô đơn của tâm hồn có thể làm cho nhiều người can đảm nhất phải nản lòng). Lời Chúa vang dội trong chúng ta qua lời rao giảng khi chúng ta được mời gọi đến tham dự ngày lễ Chúa nhật với các anh chị em tín hữu khác để tôn thờ Chúa Cha, nhờ lễ vật của Chúa Giêsu Con Ngài. Lúc đó, qua cộng đoàn giáo xứ, chúng ta sẽ gặp gỡ tất cả mọi tín hữu trên hoàn cầu là những người đồng thời với chúng ta, dù họ thuộc dân tộc, chính thể và nghi lễ nào. Tất cả đều được hưởng ơn tha thứ tội lỗi. Nếu biết chạy đến bí tích cáo giải với một tâm hồn thống hối thành thật. Như thế chúng ta mới chuẩn bị chu đáo việc gặp gỡ Đấng Cứu Thế trong hiến tế. Tạ ơn nơi bàn thánh và lời cầu nguyện chúng ta mới có hiệu quả hơn, trong ý hướng hiệp nhất và truyền giáo, cho mọi người biết nhìn nhận Chúa Giêsu Kitô và lãnh nhận nơi Ngài ơn Cứu độ.

 

  1. Hãy dọn đường cho Chúa trong tâm hồn ta: “Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến” (Kh 22,20). Hãy sửa lại cho thẳng những lối đi quanh co đầy sở thích trái chướng, hãy làm cho ý hướng và hành vi trong đời sống chúng ta được ngay thẳng; hãy kiên trì trong đường lối ngay chính của việc bổn phận, không cực đoan hoặc “xét lại”. Hãy lấp đầy hố thẳm của của tâm hồn. Nếu trống rỗng lòng quảng đại và lý tưởng Kitô giáo. Hãy bạt xuống các đồi núi của tính kiêu căng, hãy san bằng các chỗ gồ ghề trong tính tình và hãy chấm dứt chia rẽ.

 

  1. Thiên Chúa muốn mọi người được cứu rỗi (1Tm 2,4). Nhưng biết bao người chưa ý thức, cảm nghiệm hồng ân của mạc khải Kitô giáo và chưa thấy được vinh quang của Chúa trong giáo hội của Ngài mà vị tiên tri Isaia đã loan báo. Hãy nghĩ đến đông đảo dân chúng ngoài kitô giáo (Rm 11,25-27). Hãy cầu nguyện cho họ trong mùa vọng này và kêu xin Chúa ban nhiều ơn gọi truyền giáo, để ánh sáng phúc âm tỏa lan hết mọi người (Rm 10,14-18). Hãy trở nên các nhà truyền giáo theo gương vị tiền hô bằng cách này hay cách khác, ít nữa bằng lời kinh và bằng việc trung thành chu toàn sứ mạng riêng biệt của mỗi người ở bất cứ nơi nào mà Chúa quan phòng cho ta sống.

 

76.        Chúa nhật 2 Mùa Vọng

(Suy niệm của Lm. GB. Phạm Hồng Thái)

 

Tiên tri Isaia, Thánh Gioan Tẩy giả và Đức Mẹ Maria là 3 mẫu gương của Mùa Vọng như lời kinh Tiền tụng: “Người là Đấng các tiên tri loan báo, Đức Mẹ đồng trinh đã cưu mang với tình yêu khôn tả, thánh Gioan đã loan tin sắp đến và đã chỉ cho thấy khi Người xuất hiện”. Chúa Nhật II này được coi như Chúa Nhật của thánh Gioan. Vậy ông Gioan Tẩy Giả đã là Mẫu gương của Mùa Vọng như thế nào?

 

Cả đời sống của ngài đều nên như mẫu gương Mùa Vọng. Ngay từ hồi còn thanh xuân, Gioan đã vào tu trong rừng vắng. Rừng vắng, hoang địa là nơi thuận tiện để người tu hành thanh luyện tâm hồn chuẩn bị cho sứ mạng sắp tới. Chính Chúa Giêsu trước khi ra rao giảng Tin Mừng đã ăn chay cầu nguyện 40 đêm ngày trong hoang địa vắng vẻ. Ông có nếp sống khổ hạnh về thức ăn cũng như về y phục. Thức ăn của ông là sản phẩm của rừng núi: Châu chấu và mật ong. Y phục của ông là áo lông lạc đà, thắt lưng là giây da thú, chắc chắn là giây da này không có qua thợ thuộc da như thắt lưng của chúng ta. Trang phục của ông có nét giống y phục của tiên tri Elia. Vì thế chính tinh thần và y phục của ông gợi nhớ tới tiên tri Elia, nên Chúa Giêsu cho biết là tiên tri Elia mà đân Do thái mong đợi sẽ trở lại trước ngày Đấng Cứu thế đến chính là ông Gioan Tẩy giả  mà người Do thái đang được chứng kiến.

 

Thế rồi Lời Chúa thúc dục ông xuất hiện rao giảng dọn đường cho Đấng Cứu thế. Ông vâng lời Chúa ngay như lời  Tin Mừng Luca hôm nay: “Ông liền đi khắp miền sông Giođan rao giảng phép rửa sám hối cầu ơn tha tội” Việc làm của ông là Rao giảng: kêu gọi người ta ăn năn sám hối và làm Phép Rửa để dọn đường cho Chúa đến.

Lời rao giảng của ông được dân chúng đón nhận vì nó xuất phát từ con tim và từ nếp sống thánh thiện hi sinh hãm mình của ông. Rồi để thúc dục dân sám hối cầu ơn tha tội, ông còn đưa họ xuống dòng sông Giođan và làm phép rửa cho họ. Phép Rửa của ông tuy không đem lại ơn tha tội như Phép Rửa Chúa Giêsu lập, nó chỉ giúp gia tăng lòng sám hối thôi! Chính ông cũng nói tiên tri về phép Rửa Chúa Giêsu lập trổi vượt hơn phép Rửa của ông bằng lời như sau: “Ngài sẽ Rửa các ngươi trong Chúa Thánh Thần và lửa (Mt 3,11)” Tuy thế phép Rửa của ông Gioan ở thời điểm này rất đắt khách, người ta phải đến xếp hàng chờ tới lượt để được ông rửa cho. Chính Chúa Giêsu cũng tới xin ông Rửa cho nữa.

 

Ông Gioan kêu gọi: “Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu, hãy bạt mọi núi đồi, con đường gồ ghề hãy san  cho bằng” Ngày nay khi mở các con đường cho xe cộ chạy, nhất là cao tốc thì người ta cũng phải làm như vậy. Nhưng con đường đây phải là con đường nơi tâm hồn mọi người.      

 

Thánh Gioan chính là kĩ sư tâm hồn muốn xây dựng con đường tâm hồn tốt đẹp bằng phẳng cho Chúa đến vì thế khi mọi thành phần dân chúng và giới lãnh đạo tới đặt câu hỏi: “Chúng tôi phải làm gì? Ông Gioan đã không ngần ngại hướng dẫn họ phải làm thế nào để sống phù hợp với đức công chính và tinh thần bác ái chia sẻ. Ông cho biết sự phán xét của Thiên Chúa đã gần kề nên ông so sánh như cái rìu đã để sẵn ở gốc cây, cây nào không sinh trái sẽ bị đốn đi và quăng vào lửa (Lc 3,9)

 

Ngày nay thánh Gioan muốn nói gì với chúng ta?

Trước hết là việc ăn năn thống hối tuy cũ mà vẫn là mới vì là việc chúng ta cần làm trong thời điểm này. Chúa Giêsu kêu gọi chúng ta : “Thời kì đã mãn, Nước Thiên Chúa đã gần đến. Anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng (Mc 1,15)” Mẹ Fatima cũng kêu gọi hãy cải thiện đời sống và cầu nguyện cho kẻ có tội dược ăn năn trở lại. Tôi có đọc được một vài lời của Đức Mẹ nói với các thị nhân ở Mễ Du  –  thị nhân Vicka ghi lại lời Đức Mẹ: “Bao lâu còn sống trên trần gian người ta còn có thể trở lại với Thiên Chúa mọi giờ mọi phút bằng cách ăn năn sám hối” – Với Jakov, thì Đức Mẹ nói: “Phương thế để ăn năn sám hối là dành thời giờ cầu nguyện”.

 

Câu chuyện: Em An là một học sinh tiểu học sống trong lưu xá học sinh. Em là người công giáo nhưng các bạn em đa số là người lương. Đến bữa ăn, em làm dấu Thánh giá  và đọc kinh Lạy Cha trước khi ăn. Bạn em tới bá cáo thầy: “thưa Thầy, bạn An đọc thần chú trước khi ăn.” Thầy giáo hỏi An thì em thưa: Em chỉ cám ơn Chúa ban cho em của ăn thôi! Thầy giáo khen em can đảm. Thầy cho biết Thầy cũng là người công giáo nhưng thầy chỉ làm dấu thánh giá khi ở một mình và thầy nói từ nay thầy sẽ cố gắng theo gương sáng của em.

 

Đích điểm của đời sống chúng ta như Tin mừng Luca hôm nay cho biết: “Và mọi người sẽ thấy Ơn Cứu độ của Thiên Chúa” Chúng ta nguyện sống Mùa Vọng này như thánh Gioan Tẩy giả gợi mở cho chúng ta để không những chúng ta được thấy mà còn đạt được ơn Cứu độ Thiên Chúa ban tặng cho chúng ta. Amen.

 

77.        Chúa Nhật 2 Mùa Vọng

(Suy niệm của Jaime L. Waters)

 

CẦU NGUYỆN VÀ HOẠT ĐỘNG THĂNG TIẾN CÔNG BÌNH

 

Bài đọc một trích sách ngôn sứ Barúc dựa trên các chủ đề mà chúng ta đã gặp trong các tuần vừa qua, điển hình là nhấn mạnh đến vẻ huy hoàng của Thiên Chúa. Sự uy nghi của Thiên Chúa được khẳng định qua hình ảnh vương quyền cũng như vẻ oai nghiêm của Ngài được nối kết rõ ràng với sự công bình khi Thiên Chúa khoác lên mình một “chiếc áo công lý”.

 

Bài đọc hai trích Thư gửi tín hữu Philípphê dựa trên ý tưởng về công bình nơi bài đọc thứ nhất. Thánh Phaolô đã cầu nguyện cho cộng đoàn trở nên cộng sự viên với Thiên Chúa, Đấng tạo nên một xã hội công bình bằng cách đón nhận và sống sứ điệp yêu thương theo Tin mừng.  Thánh Phaolô lưu ý những hành động giúp củng cố mối tương quan với Thiên Chúa, khi cầu nguyện cho tín hữu Philípphê thêm tình yêu thương, hiểu biết, nhận thức và sự sáng suốt “để anh em được nên trong sạch và không bị chê trách”. Những thực hành này là nền tảng để nuôi dưỡng tương quan tốt đẹp giữa cộng đoàn với Thiên Chúa và với nhau.

 

Trong suốt Mùa Vọng, chúng ta nên thành tâm cố gắng cải thiện, lớn lên về mặt tinh thần và thiêng liêng cũng như giúp xây dựng một xã hội công bằng. Có lẽ việc gia tăng phục vụ, đọc một cuốn sách mới, học thêm một kỹ năng hoặc dành thời gian để phân định tâm linh là những cách thức có thể làm để thực hiện một vài nguyên tắc nổi bật trong bài đọc hai. Hơn nữa, chúng ta không nên bỏ qua tầm quan trọng của công bình. Trong suốt Mùa Vọng (và cả năm), chúng ta phải luôn nhận thức về nhiều bất công đang hoành hành trên thế giới cũng như tìm cách giải quyết và giảm bớt đau khổ. Ngôn ngữ về sự cộng tác của thánh Phaolô sẽ khuyến khích chúng ta tham gia vào việc giúp kiến tạo một xã hội công bằng, không chỉ đơn giản là cầu nguyện cho sự công bình của Thiên Chúa có hiệu quả mà còn hoạt động để thăng tiến công bình.

 

Trong bài Tin mừng theo thánh Luca, chúng ta nghe kể về thánh Gioan Tẩy Giả và sứ vụ rao giảng chuẩn bị mọi người chờ đón sự xuất hiện của Đấng Mêsia. Việc chuẩn bị của thánh Gioan không chỉ đơn giản là loan báo sự xuất hiện của Đấng Mêsia, mà còn giúp mọi người sống công bình, vang vọng nền công lý được nhấn mạnh nơi các bài đọc khác. Sứ vụ của Gioan nhấn mạnh việc sám hối và sự tha thứ tội lỗi. Khởi đầu năm phụng vụ mới cũng như cuối năm dương lịch là thời điểm thích hợp để suy ngẫm, nhìn lại những thiếu sót của bản thân và sửa đổi những việc làm sai trái.

 

Giữa tất cả sự chuẩn bị này, yếu tố niềm vui tràn ngập các bài đọc của Chúa nhật này cũng như trong Mùa Vọng. Chủ đề niềm vui hiện diện nơi bài đọc một vì mọi người được hướng dẫn để tìm được niềm vui nơi Thiên Chúa. Thánh vịnh đáp ca nhấn mạnh niềm hân hoan vì Thiên Chúa hiện diện sống động khắp toàn thế giới. Chúng ta cũng nhận ra niềm vui nơi bài đọc hai, khi thánh Phaolô vui mừng cầu nguyện cho anh em tín hữu thành Philípphê. Ngôn ngữ hân hoan này hướng đến Chúa nhật Gaudete (Vui mừng) sẽ được cử hành vào tuần tới. Đó là một điểm quan trọng mà chúng ta nên chú ý trong Mùa Vọng. Mặc dù nhiều bài đọc trong mùa này mang tính thúc giục, mong chờ và tỉnh thức cao độ, nhưng nó cũng thôi thúc chúng ta nên vui mừng và hân hoan.

 

78.        Chúa Nhật 2 Mùa Vọng

 

CHUẨN BỊ ĐÓN MỪNG CHÚA ĐẾN.

 

Nếu bây giờ đi thăm một thành phố lớn, chúng ta sẽ thấy những gian hàng thật lộng lẫy, những cây thông, những ông già Noel và những ánh đèn màu nhấp nháy. Nếu hỏi tại sao, lập tức chúng ta sẽ ghi nhận được câu trả lời: “Lễ Giáng sinh đã gần tới”.

 

Lễ Giáng sinh đối với nhiều người là một dịp để mua sắm, để tặng quà và để ăn nhậu. Họ tích cực chuẩn bị cho ngày lễ lới, nhưng chỉ là những sự chuẩn bị bên ngoài và mang tính cách phù phiếm. Đối với chúng ta thì khác. Lễ Giáng sinh là ngày chúng ta mừng kính biến cố trọng đại nhất của lịch sử: biến cố con Thiên Chúa xuống thế làm người để cứu chuộc chúng ta, Ngài sinh ra trong yếu đuối như một hài nhi bé bỏng, Ngài sinh ra trong nghèo túng nơi máng cỏ Bêlem.

 

Là một biến cố trọng đại nhất của lịch sử nhân loại, nên chúng ta không thể không chuẩn bị. Nhưng việc chuẩn bị cần thiết và quan trọng nhất chính là việc chuẩn bị cõi lòng của mình: Hãy gột rửa tâm tư, hãy thanh tẩy con tim. Thế nhưng, nhiều khi chúng ta lại quên lãng sự cần thiết và quan trọng ấy.

 

Chúng ta chống lại khuynh hướng tục hóa những sự kiện linh thiêng. Sự tục hóa này mỗi ngày một lan rộng trong thế giới hôm nay, nhưng lại chạy theo thời trang, về phe với đám đông để không còn nhận ra sự thật. Chúng ta hô hào trở về nguồn, nhưng lại không hiều trờ về nguồn là như thế nào. Đoạn Tin mừng hôm nay trình bày cho chúng ta thấy khuôn mặt của Gioan Tiền hô. Ông vào sa mạc để sống cảnh nghèo túng và khắc khổ: ăn châu chấu với mật ong rừng. Trong chốn hoang vu ấy, ông đã chuẩn bị tâm hồn để đón nhận Đấng Cứu Thế. Lời ông nói thật thẳng thắn và cứng rắn, không đưa đẩy theo kiểu ngoại giao: Hỡi nòi rắn độc, ai sẽ cứu các ngươi khỏi cơn thịnh nộ sắp tới. Hãy đâm bông kết trái theo như lòng thống hối. Cái rìu đã đặt dưới gốc cây. Cây nào không sinh trái tốt, sẽ bị chặt và quăng vào lửa.

 

Dân chúng ta thắc mắc về những lời cảnh cáo ấy:

  • Vậy chúng tôi phải làm gì?

Và Gioan đã không ngần ngại trả lời:

  • Ai có hai áo, hãy chia sẻ cho người không có. Ai có của ăn cũng hãy làm như thế.

Với bọn biệt phái và lính tráng, ông đòi hỏi nơi họ sự thành thật và công bằng. Ông lặp lại lời tiên tri Isaia:

  • Hãy dọn đường Chúa đến, quanh co uốn cho ngay, gồ ghề san cho phẳng, hố sâu lấp cho đầy và nơi cao phải bạt xuống.

 

Để ngày Chúa đến đem lại niềm vui mừng và hy vọng, mỗi người chúng ta phải chuẩn bị tâm hồn, cụ thể là hãy ăn năn sám hối, chạy đến nơi tòa cáo giải và xưng thú mọi tội lỗi để được ơn tha thứ.

 

Nếu chúng ta khô khan nguội lãnh, hãy xin Chúa giúp chúng ta cảm nghiệm được tình thương Chúa đã dành cho chúng ta qua màu nhiệm Giáng sinh, để rồi chúng ta cũng sẽ quì gối thờ lạy Hài nhi Giêsu nơi máng cỏ Bêlem như mẹ Maria và thánh Giuse, như các mục đồng và ba nhà đạo sĩ phương đông. Nếu đầu óc chúng ta còn chất chứa nhiều hận thù, thiên kiến và bè phái, hãy xin Chúa giúp chúng ta biết yêu thương và trở nên anh em của tất cả mọi người. Nếu chúng ta còn nóng nảy, tức tối và giận hờn, hãy xin Chúa giúp chúng ta trở nên hiền dịu và khiên nhường, như chính Chúa đã xác quyết: “Các con hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường”.

 

Rồi trong những sắm sửa cho ngày lễ Giáng sinh, hãy nghĩ đến những người nghèo khổ, bằng cách dành một ngân khoản nào đó để làm phúc bố thí và giúp đỡ họ, bởi vì Đức Kitô đang ở trong họ, như lời Ngài đã phán: “Sự gì các con làm cho một kẻ bé mọn nhất là các con đã làm cho chính Ta vậy”.

 

Có chuẩn bị như vậy, thì ngày lễ Giáng sinh mới đem lại cho chúng ta niềm an bình và hanh phúc. Niềm an bình và hạnh phúc ấy các thiên thần đã hát vang trên cánh đồng Bêlem:

Vinh danh Thiên Chúa trên trời,

Bình an dưới thế cho người thiện tâm

 

79.        Lời mời gọi

 

Đôi khi chúng ta thinh lặng, trong lúc lẽ ra phải nói, vì chúng ta cho là tôn trọng kẻ khác, không muốn làm cho họ tổn thương và tức giận. Ta hãy nhìn nhận điều này: Ngày nay thật là hiếm hoi những tiếng nói mạnh mẽ, dứt khoát, thúc bách và có uy tín kêu gọi vươn lên; và không những vươn lên mà còn hoán cải nữa.

 

Ta hiểu rằng bản thân chúng ta có những lý do chính đáng để đừng lên tiếng lớn quá và không trách móc kẻ khác trước khi xem xét đến bản thân mình. Nhưng không được nên ngăn cản Thiên Chúa lên tiếng. Vậy ta hãy lắng nghe Gioan tẩy giả nói nhân danh Ngài và ta hãy tự nhủ rằng những lời của ông nói với mỗi người chúng ta, trước khi nói với những người lân cận ta. Hãy để những người lân cận ta lo công việc họ, còn ta hãy lo công việc mình.

 

“Hãy dọn đường cho Chúa, hãy san bằng lối đi của Ngài. Hãy hoán cải, hãy vứt đi những gì làm chậm bước tiến của bạn hướng về Chúa. Nếu bạn đã lầm đường, thì hãy trở lui và đi vào con đường đưa tới cõi sống”. Đó là những tiếng kêu của Gioan tẩy giả, những tiếng kêu của chính Thiên Chúa. Ta đừng hiểu chúng như những lời kết án nhưng như những lời mời gọi lớn lên. Ta đừng nghĩ rằng những tiếng gọi này được ngỏ với chúng ta để khiến chúng ta u buồn; nhưng chính là để chúng ta được vui mừng mà vị ngôn sứ đã lên tiếng.

 

Chúng ta đừng để cho mình bị lừa dối. Ta đừng tưởng rằng, bất chấp những gì người ta nói, ta vẫn có thể lớn lên mà không cần cố gắng, ta có thể đạt được những đỉnh cao mà không phải hụt hơi, ta có thể tự chủ và thực hiện những điều lớn lao mà không trầy da tróc vẩy.

 

Muốn đến với Thiên Chúa, bao giờ cũng phải đấu tranh, hoán cải, liên lỉ tự điều chỉnh và dứt khoát nhắm vào điều chính yếu, không để cho mình bị sao lãng bởi những gì không có giá trị và giả dối.

 

Thánh Phaolô viết cho giáo đoàn Philipphê: “Tôi xin anh em hãy nhận định những gì là quan trọng nhất”. Lời khuyên này thật chí lý vào thời đại ấy, và có lẽ còn thích hợp hơn nữa cho ngày hôm nay khi chúng ta rất thường xuyên và rất dễ dàng bỏ qua những gì thật sự quan trọng và quá chú trọng đến những gì ít hoặc không quan trọng chút nào cả.

 

Điều quan trọng là hướng về Thiên Chúa, là vì Ngài mà can đảm xua đuổi sự dữ và thi hành điều thiện. Điều quan trọng là dành cho tiền bạc, các thú vui dễ dàng và gây thất vọng, quyền bính và những thứ phô trương bên ngoài vị trí thích hợp cho chúng: vị trí phụ thuộc hoặc rốt hết, hoặc không có chỗ nào hết: “Hãy san bằng… hãy chỉnh đốn… hãy hoán cải…” không phải dễ đâu! Ta có lý mà lặp lại rằng: Đáp “xin vâng” trước những tiếng gọi của Chúa thật là cam go. Nhưng ta cũng phải nhắc đi nhắc lại rằng lời xin vâng này là nguồn mạch phát sinh niềm vui. Tôi rất thích câu kết thúc đoạn sách Ngôn sứ Baruc mà chúng ta vừa nghe: “Thiên Chúa sẽ dẫn đưa Israel đi trong niềm vui, dưới ánh sáng vinh quang của Ngài”.

 

Việc bước đi hướng về Chúa dù có lúc khó khăn, thậm chí đau khổ nữa, nhưng đó là một cuộc mạo hiểm vui tươi. Làm sao có thể khác được! Thiên Chúa, Đấng kêu gọi chúng ta là Thiên Chúa của niềm vui. Thiên Chúa Đấng đang đến với chúng ta, là Chúa của niềm hoan lạc. Thiên Chúa, Đấng mà chúng ta gặp được sau những cuộc hoán cải lớn nhỏ của chúng ta, là Thiên Chúa của niềm vui. Vậy khi để cho Ngài lôi cuốn, khi tìm cách đến với Ngài và chuẩn bị đón tiếp Ngài, ta chỉ có thể bước đi trong niềm vui mà thôi.

Niềm vui được lớn lên, niềm vui được thoát khỏi sự dữ, niềm vui được chiến thắng sự tầm thường, niềm vui được mỗi ngày trở nên con cái xứng đáng hơn của Chúa Cha, niềm vui được yêu mến đến nỗi chịu đau khổ như Chúa Giêsu, Đấng đang đến với chúng ta, đã dạy cho chúng ta.

 

Người ta thường nói mùa vọng là một mùa sám hối. Đúng vậy, nhưng với điều kiện là ta đừng quên rằng nó cũng là, và đặc biệt là một thời gian của niềm vui. Làm sao không vui khi chúng ta được tiếng gọi của Chúa lôi cuốn?

 

80.        Tiếng kêu

 

Một khuôn mặt quen thuộc của Mùa vọng đó là khuôn mặt của thánh Gioan tiền hô. Thánh Luca trong bài Tin mừng hôm nay đã viết: “Có tiếng người kêu trong hoang địa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng”.

 

Tiếng người kêu trong hoang địa ấy là của thánh Gioan tiền hô. Và con đường mà Người nhắc tới không phải là một con đường trong không gian, nhưng là con đường nội tâm của mỗi người. Sửa con đường nội tâm là thay đổi cõi lòng, thay đổi cuộc sống để xứng đáng đón tiếp Con Thiên Chúa làm người. Sửa đường cho Chúa đến là điều cần thiết và hợp lý. Bởi khi đón tiếp một vị khách quí, người ta thường sửa sang đường sá, quét dọn những nơi vị khách sẽ đi qua, trang trí đẹp đẽ tại những nơi vị khách sẽ đến. Làm như thế là biểu lộ lòng kính trọng đối với vị khách.

 

Thiên Chúa là một vị khách cao cả không ai sánh bằng. Người đã hạ cố đến thăm và ở lại sống với những thần dân thấp hèn của Người. Vậy mà Người chẳng được đón tiếp như Người đáng được. Thánh Gioan thánh sử đã viết: “Người đã đến nhà Người, nhưng người nhà đã không chịu đón tiếp Người”. Vì thế mà lời kêu gọi của thánh Gioan tiền hô trở thành một tiếng kêu trong sa mạc. Tiếng kêu trong sa mạc là tiếng kêu không có người nghe, là tiếng kêu vang vọng vào không trung rồi bay đi, bởi sa mạc là nơi hoang vắng, nơi không có người để tiếp nhận tiếng kêu.

 

Không phải chỉ dân Do thái ngày xưa không chịu đón tiếp Con Thiên Chúa làm người. Con người thời đại hôm nay cũng thế. Trong thời đại hôm nay, Lời Chúa đã được Hội thánh loan báo không phải ở trong sa mạc nhưng ở nơi đô hội, ở chốn đông người, vậy mà lời loan báo ấy cũng không khác gì tiếng kêu trong sa mạc. Có nhiều thứ sa mạc ở nơi chính cõi lòng con người hôm nay:

  • Sa mạc của sự lãnh đạm, thờ ơ. Rất nhiều người đã sống như thể không có Chúa và không cần Chúa. Đối với những người này thì sống như vậy sẽ thoải mái hơn nhiều, bởi họ có thể tự do làm mọi sự theo ý mình, theo sự thúc đẩy của bản năng mà không có gì khuấy động lương tâm làm họ phải day dứt cả. Tin Chúa chỉ bận lòng thêm thôi.
  • Sa mạc của sự vô cảm về mặt tâm linh và luân lý. Đối với nhiều người, Thiên Chúa của họ là cái bụng, là tiền bạc, là danh vọng, là lạc thú xác thịt. Bận tâm duy nhất của họ là làm sao kiếm cho thật nhiều tiền bằng bất cứ cách nào. Và khi đã có tiền trong tay thì họ tìm cách để hưởng thụ. Hưởng thụ trong vấn đề ăn uống. Hưởng thụ trong vấn đề nhục dục… Ngoài ra không còn gì nữa cả. Không còn niềm tin, không còn luân thường đạo lý, không còn lương thiện, không còn đạo đức, không còn nhân phẩm, không còn nhân ái, không còn vị tha, không còn công bình, không còn trung tín…

 

Chính vì vậy mà Lời Chúa vẫn mãi mãi chỉ là những tiếng kêu trong sa mạc. Chính vì thế mà giữa Thiên Chúa và con người không có đường để đi đến với nhau. Mà nếu có thì cũng chỉ là những con đường đầy thung lũng, đầy vực thẳm, đầy núi cao không thể vượt qua được.

 

  • Điều cần suy nghĩ và tự vấn lương tâm là: ta có mặt trong số những người sống như trên không?
  • Thiên Chúa đang ân cần kêu gọi ta trong từng khoảnh khắc của cuộc sống. Chúng ta có nghe thấy tiếng Người hay không?

 

81.        Tiếng động tĩnh lặng

(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)

 

Trước đây, khi làng xã có điều gì cần thông báo thì có mõ làng cầm loa đi khắp nơi để thông báo. Thời nay, xã hội văn minh hơn, người ta gọi là văn hóa thông tin, và phương tiện thông báo cũng tiện lợi và mau hơn nhiều.

 

Thuở “giao thời”, chuyển tiếp từ Cựu ước sang Tân ước, ngôn sứ Gioan Tẩy Giả được Thiên Chúa trao cho công việc “mõ làng” để kêu gọi người ta canh tân và chờ đón Đấng Thiên Sai. Ông có nickname là “Tiếng Kêu Trong Hoang Địa”. Tiếng kêu trong hoang địa thì hiệu quả gì chứ? Đó là dạng tiếng vang thầm lặng. Vang mà thầm lặng ư? Đúng vậy. Và tiếng kêu đó đã và đang vang đến tận cùng trái đất.

 

Ngôn sứ Ba-rúc kêu gọi: “Hỡi Giêrusalem, hãy cởi bỏ áo tang khổ nhục, và mặc lấy ánh vinh quang vĩnh cửu Thiên Chúa ban cho ngươi; hãy khoác vào mình áo choàng công chính của Thiên Chúa; và đội lên đầu triều thiên vinh quang Đấng Vĩnh Hằng ban tặng. Vì Thiên Chúa sẽ cho khắp cả hoàn cầu thấy hào quang rực rỡ của ngươi” (Br 5:1-3). Được cởi bỏ “áo tang khổ nhục” thì còn gì vui hơn? Không chỉ vậy, chúng ta còn được khoác “áo choàng công chính”. Đúng là trên cả tuyệt vời!

 

“Áo choàng công chính” đó do Thiên Chúa trao ban, và chúng ta còn được Người gọi tên là “Bình An Xây Dựng Trên Công Chính” và “Vinh Quang Phát Xuất Từ Lòng Kính Sợ Thiên Chúa” (Br 5:4). Cái tên “lạ” lắm, nhưng hay và ý nghĩa.

 

Ngôn sứ Ba-rúc tiếp tục kêu gọi một hơi dài: “Vùng lên, Giêrusalem hỡi, hãy đứng ở nơi cao, và hướng nhìn về phía đông: Kìa xem con cái ngươi từ đông sang tây tụ họp về theo lời Đấng Thánh đã truyền dạy. Được Thiên Chúa nhớ đến, chúng hớn hở mừng vui. Xưa chúng bị quân thù áp giải, phải rời ngươi, không xe không ngựa. Nay Thiên Chúa lại đưa chúng trở về với ngươi, chúng được kiệu đi vinh quang rực rỡ, khác chi một ngai vàng. Vì Thiên Chúa đã ra lệnh phải bạt thấp núi cao và gò nổng có tự lâu đời, phải lấp đầy thung lũng cho mặt đất phẳng phiu, để Ít-ra-en tiến bước an toàn dưới ánh vinh quang của Thiên Chúa” (Br 5:5-7). Cũng có những lời tương tự Thánh Gioan Tẩy Giả: Bạt thấp các núi, gò, và lấp đầy thung lũng.

 

Theo lệnh của Thiên Chúa, “rừng xanh và đủ loại quế trầm sẽ toả bóng che rợp Ít-ra-en, vì Thiên Chúa sẽ dẫn Ít-ra-en đi trong hoan lạc, dưới ánh sáng vinh quang của Chúa, cùng với lòng từ bi và sự công chính của Người” (Br 5:8-9). Có Thiên Chúa cứu thoát, kiếp-người-khốn-khổ trở nên hạnh phúc biết bao!

 

Niềm vui sướng tột cùng khiến con người như không dám tin vào thực tế, nhưng là sự thật 100%: “Khi Chúa dẫn tù nhân Sion trở về, ta tưởng mình như giữa giấc mơ” (Tv 126:1). Nhưng rồi vẫn “vang vang ngoài miệng câu cười nói, rộn rã trên môi khúc nhạc mừng” (Tv 126:2a). Đến nỗi dân ngoại phải xì xầm bàn tán: “Việc Chúa làm cho họ, vĩ đại thay!” (Tv 126:2b).

 

Không lạ sao được, không ngạc nhiên sao được, phàm ngữ chẳng đủ lời để mà diễn tả về kỳ công của Thiên Chúa, quá vĩ đại và quá sức con người có thể tưởng tượng! Rồi cũng chỉ biết cười và nói được rằng: “Ta thấy mình chan chứa một niềm vui” (Tv 126:3). Thấy người ta hp quá đỗi nên chúng ta cũng khao khát mà cầu xin: “Lạy Chúa, xin dẫn tù nhân chúng con về, như mưa dẫn nước về suối cạn miền Nam” (Tv 126:4). Quả thật, “ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng” (Tv 126:5), nghĩa là: “Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo; lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng” (Tv 126:6).

 

Cuộc đời là thế. Trong những điều xảy ra, điều hợp ý mình thì mình bảo là “hên”, điều không hợp ý mình thì mình cho là “xui”. Nhưng chính đau khổ là “viên ngọc quý” mà các thánh đã luôn trân quý từng ngày khi còn sinh thời. Hạnh phúc mà không có nước mắt thì hạnh phúc đó chưa thực sự trọn vẹn niềm vui. Đau khổ cũng là những tiếng-động-tĩnh trong mỗi con người chúng ta. Vâng, tiếng động đó rất tĩnh lặng!

 

Thánh Phaolô bày tỏ: “Tôi luôn vui sướng mỗi khi cầu nguyện cho anh em hết thảy, vì từ buổi đầu cho đến nay, anh em đã góp phần vào việc rao giảng Tin Mừng. Tôi tin chắc rằng Đấng đã bắt đầu thực hiện nơi anh em một công việc tốt lành như thế, cũng sẽ đưa công việc đó tới chỗ hoàn thành cho đến ngày Đức Kitô Giêsu quang lâm” (Pl 1:4-6). Mùa Vọng, thánh nhân nhắc nhớ việc chờ Chúa quang lâm là chính chứ không chờ gì khác rồi bối rối, hoang mang, run sợ. Thật chứ không đùa. Thánh Phaolô nói rõ: “Có Thiên Chúa làm chứng cho tôi: tôi hết lòng yêu quý anh em tất cả, với tình thương của Đức Kitô Giêsu. Điều tôi khẩn khoản nài xin, là cho lòng mến của anh em ngày thêm dồi dào, khiến anh em được ơn hiểu biết và tài trực giác siêu nhiên, để nhận ra cái gì là tốt hơn. Tôi cũng xin cho anh em được nên tinh tuyền và không làm gì đáng trách, trong khi chờ đợi ngày Đức Kitô quang lâm” (Pl 1:8-10). Vấn đề là vậy, cần hiểu đúng đắn và chính xác, đừng mơ hồ hoặc nhẹ dạ cả tin, không khéo lại hóa mê tín dị đoan!

 

Rồi thánh nhân kết luận: “Như thế, anh em sẽ đem lại hoa trái dồi dào là sống một đời công chính nhờ Đức Giêsu Kitô, để tôn vinh và ngợi khen Thiên Chúa” (Pl 1:8-11).

 

Thánh sử Luca kể: Năm thứ mười lăm dưới triều hoàng đế Tibêriô, thời Phongxiô Philatô làm tổng trấn miền Giuđê, Hêrôđê làm tiểu vương miền Galilê, người em là Philípphê làm tiểu vương miền Iturê và Trakhônít, Lyxania làm tiểu vương miền Abilên, Khanan và Caipha làm thượng tế, có lời Thiên Chúa phán cùng con ông Dacaria là ông Gioan trong hoang địa. Ông liền đi khắp vùng ven sông Giođan, rao giảng, kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội, như có lời chép trong sách ngôn sứ Isaia rằng: “Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng” (Lc 3:4-5). Một đoạn sử ngắn gọn nhưng súc tích. Chủ yếu là câu 4 và câu 5. Và nếu ai cũng thi hành đúng như vậy, chắc chắn mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa.

 

Khi biết tin hoàng đế hoặc vua quan đi tới đâu thì dân chúng phải quỳ mọp xuống mà rước “thiên tử” đi qua; khi một vị nguyên thủ quốc gia đến, người ta sửa soạn nhiều ngày trước, an ninh được kiểm soát nghiêm ngặt; khi một đại sứ tới một nơi nào đó thì cũng thế; khi giáo hoàng kinh lý một nước nào đó cũng được người ta nghing đón long trọng, một giám mục tới một giáo xứ hoặc một tu viện nào thì cũng được đón tiếp tương tự; thậm chí chỉ là một nghệ sĩ nổi tiếng đi tới đâu cũng được người hâm mộ chờ chực để chỉ mong được nhìn dung mạo “thần tượng”.

 

Tuy nhiên, mệnh danh là Đấng Thiên Sai, nhưng có lẽ chỉ có Chúa Giêsu là chẳng ai thèm để ý chứ đừng nói tiền hô hậu ủng. Ngài đến mà không ai hay biết, Ngài là Tiếng Động cực mạnh thế mà cũng chẳng khác hơn sự Tĩnh Lặng. Thậm chí có Gioan Tẩy Giả hô hào và kêu gọi mà cũng chẳng mấy người quan tâm lưu ý.

Thật vậy, mỗi khi chúng ta rước lễ là chúng ta đón tiếp một Quân vương Tối thượng, Vua Vũ Trụ, Thiên Tử đích thực, thế mà nhiều lần chúng ta vẫn không chuẩn bị tâm hồn cho đúng mức, vẫn rước lễ cho chiếu lệ, như một thói quen, thậm chí còn rước lễ vì… sĩ diện. Chúa buồn lắm, nhưng Ngài không hề nói gì vì Ngài luôn tôn trọng quyền tự do của chúng ta.

 

Với Chúa, chúng ta đã tệ; với tha nhân, chúng ta còn tệ hơn. Phàm nhân thật là yếu đuối, thế nên cứ bạt mãi mà mảnh-đất-tâm-hồn vẫn gồ ghề, lởm chởm, đầy ổ gà và ổ voi, san mãi không phẳng phiu, và con-đường-tâm-hồn vẫn cứ quanh co, không uốn cho thẳng được!

 

Lạy Thiên Chúa, xin mau ban Đấng Thiên Sai đến mà bạt chúng con cho bằng phẳng và uốn chúng con cho thẳng thắn. Chắc chắn thiếu Ngài thì chúng con không thể làm được gì hết (Ga 15:5). Xin cậy nhờ công nghiệp của Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.

 

82.        Hãy dọn đường

 

Năm cùng tháng tận, chúng ta sắp giã từ một năm cũ. Cũng như mọi năm, tôi có cảm tưởng là trước khi lật sang trang sử mới, con người ghi vội vào cuối trang sử cũ một vài nghĩa cử để nói lên thiện chí của mình, cũng như để bày tỏ niềm hy vọng về cuộc sống ấm no hạnh phúc, một cuộc sống được xây dựng trên nền tảng của công lý và hòa bình.

 

Một trong các nghĩa tử ấy là việc phóng thích các người bị giam cầm, như việc trả lại tự do cho các con tin Tây phương bên Trung đông chẳng hạn. Quả tim của con người không khỏi bị giao động khi nhìn thấy trên màn ảnh truyền hình những gương mặt hớn hở hân hoan của những người được trả lại tự do. Hay những nụ cười hòa lẫn nước mắt của họ và của những người thân thương của mình trong những giây phút hội ngộ. Đối với những người bị bắt làm con tin ấy cũng như đối với những ai bị giam cầm ở bất cứ nơi nào dưới hình thức nào đi chăng nữa, thì sự phóng thích mang một ý nghĩa của một kinh nghiệm mãnh liệt về sự tự do. Khung cảnh sống bị giới hạn trong bốn bức tường chật hẹp của nhà giam bây giờ là cả một bầu trời rộng thênh thang, cuộc sống tưởng chừng như bị bóp nghẹt, giờ đây có thể được phát triển với bao dự án, bao hy vọng, bao giấc mơ. Tương lai dường như bị chặn đứng giờ đây lại được tự do tiến tới.

 

Chúa nhật thứ II mùa vọng của phụng vụ năm C cũng có thể gọi được là “Chúa nhật giải phóng”. Với những hình ảnh tràn đầy hân hoan trong bài đọc 1 nơi ngôn sứ Baruk diễn tả công việc Thiên Chúa giải phóng và đưa dân Chúa từ một cuộc sống đau khổ lầm than trở về quê cha đất tổ của họ trong vui mừng và trong vinh dự.

 

Rồi trong bài Phúc âm, thánh Gioan tẩy giả tiếp tục rao truyền Tin mừng giải phóng và lập lại lời kêu gọi của ngôn sứ Baruk: “Hãy sửa đường cong queo cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi làm cản trở công việc hồi hương của dân Chúa và gây chướng ngại cho Đấng Cứu Thế đến ở giữa dân người để giải phóng và cứu rỗi họ”. Nhưng làm sao mọi người cảm thấy Thiên Chúa thực sự đến tại đây và trong lúc này để giải thoát họ không những hoàn cảnh lúc họ đang sống, và làm thế nào để mọi người có thể cảm nghiệm rằng thánh Gioan tẩy giả vẫn còn đang tiếp tục rao giảng về sự ăn năn thống hối để chuẩn bị cho ngày Chúa đến mà tất cả mọi người chúng ta trong Chúa nhật hôm nay cũng đang hướng về ơn cứu độ.

 

Câu trả lời cho hai vấn nạn trên nằm trong ý nghĩa của mùa vọng, bởi lẽ mùa vọng không phải là đợi chờ một biến cố đã xảy ra trong quá khứ xưa, mùa vọng càng không phải là mùa đợi chờ để mừng kỷ niệm Giáng sinh như mừng sinh nhật của Đức Giêsu diễn ra cách đây hơn 2000 năm. Không! Mùa vọng phải là mùa chuẩn bị tích cực để Thiên Chúa qua Đức Giêsu đến giải phóng và cứu rỗi mọi người trong hoàn cảnh cụ thể của ngày hôm nay. Đó là lý do tại sao thánh sử Luca ghi thật rõ ràng niên lịch và nhân vật lịch sử làm bối cảnh chính trị của một biến cố Ngôi hai giáng trần.

 

Hoàng đế Rôma thống trị khắp vùng Trung đông, Palestine bị lực lượng ngoại xâm chiếm đóng. Giuđêa nằm dưới quyền cai quản của quan trấn thủ Phongxiô Philatô, còn các vùng khác được trao cho các tay sai của hoàng đế Rôma giám quản. Cả tình trạng tôn giáo cũng bị lũng đoạn, vị Anna và Caipha đã cố gắng dung hòa giữa tôn giáo và chính trị để giữ vững địa vị thượng tế của mình. Trong bối cảnh chính trị, xã hội và tôn giáo đen tối ấy, Thiên Chúa đã bắt đầu hành động, qua đó một lần nữa Thiên Chúa chứng tỏ rằng công cuộc giải phóng và cứu rỗi của Người không phải được diễn ra trên trời, nhưng thực sự được diễn tiến trên mặt đất, giữa con người và trong dòng lịch sử. Quả thật, Thiên Chúa đã bắt đầu cuộc giải phóng để mang ơn cứu rỗi cho con người qua lời kêu gọi và rao giảng của thánh Gioan đã được Chúa Giêsu trao phó cho ngài để dọn đường cho Chúa đến và chuẩn bị cho chúng ta đón nhận ngày Chúa đến.

 

Để chu toàn sứ mệnh Thiên Chúa trao phó, thánh Gioan tẩy giả đã đi vào sa mạc hoang vắng. Thánh Gioan muốn lôi kéo các thính giả của ngài và lôi kéo chúng ta ra khỏi nếp sống bon chen thường nhật, ra khỏi những lo lắng hằng ngày, ra khỏi những thói quen tật xấu, những đam mê và ra khỏi con người cũ để đi vào sa mạc vắng vẻ là nơi con người dễ dàng gặp gỡ Thiên Chúa. Và cuộc gặp gỡ Thiên Chúa đúng nghĩa nào cũng phơi bày con người thật và biết sống thật của mỗi cá nhân.

 

Cuộc gặp gỡ Thiên Chúa đích thực nào cũng kêu mời con người phải ăn năn, phải thống hối, có nghĩa là kêu mời con người trở về với Thiên Chúa. Vì thế, sau thời gian vào hoang địa để gặp gỡ Thiên Chúa, để biết rõ con người và nếp sống thật của mình, thánh Gioan tẩy giả hướng dẫn chúng ta trở về cuộc sống hằng ngày, xuyên qua dòng sông Jordan để lãnh nhận phép rửa thống hối là dấu chỉ bên ngoài của một quyết định nội tâm dứt khoát trở về với Chúa. Một Thiên Chúa từ thuở tạo thiên lập địa đã luôn gắn liền lời nói với hành động.

 

Vì thế, công cuộc thống hối đúng nghĩa của con người không thể chỉ diễn ra bằng lời nói: “Tôi thú nhận cùng Thiên Chúa và cùng anh chị em, tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng, lời nói và việc làm…”, nhưng phải kèm theo những hành động cụ thể, những hành động cụ thể này đã được thánh Gioan loan báo hôm nay: “Hãy dọn đường Chúa đến”. Hãy sửa đường cong queo của tinh thần vô trách nhiệm, của lòng ích kỷ, của tính hay mánh mung lừa đảo bằng những con đường ngay thẳng của tinh thần liên đới, chia sẻ, thật thà, biết tôn trọng sự thật. Hãy lấp mọi hố sâu của chia rẽ hận thù, của thiên kiến nghi kỵ bằng sự khoan dung tha thứ, bằng sự tin tưởng thiện chí và tin tưởng vào khả năng của nhau. Hãy bạt mọi núi đồi của lòng kiêu hãnh, của óc địa phương bằng tinh thần khiêm nhu, và biết đặt công ích lên trên quyền lợi của cá nhân, quyền lợi của đảng phái. Hãy san bằng những con đường bi quan yếm thế của những thất vọng, của những ngày đen tối, của những lỗi lầm trong quá khứ bằng những cái nhìn tích cực, lạc quan tràn đầy hy vọng nơi chính mình, nơi kẻ khác và nơi cuộc sống. Đó là những hành động cụ thể, những điều kiện cần phải thực hiện trong ngày Chúa đến, thực hiện trong ngày giải phóng và cứu rỗi của Người, xây dựng trên công lý, hiệp nhất hòa bình và tình thương giữa lòng xã hội của ngày hôm nay.

 

Vậy! Bạn và tôi sẽ làm gì trong mùa vọng năm nay để chung tay đẩy mạnh tiến trình giải phóng và cứu rỗi của Thiên Chúa trong gia đình, trong làng xóm, trong giáo xứ và trong xã hội chúng ta đang sống?

 

83.        Sám hối và dọn đường

(Suy niệm của Anmai)

 

Chúng ta vừa nghe niềm vui của dân Do Thái khi họ được thoát khỏi cảnh tù đày qua tâm tình của Thánh Vịnh 135:

Khi Chúa đem những người Sion bị bắt trở về,

chúng tôi dường như người đang mơ,

bấy giờ miệng chúng tôi vui cười,

lưỡi chúng tôi thốt lên những tiếng hân hoan.

Bấy giờ dân thiên hạ nói với nhau rằng:

Chúa đã đối xử với họ cách đại lượng.

Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi,

nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan.

Lạy Chúa, xin hãy đổi số phận chúng con,

như những dòng suối ở miền nam.

Ai gieo trong lệ sầu, sẽ gặt trong hân hoan.

Thiên hạ vừa đi vừa khóc, tay mang thóc đi gieo.

Họ trở về trong hân hoan, vai mang những bó lúa.

Họ cứ ngân nga mà hát với nhau: Chúa đối xử đại lượng với chúng tôi nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan. Cũng bình thường thôi vì Thiên Chúa luôn luôn yêu thương dân của Ngài và Ngài cũng muốn cứu độ dân của Ngài chứ Ngài có bao giờ bỏ rơi.

 

Lời hứa cứu độ đó tự ngàn xưa và cứ tiếp nối từ người này qua người khác, từ ngôn sứ này đến ngôn sứ kia. Hôm nay chúng ta cũng bắt gặp lời hứa của Chúa qua môi miệng của ngôn sứ Baruc: “Hỡi Giêrusalem, hãy cởi áo tang chế và sầu khổ của ngươi, hãy mặc lấy sự huy hoàng và vinh quang đời đời của Chúa mà Chúa ban cho ngươi. Chúa sẽ mặc cho ngươi áo công lý, và đặt vương miện vĩnh cửu trên đầu ngươi. Vì chưng, Chúa sẽ tỏ bày huy hoàng của Chúa trong ngươi cho mọi kẻ trần gian. Vì Thiên Chúa sẽ đời đời gọi tên ngươi là Hoà bình trong công lý và Vinh dự trong hiếu nghĩa. Hỡi Giêrusalem, hãy chỗi dậy, đứng nơi cao, và nhìn về hướng đông. Hãy nhìn con cái ngươi từ đông sang tây họp lại theo lệnh của Ðấng Thánh, họ hân hoan thấy Chúa nhớ đến họ. Họ bị quân thù dẫn đi xa ngươi, nhưng Chúa đã đem họ về cho ngươi trong vinh dự như các hoàng tử. Vì Chúa đã ra lệnh triệt hạ mọi núi cao và mọi đồi từ ngàn xưa, lấp đầy những hố sâu, để trái đất được bằng phẳng, hầu Israel vững vàng bước đi cao rao vinh quang Thiên Chúa”.

 

Theo lệnh Chúa, những cánh rừng, những cây có hương thơm, đã cho Israel núp bóng, vì Chúa sẽ hân hoan lấy lòng từ bi và công bình của Người dẫn dắt Israel đến ánh vinh quang. Thế đó, Thiên Chúa, Đức Chúa sẽ tỏ ánh huy hoàng, tỏ ơn cứu độ của Ngài xuống dân Israel. Thế nhưng, chuyện quan trọng hơn cả đó là mặc lấy tâm tình gì để đón ơn cứu độ?

 

Dân Do Thái cứ lầm lũi trong tội lỗi của mình, cứ lầm lũi trong sự cứng đầu của mình để rồi không chuẩn bị cho mình một tâm tình đón ơn cứu độ. Để chuẩn bị cho Đấng Cứu Độ – Con Thiên Chúa đến trần gian, Thiên Chúa đã tiên báo để cho mọi người dọn đường. Bằng chứng hết sức cụ thể là có lời Chúa đã kêu gọi Gioan, con Giacaria, trong hoang địa.

 

Ông liền đi khắp miền sông Giođan, rao giảng phép rửa sám hối cầu ơn tha tội, như lời chép trong sách Tiên tri Isaia rằng: “Có tiếng kêu trong hoang địa: Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi; con đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, con đường gồ ghề hãy san cho bằng. Và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa”. Không cần phải nói nhiều hay giải thích nhiều. Chuyện hết sức đơn giản là để đi từ điểm này đến điểm nọ, chúng ta cần có một con đường thẳng để mà đi. Nếu gặp hố sâu, nếu gặp núi đồi và gặp đường quanh co thì không thể nào ta đi được.

 

Hôm nay, Gioan cũng mời gọi chúng ta là chúng ta cũng phải sửa con đường nhà chúng ta để Chúa đến. Gioan không muốn nhắm đến con đường đi nhưng Gioan muốn nhắm đến cõi lòng, nhắm đến tâm hồn của chúng ta. Nếu như cõi lòng chúng ta còn qúa nhiều đố kỵ, hờn ghe, kiêu căng, thù oán … e rằng Chúa hay nói khác đi là Đấng Cứu Độ không thể nào đến với chúng ta được.

 

Với lời mời gọi của Gioan, trong tâm tình chờ Chúa đến, mỗi người chúng ta hãy đặt mình trước mặt Chúa và xin Chúa thương giúp chúng ta nhìn ra con người thật của chúng ta và xin Chúa cũng thương chữa lành mọi vết thương trong tâm hồn chúng ta. Để có thể đến lúc Chúa đến với chúng ta, chúng ta có một tâm hồn ngay thẳng, có một tấm lòng sạch trong để mời Chúa đến vào trong tâm hồn chúng ta.

 

84.        Quo Vadis

 

Trong cuốn truyện Quo Vadis có kể về một chàng thanh niên người Lamã tên là Vinicius đã yêu một người con gái trẻ đẹp người Kitô giáo. Tuy thế, người con gái đã không mấy yêu thích anh chàng Vinicius, bởi hai người có hai cuộc sống khác biệt nhau.

 

Vinicius đã trở nên tò mò không biết các Kitô làm gì khi họ họp nhau cầu nguyện. Nên một buổi tối nọ, anh đã đi theo cô gái anh yêu thích và đến chỗ các Kitô họp nhau cầu nguyện. Anh đến không phải vì đạo nghĩa gì nhưng vì nàng.

 

Khi Thánh Phêrô giảng lời Chúa Giêsu thì một sự lạ đã xảy ra cho Vinicius. Anh đón nhận những lời của Chúa Giêsu một cách chân thành. Anh đã suy nghĩ làm sao để có thể trở thành một Kitô hữu. Anh phải cởi bỏ cuộc sống cũ. Anh phải bắt đầu một cuộc sống mới, cuộc sống hoàn toàn khác biệt với cuộc sống cũ. Đó là điều mà người Do thái ngày xưa gọi là sự trở lại.

 

Từ ngữ “trở lại” có nghĩa là ngừng cuộc du hành trên con đường sai và bắt đầu đi con đường mới. Thánh Gioan Tiền Hô đã kêu gọi người ta hãy trở về từ con đường tội lỗi dẫn đến sự diệt vong và bắt đầu ra đi trên con đường nhân đức dẫn đến cuộc sống mới. Như thế, sự trở lại liên quan đến việc chấp nhận rằng cuộc sống của chúng đang trên đà tiến đến sự xấu, và quyết tâm để đổi mới về một hướng tốt. Ngài nhắc nhở cho dân chúng thời đó đến xin Ngài chịu phép rửa: “Tôi rửa các anh với nước. Đấng sắp đến sẽ rửa các anh trong Thánh Thần.” Phép rửa của Gioan là phép rửa sám hối. Nó chuẩn bị cho phép rửa của Chúa Giêsu.

 

Khi chúng ta đón nhận phép rửa tái sinh của Chúa Giêsu, chúng ta đón nhận Chúa Thánh Thần và bắt đầu một cuộc sống mới hoàn toàn. Đó là chúng ta bắt đầu ra đi trên một con đường đúng. Nói tóm lại, Thánh Gioan Tiền Hô đã kêu gọi dân chúng trong bài Phúc Âm làm hai điều sau: Thứ nhất, họ chịu phép rửa sám hối, tức là từ bỏ lối sống cũ của tội lỗi. Thứ hai, họ phải chịu phép rửa tái sinh, tức là đón nhận cuộc sống mới trong Thánh Thần.

 

Vậy chúng ta phải áp dụng làm sao bài học đó hơn 2000 năm sau? Chúng ta cần phải áp dụng làm sao trong Mùa Vọng này? Tất cả mọi người chúng ta đều có thể nói rằng chúng ta đã ở trong tình trạng giống như chàng thanh niên Vinicius, hoặc đám dân chúng trong bài Phúc Âm hôm nay. Cho dù là chúng ta đã lãnh nhận phép rửa tội trong Thánh Thần, tuy nhiên chúng ta không ít thì nhiều đã vấp ngã lại vào vũng bùn tội lỗi. Tất cả mọi người chúng ta đều cần phải thu lượm lại những điều xấu trong cuộc sống của chúng ta và đốt chúng đi. Tất cả mọi người chúng ta cần phải phục hồi sự sống Thần Linh trong chúng ta.

 

Mùa Vọng là thời gian để chúng ta làm những điều đó, và vì lý do đó mà Giáo Hội sắp xếp cho chúng ta nghe về Thánh Gioan Tiền Hô kêu gọi con người hãy trở lại và chuẩn bị chờ đón Chúa Giêsu. Giáo hội biết rằng tất cả mọi người chúng ta đều cần phải trở lại, cho dù là một ít, để chuẩn bị cử hành kỷ niệm biến cố Giáng Sinh. Và khi chúng ta làm như thế, chúng ta sẽ chuẩn bị cho mình để chào đón sự Chúa sẽ đến lần thứ hai. Thiên Chúa nói với tất cả chúng ta hôm nay qua lời của tiên tri Isaia: “Hãy tắm rửa, hãy thanh tẩy mình đi… Khi tội lỗi các ngươi đỏ như nhiễu điều, họa chăng chúng sẽ gột trắng được như tuyết?” (Is 1,16. 18).

 

85.        Hóa đất tốt

(Suy niệm của Lm Vũ Xuân Hạnh)

 

Để sa mạc thành nơi có sự sống, điều kiện cần thiết trước hết là nước. Bên cạnh đó là sự chăm sóc, lao công vất vả của con người để cải tạo sa mạc. Không thể tìm được một khu vườn xinh tươi nơi sa mạc nếu trước hết người ta không tính đến hai điều kiện tiên quyết này. Không có nước, không có sự khai phá và chăm sóc của con người, đời đời sa mạc vẫn chỉ là sa mạc khô cằn. Ngày nay, nhiều nơi trên thế giới, hiện tượng phá rừng đã làm cho đất canh tác bị thu hẹp, hiện tượng sa mạc hóa đất đai ngày càng gia tăng. Để kiến tạo thảm xanh và chống sa mạc hóa, hai điều kiện trên đây cũng lại là hai điều kiện hàng đầu.

 

Cũng vậy, tâm hồn con người ví như sa mạc. Vì thế sa mạc tâm hồn cũng cần những điều kiện tối ưu. Nếu so sánh điều kiện nước như là ơn Chúa; điều kiện cải tạo sa mạc và sự ra công chăm sóc tưới bón của con người là nỗ lực sống thánh thiện, là sự cố gắng vun bồi cho đời Kitô hữu của mình bằng cộng tác với ơn Chúa, bằng vâng phục thánh ý Chúa và yêu thương con người, đó chính là lúc ta hóa sa mạc lòng mình thành nơi tươi tốt, nơi mang sức sống của hoa trái thánh thiện, của ơn Chúa.

 

Bởi đó, để có thể mở lòng đón nhận ơn Chúa và để tiếp sức cho sự kiến tạo lòng mình thành mảnh đất tốt tươi, ta hãy lắng nghe Lời Chúa hôm nay thúc giục. Đó là “Tiếng kêu trong sa mạc”. Tiếng kêu ấy thúc giục ta hãy khẩn trương lên, thúc giục lòng ta đừng cố chấp, đừng ở lỳ trong tình trạng thoái hóa, đừng để lòng mình vốn đã là sa mạc, bị sa mạc hóa nhiều hơn. Vì thế: “Hãy dọn đường cho Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi phải bạt cho thấp, khúc quanh co phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho bằng”. Ta cần phải thực hiện lời mời gọi ấy không phải ngày một hoặc ngày hai, mà là cả một đời. Có như thế, kết quả cuối cùng sẽ là một kết quả vui mừng lớn lao: “Hết mọi người phàm sẽ thấy ơn Thiên Chúa cứu độ”.

 

Nhưng sa mạc mà chúng ta đề cập, có hai nghĩa. Thông thường, trong tu đức, sa mạc có nghĩa rất tốt. Sa mạc là nơi thanh vắng, và sa mạc tâm hồn là một nội tâm trầm lặng, yên tĩnh, bình an, nơi mà lòng ta có thể lắng nghe tiếng Chúa. Nhiều tu sĩ, nhiều vị ẩn tu đã tìm đến sa mạc để đi vào sa mạc tâm hồn sống với Chúa trọn vẹn. Thánh Gioan Tẩy Giả đã từng tu luyện nơi sa mạc để hiệp thông với Chúa của mình như thế. Nhưng khi vào trong làng mạc để mời gọi sám hối, thì sa mạc mà thánh Gioan đề cập, lại là một thứ hoang địa thiếu sự sống. Đó là nơi gió quay cuồng, đất khô cằn, nắng nóng cháy. Đúng hơn, khi khẳng định “Tôi là tiếng kêu trong sa mạc” (Ga 1, 23), thánh Gioan muốn nói rằng “tôi là tiếng kêu trong lòng người”, vì lòng người đã bị sa mạc hóa. Bởi đó, sa mạc của lòng người cũng sẽ là nơi tối tăm, chứa đầy nguy hiểm, là nơi thiếu ơn Chúa, thiếu tình yêu và đầy tham vọng, mưu mô, đam mê xấu… Chúng ta cùng nhau suy nghĩ về sa mạc theo nghĩa thứ hai này.

 

Mỗi mùa Vọng, ta lại gặp khuôn mặt đáng yêu của thánh Gioan Tẩy Giả, người đã từng có một cuộc sinh ra kỳ diệu, một lối sống khác thường. Sa mạc là nơi vắng người, trơ trụi, thiếu sự sống, lại là nơi thánh Gioan sinh sống, lớn lên và trưởng thành. Cũng chính nơi sa mạc đầy dẫy sự khắc nghiệt, lại là nơi thánh Gioan gặp gỡ Thiên Chúa. Bên cạnh sự lớn lên về thể lý, thánh Gioan còn được sống trong ơn Chúa, lớn lên trong tình yêu của Chúa và trưởng thành trong thánh ý Người. Thánh Gioan đã lắng nghe Lời Chúa đúng như Tin Mừng hôm nay cho biết: “Có Lời Chúa phán cùng con ông Giacaria là ông Gioan trong sa mạc”. Lời của Chúa đã đưa thánh gioan ra khỏi sa mạc, đến mọi vùng ven sông Giodan mà gặp gỡ con người. Lời Chúa thánh nhân đã nghe, giờ đây trở thành Lời Chúa thánh nhân công bố. Tiếng Chúa mời gọi thánh nhân, trở thành tiếng thánh nhân mời gọi mọi người. Thánh Gioan đúng là tiếng kêu trong sa mạc như chính người đã khẳng định.

 

“Tiếng kêu trong sa mạc” đòi chúng ta hãy sửa đường cho Chúa. Nhưng không phải con đường đất, đường nhựa, mà chính là con đường của cõi lòng người, đường đi vào tâm hồn. Bởi đó, bằng những cách nói đầy gợi ảnh: thung lũng; núi đồi; đường quanh co; lối đi lồi lõm…, thánh Gioan kêu mời chúng ta ăn năn sám hối: Hãy cải đổi nếp sống, nếp nghĩ, nếu cần, cải đổi toàn diện, cải đổi cả não trạng của mình. Vì tận trong tâm hồn ta, có ai lường hết bao nhiêu lối suy nghĩ quanh co, sự tính toán lệch lạc. Tận trong tâm hồn ta có bao nhiêu hố sâu tăm tối, vì thiếu ánh sáng của tình yêu. Hoặc chính nơi ấy, có bao nhiêu núi đồi của sự ngạo ngễ, của tự kiêu, tự mãn… Vì thế, Ta đừng tiếp tục sống như xưa nữa, nhưng hãy uốn nắn những quanh co, lấp bằng những lồi lõm của tội lỗi, của thói hư tật xấu, của những tham vọng và dục vọng thiếu ngay chính… Bạn và tôi hãy sám hối. Vì sám hối là dọn con đường của lòng mình.

 

Dọn đường tâm hồn là để đón chờ Chúa đến. Chúa cần tâm hồn xứng đáng để làm nơi trú ngụ. Chúa cầm tâm hồn rỗng, không chứa đầy tội lỗi để tuôn đổ ơn của Người. Nhưng để dọn tâm hồn thật lành thánh như thế, chỉ cần đi xưng tội qua loa, xưng tội để trấn an lương tâm mà thôi chưa đủ. Vì như thế chưa phải là cải đổi tâm hồn, chưa đi tới hoàn thiện chính mình. Xưng tội như thế là xưng cho có, cho rồi. Xưng tội như thế là biến bí tích giải tội thành phương tiện cho mình lạm dụng, và lợi dụng để tự đánh lừa bản thân. Đó là một sự cố chấp, là ở lỳ trong tội.

 

Nếu biến sa mạc thành đất có sự sống, con người phải mất sức, mất của, và chấp nhận nhiều khó khăn. Cũng vậy, dọn đường tâm hồn là chấp nhận biến đổi sa mạc của cõi lòng thành miền đất trù phú, miền đất thấm đẫm ơn Chúa. Bởi vậy, người ta phải chấp nhận sự hao mòn sức lực, chấp nhận tự gọt giũa chính mình, chấp nhận nhiều khó khăn khác nhau. Vì biến đổi như thế là sám hối. Và sám hối thật lòng đòi phải có dấn thân thật sự để tự mình từ nay dám cắt bỏ một thói quen, một đam mê, một tật xấu… để lòng mình biết yêu hơn, khiêm nhường hơn, sống tinh thần phục vụ hơn, vị tha hơn… Vì chỉ khi nào dám chối từ những rườm rà xung quanh mình, con người ta mới dám mong ước thuộc về Thiên Chúa. Thái độ sám hối tận căn ấy, mới là sám hối đúng nghĩa. Điều đó không dễ chút nào, vì nó làm ta đau đớn, xót xa, trầy trụa, mất mát. Chỉ có sám hối trọn vẹn mới sống đúng nghĩa hai chữ “dọn đường”. Chúa cần một thái độ dọn đường một cách tự nguyện, dứt khoát như thế, để Người đi vào tâm hồn và tâm hồn có chỗ chứa đựng ơn thánh của Người. Khi tâm hồn có Chúa, tâm hồn không còn là sa mạc và cũng chẳng hề sợ sa mạc hóa, nếu biết giữ mãi ơn Chúa trong tâm hồn mình bằng một đời sống tốt lành, vươn lên trong sự thánh thiện.

 

Vậy chúng ta hãy đi vào sa mạc như các nhà ẩn sĩ (chứ không phải sa mạc thiếu sự sống), nghĩa là biết trở về với nội tâm của mình, xua đi những ồn ào, những lo toan của cuộc sống. Ta hãy đi vào sự tĩnh mịch của sa mạc lòng mình mà lắng nghe tiếng Chúa, lắng nghe những đòi hỏi của Tin Mừng: Phải sửa đường xưa lối cũ, uốn nắn cho ngay thẳng những lối đi quanh co theo sở thích trái chướng của bản thân, lúc thế này, khi thế khác. Mọi gồ ghề ngăn cản các quan hệ tốt đẹp với Chúa, với tha nhân hãy bạt xuống và san phẳng để hiến dâng tình yêu của mình đến với anh em và với Thiên Chúa. Có như thế, ta mới “Thấy ơn Thiên Chúa cứu độ” như lời thánh Gioan loan báo.

 

86.        Tiếng kêu trong hoang địa

(Suy niệm của AM. Trần Bình An)

 

Vua Hêrôđê không thể làm điều gì có thể khiến ông được thần dân Giuđê yêu mến, ngay cả việc chi tiền không tiếc cho công trình xây Đền Thờ. Người ta không bao giờ quên ông là người gốc Êđôm. Nếu ông là một người Giuđa về mặt tôn giáo, đã xây lại Đên thờ Giêrusalem, thì điều đó cũng không ngăn ông xây dựng các đền thờ cho các thần ngoại giáo khắp nơi. Trên hết, việc ông tiêu diệt dòng dõi Hasmonaean là điều không thể tha thứ được.

 

Trên thực tế, hành động thẳng tay này đã không chấm dứt được những bất ổn trong hoàng gia. Có sự xích mích giữa họ hàng bên ngoại với những người vợ của ông, và giữa những người con của các bà vợ. Hai người con của ông và Mariamne, là Alexander và Aristobulus, được dưỡng dục tại La Mã, và được chọn làm thừa kế. Chúng vốn thuộc dòng dõi Hasmonaean (họ mẹ) nên được dân Giuđa chấp nhận. Nhưng sự ưu ái đó làm những anh em khác mẹ ghen tỵ, đặc biệt là Antipater, con cả của Hêrôđê, đã quyết tâm gieo cho cha mình ý tưởng chống lại họ. Cuối cùng, năm 7 TCN, họ bị khép vào tội âm mưu chống lại cha và bị xử tử. Antipater cũng chẳng lợi lộc gì từ cái chết của hai em. Ba năm sau ông cũng là nạn nhân của sự nghi ngờ của vua cha, và đã bị xử từ, chỉ vài ngày trước khi Hêrôđê băng hà, năm 4 TCN.

 

Bản chất đa nghi của Hêrôđê được minh chứng bằng chuyến thăm viếng của ba vua, và các hài nhi Bêlem bị giết hại. Bất cứ tin đồn nào về sự dấy lên của một vị vua dân Giuđa cũng làm ông sợ hãi tột cùng. Sự nghi ngờ này đã lên đến mức điên cuồng. Hậu quả là Hêrôđê được nhớ đến qua cơn cuồng sát hài nhi, hơn là vì khả năng cai trị. (Flavius Josephus, Ant, A.H.M. Jones, The Herods of Judea)

Trước bối cảnh lịch sử máu me ghê tởm, tràn đầy những âm mưu, thù hận, nghi kỵ, hãm hại, giết chóc, từ nội tình lãnh đạo đế quốc La Mã đến hoàng gia chư hầu Giuđa, Israel, thì ngôn sứ Gioan Tiền Hô xuất hiện như một niềm hy vọng giải phóng dân Israel khỏi lầm than.

 

Trong khi quyền lực thế gian tập trung trong tay các hoàng tộc kiêu căng, độc đoán, gian manh, ác độc thì lịch trình Cứu Độ của Thiên Chúa lại khởi sự từ sự khiêm nhường, nhân ái, tràn đầy tình yêu.

 

Chúa nói trong nơi thinh lặng

Chính trong hoang địa, chứ không phải tại đền đài cao sang, ồn ào, nguy nga, tráng lệ, Thiên Chúa phán dạy, trao sứ vụ cho ông Gioan, vốn là con của hai người công chính, thầy tư tế Dacaria và bà Êlisabet. Chúa gần gũi thân mật với người thành tâm nơi cô tịch. Ngài không khoe khoang, không quảng cáo, không tiếp thị nơi phồn hoa, đô hội. Chúa luôn ẩn dấu trong mọi sự, dưới nhiều sự kiện, trong mọi biến cố, mà chỉ thổ lộ tâm tình trong cô liêu, tĩnh lặng.

 

Ông Gioan theo gương Chúa, cũng đi rao giảng trong hoang địa, cũng chẳng chọn nơi phố xá đông đúc, thị tứ xô bồ, náo nhiệt, ô nhiễm, ồn ào. Thế nhưng, bấy giờ người ta từ Giêrusalem và khắp miền Giuđê, cùng khắp vùng ven sông Giô đan, kéo đến với ông. Họ thú tội, và ông làm phép rửa cho họ trong sông Giô đan. (Mt 3, 5)

 

Do vậy, sẽ thất vọng khi tìm nghe tiếng Chúa nói với mình trên làn sóng radio, TV, trên báo chí, truyền thông, hoặc trên internet. Tất cả những phương tiện đó, nếu có, chỉ là tiếng vang vọng của Chúa. Bởi vì Chúa chỉ nói muốn chuyện tay đôi trong thinh lặng, tĩnh mịch, khi chúng ta giũ bỏ được mọi lo toan, đam mê, hay dục vọng thấp hèn.

Chúa nói cho tâm hồn khiêm nhu

Phần đầu bài Tin Mừng hôm nay có hai ý nghĩa. Trước hết ý nghĩa lịch sử về thời điểm Chúa Giêsu đến thế gian. Ý nghĩa thứ hai, chương trình cứu chuộc của Chúa hoàn toàn trái ngược với khuynh hướng thế gian. Không cần uy lực, không cần vinh quang phù du, không cần bá quyền, lẫn vương quyền. Ngài chỉ dùng đến con người tầm thường, nhỏ bé, khiêm hạ, nhân ái, để loan truyền Ơn Cứu Độ.

 

Vì thế, Chúa phán truyền sứ vụ cho ông Gioan Tiền Hô, khiêm tốn, ẩn dật trong hoang địa, ăn mặc xuềnh xoàng thô thiển, không khoác áo da thú đắt điền, như quý bà giàu sang bây giờ, không ăn ngon thỏa thuê, thừa mứa như các đại gia, thừa bạc lắm tiền, mà chỉ chay tịnh chấu chấu và mật ong rừng.

 

Chúa kêu gọi cải tà quy chánh

Khi nêu ra các hoàng gia đương thời, qua trích đoạn Tin Mừng hôm nay, Lời Chúa muốn nhắc nhở chúng ta, đừng bắt chước, học đòi những thủ đoạn dã tâm của họ, để củng cố địa vị, để hưởng giàu sang phú quý, mà chà đạp, hay hãm hại người khác.

 

Trái lại, phải dọn đường cho thẳng, công tâm, chánh trực, phải lấp đầy thung lũng ham muốn, tham lam chức tước, của cải, tiện nghi, phải bạt cho thấp núi đồi kiêu căng, cao ngạo, tự phụ, tự cao, tự đại, phải uốn cho ngay khúc quanh co gian tà, lưu manh, dối trá, phải san cho phẳng đường lồi lõm, đam mê, hưởng lạc thú vui xác thịt…, mới có thể nhận ra Chúa đang đến, mà hưởng được Ơn Cứu Độ.

 

“Canh tân không phải chỉ đổi nước mã bên ngoài, đổi một số nghi thức cho ngoạn mục…Thánh Phaolô nói rõ: Hãy cởi con người cũ, mặc lấy người mới, là Chúa Giêsu.” (Đường Hy Vọng, 635)

 

Lạy Chúa Giêsu, hãy cho con thoát ra khỏi tiếng ồn ào, huyên náo danh lợi, cám dỗ xác thịt, để nghe được tiếng Thánh Gioan Tiền Hô kêu gọi canh tân đổi mới.

 

Lạy Mẹ Maria, xin dạy con biết ăn năn, sám hối, cũng như khiêm nhường, vâng phục và phó thác noi gương Mẹ, để có thể đón mừng Chúa đến. Amen.

 

87.        Chúa Nhật 2 Mùa Vọng

(Suy niệm của Montfort Nguyễn Xuân Pháp. Ocist)

 

HÃY DỌN SẴN MỘT CON ĐƯỜNG CHO THIÊN CHÚA

 

  1. Tóm Lược Các Bài Đọc

Bài Đọc 1: Br 5, 1- 9

Bài đọc một hôm nay cho chúng ta hai ý chính:

– Thứ nhất: Mời gọi Israel hãy cởi bỏ áo tang khổ nhục, mặc lấy vinh quang vĩnh cửu của Thiên Chúa, khoác áo choàng công chính và đội triều thiên vinh quang Thiên Chúa ban tặng.

– Thứ hai: Niềm vui của Israel là từ Đông sang Tây sẽ được quy tụ về theo lệnh của Thiên Chúa. Ngài ra lệnh phải bạt núi cao, lấp đầy thung lũng để Israel tiến bước an toàn. Thiên Chúa sẽ dẫn Israel đi trong hoan lạc, dưới ánh sáng của Thiên Chúa, cùng với lòng từ bi và sự công chính của Người.

 

Bài Đọc 2: Pl 1, 4- 6. 8- 11

Chúng ta thấy bốn điểm chính trong bài đọc hai:

– Thứ nhất: Niềm vui của thánh Phaolô có được là khi cầu nguyện cho người khác, sống bác ái và tích cực góp phần rao giảng Tin Mừng.

– Thứ hai: Thánh nhân hết lòng quí mến các tín hữu với tình thương của Đức Kitô Giêsu.

– Thứ ba: Ước nguyện của thánh nhân là cho lòng mến các tín hữu ngày thêm dồi dào, ơn hiểu biết và tài trực giác siêu nhiên để nhận ra cái gì là tốt hơn.

– Thứ tư: Thánh nhân cầu xin cho người tín hữu được nên tinh tuyền, không làm gì đáng trách trong khi chờ đợi Đức Kitô quang lâm.

 

Bài Đọc Tin Mừng: Lc 3, 1- 6

Chúng ta rút ra ba điểm chính trong bài đọc Tin Mừng hôm nay:

– Thứ nhất: Nhắc lại những người lãnh đạo xã hội và tôn giáo thời thánh Gioan.

– Thứ hai: Ông Gioan rao giảng kêu gọi người ta chịu phép rửa để được ơn tha tội.

– Thứ  ba: Nhắc lại lời Cựu ước ám chỉ về Gioan: Có tiếng người hô trong hoang địa hãy dọn sẵn con đường cho Thiên Chúa, mở lối cho thẳng để Người đi. Rồi hết người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa.

 

  1. Suy Niệm

Có nhiều con đường khác nhau, và mỗi con đường là lối dẫn tới một hướng đích. Con đường của đam mê dẫn con người tới hưởng thụ và thõa mãn các nhu cầu hạ đẳng. Con đường quyền lực đưa đẩy con người đến việc tranh dành địa vị và chức tước. Con đường hận thù, ghen ghét dẫn con con người tới chia rẽ, loại trừ lẫn nhau. Con đường yêu thương nối kết tình liên đới, xây dựng sự bình an và vun đắp cuộc sống hạnh phúc. Con đường phục vụ giúp con người quyên đi bản thân để hướng tới lợi ích tha nhân. Con đường hòa bình thúc đẩy con người xây dựng cuộc sống chung an vui, hiệp thông và thăng tiến.

 

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Gioan Tiền Hô chỉ cho ta một con đường mới: Con đường cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện qua Đức Kitô Giêsu. Ai bước đi trên con đường này sẽ loại trừ được những lối dẫn đưa tới hận thù, tranh chấp ích kỷ, tham quyền cố vị; đồng thời làm tăng tiến và củng cố con đường yêu thương, phục vụ, con đường xây dựng hòa bình. Đức Giêsu là con đường dẫn tới sự thật và sự sống viên mãn; con đường dẫn tới Chúa Cha: “Chính Thầy là đường, là sự thật  và là sự sống. không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14, 6).

 

Ông Gioan không phải là đường, nhưng ông đến để dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Nơi ông đã ứng nghiệm điều mà ngôn sứ Isai loan báo từ trước: “Hãy dọn sẵn một con đường cho Đức Chúa, mở lối cho thẳng để người đi. Mọi thung lung hãy lấp cho đầy, mọi núi đồi phải bạt cho thấp, khúc quanh co phải uốn chon gay, đường lồi lõm phải san cho phẳng. Rồi hết mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa” (Lc 3, 4- 6). Vậy con đường mà Gioan an kêu gọi sửa sang là con đường nào đây?

 

Con đường mà Gioan muốn dân chúng dọn là tâm hồn mỗi người: Phải lấp đầy những hố sâu tham lam ích kỷ, phải uốn cho gay những lối nghĩ gian tà, lầm lạc; san cho phẳng những đồi cao của kiêu căng với cái nhìn khinh thị và lối sống tự mãn; san cho phẳng những gồ ghề của bất công, của chủ nghĩa cá nhân. Những chướng ngại này chẳng khác nào cánh cửa khép kín mà Thiên Chúa khó có thể bước vào cuộc đời mỗi người để cùng đồng hành và chung chia những vui buồn sướng khổ của kiếp đời chứng nhân. Hãy cộng tác với ơn Chúa để dẹp bỏ những chướng ngại này và mở toang cánh cửa tâm hồn để Thiên Chúa bước vào và ở mãi nơi đó. Thiên Chúa chỉ có thể gặp được con người trên những con đường ngay thẳng, chân thành và quảng đại; ơn cứu độ của Chúa cũng chỉ ban cho những ai sẵn sàng mở rộng vòng tay đón nhận.

 

Lạy Chúa, xin ban cho chúng con sự can đảm và lòng quảng đại để chúng con biết đối diện và nhận ra con người tội lỗi của mình, nhờ đó, chúng con không ngừng sửa sang tâm hồn mình hầu kiến tạo một đời sống mới, một lối nhìn mới phù hợp với giá trị Tin Mừng.

 

88.        Gioan tiền hô

 

Hài nhi nhảy mừng trong lòng bà.

Hài nhi ở đây chính là Gioan Tẩy giả, cũng được gọi là Gioan Tiền hô. Sở dĩ chúng ta gọi ngài là Gioan Tẩy giả, vì ngài trao ban phép rửa sám hối. Còn gọi ngài là Gioan Tiền hô, bởi vì ngài có nhiệm vụ đi trước để hô hào mọi người chuẩn bị đón mừng Chúa đến.

 

Nhìn vào cuộc đời của ngài, chúng ta nhận thấy được bàn tay yêu thương của Chúa luôn hướng dẫn. Thực vậy, Phúc âm kể lại rằng: Bà Êlisabeth và ông Giacaria sống chung với nhau trong bậc vợ chồng đã già rồi mà vẫn chưa có con. Một hôm ông vào đền thờ làm nhiệm vụ tư tế của mình. Thiên thần Chúa đã hiện ra cùng ông và cho biết: bạn ông sẽ sinh con. Ông không tin bởi vì cả hai đã cao niên, nên yêu cầu một bằng chứng. Thiên thần Chúa trả lời: Kể từ nay ông sẽ bị câm và sự thực đã xảy ra như thế.

 

Được tin bà Elisabeth, người chị họ của mình, đã có mang, Đức Maria liền vội vã lên đường thăm viếng. Trước sự hiện diện của Mẹ Maria và Chúa Giêsu, dù mới chỉ là một thai nhi, Gioan cũng đã nhảy mừng.

 

Rồi sau khi Gioan đã mở mắt chào đời, người ta hỏi ý kiến ông để đặt tên cho con trẻ, và ông đã trả lời bằng chữ viết: tên con trẻ là Gioan…Và cũng từ lúc ấy ông nói được và không còn câm nữa. Lớn lên, Gioan vào trong hoang địa, sống một cuộc sống khắc khổ. Mặc áo da thú, ăn châu chấu với mật ong rừng. Tiếng tăm về sự thánh thiện của ngài được loan truyền, thế là người ta kéo đến với ngài. Ngài khuyên mọi người sám hối ăn năn, dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Lúc nào ngài cũng tỏ ra khiêm nhường, tự xưng mình chỉ là một tiếng kêu trong sa mạc và không xứng đáng cởi dây giày cho Đấng Cứu Thế.

 

Ngày kia Chúa Giêsu trà trộn với đám đông dân chúng đến xin Gioan làm phép rửa. Lúc đầu Gioan đã từ chối vì ngài biết Chúa Giêsu là ai. Nhưng sau cùng ngài cũng vui lòng trao ban phép rửa. Và lúc đó một sự kiện lạ lùng đã xảy ra: Chúa Thánh Thần lấy hình chim bồ câu đậu xuống trên Đức Kitô và từ trời có tiếng phán: Này là Con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng.

 

Sau đó Gioan đã long trọng giới thiệu Chúa Giêsu cho các môn đệ và đám đông: Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian. Ngài vui mừng khi thấy các môn đệ và dân chúng tin theo Đức Kitô. Chính ngài đã nói: Đức Kitô cần phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi. Có lần ngài đã sai hai môn đệ thân tín đến hỏi Chúa Giêsu: có phải là Đấng sẽ đến hay là còn phải chờ đợi một Đấng nào khác. Thâm ý của Gioan là muốn để cho các môn đệ của mình được nghe chính Chúa Giêsu xác quyết. Chúa Giêsu đã nói với họ: Hãy về nói với Gioan những điều các ngươi đã ghi nhận: người mù được thấy, kẻ què được đi, người phong cùi được lành sạch và kẻ nghèo túng được đón nhận Tin Mừng.

 

Với một tính tình ngay thẳng, Gioan đã lên tiếng can ngăn Hêrôđê không được phép lấy vợ của anh mình. Chính vì thế mà ngài đã bị tống ngục và sau cùng đã bị lấy đầu.

 

Nhìn thoáng qua cuộc đời của Gioan Tiền hô, chúng ta thấy ngài đã chu toàn sứ mạng Chúa trao phó, đó là chuẩn bị mọi người đón nhận Chúa đến, và khi Chúa đến, ngài đã giới thiệu Chúa cho mọi người được nhận biết.

 

Với chúng ta cũng thế, trong mùa vọng, chúng ta phải uốn nắn sửa đổi lại những thói hư tật xấu để Chúa đến trong tâm hồn chúng ta, đồng thời hãy biết dùng lời nói và việc làm, nhất là những hành động bác ái yêu thương, để giới thiệu Chúa cho những người chung quanh.

 

Lời hay ý đẹp:

Bài giảng phải biểu lộ tốt ý nghĩa cử chỉ phụng vụ phù hợp để dẫn dắt giáo dân tham dự đầy đủ vào việc thờ phượng đức tin. Sửa soạn tâm hồn họ thấm nhuần phụng vụ, ngõ hầu hiệu quả của Thánh Thể vượt qua việc cử hành hiện tại mà vươn tới mọi lãnh vực của cuộc sống và của toàn thể Hội Thánh.(Fr. John Burke, op. trong Gospel Power tr.79.)

 

89.        Dọn đường tâm hồn

(Suy niệm của Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải, CRM)

 

Trong Mùa vọng, có lẽ một nhân vật được nhắc đến nhiều nhất trong các bài đọc đó là Gioan Tẩy Giả, và có thể nói ông là một trong những mẫu gương sống Mùa Vọng tuyệt vời nhất. Tuổi đời chỉ sống hơn 30 năm, nhưng ông từ bỏ gia đình mà vào trong sa mạc để tìm thánh ý Chúa, và sống liên kết mật thiết với Chúa. Nhờ đó ông trở thành vị tiền hô cho Đấng Cứu Thế, kêu gọi dân chúng đổi mới tâm hồn, để đón mừng Đấng Cứu Độ trần gian.

 

Chúng ta biết, hoang địa là nơi vắng bóng người ở, một nơi trơ trụi, thiếu sự sống, khí hậu khắc nghiệt, nhưng chính nhờ môi trường thanh vắng này, mà Gioan đã lớn lên và trưởng thành hơn trong sự gặp gỡ thâm trầm với Thiên Chúa. Càng lúc ông càng ý thức về sứ mạng tiền hô của mình, nhưng ông vẫn kiên nhẫn chờ đợi cho đến thời, đến buổi ông nghe thấy tiếng Chúa ngỏ lời với ông.

  • Tiếng Chúa thúc đẩy ông ra khỏi hoang địa, để đi trước Chúa mở lối cho Ngài.
  • Tiếng Chúa ông nghe trong hoang địa, đã trở thành Lời Chúa ông công bố nơi phố thị.
  • Tiếng Chúa gọi ông nghe trong thầm lặng, nay trở thành tiếng hô lớn, mời gọi dân chúng hoán cải, thay lối đổi đường.

 

Ông kêu gọi dân chúng sám hối sửa lại con đường tâm hồn, để chào đón Vua Giêsu ngự đến. Việc sám hối không chỉ là một vài giờ tĩnh tâm, hay đi xưng tội qua loa, nhưng là dẹp bỏ tận căn những tính hư tật xấu, để Chúa có thể dễ dàng ngự đến và ở lại với chúng ta.

 

Thật ra Chúa đã đến trần gian từ lâu rồi, nhưng nhiều khi chúng ta chưa đón nhận được Ngài, bởi vì con đường tâm hồn chúng ta có những đỉnh đồi kiêu ngạo thích nâng mình lên, tự hào về khả năng của mình, luôn cho mình là tài giỏi hơn người khác, không bao giờ chịu thua kém bất cứ ai. Nếu có ai khen thì vui vẻ, còn ngược lại ai chê một chút thì tự ái khó chịu. Xin hãy hạ mình uống với lòng khiêm tốn như Gioan Tẩy Giả.

 

Để Chúa được vinh quang, Gioan phải khiêm nhường. Để Chúa được nhận biết, Gioan phải quên mình. Để Chúa được nổi lên, Gioan phải chìm xuống. Gioan hiểu rõ điều đó, nên ông không ngừng hạ mình khiêm nhường trong lời nói cũng như trong cách ứng xử. Khi uy tín của ông lan rộng, người ta tưởng là Đấng Cứu Thế, nhưng ông khiêm tốn nhìn nhận: “Tôi chỉ là tiếng kêu trong sa mạc. Đấng đến sau tôi uy quyền hơn tôi. Tôi không đáng xách dép cho Ngài; Ngài phải lớn lên còn tôi phải nhỏ bé đi”.

 

Tâm hồn chúng ta có những hố sâu ích kỷ, chỉ lo vun đắp cho mình, mà không hề biết quan tâm giúp đỡ người khác. Chúng ta không phải là “đấng toàn năng”, làm được mọi sự. Do đó chúng ta cần sự giúp đỡ của người khác. Không ai dám vỗ ngực là mình không cần đến ai. Vì thế, nhu cầu cần được người khác giúp đỡ đó là nhu cầu của mọi người.

 

Noi gương Gioan Tẩy Giả, chúng ta biết nhỏ đi mỗi ngày trong cái tôi ích kỷ, trong những tính hư tật xấu; biết quên mình khi phụng sự Chúa và quảng đại giúp đỡ nhau. Tâm hồn chúng ta đôi khi có những khúc quanh co dối trá, trong lời ăn, tiếng nói và việc làm, sống không thành thật với Chúa; không thành thật với nhau. Xin hãy uốn lại với lòng thành thật theo Tin Mừng Chúa dạy. Tâm hồn chúng ta có những lượn sóng gồ ghề, khó tính khó nết, khó sống với người khác, hay than thân trách phận, không bằng lòng với số phận của mình. Xin hãy noi gương Gioan Tẩy Giả đã bỏ thành phố ồn ào náo nhiệt, vào sống trong sa mạc thanh vắng thiếu thốn mọi sự, để sống thân mật với Chúa.

 

Mùa Vọng, chúng ta cũng cần vào trong sa mạc tâm hồn, nghĩa là sống nội tâm hơn, để sống kết hiệp với Chúa qua đời sống cầu nguyện và siêng năng lãnh nhận các Bí Tích.

 

Gioan Tẩy Giả đã khước từ những thức ăn cao lương mỹ vị, ông chỉ dùng những thức ăn đơn sơ đạm bạc của núi rừng. Ngài từ bỏ quần áo lụa là, chỉ khoác trên mình tấm da thú che thân. Noi gương ông, chúng ta cũng phải vui lòng chấp nhận mọi hoàn cảnh mà Chúa an bài gửi đến, như bị bệnh tật, bị con cháu bỏ rơi, bị thiếu thốn cách này, cách khác, để nên giống Chúa Giêsu Đấng là giàu có nhưng đã trở nên nghèo khó vì chúng ta.

 

Gioan Tẩy Giả là vị tiền hô chuẩn bị cho Chúa đến lần thứ I. Chúng ta phải là những tiền hô thời đại mới chuẩn bị cho Chúa đến lần thứ II. Làm tiền hô cho quê hương của mình, cho môi trường mình đang sinh sống, đó là nhiệm vụ của mọi Kitô hữu chúng ta. Ơn cứu độ đã đến từ hơn hai ngàn năm nay rồi, nhưng vẫn thiếu vắng những con đường phẳng phiu, ngay thẳng, để Thiên Chúa có thể đến gặp gỡ con người. Vì thế, chúng ta cầu nguyện cho nhau, và xin Chúa Thánh Thần giúp chúng ta nỗ lực sửa lại mọi sự trong ngoài chúng ta. Biến chúng ta thành những con đường mới bằng phẳng trong tâm hồn, để Chúa dễ dàng đến ở cùng chúng ta, đồng thời chúng ta cũng dễ dàng đến với nhau.

 

90.        Chúa Nhật 2 Mùa Vọng

(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê)

 

THIÊN CHÚA MUỐN MỌI NGƯỜI

NHẬN BIẾT CHÂN LÝ VÀ ĐƯỢC CỨU ĐỘ

 

Kính thưa quý anh chị em,

Ơn cứu chuộc là ân huệ cao quý, kì diệu nhất, Thiên Chúa ban tặng cách nhưng không, để con người hiệp thông với Chúa và với nhau, nhờ đó họ được sống và sống dồi dào.

 

Kinh Thánh dùng nhiều hình ảnh diễn tả ý muốn cứu độ phổ quát của Chúa, khi thì áp dụng cho cá nhân, khi thì dành cho số đông, cho cộng đoàn. Tất cả đều muốn diễn tả về sự đổi mới tận căn, từ tình trạng xưa cũ sang mới mẻ, từ tội lỗi sang công chính, từ sự chết sang sự sống muôn đời.

 

Bài đọc I, trích sách Ba-rúc, diễn tả niềm vui cứu độ Chúa dành cho Israel. Chúa kêu gọi dân bỏ miền thâm u sự chết, bước vào vùng ánh sáng ban sự sống.

 

Ngôn sứ dùng những hình ảnh rất mạnh mẽ mô tả sự biến đổi quyết liệt, mau lẹ và bền vững khi Lời Thiên Chúa tác động trên dân: cởi áo tang chế, mặc lấy áo công chính, áo vinh quang vĩnh cửu Chúa tặng ban.

 

Nhờ Chúa ban ơn trợ giúp, số phận dân Chúa đổi thay: xưa kia dân không được xót thương, nay được Chúa xót thương đem lòng sủng ái ; xưa kia bị phân tán lưu đày, khổ cực, nay được đón rước vào thành vĩnh cửu trong cờ hoa lộng lẫy ; xưa kia phải chịu sưu thuế, cống nạp ngoại bang, nay mọi nguồn phú túc chư dân hội về tràn lan như thác lũ ngập tràn. Chúa bạt núi đồi, lấp hố sâu, nắn thẳng con đường cong queo để dân Chúa tiến bước an toàn…

 

Những lời loan báo bởi các ngôn sứ được ứng nghiệm nơi Chúa Giê-su và thời đại cứu thế của Người là “Bình an xây dựng trên công chính” (Br 5, 4). Bấy giờ chiên nằm chung với dã thú, trẻ em còn măng sữa vui đùa kề hang rắn lục và trên khắp núi thánh không còn ai oán, khóc than, vì sự hiểu biết Thiên Chúa tràn ngập như nước bao phủ khắp các đại dương. Vâng! Chúa Cha đã không chậm trễ, hay trì hoãn, thực hiện lời hứa cứu độ trong và nhờ Chúa Giê-su. Ngôi lời nhập thể là sự bình an, liên đới, hiệp thông đã đạt tầm vóc viên mãn, thập toàn, trong sự vâng phục tuyệt đối, trọn vẹn thánh ý Cha, được Cha tuyên là: Con chí ai, Con đẹp lòng Cha mọi đàng.

 

Bởi vậy, hồng ân phục sinh từ trong cõi chết, không chỉ là vinh quang dành riêng cho người con ấy, mà còn được áp dụng rộng rãi cho tất cả những ai tin hết lòng, để được tháp nhập vào thân mình mầu nhiệm Chúa Giê-su, cũng được hưởng vinh quang của “Đầu” như vậy.

 

Bài Tin Mừng vừa tuyên đọc chỉ rõ cách thức dọn đường đón Chúa. Gio-an Tẩy Giả xuất hiện như người dọn đường. Bằng lời nói và hành động, ông kêu gọi và làm phép rửa sám hối để dân được hưởng ơn tha tội.

 

Hãy dọn đường cho Đức Chúa, sửa lối cho phẳng để Người đi. Thung lũng hãy lấp cho đầy, núi đồi phải bạt xuống, khúc quanh co phải uốn cho ngay, đường lồi lom, phải san cho phẳng và như thế, mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa. Dọn đường là công việc ai cũng có kinh nghiệm. Và từ hình ảnh dọn con đường, Gio-an áp dụng cho con đường thiêng liêng, con đường tâm hồn cũng phải được dọn dẹp như thế!

  • Đồi cao là tính tự phụ, tự cao tự đại, kiêu ngạo, hống hách. Nó biến nạn nhân thành kẻ bất cần đời: khinh thường Thiên Chúa, cũng chẳng coi ai ra gì. Người tự cao, tự đại là kẻ đánh cắp ơn Chúa làm của riêng mình, vì thế, Chúa vung tay quyền lực, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.
  • Hố sâu là tính tham lam muốn sở hữu thật nhiều mọi mặt. Loại người này không có điểm dừng, họ sử dụng mọi thủ đoạn kể cả bất công, gian ác để đạt được mục đích. Họ là hạng người keo kiệt, hà tiện trong mọi sự. Kẻ tham lam thường thích ăn mày tiếng khen, tôn thờ của cải làm chúa trong cuộc đời mình.
  • Đường quanh co được ví với người gian dối trong lời nói, việc làm, chuyên thói lường gạt, lừa đảo, đong đầy bán vơi. Người hành động gian dối có cội rễ là ma quỷ. Chúa Giê-su cũng đã cảnh báo: “Có thì nói có, không thì nói không, thêm điều bớt chuyện là bởi ma quỷ mà ra” (Mt 5, 37).

 

Bạt nơi cao, lấp hố sâu, nắn thẳng con đường tâm hồn là những việc làm đòi nhiều cố gắng, hy sinh và bền tâm, vững chí. Tất cả đều phải cậy trông ơn Chúa. Do vậy, thánh Phao-lô, trong bài đọc II, tha thiết cầu xin Chúa ban ơn sủng, để người tín hữu sống trọn vẹn, sống đẹp ơn gọi thừa sai Tin Mừng đã lãnh nhận ngày chịu phép rửa tội.

 

Đối với Phao-lô, Chúa mới là tác giả giúp chúng ta thực hiện hoài bão tông đồ và thực hiện tốt công việc Chúa trao, giúp bền tâm thực thi mọi việc lành cho đến ngày Chúa giáng lâm vinh hiển. Cách duy nhất giúp nhận diện vị thừa sai Tin Mừng là đức ái. Càng mến Chúa, người môn đệ càng yêu mến tha nhân. Cũng vậy, lòng mến càng dồi dào phong phú, người môn đệ càng thêm hiểu biết và thêm trực giác siêu nhiên, nghĩa là: rất mau mắn biên phân chính tà, tốt xấu và có sức làm những điều tốt đẹp hơn.

 

Thưa anh chị em,

Giáo huấn Lời Chúa hôm nay dạy chúng ta:

Một là: Ơn cứu độ phổ quát Chúa ban tặng thế gian cách nhưng không. Chúng ta phải có tư tưởng và việc làm bồi đắp nền văn minh tình thương. Luôn tâm niệm: “Chúa muốn mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý” (1Tm 2, 4), để không nói gì hay làm gì tổn hại đến tình hiệp thông phổ quát, góp phần tích cực vào việc hội nhập văn hóa và đối thoại liên tôn dựa trên nền tảng Tin Mừng. 

Hai là: Tích cực hoán cải và canh tân, theo lời dạy của thánh Gio-an: bạt nơi cao: bỏ tính tự kiêu, tự đại ; lấp hố sâu là tính tham lam, ích kỷ ; nắn thẳng con đường quanh co là sự gian dối, lường gạt, lừa đảo…

 

Thực hành những điều kể trên, chúng ta đang làm phải, chúc anh chị em vạn an và dư đầy ơn Chúa để hoàn tất thời gian chuẩn bị, dọn lòng đón Chúa đến, chúng ta sẽ được Chúa ban thưởng hạnh phúc bây giờ và luôn mãi. Amen.

 

91.        Đại lượng đón Chúa

(Suy niệm của Lm. Phạm Quốc Hưng)

 

Đón tiếp người khác hay tiếp khách là một trong việc chúng ta vẫn thường làm trong đời sống hàng ngày. Điều này xảy ra trong mọi lãnh vực của xã hội từ việc đón tiếp một người thân yêu, một ân nhân hay bằng hữu trong sinh hoạt cá nhân hay gia đình, cho đến việc đón tiếp các bậc vị vọng trong đạo hay ngoài đời trong các đoàn thể xã hội hay tôn giáo, trong phạm vi quốc gia hay quốc tế. Cách thức chúng ta chuẩn bị để đón tiếp một người tùy thuộc rất nhiều vào yếu tố người ấy là ai, người ấy liên hệ thế nào với chúng ta, người ấy đã làm gì cho chúng ta, và việc đón tiếp của chúng ta dành cho người ấy sẽ ảnh hưởng thế nào đến liên hệ giữa người ấy và chúng ta.

 

Một trong những chủ đề nổi bật trong Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay là lời mời gọi Dân Chúa phải chuẩn bị đón Chúa. Đây cũng là chủ đề then chốt của Mùa Vọng. Thật vậy, ngày xưa Dân Chúa trong Cựu Ước được các ngôn sứ kêu mời để trông mong Đấng Thiên Sai, Đấng nhân danh Chúa sẽ đến để giải phóng họ. Bài đọc một trích sách Ngôn Sứ Barúc nhắc cho chúng ta biết một chân lý thật cảm động: đó là khi mời gọi Dân Chúa chuẩn bị dọn đường mừng đón Chúa nơi Đấng Thiên Sai thì chính Chúa đã thương yêu và dọn đường cho Dân Chúa đi đến vinh quang: “Hỡi Giêrusalem, hãy chỗi dậy, đứng nơi cao, và nhìn về hướng đông. Hãy nhìn con cái ngươi từ đông sang tây tập họp lại theo lệnh của Đấng Thánh, họ hân hoan thấy Chúa nhớ đến họ. Họ bị quân thù dẫn đi xa ngươi, nhưng Chúa đã đưa họ về cho ngươi trong vinh dự như những hoàng tử.

 

Vì Chúa đã ra lệnh triệt hạ mọi núi cao và mọi đồi từ ngàn xưa, lấp đầy những hố sâu, để trái đất được bằng phẳng, hầu Israel vững vàng bước đi cao rao vinh quang Thiên Chúa. Theo lệnh Chúa, những cánh rừng, những cây có hương thơm đã cho Israel núp bóng, vì Chúa sẽ hân hoan lấy lòng từ bi và công bình của Người dẫn dắt Israel đến ánh vinh quang” (Br 5:5-9).

 

Cũng vậy, trong Thánh Vịnh 125 được trích dẫn để dùng trong phần đáp ca của Phụng Vụ hôm nay, Thánh Vịnh Gia đã diễn tả niềm vui lớn lao của Dân Chúa khi Chúa đưa dẫn họ từ chốn lưu đầy về quê cha đất tổ, đã thay đổi số phận của họ, đã cư xử với họ một cách hết sức quảng đại và đầy tình thương. Câu điệp ca tóm gọn lý do đem lại niềm vui của Dân Chúa như sau: “Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan” (Tv 125:3).

 

Chúa Giêsu Kitô-Đấng Cứu Chuộc Nhân Thế mà các tổ phụ và ngôn sứ hàng trông mong -đã đến và hoàn tất công cuộc cứu chuộc nhân loại bằng việc nhập thể, giáng sinh, cuộc đời rao giảng, cuộc khổ nạn, cái chết và sự phục sinh của Người. Như vậy, nơi Chúa Kitô lòng thương yêu đại lượng của Thiên Chúa dành cho nhân loại đã được thể hiện cách trọn vẹn. Vì vậy, tin vào lời Chúa hứa ngày nay Hội Thánh tiếp tục nhắc nhở và mời gọi chúng ta phải tha thiết trông mong và nỗ lực chuẩn bị đón Chúa Giêsu trở lại lần thứ hai trong vinh quang.

 

Chúng ta phải đón tiếp Chúa Giêsu như thế nào? Người là vị khách cao cả và quyền uy trên mọi vị khách, Đấng hằng thi ân cho chúng ta hơn mọi ân nhân khác, Đấng luôn yêu thương chúng ta hơn mọi người thân yêu khác, và Đấng sẽ có thể làm cho chúng ta những điều tốt lành quý giá hơn cả những gì chúng ta có thể mơ ước và cầu xin!

 

Chính Thiên Chúa đã giúp chúng ta thực hiện việc đón tiếp Chúa Cứu Thế một cách xứng hợp như lòng Người mong muốn qua ơn gọi và sứ mạng của Thánh Gioan Tiền Hô. Tin Mừng hôm nay tóm gọn ơn gọi và sứ mạng của Gioan bằng những lời sau của ngôn sứ Isaia: “Có tiếng kêu trong hoang địa: Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng; hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi; con đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, con đường gồ ghề hãy san cho bằng. Và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa” (Lc 3:4-6).

 

Lời mời gọi chuẩn bị đón Chúa ở đây không gì khác hơn là lời mời gọi sám hối và hoán cải. Lời mời gọi này sẽ được chính Chúa Giêsu lập lại trong lời rao giảng công khai đầu tiên của Người: “Thời kỳ đã mãn. Nước Thiên Chúa đã đến gần! Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1:15).

 

Việc hoán cải này được ngôn sứ Isaia diễn tả cách cụ thể bằng những hình ảnh với những ý nghĩa sau:

 

  1. “Hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng” và “đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng”: phải chấm dứt lối sống tà vạy, gian dối, quanh co, hai lòng để sống với lòng đơn sơ ngay thật.

 

  1. “Hãy lấp mọi hố sâu”: phải lấp đầy hố sâu của lòng tham lam bằng tinh thần nghèo khó và chia sẻ; lấp đầy hố sâu của lòng ganh ghét hận thù bằng lòng yêu thương chân thật; lấp đầy hố sâu của thành kiến và chia rẽ bằng tinh thần đối thoại và hiệp nhất.

 

  1. “Hãy bạt mọi núi đồi”: phải bạt mọi núi đồi của tính tự kiêu tự đại và những tham vọng bất chính bằng tinh thần khiêm nhu tự hạ của Chúa Giêsu, để ta có thể gặp gỡ Thiên Chúa và tha nhân.

 

  1. “Con đường gồ ghề hãy san cho bằng”: phải san bằng con đường gồ ghề của ý riêng và lòng tự ái, để ta có thể sống bình an với Thiên Chúa và tha nhân qua việc chuyên chăm thực thi Thánh Ý Chúa với tinh thần xả kỷ vị tha.

 

Con đường phải sửa chữa ở đây để đón Chúa chính là tâm hồn, con người và cuộc sống của mỗi người chúng ta. Con đường ấy phải được sửa chữa lại theo khuôn mẫu của chính Chúa Giêsu, Đấng đã tuyên ngôn: “Ta là Đường là Sự Thật và là Sự Sống”(Jn 14:6). Điều đó cũng có nghĩa là chúng ta phải hoán cải tâm hồn để chúng ta có được nơi mình “tâm tư như đã có nơi Đức Kitô” (Pl 2:5). Đó là con đường duy nhất đưa đến sự sống thần linh của tình yêu và sự thật.

 

Vì thế, tất cả nỗ lực chuẩn bị đón Chúa phải được thực hiện trong tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân. Đây chính là lý do khiến Thánh Phaolô trong bài đọc hai của Phụng Vụ hôm nay đã tha thiết cầu xin cho các tín hữu của người. Thánh nhân viết: “Vì Thiên Chúa làm chứng cho tôi rằng: tôi yêu mến tất cả anh em với tâm tình của Đức Giêsu Kitô. Điều tôi cầu nguyện cho anh em là lòng bác ái của anh em ngày càng gia tăng trong sự thông biết và am hiểu, để anh em xác định những điều quan trọng hơn, để anh em được trong sạch và không có gì đáng trách cho đến ngày của Đức Kitô, anh em được Đức Giêsu Kitô ban cho dư đầy hoa quả công chính, hầu tôn vinh và ngợi khen Thiên Chúa” (Pl 4:8-11).

 

Cũng vậy, một tác giả trong thứ kỷ thứ hai xác quyết rằng lòng yêu thương giúp đỡ tha nhân kèm với tinh thần cầu nguyện hãm mình luôn gắn liền và chiếm chỗ nhất trong việc hoán cải để dọn đường cho Chúa đến: “…bố thí là một cách sám hối rất tốt.

 

Ăn chay tốt hơn cầu nguyện, nhưng bố thí tốt hơn cả hai. Lòng yêu thương che phủ muôn vàn tội lỗi, nhưng lời cầu nguyện phát xuất từ lương tâm ngay lành sẽ giải thoát cho khỏi cái chết. Phúc cho ai được coi là hoàn hảo trong những việc ấy, vì bố thí sẽ làm cho cho gánh tội nhẹ đi” (Kinh Sách Thứ Sáu tuần XXXII thường niên).

 

Tóm lại, Thiên Chúa đã tỏ ra đại lượng vô cùng trong việc đối xử với chúng ta trong việc đã ban tặng chúng ta Con Một Người là Chúa Giêsu Kitô. Cũng vậy, Người cũng muốn chúng ta noi gương Người trong việc đại lượng chuẩn bị đón Chúa Giêsu trở lại lần thứ hai qua việc tận tình hoán cải để trở nên giống Chúa Giêsu, bằng cách chuyên chăm cầu nguyện hãm mình và thực thi bác ái với tha nhân. Đó chính là cách chuẩn bị đón Chúa tốt đẹp nhất. Và đó cũng là cách thức để đón nhận niềm vui ơn cứu độ mà Chúa Cứu Thế đã mang lại cho chúng ta.

 

Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ dạy con biết quảng đại và nồng nhiệt trong việc chuẩn bị đón Chúa Giêsu Con Mẹ trở lại trong vinh quang, bằng đời sống chuyên chăm cầu nguyện, hy sinh xả kỷ và yêu thương phục vụ tha nhân. Amen.

 

92.        Chúa Nhật 2 Mùa Vọng

(Suy niệm của P. Trần Đình Phan Tiến)

 

SỰ KHIÊM NHƯỜNG ĐÍCH THỰC

 

Chương 3 Tin Mừng (Lc 1-6) hôm nay, giới thiệu Gioan Tẩy giả, sứ giả của Đấng Cứu Thế, được trình bày từ câu 1 – 6. Diễn tả hai ý nghĩa quan trọng:

  • Một là: -thời gian và hoàn cảnh lịch sử, địa điểm có thật trong nước Do-thái, những sự kiện ấy chứng minh sự thật về Gioan Tẩy giả, và Gioan Tẩy giả là chứng về Đấng Cứu Thế.
  • Hai là: – kêu gọi sự sám hối và phép rửa.

 

Như vậy, khi Đấng Cứu Thế đến là lúc người ta sắp được đón nhận một sự kiện trọng đại từ thời cựu ước. Thiên Chúa đã hứa ban Đấng Cứu chuộc cho con người. Một tâm trạng háo hức và đón chờ. Đón chờ Đấng cứu chuộc đến bằng một thái độ sám hối.

 

Vậy sám hối có ý nghĩa gì? Tại sao phải sám hối?

Thưa sám hối là một tâm trạng cần thiết để đón nhận tình thương của Thiên Chúa, vì ơn tha thứ và cứu chuộc của Thiên Chúa không phải là những hình thức bên ngoài, mà là chính nội tâm của con người. Ta thử đặt mình vào hòan cảnh lúc bấy giờ của người Do- thái khi họ sống tâm trạng mong đợi Đấng Cứu Thế. Lúc đầu họ lầm tưởng Gioan Tẩy giả là Đấng Cứu Thế.

 

Nhưng Gioan Tẩy Gỉa không mạo nhận, vì sao? Thưa vì,ông làm chứng cho sự thật, chứ ông không phải là sự thật. Sự thật chính là Đấng Cứu Thế. Như vậy cho thấy sự mong đợi Đấng Cứu Thế đến, của người Do- thái như thế nào? Họ háo hức, chờ mong rất mãnh liệt, nhưng sự chờ mong ấy không bằng nội tâm mà bằng hình thức. Nên chi, khi Gioan Tẩy Gỉa làm phép rửa cho họ, thì họ chen chúc nhau để được làm phép rửa. Phép rửa mà Gioan Tẩy giả làm cho họ, không phải là ơn cứu độ, mà là hình thức để sám hối. Nhưng họ chen chúc nhau để lãnh nhận phép rửa của Gioan Tẩy giả, nhưng ông đã mắng họ:”

 

Hỡi những loài rắn độc kia, ai chỉ cho các ngươi trốn khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, sắp giáng xuống trên các ngươi vậy?” (c 7). Rõ ràng là họ không ý thức được ơn Cứu Độ. Nhưng sự kêu gọi của Gioan Tẩy giả chính là phải thay đổi nội tâm từ bên trong con người. Nội tâm, bên trong của con người rất đáng sợ vì “Bên ngoài thì thơn thớt nói cười, nhưng bên trong nham hiểm giết người không đao” hay là “sông sâu còn có chổ dò, nhưng ai lấy thước mà đó lòng người.”. Nên chi, nội tâm là điều quan trọng, điều mà Thiên Chúa muốn là nội tâm của con người. Đấng Cứu Thế, chính là ơn cứu độ đến, Nhưng Đấng Thiên Sai đến không phải bằng quân đội hùng mạnh, không phải bằng những phương tiện hiện đại của trần thế mà là bằng một sự khiêm nhường rốt cùng, bằng một kiếp người đơn sơ, khiêm hạ.

 

Như vậy, tiếng kêu trong hoang địa của Gioan Tẩy giả là một phương tức sám hối.Sám hối là một tâm trạng cần thiết để đón chờ Ngôi Hai NhậpThể. Vì nếu con người không có tâm trang đón chờ từ bên trong, thí ơn cứu độ không có ý nghĩa gì. Lúc đó, lãnh nhận phép rửa ở bên ngoài, khác gì hòn đá bị bám bụi, được ta rửa bên ngoài, còn bên trong vẫn là đá. Sự sám hối bắt đầu bằng sự nhận thức khiêm nhường, chỉ có khiêm nhường mới nhìn nhận giá trị đích thực của thân phận con người mà thôi. Vì khiêm nhường càng thẳm sâu, thì đón nhận càng nhiều. Khiêm nhường chính là nhìn nhận sự thật, nhìn thấy đâu là thân phận mỏng giòn, đâu là Thiên Chúa, đâu là nhân thế?

Như vậy, đón chờ lễ Giáng Sinh của Con Thiên Chúa làm Người, là đón chờ một mầu nhiệm của sự nội tâm,của sám hối, của tình thương bằng sự khiêm nhường đích thực như Ngôi hai nhập thể và nhập thế, chứ không phải bằng những hình thức bên ngoài.

 

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến và đang đến trong thế gian bằng con đường khiêm hạ và vâng lời. Đó là điều mà Chúa muốn cho chúng con noi theo, xin thương ban cho chúng con biết nhận ra giá trị đích thực của Chúa bằng con đường khiêm tốn và sám hối. Amen.

 

93.        Chúa Nhật 2 Mùa Vọng

(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển)

 

SÁM HỐI LÀ MÓN QUÀ QUÝ GIÁ NHẤT

 

Tin mừng Lc 3:1-6: Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta hãy chuẩn bị con đường tâm hồn, để trở nên trong sạch, thênh thang nhờ gạt bỏ những vẩn đục của tham lam, ích kỷ, gian dối, kiêu ngạo…

 

Người Hồi Giáo Ảrập có kể một giai thoại nói về sám hối rất hay: một ngày kia, Đức Thánh Ala cho gọi một thiên sứ đến và bảo: “Ngươi xuống trần gian kiếm cái quý giá nhất của con người và mang về đây cho Ta”. Thiên sứ ra đi thi hành mệnh lệnh.

 

Lần đầu tiên, ngài mang về cho Đức Thánh Ala một bình máu của các chiến sĩ mà ngài hứng được trong trận chiến giữa người Hồi và người Ấn Giáo (đó là máu của các vị tử đạo theo quan niệm của người Hồi Giáo). Lần thứ hai thiên sứ mang về là hương thơm của lòng biết ơn mà người dân dành cho vị trưởng làng qua cái chết của ông. Cả hai lần, Đức Thánh Ala rất vui, vì đó là những điều quý ở trần gian mà sứ thần tìm kiếm được. Tuy nhiên, đây vẫn không phải là món quà quý giá mà Đức Thánh Ala muốn tìm. Và, Ngài lại sai thiên sứ đi lần thứ ba. Lần này, thiên sứ vừa đi vừa suy nghĩ, điều quý giá nhất ở trần gian là cái gì? Bỗng nhiên, từ đàng xa, thiên sứ nghe thấy tiếng khóc của một phụ nữ. Đến gần, thiên sứ cảm thương hỏi: “sao cô khóc”? Không có tiếng trả lời! cô gái lại càng khóc nức nở hơn trước. Bấy giờ vị thiên sứ tiến lại gần nắm lấy tay cô và hỏi: “sao cô khóc nhiều đến thế, có gì nói cho tôi nghe với”? Bấy giờ có tiếng nói từ miệng cô thoát ra hòa lẫn tiếng nấc cùng với dòng nước mắt tuôn rơi. Cô gái nói: “thưa ngài con đau khổ quá, con đau khổ vì lỗi lầm của con, con đã xúc phạm đến nhiều người và làm trái với lòng mình… Bây giờ con hối hận lắm…”. Thật cảm động! thiên sứ liền hứng những giọt nước mắt của cô mang về cho Đức Thánh Ala. Lần này Ngài vui mừng và reo lên: “đây chính là điều Ta mong muốn. Giọt nước mắt của lòng sám hối chính là món quà quý giá nhất mà Ta cần”.

 

Bài Tin Mừng hôm nay, thuật lại việc Gioan Tiền Hô loan báo và kêu gọi dân chúng ăn năn sám hối, vì ơn cứu độ đã gần đến. Vậy ăn năn sám hối là gì?

 

  • Trước tiên, sám hối là quay trở về với Chúa, xin ơn tha thứ và từ bỏ con đường tội lỗi. Sám hối là một động tác gột rửa tâm hồn, để sống cho hợp với ý Chúa, đem lại bình an nội tâm và liên đới với mọi người.
  • Thứ đến, sám hối còn là hành vi mong chờ ơn cứu độ: “Maranatha, lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến”. Phải chăng vì thế mà động từ “gần đến” của Gioan ở đây có thể hiểu được là sắp đến lễ Giáng Sinh. Và, cũng có thể hiểu là ngày “gần đến” của ơn cứu độ, ngày cánh chung của mỗi người chúng ta.
  • Tiếp theo, sám hối là làm mới lại tinh thần, canh tân đời sống và thay đổi não trạng cũ để đổi lấy tâm tình mới.

 

Tinh thần đó, được thánh Gioan vạch ra cho những người đương thời với ngài, và cũng là cho mỗi người chúng ta: “Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng” (Lc 3,5).

 

Thung lũng ở đây là những tham lam ích kỷ, hẹp hòi nhỏ nhen, ăn chơi vô độ, chỉ biết thu góp cho mình, bất chấp mọi điều bất chính. Đồng thời phải uốn cho ngay những lối nghĩ quanh co, những tính toán lệch lạc. Có thì nói có, không thì nói không. Thêm điều bịa đặt là do Ma Quỷ. Mặt khác, phải san cho phẳng những núi đồi của sự kiêu ngạo và tự mãn. Ai kiêu ngạo thì sẽ chết trên đỉnh cao của sự tự phụ. Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo và nâng đỡ những người khiêm nhường. Và, phải bạt cho bằng những gồ ghề, lồi lõm của bất công, bất chính.

 

Thiết nghĩ, hành động cụ thể nhằm đáp lại lời mời gọi của thánh Gioan hôm nay và cũng là thể hiện lòng sám hối chân thành, chính là: phải lấp thật đầy những hố sâu ngăn cách bằng sự quan tâm, chia sẻ với những người bất hạnh, người khổ đau, nghèo đói. Sẵn sàng đến với những người bé mọn, kém may mắn để nâng đỡ, yêu thương và lắng nghe họ…. luôn trung thành với lương tâm và đứng về phía sự thật, dầu có phải chết. Quyết không bao giờ đứng về phía bất công, không vì lợi nhuận trước mắt mà bán đứng anh chị em đồng loại, đồng thời cũng đừng bao giờ lên án cách bất công người khác. Và, hãy ý thức những giới hạn của bản thân, để cần đến ơn Chúa trợ giúp.

 

Nếu Gioan là vị Tiền Hô kêu gọi sám hối để chuẩn bị đón Chúa ngự đến, thì chúng ta là những người sống lời loan báo ấy và làm cho tiếng hô của Gioan âm vang trong xã hội và lòng người hôm nay.

 

Tắt một lời, sám hối là trở về với Chúa và xin ơn tha thứ của Người. Sám hối là để nhận ra những thiếu sót của mình. Biết khiêm tốn sửa sai, để liên đới, lắng nghe và yêu thương anh chị em đồng loại. Cuối cùng, sám hối là canh tân, là đổi mới để đón nhận ơn cứu độ.

 

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta hãy chuẩn bị con đường tâm hồn, để trở nên trong sạch, thênh thang nhờ gạt bỏ những vẩn đục của tham lam, ích kỷ, gian dối, kiêu ngạo…để trở thành đại lộ yêu thương, xứng đáng đón Chúa ngự đến trong đêm Giáng Sinh và ngày cánh chung của mỗi người chúng ta.

 

Như vậy, sám hối là món quà quý giá nhất mà chúng ta dâng lên cho Chúa trong Mùa Vọng này.

 

Lạy Chúa, xin cho con có được tâm tình sám hối. Sám hối với Chúa và tạ lỗi với anh chị em mình. Biết khiêm tốn nhìn nhận mình yếu đuối để canh tân, đổi mới. Ước gì con đường tâm hồn chúng con không còn những thung lũng, gồ ghề, cong queo, nhưng thay vào đó là một con đường khiêm nhường, trong sạch và chân thật, để đón Chúa ngự đến. “Maranatha, lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến”. Amen.

 

94.        Chúa Nhật 2 Mùa Vọng

(Suy niệm của Lm. Stêphanô Bùi Thượng Lưu)

 

Tin Mừng của Chúa Nhật Thứ 2 Mùa Vọng năm C theo thánh sử Luca đã đặc biệt ghi lại bối cảnh lịch sử và địa dư lúc Gioan Tẩy Giả bắt đầu thi hành sứ vụ “dọn đường cho Đức Chúa: “Năm thứ mười lăm dưới triều hoàng đế Tibêriô, thời Phongxiô Philatô làm tổng trấn miền Giuđêa, Herôđê làm tiểu vương miền Galilê”. Chúng ta nên lưu ý đến những nhân vật lịch sử cùng thời với vị Sứ giả của Chúa Giêsu và cũng sẽ có liên quan tới cuộc đời Chúa Cứu Thế sau này.

 

Đoạn kết của Tin Mừng Chúa nhật hôm nay đã mở ra một viễn tượng mới thật huy hoàng, thật an ủi cho bạn, cho tôi và cho mọi chúng sinh: Rồi hết mọi phàm nhân sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa. Hết mọi người phàm sẽ được “thấy” ơn Cứu Độ của Thiên Chúa. “Thấy” Thiên Chúa tận mắt (Isaia 52,8) vẫn là niềm mơ ước sâu xa nhất của mọi chúng sinh. Ai cũng mong được “thấy” ơn cứu độ của Chúa như cụ già Simeon ẵm Hài Nhi Giêsu trên đôi tay và ca lên rằng: “Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ”. (Lc 2, 27-32).

 

Ước mơ lớn lao nhất của bạn và của tôi vẫn là được sống hạnh phúc, được sống mãi không phải chết. Nhưng thực tế và kinh nghiệm sống hé mở cho chúng ta thấy “cuộc đời là bể khổ”. Từ khi ta cất tiếng khóc oe oe chào đời, cho đến lúc nhắm mắt xuôi tay xuống, mấy ai được hưởng hạnh phúc trọn vẹn?! Lúc nào tâm trí ta cũng lo âu khắc khoải với những câu hỏi vẫn ám ảnh con người trong mọi nơi và mọi thời: tôi sinh ra đời để làm gì? Tại sao cuộc đời của tôi bị đau khổ triền miên? Sau khi chết tôi sẽ đi về đâu? Tôi có thể tự giải thoát và tự cứu mình khỏi chết không? Chả nhẽ cuộc đời là vô nghĩa như các triết gia vô thần đã chủ trương: con người sinh ra để rồi chết. Mỗi tôn giáo đã đem đến cho con người một câu giải đáp, một lóe sáng hy vọng, đồng thời đề nghị những phương dược để được trường sinh bất tử. Ở đây, Gioan Tẩy Giả loan báo một sứ điệp cứu rỗi mới và đề nghị một giải đáp căn bản để đạt tới cứu cánh: “Ông liền đi khắp vùng ven sông Giođan, rao giảng, kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội”. Gioan Tẩy Giả tiếp tục sứ mệnh của ngôn sứ Isaia: kêu gọi con người “dọn đường cho Đức Chúa”, tức là chuẩn bị tâm hồn đón nhận Đấng Thiên Sai đến.

 

Ở ngưỡng của Tân Ước, sứ điệp hoán cải của các Ngôn Sứ trong Cựu Ước đã được kết tinh lại trong lời giáo huấn của Gioan Tẩy Giả, vị Ngôn Sứ sau cùng: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã gần” (Mt 3,2). Dân Do Thái xưa bị các Ngôn Sứ cho là một “dân cứng đầu cứng cổ” (Mt 13,15, Is 6,10), lòng chai dạ đá, không thèm lắng nghe lời mời gọi của Thiên Chúa. Thử hỏi, lời rao giảng của Gioan Tẩy Giả vang vọng cách đây 2000 năm, cũng đã là lời kêu gọi của các ngôn sứ bao ngàn năm trước Chúa giáng sinh được lập đi lập lại cho dân của Chúa chọn, có còn giá trị bạn, cho tôi, cho thời đại văn minh ngày nay nữa không?

 

Câu trả lời thật rõ ràng: sứ điệp “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã gần” vẫn còn hiện thực và càng khẩn thiết hơn bao giờ hết, nhất là trong Năm Toàn Xá 2000 này. Bạn và tôi cứ thử đưa mắt nhìn vào cuộc sống cá nhân của mình, cuộc sống của gia đình bạn, của xóm làng mình sinh sống, của môi trường và công xưởng bạn làm việc, nói rộng ra của xã hội và thế giới hôm nay… Bạn sẽ thấy chính bạn, chính gia đình bạn, chính cộng đòan và xã hội thụ hưởng vật chất hôm nay, đang cần được giải thoát, đang cần được cứu độ. Thánh Gioan Tẩy Giả mời gọi bạn, mời gọi tôi, mời gọi con người hôm nay hãy bắt tay vào việc bằng các việc sám hối cụ thể sau:

 

  1. Mọi thung lũng phải lấp cho đầy: Lũng sâu bao giờ cũng là tượng trưng cho hố thẳm của mọi nguy hiểm, mọi bất trắc. Hố sâu tượng trưng cho túi tham vô đáy của con người. Vì gian tham, con người có thể thực hiện đủ mọi tội ác để vơ vớt. Tưởng rằng càng vơ vét nhiều, mình càng giầu, càng đầy. Nhưng oái oăm thay, mình càng thấy cuộc đời trỗng rỗng. Hành động “lấp đầy” theo nghĩa siêu nhiên ở đây là lấp đầy những hố thẳm mênh mông (những khát vọng vô biên) của con người bằng đạo đức, bằng công chính, bằng chính Thiên Chúa, là Đấng Cội Nguồn sự sống, là chính Chân Thiện Mỹ.

 

  1. Mọi núi đồi phải bạt cho thấp: Mãi mãi con người chỉ là tạo vật, không phải là “Chúa”, dù có cố gắng bắt chước con ếch để hít hơi phình bụng, nhưng ếch vẫn là ếch! Ý thức được sự bất toàn và giới hạn của mình, hay đúng hơn “biết mình” để đừng tự cao tự đại, để “cải quá tự tân”. Từ bỏ tính kiêu căng, “coi trời bằng vung” của mọi tạo vật, biết nhìn nhận thân phận yếu đuối mỏng dòn của mình. “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi” (Lc 18,13). Nước mưa chỉ có tuôn chảy xuống lũng sâu và ở lại đó làm cho cây cối quanh bờ sinh hoa kết trái. Ơn Thiên Chúa cũng như dòng nước tuôn trào vào lòng kẻ khiêm nhu, để nhuần thấm, để tưới gội và làm cho cuộc sống con người đâm chồi nẩy lộc và đơm bông kết trái, hức hẹn một mùa gặt phong phú.

 

  1. Khúc quanh co phải uốn cho ngay: Phải sống lương thiện. Con tim phải trở nên “nhân chi sơ tính bản thiện” của một trẻ em (Mt 18,3) mới có thể vào được Nước Trời. Sống quanh co lươn lẹo vì tự ái, vì danh lợi dục chỉ làm cho mình xa người khác và xa Thiên Chúa.

 

  1. Đường lồi lõm phải san cho phẳng: Phải nỗ lực chỉnh đốn và sửa sang lại những chỗ “lồi lõm” chính là các tính mê tật xấu lớn nhỏ, những sỏi đá làm cho Lời Chúa không thể đâm chồi lẩy lộc và đâm rễ sâu vào tâm hồn. Luật Mới của Nước Thiên Chúa đòi hỏi con người phải “san cho phẳng” những gì là “lồi lõm”. Lòng “ăn năn sám hối” hoán cải nội tâm và luân lý (metanoia) buộc con người phải “từ bỏ” các đam mê và các tà thần để quay về với Thiên Chúa hằng sống và chân thật.

 

  1. Lãnh nhận Phép Rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội: Lãnh nhận Phép Rửa để được ơn tha thứ mọi tội lội và được thánh hóa (Lc 24,47). Chúa Giêsu, trước khi lên trời, đã ra lệnh cho các môn đệ rao giảng Tin Mừng cho khắp thế giới và rửa tội muôn dân: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Ai tin và chịu phép Rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin sẽ bị kết án” (Mc 16, 15-16).

 

Sám hối để nhập tịch Nước Thiên Chúa, bước theo Thầy Giêsu như vị Sư Phụ chí thánh và thực hành linh đạo của Ngài: Đức Giêsu không những đến để loan báo Nước Thiên Chúa, nhưng Ngài còn khai mở với quyền năng (Mt 1,15; Mt 4,17). Ngài đã đến, chính là để ” kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn” (Luca 5,32). Nhưng lời kêu gọi “sám hối ăn năn” của Chúa Giêsu gặp nhiều ngáng trở: tính tự mãn và ngoan cố của người dưới mọi hình thức, mọi đam mê danh lợi dục, như những dây chằng chịt trói buộc con người lại. Còn con người ngày nay, còn Bạn, còn tôi? Lòng của mỗi người chúng ta ra sao trước lời mời gọi hoán cải nội tâm của Thiên Chúa.

 

95.        Chúa Nhật 2 Mùa Vọng

(Suy niệm của Huệ Minh)

 

LỜI MỜI GỌI SÁM HỐI CỦA GIOAN

 

Tin mừng Lc 3:1-6: Lời Chúa ông nghe trở thành Lời Chúa ông công bố. Tiếng Chúa gọi ông trở thành tiếng ông mời gọi mọi người. Gioan là vị ngôn sứ cho dân tộc ông sau gần năm thế kỷ vắng bóng ngôn sứ. Ông sống trong dòng lịch sử của đạo lẫn đời: một hoàng đế Tibêriô…

 

Gioan là một con người đặc biệt và rồi một cuộc sinh ra kỳ lạ, một lối sống khác thường. Hoang địa là nơi vắng người, trơ trụi, thiếu sự sống. Nhưng chính ở đó mà Gioan đã lớn lên và trưởng thành, trong sự gặp gỡ thâm trầm với Thiên Chúa. Càng lúc ông càng ý thức về sứ mạng của mình, nhưng ông đã kiên nhẫn chờ đợi nhiều năm tháng, cho đến ngày ông nghe thấy Thiên Chúa ngỏ lời với ông. Lời của Ngài đưa ông ra khỏi hoang địa để đến với mọi vùng ven sông Giođan mà gặp con người.

 

Lời Chúa ông nghe trở thành Lời Chúa ông công bố. Tiếng Chúa gọi ông trở thành tiếng ông mời gọi mọi người. Gioan là vị ngôn sứ cho dân tộc ông sau gần năm thế kỷ vắng bóng ngôn sứ. Ông sống trong dòng lịch sử của đạo lẫn đời: một hoàng đế Tibêriô, hai thượng tế Khanna và Caipha, một Philatô tham lam, tàn bạo, tổng trấn vùng Giuđê, một Hêrôđê, tiểu vương vùng Galilê, kẻ sẽ giết ông sau này. Gioan đón nhận toàn bộ dòng lịch sử ấy. Lịch sử dân tộc là nơi diễn ra lịch sử cứu độ. Gioan biết mình là Tiền Hô cho Ðấng Cứu Thế, và ông cố làm tròn sứ mạng của mình trước lịch sử.

 

Sa mạc vốn là một phạm trù ưu việt của Kinh Thánh. Những cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người thường diễn ra trong sa mạc. Môisen đã phải lẫn trốn vào sa mạc để được nhận biết Chúa và nhận lãnh sứ mạng giải phóng dân tộc. Bốn mươi năm lang thang trong sa mạc là thời kỳ thanh luyện cần thiết để dân riêng được vào đất Hứa. Truyền thống đi vào sa mạc đã không ngừng được các tiên tri về sau sống lại như một kinh nghiệm cần thiết trước khi thi hành sứ vụ. Nhưng điển hình và mang nhiều ý nghĩa hơn cả vẫn là 40 đêm ngày chay tịnh của Chúa Giêsu trong sa mạc và những đêm cầu nguyện lâu giờ của Ngài trong nơi vắng vẻ.

 

Sa mạc là đồng nghĩa với nắng cháy trơ trụi, nghèo nàn. Phải chăng có trở nên trống rỗng và nghèo nàn, có trút bớt đi những cái không cần thiết thì con người mới lắng nghe được tiếng nói của Chúa và thanh luyện được niềm tin của mình. Lịch sử Giáo Hội luôn chứng minh rằng những cuộc bách hại luôn là yếu tố thanh luyện và canh tân Giáo Hội. Trong thử thách và khổ đau, trong nghèo nàn và trơ trụi Giáo Hội lại càng vững mạnh hơn. Có trút bỏ được những cái không cần thiết và làm cho vướng mắc thì Giáo Hội mới trở nên sáng suốt và giàu có. Giàu có không do những phương tiện vật chất và các thứ đặc quyền đặc lợi, mà giàu có bởi một niềm tin được tinh luyện và can trường hơn.

 

Từ trong sa mạc của thánh Gioan Tẩy Giả, chúng ta cũng có thể rút ra được một bài học khác cho niềm tin. Không những từ trong sa mạc Gioan đã nắm được tiếng Chúa, mà còn can đảm để hô lớn tiếng Chúa cho mọi người được nghe thấy: “Hãy dọn đường cho Chúa, hãy sửa đường cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi. Ðường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, đường gồ ghề hãy san cho bằng”. Lời kêu gọi ấy, Gioan chẳng những đã ngỏ với đám dân nghèo hèn, thấp cổ bé miệng, mà còn nhắn gởi với cả giai cấp thống trị trong cả nước nữa. Ngồi tù và cuối cùng bị chém đầu vì dám lên tiếng tố gaíc hành vi tội ác của một Hêrôđê, số phận của Gioan cho chúng ta thấy rằng ngài đã đi đến tận cùng sứ mạng tiên tri của ngài. Thánh nhân đã dám nói thẳng và sống thực là bởi vì ngài không có gì để tiếc nuối, không có gì để bám víu, không có gì để giữ lấy ngoài chiếc áo da thú của ngài.

 

Từ trong sa mạc, Gioan đã nghe được tiếng Chúa, đã lãnh nhận sứ mạng của ngài và đã loan truyền cho mọi người: Hãy dọn đường Chúa đến, quanh co uốn cho ngay, gồ ghề san cho phẳng, hố sâu lấp cho đầy và nơi cao phải bạt xuống. Lời kêu gọi này, Chúa chẳng những đã ngỏ với đám dân nghèo hèn, thấp cổ bé miệng, mà còn nhắn gởi với cả giai cấp thống trị nữa.

 

Ngồi tù và cuối cùng bị chém đầu vì dám lên tiếng tố cáo hành vi tội ác của Hêrôđê. Số phận của Gioan cho chúng ta thấy ông đã đi đến tận cùng sứ mạng đã lãnh nhận. Ông đã dám nói thẳng và nói thật bởi vì ông không có gì để tiếc nuối, không có gì để bám víu, không có gì để giữ lấy, không có gì để mất mát.

 

Gioan mời dân chúng sám hối. Không thể tiếp tục sống như xưa nữa. Ðã đến lúc phải đổi đời, đổi lối nhìn, đổi lối nghĩ. Ông kêu gọi cả nước hãy sửa sang đường sá, để đón lấy Vua Mêsia, đấng ông không dám cởi dây giày. Ðường quan trọng là đường vào cõi lòng. Có bao lối nghĩ quanh co, bao tính toán lệch lạc. Có những lũng sâu tăm tối, thiếu vắng ánh sáng tình yêu. Có những núi đồi ngạo nghễ của tự kiêu, tự mãn. Có những chỗ mấp mô, lồi lõm giữa người với người. Phải sửa cho thẳng, lấp cho đầy, uốn cho ngay. Phải san cho phẳng, bạt cho thấp… Sám hối là dọn con đường của lòng mình và mời mọi người cùng dọn các con đường thành đại lộ. Ðiều đó chẳng dễ dàng chút nào, và thường gây đau đớn. Vấn đề không phải chỉ là đi xưng tội qua loa, nhưng là dẹp bỏ những chướng ngại trong tâm hồn, để Chúa có thể dễ dàng đến và ở lại.

 

Gioan đã là ngôn sứ chuẩn bị cho Chúa đến lần đầu. Chúng ta phải là ngôn sứ chuẩn bị cho Ngài đến lần cuối. Làm ngôn sứ cho dân tộc mình, cho thời đại mình: đó là ơn gọi của mọi Kitô hữu chẳng trừ ai. Cần cất tiếng hô bằng lời nói và bằng cuộc sống. Ơn cứu độ đã đến từ hai mươi thế kỷ nay, nhưng vẫn thiếu những con đường phẳng phiu, ngay thẳng, để Thiên Chúa có thể đến gặp con người. Xin Thánh Thần giúp chúng ta xây dựng những con đường mới trên những nẻo đường quen thuộc của nhân loại.

 

Chiếc áo vẫn là tượng trưng của sứ mạng tiên tri. Ðó là lý do tại sao trong dịp tấn phong Hồng Y cho một số chức sắc trong Giáo Hội, Ðức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói đến ý nghĩa của phẩm phục màu đỏ mà chúng ta quen gọi là Hồng Y. “Màu đỏ là màu của hy sinh, là màu của máu, các Hồng Y phải là những người hy sinh đến độ có thể đổ máu đào”. Lời nhắc nhở này chắc phải có một giá trị đặc biệt đối với các vị Hồng Y đến từ những nơi Giáo Hội đang bị bách hại và thử thách, những nơi mà các vị cần phải lên tiếng, cho dẫu phải hy sinh mạng sống của mình. Gioan Tẩy Giả đã lên tiếng tố cáo và kêu gọi san bằng bất công. Ngài đã can đảm lên tiếng là bởi vì ngài không có gì để mất. Ngài không sợ phải mất một ít đặc quyền đặc lợi hay bất cứ một thứ ân huệ nào.

 

Nồi cơm manh áo hay một ít bả vinh hoa có thể là động lực thúc đẩy con người thỏa hiệp và sống dối trá. Ðó cũng có thể là cơn cám dỗ của các tín hữu chúng ta trong giai đoạn hiện nay. Một ít đặc lợi vật chất, một vài ưu đãi, một số đặc quyền đặc lợi, một lời dễ dãi, đó là miếng mồi ngon khiến cho nhiều người nếu không bán đứng lương tâm của mình, nếu không uốn cong miệng lưỡi thì cũng chấp nhận thỏa hiệp im tiếng. Mùa Vọng là mùa của sa mạc, có đi vào sa mạc của nghèo khó và siêu thoát chúng ta mới dễ dàng nhận ra được tiếng nói của Chúa. Và có từ sa mạc của nghèo khó và siêu thoát, chúng ta mới có đủ can đảm để gióng lên tiếng của Chúa: “Hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu, hãy bạt mọi núi đồi. Ðường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, đường gồ ghề hãy san cho bằng”.

 

Gioan tiền hô là người gác cổng dẫn vào Tin mừng. Ngài là nhịp cầu nối giữa cựu ước và tân ước. Gioan mời gọi dân chúng sám hối để trở về, nhưng ông tự thú ông không phải là đấng Messia, mà chỉ là người phu quét đường, còn Đức Giêsu mới chính là con đường để chúng ta bước tới. Ông chỉ là tiếng kêu giữa sa mạc vọng lại lời, còn Đức Giêsu mới chính là ‘Lời’, là ngôi Lời đã trở thành xác phàm.

Gioan tóm kết sứ mạng của mình trong câu châm ngôn ‘Người phải lớn lên còn tôi phải nhỏ lại. Có Đấng đến sau tôi nhưng cao trọng hơn tôi. Tôi không đáng cúi xuống xách dép cho Ngài’. Sự khiêm tốn mà Gioan nêu gương chính là chìa khóa căn bản để chúng ta bày tỏ tâm thức sám hối, trở về với Chúa và với nhau. Khiêm tốn nhận ra những giới hạn và bất toàn nơi mình, chúng ta mới có thể quét sạch rác rưởi trong tâm hồn, dọn đường cho Chúa đến. Thánh Gioan đã nêu gương mẫu cho chúng ta về thái độ khiêm tốn căn bản này.

 

Sám hối, canh tân đời sống là một yêu cầu của đời sống đức tin. Bởi lẽ con người không thể đón nhận giáo lý của Chúa Giêsu và đến với Ngài nếu không thay đổi suy nghĩ và lối sống xa lạ với giáo lý của Chúa. Tiếng kêu của Gioan gọi mời dọn đường cho Chúa đến, được vang lên trong Mùa Vọng, nhắc nhở chúng ta về điều ấy. Đây cũng chính là nền tảng thâm sâu của niềm vui Giáng Sinh, khi Con Thiên Chúa làm người, ngài lấp đầy những khát vọng nhân loại, một khát vọng được diễn tả qua nỗ lực canh tân cuộc sống.

 

96.        Chúa Nhật 2 Mùa Vọng

(Chú giải của R. Gutzwiller)

 

SỰ XUẤT HIỆN CỦA VỊ TIỀN HÔ.

 

Sau những biến cố quá ư là đặc biệt đi kèm với việc truyền tin và sinh ra của Gioan và của Chúa Giêsu, tất cả đã trở lại yên tĩnh. Suốt trong ba mươi năm, người ta không nghe nói gì nữa. Cảnh cậu bé mười hai tuổi trong đền thờ không được ai nhắc tới. Những tiếng đồn thổi trong nhân gian về các điềm lạ quanh việc truyền tin đã bị quên đi từ lâu. Vì thế, khi vị tẩy giả xuất hiện và Chúa Giêsu bắt đầu giảng dạy đã gây ngạc nhiên không ít. Vị Tiền Hô vào cuộc trước, rồi sau đó mới tới Thày Chí Thánh.

 

  1. Thời kỳ

Tin mừng đã đánh dấu thời kỳ này cách uy nghiêm và trang trọng. Những thời biểu lịch sử được nhắc đến ở đây che dấu một thảm kịch sâu xa:

 

‘Năm thứ mười lăm thời hoàng đế Tibêriô-Xêda’. Hoàng đế Augustô mà vì chiếu chỉ của ông, Chúa Giêsu sinh ra ở Bêlem thay vì Nagiarét, đã băng hà ngay vào lúc đó. Tất cả mộng ước mà vị hoàng đế Rôma xây dựng đã theo Ngài xuống mồ. Ngài đã không trở thành ‘vị cứu tinh nhân loại’ như người ta hy vọng ở ông. Các con trai ông cũng vậy, đều đã qua đời. Và như vậy, triều chính phải trao cho người ông nhận làm con nuôi, Tibêriô, con người bẳn gắt và đa nghi, nên ít người còn trông đợi ông sẽ mang lại hạnh phúc cho họ. Vinh quang của Rôma bắt đầu lạt dần, và trong cái khung nhà của hoàng đế đã có những tiếng gẫy răng rắc.

 

‘Phongxiô Philatô làm toàn quyền xứ Giuđêa’. Dưới những tiếng này, như muốn che đậy những biến cố đáng lưu ý. Trong thời gian trên, Hêrôđê, vị đại sư của người Do thái cũng đã chết. Sự thống nhất của vương quốc bị đổ vỡ…. chia làm bốn quận vương nhỏ. Dù cho các vị cầm quyền vẫn còn mang tước hiệu ‘vương’, nhưng đó chỉ là tia sáng mờ nhạt và phần đất quan trọng nhất, miền Giuđêa và Giêrusalem, đã bị mất cho dù tới lúc này bên ngoài vẫn mang bộ mặt tự trị. Vì thực ra người kế vị Hêrôđê, Archelaus đã do người Rôma đặt lên. Miền Giuđêa đã trực thiếp bị khuất phục quyền Rôma và được cai trị bằng một vị toàn quyền Rôma.

 

Trong pháo đài Antônia đã có những toán quân Rôma. Binh lính Rôma đi tuần trên đường phố và coi sóc miền này. Dân Chúa đã tùng phục dân ngoại và phải đóng thuế. Vẻ hào hùng và sự tự do đã mất.

 

Ngoài ra, Philatô còn là một cao uỷ cứng rắn và không biết kiêng nể. Để biết những chuyện xảy ra, ông đã cho một toán quân mặc thường phục, trang bị gậy ngắn, lẫn lộn vào dân chúng, rồi còn để quân sĩ của ông can thiệp thẳng thừng nếu cần… ông không hề nể vì gì tập tục Tôn giáo của người Do Thái. Ông bãi bỏ tuỳ ý và chỉ muốn làm giàu.

 

‘Hêrôđê làm quận vương xứ Galilêa, còn em ông là Philiphê làm quận vương vùng Iturêa và Tracônitiđê; Lisania làm quận vương xứ Abilêna’. Hêrôđê Antipas là người phóng đãng. Ông muốn làm thân với người Rôma và vì muốn tâng bốc, ông đã đặt tên cho công thự mà ông xây trên bờ hồ Giênêsarét là Tibêriađê, để tỏ lòng tôn kính hoàng đế Tibêrio, nhưng ông vẫn còn nể nang người Do Thái, còn dự các buổi lễ ở Giêrusalem hầu chứng tỏ mình đạo đức. Hơn nữa, ông còn có những đội quân bí mật dùng để chống lại sức mạnh này khác nếu thấy cần. Miền Galilêa nơi mà Chúa Giêsu hoạt động lại thuộc quyền nhân vật đáng buồn này.

 

Quận vương thứ ba là một người thân Hy lạp, hoà hoãn nhưng lại quá bình thường. Còn quận vương thứ bốn là một nhân vật không được biết đến. Như vậy, xứ sở thì bị phân chia, dân chúng thì bị trao vào cho các quan quyền chuyên chế chỉ nghĩ tới thân họ và cuộc sống xa hoa, tiện nghi của riêng họ. Chẳng còn gì vẻ lớn lao của một đất nước cựu trào. Vương miện đã rớt khỏi trán Israel.

 

‘Dưới thời thượng tế Anna và Cai pha’. Israel là một dân tộc tư tế. Đền thờ là nơi cần thiết nhất. Tư tế và vua chúa đều được Giavê xức dầu, đặt tên và trao phó việc phục vụ. Nhưng sự thánh thiện của chức Tư tế tinh tuyền đã mất đi. Vị thượng tế được gọi phục vụ trong cả cuộc đời, là nhân vật được thánh hiến trong dân chúng. Thế mà người Rôma lại không để ý gì đến tập tục này, họ tự gọi và đặt lên tuỳ ý họ. Sứ vụ thánh được trao phó cho dân ngoại và người ta còn có thể mua chức đó nữa. Hai vị thượng tế đã được đặt lên như thế đó: Anna và rể ông là Caipha. Anna đã lãnh trách vụ, rồi lần lần tới năm người con và bây giờ thì tới con rể ông.

 

Như vậy quyền thế tạm thời và thiêng liêng không còn nữa, và tất cả hình ảnh lịch sử được gợi lên bằng những hàng chữ này chỉ nói lên một kỷ niệm buồn của một dĩ vãng vàng son đồng thời với ảo ảnh hiện tại thất vọng hoàn toàn.

 

‘Lời Chúa được phán ra’. Sự khôn ngoan của Thiên Chúa chỉ bắt đầu ở điểm mà khôn ngoan của con người sắp kết thúc. Khi sức mạnh của con người ngừng lại, sức mạnh của Thiên Chúa mới tỏ hiện. Ân sủng giả thiết phải có bản tính và liên kết với bản tính, nhưng không thể bị đầy đoạ ở đó. Lời của Thiên Chúa có thể được phán ở nơi và vào lúc mà người ta ít chờ đợi nhất.

 

Thiên Chúa có thể dùng Xêda và hoàng đế Rôma để thống nhất nhân loại, dùng con đường Rôma để dễ giảng truyền Tin mừng và để trao sứ điệp cho thế giới. Ngài cũng có thể dùng các binh lính và thương gia. Rồi Ngài có thể từ khước sự sửa soạn tự nhiên đó và can thiệp bằng một cách hết sức bất ngờ dựa vào chính sức mạnh của lời Ngài. Ngài hoàn toàn tự do, toàn quyền quyết định khi nào, ở đâu, trao cho ai, trong mục đích nào Ngài sẽ phán.

 

Đó là lý do khiến con người không bao giờ phải thất vọng vì cái có thể ấy là Thiên Chúa phán bảo và hoạt động, lời Ngài vẫn luôn sẵn sàng. Lại là lúc Israel được nâng cao nhất. Khi mà yếu kém cả về chính trị lẫn Tôn giáo, thì Đấng Mạnh Mẽ, Quyền Năng lại đến. Một dòng dõi suy tàn đã nảy sinh trong Đấng Messia, vị tạo Thành thế giới mới.

 

  1. Nơi chốn

‘Lời Thiên Chúa được phán với Gioan con Giacaria, trong hoang địa. Và ông đi khắp vùng xung quanh sông Giođan’.

Hai địa danh được nhắc đến:

Hoang địa: Môisen đã được Chúa gọi, và sai đi trong hoang địa. Dân chúng đã được dẫn dắt vào đây và giáo dục ở đây. Êlia đã đến đây. Chúa Giêsu đã chuẩn bị ở nơi này. Thánh Phaolô cũng tới đây sau khi trở lại. Có hàng triệu và hàng chục triệu người nối gót theo gương này. Trong im lặng, người ta thấm Lời Chúa rõ hơn, và cuộc sống khắc khổ làm cho người ta thấy tỏ tình thương Chúa hơn.

Sông Giođan: Dòng sông không phải chỉ làmột lãnh giới để dân địa phương và người từ hoang địa về gặp gỡ nhau. Nhưng Giođan là dòng sông mà những người Do Thái đã vượt qua để chiếm Đất Hứa: bây giờ, họ phải từ bỏ một hoang địa thiêng liêng và phải bước vào nước Thiên Chúa.

 

Ở Giođan, nhờ sức mạnh của Thiên Chúa, tường thành Giêricô đã bị sập xuống; thì bây giờ tới lượt tường luỹ thiêng liêng của Satan đã ngăn lối vào nước Chúa cũng sẽ bị đổ như vậy.

 

Do đó, hoang địa và sông Giođan đều có ý nghĩa. Đấy là những nơi mà Lời của Chúa được vang vọng đặc biệt, được đón nhận tốt, là những miền của ân phúc nơi mà dân chúng hành hương tới, là những nơi thuận tiện cho hoạt động của Thiên Chúa, nơi có đền thờ vì Thiên Chúa là Đấng Thánh đã tới gần.

 

  1. Hoạt động

Ba sự việc đáng được để ý đặc biệt.

Thánh Gioan rao giảng: đã qua nhiều thế kỷ, từ ngày Thiên Chúa phán với Israel, nay mới lại thấy xuất hiện, lần đầu, một trong các đại nhân của Thiên Chúa mà ngày xưa thật dễ gặp thấy trong dân được Chọn. Từ nay không còn là lời của Thiên thần mà là Lời của Thiên Chúa, không qua trung gian nào cả, phán bảo với Gioan và Ngài sẽ truyền đi.

 

Trong bài giảng, người ta đâu được công bố sự hiểu biết riêng hay kết quả của nghiên cứu thần học hoặc truyền bá kinh nghiệm nội tâm, mà là giảng Lời Chúa. Vị giảng thuyết chỉ là dụng cụ, là trung gian. Cá nhân Ngài hoàn toàn giữ vai trò thứ yếu. Ngài chỉ biết lắng nghe và truyền lại. Như vậy, cùng một lúc phải mở lòng ra với Thiên Chúa (từ trên xuống) và với dân chúng (từ dưới lên), Ngài không được giữ gì cho mình, nhất là không được thay đổi gì, giảm bớt hay làm sai lạc đi.

 

Loan báo Lời Chúa, người ta không thể tìm thấy nơi mình sự bất trắc hoà lẫn với sự hoài nghi, sự phức tạp và một tình trạng thua sút của một người yếu kém, vì tất cả đều không đảm bảo cho công việc của mình. Nhưng họ cũng không được cậy vào một thế lực, phát sinh từ một khoa học kiêu hãnh và thấm nhuần tư tưởng này, vì lời giảng với sức mạnh và theo Thần Trí đã đủ xứng với Lời Chúa rồi.

 

Gioan tẩy giả: cử điệu thêm vào với tiếng nói, nghi lễ đi với lời giảng. Con người không phải là một hữu thể tinh thần thôi. Vì thế, họ phải nhờ vào những dấu thấy được để suy niệm cái chẳng thấy.

 

Chúa Giêsu đã lập các bí tích đi theo lời giảng dạy. Nơi thánh Gioan cũng vậy, bên cạnh những từ ngữ mang tính cách nhất thời là những dấu hiệu, những điềm báo về các bí tích. Rửa tội là một cuộc thanh tẩy vì từ nay tội lỗi sẽ được xoá sạch. Một dân tộc nhơ nhuốc sẽ được rửa sạch. Thanh tẩy là trầm mình xuống nước rồi lên lại, vì tạo vật phải trầm mình với Đức Kitô để chết cho cái chết của con người tội lỗi cũ và được nâng lên nhờ Đức Kitô Phục sinh để sống cuộc sống mới trong ân sủng. Thanh tẩy, nước trôi chảy… Vì từ đây nước Thần Linh sẽ đổ tràn và vọt lên ngập đồng.

 

Thanh tẩy của Gioan, như vậy cũng có giá trị lớn lao. Gioan kêu gọi thống hối. Nếu con người không khước từ những khuynh hướng tội lỗi, không làm một cuộc đổi thay hoàn toàn đưa tới việc trở lại. Họ không thể tiếp nhận Lời Chúa. Sự thánh hoá giả thiết và đòi buộc phải có sự thống hối như bước đầu, khước từ tội phạm, ra khỏi mình, và hướng về Thiên Chúa. Sự thay đổi trong những định hướng của tư tưởng và sự sẵn sàng thâm sâu, đã thấy được khi Chúa giáng sinh và lúc thiếu nhi mười hai tuổi giảng dạy trong đền thờ, bây giờ rõ ràng là một đòi hỏi đối với với chúng ta. Sự thống hối là cốt cán của ơn cứu độ. Đó là một đòi hỏi mà con người không bao giờ tự ý muốn nhắc nhở mình, nhưng lại rất cần thiết cho họ.

  1. Hoàn tất.

Tin mừng thêm vào ở đây như để làm trọn lời tiên tri Isaia: ‘Có tiếng kêu trong hoang địa, hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng. Hãy lấp mọi hố sâu, và hãy bạt mọi núi đồi; con đường cong queo hãy làm cho bằng. Và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa’.

 

Bản văn ngôn sứ bàn về cuộc tái trở về từ nơi lưu đầy của dân Do thái. Giavê trở lại dẫn đầu dân Ngài qua hoang địa vào Đất Hứa. Để đám rước khải hoàn đi qua thì đường xá phải bằng phẳng và có sửa soạn đàng hoàng. Lời tiên tri đã được nên trọn lúc này với một ý nghĩa cao cả và nặng về tinh thần hơn. Nó không còn nói về xứ sở hay về đường xá trần tục. Rời bỏ cuộc lưu đầy và tôi đòi thiêng liêng con người lên đường về nước Chúa với một thái độ cương quyết. Và chính Thiên Chúa sẽ là đầu đoàn rước: nhưng xác đáng hơn phải nói là Đức Giêsu Kitô Thiên Chúa nhập thể, Đấng Messia.

 

Vì thế, những con đường thiêng liêng hẳn sẽ phải phẳng lì do việc sửa soạn tinh thần và tâm hồn. Gioan là tiếng kêu, là người tiền hô đến kêu gọi dọn đường vì sắp có vị Đại Vương tới.

 

Không có gì ngạc nhiên cả khi thấy sau lời kêu gọi đó, dân chúng bị lay chuyển và lũ lượt kéo về Giođan để nghe lời giảng và theo sát các biến cố này.

 

Hoạt động cứu độ đã bắt đầu nhập cuộc.

 

97.        Gioan Tẩy Giả rao giảng

(Suy niệm, Chú giải của Lm. PX. Vũ Phan Long)

 

1.- Ngữ cảnh

Giai đoạn đầu của công cuộc rao giảng của Đức Giêsu được khoanh vùng rõ ràng. Giai đoạn này gồm một loạt các dấu chỉ loan báo và một khối tường thuật các việc Đức Giêsu làm và các lời Người nói tại Galilê. Kể từ 9,51, Đức Giêsu mới đi ngang qua Samari mà tiến lên Giêrusalem.

 

Tác giả Luca đưa Đức Giêsu đi vào lịch sử dưới dấu chỉ là hoàn cảnh chính trị và tôn giáo của đế quốc Rôma và của Israel. Qua cái cổng này, ngài lấy lại cái chặng của Tin Mừng Máccô: Gioan Tẩy Giả (3,1-20), phép Rửa và việc Thánh Thần ngự xuống (3,21-22), Cám dỗ (4,1-13). Giữa phép Rửa và Cám dỗ, ngài ghép gia phả của Đức Giêsu vào (3,23-28). Đoạn 3,1-6 là phần mở chính thức củaTin Mừng Luca.

 

2.- Bố cục

Bản văn có thể chia thành ba phần:

1) Hoàn cảnh chính trị và tôn giáo (3,1-2a);

2) Hoạt động của Gioan Tẩy Giả (3,2b-3);

3) Lời bình của tác giả theo Is40,3-5 (3,4-6).

 

3.- Vài điểm chú giải

– Năm thứ mười lăm dưới triều hoàng đế Tibêriô (1): Hai câu đầu của đoạn văn khiến ta vừa nhớ đến các lời tựa của các sử gia Hy Lạp (Thucydide, Polybe …) vừa nhớ đến mở đầu sách Giêrêmia(1,1-2 LXX). Điều này gợi ý là tác giả Lc có ý viết trong tư cách sử gia, và cũng gợi lên ý nghĩa thánh thiêng của biến cố ngài khám phá ra nơi biến cố ông tường thuật. Ngài nêu lên nhiều điểm quy chiếu liên kết biến cố này với lịch sử thời ngài: khi lần lượt kể ra hoàng đế Rôma, tổng trấn của hoàng đế, ba tiểu vương và hai thượng tế,ngài nêu bật tính long trọng đặc biệt của sự kiện.

 

Là chúa tể thế giới thời đó, hoàng đế Tibêriô kế vị hoàng đế Augúttô ngày 19-8-14 kỷ nguyên chúng ta (năm 767 của Rôma). Vậy “năm thứ mười lăm” có thể chạy từ 19-8-28 đến 18-8-29. Nhưng đa số các nhà phê bình hiện nay cho rằng tác giả Lc tính các năm trị vì của hoàng đế theo kiểu người Xyri, mà với họ, năm dân sự bắt đầu vào ngày 1-10. Như thế, họ xác định năm đầu của triều Tibêriô đi từ 19-8 đến 30-9-14, còn năm thứ mười lăm thì đi từ ngày 1-10-27 đến 30-9-28. Khoảng thời gian này phù hợp với thời gian được ghi trong Ga 2,20 là câu đặt lễ Vượt Qua đầu tiên thuộc sứ vụ của Đức Giêsu vào mùa xuân năm 28.

 

– Phongxiô Philatô làm tổng trấn miền Giuđê (1): Ông này làm tổng trấn Giuđê từ năm 26 đến năm 36. Các tác giả Do Thái nhận định ông là con người “không khoan nhượng và tàn nhẫn” (đây là câu vua Hêrôđê Ácríppa I viết trong thư gửi cho hoàng đế Caligula, được Philon ghi lại, Legatio ad Caium, 38); còn các Tin Mừng thì vĩnh viễn nối kết ông với cuộc xử án Đức Giêsu (Tacite cũng làm như thếtrong các Annales, III, 15,44). Ông cai trị miền Giuđê, Bắc Samari và Nam Iđumê.

 

– Hêrôđê làm tiểu vương miền Galilê (1): Ông là con của Hêrôđê đại đế, có tên là Antipa, đã được làm tiểu vương cai trị miền Galilê và Pêrê sau khi vua cha qua đời, vào năm 4 tr CG. Ông chỉ lấy tên Hêrôđê sau khi đã hạ bệ anh là Áckhêlao vào năm 6 CN. Ông xuất hiện nhiều lần trong các Tin Mừng: như là ngườiđã giết Gioan Tẩy Giả (Mt 14,3-12; Mc 6,17-29; x. Lc3,19-20), rồi như là đối thủ của Đức Giêsu (Mc 6,14-16; Lc13,31-32; 23,6-12). Cuối cùng ông sẽ bị hoàng đế Caligula đưa đi lưu đày bên xứ Gôn, vào năm 39, sau khi bị cháu là Hêrôđê Ácríppa I tố cáo.

– Philípphê làm tiểu vương miên Iturê và Trakhonít: Ông là người con khôn ngoan nhất trong số tất cả các con của Hêrôđê đại đế. Triều đại bình an của ông kéo dài từ năm 4 tCN đến khi ông chết vào năm 34 CN. Thật ra ông cai trị tất cả vùng đông bắc hồ Tibêriát (miền Gaulanít, Batanêa, Trakhonít, Auranít và vùng Panêa, nơi ông đã xây dựng kinh đô với tên Xêdarê Philípphê: x. Mt 16,13; Mc 8,27). Tác giả Lc cố tình kể tên những miền đất ít có người Do Thái nhất, tức là tượng trưng cho lãnh địa ngoại giáo.

 

– Lyxania làm tiểu vương miền Abilên: Chỉ có một Lyxania, vua dân Iturê ở Khanxi, bị đại tướng Antôniô giết vào năm 36 tCN để trừng phạt ông đã liên minh với người Pácti. Vị tiểu vương mờ nhạt này với miền đất xa lạ với Paléttina được tác giả Lc nhắc đến có lẽ do những lý do sau: 1) Lc thích các cấu trúc song đối và danh hiệu “tiểu vương” (tetrarchês, trongđó có tetras, “ngày thứ tư trong tháng”) hẳn đã gợi ý cho ông giới thiệu ra ở đây bốn miền đất lân cận; 2) Lý do lịch sử: vào lúc TM Lc được viết, tức năm 80-85, lãnh thổ của Lyxania đã thuộc về một ông hoàng Do Thái (Hêrôđê Ácríppa II, trị vì từ năm 53 cho đến cuối thế kỷ, kế vị vua cha là Hêrôđê Ácríppa I, trị vì từ năm 37 đến năm 44). 3) Nhưng có lẽ lý do chính là lý do thần học: miền Giuđê của quan Philatô và miền Galilê của vua Hêrôđê là đất của Dân Thiên Chúa, còn các miền đất của các tiểu vương Philípphê và Lyxania là đất Dân ngoại. Khi nêu ra bốn lãnh địa này vào khởi đầu Tin Mừng của Đức Giêsu, Lc gợi ý là việc loan báo ơn cứu độ liên hệ đến người Do Thái lẫn Dân ngoại. Thật ra ý hướng này cũng được diễn tả ra trong việc nhắc đến song đối hoàng đế ngoại giáo và vịthượng tế của Dân Thiên Chúa, ở đầu và cuối danh sách này.

 

– Khanan và Caipha làm thượng tế (2): Công thức này gây ngạc nhiên do chỗ gán danh hiệu thượng tế cho hai nhân vật, có tên tuổi rõ ràng, mà trong thực tế chức vụ này chỉ luôn luôn được thực thi bởi một người mà thôi. Ở đây, tác giả Lc muốn nói lên một hoàn cảnh có thật. Khanan đã được Quiriniô đặt làm thượng tế vào năm 6 CN, và chín năm sau, vào năm 15, bị Valerius Gratus truất phế. Nhưng do chỗ các tổng trấn Rôma cho năm con trai và con rể Caipha của ông kế vị, ta hiểu ông vẫn có một uy tín đặc biệt nơi giới tư tế và dân chúng. Dường như chính ông mới là người lãnh đạo cộng đồng Do Thái dưới các đời thượng tế sau ông. Các tác giả Tân Ước gán cho ông một vai trò quan trọng trong việc thẩm cứu vụ án Đức Giêsu (Ga 18,13-24).

 

Caipha là thượng tế từ năm 18 đến năm 36. Vai trò của ông trong cuộc xét xử Đức Giêsu đã được Mátthêu (26,3.57.63-65) và Gioan (11,49; 18,24-28) ghi lại. Trong vụ án này cũng như trong mọi sinh hoạt của ông, hẳn là ông làm việc hài hòa với và dưới ảnh hưởng của nhạc phụ.

 

– Công bố một phép rửa sám hối hướng tới ơn tha tội (3): Lời công bố này nối dài lời rao giảng của các ngôn sứ Cựu Ước: y như vị Tẩy Giả, các ngôn sứ đã kêu gọi dân Thiên Chúa“trở lại” với Đức Chúa của mình bằng cách đoạn tuyệt với tội lỗi. Nét mới mẻ đầu tiên của Gioan là đóng ấn sự hoán cải này bằng một phép rửa. Nhưng ông còn thêm vào một nét mới thứ hai: ông chỉ ban phép rửa này một lần mà thôi, bởi vì Cuộc Phán Xét đang đến gần (Lc3,7-9.17); chỉ còn chỗ cho một cuộc hoán cải duy nhất mà thôi để được ơn cứu độ (x. Gr 31,31; Ed 36,25). Phép rửa của Gioan không phải là phép rửa Kitô giáo có khả năng xóa tội (Cv 2,38; 22,16): “Đấng mạnh thế hơn … sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần và lửa”(3,16). Vai trò chính yếu của Gioan là “bảo cho dân Chúa biết rằng Chúa sẽ tha thứ mọi tội khiên” (1,77). Do đó dịch “hướng tới ơn tha tội” thì tốt hơn là dịch “để được ơn tha tội”.

 

– như có lời chép trong sách ngôn sứ Isaia (4): So với các tác giả Tin Mừng khác, Lc nối dài bản văn trích để nêu bật những yếu tố ngài coi là quan trọng. Trước tiên là Is 40,3 (x. Lc 3,5) giúp Lc nhắc lại mối quan tâm của ngài đối với việc đề cao những người nghèo hèn và hạ thấp những kẻ kiêu căng (Lc 1,52; 14,11; 18,14). Nhưng nhất là Is 40,5 (Lc 3,6) mới là mối quan tâm chính của ngài: loan báo ơn cứu độThiên Chúa muốn ban cho “mọi xác phàm”.

 

4.- Ý nghĩa của bản văn

Sau hai chương tác giả Lc dành cho cuộc chào đời và thời tơ ấu của Đức Giêsu, hai chương dầy đặc những quy chiếu về Cựu Ước, nay độc giả gặp lại Gioan Tẩy Giả ra đi thi hành sứ mạng.

 

– Hoàn cảnh chính trị và tôn giáo (1-2a)

Chương 3 bắt đầu bằng một cái nhìn chăm chú vào lịch quốc tế, quốc gia và địa phương. Năm của triều đại hoàng đế, của quyền lực dân sự và quyền lực tôn giáo được nêu ra. Với khởi đầu long trọng này, độc giả được lưu ý là các biến cố được kể ra ở đây, tuy có màu sắc hoàn cảnh địa phương, đặt bên cạnh biên cương đế quốc, thật ra có một sắc thái vũ hoàn. Chi tiết quy chiếu về hai tên Thượng Tế có hàm ẩn một chút châm biếm tế nhị: trên ngai là Caipha, nhưng người vẫn điều khiển là Khanan, cha vợ ông.

 

Sau phần dẫn nhập lịch sử, tác giả Lc dùng giọng văn long trọng để giới thiệu Gioan: “Có lời Thiên Chúa phán cùng con ông Dacaria là ông Gioan trong hoang địa” (c. 2b). Bản văn giới thiệu ơn gọi ngôn sứ của Gioan Tẩy Giả. Nhưng do giọng long trọng, ta cảm được là bản văn này muốn đi xa hơn vị Tẩy Giả. Bên kia vị Tiền Hô, tác giả loan báo Đức Giêsu và đặt Người vào giữa lòng lịch sử nhân loại. Chúng ta khẳng định được như thế nhờ một số những nhận xét: 1) Thật đáng ngạc nhiên là tác giả đã dành nhiều quy chiếu về lịch sử như thế để mở đầu hoạt động của Gioan, mà lại không nói gì để định vị cho hoạt động của Đức Giêsu (3,21), mà chắc chắn Đức Giêsu mới là nhân vật trọng yếu. Ta giải thích được sự bất thường này khi nhớ rằng ngay từ đầu Tin Mừng, tác giả đã bàn về Gioan và Đức Giêsu song song và liên đới với nhau. 2) Việc liệt kê ra hoàng đế, tổng trấn và các tiểu vương chỉ thật sự cần thiết nếu hướng về cuộc xuất hiện của Đức vua Giêsu. 3) Tác giả Lc trích sấm ngôn Is 40 như các tác giả Tin Mừng khác để đưa lại ý nghĩa cho sứ mạng của Gioan. Nhưng khi kéo dài câu trích cho tới tận lời loan báo sự tỏhiện của ơn cứu độ của Thiên Chúa, ngài cho thấy rằng trước tiên ngài nghĩ tới cuộc xuất hiện của Đức Giêsu.

 

Ở đây khi nêu tên vị chúa tể ngoại giáo của thế giới, cũng như vào dịp Đức Giêsu giáng sinh, khi nhắc đến hoàng đế Âugúttô (2,1), tác giả Lc giữ thói quen đặt vương quốc trần gian đối diện với Vương quốc của Thiên Chúa đã đến nơi Đức Giêsu.

 

Còn lý do chính là lý do thần học: Miền Giuđê của quan Philatô và miền Galilê của vua Hêrôđê là đất của Dân Thiên Chúa, còn các miền đất của các tiểu vương Philípphê và Lyxania là đất Dân ngoại. Khi nêu ra bốn lãnh địa này vào khởi đầu Tin Mừng của Đức Giêsu, tác giả Lc gợi ý là việc loan báo ơn cứu độ liên hệ đến người Do Thái lẫn Dân ngoại. Thật ra ý hướng này cũng được diễn tả ra trong việc nhắc đến song đối hoàng đế ngoại giáo và vị thượng tế của Dân Thiên Chúa, ở đầu và cuối danh sách này. Còn khi nhắc đến cả Khanan lẫn Caipha, tác giả Lc cho hiểu rằng thực quyền nằm nơi thượng tế đã bi truất phế.

 

– Hoạt động của Gioan Tẩy Giả(2b-3)

Giọng văn của c. 2b rất cổ, như kiểu giới thiệu một ngôn sứ thời Cựu Ước. Có lẽ tác giả Lc đã cảm hứng từ Cựu Ước và đặc biệt từ ơn gọi của các ngôn sứ (x. Is 1,1; Gr 1,1-3; Hs 1,1; Ed 1,2). Gr 1,1 LXX). Như thế,với việc Gioan Tẩy Giả ra làm việc, tác giả cho thấy đã xuất hiện một ngôn sứ, vị đầu tiên sau một thời gian thinh lặng gần năm thế kỷ (Tv74,9; l Mcb 4,46; 9,27; 14,41). Ơn gọi của vị Tẩy Giả được thể hiện trong hoang địa, là nơi ông đã sống thời trai trẻ “cho đến ngày ra mắt dân Ít-ra-en”(1,80). Nhiều dấu chỉ cho thấy là ông có quan hệ với phái tư tế ở Qumrân: ông thuộc dòng dõi tư tế, ông sống trong hoang địa, ông đi rao giảng một phép rửa và cả bốn Tin Mừng đều xác định sứ mạng của ông khởi đi từ lời sấm Is40,3 mà Luật Qumrân dùng đề diễn tả lý tưởng của họ (1 QS 8,14). Cho dù thế nào, kể từ nay Thiên Chúa kêu gọi ông thực hiện một sứ mạng của riêng ông.

 

Theo Mt (3,1-6) và Mc (1,4-5) la hai bản văn theo sát bản Is 40,3, Gioan rao giảng trong hoang địa và làm phép rửa tại sông Giođan ở bìa sa mạc; hoang địa là nơi thử thách và cũng là nơi gặp gỡ thân tình với Thiên Chúa. Các đoàn người đã từ Giêrusalem và miền Giuđê kéo đến với ông (Mc1,5; x. Mt 3,5). Không như tác giả Mc còn nói đến lối sống khắc khổ của Gioan, tác giả TM III cho thấy tức khắc hoạt động của vị Tiền Hô: Gioan rời hoang địa để rao giảng khắp vùng sông Giođan như là lãnh địa riêng của ông. Rất có thể tác giả Lc đã nghĩ rằng phép rửa ban trong hoang địa có thể khiến các độc giả ngạc nhiên, vì họ không biết địa lý của xứ Paléttina. Trong thực tế, hai bờ sông Giođan là vùng hoang địa. Ông đã kêu gọi dân chúng đến nhạn phép rửa để bày tỏ lòng sám hối, hầu có thể nhận lấy ơn cứuđộ mà Đức Giêsu sẽ thực hiện trong sứ vụ Vượt Qua (Lc 24,47; Cv3,19; 5,31; 10,43; 13,38; 26,18). Như trong Cựu Ước, điều quan trọng hơn là lời của vị ngôn sứ (cũng là Lời Thiên Chúa), tác giả Lc cho thấy Gioan đi rao giảng sứ điệp ông đã nhận. Lời rao giảng của ông có những cử chỉ kèm theo, đây là phép rửa. Nhưng cử chỉ này vừa thuộc về vị Tẩy Giả vừa thuộc về hối nhân. Như thế, tác giả nêu bật rằng lời rao giảng mang tính ngôn sứ của Gioan đưa đến một hành vi biểu tượng chất chứa sự thống được gợi lên bởi lời và giúp hoán cải.

 

– Lời bình của tác giả theo Is 40,3-5 (4-6)

Như các tác giả Tin Mừng khác (Mt 3,3; Mc 1,3; Ga 1,23), tác giả Lc xác định ý nghĩa của sứ vụ Gioan đảm nhận khởi đi từ sấm ngôn Is 40 (cc. 3-5). Nhưng ngài đặt lời sấm này vào cuối phần giới thiệu Gioan, để dẫn độc giả đi từ biến cố lịch sử đến lời giải thích biến cố trong khung cảnh lịch sử cứu độ. Và ngài nối dài câu trích để nêu bật các yếu tố ông coi là quan trọng.

 

TM Lc đã bỏ đi lời loan báo mở đầu của Is40,5: “Bấy giờ vinh quang Đức Chúa sẽ tỏ hiện”. Đối với ngài, trách nhiệm của vị Tẩy Giả không phải là loan báo vinh quang này, vì vinh quang này chỉ được tỏhiện vào cuộc Vượt Qua bởi Đức Giêsu thôi. Ngài nói ngay đến đích điểm của sấm ngôn, cũng là đỉnh điểm của sứ điệp của Gioan: loan báo ơn cứu độ của Thiên Chúa. Đây mới là nhiệm vụ của Gioan (Lc1,77). Lc ưa thích nhấn mạnh trên đềtài “ơn cứu độ”: Cụ Simêôn (Lc 2,30); Phaolô (Cv 28,26); ngài là tác giả nhất lãm duy nhất gọi Thiên Chúa và Đức Giêsu là Đấng Cứu Độ (Lc 1,47) và nói đến ơn cứu độ nơi Đức Giêsu (Lc1,69.71.77; 19,9).

 

Có lẽ lý do chính đã thúc tác giả kéo câu trích Is đến tận c. 5 là vì câu này có công thức Kinh Thánh “mọi xác phàm”. Hẳn là ngài thấy từ này là một lời loan báo kín đáo ơn cứu độ được cống hiến cho tất cả mọi người. Thuật ngữ mơ hồnày đáp lại ý muốn của ngài là ghi dấu các chặng trong việc mạc khải tính phổ quát của Đức Giêsu, là đặc tính đã được cụ Simêôn công bố (Lc 2,30-32): không phải là Gioan có nhiệm vụ loan báo rõ ràng ơn cứu độ Dân ngoại, nhưng là Đức Giêsu.

 

 

+ Kết luận

Bản văn đã đặt hoạt động của Vị Tiền Hô trong khung cảnh lịch sử của nó. Thời gian của hoạt động này không còn được quy định theo triều đại của một vị vua Giuđa hay Israel, như đối với các ngôn sứ ngày xưa (x. Is 1,1; Ge 1,2; Ed 1,2; Hs 1,1; Am 1,1; Mk 1,1; Xp 1,1), mà là theo triều đại của Vị Chúa tể thế giới, của hoàng đế Xêda Rôma. Như thế, ngay khi được loan báo, Tin Mừng đã mang tính phổ quát.

 

5.- Gợi ý suy niệm

  1. Cũng như ơn gọi của Gioan Tẩy Giả, ơn gọi của chúng ta được Thiên Chúa ban cho chúng ta vào thời đại của chúng ta. Do đó, chúng ta phải sống “trong ngày hôm nay của Thiên Chúa” (Dt 4,7); đối với chúng ta, thời đại chúng ta đang sống là thời đại thuận tiện duy nhất giúp phát triển tư cách Kitô hữu của chúng ta. Cũng như Gioan Tẩy Giả, Thiên Chúa gọi chúng ta khởi đi từ một khung cảnh đang quy định tất cả phong thái và cuộc sống chúng ta: giống nòi, gia đình, xứ sở, khí hậu. Cách thức duy nhất để đáp trả ơn gọi chúng ta với cùng một lòng trung thành như Gioan Tẩy Giả, đó là chấp nhận dứt khoát thời đại và môi trường chúng ta, để làm nơi phục vụ Lời Chúa, làm khung cảnh cho cách thức ứng xử Kitô hữu theo gương Đức Kitô.

 

  1. Theo quan điểm của Thiên Chúa, điều quan trọng không phải là những cuộc chinh phục ngoạn mục của các hoàng đế Rôma hay các mánh khoé của tiểu vương Hêrôđê, mà điều quan trọng là Lời của Thiên Chúa phải được ngỏ với Gioan, con Dacaria. Trong bình diện thiêng liêng, bình diện duy nhất hệ trọng đối với cuộc sống con người, các dáng vẻ bề ngoài hùng mạnh và vinh quang chẳng là gì cả. Bởi vì Thiên Chúa thực hiện những dự phóng lớn của Ngài trên thế giới bằng cách dùng những cái yếu đuối và nhỏ bé theo thế gian. Đối với chúng ta cũng thế, dù chúng ta có nhỏ bé, giới hạn đến đâu, Thiên Chúa vẫn có thể dùng chúng ta mà thay đổi bộ mặt thế giới, nếu chúng ta nghe tiếng Ngài kêu gọi và hoán cải mỗi ngày.

 

  1. Trong sa mạc cuộc đời chúng ta hôm nay, Lời Chúa đang vang lên trên chúng ta nhờ lời rao giảng, khi chúng ta đi dự thánh lễ. Khi đó, chúng ta không chỉ gặp gỡ các anh chị em trong cùng giáo xứ, mà là gặp gỡ tất cả các tín hữu trên thế giới, mặc cho họ theo thể chế nào, nghi thức nào … Chúng ta được mời gọi điều chỉnh các nẻo đường quanh co của lòng ta: tức là hãy để ý đến ý hướng và cách tiến hành ngay thẳng; hãy kiên vững bước đi theo con đường thẳng của bổn phận, không ngẫu hứng, không thối lui; hãy lấp đầy các thung lũng của lòng ta, nếu chúng còn thiếu quảng đại và lý tưởng Kitô hữu. Hãy san bằng các đồi núi kiêu ngạo. Hãy dũa bớt những sù sì của tính tình chúng ta và chấm dứt những chia rẽ.

 

  1. Gioan Tẩy Giả có thể được mệnh danh là “Nhà rao giảng của Mùa Vọng”. Mỗi năm, Phụng vụlại giới thiệu sứ điệp của ngài cho chúng ta. Cũng như ngài đã chuẩn bị cho dân Israel đón tiếp Đấng Mêsia ngự đến, ngài cũng có thể chỉ cho chúng ta cách thức chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh. Lời lẽ của ngài đôi khi rất mạnh. Nhưng thế giới hôm nay cần những con người giống vị Tẩy Giả, để nhắc cho chúng ta nhớ lại tầm mức hệ trọng của đời sống trần gian,để tố giác sự dữ, và để đứng thẳng trước các kẻ quyền thế khi họ xử sự bất công.

 

  1. Thiên Chúa muốn ban ơn cứu độ cho “mọi xác phàm”. Chúng ta nên nghĩ đến đoàn người bao la chưa biết Đức Kitô. Hãy cầu nguyện cho họ và xin Thiên Chúa ban cho nhiều ơn gọi truyền giáo. Chúng ta cũng hãy trở thành các nhà thừa sai theo gương vị Tiền Hô, ít ra bằng việc cầu nguyện và chu toàn trung thành nhiệm vụ cá nhân, tại nơi Chúa Quan phòng đặt để chúng ta.

 

98.        Chúa Nhật 2 Mùa Vọng

(Chú giải của Noel Quesson)

 

Năm thứ mười lăm dưới triều hoàng đế Tibêriô

Luca muốn loan báo tác vụ của Gioan Tẩy Giả, người dấn thân khai mở cho tác vụ của Đức Giêsu. Đây là sự can thiệp rõ ràng của Thiên Chúa trong lịch sử. Hành động của Thiên Chúa không “ở bên ngoài” thế gian, trên mây gió, nhưng hành động này diễn ra, một cách ẩn kín bên trong những biến cố thế tục. Một “lịch sử Thánh” phát triển giữa những biến cố thế giới. Như Luca chúng ta có tin rằng, Thiên Chúa “nói” và “hành động” trong những biến cố của chúng ta, trong hiện tình kinh tế chính trị, xã hội và văn hóa ngày nay không?

 

Luca kỹ lưỡng nói với chúng ta rằng, Đức Giêsu đã sinh ra dưới thời Hoàng đế Xê-da Au-gút-tô (Lc 2,1). Bây giờ ông lại nói với chúng ta, Chúa bắt đầu tác vụ, như một người trưởng thành, vào năm 15 Triều Đại Tibêriô, nghĩa là khoảng năm 28 hay 29.

 

Đức Giêsu, một người Do Thái thấp cổ bé miệng, vô danh tiểu tốt đang đối diện với Hoàng đế đầy uy quyền của Rôma! Đối diện với kẻ đang bá chủ thế giới! Đế quốc của Tibêriô bắt đầu từ bờ Bắc Hải đến cùng tận Địa Trung Hải, hiện nay được 15 quốc gia vây quanh nhưng lúc bấy giờ như một biển hồ của Rôma. Tất cả những gì Luca bàn đến đâu minh chứng cho chúng ta thấy, “Tin Mừng”, phát xuất từ Giêrusalem, sẽ đến tận Rôma: Ở đó, sẽ kết thúc “Công vụ Tông Đồ” (29,16-31). Trong lúc này, ta mới chỉ gợi lên tầm lớn rộng của chương trình Thiên Chúa: Đức Giêsu… Hoàng đế Tibêriô.

 

Thời Phongxiô Philatô làm tổng trấn miền Giu-đê

Cùng với Đức Maria, ông Phongxiô Philatô, là người duy nhất có chỗ đứng trong kinh Tin Kính của chúng ta: “Đức Giêsu, sinh bởi đức Nữ Đồng Trinh Maria đã chịu khổ hình và mai táng thời Phongxiô Philatô… Phongxiô Philatô, tổng trấn Rôma tại Giêrusalem giữa năm 26 và 36, là con người “cứng rắn và không xót thương”, theo người lân cận của ông là Hêrôđê Ác-ríp-pa I đã nói. Ong bị Rôma cất chức vì đã sát hại hàng ngàn người Samari tụ họp trên núi Garizim. Các sử gia thới đó (Plavius Josèphe và Philon) mô tả ông như người cai trị xứ sở của mình bằng tham nhũng, khủng bố, cướp bóc do chính cảnh sát của mình tra tấn và hành quyết.

 

Ngày nay, chúng ta thường than phiền về những khó khăn của thời đại chúng ta: Thế mà Đức Giêsu đã sống trong một miền đất bị kẻ thù chiếm đóng và đàn áp không chút nương tay thế đó!

 

Hêrôđê làm tiểu vương miền Galilê, người em là Philípphê làm tiểu vương miền Iturê và Trakhônít, Lyxania làm tiểu vương miền Abilên

Đó chỉ là những ông vua chư hầu bù nhìn, và là những người “hợp tác”. Uy quyền thực sự vẩn thuộc Rôma. Luca nhất mạnh đến lãnh thổ mà Tin Mừng sẽ được phổ biến: ông để ý nêu rõ hai miền có đông dân cư là “con cái Israel” (Giuđê và Galilê), và hai miền có dân “ngoại giáo” (Iturê – Trakhonít và Abilên). Đối với Luca, đệ tử của Phaolô thì đây là một chỉ dẫn “thần học”: Sứ điệp của Đức Giêsu không chỉ dành riêng cho một số người nào đó! Tôi có tự giam mình trong một khu riêng biệt Kitô giáo nhỏ bé không? Và như vậy tôi đâu còn ở trong luồng khí Tin Mừng nữa.

 

Khanan và Caipha làm thượng tế

Sau những lãnh tụ chính trị, đây là những lãnh tụ tôn giáo, chịu trách nhiệm về Do Thái giáo thời bấy giờ, mà vài năm sau Đức Giêsu sẽ gặp lại. Đó là bối cảnh lịch sử và tôn giáo. Những dữ kiện hoàn toàn chính xác, đã được các sử gia thời cổ xác nhận. Người ta đã tìm được tại Xêdarê chỗ ngồi của Philatô trong một nhà hát: Một hàng chữ được khắc ghi vào băng đá dành cho Tổng trấn ngồi, giữa hí trường hình tròn.

 

Có lời Thiên Chúa phán cùng con ông Dacaria là ông Gioan

Không phải những chức sắc nêu trên sẽ làm nên lịch sử thực sự: mà là một “phát ngôn viên”, một “ngôn sứ”, Gioan Tẩy Giả, vị ngôn sứ cuối cùng, nhân chứng đầu tiên của Đức Giêsu Kitô. Chính từ “bên trong” những thực tại của con người mà sự thay đổi được thực hiện, nhưng tất cả những động lực của sự thay đổi đó không thể đến từ sự tôn thờ những ý thức hệ và những người đang nắm quyền lực, cũng không từ cơ cấu chính trị. “Chúa lật đổ những người quyền thế xuống khỏi ngai vàng” (Lc 1,52). Một “lời”, từ nơi khác đến từ Thiên Chúa, sẽ tạo nên sự mới lạ thực sự làm thay đổi dòng lịch sử – Tôi có để cho Lời Chúa nắm bắt tôi, như Gioan Tẩy giả không?

 

Trong hoang địa

Đôi khi ta có cảm tưởng về hoang địa như cái gì trống rỗng. Sự cô tịch khó chịu này không phải là điều ngược đời sao? Xa thế gian quay cuồng, xa những tiếng ồn ào náo động, để có thể nghe thấy một Lời mầu nhiệm? “Hãy nghe đây! nghe đây! ngươi chớ có gây tiếng động? gần ngươi, có người đang đi trên đường, có người đang đến gặp ngươi!”. Vậy thì, riêng tôi, tôi đã dành cho sự cô tịch, tình trạng hoang vắng thế nào trong cuộc sống náo nhiệt của tôi?

 

Ông liền đi khắp vùng ven sông Giođan

Lời Chúa, phải vận hành. Đó là một chuyển động. Gioan là một nhà giảng thuyết di động, cũng như Đức Giêsu sắp thể hiện như vậy. Còn chúng ta thì sao?

Gioan đã rời hoang địa hạnh phúc của ông, nơi ông dùng để chuẩn bị, để lắng nghe Lời Chúa, để đi gặp các đám đông, để làm việc này, ông chọn một nơi mà có đủ mọi thứ người qua lại: Chỗ cạn của một dòng sông, nơi mà mọi người phải ngang qua; lối nhỏ giao lưu cho cả đoàn người; bến Bêthama, trên tả ngạn sông Giođan, phía đông thành Giêrikhô (Ga 1,28), nơi mà người Anh đã xây cầu Allenby chỗ duy nhất có thể vượt sông được. Sau khi sống cô tịch, tôi có tìm cách để tiếp gặp kẻ khác không?

 

Rao giảng, kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối

Dựa vào nguyên ngữ Hy Lạp có thể dịch câu trên – như sau: “Ông kêu gọi người ta dìm mình xuống nước để quay trở lại”.

 

Người phát ngôn của Chúa không phải là một con người nhỏ bé trầm tĩnh, nhưng đó là một cái “loa phóng thanh” với âm lượng được vặn tối đa. Chữ Hy Lạp “Kérygme” có nghĩa là “tiếng la”, lời “tuyên bố”. Cuộc sống của tôi có kêu lên điều gì không?

 

Không thể có ảo tưởng được. Người ta không thể gặp Chúa “như thế”, nghĩa là không biết Ngài, hay không muốn Ngài. Về phía Chúa, phải “lao mình” vào Ngài! Chữ “batisma” phép rửa, gọi lên hình ảnh những kiểu tắm rửa theo nghi thức, mà những thành viên cộng đoàn lân cận Qumran thường thi hành mỗi ngày để thanh tẩy thân thể mọi nhơ bẩn và thôi thúc tâm hồn họ cũng phải thanh tẩy thiêng liêng: Người ta dìm toàn thân mình trong hồ bơi hay dòng sông. Hoán cải không phải chỉ lâ một tư tưởng thầm kín, không thuộc phạm vi trí não, nhưng đó là một bước đi có ý nghĩa, được thể hiện ra bên ngoài đối với mọi người qua một hành vi công khai theo nghi lễ: “Tôi muốn thay đổi cuộc sống… và trước mặt các bạn, tôi thực hiện cử chỉ tượng trưng, biểu hiện sự trở lại của tôi. Tôi dìm xuống nước cuộc sống trước của tôi, cho nó chết chìm để một sự sống mới phát sinh”.

 

Phép rửa là một tự nguyện dìm chết “con người cũ” để cho “con người mới” tái sinh (Rm 6,6-7,6 – Ep 4,22 – Cl 3,9). Đó là hình ảnh thực sự của Bí tích sám hối là phép rửa thứ hai… mà có thể chúng ta muốn lãnh nhận để cử hành lễ Giáng sinh. Và hoán cải mà chúng ta đang nói ở đây (metnoia: Sự trở lại) là một sự quay trở lại với Thiên Chúa. Nếu hoán cải chỉ là một sự thay đổi luân lý hay xã hội, thì cuộc sống Kitô hữu có lẽ chỉ là một thứ nhân bản như những học thuyết khác, có khi lại không hoàn hảo bằng chứng học thuyết đó. Nhưng đúng ra là ta “quay trở lại với Chúa” cùng với những hậu quả luân lý và xã hội: chống lại tính ích kỷ, bất công, khuynh hướng duy vật thực dụng, sự nô lệ lạc thú và tiền bạc, nếp sống thiếu trong sạch, tính lười biếng, thái độ chế ngự kẻ khác, v.v…

 

Phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội.

Sự tha thứ? Hành vi của Thiên Chúa luôn luôn tặng ban cho tất cả mọi người, nhưng chỉ hữu hiệu nếu chúng ta đón nhận sự tha thứ đó cách tự do. Luật trời phong bao giờ ngừng chiếu sáng, nhưng chúng ta có thể đóng cửa nhà chúng ta. Hành vi của Thiên Chúa được thể hiện do “thừa tác viên” thi hành bí tích, nói “nhân danh chính Chúa Kitô” (in persona Christi). Hành vi tự do của con người được thể hiện qua thái độ hối nhân, đặc biệt qua sự thú nhận cá nhân hay tập thể.

 

Mỗi cử hành Thánh Thể cũng giúp chúng ta thông hiệp với Đức Giêsu trong chính hành vi Người “Tự hiến để tha thứ tội lỗi”, trong hành vi cứu chuộc nhờ thái độ triệt để sẵn sàng và hoàn toàn vâng phục Chúa Cha: Đó là hành vi Ngài hoàn toàn và triệt để “hướng về” Thiên Chúa.

 

Như có lời chép trong sách ngôn sứ Isaia rằng: Có tiếng người hô trong hoang địa: hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng.

Máy ủi to lớn làm sao! Công trường sửa đường vĩ đại làm sao! Công trình thật là quá sức tưởng tượng! Và chúng ta thì chỉ có “xưng tội riêng”, không đau đớn gì?

 

Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa.

Đây là mục tiêu phổ quát, rất đặc trưng của Luca, người đồng hành với thánh Phaolô. Công trình của Thiên Chúa không phải là lên án, mà là “Cứu chuộc”. Lịch sử Thánh, lịch sử con người mà trong đó Chúa hành động, không thể kết thúc không lối thoát. Cho dù chúng ta “hôm nay đang gieo trong nước mắt, nhưng sẽ gặt trong ca mừng”.

 

99.        Chúa Nhật 2 Mùa Vọng

(Chú giải mục vụ của William Barclay)

 

SỨ GIẢ TIỀN TRẠM CỦA VUA

 

Đối với Luca, sự xuất hiện của Gioan Tẩy Giả là một trong các bản lề của lịch sử thế giới. Vì thế ông đã dùng sáu cách khác nhau để ghi dấu thời gian cho việc đó.

 

  1. Tibêriô là người kế vị Auguttô, là hoàng đế thứ hai của Rôma. Vào năm 11-12 SCN, Luca bắt đầu bằng cách đặt sự xuất hiện của Gioan vào trong một bối cảnh thế giới, bối cảnh của đế quốc Rôma.
  2. Còn ba mốc thời gian kế tiếp của Luca thì liên quan đến các tổ chức chính trị tại Palestine. Danh hiệu của vua chư hầu nghĩa là “thống đốc của một phần tư”. Những tỉnh như Thessaly và Galat, bị chia thành bốn miền hay gọi bốn khu vực, vị thống đốc của mỗi miền đó được gọi là vua chư hầu, nhưng về sau danh từ đó được mở rộng, dùng để chỉ thống đốc của bất cứ nơi nào. Hêrôđê đại đế băng hà năm 4 TCN sau khi cai trị khoảng 40 năm. Ông chia nước cho 3 con, và Rôma trong giai đoạn đầu đồng ý quyết định của ông. (a) Hêrôđê Antipa lãnh xứ Galilê và xứ Perea. Ông cai trị từ năm 4 TCN đến 39 SCN, vì vậy cuộc đời của Chúa Giêsu nằm trong thời gian cai trị của vua này và phần lớn sống trong lãnh địa của ông tại Galilê. (b) Hêrôđê Philipphê nhận xứ Yturê và xứ Tracônit, ông cai trị từ năm 4 TCN đến 39 SCN, thành Xêdarê được chính ông xây dựng nên được gọi theo tên ông. (c) Akhêlaô nhận xứ Giuđê, xứ Samari và xứ Êđôm. Ông là một vị vua tệ hại. Sau cùng, người Do Thái đã phải xin triều định Rôma cách chức ông. Rôma đã quá chán cảnh nổi loạn ở xứ Giuđê, liền đặt một quan tổng trấn, là vị thống đốc người Rôma. Đó là lý do tại sao người Rôma đã trực tiếp cai trị xứ Giuđê. Bấy giờ Phitatô người Rôma làm tổng trấn, cầm quyền từ năm 25 SCN đến 37 SCN. Như vậy, chỉ trong một câu Kinh Thánh, Luca cho ta thấy tổng quát về sự phân chia vương quốc đã từng một thời thuộc Hêrôđê đại đế.
  3. Về Lysania là ai thì chúng ta không biết gì thêm.
  4. Sau khi nói về tình hình thế giới và tình trạng chính trị của xứ Palestine, Luca quay về tình hình tôn giáo, và ghi dấu thời gian Gioan xuất hiện là đương thời của Khanan và Caipha giữ chức vụ thượng tế. Chưa bao giờ có hai thượng tế cùng một lúc. Vậy Luca có ý nói gì khi nêu lên hai vị này? Thầy thượng tế là người đứng đầu xã hội Do Thái cả về phương diện tôn giáo lẫn chính trị. Ngày xưa chức thượng tế được cha truyền con nối và mãn đại. Nhưng khi người Rôma đến, chức vị đó làm đầu mối cho đủ thứ gian lận. Kết quả là từ khoảng 37 TCN đến 26 SCN đã có đến 28 thầy thượng tế khác nhau. Khanan hành chức tế lễ thực thụ từ năm 7 TCN đến 14 SCN. Cho nên khi ông ấy mãn nhiệm, nhưng kế vị ông là bốn người con và Caipha là con rể ông. Do đó, tuy Caipha là thầy thượng tế đương chức, Khanan vẫn có quyền hành. Vì thế sau khi Chúa Giêsu bị bắt đã phải điệu đến chỗ ông trước tiên (Ga 18,13), dù lúc đó ông không còn tước vị gì. Luca đem tên ông ghép vào với Caipha mặc dù Caipha là thầy thượng tế đương nhiệm, Khanan vẫn còn là một nhân vật tư tế rất có ảnh hưởng trong nước.

 

Các câu 4-6 được trích từ Isaia 40,3-5. Bên phương Đông, khi một vị vua định đi tuần tra một vùng nào đó trong vương quốc mình thì sai một vị sứ giả đi trước để bảo dân chúng sửa sang đường sá. Cũng thế, Gioan được coi như sứ giả của Vua. Nhưng sửa soạn mà ông nhấn mạnh ở đây là sửa soạn tâm hồn và đời sống. Ông nói: “Vua đang đến, đừng lo sửa soạn đường sá, hãy chuẩn bị đời sống các ngươi”. Mỗi chúng ta đều có bổn phận liên tục phải gắng sức làm cho đời sống mình xứng đáng trước mặt Vua đời đời.

=> Tài liệu dạng Word, xin nhấn vào đây để tải về máy