SUY NIỆM CHÚA NHẬT 26 THƯỜNG NIÊN – A
Lời Chúa: Ed. 18, 25-28; Pl. 2, 1-11; Mt. 21, 28-32
MỤC LỤC
4. Tình yêu được chứng minh bằng việc làm.
9. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
11. Cách hành xử của Thiên Chúa.
13. Rất cần cho một lần hoán cải
20. Người con vâng lời – Lm. Trầm Phúc.
23. Tin vào cha – Lm. Vũ Đình Tường.
24. Công chính hoá – Lm Vũ Đình Tường.
26. Dụ ngôn hai người con Chúa.
32. Người vâng lời Thiên Chúa.
34. Tôi khám phá ra 3 điều khác lạ.
40. Lời nói đi đôi với việc làm.
45. Thiên Chúa không thiên tư tây vị
59. Nhìn với nhãn quan của Chúa.
62. Xin được mãi làm “người con thứ nhất”!.
72. Tôi khám phá ba điều khác lạ.
73. Biết nhận ra sai lỗi và hối hận.
75. Hành động tốt thắng câu nói hay.
77. Lời nói đi đôi với việc làm.
79. Sự hoán cải nội tâm đích thực.
82. Nghe và làm – Lm. FX. Vũ Phan Long.
86. Ai ngoan nhất? – Lm Ansgar Phạm Tĩnh.
87. Suy niệm Lời Chúa các ngày trong tuần 26 TN.
****************************
(Trích trong ‘Manna’ – Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)
Suy Niệm
“Người thu thuế và gái điếm vào Nước Trời trước các ông.”
Lời nói của Đức Giêsu như một trái bom nổ trước mặt các thượng tế, kinh sư, pharisêu, những người đáng kính vì đạo đức và học thức, những người đáng trọng vì chức vụ.
Làm sao những người hư hỏng và tội lỗi lại có thể qua mặt các bậc đáng kính như vậy?
Đức Giêsu đã soi sáng trước bằng một dụ ngôn.
Người cha sai hai đứa con đi làm vườn nho. Đứa con thứ nhận lời, nhưng sau lại không đi làm. Đứa con cả từ chối, sau hối hận nên lại đi.
Con thứ tượng trưng cho các nhà lãnh đạo Do Thái Giáo. Họ tuyên bố mình sống nghiêm chỉnh theo Lề Luật. Tiếc thay chính sự đạo đức của họ lại làm cho họ tự mãn và khép kín đến nỗi không thể tin vào Đức Giêsu và đón lấy Ngài như quà tặng bất ngờ của Thiên Chúa.
Đứa con cả tượng trưng cho những người tội lỗi, những người bị đặt bên lề xã hội và tôn giáo. Đời sống của họ là một sự nhơ nhuốc đáng buồn. Nhưng chính tội lỗi đã làm cho họ khiêm tốn và dễ dàng hoán cải trước lời mời của Gioan. Rốt cuộc, họ lại là những người tin vào Đức Giêsu và gặp được ơn cứu độ trước nhiều người khác.
Đi làm hay không đi làm vườn nho đồng nghĩa với tin hay không tin vào Đức Giêsu.
Niềm tin có khả năng biến đổi cuộc sống.
Niềm tin thực sự luôn chuyển thành hành động.
“Chúng tôi phải làm gì, dân chúng hỏi Đức Giêsu, để được gọi là làm việc của Thiên Chúa?”
“Làm việc của Thiên Chúa là tin vào Đấng Ngài sai đến”
Đó là câu trả lời của Đức Giêsu (Ga 6,28-29).
Tin là một việc làm, một dấn thân nghiêm túc.
Niềm tin vào Đức Giêsu đòi hỏi một sự hoán cải và từ bỏ.
Giới lãnh đạo Do Thái Giáo sợ tin vào Đức Giêsu. Họ sợ mất chỗ đứng và quyền lợi, sợ phải thay đổi quan niệm của họ về Thiên Chúa.
Kitô giáo là tôn giáo của lòng tin.
Lòng tin bên trong phải được biểu lộ ra bên ngoài: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17).
Lòng tin không phải chỉ là một tuyên xưng ngoài miệng nhưng là một tuyên xưng bằng cuộc sống: “Không phải mọi kẻ nói với Thầy: Lạy Chúa, lạy Chúa, là sẽ được vào Nước Trời, nhưng là kẻ làm ý Cha Thầy” (Mt 7,21).
Tôi phải tránh lối giữ đạo hình thức: có tiếng là Kitô hữu, nhưng lại không thuộc về Đức Kitô, bởi có một khoảng cách rất xa giữa điều tôi tuyên xưng và điều tôi sống.
Gợi Ý Chia Sẻ
Đọc Lời Chúa, chia sẻ Lời Chúa là điều tốt, nhưng chưa đủ nếu không sống Lời Chúa. Bạn lượng giá thế nào về việc sống Lời Chúa của bạn trong đời thường đầy bon chen?
Bạn nghĩ gì về việc anh Giuse Nguyễn Đức Minh xin hiến thân xác anh cho y học? Bạn có coi đó là một hành vi đức tin cụ thể không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Sám hối không phải là điều dễ dàng, bởi lẽ chúng con không đủ khiêm tốn để nhận mình lầm lỗi.
Chúng con ngỡ ngàng khi thấy Chúa là Đấng vô tội mà lại đứng chung với các tội nhân, chờ Gioan ban phép rửa.
Chúa đã muốn nên bạn đồng hành với phận người mỏng dòn yếu đuối chúng con.
Xin cho chúng con biết thường xuyên điều chỉnh lối nghĩ và lối sống của mình, tỉnh táo để khỏi rơi vào ảo tưởng, thành thật để khỏi tự dối mình.
Ước gì Chúa ban cho chúng con ơn hoán cải, dám đi đến những hành động cụ thể, và chấp nhận những cắt tỉa đớn đau.
Nhưng xin đừng quên ban cho chúng con niềm vui của Giakêu, hạnh phúc vì được tự do và được yêu mến.
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)
Suy Niệm
Hối hận là thái độ tiếc nuối vì một việc xấu mình đã làm
hay vì một việc tốt mình lẽ ra phải làm mà đã không làm.
Khi thật sự hối hận, người ta muốn làm điều gì đó để sửa sai.
Giuđa hối hận vì đã nộp Thầy, khiến Thầy bị bắt (Mt 27,3).
Anh ấy đã đem ba mươi đồng bạc trả lại cho các thượng tế
và nói: “Tôi đã phạm tội nộp máu người vô tội” (Mt 27,4).
Tiếc thay Giuđa đã tìm đến cái chết cho mình.
Khác với Phêrô, người đã chối Thầy ba lần,
Giuđa đã để cho hối hận trở thành ân hận và tuyệt vọng.
Dụ ngôn của bài Tin Mừng hôm nay cũng nói đến hối hận.
Người con thứ nhất đã hối hận sau khi anh từ chối vâng lệnh cha.
Cha bảo anh đi làm vườn nho cho cha ngay hôm nay.
Anh đã nói thẳng với cha: “Con không muốn!”
Anh dám đặt ý muốn của mình trên ý muốn của cha,
dù chống lại uy quyền của cha là điều không thể chấp nhận được.
May thay “sau đó” anh đã hối hận, nên lại đi (Mt 21,29).
Chúng ta không rõ “sau đó” là bao lâu,
Và đâu là lý do khiến anh đổi ý.
Chắc anh đã nghĩ lại về thái độ của mình đối với cha.
Người con thứ hai cũng được cha anh mời đi làm vườn nho.
Anh này mau mắn đáp lại: “Thưa ngài, con đây!” (Mt 21,30).
Rõ ràng anh sẵn sàng tuân lệnh cha với sự kính trọng.
Anh đồng ý đi làm cho cha không một chút đắn đo.
Tiếc thay, sau đó anh lại không đi.
Chúng ta không rõ tại sao anh không đi sau khi đã nhận lời.
Rốt cuộc, người con chối từ thì lại chấp nhận đi.
Còn người con chấp nhận đi thì lại chối từ.
Điều quan trọng đâu phải là nói tiếng xin vâng hay kêu “Lạy Chúa.”
Điều đáng kể là “thi hành ý muốn của người cha” (Mt 21,31).
Người con nói: “Con không muốn!”
lại là người sau này đã làm ý muốn của cha (x. Mt 7,21; 12,50).
Đức Giêsu đã kể dụ ngôn này cho các nhà lãnh đạo Do-thái giáo.
Họ đã dễ dàng trả lời câu hỏi của Ngài về người con nào ngoan,
nhưng họ không ngờ Ngài kể dụ ngôn này nhắm vào họ.
Chính họ là người con thứ hai, kẻ đã không đi làm vườn nho cho cha.
Các nhà lãnh đạo ở đây là các thượng tế và kỳ mục trong dân.
Họ là những người thông thạo về Luật, dạy dân chúng về Luật,
và được coi là những người giữ Luật nghiêm túc chi li.
Đúng họ là người con đã nói “xin vâng” để đi làm vườn nho cho cha.
Nhưng họ đã không tin ông Gioan là ngôn sứ Thiên Chúa sai đến,
không chấp nhận phép rửa của ông là phép rửa từ trời (Mt 21,25).
Gioan làm chứng về Đức Giêsu, nên họ sợ lời chứng của Gioan.
Chính vì thế họ cũng không chịu hoán cải như Gioan mời gọi (Mt 3,2).
Khép lại trong sự tự mãn cứng cỏi của mình,
họ lạc xa đường công chính mà chẳng biết đến hối hận.
Ngược lại, những người thu thuế và gái điếm có đời sống tội lỗi,
những kẻ đã nói như người con thứ nhất: “Con không muốn!”
nhưng sau đó lại là những người đi làm vườn nho.
Họ đã tin vào Gioan và lời mời gọi của ông,
hối hận và muốn hoán cải để đón lấy Nước Thiên Chúa.
Đức Giêsu đã nói một câu không ngờ với giới lãnh đạo:
“Các người thu thuế và gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông.”
Quá khứ tội lỗi có thể bị xóa sạch bởi thái độ hối hận.
Hối hận hay hoán cải làm người ta đổi quyết định trước đó.
Ngày nào còn sống trên đời, ai cũng có thể quay đi với quá khứ
và quay lại với chính lộ, để tìm ra cửa vào Nước Trời.
Thiên Chúa vẫn chấp nhận câu từ chối: “Con không muốn!” của tôi,
và nhiều câu từ chối khác trải dài suốt đời.
Chỉ mong câu cuối cùng ở cuối đời tôi là: “Con muốn, Chúa ạ!”
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
con đường dài nhất là con đường từ tai đến tay.
Chúng con thường xây nhà trên cát
vì chỉ biết thích thú nghe lời Chúa dạy,
nhưng lại không dám đem ra thực hành.
Chính vì thế, Lời Chúa chẳng kết trái nơi chúng con.
Xin cho chúng con đừng hời hợt khi nghe Lời Chúa,
đừng để nỗi đam mê làm Lời Chúa trở nên xa lạ.
Xin giúp chúng con dọn dẹp mảnh đất lòng mình,
để hạt giống Lời Chúa được tự do tăng trưởng.
Ước gì ngôi nhà đời chúng con
được xây trên nền tảng vững chắc,
đó là Lời Chúa,
Lời chi phối toàn bộ cuộc sống chúng con.
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)
“Quay đầu là bờ” là lời khuyên dành cho những ai đang làm việc sai trái hãy tỉnh ngộ trước khi mọi thứ trở nên quá muộn màng. Cụm từ này có nguồn gốc từ một thành ngữ trong tiếng Hán: “Khổ hải mang mang, Hồi đầu thị ngạn” (dịch là: Biển khổ mênh mang, Quay đầu là bờ). Trong cuộc sống, mỗi chúng ta đều có những sai lầm, có thể do nguyên nhân chủ quan hoặc khách quan. Có người khi đã sa vào con đường tội lỗi, cứ nhắm mắt đưa chân, buông theo số phận và càng ngày càng trượt dốc. Biết tỉnh ngộ và nhận ra những lầm lỗi, đó chính là quay đầu. Như người đang bơi giữa đại dương, có quay về mới hy vọng gặp bờ. Cứ đi mãi ắt sẽ chết chìm giữa biển cả.
“Quay đầu là bờ”. Đây không chỉ là tiếng gọi của lương tâm hay tiếng gọi của bạn bè, mà chính là tiếng gọi của Thiên Chúa. Thiên Chúa luôn mời gọi chúng ta trở về, để hưởng tình thương của Ngài, như tình thương của người Cha. Suốt bề dày của lịch sử Cứu độ, bằng nhiều cách khác nhau, Thiên Chúa luôn kêu gọi tội nhân sám hối trở về để được ơn tha thứ. Bởi vì Chúa là Đấng từ bi, “Người có giận, giận trong giây lát, nhưng yêu thương, thương suốt cả đời” (Tv 29.6).
Lời Chúa của Chúa nhật 26 thường niên là lời mời gọi hãy sám hối và hãy nhận ra tình thương vô bờ của Thiên Chúa. Ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã ghi lại lời Chúa phán: “Nếu kẻ gian ác bỏ đàng gian ác nó đã đi, và thực thi công bình chính trực, nó sẽ được sống”. Thiên Chúa rất dễ “quên” quá khứ của những tội nhân. Ngài không muốn nhớ lại những sự dữ của con người. Những ai cố tình chối bỏ giáo huấn của Chúa mà chạy theo lối sống gian tà, sẽ phải trả giá cho những chọn lựa của mình. Chúa trao cho ngôn sứ Ê-dê-ki-en nhiệm vụ cảnh báo dân chúng, để họ từ bỏ lối sống sa đoạ, sám hối trở về với Chúa để được Ngài thứ tha. Con người thường dựa vào lối suy nghĩ thiển cận và ích kỷ của mình để phê phán cả Thiên Chúa. Vì thế Đức Chúa đã phán: “Phải chăng đường lối của Ta không ngay thẳng hay đường lối của các ngươi mới không ngay thẳng?”. Chúa là Đấng công minh. Ai làm điều xấu sẽ phải trầm luân; ai làm điều lành sẽ được thưởng phúc. Trong đoạn văn liền trước Bài đọc này, Đức Chúa đã khẳng định: “Ai phạm tội, kẻ ấy phải chết. Con không mang lấy tội của cha; cha cũng không mang lấy tội của con” (Ed 18,20). Người ta không được lấy công của quá khứ mà xoá đi tội của hiện tại. Cũng vậy, không thể căn cứ tội của ngày xưa để trừng phạt ngày nay. Trong xã hội ngày nay, nhiều người cậy thân nhân có chức quyền để làm những điều sai trái, rồi lại chạy án, tráo trở biến tội thành công hoặc biến đen thành trắng. Tiền bạc làm con người mờ con mắt và mất lương tâm là thế.
Con Thiên Chúa đến trần gian để kêu gọi những tội nhân trở về. Trong số những người nghe Chúa Giê-su giảng, có người giàu, người nghèo; có người trí thức, người bình dân. Có những người thu thuế và những cô gái làng chơi đã rộng mở tâm hồn để đón nhận lời giáo huấn của Người. Nhờ gặp gỡ Chúa Giê-su, cuộc đời của họ đã sang trang. Có những người, sau khi phục thiện, đã trở nên môn đệ của Chúa. Thiên Chúa đã quên quá khứ của họ. Ngài phục hồi phẩm giá của họ và trao cho họ sứ mạng cộng tác với Ngài.
Trước sự cứng lòng và vô tín của một số những người Do Thái, Chúa Giê-su đã kể một dụ ngôn. Một người cha có hai con trai. Ông bảo cả hai con đi làm vườn nho, và kết quả khác nhau. Đứa mau mắn đồng ý thì lại không làm; kẻ ban đầu từ chối sau đó lại chăm chỉ. Như thế, người từ chối lời mời gọi của cha chưa hẳn đã là người bất hiếu. Người mau miệng nói lời thưa vâng chưa chắc đã là người dễ bảo. Qua câu chuyện này, Chúa Giê-su muốn nhắc đến những thái độ khác nhau trong việc đón nhận giáo huấn của Người. Trong số những người đương thời lúc đó, có những người mau miệng tung hô Chúa, nhưng không thực tâm tuân giữ Lời Chúa. Ngược lại, có những người đã có thời lầm lỗi, nhưng khi được tiếp xúc với Chúa, họ thành tâm đổi đời và chấp nhận buông bỏ tất cả để trở nên môn đệ của vị Thày Giê-su. Đó là trường hợp ông Gia-kêu, đứng đầu sở thuế. Đó cũng là trường hợp bà Ma-đa-lê-na, người phụ nữ tội lỗi có tiếng trong vùng. Trong khi đó, một số người vốn cho mình là thánh thiện và uyên bác, lại tìm cách bắt bẻ Chúa và xuyên tạc giáo huấn của Người. Chúng ta thấy rõ điều đó trong vụ án mà Phi-la-tô là chánh án xét xử và Chúa Giê-su là bị cáo. Các thượng tế và luật sĩ, cùng với đám người pha-ri-siêu (còn gọi là biệt phái) đã vu khống Chúa là kẻ phá đền thờ, vi phạm Lề Luật, và nổi loạn chống lại hoàng đế. Lời tuyên bố của Chứa Giê-su tuy gay gắt nhưng phản ánh một sự thật: “Những người thu thuế và gái điếm sẽ vào nước Thiên Chúa trước các ông!”. Người ta thường nói: “Vị thánh nào cũng có một quá khứ; tội nhân nào cũng có một tương lai”. Dù tội lỗi đến đâu, nếu thành tâm sám hối, tội nhân vẫn được Chúa thứ tha và vẫn có thể trở nên người tốt.
Nếu Chúa Giê-su giảng dạy về sự vâng phục, thì chính Người đã nêu gương qua cuộc sống của Người. Bài đọc II trích thư thánh Phao-lô trong thư gửi tín hữu Phi-li-phê trong Chúa nhật này là một đoạn văn rất quen thuộc, diễn tả sự khiêm tốn hạ mình và vâng phục của Chúa Giê-su. Người đã đón nhận tất cả về mình, huỷ mình đi để ý Chúa Cha được thực hiện. Người vâng lời một cách trọn vẹn, trong cuộc sống cũng như trong hoạt động loan báo Nước Trời. Người là mẫu gương cho sự tuân phục của người Ki-tô hữu. Đó là sống vì người khác chứ không vì mình. Cái chết đau thương của Chúa Giê-su trên thập giá đã hoà giải Thiên Chúa với thế gian, xoá đi bản án nguyên tội, kết nối anh em đồng loại trong tình huynh đệ.
Sống giữa thế gian, tứ bề vây bọc bởi biết bao cám dỗ: danh vọng, quyền lực, tiền tài, thù hận… Chúa dạy chúng ta hãy sống thanh cao, như đoá sen giữa bùn lầy. Đôi khi buông bỏ chính là hạnh phúc – điều này con người sớm sẽ nhận ra bởi vì càng đòi hỏi và cầu toàn sẽ khiến cho bản thân thêm mệt mỏi, vì chính chúng ta đã hoàn mỹ bao giờ! “Quay đầu là bờ!”. Thiên Chúa luôn đồng hành với chúng ta trên con đường trở về.
Chúa nhật 26 thường niên năm nay cũng là ngày mồng một tháng mười, ngày đầu tháng Mân Côi. Cùng với Đức Trinh nữ Ma-ri-a, chúng ta suy niệm cuộc đời Chúa Cứu thế, chiêm ngắm những mầu nhiệm diễn tả bốn giai đoạn trong cuộc đời dương thế của Người: đó là Vui, Sáng, Thương, Mừng. Trong tất cả những biến cố này, Mẹ Ma-ri-a luôn hiện diện để hiệp thông với Con mình, góp phần thực hiện chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Nhờ kinh Mân Côi, chúng ta qua Mẹ để đến với Chúa Giê-su, noi gương Mẹ để trở nên môn đệ trung thành của Chúa. Mẹ Ma-ri-a là Nữ Vương hoà bình. Xin Mẹ ban bình an cho thế giới, cho gia đình và cho mỗi chúng ta. Amen.
4.Tình yêu được chứng minh bằng việc làm
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)
Trong cuộc sống cá nhân của mỗi chúng ta, lời nói và việc làm thường có những khoảng cách xa vời, thậm chí có lúc hoàn toàn trái ngược nhau. Những bài diễn thuyết hùng hồn với những mỹ tự bóng bảy nhiều khi chỉ là đồ trang trí cho những tư tưởng rỗng tuếch, nhất là với thời đại bùng nổ thông tin như hiện nay. Với công nghệ quảng cáo tiếp thị, cái gì cũng nhất thế giới, đồ gì cũng là chất lượng hàng đầu…suy cho cùng, chỉ là sự dối trá. Để chứng minh lời nói của một người có thật hay không, người ta phải kiểm chứng việc làm của người đó. Thiếu việc làm, tình yêu chỉ là chót lưỡi đầu môi và giả tạo.
Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay nói đến một người cha và hai người con. Người cha sai hai con đi làm vườn nho. Hình ảnh vườn nho một lần nữa lại được Đức Giêsu dùng để so sánh với cuộc đời. Chúng ta dễ nhận ra, nơi hình ảnh người cha này là chính Thiên Chúa. Người cha này có hai người con. Một người, khi được cha trao việc thì chối từ, nhưng sau hối hận; người thứ hai mau mắn nhận lời, rồi lại không làm. Kết luận Chúa Giêsu đưa ra là: việc làm và đời sống của một người là tiêu chuẩn lượng giá về nhân cách của người ấy chứ không phải lời nói. Người con thứ nhất tuy từ chối lời đề nghị của cha mình, những đã sớm hối hận và đã đi làm vườn nho cho cha. Người con này được kể là người con hiếu thảo và được cha yêu mến. Trái lại, người con thứ hai khi được trao việc thì nhanh nhảu nhận lời, nhưng rốt cuộc lại không làm gì. Đây là người con chỉ vâng lời và hiếu thảo bằng môi mép, còn trong thực tế thì lười biếng và dối trá.
Hai người con tượng trưng cho hai lối sống, hai trào lưu, hai quan niệm và cũng là hai cách thực hành đời sống Đức Tin của chúng ta. Có thể hai nhân vật ấy đồng thời hiện hữu trong chính con người của mỗi chúng ta, khi chúng ta bị cám dỗ sống giả hình hoặc bất tuân. Thiên Chúa là Cha vẫn luôn mời gọi chúng ta làm điều thiện. Trước lời mời gọi ấy, có những người “miệng nói hay, mà tay không làm”. Trái lại, có những người khước từ rồi sau đó nhận ra lẽ phải và gắng công thực hiện ý Chúa.
Trong bối cảnh xã hội hôm nay, cách thức thực hành Đạo bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Tại nhiều nơi và đối với nhiều người, đời sống Đức tin chỉ dừng lại ở những nghi lễ bề ngoài mà ít để ý đến chiều sâu và đời sống nội tâm. Theo lẽ thường tình, một khi hình thức tăng thì nội dung giảm. Khi người ta quá chú trọng đến bề ngoài thì dễ quên bề trong. Tại nhiều nơi, lời kêu gọi học hỏi giáo lý để giúp sống Đạo bị bỏ ngoài tai, thậm chí giáo dân còn “tìm cách bỏ trốn” mỗi khi đến giờ học giáo lý. Hậu quả của việc không học giáo lý là một Đức tin mờ nhạt, một lối giữ đạo nửa vời. Nhiều bạn trẻ đã mất Đức tin khi tiếp cận với nền văn minh và lối sống đô thị.
Lời Chúa hôm nay cũng dạy chúng ta cần thận trọng khi nhận định về tư cách của một người. Chắc hẳn những người có mặt lúc Chúa Giêsu tuyên bố những lời này cảm thấy “sốc”: “Tôi bảo thật các ông, những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông”. Lời tuyên bố của Chúa đảo ngược bậc thang giá trị mà người Do Thái thường dựa vào để nhận định một con người. Thì ra, những người mũ cao áo dài chưa chắc đã là những người thánh thiện. Những người biệt phái và luật sĩ dù khôn ngoan chưa hẳn đã là những người ngay chính. Để nhận định tư cách của họ, còn phải xem đời sống hằng ngày của họ ra sao, họ có thực hành đức công bình mà họ vẫn rao giảng hay không, đó mới là điều quan trọng. Một người có quá khứ tội lỗi, nhưng thành tâm thiện chí ăn năn hối cải, thì họ được Chúa tha thứ. Trong cuộc sống, vì có một quá khứ nghiện ngập, tù đầy khi muốn hoàn lương vẫn gặp phải những thành kiến của những người xung quanh, để rồi những người muốn làm một con người bình thường mà cũng không được. Ngôn sứ Edêkien đã truyền lại lời của Chúa: “Nếu kẻ gian ác từ bỏ điều dữ nó đã làm, mà thi hành điều chính trực công minh, thì nó sẽ cứu thoát mạng sống mình!”. Vâng, trong cuộc đời, chúng ta còn khắt khe hơn Thiên Chúa trong việc xét đoán anh chị em mình. Những người thu thuế và những cô gái điếm được vào Nước Trời, vì họ đã để cho Lời Chúa thấm nhập và thay đổi cuộc đời tội lỗi của họ. Họ đã can đảm đoạn tuyệt với quá khứ xấu xa, để mặc lấy Đức Giêsu phục sinh, trở nên con người mới, thánh thiện tinh tuyền. Như thế, đối với Chúa, không thể vin vào một quá khứ xa xưa – dù tốt lành – để biện minh cho những lỗi lầm mình đang phạm. Thiên Chúa công minh vô cùng trong xét xử. Ngài vừa công bằng vừa giàu lòng thương xót.
“Hãy có cùng một cảm nghĩ, cùng một lòng mến, cùng một tâm hồn, cùng một ý hướng như nhau. Đừng làm chỉ vì ganh tỵ hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình”. Đó là lời khuyên của Thánh Phaolô gửi tới cộng đoàn tín hữu Philiphê. Khi nhấn mạnh đến đức khiêm nhường, vị Tông đồ dân ngoại trình bày Đức Giêsu như mẫu mực và lý tưởng của mọi Kitô hữu: Người là Thiên Chúa đã tự huỷ, mặc lấy thân nô lệ, sống như người trần thế vì yêu thương chúng ta (Bài đọc II). Những ai tiến bước theo Chúa Giêsu sẽ đẹp lòng Thiên Chúa Cha
Hãy bớt những lời nói và hãy gia tăng việc làm. Hãy nói ít và nghe nhiều. Hãy học sống thinh lặng để cảm nhận sự hiện diện của Chúa và những điều kỳ diệu Chúa làm quanh ta. Những điều kỳ diệu ấy, ta chỉ có thể cảm nhận bằng Đức tin và tình mến Chúa yêu người.
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Nếu bây giờ Chúa Giêsu hiện đến nói với chúng ta rằng: “Ta bảo thật các ngươi: Những người thu thuế và gái điếm vào nước Thiên Chúa trước các ngươi”, thì chúng ta nghĩ sao? Các thượng tế và niên trưởng của dân Do thái thời xưa cũng giống như Giám mục, Giáo chủ, Linh mục và các ông trùm, ông trưởng bây giờ; thế mà Chúa Giêsu đã dám nói với họ: “Tôi bảo thật các ông, những người thu thuế, những cô gái điếm vào nước Thiên Chúa trước các ông đấy”.
Thật kinh khủng! còn kinh ngạc hơn nữa: vua A-Duc (Ashoka) cùng toàn thể quần thần, đạo sĩ và dân chúng đã chứng kiến một cô gái điếm có sức mạnh siêu phàm làm cho nước sông Hằng rộng lớn đang chảy mạnh phải chuyển mình chảy ngược dòng, gây nên tiếng ầm ầm long trời lở đất. Thế mà nhà vua cùng quần thần, đạo sĩ là những người có dày công lớn nhất trong việc tu luyện và truyền bá đạo Phật, lại bất lực. Không thể nào làm cho nước sông khỏi tràn bờ!
Vua không thể tin: làm sao cô gái điếm ti tiện tội lỗi lại có sức siêu phàm như thế. Vua hỏi cô: “Nhờ đâu kẻ tội lỗi như ngươi lại có thể làm được việc phi thường đó?”. Cô đáp: “Nhờ đức hạnh “! – “Đức hạnh của ngươi như thế nào?” – “Tâu vua. Đức hạnh của tôi ở lòng chân thành tiếp đãi mọi người. Ai cũng như ai, dù bậc quân vương quý tộc hay tiện dân hèn hạ, tôi cũng hết lòng kính chuộng cư xử trọn nghĩa vẹn tình, không dám khinh thường ai” (Milin dapanha sutra 119-123).
Chính lòng chân thành kính chuộng mọi người của những kẻ tội lỗi đã giúp họ nhận ra đường lối công chính mà ăn năn trở lại tin theo chân lý. Chúa Giêsu đã đưa chứng cứ cụ thể cho các thượng tế và niên trưởng thấy nơi ông Gioan tiền hô: “Ông Gioan đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không chịu tin. Còn những người thu thuế, những cô gái điếm lại tin. Và các ông, khi thấy vậy rồi, các ông cũng vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy”
Đó là hai lối sống trái ngược nhau: Giả hình và chân thật, được Chúa Giêsu ví von qua dụ ngôn hai người con.
Người con chân thật nói: “Con không đi đâu” câu đáp cộc cằn, khô khẳng, nghĩ sao nói vậy. Lúc đầu tự nhiên nó thấy khó khăn thì ái ngại, không muốn gian khổ. Nhưng con người chân thật biết nghĩ lại, biết băn khoăn lo lắng về bổn phận mình, biết nhận ra điều hay lẽ phải. Cũng có thể, nó đã từ lâu không vâng lời cha, đã ăn chơi lười biếng hư thân làm buồn lòng cha. Nó cảm thấy quá tệ bạc, quá bất hiếu. Sức nặng tội lỗi đã làm khổ nó, nó hối hận, mong được giải thoát, được trở nên làm con thảo. Nhờ lương tâm cắn rứt, nó tỉnh thức, nó trở lại, cố gắng sống theo đường công chính. Tâm hồn nó cảm thấy đầy hân hoan vui sướng. Nó thực sự đi vào nước Trời. Nó như đứa con phung phá quay trở về nhà và được cha hết sức vui mừng ra ôm hôn nó: “Con ta đã chết, nay sống lại; đã mất, nay tìm thấy”.
Khác với đứa con chân thật, đứa con giả hình nói: “Thưa cha, vâng”. Lời thưa thật ngọt ngào dễ thương. Nhưng chỉ vâng bằng môi bằng miệng, còn lòng nó tráo trở. Vâng để lừa dối cha cho xong chuyện. Vâng như Giuda đến hôn mặt Thầy, lừa dối Thầy, dùng cái hôn thân yêu bề ngoài làm dấu chỉ cho quân dữ bắt Thầy (Mt. 26,49). Thật ghê sợ! Văn hào Nguyễn Du cũng vạch trần lối sống giả hình độc ác đó bằng câu thơ: “Bên ngoài thơn thớt nói cười, mà trong nham hiểm giết người không dao”. Các thượng tế và Pharisiêu đã nhiều lần đến với Đức Giêsu với lòng như vậy: “Họ hỏi Ngài có nên nộp thuế cho hoàng đế không?” (Mt. 22, 15-21)… Nếu ngài nói không, thì họ sẽ tố Ngài chống hoàng đế. Nếu Ngài nói có, thì họ sẽ tố Ngài chống lại quốc dân.
Thế giới ngày nay, quá ít người sống chân thật. Quá nhiều người sống theo mã nước sơn bên ngoài. Họ không còn biết giá trị “tốt lõi hơn tốt nước sơn”. Lợi dụng nhược điểm này, nghệ thuật tuyên truyền quảng cáo tràn ngập thị trường. Hàng giả, dỏm, đẹp mã bán chạy như tôm tươi. Hàng thật, tốt, khô khan thì lại ế ẩm, bị liệng bỏ. Người tài đức bị liệng bỏ. Kẻ vô tài thất đức, lẻo mồm tâng bốc nịnh hót thì lên như diều, để rồi “làm thì láo, báo cáo thì hay”. Hậu quả thật khốc hại!
Thời Tiên tri Êgiêkiel, tiên tri thật thì ít, tiên tri giả thì quá nhiều. Họ làm nhiều người công chính, bỏ đàng công chính của Thiên Chúa đi theo tà thần đế quốc Babilon để kiếm lợi danh. Tiên tri Êgiêkiel đã phải quyết liệt cảnh cáo họ: “Khi người công chính bỏ đường công chính mà làm điều gian phi… thì nó phải chết”. Đồng thời, ông cũng kêu gọi: “ Kẻ bất lương bỏ việc bất lương, mà thi hành điều công chính, thì nó sẽ được sống” (Bài đọc I – Êgiêkiel 18, 25).
Để khuyến khích giáo đoàn Philip tiếp tục sống đức tin mạnh mẽ, Thánh Phaolô kêu gọi họ liên kết chặt chẽ với Đức Kitô, hiệp thông trong Thánh Thần và cảm thương nhau trong tâm tình của Đức Giêsu Kitô.
Tâm tình của Đức Kitô là Thiên Chúa mà đã mặc lấy thân nô lệ làm người, vâng phục Chúa Cha cho đến chết trên Thập giá để làm vinh danh Chúa Cha và cứu độ loài người (Bài đọc II – Phil. 2, 1-11).
Đó là Người Con hoàn toàn công chính, vô cùng cao trọng, thế mà còn phải vâng lời Cha, đi làm vườn nho Israel, phải chịu cùng cực khốn khổ như thế! huống chi ta là thân phận loài người hèn hạ tội lỗi, sao dám coi mình là công chính, khinh bỉ người khác là bọn thuế, gái điếm. Thật quái gỡ!
Lạy Chúa, xin cho con thấy thân phận hèn hạ tội lỗi của con, cho con biết hối hận mà thật lòng sống theo tâm tình của Đức Kitô. Xin tâm tình Người Con chí hiếu biến đổi con có cùng một cảm nghĩ, cùng một lòng mến, cùng một tâm hồn, cùng một ý hướng và hành động như Người để làm vinh danh Cha và cảm thương mọi người.
Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay đặt chúng ta trước một người cha hiền lành và nhân hậu truyền bảo hai người con của mình đi làm vườn nho. Thực vậy, hình ảnh người cha này chính là hình ảnh Thiên Chúa của Đức Kitô, hoàn toàn trái ngược với hình ảnh Thiên Chúa mà các thượng tế đã giới thiệu cho người Do Thái.
Đúng thế, người ta thường hay vẽ ra một Thiên Chúa thích trừng phạt và áp đặt những mệnh lệnh độc đoán, khác hẳn với hình ảnh Thiên Chúa do Đức Kitô mạc khải, là một người cha nhân từ và tha thứ. Ngay cả lệnh truyền của Ngài cũng chỉ là một lời mời gọi: Hôm nay con hãy đi làm vườn nho cho cha.
Thái độ của hai người con cũng trái ngược nhau một cách đặc biệt. Hình ảnh hai người con có lẽ đã diễn tả được tính chất mâu thuẫn của hai quan niệm biết Chúa và sống đạo.
Người con thứ nhất khẳng định tự do của mình bằng tiếng không với cha anh. Nhưng sau đó, anh đã suy nghĩ lại và đã quy thuận, đặt tự do của mình phục vụ lợi ích chung của gia đình qua việc thi hành ý muốn của cha. Có một sự giằng co trong chọn lựa của anh. Để thực thi ý muốn của cha, anh đã phải can đảm từ bỏ cách sử dụng tự do theo tính tự phát của cái tôi ích kỷ, của những sở thích, những dục vọng đi ngược lại với hạnh phúc chung của gia đình xã hội.
Trái lại người con thứ hai từ đầu đến cuối đã tỏ ra bất nhất, vô trách nhiệm đối với ích lợi chung và chỉ biết có mình. Câu trả lời của anh ta: Thưa cha vâng, thật ra chỉ là một câu nói hình thức, dửng dưng, máy móc nhằm mục đích đánh lừa người cha. Anh ta không yêu mến cha mình và do đó cũng tỏ rõ mình là người ích kỷ, không thể yêu thương bất cứ một ai khác. Vì tình yêu không ở trong những điệu bộ khách sáo, đầu môi chót lưỡi mà phải đi vào hành động đi vào việc làm.
Trong thực tế, phần đông chúng ta đều cảm thấy khó mà thực thi ý Chúa bởi vì nó ngược với sở thích vị kỷ cá nhân của mình. Thái độ tránh né vốn là thái độ thường tình, nhất là khi gặp phải khổ đau và thử tháchy. Phải chấp nhận sự trăn trở, giằng co, chiến đấu với bản thân rồi mới nhìn ra thánh ý Chúa và can đảm thực hành. Giá trị cuộc đời chúng ta chủ yếu là nhờ sự phản tỉnh và quay trở lại cùng Chúa.
Nhìn vào xã hội, chúng ta thấy còn đầy dẫy những chuyện bê bối, tiêu cực, chẳng hạn, vấn đề tham nhũng, trộm cắp và những tội phạm hình sự. Có lúc ở rất gần chúng ta, ngay bên trong giáo xứ và biết đâu, ngay bên trong bản thân chúng ta. Thử hỏi chúng ta phải làm gì? khoanh tay lên án theo kiểu Pharisêu hay kiên trì hành động, làm cho tình trạng nói không với Chúa, trở thành tình trạng nói có với Chúa, bằng một lòng xác tín vào tình thương tha thứ của Ngài. Bởi vì Ngài luôn luôn sẵn sàng tha thứ cho chúng ta, nếu chúng ta biết sám hối quay trở về với Ngài.
Qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay chúng ta thấy Thiên Chúa đã trao ban cho con người sự tự do. Và với sự tự do này, con người có thể bước theo Chúa nhưng cũng có thể quay lưng chống lại Ngài. Con người có thể vâng theo thánh ý Chúa nhưng cũng có thể từ khước đường nẻo của Ngài. Thế nhưng điều quan trọng hơn đó là Thiên Chúa sẽ xử sự với chúng ta tuỳ theo việc chúng ta có hay không thực thi thánh ý Ngài, chứ không tuỳ thuộc vào lời nói của chúng ta.
Trong hai người con, người được coi là đã thực thi ý định của cha không phải là người đã mau mắn trả lời vâng trước lệnh truyền của cha, nhưng trong hành động thì lại không làm. Mà chính là người tuy đã trả lời không, nhưng trong thực tế lại đi làm điều người cha truyền dạy.
Trong xã hội thời Chúa Giêsu cũng như thời nay, vẫn có những hạng người tỏ ra ngoan đạo, công chính, siêng năng với các việc đạo đức, kinh hạt, nhà thờ nhà thánh. Lời nói thì đầy vẻ thuần phục đối với các giáo huấn của Chúa, nhưng trong hành động lại chẳng có chút vẻ gì là ưng thuận đối với điều Chúa truyền dạy. Những người bề ngoài xem ra dễ bảo, nhưng thực chất lại là người khó dạy. Họ đã có thể đánh lừa được dư luận vì cái mau mắn bên ngoài của họ.
Trong xã hội thời Chúa Giêsu, những người này tượng trưng nơi hàng tư tế, đầu mục, nhóm biệt phái và thông luật. Tuy đánh lừa được dư luận, nhưng thực ra, họ đã đánh mất chỗ của họ trong chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa. Thế vào chỗ của họ lại là những người thu thuế, những gái điếm, những người mà ai cũng biết là đang vị phạm ý Chúa, được bày tỏ trong lề luật và trong giới răn của Ngài. Họ là những người qua lối sống của mình, đã nói không trước lệnh truyền của Chúa. Nhưng một lúc nào đó, những người này đã nhận ra sự sai trái của mình, đã biết hối cải và đi làm điều Chúa truyền dạy. Họ là những người đã được giáo huấn và những việc làm của Ngài lay động, làm thức tỉnh, thay đổi hẳn cuộc sống. Họ là người đàn bà xứ Samaria, đã gặp Chúa bên giếng nước; là ông Giakêu, được Chúa viếng thăm; là bà Maria, đã xức dầu cho Chúa; là tên trộm cướp bị đóng đinh bên cạnh Chúa; là tất cả những kẻ tội lỗi biết hối cải. Vấn đề chính yếu là làm theo ý Chúa.
Thế nhưng, người ta lại thường hay tự mãn với một nhãn hiệu, một dấu chỉ bên ngoài nào đó. Chẳng hạn vốn tự hào là người công giáo ngoan đạo, chúng ta khó mà nghĩ đến việc trở lại, mở rộng cửa tâm hồn đón nhận cái mới, cái bất ngờ, cái chưa được nghe biết bao giờ.
Dụ ngôn cho chúng ta thấy trở ngại lớn nhất trên đường vào Nước Trời không phải là tội lỗi mà là sự ngủ mê giữa những tiêu chuẩn đạo đức được chúng ta dựng nên, sự sợ hãi phải đặt lại vấn đề những cái đã là chúng ta đã xác tín. Tuy nhiên, có đặt lại vấn đề như thế, chúng ta mới nhận biết được thánh ý Chúa và mới đi đúng con đường Chúa muốn chúng ta đi.
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có một bài thơ viết rằng:
Hãy nhớ nhé!
– Nếu không làm được… thì đừng hứa.
– Nếu không chắc… thì đừng nói.
– Nếu không thương, không yêu… thì đừng gieo hi vọng.
Bởi vì:
– Tình yêu là cảm xúc, là lí trí của con tim.
Vậy nên:
– Đừng nhẫn tâm giẫm lên con tim người khác…!
Nhưng đáng tiếc con người lại thích hứa mà lại không đủ ý chí để làm. Thích nói mà không đủ quảng đại để thực thi lời nói. Thế nên, giữa lời hứa và việc thực hiện vẫn còn một khoảng cách rất gần và cũng rất xa, vì nó tùy ở tại lòng người.
Trong cuộc đời dường như ai cũng từng hứa hẹn, và rồi cũng từng thất hứa. Vì cuộc sống vốn nhiều bất trắc khó lường. Rất nhiều giấc mơ dang dở. Rất nhiều mộng ước vỡ tan. Cuộc đời không bình phẳng mà lấm gập ghềnh trái ngang. Thế nên, vẫn còn đó những giấc mộng không thành, và vẫn còn đó những lời hứa chìm vào quên lãng theo dòng thời gian.
Đôi khi những lời hứa của chúng ta chỉ là “lời nói gió bay”, vì nói cho vui, vì cũng chẳng ai quan tâm tới lời hứa của chúng ta. Tuy nhiên, cũng có những lời hứa mang đến cho người khác hy vọng, niềm tin,nghị lực để đứng vững trong cuộc sống. Có những lời hứa là động lực để người ta phấn đấu, hay đơn giản chỉ là niềm vui nho nhỏ khi được quan tâm, yêu thương…
Người ta càng đặt nhiều niềm tin vào những lời hứa thì càng dễ hụt hẫng khi người khác thất hứa. Hy vọng càng nhiều thì nỗi thất vọng sẽ càng lớn…
Tại sao lại phải hứa khi biết rõ mình chẳng bao giờ thực hiện được lời hứa?
Tạo sao phải gieo vào lòng nhau những hy vọng để rồi chính mình lại lấy đi hy vọng đó?
Có biết bao cô gái tin vào lời hứa của chàng trai mà nhẹ dạ trao thân để rồi ôm hận mãi mãi.
Có biết bao chàng trai đã từng thất vọng vì bạn gái bội thề.
Có biết bao người quá tin người mà ôm nợ, ôm hận thiên thu.
Có biết bao người đã từng hứa từ bỏ rượu chè, cờ bạc, ngoại tình… nhưng hứa đó rồi lại quên, vẫn chứng nào tật ấy!
Có biết bao lần chúng ta cũng hứa với Chúa rất nhiều nhưng lại chẳng bao giờ thực hiện. Hứa đó rồi quên. Hứa chừa tội mà tội vẫn cứ phạm. Phạm tội không chỉ một lần mà rất nhiều lần trong cuộc sống.
Chúa Giêsu luôn đề cao người dám thực hiện lời hứa. Có thể là muộn màng nhưng vẫn còn tốt hơn là người nói mà không làm. Nói mà không giữ lấy lời như lâu đài xây trên bờ cát, sóng xô, gió cuốn thì nào ích gì?
Con người luôn có lầm lỡ. Điều quan yếu là biết nhận lỗi và sửa lỗi. Tựa như người con thứ đã từng quay lưng với lời mời gọi của cha mẹ, nhưng anh ta đã hối hận và sửa sai. Nhưng đáng trách là người con cả, chỉ nói mà không làm. Hứa cuội mà không thực hiện. Đó là con người không đáng tin trong cuộc sống.
Năm xưa, Quí Tử đi sứ nước Tấn có mang thanh bảo kiếm, qua thăm vua nước Từ.
Vua nước Từ ngó hoài thanh kiếm ra dáng yêu thích lắm, lòng tuy muốn xin mà miệng chẳng tiện nói ra….
Qúi Tử vì còn phải đi sứ thượng quốc, tuy chưa tặng vua Từ thanh kiếm được, nhưng trong lòng đã thầm hứa cho, khi đi sứ xong!
Sau khi xong việc, về thăm vua nước Từ thì vua Từ đã mất!!! Quí Tử liền tháo thanh kiếm đưa cho sứ quân vua Từ. Các người hầu ngăn lại:
– Bảo kiếm này là Báu Vật của nước nhà, không phải là món quà có thể tặng được!!! Mong tướng quân suy xét kỹ việc này….
– Lần ghé trước đây, vua Từ xem kiếm của ta, tuy chưa nói ra, nhưng lòng dường như rất yêu thích. Ta vì còn phải đi sứ thượng quốc, chưa dâng được. Tuy vậy trong lòng ta đã hứa cho. Vua Từ nay đã mất, ta vẫn giữ lời hứa mình vì nếu không, ta đã tự dối tâm mình. Tiếc kiếm mà thất hứa, dối tâm… người liêm không bao giờ làm!!!
Nói xong, Quí Tử tháo thanh kiếm đưa cho sứ quân của Từ Vương!
Sứ quân nói: “Vua tôi không có dặn việc này, tôi thiệt không dám nhận kiếm.”
Quí Tử bèn treo kiếm vào cành cây ở mộ vua Từ, rồi đi.
Người nước Từ ai cũng khen Quí Tử đã không quên lời hứa, ngay cả với người đã mất!!
Ước gì chúng ta luôn là người đáng tin với anh em khi dám thực thi lời hứa, cho dù có chịu thiệt thòi vẫn không chối bỏ lời hứa. Xin cho chúng ta cũng biết lắng nghe và thực thi lời Chúa, cho dù vì thực thi lời Chúa mà chúng ta có thể thua thiệt đời này nhưng chúng ta sẽ có một gia tài vô cùng to lớn trên quê trời. Amen.
9. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Chủ Đề: Ðường lối của Thiên Chúa (Mt 21, 28)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Chúng ta sống ở trần gian này như những lữ khách đang đi trên một con đường dài đằng đẳng. Nếu không có Chúa dẫn đường, không biết chúng ta sẽ đi về đâu. Nhưng dù có Chúa dẫn đường mà nếu chúng ta không theo Ngài thì chúng ta cũng vẫn lạc hướng.
Bởi vậy trong Thánh lễ hôm nay, chúng ta hãy xin Chúa chỉ cho chúng ta biết đường lối của Chúa để chúng ta đi theo, ngõ hầu mọi người chúng ta đều đến được cùng đích hạnh phúc vĩnh viễn của đời mình.
II. Gợi ý sám hối
Chúng ta mãi mê lo cho cuộc sống trần gian hiện tại mà không nghĩ đến cuộc sống đời đời mai sau.
Nhiều lần chúng ta không đi đường công chính mà lại đi theo đường tội lỗi.
Chúng ta thường nói mình mến Chúa nhưng lại không làm theo thánh ý Ngài.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Êd 18, 25-28)
Trong đoạn này, ngôn sứ Êdêkien cố gắng bài bác hai quan niệm sống “tự mãn” và “tự ti”:
– Tự mãn: có những người nghĩ rằng mình đã “công chính” rồi nên tự mãn không cố gắng sống tốt hơn. Êdêkiên cảnh cáo: “Khi người công chính từ bỏ đường công chính và phạm tội ác, nó sẽ phải chết”.
– Tự ti: có những người khác thấy mình lỡ tội lỗi nên nản lòng ở lì mãi trong tội lỗi. Êdêkiên khuyến khích: “Nếu kẻ gian ác bỏ đường gian ác nó đã đi và thực thi công bình chính trực, nó sẽ được sống”.
Như vậy, đường lối của Thiên Chúa là một con đường mở rộng cho tương lai, khuyến khích cả người tốt lẫn kẻ xấu ngày càng hướng về điều tốt hơn.
2. Ðáp ca (Tv 24)
Ðây là lời cầu nguyện của một kẻ tội lỗi. Người này quyết chí bỏ đường tội lỗi, nài xin Chúa mở lòng thương xót mà tha thứ tội lỗi xưa, và chỉ cho họ con đường mới hướng tới tương lai tốt đẹp hơn.
3. Tin Mừng (Mt 21, 28-32)
Bài đọc I cho biết một nét của đường lối Chúa là không chấp nhất quá khứ mà khuyến khích người ta hướng tới tương lai tốt đẹp hơn.
Bài Tin Mừng cho biết nét thứ hai của đường lối Chúa: không chú trọng tới lời nói mà chú ý tới việc làm. Ðức Giêsu đưa ra dụ ngôn về hai người con và đề cao người con thứ nhất:
Người con thứ nhất (đại biểu cho lương dân) tuy ban đầu nói “không” nhưng sau đó hối hận và đi “làm” theo ý Thiên Chúa.
Người con thứ hai (đại biểu cho dân do thái) ngoài miệng luôn nói “vâng” nhưng thực tế thì không “làm” theo ý Thiên Chúa.
4. Bài đọc II (Pl 2, 1-11)
Thánh Phaolô dạy cho tín hữu Philipphê một phương hướng sống:
Ðừng lấy nghĩ bản thân mình làm chuẩn để mà tự mãn
Cũng đừng lấy người khác làm đối tượng so sánh để mà kiêu căng hoặc phân bì.
Hãy nghĩ đến Ðức Giêsu Kitô như một tấm gương để chỉ lo bắt chước Ngài: Ðức Giêsu Kitô chỉ biết vâng lời Thiên Chúa mà hạ mình xuống tới mức tận cùng, nhưng nhờ đó Thiên Chúa đã tôn vinh Ngài lên đến tột bậc.
IV. Gợi ý giảng
1. Ðường lối lạ lùng của Thiên Chúa
Những bài đọc hôm nay trình bày đường lối hành xử của Thiên Chúa, rất khác với suy nghĩ của loài người:
Cảnh cáo phạt người công chính và khuyến khích thưởng người gian ác (bài đọc I)
Phê phán những người “đạo đức” như biệt phái, luật sĩ, tư tế, và đề cao những người tội lỗi như bọn thu thuế và gái điếm (bài Tin Mừng).
Không phải vì Thiên Chúa muốn làm ngược với loài người mà vì Ngài quan tâm tới những giá trị thực:
Giá trị thực của một đời người không nằm ở quá khứ đạo đức hay tội lỗi của người đó, mà hệ tại hiện tại người đó có quyết tâm sống công chính hay không.
Giá trị thực của con người không do những lời tốt đẹp người đó nói ra, mà do hành động của người đó.
Vì Thiên Chúa theo một đường lối như thế cho nên Ngài đã ưu ái những người một thời nổi tiếng tội lỗi như Giakêu, Mađalêna, tên trộm lành…
Phần chúng ta, đã biết đường lối của Chúa là như thế thì chúng ta phải làm sao?
Ðừng nghĩ rằng mình đang thuộc hàng “công chính” để rồi ngủ mê trong ảo tưởng đạo đức về mình.
Cũng đừng cho rằng mình thuộc hạng “thu thuế và đĩ điếm” để rồi buông xuôi cho dòng đời lôi cuốn.
2. Thành kiến
Bài đọc I cho thấy Thiên Chúa hành xử rất sáng suốt và hợp lý khi Ngài không có thành kiến đối với quá khứ của con người: người có quá khứ tội lỗi nhưng biết sửa đổi thì Ngài khen ngợi, kẻ có quá khứ đạo đức nhưng đang hướng theo con đường tội lỗi thì Ngài vẫn trách mắng.
Thực ra, con người không phải là một món đồ một khi đã được đúc khuôn thế nào thì mãi mãi vẫn là thế ấy. Con người là một tác phẩm đang được thực hiện: hôm qua khác hôm nay, và ngày mai sẽ còn khác nữa.
Thiên Chúa cho chúng ta nhiều cơ hội để sửa đổi và hoàn chỉnh. Tại sao chúng ta không cho chính mình những cơ hội ấy? Tại sao chúng ta không cho người khác những cơ hội ấy?
3. Mảnh suy tư
Có hai tiếng người ta thường nói nhiều nhất, đó là “Vâng” và “Không”. Nhưng giá trị của chúng không tùy vào lúc chúng vừa được nói ra, mà tùy theo sau đó người ta có thực hiện hay không. Nói “vâng” mà không làm đâu có giá trị bằng nói “không” mà lại làm.
Lời hứa không tạo nên uy tín cho con người; lời nói tốt không thể thay thế cho những việc làm tốt.
Con người chúng ta có thể thay đổi từ “vâng” sang “không” và từ “không” sang “vâng”. Vì thế, cả hai người con trong dụ ngôn này đều có thể là bài học cho chúng ta: nếu chúng ta giống người con thứ nhất đã lỡ nói “không” với Chúa bấy lâu nay thì bây giờ chúng ta có thể nói lại “xin vâng”; còn nếu chúng ta giống người con thứ hai đã thưa “xin vâng” thì đừng để cho mình bị thay đổi mà sửa lại thành “không”.
Trong lịch sử Hội Thánh, rất nhiều vị thánh lớn đã từng là những kẻ tội lỗi ban đầu đã nói “không” với Chúa nhưng về sau đã sửa đổi và thưa “xin vâng”. Thánh Augustinô là một thí dụ điển hình.
4. Chuyện minh họa
a/ Cha sở bảo ông chủ tịch Hội Ðồng Giáo Xứ tìm cho đủ 10 người đến cầu nguyện bên giường một người hấp hối.
Khi mọi người đã tụ họp đông đủ bên giường bệnh. Có người rỉ vào tai Cha Sở:
– Thưa Cha, trong đám này có mấy thằng chuyên môn trộm cắp.
– Càng tốt chứ sao, bởi vì trong trường hợp Thánh Phêrô không chịu mở cửa thiên đường thì mình nhờ họ mở khóa dùm.
b/ Một người suốt đời hết sức tránh tội. Hôm anh chết và lên trình diện với Thánh Phêrô thì trùng hợp cũng có một đám các cô đĩ điếm ở đó.
Thánh Phêrô hỏi các cô một cách ân cần, rồi mời các cô vào thiên đường. Người nầy khó chịu quá, hỏi tại sao, thì thánh nhân đáp:
– Nếu ngươi không chấp nhận lòng thương xót của Chúa đối với người tội lỗi, thì hãy đi đi. Chỗ của ngươi không phải ở đây!
V. Lời nguyện cho mọi người
CT: Anh chị em thân mến
Sám hối, canh tân đời sống và đón nhận Tin Mừng là những việc làm thường xuyên trong đời sống đức tin của người kitô hữu. Tin tưởng vào ơn trợ giúp của Chúa, chúng ta cùng dâng lời nguyện xin.
1- Ðức Kitô đã thiết lập Hội Thánh để đam lại ơn cứu độ cho muôn dân / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ban nhiều ân sủng / cho Hội Thánh trên khắp hoàn cầu / để Hội Thánh được mãi mãi là bạn tinh tuyền của Người.
2- Trong cuộc sống thường ngày / tệ nạn xã hội làm điên đầu những kẻ có trách nhiệm / Không ít người đã bán rẻ nhân phẩm / và danh dự của mình / vì nghèo đói cũng có / mà vì đua đòi ăn chơi cũng có / Chúng ta hiệp lời cầu xin cách riêng cho giới trẻ / biết tránh xa những cạm bẫy tinh vi của những kẻ buôn người / để khỏi phải chôn vùi cuộc đời trong hố sâu tội lỗi.
3- Không ai là người hoàn toàn vô tội trước mặt Thiên Chúa / Vì thế thái độ đúng đắn nhất là ý thức thân phận tội lỗi yếu hèn của mình / và đừng xét đoán cũng như kết án người khác / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các kitô hữu / biết luôn cố gắng sống những gì Chúa Giêsu đã dạy.
4- Ðức Giêsu nói / “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy / Lạy Chúa / lạy Chúa / là được vào Nước Trời cả đâu. Nhưng chỉ ai thực hành ý muốn của Cha Thầy Ðấng ngự trên trời / mới được vào mà thôi” / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết nỗ lực thực thi ý Chúa / tức là làm trọn mọi bổn phận trong giây phút hiện tại.
CT: Lạy Chúa Giêsu, chỉ nguyên danh xưng Kitô hữu không đủ để bảo đảm phần rỗi cho chúng con, mà phải sống theo Lời Chúa trong Tin Mừng và thi hành ý Chúa mới giúp chúng con được sống muôn đời. Vậy xin Chúa ban ơn trợ giúp để chúng con có thể sống như Chúa đã dạy. Chúa hằng sống và hiển trị…
VI. Trong Thánh Lễ
– Trước kinh Lạy Cha: Chúng ta đều là con của Chúa Cha trên trời. Nhưng chúng ta đừng là người con thứ hai, miệng luôn nói “vâng vâng dạ dạ” nhưng lại không làm theo ý Cha. Chúng ta hãy làm người con thứ nhất, biết tìm ý muốn của Cha để làm theo.
Trong tâm tình ấy, chúng ta hãy cùng nhau sốt sắng đọc kinh Lạy Cha.
VII. Giải tán
Trong bài Tin Mừng hôm nay, người cha đã nói với hai đứa con “Các con hãy đi làm vườn nho cho Cha”. Giờ đây Chúa cũng nói với chúng ta như thế. Chúng ta hãy ra đi và làm theo ý của Chúa Cha.
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
“Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho cho Cha” (Mt 21,28)
Sợi chỉ đỏ:
– Bài đọc I: Đường lối của Thiên Chúa là đường hướng tới sự tốt. Nếu kẻ gian ác bỏ đường gian ác mà theo đường công chính thì sẽ được thưởng, còn người công chính mà bỏ lẽ công chính để làm điều gian ác thì sẽ bị phạt.
– Đáp ca: “Lạy Chúa, xin chỉ cho tôi đường lối Chúa”
– Tin Mừng: Dụ ngôn hai người con: người con thứ nhất ban đầu nói “không”, nhưng sau hối hận đi làm cho cha; người con thứ hai ban đầu nói “vâng”, nhưng sau đó lại không làm.
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến,
Chúng ta sống ở trần gian này như những lữ khách đang đi trên một con đường dài đằng đẵng. Nếu không có Chúa dẫn đường, không biết chúng ta sẽ đi về đâu. Nhưng dù có Chúa dẫn đường mà nếu chúng ta không theo Ngài thì chúng ta cũng vẫn lạc hướng.
Bởi vậy trong Thánh lễ hôm nay, chúng ta hãy xin Chúa chỉ cho chúng ta biết đường lối của Chúa để chúng ta đi theo, ngõ hầu mọi người chúng ta đều đến được cùng đích hạnh phúc vĩnh viễn của đời mình.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
– Chúng ta mải mê lo cho cuộc sống trần gian hiện tại mà không nghĩ đến cuộc sống đời đời mai sau.
– Nhiều lần chúng ta không đi đường công chính mà lại đi theo đường tội lỗi.
– Chúng ta thường nói mình mến Chúa nhưng lại không làm theo thánh ý Ngài.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I (Ed 18, 25-28)
Trong đoạn này, ngôn sứ Êdêkien cố gắng bài bác hai quan niệm sống “tự mãn” và “tự ti”:
– Tự mãn: có những người nghĩ rằng mình đã “công chính” rồi nên tự mãn không cố gắng sống tốt hơn. Êdêkiên cảnh cáo: “Khi người công chính từ bỏ đường công chính và phạm tội ác, nó sẽ phải chết”.
– Tự ti: có những người khác thấy mình lỡ tội lỗi nên nản lòng ở lì mãi trong tội lỗi. Êdêkiên khuyến khích: “Nếu kẻ gian ác bỏ đường gian ác nó đã đi và thực thi công bình chính trực, nó sẽ được sống”.
Như vậy, đường lối của Thiên Chúa là một con đường mở rộng cho tương lai, khuyến khích cả người tốt lẫn kẻ xấu ngày càng hướng về điều tốt hơn.
2. Ðáp ca (Tv 24)
Ðây là lời cầu nguyện của một kẻ tội lỗi. Người này quyết chí bỏ đường tội lỗi, nài xin Chúa mở lòng thương xót mà tha thứ tội lỗi xưa, và chỉ cho họ con đường mới hướng tới tương lai tốt đẹp hơn.
3. Tin Mừng (Mt 21, 28-32)
Bài đọc I cho biết một nét của đường lối Chúa là không chấp nhất quá khứ mà khuyến khích người ta hướng tới tương lai tốt đẹp hơn.
Bài Tin Mừng cho biết nét thứ hai của đường lối Chúa: không chú trọng tới lời nói mà chú ý tới việc làm. Ðức Giêsu đưa ra dụ ngôn về hai người con và đề cao người con thứ nhất:
– Người con thứ nhất (đại biểu cho lương dân) tuy ban đầu nói “không” nhưng sau đó hối hận và đi “làm” theo ý Thiên Chúa.
– Người con thứ hai (đại biểu cho dân Do Thái) ngoài miệng luôn nói “vâng” nhưng thực tế thì “không làm” theo ý Thiên Chúa.
4. Bài đọc II (Pl 2, 1-11)
Thánh Phaolô dạy cho tín hữu Philipphê một phương hướng sống:
– Ðừng lấy nghĩ bản thân mình làm chuẩn để mà tự mãn.
– Cũng đừng lấy người khác làm đối tượng so sánh để mà kiêu căng hoặc phân bì.
– Hãy nghĩ đến Ðức Giêsu Kitô như một tấm gương để chỉ lo bắt chước Ngài: Ðức Giêsu Kitô chỉ biết vâng lời Thiên Chúa mà hạ mình xuống tới mức tận cùng, nhưng nhờ đó Thiên Chúa đã tôn vinh Ngài lên đến tột bậc.
IV. GỢI Ý GIẢNG
1. Ðường lối lạ lùng của Thiên Chúa
Những bài đọc hôm nay trình bày đường lối hành xử của Thiên Chúa, rất khác với suy nghĩ của loài người:
– Cảnh cáo phạt người công chính và khuyến khích thưởng người gian ác (bài đọc I).
– Phê phán những người “đạo đức” như biệt phái, luật sĩ, tư tế, và đề cao những người tội lỗi như bọn thu thuế và gái điếm (bài Tin Mừng).
Không phải vì Thiên Chúa muốn làm ngược với loài người mà vì Ngài quan tâm tới những giá trị thực:
– Giá trị thực của một đời người không nằm ở quá khứ đạo đức hay tội lỗi của người đó, mà hệ tại hiện tại người đó có quyết tâm sống công chính hay không.
– Giá trị thực của con người không do những lời tốt đẹp người đó nói ra, mà do hành động của người đó.
Vì Thiên Chúa theo một đường lối như thế cho nên Ngài đã ưu ái những người một thời nổi tiếng tội lỗi như Giakêu, Mađalêna, tên trộm lành…
Phần chúng ta, đã biết đường lối của Chúa là như thế thì chúng ta phải làm sao?
– Ðừng nghĩ rằng mình đang thuộc hàng “công chính” để rồi ngủ mê trong ảo tưởng đạo đức về mình.
– Cũng đừng cho rằng mình thuộc hạng “thu thuế và đĩ điếm” để rồi buông xuôi cho dòng đời lôi cuốn.
2. Thành kiến
Bài đọc I cho thấy Thiên Chúa hành xử rất sáng suốt và hợp lý khi Ngài không có thành kiến đối với quá khứ của con người: người có quá khứ tội lỗi nhưng biết sửa đổi thì Ngài khen ngợi, kẻ có quá khứ đạo đức nhưng đang hướng theo con đường tội lỗi thì Ngài vẫn trách mắng.
Thực ra, con người không phải là một món đồ một khi đã được đúc khuôn thế nào thì mãi mãi vẫn là thế ấy. Con người là một tác phẩm đang được thực hiện: hôm qua khác hôm nay, và ngày mai sẽ còn khác nữa.
Thiên Chúa cho chúng ta nhiều cơ hội để sửa đổi và hoàn chỉnh. Tại sao chúng ta không cho chính mình những cơ hội ấy? Tại sao chúng ta không cho người khác những cơ hội ấy?
3. Mảnh suy tư
– Có hai tiếng người ta thường nói nhiều nhất, đó là “vâng” và “không”. Nhưng giá trị của chúng không tùy vào lúc chúng vừa được nói ra, mà tùy theo sau đó người ta có thực hiện hay không. Nói “vâng” mà không làm đâu có giá trị bằng nói “không” mà lại làm.
– Lời hứa không tạo nên uy tín cho con người; lời nói tốt không thể thay thế cho những việc làm tốt.
– Con người chúng ta có thể thay đổi từ “vâng” sang “không” và từ “không” sang “vâng”. Vì thế, cả hai người con trong dụ ngôn này đều có thể là bài học cho chúng ta: nếu chúng ta giống người con thứ nhất đã lỡ nói “không” với Chúa bấy lâu nay thì bây giờ chúng ta có thể nói lại “xin vâng”; còn nếu chúng ta giống người con thứ hai đã thưa “xin vâng” thì đừng để cho mình bị thay đổi mà sửa lại thành “không”.
– Trong lịch sử Hội Thánh, rất nhiều vị thánh lớn đã từng là những kẻ tội lỗi ban đầu đã nói “không” với Chúa nhưng về sau đã sửa đổi và thưa “xin vâng”. Thánh Augustinô là một thí dụ điển hình.
4. Chuyện minh họa
a/ Cha sở bảo ông chủ tịch Hội đồng Giáo xứ tìm cho đủ 10 người đến cầu nguyện bên giường một người hấp hối.
Khi mọi người đã tụ họp đông đủ bên giường bệnh. Có người rỉ vào tai cha sở:
– Thưa cha, trong đám này có mấy thằng chuyên môn trộm cắp.
– Càng tốt chứ sao, bởi vì trong trường hợp Thánh Phêrô không chịu mở cửa thiên đường thì mình nhờ họ mở khóa dùm.
b/ Một người suốt đời hết sức tránh tội. Hôm anh chết và lên trình diện với Thánh Phêrô thì trùng hợp cũng có một đám các cô đĩ điếm ở đó.
Thánh Phêrô hỏi các cô một cách ân cần, rồi mời các cô vào thiên đường. Người này khó chịu quá, hỏi tại sao, thì thánh nhân đáp:
– Nếu ngươi không chấp nhận lòng thương xót của Chúa đối với người tội lỗi, thì hãy đi đi. Chỗ của ngươi không phải ở đây!
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế: Anh chị em thân mến
Sám hối, canh tân đời sống và đón nhận Tin Mừng là những việc làm thường xuyên trong đời sống đức tin của người Kitô hữu. Tin tưởng vào ơn trợ giúp của Chúa, chúng ta cùng dâng lời nguyện xin.
1- Ðức Kitô đã thiết lập Hội Thánh để đem lại ơn cứu độ cho muôn dân./ Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ban nhiều ân sủng/ cho Hội Thánh trên khắp hoàn cầu/ để Hội Thánh được mãi mãi là bạn tinh tuyền của Người.
2- Trong cuộc sống thường ngày/ tệ nạn xã hội làm điên đầu những người có trách nhiệm./ Không ít kẻ đã bán rẻ nhân phẩm/ và danh dự của mình/ vì nghèo đói cũng có/ mà vì đua đòi ăn chơi cũng có./ Chúng ta hiệp lời cầu xin cách riêng cho giới trẻ/ biết tránh xa những cạm bẫy tinh vi của những kẻ buôn người/ để khỏi phải chôn vùi cuộc đời trong hố sâu tội lỗi.
3- Không ai là người hoàn toàn vô tội trước mặt Thiên Chúa./ Vì thế thái độ đúng đắn nhất là ý thức thân phận tội lỗi yếu hèn của mình/ và đừng xét đoán cũng như kết án người khác./ Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các Kitô hữu/ biết luôn cố gắng sống những gì Chúa Giêsu đã dạy.
4- Ðức Giêsu nói/ “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy/ Lạy Chúa /lạy Chúa / là được vào Nước Trời cả đâu. Nhưng chỉ ai thực hành ý muốn của Cha Thầy Ðấng ngự trên trời/ mới được vào mà thôi”./ Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta/ biết nỗ lực thực thi ý Chúa/ tức là làm trọn mọi bổn phận trong giây phút hiện tại.
Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, chỉ nguyên danh xưng Kitô hữu không đủ để bảo đảm phần rỗi cho chúng con, mà phải sống theo Lời Chúa trong Tin Mừng và thi hành ý Chúa mới giúp chúng con được sống muôn đời. Vậy xin Chúa ban ơn trợ giúp để chúng con có thể sống như Chúa đã dạy. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. TRONG THÁNH LỄ
– Trước kinh Lạy Cha: Chúng ta đều là con của Chúa Cha trên trời. Nhưng chúng ta đừng là người con thứ hai, miệng luôn nói “vâng vâng dạ dạ” nhưng lại không làm theo ý Cha. Chúng ta hãy làm người con thứ nhất, biết tìm ý muốn của Cha để làm theo. Trong tâm tình ấy, chúng ta hãy cùng nhau sốt sắng đọc kinh Lạy Cha.
VII. GIẢI TÁN
Trong bài Tin Mừng hôm nay, người cha đã nói với hai đứa con “Các con hãy đi làm vườn nho cho Cha”. Giờ đây Chúa cũng nói với chúng ta như thế. Chúng ta hãy ra đi và làm theo ý của Chúa Cha.
11. Cách hành xử của Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
Có nhiều người coi thường thân xác, coi thân xác như ngục tù giam hãm linh hồn; tuy nhiên, con người là tạo vật tuyệt vời của Thiên Chúa. Theo Kinh Thánh, khi Thiên Chúa sáng tạo con người, Ngài thấy chúng rất tốt lành.
1. Còn thân xác là còn có thể lựa chọn
Platon và những người chịu ảnh hưởng bởi triết lý của ông cho rằng thân xác là ngục tù giam hãm linh hồn. Linh hồn được giải phóng vào giờ chết. Quan niệm này không chỉnh vì không đánh giá đúng đắn giá trị của thân xác. Theo quan điểm của Giáo Hội Công Giáo về mầu nhiệm Hội Thánh Thông Công, chính con người tại thế có thể lập công cho mình và giúp đỡ những linh hồn trong luyện tội bằng việc hy sinh vượt thắng những cám dỗ. Những linh hồn trong luyện tội có thể cầu nguyện cho những người tại thế, nhưng không thể lập công đền tội cho mình như những người tại thế.
Với thân xác, con người chịu chung số phận của vật chất: có sinh có tử, lớn lên và cằn cỗi, sai lầm và sửa chữa, vui và buồn, hy vọng và thất vọng. Hôm nay một người có thể đã hoặc đang làm điều bất chính, nhưng ngày mai họ có thể hối hận và trở thành con người mới. Hôm nay họ dở nhưng mai có thể họ tốt hơn. Hôm qua họ là kẻ bất nhân bất nghĩa nhưng hôm nay họ có thể là người tuyệt vời. Đã đành không dễ để một người thay đổi từ dở thành tốt, nhưng khi con người còn tại thế, con người có thể biến đổi. Ai có thể giúp một người biến đổi, hoặc làm sao để một người được biến đổi thành tốt hơn, là một điều khác; nhưng điều căn bản được lưu ý đặc biệt: con người có thể biến đổi thành tốt hơn hoặc dở hơn, tùy chọn lựa của mỗi người. Khi con người còn tại thế, còn có thể thay đổi chọn lựa của mình. Khi không còn thân xác, người ta không thay đổi chọn lựa của mình nữa; đó cũng là lý do tại sao những người ở hoả ngục không thể lên thiên đàng nữa, bởi vì họ đã vĩnh viễn cố tình chọn lựa thù hận.
Con người tự do, nghĩa là con người có thể chọn lựa, có thể làm điều này hay làm điều khác, có thể yêu hay ghét, giúp đỡ hay thù hận, đón nhận hay ruồng rẫy từ bỏ. Chính cái hay thay đổi, thuộc tính của vật chất, lại là điều làm con người đang ở trong tình trạng xấu còn có thể trở thành người tuyệt vời. Thời gian lữ hành, là thời gian con người còn có thể biến đổi chính mình, dở hơn hoặc tuyệt vời hơn. Khi còn ở trong thời gian, là con người còn có thể hy vọng.
2. Thời gian giúp con người trở nên tuyệt vời
Khi một người tốt bỏ đường công chính mà phạm tội ác, nó phải chết vì tội nó phạm; Ngược lại nếu người trước làm điều gian ác mà nay từ bỏ đường gian ác mà làm điều tốt, thì nó được sống. Người ta thường than trách Thiên Chúa đã đối xử bất công, đã quên những điều tốt hoặc xấu một người đã làm trước. Người ta đoán xét người khác bằng quá khứ, qua những điều bên ngoài; còn Thiên Chúa biết con người từ trong sâu thẳm của mỗi người, và Ngài đoán xét con người như họ đang là, theo như “họ là” ở giây phút này.
Trong dụ ngôn hai người con, người con thứ nhất khi được người cha mời đi làm vườn nho, đã từ chối không đi nhưng sau đó lại hối hận đi làm; còn người con thứ hai lúc đầu nói sẵn sàng đi làm nhưng cuối cùng lại không đi. Ai cũng nhận định được rằng chính người con lúc đầu từ chối lời gọi của người cha mà sau đó đi làm, là người đã vâng lời người cha; còn người con lúc đầu trả lời vâng lại là người không vâng lời cha. Quá khứ cũng quan trọng, nhưng hiện tại quan trọng hơn. Hiện tại quan trọng hơn cả quá khứ lẫn tương lai. Cho dù một người đã sống tốt ở quá khứ nhưng hiện tại lại sống dở, thì người đó vẫn dở; còn nếu một người có một quá khứ tội lỗi nhưng bây giờ họ trở lại, họ đã là người tốt trước mắt Thiên Chúa cho dù người đời vẫn đánh giá họ xấu và coi thường họ. Nếu một người cố gắng làm tuyệt vời những gì phải làm ở giây phút hiện tại, người đó là người tuyệt vời. Giây phút hiện tại là giây phút tuyệt vời, là giây phút làm con người trở nên thánh hay thành qủy, làm một người trở nên đáng yêu hay đáng sợ.
Thiên Chúa là Đấng làm điều tuyệt vời. Ngài cho con người thời gian, để rồi với thời gian con người hình thành chính mình. Với ân sủng Thánh Thần, Thiên Chúa vẫn đang giúp con người trở thành người tuyệt vời trong từng giây phút sống, cho dù con người đã từng từ bỏ Ngài. Thiên Chúa tạo dựng con người với thân xác, và qua đó Ngài cho con người thời gian và tự do để trở nên con cái Ngài. Thiên Chúa vẫn đang làm con người trở nên con cái của Ngài.
3. Cách hành xử của Thiên Chúa
Tự do là món quà rất quý Thiên Chúa ban cho con người. Ngài chấp nhận tất cả khi Ngài ban tự do cho con người. Ngài chấp nhận cả khả thể con người phản bội Ngài; tuy nhiên Ngài yêu con người vô cùng, và Ngài tin rằng tình yêu của Ngài có thể biến đổi lòng người. Ngài luôn mời gọi con người sống trong tình yêu của Ngài.
Với cơ cấu con người tại thế, giây phút hiện tại, là giây phút của tự do, và cũng là giây phút của vĩnh cửu. Sống trọn vẹn giây phút hiện tại, con người sẽ cảm nhận bình an và hạnh phúc. Con người được mời gọi chọn Chân Thiện Mỹ trong từng giây phút sống. Ngôi Lời Thiên Chúa đã nhập thể làm người; Ngài đã sống như một người với những giới hạn của thân xác, và Ngài đã xử dụng tự do một cách tuyệt vời. Chính khi làm người, Thiên Chúa làm cho con người nhận biết Thiên Chúa tuyệt vời đến độ nào; chính khi chấp nhận cái chết thập giá như một người, Ngài mặc khải giá trị tuyệt vời của con người với thân xác. Đức Yêsu trở thành mẫu gương sống của từng Kitô-hữu. Ngài trở thành người mẫu, thành người lý tưởng của các thanh thiếu niên. Con người trở thành tuyệt vời khi âm thầm khiêm tốn sống yêu thương như Ngài. Nếu muốn là người nổi danh, là người trổi trang, là người có cách sống của người hiền triết hiểu biết uyên nguyên sự vật, thì phải là người sống tự hủy khiêm tốn yêu thương như Đức Yêsu.
Thiên Chúa đã và đang cảm hoá con người bằng yêu thương đến độ tự hủy chính mình. Hiện tại của Thiên Chúa là yêu thương. Tự do để trở thành tuyệt vời hay không, đó là hiện tại của con người.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Tự do luôn liên hệ đến hiện tại. Bạn hiểu sao về câu nói này?
2. Hiện tại, bạn có bị ràng buộc bởi điều gì không? Điều đó có làm bạn thành nô lệ không? Xin chia sẻ nếu được.
3. Bạn có kinh nghiệm về yêu thương tự hủy không? Xin bạn chia sẻ.
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Vào năm 1992, tại tiểu bang Georgia – Hoa Kỳ. Xảy ra một câu chuyện có thể gọi được là “cười ra nước mắt”.
Một bà mẹ 73 tuổi bị chính đứa con trai của mình kiện vì bà không trả cho anh ta tiền công sửa chiếc xe tải của bà. Sau đó, bà mẹ đã đệ đơn tố cáo ngược lại con mình với lời đề nghị là anh ta phải bị đánh đòn vì lúc anh ta còn nhỏ bà đã không áp dụng câu tục ngữ: “Thương con cho roi cho vọt”.
Vào ngày 6 tháng 7 năm 1992, anh thợ sửa xe ô tô tên là Kê-nêt Ar-gut đã đệ đơn tại tòa sơ thẩm để thưa mẹ anh và đòi tòa ra lệnh cho bà thanh toán hóa đơn 2,613 đô la tiền sửa xe mà bà đã từ chối không chịu trả cho anh.
Trả lời cho đơn người con trai kiện mình, bà An-sen Ar-gut đã viết như sau: “Nguyên cáo đã mắc nợ bị cáo 40 năm phục dịch của một bà mẹ, một người giữ em, một người giúp việc nhà, nấu ăn, giặt giũ, y tá, một nhà tâm lý để cố vấn, khuyên nhủ, an ủi, v.v… Tất cả những dịch vụ trên, nguyên cáo đã không trả tiền công bị cáo”. Bà Ar-gut còn viết tiếp:
“Như một bà mẹ, nếu luật pháp cho phép, tôi sẽ công khai đánh đòn con tôi, những cú roi rất cần thiết cho nó mà tôi đã thất bại không cho nó lúc nó còn bé. Nếu pháp luật không cho phép mẹ đánh con thì xin tòa hãy cử một nhân viên ngành tư pháp đánh đòn để sửa trị con tôi”.
Đó là nỗi đau của một bà mẹ bị con khước từ. Nó đã không còn nhận bà là mẹ. Nó đòi bà phải trả tiền như bao khách hàng khác. Chính trong nỗi đau đó, Bà mẹ Argus hối tiếc vì đã không dạy con từ nhỏ nên mới lãnh lấy hậu quả hôm nay.
Và hôm nay trong số những người trẻ sì ke ma túy, ăn chơi thác loạn, rửa tiền của cha mẹ đều thuộc diện cha mẹ lo làm ăn, thiếu quan tâm giáo dục con cái, và điều tệ hại nhất là nuông chiều con cái quá mức đến hư thân. Sinh con ra ai cũng mong con mình tài đức, hiếu thảo hiền ngoan, nhưng để được vinh dự đó, không thể cho nó lớn lên một cách tự nhiên, cẩu thả lười biếng và vô độ ngay từ nhỏ, mà con cái chỉ có thể lớn lên thành người từ sự giáo dục cẩn trọng của cả cha lẫn mẹ.
Có lẽ, nỗi đau lớn nhất của cha mẹ là con cái không vâng lời cha mẹ. Nỗi bất hạnh tột cùng nhất của cha mẹ là con cái bất hiếu và phản loạn đối với công ơn dưỡng dục sinh thành. Kinh nghiệm của cha ông ta vẫn thường nói: “Uốn cây uốn thuở còn non – Dạy con dạy thuở còn thơ”. Con cái cần được dạy cho biết sống vâng lời ngay từ thuở nhỏ, lớn lên mới có hy vọng biết sống theo lời hay lẽ phải. Có những bậc cha mẹ nuông chiều con cái đến độ thay vì dẫn dắt con cái theo ý mình, họ lại luôn chiều theo ý con. Có những bậc cha mẹ quá dễ dãi, thường hay xí xóa những thói hư tật xấu của con, tưởng rằng lớn lên nó tự biết sửa đổi. Có những bậc cha mẹ giáo dục con cái nhưng “ngôn hành bất nhất”, khiến con cái học đòi tính “nói một đàng làm một lẻo”, thất hứa, thất tín với gia đình và với xã hội.
Nỗi lòng của cha mẹ đau khổ vì con cái thế nào, thì nỗi lòng của Thiên Chúa đối với nhân loại cũng vậy. Thiên Chúa sẽ không vui khi thấy con người chối bỏ tình yêu của Thiên Chúa. Thiên Chúa sẽ rất buồn khi con người sống buông mình trong những đam mê thấp hèn mà đánh mất nhân tính của con người. Thiên Chúa sẽ rất đau khổ khi thấy con người bỏ Chúa để tôn thờ thụ tạo thấp hèn hơn con người.
Hôm nay Chúa Giêsu đưa ra dụ ngôn hai người con. Cả hai đều không phải là người con ngoan thực sự. Người con thứ nhất tuy lúc đầu cãi lời cha mẹ nhưng sau hối hận lại đi làm ngay. Người con thứ hai thuộc diện “ba phải”, dạ vâng rồi lại không làm.
Người con đầu là hình ảnh anh em lương dân. Họ không theo đạo nhưng họ lại sống ăn ngay ở lành. Họ sống theo lề luật của Thượng Đế được ghi khắc trong lương tâm. Họ là người ngoại đạo “nhưng tin có Chúa ở trên cao”. Họ làm điều thiện và tránh điều ác vì tin rằng “Ông Trời có mắt”.
Người con đầu cũng là hình ảnh người tội lỗi được ơn trở về cùng Chúa. Họ sám hối và làm lại cuộc đời của mình bằng việc sống và thực thi giới răn của Chúa.
Người con thứ hai có thể là hình ảnh của chính chúng ta. Tuy môi miệng vẫn xưng mình là con Thiên Chúa nhưng lại không sống theo giáo huấn của Chúa. Vẫn ngoại tình, trộm cắp, cờ bạc, rượu chè. Sống thiếu công bình và bác ái trong lời nói lẫn hành động. Có những người nói rất hay nhưng lại không thực hiện những điều mình nói. Có những người bề ngoài rất đạo đức nhưng trong lòng lại chất chứa đầy tính gian tham, lừa đảo…
Đã có một lần Chúa Giêsu từng nói: “không phải những ai thưa lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào Nước Trời đâu, mà chỉ có những ai biết lắng nghe và thực thi lời Chúa mới xứng đáng hưởng Nước Trời.
Xin Chúa giúp chúng ta biết “ngôn hành như nhất” để lời nói và việc làm của chúng ta luôn đẹp lòng Chúa và đẹp lòng mọi người. Amen.
13.Rất cần cho một lần hoán cải
(Suy niệm của Anmai)
Trang Tin Mừng theo Thánh Matthêu mà chúng ta vừa nghe sao mà nó hay quá! thiết thực quá! và cũng rất đời thường quá. Câu chuyện trong trang Tin Mừng Chúa Giêsu kể hôm nay, thật sinh động, thiết thực và lôi cuốn người nghe. Thiết thực, sinh động, lôi cuốn nhất là với những bậc làm cha làm mẹ. Làm cha làm mẹ thì có cái quyền trên con cái của mình. Khi có quyền thì cha mẹ cũng có cái quyền sai khiến con mình mà đặc biệt là sai đi làm công việc nhà, công việc trong gia đình vì con cái phải đồng trách nhiệm trong gia đình của mình. Và sự thật, kết quả hết sức là buồn cười vì nó ngược lại với cái nghĩ, cái sự vâng lời từ ban đầu giữa hai người con.
Làm cha làm mẹ, ai ai cũng khó chịu với cái cách của người con thứ nhất: ban đầu bảo không đi nhưng rồi lại đi. Còn người con thứ hai thì ngược lại: bảo đi nhưng lại không đi. Chuyện cũng hết sức là thường tình với bậc cha mẹ, đó là cha mẹ thích người con vâng lời hơn là người con không vâng lời. Vấn đề Chúa muốn nói lên trong câu chuyện này đó là thái độ, là tâm tình hoán cải của người con thứ nhất.
Vấn đề hoán cải chúng ta được nghe rất rõ trong sách ngôn sứ Edêkien: “Đây Chúa phán: Các ngươi đã nói rằng: ‘Đường lối của Chúa không chính trực’. Vậy hỡi nhà Israel, hãy nghe đây: Có phải đường lối của Ta không chính trực ư? Hay trái lại đường lối của các ngươi không chính trực? Khi người công chính từ bỏ lẽ công chính và phạm tội ác, nó phải chết, chính vì tội ác nó phạm mà nó phải chết. Nếu kẻ gian ác bỏ đàng gian ác nó đã đi, và thực thi công bình chính trực, nó sẽ được sống. Nếu nó suy nghĩ và từ bỏ mọi tội ác nó đã phạm, nó sẽ sống chớ không phải chết”.
Vậy thì ai là người cần hoán cải? Những người sống tốt, sống công chính thì chẳng cần phải hoán cải. Chỉ những ai phạm tội, những ai vấp ngã, những ai yếu đuối thì mới cần hoán cải để được sống.
Nhìn lại cuộc đời mỗi người chúng ta. Chắc có lẽ, không ai trong chúng ta dám nhận rằng mình là người hoàn thiện, là người công chính. Trái lại trong chúng ta, ai cũng rất cần được một lần hoán cải để nhận được sự sống, ơn cứu độ từ Thiên Chúa.
Thật buồn cười! Bao nhiêu lần xúc phạm đến Chúa, xúc phạm đến anh chị em đồng loại, chúng ta cảm thấy xấu hổ, chúng ta cảm thấy ăn năn thống hối và quyết chừa cải, nhưng rồi con người yếu đuối chúng ta lại vấp ngã. Như Thánh Phaolô đã trải lòng ra cho chúng ta: “Điều tôi biết là tốt thì tôi lại không làm, điều tôi biết là xấu thì tôi lại cứ làm!”. Trong thâm tâm của chúng ta luôn luôn có sự giằng co giữa điều thiện và điều ác. Chẳng ai trong chúng ta muốn phạm tội, chẳng ai trong chúng ta muốn làm điều ác cả, nhưng sao mà ác quỷ nó cứ thúc đẩy chúng ta.
Chúng ta nhớ, trong đoạn Tin Mừng vắn vỏi mà chúng ta vừa nghe Thánh Matthêu thuật lại đấy, con người phạm nhiều tội lắm nhưng mà Chúa Giêsu nhắc cho chúng ta hai thứ tội căn bản, hai loại người mà xã hội Do Thái thường hay kết án đó là gái điếm và thu thuế!
Chẳng cần phải định nghĩa, ai ai trong chúng ta cũng biết bản chất của gái điếm là gì rồi! Có thể, chẳng ai muốn làm điếm cả nhưng vì hoàn cảnh đưa đẩy, vì yếu đuối nên mới làm cái nghề nhục nhã này. Biết là tội đấy nhưng hình như không còn lối thoát, không còn cách nào khác để rồi phải chấp nhận sống trong cái tội đáng chê đáng ghét này.
Thu thuế! Nói đến chuyện thuế má thì ở thời đại nào cũng không mấy ai thích đóng thuế cả. Thoạt đầu, thuế chính là trách nhiệm và nghĩa vụ của công dân trên đất nước mình sống, nhưng chính trong cái cách thu thuế, nộp thuế không minh bạch sao ấy, đã để lại trong mắt mọi người cái nhìn không thiện cảm về người thu thuế, nào là tham lam, gian dối, và thu vén thật nhiều cho riêng mình v.v…
Chúa Giêsu nói với thượng tế và kỳ lão đấy nhưng thật sự Chúa đang nói với mỗi người chúng ta: “Tôi bảo thật các ông, những người thu thuế và gái điếm sẽ vào nước Thiên Chúa trước các ông”. Chúa Giêsu muốn nói lên rằng những người gái điếm và thu thuế đó sẽ vào Nước Thiên Chúa trước chúng ta vì sao? Vì họ biết hoán cải.
Trở lại vấn đề, tất cả nó nằm ở chính sự hoán cải. Dù tội lỗi như thế nào, xấu xa kinh khủng như hai hạng người tệ hại nhất mà người Do Thái lên án và ghét bỏ đi chăng nữa nhưng biết hoán cải thì cũng sẽ được cứu. Tệ hại nhất như đứa con ban đầu thoạt nghe là bất hiếu, là không vâng lời đi chăng nữa nhưng sau đó biết hoán cải thì cũng sẽ làm hài lòng người cha của mình hơn.
Hoán cải! Nói thì dễ nhưng thật sự nó không phải là hành vi đơn giản, dễ dàng. Mấy ai trong chúng ta đã hoán cải dù biết rằng mình cần phải hoán cải để được cứu. Lý do: Muốn hoán cải thì điều kiện cương quyết, điều kiện căn cốt nhất đó chính là thái độ phải nhìn ra chính mình, nhìn thẳng vào cái tôi của mình nhưng điều này thật khó làm trong tiến trình hoán cải.
Trước hết, ai ai cũng bảo thủ, ai ai cũng muốn bảo vệ cái danh dự của mình, không muốn cho ai biết cái xấu, cái khuyết điểm của mình thì làm sao mà hoán cải được. Điều này rất khó vì ai ai cũng mang trong mình một cái vỏ bọc bề ngoài rất kiên cố và sợ người khác biết được cái vỏ bọc bên trong của mình, sợ xấu hổ.
Kế đến là mình có nhận ra đó là điều xấu, đó là điều dở cần phải khắc phục hay không? Điều này cần phải được huấn luyện, được giáo dục để có một lương tâm ngay thẳng, một lương tâm trong sáng, một lương tâm đích thực. Một người nào đó sống trong một lương tâm mù quáng thì không thể nào nhận ra những lầm lỗi của mình cả.
Muốn có được được những điều ấy, muốn thực hành một cuộc hoán cải cuộc đời mình thì điều kiện cần thiết nhất mà mỗi người chúng ta phải có đó chính là thái độ khiêm nhường. Càng khiêm nhường bao nhiêu thì càng dễ hoán cải bấy nhiêu. Mà thực tế, chúng ta thấy những người kiêu ngạo thì khó có thể thay đổi con người mà thậm chí càng ngày càng lún sâu trong tội mà người kiêu ngạo đã phạm.
Nói về sự khiêm nhường, Thánh Phaolô đã nhắc cho chúng ta trong đoạn thư gửi giáo đoàn Philipphê mà cộng đoàn chúng ta vừa nghe: “Anh em chớ làm điều gì bởi ý cạnh tranh hay bởi tìm hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi kẻ khác vượt trổi hơn mình, mỗi người đừng chỉ nghĩ đến những sự thuộc về mình, nhưng hãy nghĩ đến những sự thuộc về kẻ khác. Anh em hãy cảm nghĩ trong anh em điều đã có trong Đức Giêsu Kitô”.
Trong Đức Kitô như thế nào? Xin thưa: “Người tuy là thân phận Thiên Chúa, đã không nghĩ phải dành cho được ngang hàng với Thiên Chúa; trái lại, Người huỷ bỏ chính mình mà nhận lấy thân phận tôi đòi, đã trở nên giống như loài người với cách thức bề ngoài như một người phàm. Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá”.
Ngài mời gọi mỗi người chúng ta hãy nhìn vào gương Đức Giêsu và sống như Đức Giêsu đã sống. Ngài nói, Ngài dạy chúng ta nhưng chính Ngài đã sống: “Anh em hãy bắt chước tôi như tôi đã bắt chước Đức Kitô”. “Tôi không muốn biết điều gì khác ngoài Đức Giêsu Kitô mà là Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh trên thập giá” (1 Cr 2,2).
Nếu chúng ta mặc lấy trong mình sự khiêm hạ thì chúng ta sẽ dễ dàng hoán cải đời mình, nếu chúng ta kiêu căng thì không bao giờ sửa mình được.
Phận người chúng ta mang trong mình biết bao nhiêu là yếu đuối, biết bao nhiêu là đổ vỡ nên cần lắm sự hoán cải. Nếu không hoán cải thì những người sống chung quanh chúng ta, trong gia đình chúng ta, trong cộng đoàn chúng ta sẽ rất vất vả vì chúng ta, thế nên chúng ta rất cần đến ơn hoán cải nơi mỗi người chúng ta.
Ít nhiều trong chúng ta vẫn thường cư xử với với Chúa, với anh chị em đồng loại mà gần nhất là với cha, với mẹ, với chồng, với con, với thành viên trong cộng đoàn chúng ta theo kiểu người con thứ hai là bề ngoài thì dạ dạ vâng vâng đấy nhưng thực chất thì chẳng bao giờ thì hành cái lời dạ dạ vâng vâng. Ước gì chúng ta nhìn lại hình ảnh của người con đầu là dù bề ngoài có khó chịu, có không vâng phục nhưng sau đó hồi tâm, hoán cải và thi hành điều Chúa, điều mà cha, mẹ, vợ, chồng, anh chị em đồng loại muốn nơi chúng ta.
Nguyện xin Chúa Giêsu là Đấng đã vâng phục và vâng phục cho đến chết và là cái chết trên thập giá giúp chúng ta sống tâm tình khiêm nhường sâu thẳm để chúng ta hoán cải cuộc đời chúng ta hầu mong sau cõi tạm này, chúng ta được cứu như những cô gái điếm và những người thu thuế biết hoán cải và được Chúa hứa Nước Trời như vậy. Amen.
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Đã là người thì không ai tránh khỏi lỗi lầm. Vì mọi người đều mắc phải lầm lỗi nên bất cứ ai cũng cần phải sám hối và sửa mình. Mắc phải lầm lỗi thì không đáng lên án, nhưng thái độ ngoan cố không nhận lỗi, không ăn năn hối hận và chìm đắm trong tội là điều tai hại và rất đáng tiếc. Thế nên, hôm nay Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta bài học rất quan trọng giúp chúng ta ăn năn phục thiện để trở thành người tốt.
Để cụ thể hoá bài học của mình, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn sau đây: Một người cha có hai con. Sáng hôm ấy, ông đếnvới đứa con thứ nhất và bảo nó: “Nầy con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho với cha”. Nó ương ngạnh trả lời: “Không! Con không đi!”. Người cha buồn lòng lặng lẽ quay sang đứa khác, mời nó ra vườn làm việc với ông. Cậu nầy dạ dạ vâng vâng: “Con sẽ đi!”, nhưng rồi không thấy tăm hơi đâu cả. Sau đó, người con thứ nhất hồi tâm lại, thấy được sai trái của mình nên hối hận vác cuốc ra đồng cùng làm với cha.
Thế là người con thứ nhất, dù ban đầu có phần ương bướng, nhưng biết xét lại, biết nhận ra lỗi mình và có quyết tâm sửa chữa nên đáng tuyên dương. Khi nói với các thượng tế và kỳ lão rằng: “Những người thu thuế và gái điếm sẽ vào Nước Thiên Chúa trước các ông”, Chúa Giêsu có ý chê trách những người nầy vì không biết ăn năn sửa lỗi đồng thời ngợi khen những người tội lỗi biết sám hối ăn năn sửa mình.
Chúa Giêsu còn đặc biệt tỏ lòng yêu mến đốivới những người biết hối cải qua câu chuyện người cha nhân lành và đứa con phung phá. Khi người con hoang đã phá sạch cả nửa gia tài với bọn đàng điếm nhưng rồi biết hồi tâm lại, biết thống hối ăn năn và quyết tâm chỗi dậy trở về cùng cha thì người cha quên hết mọi lầm lỗi của nó, chạy ra ôm hôn nó, tiếp đón nó với tất cả tình yêu thương.
* Vào những năm kinh tế còn khó khăn, gia đình ông Tư sắm được một chiếc xe máy Honda đời 67. Ông ra công bảo quản nó rất chu đáo; ngày ngày tỉ mỉ lau chùi từng chân căm, rồi lại dành ra cả tấm mền để trùm cả chiếc xe cho khỏi bụi. Ông cưng xe hơn cưng con, chẳng cho ai đụng đến. Nếu xe bị trầy, ông vô cùng xót xa. Nếu xe có gì trục trặc, dù rất nhẹ, ông phải đưa ra thợ sửa chữa liền. Trong khi đó, bản thân ông mang nhiều tật xấu, thói hư, bị hàng xóm láng giềng chê cười xa lánh, thì ông chẳng quan tâm sửa mình.
Bản thân con người quý hơn xe cộ cả triệu lần, nhưng khi bản thân hư hỏng, xuống cấp… nhiều người không cho là quan trọng! Xe hư, máy hư thì lo sửa liền, còn người hư thì cứ để mặc. Cứ để hư cho đến chết thì thôi! Thật là điều phi lý.
Khi mặt mày chúng ta lem luốc vì lọ nghẹ hay dầu mỡ, chắc chắn ai trong chúng ta cũng vội lau rửa cho sạch sẽ ngay. Khi thấy áo quần dơ bẩn và rách rưới, chúng ta sẽ thay áo khác liền. Khi cơ thể chúng ta dơ dáy và bốc mùi hôi, chắc chắn chúng ta sẽ tắm rửa ngay không trì hoãn.Vậy thì khi tâm hồn chúng ta lem luốc, dơ bẩn vì tội lỗi thói hư, lẽ nào chúng ta lại cứ để mặc như thế hết ngày nầy qua ngày khác sao?
Trong công nghệ thông tin hay sản xuất hàng tiêu dùng, việc cải tiến chất lượng sản phẩm là vấn đề sinh tử của các công ty. Châm ngôn của các nhà phát minh và chế tạo là: “Cải tiến hay là chết.” Thế nên người ta không ngừng rà soát lại những nhược điểm của sản phẩm và phải khắc phục bằng mọi giá trước khi tung ra thị trường.
Giá trị con người vượt xa giá trị hàng hoá cả triệu lần. Ước gì trong lĩnh vực đạo đức, mỗi người cũng rà soát lại những khuyết điểm của mình để cải thiện cho xứng với tầm vóc người con cái Chúa. Nguyện xin Chúa Giêsu ban ơn giúp sức cho chúng ta thực hiện được công cuộc cải thiện tối cần thiết nầy.
(Suy niệm của Lm. Inhaxiô Trần Ngà)
Dụ ngôn Tin mừng Mát-thêu thuật lại rằng: Từ sáng sớm, người cha gọi đứa con thứ nhất đến và bảo: “Nầy con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho với cha.”
Nó vốn ham chơi, lười lao động, nên trả lời ngay: “Con không đi đâu!”
Nhưng nó chợt hồi tâm, nhớ công lao cha mẹ: Cha mẹ lo cho mình từng miếng cơm manh áo. Khi đau ốm cha mẹ chạy chữa thuốc men, khi buồn phiền, cha mẹ ủi an nâng đỡ… Nếu để cha lao động vất vả một mình mà không giúp đỡ, mình là con bất hiếu. Thế là sau một lát hồi tâm, phản tỉnh, nó quyết định vác cuốc ra vườn cùng làm với cha.
Còn người con thứ hai, sau khi nghe cha gọi đi làm vườn, nó dạ dạ vâng vâng cho qua chuyện, rồi sau đó, bỏ mặc cha lao động một mình.
Thế là, nhờ biết hồi tâm, nhìn lại mình, người con thứ nhất trở thành đứa con ngoan; trái lại, vì thiếu hồi tâm, người con thứ hai trở thành đứa con hư hỏng.
Sống trên đời, ai cũng mắc phải lỗi lầm, không ai vô tội. Tuy nhiên, người ta có thể vượt qua lỗi lầm để trở nên người tốt.
Những ai biết phản tỉnh, nhìn lại mình, nhận ra lầm lỗi mình và quyết tâm sửa đổi thì sẽ trở nên người tốt. Ngược lại, nếu không nhìn lại mình để phát hiện lầm lỗi và không quyết tâm sửa đổi thì không thể nên tốt được.
Tiếc thay, mọi người đều có mắt nhìn ra ngoại giới để nhận biết sự vật chung quanh, nhận ra đủ thứ lỗi lầm của người khác… trong khi đó, ít người có khả năng nhìn vào nội tâm để thấy những sai trái của bản thân; vì thế, không thể cải thiện đời sống được.
Cần soi gương
Tấm gương soi tuy đơn sơ nhưng vô cùng hữu dụng. Nhờ soi gương, ta có thể nhận ra đầu tóc rối bù của mình để chải vuốt lại, nhận ra những vết dơ trên khuôn mặt để lau chùi sạch sẽ, nhận ra bộ râu tua tủa để tỉa xén cho gọn gàng… Nếu suốt cả chục năm trời không một lần soi gương, chắc là khuôn mặt ta trông “ghê” lắm!
Biết thế, nên nhà nào cũng sắm gương, người nào cũng soi gương để trang điểm khuôn mặt mình.
Tuy nhiên, việc soi tâm hồn, soi nhân cách để thấy được điều xấu trong đời mình quan trọng hơn soi mặt rất nhiều.
Ta có thể soi tâm hồn, soi hành vi của ta bằng cách phản tỉnh, tức là tự nhìn mình, tự xem xét phê phán mình.
Hãy nhìn lại mình như nhìn một đứa bé đang chơi, một con kiến đang bò… Hãy soi xét chính mình như ta đang xét xem người khác.
Soi thái độ của ta: có trịch thượng, cha chú… hay lịch sự, khiêm nhường?
Soi cung cách ứng xử của ta: có gần gũi hay xa cách người khác?
Soi hành vi của ta, xem có văn hóa hay thiếu chuẩn mực?
Soi lời ăn tiếng nói xem có ôn tồn, nhã nhặn hay cộc cằn, thô lỗ…? Vân vân…
Khi soi mặt, thấy có vết dơ, người ta rửa sạch liền không trì hoãn.
Tương tự như thế, khi tự soi mình, phát hiện nhân cách mình xấu xa, đáng trách… người ta sẽ quyết tâm cải thiện không chậm trễ.
Nhưng nếu không chịu soi nhân cách, ta không thể thấy những nết xấu của mình và hậu quả là sống chung với tật xấu suốt đời.
Lạy Chúa Giê-su,
Không gì làm Chúa vui lòng cho bằng thấy đoàn con biết chừa bỏ thói xấu, cải thiện cuộc đời, trau dồi nhân đức.
Xin giúp chúng con luôn soi mình mỗi ngày, để thấy được những hành vi sai trái mà chừa bỏ; nhờ đó, chúng con sẽ sống đẹp lòng Chúa hơn. Amen.
(Suy niệm của Lm. Inhaxiô Trần Ngà)
Tin mừng hôm nay thuật lại rằng: Khi người cha kêu mời đứa con thứ nhất đi làm vườn nho, ban đầu nó ương ngạnh từ chối, nhưng rồi nhìn lại thái độ và cách cư xử lầm lạc của mình, nó đâm ra hối hận và quyết định đi làm.
Trong khi đó, đứa con thứ hai thì mau mắn trả lời với cha là nó sẽ đi làm, nhưng mà chẳng đi. Thật đáng trách.
Như thế, những ai biết nhìn lại mình, thấy được những lầm lỗi của mình để hoán cải như người con thứ nhất trong dụ ngôn Tin mừng hôm nay là người đáng được tuyên dương.
Khi phạm phải sai lầm, bạn cũng như tôi, chúng ta xử sự thế nào?
– Một là không chấp nhận mình sai.
Có người làm nhiều điều sai trái, nhưng không thấy mình sai mà cứ khăng khăng cho rằng mình đúng. Những người như thế không thể sửa lỗi và phục thiện được.
– Hai là dù biết mình sai nhưng không muốn sửa.
Chẳng hạn nhiều người thừa biết rượu chè be bét là thói xấu tai hại nhưng không muốn bỏ, chẳng muốn chừa. Họ chủ trương rằng:
“Say sưa nghĩ cũng hư đời,
Hư thời hư vậy, say thời cứ say” (Tản Đà).
Thế là hạng người này không thể nào sửa lỗi, phục thiện được.
– Ba là muốn sửa chữa những sai phạm của mình nhưng không đủ nghị lực nên không sửa được.
– Bốn là quyết tâm sửa mình và có đủ nghị lực để hoàn thiện bản thân. Đây là lối xử sự tốt lành, đáng khâm phục.
Vào ngày Mồng Một tết, khi đến thăm một giáo dân trong xứ đạo đã ghiền thuốc lá lâu năm, anh ta khoe với tôi “chiến công” oanh liệt của mình. Anh cầm bao thuốc lá trên tay và nói:
“Con ghiền thuốc lá đã lâu. Con muốn bỏ nhưng không bỏ được. Con hút nó nhưng nó cũng “hút” con. Sức hút của nó mạnh đến nỗi con tưởng mình không thể nào thoát khỏi nó được. Thế rồi, cách đây một năm, con mua gói thuốc lá này và “thách thức” nó rằng: “Để xem mầy thắng tao hay tao thắng mầy? Không lẽ tao lại thua mầy ư?”
Và như cha thấy đây, bao thuốc đó vẫn còn nguyên vẹn không hao một điếu cho đến hôm nay. Con đã thắng!”
Có quyết tâm và nghị lực phi thường để chiến thắng như người đàn ông này không phải là chuyện dễ.
Về phần mình, chúng ta cần xét lại xem mình thuộc hạng nào trong bốn hạng người trên đây?
Cải thiện nội tâm là điều rất cần thiết
Khi biết mặt mày lem luốc, dơ bẩn, chắc chắn ai trong chúng ta cũng vội lau rửa sạch sẽ ngay.
Khi thấy áo quần bẩn thỉu hôi hám, chúng ta thay đổi y phục liền.
Khi biết thân thể mình dơ bẩn, chắc chắn chúng ta sẽ tắm rửa tức khắc.
Khi diện mạo hay vóc dáng của mình không được hài hoà xinh đẹp, nhiều người sẵn sàng bỏ ra tiền tỷ, đến các thẩm mỹ viện, để cải thiện vóc dáng, để làm tăng vẻ đẹp của bản thân.
Vậy mà khi tâm hồn trở nên xấu xa vì tội lỗi, thói hư và tật xấu, nhiều người vẫn cứ để mặc như thế hết ngày nầy qua ngày khác cho đến lúc xuống mồ!
Tại sao người ta hành xử như thế?
Vì nhiều người nghĩ rằng những dơ bẩn, những xấu xa trong tâm hồn không quan trọng, chỉ cần chăm sóc cái vỏ bên ngoài cho dễ coi là được.
Thực ra, những vết dơ trên thân thể không làm giảm sút giá trị con người bao nhiêu, chỉ có những xấu xa đê tiện trong nội tâm con người mới thực sự làm cho người ta ra nhơ uế và có sức tàn phá phẩm giá của của ta, làm mất danh thơm tiếng tốt của ta… Đó là những thứ đáng sợ, đáng ghét và đáng diệt trừ.
Chính vì thế, ăn năn, phục thiện để xoá sạch những xấu xa đê tiện trong tâm hồn, để làm cho tâm hồn nên đạo đức, thanh khiết, cao cả… là việc làm hết sức quan trọng.
Lạy Chúa Giêsu,
Xin giúp chúng con hiểu rằng nét đẹp của tâm hồn quan trọng hơn vẻ đẹp thể xác và chỉ có những điều xấu xa đê tiện trong nội tâm con người mới thực sự làm cho người ta ra nhơ uế. Nhờ đó, chúng con sẽ quyết tâm rửa sạch tâm hồn, cải thiện nếp sống, để ngày càng trở nên người có phẩm chất cao đẹp, có đạo đức và văn hoá.
(Văn Hào, SDB chuyển ngữ)
“Trong hai người, ai đã làm theo ý của cha mình?” (Mt 21,31).
Khác với các dụ ngôn khác, dụ ngôn trong bài Tin Mừng hôm nay dường như không đưa ra một vấn đề hóc búa hoặc khó trả lời. Người cha nói với cả hai người con ra vườn nho làm việc. Người con thứ nhất nói không, nhưng sau đó nó thay đổi và đi làm. Người con thứ hai nói vâng nhưng rồi lại không đi. Có vẻ như không khó khăn gì để trả lời câu hỏi của Đức Giêsu “Ai trong hai người đã làm theo ý của cha mình? Chắc chắn, câu trả lời của chúng ta, là đứa con lúc đầu tuy đã từ chối, nhưng sau đó lại thi hành mệnh lệnh của cha. Đối với não trạng văn hóa cổ xưa thì không phải vậy. Theo các bản văn ban đầu, người ta lại đánh giá người con thứ hai cao hơn, bởi vì nó nói có, cho dù sau đó nó không đi. Trong một nền văn hóa mà người ta trọng hình thức bên ngoài, thì có lẽ đứa con thứ hai đã mauchóng đáp trả lời mời gọi của cha,sẽ được trọng thị và tán thưởng hơn, cho dù xét về khía cạnh khác thì nó đáng xấu hổ vì đã không thực hiện lời hứa. Vào thời bấy giở, hình ảnh đứa con thưa vâng vẫn tốt hơn là đứa con công khai bất tuân lời cha, cho dù sau đó, nó hối hận và đi làm.
Theo mạch văn trong Tin mừng Matthêu, Đức Giêsu đã dùng dụ ngôn để trực tiếp công kích thái độ của các lãnh đạo tôn giáo thời Ngài. Họ là những người cố tình công khai chống đối Đức Giêsu, không tin tưởng vào Ngài và thách đố quyền bính của Ngài. Đức Giêsu đã dùng một kỹ thuật giống như ngôn sứ Nathan đã sử dụng khi đến gặp Đavit, để nói cho nhà vua về tội mà ông đã phạm với bà Bát Seva, vợ của tướng quân Urigia. Nathan kể câu truyện về một gã nhà giầu đã tước đoạt con bê duy nhất của người hàng xóm nghèo sống bên cạnh nhà mình (2Sm 12, 1-12). Nathan gợi nhắc Đavit hãy đưa ra một phán quyết đối với tên nhà giàu gian tham ấy, và cuối cùng đó cũng chính là phán quyết dành cho chính nhà vua.
Tương tự như vây, dụ ngôn của Đức Giêsu cũng nhắc nhở những người lãnh đạo tôn giáo thời Ngài hãy hối cải, để làm sao những điều họ nói, họ giảng dạy tương hợp với những gì họ thực hành. Trước đó, Đức Giêsu cũng cảnh báo các môn đệ là không phải chỉ nói suông “Lạy Chúa, lạy Chúa”, nhưng còn phải thực hiện thánh ý của Thiên Chúa (Mt 7,21-27). Trong Mt 23,3Đức Giêsu cũng cảnh báo đám đông cũng như các môn đệ đừng làm theo những gì mà các người biệt phái và ký lục đã nêu gương, bởi vì họ chỉ nói nhưng không thực hành. Bài Tin mừng hôm nay vén mở ra một chân trời hy vọng để chờ đón họ: Vẫn còn thời gian để họ biết quay trở về, và thực hiện những gì tương thích với lời họ giảng dạy.
Chúa Giêsu đã kết thúc dụ ngôn bằng một lời nhắc nhở mạnh mẽ hầu có thể làm lay động trái tim chai lỳ của các vị lãnh đạo tôn giáo lúc bấy giờ “ Tôi nói cho các ông biết, phường tội lỗi và đĩ điếm sẽ vào Nước Thiên Chúa trước các ông”. Câu nói này không nhằm chỉnh sửa các môn đệ. Nó cũng không có dụng ý nêu bật sự tương phản giữa cái gì xấu nhất và cái gì tốt nhất mà chúng ta có thể nghĩ tưởng ra. Đích nhắm của Chúa Giêsu bắn thẳng vào các đầu mục Do thái giáo. Họ là những người có nhiệm vụ đưa dẫn kẻ khác vào Nước Trời, nhưng liệu họ có thực hiện được hay không. Chính những kẻ vẫn bị cho là nhỏ bé và thấp kém nhất, lại là những người trước tiên sẽ được vào Nước Trời, khi họ biết hối cải và tin vào Thiên Chúa.
Chúng ta rất dễ nhận ra sự khác biệt giữa lời nói và việc làm, nơi phong cách sống của một ai đó. Chúng ta rất dễ phê phán người Pharisiêu trong Tin Mừng hôm nay, hay những vị lãnh đạo tôn giáo thời Chúa Giêsu, và thấy họ cần phải sửa đổi. Nhưng rất khó để chúng ta can đảm nhìn lại cuộc sống của chính chúng ta xem những điều chúng ta nói, chúng ta giảng dạy có đi đôi với việc chúng ta thực hành cụ thể hay chưa. Nói rằng tôi đang theo Đức Giêsu, thì quả là khá dễ dàng, nhưng để thực hiện những giáo huấn của Ngài không phải là chuyện giản đơn. Khi chúng ta tự nhủ với lòng mình, ví dụ tôi cần phải cầu nguyện, nhưng trong thực tế, liệutôi có dành đủ thời gian và chọn những nơi chốn thích hợp để thực hành việc đó hay không. Chúng ta nói, chúng ta quan tâm đến người nghèo, nhưng trong thực tế, chúng ta đã thực hiện một cách cụ thể ra sao?
Cũng may mắn thay, việc thực hiện một cách tương thích giữa lời nói và việc làm không phải là một gánh nặng chỉ đè nặng trên vai chúng ta mà thôi. Sự vâng phục của Đức Giêsu trên Thập giá vẫn mãi là gương mẫu để soi dẫn cho ta. Trong bài đọc thứ hai, Thánh Phaolô đã nói đến sự vâng phục này. Ngài đã tự biến mình ra không, và diễn tả một tình yêu sâu tận dành trao cho Thiên Chúa. Ngài trở nênkhuôn mẫu nội tâm, bơm thêm sức mạnh, giúp chúng ta không những chỉ nói vâng, nhưng còn biết thực hiện bằng những việc làm cụ thể. Sự vâng phục của Đức Giêsu sẽ soi sáng, giúp chúng ta canh tân đổi mới mỗi ngày, gọi mời chúng ta biết mở lòng để hoán cải, và giúp cho những con người hèn mọn bé nhỏ nhất có thể vào được Vương quốc Nước Trời khi biết thực hiện theo chỉ huấn này.
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’ – Thiên Phúc)
Vợ thầy Tăng Tử đi chợ. Con khóc, đòi đi theo. Mẹ bảo:
– Con ở nhà rồi mẹ về làm thịt lợn cho con ăn!
Lúc vợ về, thầy Tăng Tử đi bắt lợn làm thịt. Vợ nói:
– Tôi nói đùa nó đấy mà!
Thầy Tăng Tử bảo:
– Nói đùa thế nào? Đừng khinh trẻ thơ không biết gì. Cha mẹ làm gì nó thường hay bắt chước. Nay mình nói dối nó, chẳng là mình dạy nó nói dối ư?
Tăng Tử nói xong làm thịt lợn cho con ăn.
***
Chỉ vì một lời hứa bông đùa của người vợ, mà thày Tăng Tử phải quyết định làm thịt lợn cho con ăn.
Kẻ sĩ là như vậy đó! Người có nhân cách là thế đó! Một lời nói không đi đôi với việc làm là một lời nói vô giá trị.
Hôm nay Đức Giêsu kể dụ ngôn người cha sai con đi làm vườn nho. Người con thứ hai nhận lời, nhưng sau lại không đi làm. Người con thứ nhất từ chối, về sau hối hận nên lại di. Đức Giêsu muốn ám chỉ các thượng tế và kỳ mục là người con thứ hai. Họ cho mình là chu toàn lề luật, đạo đức hơn người, nhưng thực ra họ chỉ nói mà không làm. Họ bắt kẻ khác tuân giữ luật lệ nhưng chính họ lại tránh né. Họ chất lên vai dân chúng gánh nặng mà chính họ cũng không thể mang nổi. Tệ hơn nữa, họ đã tự mãn đến độ không tin nhận Đức Giêsu là Đấng Thiên Chúa sai đến.
Trái lại, người con thứ nhất được ví như các người thu thế và những cô gái điếm. Họ là những người tội lỗi công khai, bị lọai ra khỏi hội đường và bị gạt ra bên lề xã hội. Nhưng họ đã thành tâm hối cải và tin vào Đức Giêsu là Cứu Chúa của họ. Vì thế, Người đã tuyên bố một câu đầy kinh ngạc cho các nhà lãnh đạo Do thái giáo: “Tôi bảo thật các ông; những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông” (Mt 21,31).
Như thế Nước Thiên Chúa là của những kẻ có niềm tin. Tin vào Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, tin vào Người là Con Người được Cha sai đến. Niềm tin ấy chỉ đáng tin khi nó được thể hiện bằng việc làm cụ thể. Thánh Giacobe khẳng định: “Đức Tin không có việc làm là Đức Tin chết” (Gc 2,26). Đức tin không chỉ được tuyên xưng ngoài miệng, nhưng còn phải chứng minh bằng việc làm. Vì hành động cụ thể thuyết phục hơn lời nói suông. Những công trình trước mắt có giá trị hơn những dự án viễn vông.
Đức Giêsu không bao giờ rao giảng những gì mà Người đã không thực hiện trước. Người dạy các môn đệ tránh xa thứ men giả hình của Pharisiêu, là thái độ “ngôn hành bất nhất”, vì “họ nói mà không làm”. Người đã từng tuyên bố: “Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc” (Ga 5,17). Người hằng làm theo thánh ý Cha, và mong muốn chúng ta cũng hãy làm như vậy: “Không phải mọi kẻ nói với Thầy: Lạy Chúa, lạy Chúa, là sẽ được vào Nước Trời, nhưng là kẻ làm theo ý Cha Thầy” (Mt 7,21).
***
Lạy Chúa, xin cho những lời chúng con tuyên xưng cũng sẽ là những thực hành của chúng con trong cuộc sống. Xin cho chúng con chỉ biết có một điều, là chúng con đang thi hành thánh ý Chúa. Amen.
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
Một người kia có hai đứa con trai…
Dụ ngôn Chúa Nhật tuần này là một trong những dụ ngôn có tính tranh luận với phái Pharisêu. Chúa Giêsu luôn tìm cách ý thức những ông Pharisêu kiêu căng và tự mãn, cho họ thấy rằng giữ đạo không chỉ là làm một vài việc bên ngoài mà phải yêu mến Chúa tận tâm hồn. Họ cứ nghĩ rằng họ đã giữ Luật, đã đọc kinh nhiều, đã ăn chay bố thí như Luật dạy, tức là họ công chính, không cần ai chỉ dẫn điều gì. Và như thế, họ chỉ giữ một thứ đạo bên ngoài và dần dần biến thành một lối sống giả hình mà Chúa Giêsu mạnh mẽ tố cáo. Họ là những người biết luật, những thầy dạy, những nhà lãnh đạo tôn giáo, nhưng họ lại là những người sống trái với những gì họ dạy. Chúa Giêsu đã cảnh cáo họ nhiều lần và chính Ngài đã bảo dân chúng: “Những gì những người Pharisêu đứng trên tòa Môsê dạy, các ngươi hãy tuân giữ nhưng đừng làm theo những gì họ làm, vì họ nói mà không làm”. Nơi khác Ngài nặng lời tố cáo họ: “Khốn cho các ngươi hỡi những kinh sư, Pharisêu giả hình…, các ngươi như những mả tô vôi…”. Tại sao Chúa phải nặng lời đến như thế? Vì lòng họ đã ra chai lì không thể cải hóa được.
Tuy nhiên chúng ta cũng công nhận rằng, tất cả những người thuộc phái này không phải là xấu cả. Nhiều người cũng tin Chúa như ông Nicôđêmô và một số người khác, nhưng đó là thiểu số.
Trong dụ ngôn hai đứa con trai này, Chúa Giêsu cũng ám chỉ họ là đứa con thứ hai. Khi nghe lệnh người cha đã thưa vâng, nhưng rồi lại bỏ qua. Đứa con này xem ra như rất ngoan nhưng kỳ thực chỉ là giả dối. Thái độ như thế thật đáng trách vì đã chấp nhận theo lời cha sau đó lại bỏ qua một bên. Đó là thái độ Pharisêu mà Chúa Giêsu đã nhiều lần lên án. Đang lúc đó, đứa con thứ nhất thì lúc đầu sỗ sàng không vâng lời, nhưng suy nghĩ lại nó đã hối tiếc và vâng phục.
Chúa Giêsu hỏi các ông: “Vậy trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha?” Các ông trả lời: “Người thứ nhất”. Đúng như Chúa muốn và điều này Ngài muốn nói trực tiếp với họ. Ngài kết luận với một giọng điệu hết sức trang trọng: “Tôi bảo thật các ông, những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông…” Tại sao? Vì họ tin vào lời rao giảng của Gioan và ăn năn thống hối, còn các ông khinh thị ông Gioan và không tin ông, các ông sẽ chết trong tội của các ông”. Đó là một gáo nước lạnh tạt vào mặt các ông , nhưng họ vẫn không hiểu, hay họ đã hiểu và vì thế sau này họ sẽ đóng đinh Ngài vào thập giá.
Dụ ngôn cũng là một lời cảnh báo thật mạnh mẽ đối với chúng ta. Chúng ta muốn là đứa con nào? Đứa con xem ra rất ngoan nhưng lại không vâng lời hay đứa con thứ nhất xem ra ngỗ nghịch nhưng lại biết suy nghĩ, và hối hận?
Chúa Cha có hai người con, người con thứ hai chính là chúng ta, vâng vâng dạ dạ, nhưng không làm. Ông Ađam là đứa con phản bội đầu tiên đã mang sự chết đến cho con cháu. Dân Do Thái, dân được chọn là một dân cứng cổ. Trong Kinh Thánh, qua các tiên tri, biết bao nhiêu lần Chúa nói đến sự cứng lòng của dân Do Thái.
Trong Kinh Thánh, chúng ta cũng thấy có biết bao nhiêu gương lành những đứa con ngoan như Abraham. Ông đã vâng nghe triệt để. Ông đã ra đi, bỏ quê hương, người thân, và ruộng đất, để vâng theo lệnh Chúa. Ông đã tế hiến cả con trai duy nhất của mình cho Chúa… Đó là gương lành sáng chói cho chúng ta. Chúng ta đã vâng phục như thế nào? Tối đa hay chỉ có lệ, cho xong?
Các tiên tri cũng là những con người yếu đuối, như Giêrêmia đã la lối cưỡng lại nhưng sau cùng đã khuất phục, đã chấp nhận bao nhiêu gian lao khó nhọc để vâng theo ý Chúa. Và gương mẫu tuyệt đối của chúng ta là Chúa Giêsu, Người Con Một tự cung lòng Chúa Cha đã vâng phục nhập thể và vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá. Người con đó đã vâng lời trọn hảo. Sống ở trần gian, việc chính yếu của Ngài không là làm theo ý riêng mà luôn làm theo ý Cha. Sự vâng phục đó không dễ dàng như chúng ta tưởng. Ngài phải sống một cuộc sống nhọc nhằn, nghèo khổ, lam lũ, vâng phục thánh Giuse và Mẹ Maria. Ngài phải mướt mồ hôi máu trong vườn Giếtsêmani… Ngài là người như chúng ta, Ngài mang cái xác nặng nề như chúng ta với tất cả những nhọc nhằn của nó. Điều đó chúng ta đã quá biết, nhưng chúng tôi muốn nhắc lại để thấy rằng cần phải nhìn Ngài chăm chú hơn, để thấy rõ những gì cần nhìn. Nhìn thoáng qua, chúng ta sẽ không thể thấy được những gì đáng chú ý. Ngài phải bỏ mình đến tột độ, đã rên siết, mướt mồ hôi máu để vâng phục: “Không theo ý con mà theo ý Cha”. Nhìn Ngài đau thương trên thập giá mới biết sự vâng phục của Ngài đi đến đâu: “Lạy Cha, sao Cha bỏ con?”
Chúng ta có mướt mồ hôi máu để vâng phục chưa? Chúng ta đã vâng theo ý Cha đến mức độ nào? Chắc chắn chúng ta phải rên siết thôi, nhất là trong những lúc bệnh hoạn đau đớn, thất bại, chúng ta không còn thấy được ý Chúa ở đâu. Chúa không cấm chúng ta rên siết, nhưng vâng phục vẫn là điều kiện cuối cùng.
Vâng theo ý Chúa không chỉ là trong một vài lúc nào đó mà là liên lỉ, mỗi ngày, và vâng theo ý Chúa mới là bình an và không bao giờ sai lầm. Nhờ vâng phục Chúa Giêsu đã mang lại ơn cứu độ cho chúng ta, thì sự vâng phục của chúng ta cũng không bao giờ vô ích. Nếu chúng ta có lỗi phạm, bất tuân, Chúa cũng dễ dàng tha thứ, vì Chúa biết chúng ta yếu đuối, nhưng phải hồi tâm và trở về.
Sự vâng phục của Chúa Giêsu là tình yêu. Ngài vâng phục Chúa Cha vì Ngài yêu Chúa Cha. Ngài thể hiện tình yêu của Ngài bằng sự vâng phục triệt để. Vâng phục như một nô lệ không phải là sự vâng phục đích thực. “Một ngàn người nô lệ quì gối không bằng một người tự do vâng phục”. Chúng ta hãy vâng phục như Chúa Giêsu, chúng ta sẽ thấy cuộc sống chúng ta quí báu như thế nào.
Trong các gia đình hôm nay, vấn đề vâng phục đang gặp những trở ngại hết sức cam go. Thanh thiếu niên hôm nay tỏ ra bướng bỉnh, và các phụ huynh càng lúng túng không biết làm sao dạy con. Cuộc sống tự do buông thả của xã hội hôm nay ảnh hưởng rất nặng nề trên tâm lý thanh thiếu niên. Chúng nó chịu ảnh hưởng của một xã hội nhàu nát, vô trật tự. Những phương tiện truyền thông với những gương mù gương xấu đầy dẫy ảnh hưởng không nhỏ trên giới trẻ. Các cha mẹ mất phương hướng không biết phải làm sao để giúp con cái đi vào con đường đức hạnh để xây dựng tương lai cho con. Đây là một thách thức lớn cho những bậc làm cha mẹ. Chúng ta sẽ tạo ra một thế hệ nào đây?
May thay, những Hội Đoàn trong giáo xứ cũng giúp một phần, nhưng cha mẹ vẫn đóng vai chính trong việc dạy dỗ con cái, làm sao cho chúng biết vâng lời. Vấn đề này là cả một chương trình lớn và dài hạn. Tùy hoàn cảnh, tùy cách sống gia đình. Nhưng nếu cha mẹ biết vâng lời Chúa thì con cái sẽ dễ dàng vâng lời cha mẹ hơn. Chúng ta không thể tìm một giải pháp cho mỗi vần đề, dù các nhà tâm lý vẫn luôn chỉ dẫn những phương pháp, nhưng cũng không có phương pháp nào hữu hiệu lâu dài. Chỉ có lời cầu nguyện và lòng tin mới giúp chúng ta trong công việc khó khăn này.
Chúa Giêsu lại nói với mấy ông Pharisêu một câu xem ra nặng nề: “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và các cô gái điếm sẽ vào Nước Thiên Chúa trước các ông”. Tại sao? Vì họ biết suy nghĩ và nhìn nhận sự yếu hèn của họ và vâng phục, còn các ông, với những kiến thức của các ông, các ông sẽ không bao giờ biết vâng phục. Ơn cứu độ không phải do kiến thức mà do lòng tin chân thành, do tình yêu không dối trá và đơn thật.
Xin cho chúng ta biết khiêm nhường nhìn nhận sự yếu kém của chúng ta để đón nhận lời Chúa, yêu mến luật Chúa và luôn cố gắng thi hành, và thi hành với tất cả tình yêu.
Chúa Giêsu nơi bàn thờ hiến tế đang mời gọi. Ngài tha thiết mong ước chúng ta cùng với Ngài làm sáng danh Cha bằng một sự vâng phục hết tình như Ngài. Và cũng vì muốn giúp chúng ta trong việc khó khăn này, Ngài vẫn đến ban cho chúng ta thứ của ăn bổ dưỡng là Mình Thánh Ngài để chúng ta luôn đủ sức phấn đáu để đạt đến đỉnh cao của tình yêu là vâng phục cho đến chết, và chết trên thập giá cuộc đời như Ngài.
20.Người con vâng lời – Lm. Trầm Phúc
Giữa những người Pha-ri-sêu và Chúa Giêsu vẫn tồn tại một sự căng thẳng ngày càng gay gắt hơn. Dân chúng càng ca tụng Chúa Giêsu bao nhiêu, họ càng căm ghét Ngài bấy nhiêu. Chúa Giêsu cũng biết điều đó và đôi khi Ngài về xứ Giu-đê để tránh những cuộc đụng độ không có lợi cho công việc của Ngài. Người Pha-ri-sêu có quan niệm rất sai lầm là hễ người nào làm đúng những điều luật dạy, đúng nghi thức bên ngoài, thì được cho là người công chính, mà không cần biết tâm hồn có thành thật hay không. Chúa Giêsu đã thẳng thừng cảnh báo về lối sống đạo giả hình này.
Dụ ngôn về hai người con trai là một dụ ngôn có tính cách tranh luận, và Chúa Giêsu đã tỏ ra quyết liệt: “Tôi bảo thật các ông: những người tội lỗi và gái điếm vào Nước Trời trước các ông”.
Không có cách nói nào mạnh hơn!
Nhưng lòng cứng tin của nhóm Pha-ri-sêu đã buộc Ngài phải cứng rắn, thế nhưng họ vẫn phớt lờ, và họ đã đi đến mù quáng đến nỗi giết Chúa, là Đấng vô tội.
Chúng ta có cứng tin và chai lì như thế không?
Chắc chúng ta không nghĩ rằng chúng ta có thể chai lì như thế. Chúng ta vẫn tin Chúa, vẫn giữ luật Chúa một cách khá nghiêm túc. Nhưng cần phải xem xét lại.
Lời cảnh báo của Chúa thật rõ ràng.
Chúng ta không thể nhận mình là đứa con “nói mà không làm”, nhưng thực tế thì cũng có thể như thế lắm. Nhiều người trong chúng ta chỉ biết nói “Lạy Chúa, lạy Chúa”, nhưng tuân giữ lời Chúa lại là một chuyện khác.
Chúng ta hãy thử làm một bảng kê khai những gì chúng ta đã làm cho Chúa, và những gì chúng ta đã không làm, chúng ta sẽ thấy ngay chúng ta thuộc về hạng nào trong hai người con trong dụ ngôn.
Với dụ ngôn nầy, Chúa Giêsu muốn cho nhóm Pha-ri-sêu thấy rằng họ không thể tự cấp cho mình một giấy chứng nhận công chính. Chỉ có Thiên Chúa mới có thẩm quyền xét xử.
Sự tự mãn làm chai cứng con tim và làm mù lòa đôi mắt. Nhóm Pha-ri-sêu cứng tin vì tự mãn, và tự khép kín trong sự công chính giả tạo của mình, không thể mở ra để đón nhận ánh sáng và sự mới mẻ tuyệt diệu của Thiên Chúa.
Dụ ngôn cho thấy, lời nói suông không có giá trị, việc làm mới đáng thưởng công.
Chúa Giêsu không phải là một lý thuyết gia. Cả cuộc đời của Ngài là một lời giảng dạy liên tục. Nơi Ngài, lời nói đi đôi với việc làm.
Đứa con trai đã trả lời cách vô lễ với cha mình: “Con không làm!” Có lẽ lúc ấy anh đang nghĩ đến việc đi chơi hay một công việc riêng tư, nhưng anh đã kịp hối hận và làm theo lời của cha mình. Biết hối hận là một điều đáng quí. Nhờ đó, chúng ta mới trở về với con đường chính trực. Ai trong chúng ta dám nhận rằng mình luôn làm theo ý Chúa như Chúa Giêsu?
Chỉ có Chúa Giêsu là Người Con duy nhất luôn “làm đẹp lòng Cha, làm những gì thấy nơi Cha”.
Thánh Mat-thêu, khi ghi lại những lời này, có lẽ đã nghĩ đến thân phận của Ngài khi còn là một nhân viên thu thuế: “Những người đĩ điếm và thu thuế sẽ vào Nước Trời trước các ông”, và “Chúa không chê bỏ những tâm hồn đau thương giập nát”.
Trước mặt Chúa, thái độ nội tâm mới được chấp nhận. Giữ đạo theo kiểu Pha-ri-sêu chẳng ích lợi gì cho ai. Chúa Giêsu đã nhiều lần cảnh báo họ và dân chúng: “Các kinh sư và các người Pha-ri-sêu ngồi trên tòa ông Mô-sê mà giảng dạy. Vậy tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc họ làm, thì đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm”. Đó chính là thái độ của đứa con “thưa vâng” nhưng không làm.
Chúng ta thấy thái độ chối từ của nhóm Pha-ri-sêu, chúng ta không thể chấp nhận, nhưng hãy coi chừng! Chúng ta có thể trở nên như họ, nếu chúng ta không thực tâm nhìn nhận sự mong manh yếu đuối của mình. Chúng ta dễ bị ảnh hưởng của nếp sống thế gian, chúng ta quen thấy những người quanh ta nói mà không làm… Và một ngày nào đó, chúng ta cũng trở nên giống như họ, nếu chúng ta không thực sự gắn bó với Chúa, nếu chúng ta không dám nhận mình thiếu sót và dám quay về với Chúa.
Chúa Giêsu nhắc đến Gioan Tẩy Giả và một lần nữa, nhắc đến sự cứng tin và kiêu căng của nhóm Pha-ri-sêu. Họ đã không nghe lời Gioan khuyến cáo và Chúa nhắc lại một lần nữa: “Những người thu thuế và gái điếm đã tin ngài… các ông không hối hận mà tin ngài…”
Nhắc đến Gioan, Chúa Giêsu muốn chứng minh rằng ông là người của Thiên Chúa. Ông kêu gọi mọi người ăn năn thống hối và trở về với Chúa. Không tin ông thì sẽ ra sao? Giáo Hội hôm nay, tiếp nối sứ mệnh cứu độ của Chúa Giêsu, đang khẩn thiết mời gọi chúng ta trở về, tin vào Chúa mãnh liệt hơn, đi vào con đường khiêm tốn của Chúa, từ bỏ sở thích riêng, những ước mơ tự lập hèn kém, để sống như Ngài, một Thiên Chúa toàn năng, cao cả, nay trở “nên như người phàm…, vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá”.
Chúng ta là gì mà muốn tự mình tìm hạnh phúc cho mình? Con đường tự lập, cố chấp sẽ dẫn chúng ta về đâu? Chúng ta dựa vào cái gì để có thể cầm lấy vận mạng của mình?
“Hãy theo Ta”.
Chúa Giêsu luôn mời gọi. Theo Chúa trên con đường khiêm tốn, theo Chúa trên con đường bỏ mình, theo Chúa trên con đường vâng phục ý Cha. Đó mới là con đường đưa chúng ta đến vinh quang vĩnh cửu.
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta theo Ngài. Ngài mở cho chúng ta vào khung trời vô biên của Thiên Chúa. Mặc dù con đường của Ngài có thể đưa chúng ta đến đỉnh đồi thống khổ Can-vê, nhưng ở đó có Chúa; và ở đó, chúng ta tìm được ơn cứu độ. Người trộm lành đã tìm được ơn tha thứ trên thập giá. Viên đội trưởng đã đâm cạnh sườn Chúa Giêsu đã tìm được niềm tin: “Quả thật, ông nầy là Con Thiên Chúa!” (Mt 27,54).
Đức tin phát xuất từ đau khổ, từ tâm tình khiêm nhường thống hối. Những người thực sự tin Chúa đều có thể nói như thánh Phao-lô: “Giữa anh em, tôi không muốn biết gì khác ngoài Chúa Giêsu Ki-tô chịu đóng đinh thập giá”.
Tuy chúng ta còn yếu đuối, nhưng Cha trên trời không chỉ nhìn đến sự yếu đuối; Ngài mời gọi chúng ta trở về với Ngài, để nên một đứa con biết vâng lời, mặc dù đôi khi cũng ương ngạnh. Các thánh mà chúng ta thường nhắc đến đều là những người đã lỗi lầm nhưng đã trở về như Phê-rô, Phao-lô, Maria Ma-đa-lê-na… Gương lành của các thánh là một khích lệ cho chúng ta. Dù yếu đuối, lỗi phạm lúc nào đó, chúng ta vẫn có thể vào làm vườn nho cho Cha. Sự dại khờ, ham chơi của chúng ta là một kinh nghiệm để chúng ta, một khi biết suy nghĩ, chúng ta hăng hái hơn, và giúp anh em chúng ta cùng đi vào con đường vâng phục đầy hứa hẹn.
Chúa Giêsu đến với chúng ta hôm nay nơi bàn thờ, chính là đứa con hoàn hảo của Chúa Cha. Ngài đã vâng phục Chúa Cha triệt để. Ngài đã cứu chúng ta bằng sự vâng phục của Ngài.
Hãy học với Ngài bài học quí báu đó. Hãy ăn lấy Ngài để cùng với Ngài làm sáng danh Cha.
(Suy niệm và chú giải của Lm. Inhaxio Hồ Thông)
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật 26 Thường Niên Năm A nhấn mạnh trách nhiệm của mỗi người trước tội lỗi và khả năng hoán cải vẫn luôn được chờ đợi.
Ed 18: 25-28
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en nói rằng thái độ của con người không bất di bất dịch trong sự công chính cũng như gian ác. Thiên Chúa không muốn kẻ gian ác phải chết nhưng hồi tâm hoán cải để được sống.
Pl 2: 1-11
Trong thư gởi tín hữu Phi-líp-phê, thánh Phao-lô nhắc nhở rằng sự đồng tâm nhất trí phải ngự trị giữa các người Ki-tô hữu và việc thực hành đức khiêm nhường theo gương Đức Ki-tô cũng quan trọng không kém.
Mt 21: 28-32
Tin Mừng Mát-thêu kể cho chúng ta dụ ngôn hai người con. Người thứ nhất khước từ lời mời gọi của cha mình, nhưng rồi sau đó hối hận nên thi hành ý muốn của cha mình. Người con thứ hai ngoan ngoãn vâng theo ý muốn của cha, nhưng rồi không làm gì cả. Điều quan trọng không phải là ngày hôm qua bạn đã trả lời với Thiên Chúa như thế nào, nhưng là ngày hôm nay bạn có thực sự thi hành ý muốn của Thiên Chúa hay không.
BÀI ĐỌC I (Ed 18: 25-28)
Sau khi vương quốc Giu-đa bị đế quốc Ba-by-lon xâm chiếm, ngôn sứ Ê-dê-ki-en thuộc nhóm đầu tiên bị lưu đày. Ông gẫm suy ý nghĩa của các biến cố. Vừa tư tế vừa ngôn sứ, ông quan tâm đến người tội lỗi. Việc dân Ít-ra-en đang phải chịu một sự thử thách nặng nề đã khiến ông suy nghĩ về vấn đề án phạt tập thể và trách nhiệm cá nhân.
1. Án phạt tập thể:
Dân Chúa chọn phải trả lẽ về tội bất trung dài lâu đối với Thiên Chúa của mình. Cũng như ngôn sứ Giê-rê-mi-a, ngôn sứ Ê-dê-ki-en loan báo tai họa. Trong số những người bị lưu đày, không ai không nghĩ đến bản văn của sách Lê-vi: “Các ngươi sẽ bị diệt vong giữa các dân tộc, và đất của kẻ thù các ngươi sẽ nuốt các ngươi. Những kẻ còn lại trong số các ngươi sẽ chết dần chết mòn vì lỗi lầm của chúng, trong đất của kẻ thù chúng; chúng sẽ chết dần chết mòn vì lỗi lầm của cha ông chúng, cộng với lỗi lầm của chúng” (Lv 26: 38-39).
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en sắp phá vỡ quan niệm truyền thống nầy, lật đổ thuyết định mệnh bất di bất dịch đang đè nặng trên những người lưu đày biệt xứ trong hoàn cảnh khốn cùng của họ, theo đó con cháu phải còng lưng gánh tội cho cha ông như câu ngạn ngữ phổ biến nầy: “Đời cha ăn nho xanh, đời con phải ê răng”. Để họ lấy lại niềm tin vào tương lai, vị ngôn sứ gởi đến họ sứ điệp với những dấu nhấn mới: Mỗi người chỉ chịu trách nhiệm về chính mình, con người có thể trút bỏ được gánh nặng của quá khứ để khởi sự xây dựng hiện tại và xây đắp tương lai.
2. Trách nhiệm cá nhân:
Trước đoạn trích dẫn hôm nay, vị ngôn sứ nói: “Sự công chính của người công chính ở với người công chính. Còn điều dữ của kẻ gian ác ở với kẻ gian ác” (Ed 18: 20). Tuy nhiên, không có gì là bất di bất dịch cả. Người công chính có thể sa ngã và kẻ gian ác cũng có thể hoán cải. Những người lưu đày quen với sự liên đới gia đình hay dân tộc, không sẵn lòng lắng nghe sứ điệp nầy khi phát biểu: “Đường lối của Đức Chúa không ngay thẳng!”. Vị ngôn sứ trả lời: “Không một chút nào, chính đường lối của các ngươi đấy chứ! Khi người công chính bỏ đường công chính mà làm điều gian phi, rồi vì thế mà nó phải chết, thì chính là vì điều gian phi nó đã làm, mà nó phải chết. Còn khi kẻ bất lương bỏ việc bất lương nó đã làm, mà thi hành điều công minh chính trực, thì nó sẽ được sống”.
Trước ngôn sứ Ê-dê-ki-en, sách Đệ Nhị Luật, khi duyệt xét lại Luật Mô-sê, đã đưa vào quan niệm về án phạt cá nhân: “Cha sẽ không bị xử tử vì con, và con sẽ không bị xử tử vì cha: mỗi người sẽ bị xử tử vì tội của mình” (Đnl 24: 16). Tuy nhiên, ngôn sứ Ê-dê-ki-en còn đi xa hơn: ông cắt đứt mọi liên đới của toàn thể thế hệ nầy khỏi các thế hệ trước đó, và mỗi cá nhân khỏi quá khứ của mình: cốt là đổi mới và hình thành lại một dân tộc mới. Chủ yếu là lấy lại niềm tin tưởng vào sự công chính của Thiên Chúa, “Đấng không muốn người tội lỗi phải chết, nhưng hối cải để được sống”.
BÀI ĐỌC II (Pl 2: 1-11)
Chúng ta tiếp tục đọc thư của thánh Phao-lô gởi tín hữu Phi-líp-phê mà chúng ta đã bắt đầu vào Chúa Nhật tuần trước. Trong cảnh “gông cùm xiềng xích” có thể ở Ê-phê-xô, thánh nhân viết cho các tín hữu Phi-líp-phê, một bức tâm thư.
1. Đồng tâm nhất trí:
Những lời khích lệ của thánh Phao-lô để lộ vài bất đồng trong cộng đoàn Phi-líp-phê. Chúng ta không biết họ bất đồng về chuyện gì. Bức thư chỉ kín đáo ám chỉ đến. Trong phần cuối của bức thư nầy, sự bất đồng giữa hai người Ki-tô hữu được gợi lên, nhưng trong đoạn trích nầy, những lời thiết tha gởi đến cộng đoàn để kêu mời mọi người hãy khiêm nhường mà đồng tâm nhất trí với nhau.
Cung giọng thân quen của bức thư không ngăn cản vài tư tưởng đẹp và văn chương bay bổng. Những lời gởi gắm chan chứa ân tình của thánh nhân được trình bày theo thể thức điều kiện đem lại cho lời mời gọi của ngài một sự trang trọng nào đó. Lời mở đầu: “Nếu quả thật, sự liên kết với Đức Ki-tô đem lại cho chúng ta một niềm an ủi, nếu tình bác ái khích lệ chúng ta, nếu chúng ta được hiệp thông trong Thần Khí, nếu chúng ta sống thân tình và biết cảm thương nhau” gợi nhớ lại lời cầu chúc cuối thư thứ hai gởi các tín hữu Cô-rin-tô: “Nguyện xin Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng anh em”. Rõ ràng, thánh Phao-lô muốn đặt lời mời gọi cộng đoàn đồng tâm nhất trí với nhau dưới dấu hiệu của sự hiệp nhất Thiên Chúa Ba Ngôi.
Thánh Phao-lô không chỉ nói đến lòng mộ đạo của các tín hữu Phi-líp-phê, nhưng ngài còn nói đến tấm lòng của họ, đến tình nghĩa keo sơn bền chặt của họ đối với ngài. Thánh nhân xin họ cho ngài niềm vui lớn lao nầy là biết họ nên một lòng một ý với nhau.
2. Đức khiêm nhường:
Đối với đức khiêm nhường, thánh nhân khuyên bảo: “Đừng làm vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình”. Phương thuốc tốt nhất để chữa lành thói kêu căng và vị kỷ là quan tâm đến tha nhân. Thánh nhân khuyên họ hãy mặc lấy tâm tình của Đức Ki-tô, Đấng đã tự hạ mặc lấy thân phận con người của chúng ta cho đến bằng lòng chịu chết, chết trên thập giá.
Lúc đó, thánh nhân trích dẫn một bài thánh thi, bằng chứng cổ xưa nhất và rõ ràng nhất về niềm tin Ki-tô giáo rất sớm vào thần tính và cuộc sống tiền hữu của Chúa Ki-tô.
TIN MỪNG (Mt 21:28-32)
Sau khi đã long trọng vào thành thánh Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su thực hiện sứ vụ cuối cùng. Ngài đặt thính giả của Ngài trước một sự chọn lựa dứt khoát: hoặc nhận ra Ngài là Đấng Mê-si-a, Con Thiên Chúa, hay loại bỏ Ngài. Vào lúc nầy, thánh Mát-thêu thuật lại ba dụ ngôn: dụ ngôn hai người con, dụ ngôn những tá điền sát nhân và dụ ngôn tiệc cưới, qua đó Ngài loan báo Nước Trời sẽ bị lấy đi khỏi những kẻ được hứa ban mà trao cho những người khác. Chúng ta sẽ đọc ba dụ ngôn nầy trong suốt ba Chúa Nhật liên tiếp nhau.
1. Đối tượng mà dụ ngôn nhắm đến:
Đối tượng mà Đức Giê-su ngỏ lời là các thượng tế và kỳ mục. “Các thượng tế” là giai cấp lãnh đạo cao nhất của người Do thái vào thời Đức Giê-su. “Các kỳ mục” là những bậc vị vọng, những thành viên quý tộc và những điền chủ giàu có. Cả hai giai cấp nầy đều là những đối thủ không đội trời chung với Đức Giê-su. Ở đây, thánh Mát-thêu không nêu tên các kinh sư, chung chung họ thuộc về giai cấp trung lưu. Thánh Mát-thêu quy trách nhiệm nhiều hơn trên những giai cấp lãnh đạo có quyền thế nhất trong dân Ít-ra-en về cái chết của Đức Giê-su.
2. Lời lời mời gọi tối hậu của Đức Giê-su.
Ngay từ đầu Tin Mừng, Đức Giê-su đề nghị các vị lãnh đạo Do thái suy nghĩ một điều khó hiểu theo hình thức dụ ngôn: “Các ông nghĩ sao về chuyện sau đây?”. Quả thật, đây là một lời cảnh báo tối hậu, một lời kêu gọi sau cùng thực thi ý muốn của cha, sau khi đã khước từ lời mời gọi của cha.
Nét đáng chú ý của dụ ngôn là việc chọn lựa “hai người con”, nghĩa là người cha đều dành cho cả hai đứa con mình tình thương yêu như nhau. Đứa con thứ nhất từ chối lời mời gọi của người cha: “Không, con không đi đâu”, nhưng rồi lại thi hành ý muốn của cha, trong khi đưa con thứ hai đã ngoan ngoãn đáp lại lời mời gọi của cha: “Thưa cha, vâng!”, nhưng rồi lại không thi hành ý muốn của cha.
Bản văn Ê-dê-ki-en nhắc lại rằng Thiên Chúa không muốn người tội lỗi phải chết, và vì sự tự do của con người mà không có gì bất di bất dịch: người công chính có thể sa ngã và kẻ tội lỗi có thể hoán cải. Đây là ý nghĩa phi thời gian của dụ ngôn về hai người con. Dụ ngôn giải thích sự thay đổi thái độ của người con thứ nhất: “Nhưng sau đó, nó hối hận, nên lại đi”, nhưng lại không nêu ra lý do nào người con thứ hai sau đó lại thay đổi triệt để như thế. Tuy nhiên, chúng ta có thể nghĩ đến một lời khác của Đức Ki-tô: “Không phải những ai nói: “Lạy Chúa, Lạy Chúa!” là được vào Nước Trời đâu, nhưng chính là thi hành ý muốn của Cha tôi”.
3. Ý nghĩa của dụ ngôn.
Phần sau cùng của dụ ngôn nầy gây nên những tranh cãi. Những lời nầy của Đức Giê-su có thật sự được đặt vào ở đây chứ? Phải chăng chúng đã được đưa vào ở đây vào lúc biên soạn sau cùng của Tin Mừng chứ? Trước hết, thánh Mát-thêu hiếm khi nói “Nước Thiên Chúa” thay vì “Nước Trời”. Hơn nữa, tại sao tin vào lời của ông Gioan được dùng làm điểm mốc, trong khi đó chính trên thái độ đối với sứ điệp của Ngài mà Đức Giê-su ngầm đặt câu hỏi?
Đức Giê-su không ngần ngại nói thẳng ra: “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế, những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông đấy”. Đức Giê-su chủ đích đưa ra cho giai cấp lãnh đạo Do thái hai mẫu người tội lỗi công khai bị khinh bỉ đặc biệt nhằm tác động thật mạnh vào tính tự cao tự đại cố hữu của họ. Quả thật, các thượng tế và kỳ mục đều đã biết sứ điệp của Gioan Tẩy Giả, nhưng không chịu tin, họ vẫn một mực từ chối lời mời gọi của Thiên Chúa qua ông Gioan. Trái lại, phường thu thuế và bọn gái điếm đã lắng nghe ông Gioan và hoán cải.
Thiên Chúa chỉ xét đoán con người dựa trên thái độ hiện tại của họ, cho dù quá khứ như thế nào đi nữa. Chính những giây phút hiện tại mới là quan trọng. Đối với Thiên Chúa, cái ngày hôm nay mới là quan trọng. Vì thế, sứ điệp của sách Đệ Nhị luật luôn luôn bắt đầu với “ngày hôm nay”: “Phải chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người, đừng cứng lòng nữa”.
MINH HỌA LỜI CHÚA
1. Cây đinh rỉ sét và cong quẹo
“Người cha đến nói với đứa con thứ nhất: Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho. Nó đáp: Con không muốn đâu. Nhưng sau đó nó hối hận, nên đi” (Mt. 21, 28-29).
Một người nghiện rượu. Ông cũng xa rời Thiên Chúa và gia đình.
Một hôm trong khi đi đường, ông hối hận vì cuộc sống hiện tại của mình, khi ông thấy một cây đinh rỉ sét và cong quẹo. Cây đinh đó nhắc nhở ông về bản thân và cuộc đời ông. Vì vậy, ông nhặt nó đem về nhà. Ông đặt nó lên đe, gò cho thẳng lại và lau sạch rỉ sét. Một giờ sau, cây đinh mới lại.
Cũng thế, ông cũng có thể uốn nắn và thanh tẩy cuộc đời ông. Suy nghĩ đó đã đem lại cho ông một sự biến đổi: ông bỏ rượu, trở về với Thiên Chúa và gia đình. Hiện nay ông vẫn giữ cây đinh đã được gò thẳng và lau sạch đó trong ví của mình.
Đã có bao giờ tôi hầu như giống cây đinh cong quẹo và rỉ sét đó không? Điều gì đã làm tôi thay đổi?
“Ai sám hối thì đã được sạch tội rồi” (Seneca) (Trích “Viễn tượng 2000”).
2. Trong căn phòng khách sạn
Tomas Merton mồ côi cha mẹ năm lên 16 tuổi. Năm lên 23, cậu gặp được Chúa Kitô. Năm 24 tuổi, chàng làm phóng viên tờ Nữu Ước thời báo. Năm 26 tuổi, chàng thu gom tài sản vào cái túi vải, đến sống ở Kentucky và trở thành một thầy dòng chiêm niệm.
Trong cuốn “tự thuật”, Tomas Merton thuật lại tiến trình hối cải của mình: Sau khi tốt nghiệp trung học, cậu đi du lịch qua Âu Châu và ở trọ trong khách sạn, cuộc đời buông thả. Nhưng cũng chính ở đây, một đêm nọ cậu ý thức tội lỗi của mình và ước muốn thoát khỏi thảm cảnh đó. Cậu cầu nguyện và đây là lần đầu cậu thực sự cầu nguyện và xin Chúa giúp cậu thoát khỏi quyền lực xấu xa cầm giữ tâm hồn cậu.
Câu chuyện Tomas Merton hôm nay minh họa sự hối lỗi của người con trong Tin Mừng hôm nay: “Nó hối hận nên lại đi làm vườn nho” (Mt. 21, 29)
Điều gì giúp con người hối cải?
Thần học gia Soren Kierkegaard nói: “Không có tình trạng đã thành Kitô hữu mà chỉ có tình trạng đang trở thành Kitô hữu”. Như thế việc hoán cải là một tiến trình kéo dài cho đến lúc lìa đời, chứ không bao giờ chấm dứt. Và việc hối cải phải qua 3 giai đoạn:
Trước hết là sự bất mãn về kiếp sống sai trái hiện tại của mình.
Kế đến là quyết tâm làm một điều gì đó cho cuộc đời mình.
Sau cùng là thực hiện cho mình cuộc sống mới tốt đẹp đúng đắn.
Do đó, Lời Chúa trong các bài đọc hôm nay mời gọi chúng ta khám phá cuộc sống của mình, để thấy những gì sai trái, những gì chưa thích hợp với Ý Chúa thì lo tu chỉnh lại. (Theo “Sunday homilies”).
3. Con người bất lực
Thánh Phaolô đã xưng thú sự bất lực của ngài: “Tôi không hiểu nổi chính tôi, điều tôi muốn làm thì tôi không làm nổi; còn điều tôi ghét thì tôi lại làm. Ý muốn làm điều tốt thì thực sự có trong tôi, nhưng việc thực hiện thì không” (Rm. 7,15).
Thánh Phao lô là một trong số các tông đồ nhiệt thành năng nổ nhất của Chúa. Thế mà Thánh Nhân cũng phải nhìn nhận sự bất lực của bản thân mình. Sự bất lực của Thánh Nhân minh họa cho trường hợp hai người con trong Tin Mưng hôm nay. Khi người cha kêu gọi đi làm vườn nho, một người trả lời: “Con không muốn đâu! Nhưng sau đó nó hối hận nên đi”. Còn người kia thì đáp: “Thưa ngài, con đây! Nhưng rồi lại không đi”. (Mt. 21, 29-30)
Sau những kinh nghiêm sống đạo, chắc chắn chúng ta cũng ý thức về những bất lực của chúng ta. Chúng ta muốn vượt qua những yếu đuối để thực hiện các điều Chúa dạy, thực hành theo ý Chúa muốn, nhưng rồi chúng ta lại không làm nổi. Chúng ta hãy nhìn lại Thánh Phaolô. Ngài thú nhận không làm được điều tốt ngài muốn, nhưng cứ làm điều xấu ngài không muốn.
Nhưng chính trong những bất lực này, ngài cảm nhận được ơn Chúa nâng đỡ, như Lời Chúa hứa: “Ơn Ta đủ cho con”. Và Ngài đã tin tưởng phó thác vào tình thương nâng đỡ của Chúa.
Còn chúng ta thì sao?
Trong lúc cảm nhận những bất lực của bản thân, chúng ta tin tưởng vào ơn nâng đỡ, sự trợ giúp quyền năng của Chúa, hay cậy dựa vào khả năng bất lực của chúng ta hoặc một thế lực nào, một người nào khác.
Chúng ta hãy nhớ: chính nhờ chúng ta ý thức được sự bất lực của chúng ta mà Chúa Giêsu có thể bước vào cuộc sống chúng ta, như một Thiên Chúa có sức nâng đỡ phù trợ chúng ta, vì Người đã hứa: “Ơn Ta đủ cho con…”
4. Ngôn hành bất nhất
Tại một tu viện cổ kính, sau khi tiếng chuông nhà nguyện vang lên, các tu sĩ tập hợp nơi hành lang nguyện đường, chào đón một tập sinh mới trải qua giai đoạn thử thách, để trở nên thành viên chính thức của tu viện. Thầy giáo tập Laisasi trình bề trên:
– Thưa bề trên, con xin trình lên bề trên tập sinh Laicoasi. Trước đây tập sinh này là một con người hống hách ươn ngạnh, nhưng nay đã trở thành người mới, đáng được vào hàng ngũ tu sĩ chúng ta.
Thế là tập sinh Laicoasi được lệnh lên đứng trước các tu sĩ. Thầy giáo tập bắt đầu chữi bới và nặng lời phỉ báng tập sinh. Thầy còn tát vào mặt anh, đánh anh té xuống đất. Tập sinh Laicoasi vẫn im lặng, khiêm nhường, kiên nhẫn chịu thử thách.
Vị tu viện trưởng hết sức xúc động trước sự biến đổi lớn lao của tập sinh và tuyên bố:
– Tập sinh Laicoasi đã trải qua khảo hạch về kiên nhẫn, nên kể từ nay anh được trở nên thành viên chính thức của tu viện chúng ta. Xin chúc mừng và chào Laicoasi.
Bỗng đột ngột Laicoasi quay lại đánh thầy giáo tập tới tấp. Rồi anh cười nhìn thầy giáo tập đang nằm sóng sượt trên đất. Vị tu viện trưởng hoảng hốt hỏi:
– Sao anh đánh thầy giáo tập?
– Thưa bề trên, con muốn thử thầy giáo tập của con, xem thầy có thực hành những gì thầy đã dạy con không?
Câu chuyện vui trên đây minh họa thái độ của hai người con trong Tin Mừng hôm nay. Khi người cha bảo đứa con thứ nhất: “Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho. Nó đáp: Con không muốn đâu! Nhưng sau đó, nó hối hận, nên lại đi. Ông đến gặp người thứ hai, và cũng bảo như vậy. Nó đáp: Thưa Ngài, con đây! Nhưng rồi lại không đi” (Mt. 21, 28-30)
Người con thứ nhất là người “ngôn hành hiệp nhất”. Con người “ngôn hành hiệp nhất” chẳng những làm tròn bổn phận đối với mọi người mà còn được mọi người tôn trọng, vì lời họ nói luôn đi đôi với việc họ làm. Họ cũng là người khiêm nhường và can đảm. Một khi đã hứa là sẽ nỗ lực hết sức lực thực hành lời hứa. Họ biết rằng lời hứa của họ có liên quan đến vận mệnh người khác.
Còn người con thứ hai mà không làm, tức là “ngôn hành bất nhất”. Họ hứa cách cẩu thả, không suy nghĩ xem mình có khả năng thực hiện điều mình hứa không. Những con người như thế, thoạt nhìn người ta tưởng họ là những người tốt, nhưng đó lại là những con người thiếu trách nhiệm, dối trá, sẽ gây đau khổ thất vọng cho người mong chờ lời hứa của họ được thực hiện.
Đó chỉ là bình diện nhân bản. Còn trong bình diện thiêng liêng, chúng ta cố gắng “ngôn hành hiệp nhất” trong suốt cuộc đời chúng ta đối với Thiên Chúa, vì Ngài là Đấng trung tín, luôn giữ đúng lời hứa với chúng ta. Ngài đã lên án gắt gao các biệt phái và kinh sư về thái độ “ngôn hành bất nhất” của họ. (Theo “Ánh sáng thế gian”).
5. Khiêm tốn
Trên chiếc xe lửa tiến về Paris (Pháp) một sinh viên trẻ ngồi bên một cụ già. Chỉ ít phút sau khi xe chuyển bánh, cụ rút trong túi áo ra chuỗi tràng hạt và cầu kinh.
Cậu sinh viên nhìn cụ lần chuỗi có vẻ bực bội nên lên tiếng:
– Cụ còn tin nhảm nhí à?
– Tôi tin. Còn cậu, cậu không tin sao?
Người sinh viên cười ngạo nghễ:
– Lúc nhỏ tôi tin. Nhưng bây giờ làm sao tin được. Khoa học đã giải thoát tôi khỏi những chuyện phù phiếm đó. Cụ hãy ném bỏ tràng chuỗi đó đi. Hãy học những khám phá mới của khoa học. Cụ sẽ thấy những gì cụ tin từ trước đến giờ toàn là mê tín dị đoan.
Cụ già điềm nhiên hỏi lại:
– Cậu vừa nói những khám phá mới của khoa học. Cậu có thể giúp tôi biết được không?
Cậu sinh viên khoái chí đề nghị:
– Cụ cứ cho tôi địa chỉ. Tôi sẽ gởi sách cho cụ học. Cụ sẽ say mê khoa học ngày nay thôi.
Cụ già từ từ lấy ra tấm danh thiếp trao cho cậu sinh viên. Đọc qua danh thiếp, người sinh viên xấu hổ tái mặt, lặng lẽ sang toa khác. Vì tấm danh thiếp ghi rõ: “Louis Pasteur, viện nghiên cứu khoa học Paris”.
Louis Pasteur, nhà bác học thời danh nước Pháp đã không vì sự học cao hiểu rộng của mình mà vênh vang tự đắc như người sinh viên trẻ tuổi kiêu căng, mới lem nhem hiểu biết khoa học. Cụ vẫn khiêm tốn tin tưởng và cầu nguyện với tinh thần đơn sơ, phó thác. Cụ đã thực hành bài học của Chúa Giêsu:”Hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng thật trong lòng” (Mt. 11, 29).
Thánh Phaolô đã xác quyết trong bức thư của bài đọc hai hôm nay:
“Đức Giêsu vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn rút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” (Pl. 2, 6-7).
Là Kitô hữu, muốn theo gót Chúa Giêsu, chúng ta không thể chọn con đường nào khác hơn sống khiêm tốn, hạ mình xuống như Thầy chúng ta, để được Thiên Chúa nâng lên cõi sống muôn đời, và “tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu” (Pl. 2, 9)
(Theo “Maria Mẹ tuyệt mỹ).
23.Tin vào cha – Lm. Vũ Đình Tường
Phúc âm Thánh Luca 15 và Mathêu 21 bắt đầu ngụ ngôn tình yêu người cha dành cho con vả cách người con đáp trả tình yêu đó nhưng kết quả cuối cùng chính là nhấn mạnh đến sự tha thứ. Người con trai trẻ tin vào lòng từ ái của cha mình nhưng không chung niềm tin về cuộc sống như cha anh mong đợi. Anh tin cha anh rộng lượng đến độ khi anh đòi chia nửa gia tài cha anh sẽ chiều theo. Đúng thế, cha anh chia cho phân nửa gia tài. Có tiền trong tay anh tung cánh bay cao, lìa xa cha và người anh. Khi đòi chia gia tài anh chỉ nghĩ đến mình mà không quan tâm đến nỗi thương tâm của cha anh và người khác bởi anh chiều theo tính ích kỉ. Ích kỉ là chỉ nghĩ đến mình, lo cho mình, thoả mãn í muốn mình, không quan tâm đến cảm xúc của người khác. Ích kỉ là nguyên nhân gây chia rẽ, gây thương tích cho tình cảm con người. Nó ảnh hưởng đến cách ứng xử của ta trong cuộc sống, thiếu cảm thông với thân nhân, thiếu tình thương đồng loại và vắng bóng nhân ái trong hoàn cảnh thương tâm. Kiềm chế tính vị kỉ, ích kỉ, là điều rất khó. Kẻ ít, người nhiều khó ai tránh khỏi bệnh chung của nhân loại. Bản chất sanh ra đã ít nhiều mang tích ích kỉ. Ích kỉ không phải là tham lam mà là coi mình trọng hơn mọi người. Cả hai người con trong dụ ngôn này đều ích kỉ, quan tâm đến cá nhân mình nhiều hơn là quan tâm đến tình thương cha họ dành cho.
Có tiền trong tay là cơ hội giúp người con bỏ nhà ra đi, chạy theo những giấc mơ thầm kín anh từ lâu ước mong thực hiện. Quả thực tiền bạc giúp anh sống vương giả một thời gian cho đến khi hết tiền, cuộc sống vương giả cũng bay theo. Không còn tiền anh mất tất cả. Đầu tiên là những lời tâng bốc, ngon ngọt của bè lũ bu theo nịnh bợ, kiếm ăn. Sau đó anh mất luôn tư cách con người. Thực ra tư cách này mất từ khi anh lao vào chốn ăn chơi, coi thường đạo đức nhưng nó chưa thể hiện rõ ràng cho anh thấy, anh phải chờ cho đến khi khánh kiệt, không còn gì lúc đó anh mới nhận ra mình sai lầm. Tư cách con người bị xuống bùn đen khi anh xin đi chăn heo thuê và đói, thiếu cả cám heo để ăn. Anh sống trong cô đơn, tủi nhục. Giờ đây anh rõ mộng khác thực. Mộng đưa ra nhiều hứa hẹn có điều kiện. Không tiền mộng suốt đời chỉ là mộng. Ngay cả khi có tiền nó cũng chỉ là những hào quang chớp nhoáng, vinh quan bề ngoài và sớm tàn lụi. Trái lại, tình thương cha anh dành cho cũg có điều kiện. iều kiện không phải là tiền để thực hiện nhưng cần tình thương, vâng lời thực hiện theo í cha sống yêu thương.
Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu con (Ga 13,34)
Thiên tai, đói khổ, cô đơn mở mắt người thanh niên trẻ giúp anh phân biệt khác biệt giữa tình yêu cha anh dành cho và hứa hẹn hão huyền trong cuộc sống. Tình yêu cha anh không những chăm sóc, lo lắng và còn tha thứ khi anh lầm lỗi trong khi cuộc sống xã hội đã không tha mà còn tìm cách, nếu anh có tiền thì lừa gạt, nếu anh không tiền thì gạt ra ngoài, vứt bỏ. Nhận biết này giúp anh can đảm, mạnh dạn đứng dậy đi về cùng cha xin tha thứ. Một lần nữa anh lại đánh giá sai lầm tình yêu cha anh dành cho. Anh hy vọng về tạ tội và xin được làm công cho cha nhưng người kha khoan dung hơn những gì anh ước mơ. Trông thấy con trở về ông ông choàng đón nhận người con hoang trở về. Cho anh mặc áo mới, giầy mới là dấu chỉ tước vị người con trong gia đình. Ông lại mở tiệc mừng con về nhà bằng an.
Chúng ta là con cái Thiên Chúa. Dùng ngôn gnữ thánh Phaolô diễn tả chúng ta là kẻ thừa tự trong nước trời. Thiên Chúa là người cha nhân từ rộng lượng hơn chúng ta tưởng tượng, tha thứ nhiều hơn là bắt lỗi và luôn mong chờ, sẵn sàng đón nhận chúng ta trở về. Hãy mạnh dạn tiến về nhà cha để đón nhận lại tình nghĩa tử, cha con.
Đặt trọn niềm tin vào Đức Kitô là con đường duy nhất dẫn đến cuộc sống trường sinh.
24.Công chính hoá – Lm Vũ Đình Tường
Bản tính con người thích chọn con đường bất chính, gian tà bởi con đường bất chính là con đường dễ bước vào. Con đường bất chính dễ bước vào khó ra. Nó là con đường khó khăn, gian khổ, khó nhai, khó nuốt nhưng nhiều người ham muốn, tự nguyện bước vào. Vì sao? Vì con đường đó thuộc về trần gian, phần thưởng của nó là vật chất, thấy được, sờ được, thưởng thức được ngay tại thế. Chính vì những cảm xúc mãnh liệt đó mà nó có nhiều đệ tử ngày đêm mong tìm cảm giác lung linh. Hút thuốc vào cảm thấy tê tái tức thì. Uống rượu vào tức khắc nhận ra chất say tê tê mạch máu, kích thích làn da, thớ thịt. Thắng bài bạc thấy tiền ngay, mắt sáng rỡ trông thấy. Rình rập biết rõ đường đi nước bước nhà người tạo cảm xúc lo sợ, hy vọng lẫn lộn, lòng tự nhủ, của ngươi trong tủ sắp là của ta trong túi. Cảm xúc mãnh liệt đó làm xáo trộn luân lí, làm lú lẫn tâm hồn, làm lờ mờ lí trí nên dễ buông thả cuộc đời, lăn xả vào cuộc chơi. Chính vì lăn xả vào nên không gì kiềm chế, ngăn cản, thắng cho chậm lại. Bất kể lời ca thán, khuyên bảo, van lơn của thân nhân và coi thường an toàn cho bản thân cũng vì lí đo đang lăn xả vào.
Đường ăn chơi dễ vào khó ra bởi bước chân vào cuộc là đánh ván bài xả láng. Ván bài xả láng cướp mất cuộc đời, làm nhụt ý chí tiến thân, phá tan quyết tâm và lấp lối tương lai. Thứ đến xã hội loài người rất khắt khe với người đánh ván bài xả láng. Họ không chấp nhận và thiếu thứ tha nên người muốn bước chân ra khỏi dòng thác lôi cuốn luôn có những mắt xích trói chặt đời họ, ngăn cản đường tiến trong tương lai. Hơn nữa người lăn xả vào cuộc chơi thí mạng, bán sức khoẻ và tuổi xuân cho cuộc chơi nên tinh thần mất minh mẫn, nhụt chí, cơ hội trẻ trung không còn để tiến thân. Vì những lí do đó mà một khi đã bước vào, khó giật lùi, khó bước ngược lại. Muốn thoát ra đời kéo lùi, giật ngược lại vì nó đâu muốn mất thành viên trung thành của chúng. Nó chỉ sa thải khi thành phế thải, khi không còn gì cống hiến cho cuộc chơi. Thành phần phế thải, chỗ chứa sẽ là đầu đường xó chợ, nơi ẩn thân, sống dật dờ, lây lất, chờ ngày về lòng đất mẹ.
Nói đến công chính hoá là nói đến điều gì đó chưa công chính nhưng đang trên đường tiến đến công chính. Như vậy công chính là bước cuối cùng của con đường giúp ta nên thánh. Ngoài Chúa ra không còn con đường công chính nào bởi vì Ngài là đường, là sự thật và là sự sống. Vì Chúa là Đấng công chính nên phải bước đi trên con đường công chính để đến với Chúa. Ngoài con đường đó ra không còn lối tắt, ngã rẽ nào khác. Chỉ có một lối đi duy nhất mà Đức Kitô vạch ra cho những ai ước ao bước đi trên con đường đó. Vì thông cảm yếu đuối của thân phận làm người. Vì tình yêu Chúa cao vời. Vì Ngài là Đấng giầu từ bi nhân hậu, Ngài không loại bỏ, không kết án ai nhưng tạo cho con người cơ hội trở về.
Tiên tri Êdêkiel nói rõ con đường đó là từ bỏ đường gian tà, lối xảo trá,
Nếu kẻ gian ác bỏ đàng gian ác nó đã đi, và thực thi công bình chính trực, nó sẽ được sống. Nếu nó suy nghĩ và từ bỏ mọi tội ác nó đã phạm, nó sẽ sống chớ không phải chết Ed18,28
Giáo huấn của tiên tri Êdêkiel được thánh Mathêu 21,28-32 nhắc lại trong dụ ngôn hai người con. Người thứ nhất từ chối lời cha kêu gọi sau đó hối hận đi làm. Người thứ hai vâng dạ nhưng không làm. Dụ ngôn kết luận người con thứ nhất đã làm theo ý cha mình. Anh hối hận vì đã cãi lại lời cha, hối hận vì đặt ý riêng mình trên ý cha.
Con đường giúp trở nên công chính hoá là con đường thống hối, ăn năn. Thống hối, ăn năn trên lí thuyết chỉ là thống hối bằng môi mép. Thống hối thực sự phải đến từ tấm lòng, chính tấm lòng giúp con người thành tâm trở về với Chúa.
Để từ bỏ con đường bá đạo, lối sống bất chính. Người ta cần phải có gì để lấp vào khoảng trống vừa từ bỏ trong đời. Nếu không có gì lấp vào sẽ không thể từ bỏ được vì con đường cũ sẽ tìm cách trở lại. Chỉ có cách duy nhất tránh ngựa tìm đường cũ là tìm cho nó một con đường mới. Con đường mới phải khác con đường cũ, ngược với lối sống, cách sinh hoạt cũ. Con đường khác, trái nghịch với bá đạo là chính đạo. Nghịch với con đường bất chính là công chính. Đường chính đạo, lối công chính ngoài Chúa ra còn ai có. Cách duy nhất trở về đường lành là sống thực thi đường lối Chúa. Con đường công chính giúp con người sống thánh thiện, trở nên tốt lành hơn, trọn hảo hơn.
Con cha thì giống Cha. Là Kitô hữu chúng ta phải nghe và làm theo Lời Chúa. Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta, qua câu chuyện người cha và hai đứa con này. Đó là: Muốn vào Nước Trời, vấn đề không phải chỉ nói “có” ngoài môi miệng mà phải làm theo ý của Chúa Cha. Hai người con, không có người nào đem lại niềm vui trọn vẹn cho cha. Cả hai đều không làm cha mình hài lòng. Nhưng người con thứ nhất rõ ràng là tốt hơn người con thứ hai. Bởi vì, tuy lúc đầu anh đã nói “không”, rồi sau đó anh đã đi làm theo ý Cha. Phải chi có người con thứ ba nói đi làm ngay là đi làm ngay, thì thật là tốt biết mấy! Trong cuộc sống thường ngày, chúng ta thường gặp hai hạng người này: Thứ nhất là hạng hạng người nói nhiều hơn làm, họ hứa hẹn đủ điều, nhưng rồi không làm gì cả. Thứ hai là hạng người làm nhiều hơn nói, họ không hứa hẹn, ba hoa, khoác lác, nhưng người ta thấy họ làm những việc đạo đức, nhân hậu, tốt lành, có khi làm một cách kín đáo. Chúng ta ta thích hạng người này hơn, vì họ chân thành, lấy việc làm chứng minh lời nói.
Lời hứa không bao giờ thay thế được việc làm, và lời nói hoa mỹ không bao giờ thay thế được những nghĩa cử. Người con thứ hai tỏ ra lịch sự bên ngoài, khi lễ phép trả lời: “Thưa cha, vâng ạ”. Nhưng rồi anh không làm. Lễ phép suông là một việc giả dối, hảo huyền. Lễ phép thật là vâng lời, thực hiện một cách sẵn lòng, vui vẻ. Các tín hữu của Chúa Kitô thực hành chứ không phải hứa hẹn. Người Kitô hữu đích thực là đón nhận mệnh lệnh của Cha với thái độ vâng phục và kính trọng, là người chấp hành mệnh lệnh trọn vẹn: nói là làm ngay.
Ngày nay, người ta thường nói: “Con đường dài nhất là con đường từ đầu đến tay”. Chúng ta cần để cho Lời Chúa “đi từ lỗ tai đến tim óc và cuối cùng đến đôi tay”. Nhiều khi chỉ nghe Lời Chúa bằng đôi tai thôi – tai này lọt qua tai kia là hết hay nhiều khi người khác để cho Lời Chúa đánh động quả tim và trí tuệ, nhưng rồi họ ngừng lại tại đó, không dám đi xa hơn, vì sợ phải hy sinh, từ bỏ,… Rốt cuộc Lời Chúa vẫn là cái gì mông lung, không thực tế, không liên quan gì đến đời thường: đời sống làm ăn, đời sống gia đình, đời sống tình cảm,… Lời Chúa vẫn bị nhốt trong nhà thờ, trong các cuộc tĩnh tâm, các buổi chiều cấu nguyện chia sẻ. Làm sao để Lời Chúa được đến “đôi tay”, nghĩa là được người Kitô hữu đem ra thực hành xung quanh tha nhân. Chỉ như thế, men Lời Chúa mới có thể được trộn đều vào khối bột loài người và làm bột dậy men Tin Mừng.
Quả thực, con đường đi từ quả tim đến đôi tay là một con đường dài và gian khổ. Để đi trên con đường này, người Kitô hữu phải được giải phóng khỏi cái tôi nặng nề, với những lo toan và sợ hãi, những tính toán và vun vén cho mình. Rung động trước nỗi khổ của người khác là một chuyện, cho người khác cái áo còn tốt của mình lại là chuyện khác. Thánh Gioan đã cảnh giác chúng ta: “Hỡi anh em, ta đừng yêu mến bằng lời nói suông, nhưng bằng việc làm thực sự” (1Ga 3,18).
Chúa Giêsu không thích những người sống giả hình, Luật Sĩ và Biệt Phái Pharisêu bị lên án dữ dội vì họ giả hình, nói mà không làm, đặt gánh nặng lên vai người khác nhưng tránh né cho chính mình. Thế giới hôm nay cần thấy việc tốt của chúng ta trước khi họ tin nhận giáo lý của Chúa Kitô. Họ tin vào Đạo vì thấy những người dám sống đạo, dù phải chịu thiệt thòi và nguy hiểm. “Ánh sáng của anh em cũng phải chiếu giải trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16). Bài Tin Mừng nhắc nhở chúng ta hãy xét lại, hãy nhìn lại: lời nói và việc làm của chúng ta có đi đôi với nhau không? Chúng ta yêu cầu người khác phải sửa sai, nhưng chính chúng ta có biết tự sửa sai không? Trong phạm vi gia đình, thật không gì tai hại cho bằng nói mà không làm: chúng ta bảo con cái phải biết nhường nhịn, tha thứ cho nhau, nhưng chúng ta thì lại cứ ăn thua đủ, không ai nhường ai. Chúng ta bảo con cái phải sống thành thật, nhưng chúng ta lại gian dối với người khác. Trong đời sống đạo đức cũng vậy, liệu tâm hồn chúng ta có phải là tâm hồn Kitô đích thực không? Liệu đời sống của chúng ta có phải là một thể hiện những gì chúng ta tuyên xưng không Hay chúng ta chỉ có cái vỏ Kitô bên ngoài? Nếu chúng ta sống như vậy, chúng ta hãy coi chừng, chúng ta sẽ bị Chúa cảnh cáo: những người khác sẽ vào nước trời, còn chúng ta thì sao?Đức tin bên trong của chúng ta phải được thể hiện ra việc làm bên ngoài: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17).
Chúa Giêsu là Người Con lý tưởng, Người Con đã thưa VÂNG ngay từ đầu và thưa VÂNG mãi mãi suốt cả đời. Nơi Ngài luôn là Có chứ không phải là Có khi Không. Ngài đã thưa với Chúa Cha: “Này con xin đến để thi hành Thánh Ý Cha” (Dt 10,9), và Ngài đã thi hành cho đến lúc hoàn tất trên Thập Giá. Như thế, Chúa Giêsu đã thi hành Thánh Ý Chúa Cha một cách hoàn hảo và nêu gương cho chúng ta. Chúng ta hãy noi gương Ngài để trở nên những người con đích thực của Cha chúng ta trên trời.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết làm theo thánh ý Chúa. Amen.
Trích: http://www.tgpsaigon.net
Suy niệm:
Hình ảnh Chúa Giêsu dùng để trình bày giáo lý của Ngài trong Chúa Nhật hôm nay vẫn là vườn nho. Tư tưởng của Chúa Giêsu trong trích đoạn Tin Mừng Mt 21,28-32 tiếp nối hình ảnh vườn nho, nghĩa là nước trời, Chúa Giêsu muốn giới thiệu cho nhân loại. Câu chuyện thánh Matthêô tường thuật có tính cách dí dỏm, thú vị, giúp mọi người hiểu được ý Chúa muốn nói. Người Cha trong trích đoạn Mt 21,28-32 là Thiên Chúa nhân từ, giàu lòng thương xót, luôn chạnh lòng xót thương đối với con người, nhất là những con người tội lỗi, yếu đuối. Người cha một hôm nói với đứa con cả: “Con ơi, nay ra làm vườn nho giúp cha nhé”. Đây không phải là một lệnh truyền,một lời bắt buộc, nhưng chỉ là một lời mời gọi.
Câu chuyện ngắn gọn,nhưng nói lên tất cả ý nghĩa của sứ điệp Tin Mừng muốn đề cập tới. Thái độ của hai người con quả thực trái ngược nhau. Cái nghịch lý ở đây là người con cả nói “không”, nhưng sau đó nghĩ lại và đi làm vườn nho theo lợi ích chung của gia đình. Người con cả đã biết hy sinh lợi ích riêng để sống quảng đại, cởi mở và đặt ích lợi chung của gia đình lên trên. Còn người con thứ nhanh nhảu đáp lại lời mời của cha “vâng, con sẽ đi”. Lời đáp trả hết sức mạnh mẽ và quả quyết ấy chỉ là một lời lừa dối cha. Người con thứ thưa “vâng” để nhằm mập mờ đánh lận con đen. Vâng, nhưng không làm, sẽ đi, nhưng không đi. Thái độ của người con thứ thật ích kỷ, anh ta không hề thương yêu cha chứ đừng nói đến yêu thương anh em trong gia đình và người ở ngoài xã hội. Người con cả xác định lập trường của mình, nói lên sự tự do của con người mình, nhưng cuối cùng người con cả đã biết vượt lên tất cả để chọn lựa điều có ích nhất. Hành động của người con cả là cả một sự chọn lựa giằng co, đòi hỏi sự quả cảm và tình thương. Chính vì có lòng tốt, con tim nhậy cảm, ánh mắt biết nói, nên người con cả đã làm theo ý cha của mình. Còn người con thứ chỉ sống trên đầu môi chóp lưỡi, giả bộ nói vâng,nhưng trong tận đáy lòng của anh đã hàm chứa lời từ khước rất quyết liệt: không. Người con cả đã biểu lộ thái độ của mình ra bằng hành động. Người con thứ nói nhưng không làm. Điều này rất phù hợp với lời Chúa Giêsu: “Không phải tất cả những ai kêu lạy Chúa!, lạy Chúa! mà được vào nước trời, nhưng chỉ những ai làm theo thánh ý Chúa”. Thánh ý Chúa phải được thể hiện qua thái độ vâng phục, tuân theo đường lối Chúa. Nói cách khác là chấp nhận Chúa Giêsu là cùng đích, là gia nghiệp của mình.
Chúa Giêsu không phân biệt bất cứ người nào dù họ là Do Thái, Hy Lạp, La Mã, dù họ là ở trong hay ngoại giáo. Chúa Giêsu khẳng định: Những người đĩ điếm và thu thuế sẽ vào nước trời trước các ngươi. Chúa Giêsu đã nói: “Không phải những người lành mạnh cần thầy thuốc, nhưng là những kẻ ốm đau”. Thiên Chúa của Đức Kitô là một Thiên Chúa nhân hậu hay thương xót, thứ tha, cảm thông, chia sẻ khác với quan niệm của những người biệt phái, luật sĩ, kỳ mục, thượng tế đã quan niệm Thiên Chúa như một vị quan tòa ác nghiệt, thích trừng phạt và áp đặt những mệnh lệnh độc đoán. Thái độ của bọn biệt phái, Pharisiêu, tư tế, thông luật là thái độ ích kỷ, giả hình, làm bộ. Họ thích khoe khoang, tự mãn về một thứ đạo bề ngoài mà họ nghĩ ra. Cái đạo được họ áp đặt bởi trăm ngàn lề luật, nhưng lề luật do họ nặn ra, bày đặt để bắt buộc người khác làm, thực hiện chứ họ thì hoàn toàn không làm gì hết như Chúa Giêsu đã từng nói: một ngón tay họ cũng không muốn lay thử. Thái độ của họ là thái độ tự kiêu, tự mãn, phô trương: ra đường ưa thích người khác tung hô, chào hỏi. Áo thênh thang, tua áo dài, thẻ kinh rổn rẻn… Đạo như thế là đạo bề ngoài, đạo nông cạn, hời hợt. Chúa Giêsu đã không dựa trên công đức của con người, dựa trên địa vị, chức vụ của con người để thưởng phạt, tất cả đều do tình thương nhưng không của Chúa. Chìa khóa dẫn vào nước trời là sự vâng phục Thiên Chúa và hoán cải, thống hối, ăn năn.
– Có hai tiếng người ta thường nói nhiều nhất, đó là “Vâng” và “Không”. Nhưng giá trị của chúng không tùy vào lúc chúng vừa được nói ra, mà tùy theo sau đó người ta có thực hiện hay không. Nói “vâng” mà không làm đâu có giá trị bằng nói “không” mà lại làm.
– Lời hứa không tạo nên uy tín cho con người; lời nói tốt không thể thay thế cho những việc làm tốt.
– Con người chúng ta có thể thay đổi từ “vâng” sang “không” và từ “không” sang “vâng”. Vì thế, cả hai người con trong dụ ngôn này đều có thể là bài học cho chúng ta: nếu chúng ta giống người con thứ nhất đã lỡ nói “không” với Chúa bấy lâu nay thì bây giờ chúng ta có thể nói lại “xin vâng”; còn nếu chúng ta giống người con thứ hai đã thưa “xin vâng” thì đừng để cho mình bị thay đổi mà sửa lại thành “không”.
– Trong lịch sử Giáo Hội, rất nhiều vị thánh lớn đã từng là những kẻ tội lỗi ban đầu đã nói “không” với Chúa nhưng về sau đã sửa đổi và thưa “xin vâng”. Thánh Augustinô là một thí dụ điển hình.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, Chúa luôn mời gọi chúng con làm vườn nho cho Chúa. Chúa muốn chúng con bước vào mối thân tình với Chúa trong những chia sẻ bổn phận của Cha như của con. Nhưng chúng con hoặc vì chưa cảm nghiệm được sự cao quý, hoặc chưa thể hiện được tinh thần trách nhiệm. Đã nhiều lần chúng con từ chối. Chúng con ngại nói lời xin vâng vì sợ thiệt thân. Xin cho chúng con luôn hiểu rằng lắng nghe lời của Chúa không chưa đủ, mà còn phải làm theo ý của Chúa. Amen.
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
“Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho!”
Nghe câu chuyện dụ ngôn này, tôi vẫn hay thắc mắc về ý nghĩa của việc ‘đi làm vườn nho’ vì đôi khi nó không rõ ràng lắm. Từ lâu tôi đã nghĩ thật đơn giản: sống lành thánh, làm các việc lành phước đức, thi hành các việc tồng đồ, truyền giáo… tức là ‘làm trong vườn nho’ của Chúa rồi còn gì! Sau này tôi mới phát hiện ra khái niệm này xem ra không ổn khi áp dụng vào trường hợp cụ thể của hai người con trong dụ ngôn: đứa vâng ngoan trước lời kêu mời của người cha nhưng đã không đi, còn đứa ngang bướng rốt cuộc rồi lại ‘đi làm vườn nho’. Qua câu chuyện này tôi thấy hình như Đức Giêsu đã suy nghĩ rất khác: Người không phân thính giả thành hai loại ‘người vâng’ hay ‘người không vâng’, nhưng ngay trong mỗi thính giả vốn đã sẵn biện chứng ‘vâng và không vâng’, rốt cuộc họ vẫn được đánh giá qua việc ‘đi làm vườn nho’ mà thôi. Nhưng làm vườn nho hệ tại ở điều gì, theo tâm tưởng của Đức Giêsu?
Thói thường thì ai cũng hiểu là lời nói không trọng hơn việc làm. Khi sử dụng cùng một khái niệm này Đức Giêsu đã cho thấy: đối với Nước Thiên Chúa, sống tội lỗi như ‘những người thu thuế và những cô gái điếm…’, hoặc sống lương thiện công chính như các thượng tế và kỳ mục trong dân (đối tượng chính của dụ ngôn) vẫn chỉ là những lời nói ngang bướng hay vâng ngoan. Người còn cho thấy rõ, điều quan trọng hơn chính là ‘thi hành ý muốn của người cha‘, đó là ‘đi làm vườn nho’, tức là tin và tiếp nhận sứ điệp kêu gọi sám hối mà Gio-an Tiền Hô đã khởi sự và Đức Giêsu tiếp tục kêu mời. Như thế Người chỉ cho thấy một điều làm đảo lộn tất cả: ‘đường công chính’ hệ tại ở việc thi hành sám hối hơn là ở việc có sống ngay lành hay không; “Gio-an đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy”. Sám hối đây chưa hẳn là đã sửa đổi được mình, cho dầu nỗ lực vươn tới là dấu chỉ cần thiết của chân thành sám hối, nhưng chính yếu hệ tại ở việc đón nhận ơn cứu độ Thiên Chúa ban cho. Sứ điệp của Gio-an “Hãy sám hối!”, tức là hãy cải tà qui chính trong nội dung luân lý, đã được chính Đức Giêsu cập nhật: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng cứu độ!” tức là tin vào Đức Ki-tô Giêsu mạc khải tình yêu cứu độ của Thiên Chúa. Sứ điệp này quả chất chứa một nội dung rất Tin Mừng! Trong số những người thu thuế và gái điếm tin vào Gio-an không phải tất cả đều đã đổi đời hoàn lương, nhưng tất cả họ đều đã khám phá ra và đón nhận lòng thương xót cứu độ của Thiên Chúa và tin vào Tin Mừng. Chính ở điểm này mà họ trở nên hơn hẳn các thượng tế và kỳ mục, tức các đấng bậc được coi là vị vọng trong dân, vì họ đã trở nên ‘công chính’ theo Tin Mừng; “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông”. Như thế rõ ràng là để vào được Nước Trời, điều kiện quan trọng hơn cả là, thông qua sám hối những lỗi lầm đã phạm, mỗi người nhận ra tình yêu cứu độ Thiên Chúa đang tuôn đổ trên mình, và khiêm tốn mở lòng đón nhận. Các Pha-ri-sêu đã không thể đạt tới được sự công chính ấy; “Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy.”
Nếu quả là như thế thì cuộc sống mỗi Ki-tô hữu chúng ta đều chất chứa cả hai phần: nói và làm. Riêng phần ‘nói’ nhiều lúc có thể là vâng ngoan, vì đã giữ đạo tử tế, đã làm các việc lành phước đức, đã có không ít các nỗ lực tu thân tích đức, sống bác ái, tông đồ phục vụ v.v…, nhưng đồng thời cũng có những hồi ngang ngược vì các yếu đuối lỗi lầm đã phạm. Nhưng cho dầu đã ‘nói’ thế nào đi nữa, thì lúc này đây, điều quan trọng hơn hết đối với mọi người vẫn phải là ‘đi làm vườn nho’, tức là khiêm tốn nghe lời kêu gọi sám hối của Gio-an để thật lòng tin vào Tin Mừng cứu độ mà Đức Ki-tô Giêsu đã mang lại. Có thể tôi ‘đi làm vườn nho’ vì tôi vốn ngoan hiền, và như thế là tuyệt vời vì tôi nói và tôi đi làm, nhưng cũng có lúc (và có lẽ trường hợp này còn nhiều hơn!) tôi đã từng nói ‘không đi’ nhưng rồi trong tác động của ân sủng tôi đã ‘… hối hận, nên lại đi’.
Đối với Tin Mừng trường hợp sau này có vẻ lại càng ý nghĩa hơn, vì sự ngang bướng rõ ràng dẫn tới hối hận, và trở thành động lực thúc đẩy ‘đi làm vườn nho’. Chính các yếu đuối lầm lỡ đã phạm có thể giúp ta dễ dàng hơn khám phá ra lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa, để rồi… ‘sám hối và tin vào Tin Mừng’. Và như thế vô hình chung đã biến ‘Con không đi!’ ngang bướng trở thành cho ta ‘tội hồng phúc’, như thánh Âu-tinh đã từng diễn đạt cảm nghiệm của riêng ngài. Đáng lý ra toàn bộ cuộc sống Ki-tô hữu ngay từ đầu đã phải trọn vẹn là ‘vâng con đi’ và ‘đi làm vườn nho’, bởi vì qua Bí Tích Thánh Tẩy lãnh nhận họ đã công khai nói lên điều đó. Tuy nhiên thực tế cuộc sống cho thấy ngay cả nơi các Ki-tô hữu vẫn luôn tồn tại một ‘biện chứng’ giữa ‘vâng và không’, đúng như nội dung của dụ ngôn ‘hai người con’. Và vì không một ai nằm ngoài qui luật biện chứng này nên sám hối và lãnh nhận Bí Tích Cáo Giải vẫn luôn phải chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống của tất cả mọi Ki-tô hữu trải qua các thời đại. Phải chăng thái độ ‘sám hối và tin vào Tin Mừng cứu độ’ mà cao điểm được diễn đạt nơi tòa giải tội, mới chính là việc ‘đi làm vườn nho’ của mỗi người chúng ta, và qua đó chúng ta được trở nên công chính?
Hơn ai hết, vì là Linh Mục nên tôi đã phải luôn nói ‘vâng’ với lời kêu mời sám hối và đón nhận lòng Chúa xót thương, thế nhưng hơn bất cứ ai khác, tôi phải biến lời ‘vâng’ này thành hành động: mau mắn lên đường ‘đi làm vườn nho’ Tin Mừng của Chúa. Chính tôi cũng cần sám hối không ngừng!
Lạy Cha từ nhân, cha không ngừng mời gọi con, cũng như mời gọi hết thảy mọi người, ‘đi làm vườn nho’ của Cha, vườn nho của đón nhận lòng từ ái và xót thương bao la. Rất có thể con đã tự cho mình là đứa con vâng ngoan vì ơn gọi tu sĩ và linh mục mà Cha đã ban cho con suốt trong những năm tháng dài đời con, nên đôi lúc con thấy không cần phải đi thêm nữa. Con đã từng đáp lại tiếng Cha mời gọi bằng câu thưa: “lạy Chúa, con đây”, thế nhưng vẫn luôn có nguy cơ ‘nhưng rồi lại không đi’. Xin cho con ít quan tâm hơn tới ‘nói’ và tập trung hơn vào ‘đi làm’ trong vườn nho của sám hối và đón nhận trọn vẹn lòng thương xót cứu độ của Cha. Amen.
(Suy niệm của Lm. Minh Anh)
“Tôi bảo thật các ông, những người thu thuế
và gái điếm sẽ vào nước Thiên Chúa trước các ông”.
Kính thưa Anh Chị em,
Một câu hỏi rất thú vị đặt ra cho chúng ta hôm nay là, Thiên Chúa tạo thành, Thiên Chúa cứu chuộc, Thiên Chúa yêu thương con người và mọi loài… vậy thì còn gì hơn nữa để Thiên Chúa phải làm, phải bận tâm? Tắt một lời, giờ này, Thiên Chúa đang làm gì? Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật hôm nay cho chúng ta câu trả lời đầy bất ngờ. Thiên Chúa đang thở dài, Người đang thở dài.
Thiên Chúa đang thở dài trước sự cứng lòng của Israel, dân Người. Êzêkiel trong bài đọc thứ nhất cho thấy đó là một dân bất tuân, cứng đầu cứng cổ đến nỗi Thiên Chúa phải hạ mình thanh minh, đôi co, cãi cối cãi chày với họ, “Các ngươi nói rằng, ‘Đường lối của Chúa không chính trực’; vậy hỡi nhà Israel, hãy nghe đây. Có phải đường lối của Ta không chính trực? Hay trái lại, đường lối của các ngươi không chính trực?”; Người đang thở dài.
Trước sự chia rẽ và phân hoá giữa cộng đoàn Philipphê, một giáo đoàn đang bị xáo trộn bởi những con người chỉ tìm hư danh, Thiên Chúa cũng đang thở dài; Người thở dài qua những khắc khoải của Thánh Phaolô, “Anh em hãy làm cho tôi được trọn niềm hân hoan”; “Chớ làm điều gì bởi ý cạnh tranh hay bởi tìm hư danh”.
Đặc biệt, với bài Tin Mừng, trước sự cố chấp của các thượng tế và kỳ lão là những lãnh đạo tôn giáo thời bấy giờ, Thiên Chúa đang thở dài, Người ngao ngán họ đến tận cổ. Chúa Giêsu không còn lời nào nữa để đánh thức lương tâm họ, những con người đầy kiêu căng, tự mãn; những con người tự cho mình là công chính. Sau khi kể cho họ dụ ngôn hai đứa con ngủng nghỉnh được cha sai đi làm vườn nho, Ngài buộc phải thốt lên một kết luận rất nặng, “Tôi bảo thật các ông, những người thu thuế và gái điếm sẽ vào nước Thiên Chúa trước các ông”. Qua đó, Ngài muốn nói với họ rằng, những người thu thuế và gái điếm đang trên đường nên thánh; còn họ, thì không. Ngài là Thiên Chúa xót thương, đó là một sự thật đơn giản mà những người tội lỗi đã khám phá được; họ đã không khám phá được điều đó.
Cả hai đứa con trong Tin Mừng hôm nay đều có những giây phút làm cho cha mình thở dài; đứa thì bảo không làm, rồi lại làm; đứa thì nói làm, rồi lại không làm. Qua bao đời, con người vẫn là thế; xưa cũng như nay, nó luôn khiến cho Thiên Chúa phải thở dài. Đang khi Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa thì khác, từ trời xuống thế, Ngài luôn luôn làm đẹp lòng Cha mọi đàng. Qua đó, Ngài chỉ cho những người con của đất cách sống với Chúa Cha như Đứa Con Của Trời; Ngài phận là phận của một vị Thiên Chúa, lại hoàn toàn hạ mình vâng phục Cha, hằng làm vui lòng Cha trong mọi sự. Đó là cái “hơn” của người ‘anh trưởng Giêsu giữa một đàn em đông đúc’ đã nêu gương. Vì thế, trong thư Philipphê hôm nay, Phaolô còn khuyên rằng, “Anh em hãy cảm nghĩ trong anh em điều đã có trong Đức Giêsu Kitô”; “Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá”.
Để Thiên Chúa thôi thở dài, chúng ta cũng hãy mặc lấy tâm tình của Chúa Giêsu; hãy bắt đầu hành trình nên thánh với việc nhìn nhận con người yếu hèn tội lỗi của mình trong khiêm nhượng, trong cởi mở và chân thật như những người thu thuế và gái điếm; sống trong tâm tình thống hối của đứa con vốn chối từ đi làm vườn nho cho Cha, nhưng sau đó, hối hận mà đi. Thánh Vịnh đáp ca hôm nay là một lời cầu nguyện của những hối nhân, cũng là lời cầu nguyện của mỗi người chúng ta, “Lạy Chúa, xin nhớ lại nghĩa nặng với ân sâu của Ngài”; “Lạy Chúa, xin hãy nhớ lòng thương xót của Ngài, lòng thương xót tự muôn đời vẫn có. Xin đừng nhớ lỗi lầm và tội ác khi con còn trẻ, nhưng hãy nhớ con theo lòng thương xót của Ngài, vì lòng nhân hậu của Ngài, thân lạy Chúa!”.
Chuyện kể rằng, ngày xưa, nữ hoàng Saba nghe biết sự khôn ngoan của Salomon; bà yết kiến vua, mang theo hai bó hoa, cốt để thử xem vua khôn ngoan làm sao; đó là một bó hoa thật và một bó hoa giả rất giống nhau. Salomon lặng lẽ đặt hai bó hoa lên bàn và đi mở những cánh cửa. Nữ hoàng Saba đầy kinh ngạc, khiếp sợ… vì ngay lúc ấy, không biết từ đâu, ong bướm sà xuống ngay trên những bông hoa thật vì những bông hoa giả có sắc mà không có hương, có hình hài mà không có sự sống.
Anh Chị em,
Chúng ta là hoa thật hay hoa giả; là hoa thật khi chúng ta nhìn nhận mình là tội nhân, chắc chắn lòng thương xót của Thiên Chúa cũng sẽ sà xuống trên chúng ta. Chúng ta sẽ không sợ khi phải hạ mình trước mặt Chúa để thừa nhận tội lỗi và thất bại của mình. Càng khiêm tốn chấp nhận con người xấu xa của mình, chúng ta càng có cơ may mở ra cánh cửa lòng thương xót Chúa; vì lẽ, khi không sẵn lòng nhìn ra tội lỗi mình, ân sủng của Thiên Chúa sẽ không thể đi vào và chữa lành chúng ta; và rồi, Thiên Chúa vẫn phải tiếp tục thở dài.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, con là một cánh hoa rất thật, một tội nhân, xin giũ lòng thương xót trên con; hôm nay, con thật lòng ăn năn, chỗi dậy, ‘đi làm vườn nho’ Chúa; Chúa sẽ không còn phải thở dài”, Amen.
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng)
Vào cuối thập niên 80 của thế kỷ trước, có một chính khách đã viết nhiều bài báo nói về “đổi mới tư duy”, Ông thường ký tên NVL. Nhiều người nghĩ đơn giãn đó là 3 chữ viết tắt tên của ông, (tên của ông nếu viết tắt thì đúng là 3 mẫu tự đó), như nhiều tác giả thường làm như vậy, nhưng khi được hỏi vì sao ông không ký tên trọn vẹn mà lại chỉ viết tắt, ông nói bút hiệu NVL của ông nó có nghĩa là “nói và làm”.
Đọc những bài báo đó, không biết chúng có thay đổi được gì thực tế xã hội không, nhưng chúng phản ánh một xã hội mà nhiều người đang có trách nhiệm trực tiếp trong guồng máy xây dựng xã hội thời điểm đó đang lâm cơn bệnh “nói nhiều làm ít”, thậm chí “nói mà không làm”, và còn hơn thế nữa, “nói một đàng làm một nẻo”.
“Nói nhiều làm ít” là thứ bệnh phóng đại, phô trương.
“Nói mà không làm” là thứ bệnh nói dốc, nói láo.
“Nói một đàng làm một nẻo” là thứ bệnh lường gạt, thủ đoạn, thâm độc.
Cách sống “nói và làm” kiểu đó sẽ đưa đến một xã hội phi đạo đức, vì đạo đức không thể cùng tồn tại với giả hình và bịp bợm.
Một con người chân chính bao giờ cũng coi trọng Việc làm hơn Lời nói. Bởi chỉ bằng những hành động thực tế mới chứng tỏ được mình suy nghĩ có đúng không, có ý chí thể hiện những suy nghĩ tâm huyết thành hành động thực tế hay không. Và chính điều đó cho biết anh là ai, là người có đáng tin cậy hay không. (…)
Vậy mà cho đến nay, căn bệnh khoa trương thích Nói nhiều Làm ít vẫn còn tồn tại trong xã hội chúng ta. Có lẽ căn bệnh này cũng là anh em chí cốt của căn bệnh thành tích và háo danh ở không ít các cấp, các ngành trong xã hội chúng ta. Điều này làm hạn chế tầm nhìn, không dám nhìn thẳng vào sự thật và nói đúng sự thật. Chỉ muốn đề cao thành tích mà không dám nhìn tới cội nguồn của khuyết điểm, càng không dám nhận trách nhiệm đúng mức về khuyết điểm, nhất là trách nhiệm cá nhân. Chính điều đó làm cho xã hội trì trệ, không bứt phá lên được trước những cơ hội mới cũng như thách thức mới. (Dân Trí).
Đối với xã hội trần gian còn như thế, huống cho là đối với Tôn Giáo. Không ai có thể là bậc chân tu tháng ngày miệt mài kinh kệ nhưng lại lạnh lùng trước những nỗi thống khổ của bá tánh.
Để “nói đúng” và ‘làm đúng”.
Để “Nói và làm” cho đúng, điều trước tiên, là cần phải nhận biết đâu là “đường công chính”. Không nhận biết đâu là “đường công chính”, thì không thể suy nghĩ và hành động đúng được.
Trong Tin Mừng hôm nay, những thượng tế và kỳ mục Do Thái chính là những người “sai lầm” từ cơ bản, họ không nhận ra đâu là “đường công chính”. Không có nền tảng sự thật thì dựa vào đâu để nói và làm hợp với lẽ phải được?
“Gioan đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy” (Mt.21,32).
Những thượng tế và kỳ mục không tin vào Gio-an, và từ đó, cũng không tin vào Chúa Giêsu, vì Gio-an làm chứng về Chúa Giêsu.
“Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian”. (Ga.1,29).
Và như vậy, tiếng kêu gọi sám hối của Gio-an không được những thượng tế và kỳ mục đón nhận, đơn giãn, vì họ không thấy họ sai lầm. Họ đang lầm đường lạc lối mà họ vẫn nhất quyết mình đang đi trên đường công chính.
“Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy.”(Ga.21,32).
Họ là những người mù mà vẫn tự cho mình là sáng mắt.
“Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: ‘chúng tôi thấy’, nên tôi các ông vẫn còn!”. (Ga.9,41).
“Sáng mắt”, đối với Tin Mừng, là “nhận biết” Chúa Giêsu, nhận ra “đường công chính”, và nhận ra Thiên Chúa đích thật.
“Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy.” (Ga 14,6)
Chính nhờ Chúa Giêsu, con người mới nhận ra trọn vẹn Tình Yêu Thiên Chúa. Nhận ra ý muốn Thiên Chúa.
Nhưng các thượng tế và kỳ mục đã “mù” đến mức loại trừ Chúa Giêsu. Họ giảng dạy cho dân về Giới Luật Thiên Chúa, nhưng lại loại trừ Thiên Chúa, vì đường lối Thiên Chúa không như lòng họ mong muốn!
Những kẻ đạo đức giả kia, ngôn sứ Isaia thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông rằng:
Dân này tôn kính Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta.
Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật của phàm nhân. (Mt.15,7-9).
Đúng theo “Thánh ý Chúa”.
Người Ki-tô chân chính luôn luôn tự hỏi: “Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?”. – “Ý muốn Thiên Chúa” chính là lời giảng dạy của Chúa Giêsu.
“Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các nghe hãy vâng nghe lời Người!” (Mt.17,5).
Vâng nghe Lời Chúa, là thực hành theo thánh ý Chúa, làm theo Lời Chúa dạy. Là thực thi Giới Luật Yêu Thương của Chúa Giêsu – Thiên Chúa làm người và ở cùng chúng ta.
Khi ấy, mẹ Chúa Giêsu và anh em Người đến và đứng ở ngoài sai người vào mời Chúa ra.
Bấy giờ có đám đông ngồi chung quanh Người và họ trình với Người rằng: “Kìa mẹ và anh em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy”.
Người trả lời rằng: “Ai là mẹ Ta? Ai là anh em Ta?”
Rồi đưa mắt nhìn những người ngồi vòng quanh, Người nói: “Đây là mẹ Ta và anh em Ta. Vì ai làm theo ý Thiên Chúa, thì người ấy là anh chị em và là mẹ Ta”. (Mc.3,31-35).
“Bản án” dành cho những người chỉ biết “nói mà không làm”.
Đại diện điển hình cho những người “nói mà không làm” trong Tin Mừng, đó là những người Pha-ri-sêu và cả những nhà thông luật. Điệp ngữ “khốn cho các ngươi… Khốn cho các ngươi…” được lập đi lập lại nhiều lần cho thấy mức độ quan trọng của lời khiển trách của Chúa Giêsu đối với những hạng người này.
Thật, nhóm Pha-ri-sêu các người, bên ngoài chén đĩa thì các ngươi rửa sạch, nhưng bên trong các người thì đầy những chuyện cướp bóc, gian tà…
Khốn cho các người, hỡi các người Pha-ri-sêu! Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, vân hương, và đủ thứ rau cỏ, mà xao lãng lẽ công bình và lòng yêu mến Thiên Chúa…
Khốn cho cả các ngươi nữa, hỡi các nhà thông luật! Các người chất trên vai kẻ khác những gánh nặng không thể gánh nổi, còn chính các người, thì dù một ngón tay cũng không động vào…
Khốn cho các người, hỡi những nhà thông luật! Các người đã cất dấu chìa khóa của sự hiểu biết: các người đã không vào, mà những kẻ muốn vào, các người lại ngăn cản… (Lc.11,37-52).
Đừng noi theo những hành vi của họ!
Trong cuộc sống, Xưa và Nay, Đạo và Đời, ta luôn gặp những người “Nói mà không làm”, nổi bật nhứt, là những người có chức việc cao, có quyền lực lớn!
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng và các môn đệ rằng: “Các Luật sĩ và các người biệt phái ngồi trên toà Môsê: vậy những gì họ nói với các ngươi, hãy làm và tuân giữ, nhưng đừng noi theo hành vi của họ, vì họ nói mà không làm. (Mt.23,1-12).
Năm 2000, có mùa lũ lớn, một thầy tu cấp cao đã lớn tiếng hô hào tín đồ của mình hãy chia sẻ cơm áo cho những người đang gặp bất hạnh. Khi mùa lũ qua đi, trong một bữa tiệc, có người hỏi: – “Thưa ngài, ngài có đi đến nơi nào trong vùng lũ lụt vừa qua không?”. Vị thầy tu khả kính cười đáp: – “Tôi không biết lội!”. Có thể đây chỉ là một câu nói đùa, nhưng cũng… rất có ý nghĩa!
Thật ra, trong cuộc đời có biết bao người “thành đạt” mà không cần làm những gì mình nói, nhờ biết ứng xử “khôn ngoan”, thí dụ mấy quan nịnh thần, khéo uốn ba tấc lưỡi thôi, thì được thăng quan tiến chức, ngồi không hưởng bát vàng, xoa tay nhìn đời lòng ung dung tự tại: – “Âu cũng là số phận!”.
Thế nên, núp ẩn đằng sau những ngôn ngữ từ thiện, bác ái, yêu thương, rất nhiều khi có những việc làm hoàn toàn có mục đích ngược lại!
Trong Cổ Học Tinh Hoa, có câu chuyện “Lấy của ban ngày” như sau:
Nước Tấn có kẻ hiếu lợi, một hôm ra chợ gặp cái gì cũng lấy. Anh ta nói rằng: “Cái này tôi ăn được, cái này tôi mặc được, cái này tôi tiêu được, cái này tôi dùng được “. Lấy rồi đem đi. Người ta theo đòi tiền. Anh ta nói:
“Lửa tham nó bốc lên mờ cả hai con mắt. Bao nhiêu hàng hóa trong chợ tôi cứ tưởng của tôi cả, không còn trông thấy gì nữa. Thôi, các ngươi cứ cho tôi, sau này tôi có giàu, tôi sẽ đem tiền trả lại”.
Người coi chợ thấy càn dở, đánh cho mấy roi, bắt của ai phải trả lại cho người ấy. Cả chợ cười ồ. Anh ta mắng:
“Thế gian còn nhiều kẻ hiếu lợi hơn ta, thường dụng thiên phương, bách kế ngấm ngầm lấy của người. Ta đây tuy thế, song lấy giữa ban ngày so với những kẻ ấy thì lại chẳng hơn ư? Các ngươi cười ta là các ngươi chưa nghĩ kỹ!” (Long Môn Tử).
Ngày 15 tháng 9 năm 2011, nhà xuất bản Vatican, Giuseppe Costa đã tổ chức triển lãm 600 tác phẩm của Đức Hồng Y Joseph Ratzinger, nay là Đức Thánh Cha Bê-nê-đic-tô XVI.
Cuộc triển lãm được trình bầy cho Đức Thánh Cha tại Castel Gandolfo, nhưng cũng đã được mở ra cho các du khách tại Vatican và ngày 24 tháng 9 tại trụ sở của nhà xuất bản Herder tại Freiburg.
Trong dịp này, Đức Thánh Cha đã nói: “Tôi rất cảm động và khá ngạc nhiên được thấy số lượng các sách vở tôi đã viết. Hy vọng của tôi là những lời tôi viết trong đó không chỉ đến và đi, nhưng giúp cho các độc giả nam và nữ tìm được hướng đi của họ.”
“Nói và làm” vì Đạo Hiếu.
Đạo hiếu dạy ta phải biết vâng lời cha mẹ. Một đứa con hiếu thảo luôn là đứa con biết vâng lời cha mẹ, luôn muốn làm cha mẹ vui lòng.
Thiên Chúa là Cha, và mọi người là con cái Thiên Chúa và là anh em với nhau. Đức Tin của chúng ta gói trọn trong Giới Luật Yêu Thương “Kính Chúa yêu người”. Tất cả những gì chúng ta nói và tất cả những gì chúng ta làm đều nhắm đến mục đích làm “sáng danh Chúa và phục vụ anh em”.
Đạt được điều đó, chúng ta sẽ là những đứa con ngoan trong Gia Đình Thiên Chúa.
Một đứa con ngoan luôn tuân theo “Giới Luật Thiên Chúa”, “Nói và Làm” những gì Thiên Chúa đã dạy.
“Không phải những ai nói rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào Nước Trời, nhưng là những kẻ làm theo ý Cha Ta trên trời” (Mt 7,21).
Lạy Chúa,
Lời Chúa dạy quá cao siêu,
Con nói thì nhiều, làm được bao nhiêu!
Xin tha thứ những điều con thiếu,
Đỡ nâng con, lạy Chúa Tình Yêu. Amen.
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
SÁM HỐI LÀ KHỞI ĐIỂM
Nói và làm đó là hai thái độ khác nhau. Có người nói mà không làm. Có người không nói nhưng lại làm. Đó chính là hai thái độ mà Chúa đề cập đến trong bài dụ ngôn hôm nay. Hạng người nói mà không làm đó là những người biệt phái và luật sĩ. Họ tự cho là mình đạo đức, nhưng khi Chúa Giêsu rao giảng, họ không những không tin mà còn phê phán chỉ trích những người tin Chúa, chỉ trích chính Chúa đã đón tiếp người tội lỗi. Hạng người không nói mà làm đó là những người thu thuế và những người tội lỗi. Tuy sống tội lỗi, nhưng khi nghe Chúa rao giảng, họ đã ăn năn sám hối và tin vào Chúa. Qua dụ ngôn này Chúa muốn dạy ta những bài học sau.
Bài học thứ nhất: Việc làm trọng hơn lời nói. Trong đời sống, chúng ta gặp không ít những người nói hay, nói nhiều, nhưng làm chẳng bao nhiêu. Tục ngữ Việt Nam có câu “Mười voi không được bát nước sáo” là thế. Nhưng trái lại có những người không nói giỏi, có khi không nói gì cả, nhưng lại làm rất nhiều. Nhất thời ta có thể thích những người nói hay. Nhưng sống càng lâu, ta càng mến những người nói ít làm nhiều. Trong đời sống thiêng liêng cũng thế. Chúa yêu chuộng những người làm việc hơn là những người chỉ biết nói suông. Có lần Chúa đã vạch rõ những giả dối này: “Không phải những ai nói rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào Nước Trời, nhưng là những kẻ làm theo ý Cha Ta trên trời” (Mt 7,21). Đức tin phải biểu lộ bằng việc làm mới là đức tin sống động. Như thánh Giacôbê dạy: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17). Tình yêu cũng phải có việc làm. Việc làm minh chứng tình yêu đích thực. Tin yêu Chúa phải được biểu lộ bằng việc làm.
Bài học thứ hai: Con người có thể thay đổi. Con người còn sống ở trần gian là còn thay đổi. Đó là một điều ta phải cảnh giác. Biết đâu ta đang tốt bỗng trở nên xấu. Cũng như các biệt phái và luật sĩ tự hào mình tốt, nhưng khi Chúa Giêsu đến, họ đã trở nên xấu vì không tin vào Chúa, không hoán cải đời sống. Con người có thể thay đổi. Đó là điều làm cho chúng ta hy vọng. Vì nếu ta tội lỗi yếu hèn, ta vẫn có cơ hội ăn năn trở lại. Ta không bị kết án trong tội lỗi của ta. Chúa còn cho ta có thời giờ trở lại với Chúa. Miễn là ta nhận biết mình và quyết tâm đổi mới cuộc đời.
Bài học thứ ba: Sám hối là việc cần thiết của mọi người. Đã là người ai cũng có sai lầm. Vì con người yếu đuối bất toàn. Chúa không đòi ta phải hoàn hảo không bao giờ sai lỗi. Nhưng Chúa đòi ta mỗi khi sai lỗi phải biết sám hối ăn năn. Sám hối thật cần thiết vì có sám hối ta mới được Chúa thứ tha. Chúa yêu thương và sẵn sàng tha thứ cho những tâm hồn sám hối như lời Thánh Vịnh: “Một tấm lòng tan nát dày vò, Chúa sẽ chẳng khinh chê” (Tv 50). Ta hãy xem Chúa đã tha thứ cho bà Mađalena. Nhất là Chúa đã tha thứ cho người trộm lành, để thấy Chúa nhân từ thương xót biết bao. Nhưng Chúa lại chê ghét những tâm hồn kiêu căng cứng cỏi không chịu ăn năn sám hối. Trong Phúc Âm ta thấy Chúa chỉ mắng nhiếc những người tự xưng mình đạo đức nên kiêu căng khinh miệt người khác và không nghe lời Chúa. Nhưng Chúa luôn nhân từ, khoan dung, tha thứ cho những tội lỗi thật lòng ăn năn. Sám hối thật cần thiết vì tất cả chúng ta ai cũng có lầm lỗi trước mặt Chúa, cần được Chúa khoan hồng thứ tha. Sám hối thật cần thiết vì đó là khởi điểm để nên tốt, nên thánh thiện. Có sám hối ta mới biết từ bỏ nếp sống cũ. Có sám hối ta mới bắt đầu một nếp sống mới đẹp lòng Chúa.
Như thế, ta đừng chỉ nói suông mà không làm, nhưng hãy biết thực hành điều Chúa dạy. Ta đừng tự hào vì mình tốt lành mà phê bình chỉ trích người khác. Hãy tự xét mình để thấy mình tội lỗi. Và khi biết mình tội lỗi, hãy ăn năn sám hối ngay. Có sám hối ta sẽ được Chúa tha thứ. Có sám hối sẽ được anh chị em yêu thương. Nhất là có sám hối ta mới khởi sự tiến lên trên con đường thánh thiện.
Lạy Chúa xin tha thứ tội con đã phạm đến Chúa và đến anh em. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Nói và làm, việc nào cần hơn và tốt hơn?
2) Có nhiều chương trình tốt đẹp nhưng không thực hiện, có ích gì không?
3) Biết nhận lỗi, xin lỗi và sửa lỗi. Điều này đáng trọng hay đáng chê trách?
(Suy niệm của Lm. Gioan Phan Tiến Dũng)
Nếu được lựa chọn để sống hay thiên về thì ACE chọn cách sống, đường lối “bảo thủ hay cấp tiến”? Và tại sao mình lại thích và lựa chọn để sống và hành động như vậy? Không những có trong xã hội mà thôi, ngay cả trong Giáo hội, mỗi khi có vị Giáo hoàng mới, Giám mục mới hay Cha Quản xứ mới, người ta đều có nghi vấn này: “Vị này sẽ là người có đường hướng bảo thủ hay cấp tiến đây?” Còn đối với Chúa Giêsu, theo ACE, Ngài đã chọn cách sống, đường lối nào “bảo thủ hay cấp tiến”? Vậy thì, cách sống, đường lối của chúng ta hiện nay có phù hợp với cách sống, đường lối của Chúa hay không? Qua Lời Chúa hôm nay chúng ta sẽ nhận ra rằng với Thiên Chúa, qua cách sống và đường lối của Chúa Giêsu sẽ không bao giờ là bảo thủ hay cấp tiến gì cả mà hoàn toàn là đường lối chính trực, công minh, đầy lòng thương xót, tha thứ và ban ơn.
Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã chỉ dạy một cách rất mạnh mẽ cho các thượng tế và các kỳ lão “Tôi bảo thật các ông, những người thu thuế và gái điếm sẽ vào nước Thiên Chúa trước các ông. Vì Gioan đã đến với các ông trong đường công chính, và các ông không tin ngài; nhưng những người thu thuế và gái điếm đã tin ngài.” Có phải khi tuyên bố như vậy, Chúa Giêsu đang muốn làm một cuộc “cách mạng” sao? Hay Chúa có cấp tiến trong cung cách đối xử và hành động của Ngài không? Thật vậy, khi nghe những lời tuyên bố, chỉ dạy và hành động của Chúa Giêsu, nhiều người Do Thái và những người không tin vào Chúa Giêsu là con Thiên Chúa đã bị sốc, vì họ cho rằng Chúa Giêsu hành rao giảng và động như vậy là phá bỏ kỷ cương lề luật của tiền nhân, vì Chúa giao du với phường tội lỗi. Thực ra, con đường và sứ vụ của Chúa Giêsu là Đấng được sai đến với những con người tội lỗi, những người bị bỏ rơi. Cho dù tình trạng của chúng ta trước đây như thế nào, miễn sao ai tin vào Chúa, tin vào những người mà Chúa sai đến nhân danh Ngài thì được Thiên Chúa yêu thương đón nhận và cho gia nhập vào mối tương quan thân mật với Chúa. “Mẹ và anh em Ta là những người nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành”. Đối với Chúa Giêsu, ai yêu nhiều, thì được tha nhiều, ai tin mà ăn năn hối lỗi quay trở về với lòng khiêm tốn thì được ơn cứu độ. Đây chính là thái độ mà Chúa nêu lên trong ví dụ về hai người con khi họ đáp trả lại lời mời gọi của người cha: “Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho cho cha”. Đứa con đầu, mặc dầu ban đầu hỗn xược, bất hiếu, nhưng sau nó đã ăn năn hối lỗi về thái độ và cung cách sống của mình mà đi; vì hối hận, vì thương cha mà đi làm theo lời mời của cha. Còn đứa thứ hai, ban đầu khi nhận lời mời thì vui vẻ đáp lại rất mau lẹ, nhưng lại không chịu đi làm. Có lẽ vì anh ta sống không thật lòng, hay vì anh ta không tin vào người cha, hay chẳng có mối tương quan tốt với người cha và hoàn toàn không biết ý muốn tốt lành của người cha dành cho nó.
Còn với chúng ta, hôm nay, khi Chúa mời gọi, chúng ta sẽ đáp trả như thế nào? đi hay không? Mỗi khi chúng ta không biết thánh ý của Chúa, hay biết mà không muốn đáp trả thì chúng ta phần nào cũng giống như dân chúng thời tiên tri Êdêkiel, họ than rằng: “Ðường lối của Chúa không chính trực” nên họ cứ làm theo những ý riêng mình là gian ác, bất chính và phạm tội. Thật vậy, chỉ có con người mới không sống chính trực, công minh. Chính vì vậy, mà tiên tri đã mời gọi: hãy tin vào Chúa, hãy quyết tâm dứt bỏ những cung cách gian ác, bất chính để được Chúa yêu thương tha thứ và cứu sống.
Yêu thương, tha thứ và cứu sống chính là căn tính của Thiên Chúa. Thánh vịnh 24 giúp cho chúng ta ý thức hơn khi mời gọi chúng ta đến với Chúa trong khiêm tốn và cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin hãy nhớ lòng thương xót của Chúa.” “Lạy Chúa, xin hãy nhớ lòng thương xót của Ngài, lòng thương xót tự muôn đời vẫn có. Xin đừng nhớ lỗi lầm khi con còn trẻ và tội ác, nhưng hãy nhớ con theo lòng thương xót của Ngài, vì lòng nhân hậu của Ngài.” Chỉ có con người chúng ta mới hẹp hòi ích kỷ và tệ hơn là sống báo thù báo oán, khó để tha thứ cho nhau. Nhưng Thiên Chúa vẫn một mực trung tín và thứ tha.
Chính vì lẽ đó mà Phaolô trong bài đọc hai mời gọi chúng ta hãy cảm nếm chính tình thương và mối tương quan giữa Thiên Chúa với chúng ta qua Đức Giêsu Kitô. Vì yêu thương, mà Chúa Giêsu đã tự hạ và chết thay cho chúng ta. Đây là niềm an ủi, khích lệ lớn lao nhất dành cho những ai tin và chấp nhận chính tình thương, sự hy sinh tha thứ của Chúa dành cho mình. Do đó, cung cách sống của chúng ta không phải là sống theo cung cách hay đường lối bảo thủ hoặc cấp tiến, nhưng phải là cách sống đồng tâm nhất trí với nhau trong khiêm tốn, bác ái để tìm kiếm ý Chúa và thực thi, chứ không phải vì tìm hư danh mà sống cạnh tranh bất chấp ngay cả với những mưu đồ gian ác.
Lạy Chúa, hôm nay chính Chúa cũng đang kêu mời chúng con là những con người yếu đuối tội lỗi, và Chúa đang tạo cho chúng con một cơ hội tuyệt vời để đáp trả qua cách sống, hành động bác ái và vị tha dành cho Chúa qua tha nhân. Xin Chúa ban ơn giúp sức để chúng ta luôn tin nhận chính ơn thánh này, nhờ đó mà có thể sống theo như lòng Chúa mong muốn. Amen.
Anh chị em thân mến,
Thánh Augustinô, sinh năm 534, tại Targas, xứ Algêrie, Phi Châu, trong một gia đình giàu có, nhưng thiếu đạo đức. Mẹ là bà thánh Mônica, một gương mẫu các bà mẹ công giáo về việc sống đạo và việc giáo dục con cái bằng đời sống và bằng cầu nguyện nữa… Từ nhỏ, Augustinô có tư chất thông minh khác người, đã được theo học khoa hùng biện tại Carthage; nhưng tại đây ngài đã lây nhiễm các thói hư tật xấu ở đời. Lời dạy dổ của Mẹ, giáo lý đã học đuợc từ nhỏ, Augustinô đã bỏ ngoài tai. Augustinô hầu như đã mất đức tin, ngài còn theo lạc thuyết Manê nữa. Ngài hầu như đã trả lời không khi được Chúa gọi vào làm vuờn nho cho Chúa. Vì sống trong tội lỗi, tâm hồn của ngài luôn bị dày vò, không hề được sự bình an… Sau đó ngài được mời sang Rôma để làm giáo sư khoa hùng biện. Đây cũng là ý Chúa, nhờ đó ngài đuợc giao tiếp thường xuyên với thánh Giám mục Ambrosiô, và cũng từ đây ngài đã trở lại với niềm tin và đã chấp nhận đi vào làm trong vườn nho của Chúa, mặc dù một khoảng thời gian dài ngài đã từ chối lời mời gọi của Chúa. Kính mời anh chị em cùng suy niệm…
a/. Ta thử nhìn tới ba hạng người đã đáp lại lời Chúa gọi vào làm vườn cho Thiên Chúa:
* Trả lời không với Thiên Chúa, nhưng sau đó lại đã đi làm: Thánh Phaolô chính là hình ảnh và là một tấm gương sáng về điễm này. Khi chưa biết Chúa và chưa tin vào Chúa, bằng mọi cách, Phaolô đã chống lại Chúa và những ai tin nơi Chúa; nhưng trên đuờng đi Damas, Phaolô đã gặp Chúa… Phaolô đã ăn năn và được biến đổi tận gốc rễ. Từ nay cho đến chết, Phaolô luôn luôn thưa vâng với Thiên Chúa… Câu chuyện của thánh Augustinô mà ta vừa nghe ở trên, cũng là tấm gương về hạng người này…
* “Thưa vâng” với Thiên Chúa, nhưng sau đó lại không đi:
Các luật sĩ, pharisêu và các kỳ lão Do thái, họ có thái độ giống như người con thứ hai. Họ tôn trọng danh giá bề ngoài. Họ nghe lời Gioan Tẩy giả kêu gọi ăn năn sám hối. Họ thấy người thu thuế, gái điếm, tội lỗi ăn năn hối cải; nhưng họ lại tự phụ vì cho mình công chính hơn mấy hạng nguời trên, nên không cần ăn năn sám hối; dù bề ngoài họ rất tôn trọng lời giảng của Gioan, tôn kính Thiên Chúa…
* Chúa Giêsu luôn lúc nào cũng “thưa vâng” với Thiên Chúa: Chúa Giêsu trong cuộc sống trần thế, từ khi sinh ra cho đến cuối đời, trong lời nói cũng như trong hành động, lúc nào cũng thưa vâng với Chúa Cha. Người chính là khuôn mẫu hoàn hảo của nhân loại,vì đã luôn lúc nào cũng dâng hiến tất cả vinh quang và hạnh phúc cho Thiên Chúa. Vì vậy thánh Phaolô đã nói: (Phil 2, 6-8): “Đức Giêsu vốn là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như trần thế. Người lại còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, và chết trên cây thập giá…”
b/. Qua câu chuyện này Chúa muốn dạy chúng ta điều gì?
Bài Tin mừng hôm nay, Chúa xem ra chỉ trích gay gắt, trước hết là nhóm các thượng tế, kỳ lão, pharisêu; họ tuởng mình là công chính “bằng việc nói mà không làm”. Ngày hôm nay, Chúa cũng muốn nói thẳng với những ai, nói một đàng mà làm một nẻo, nếu không muốn nói là trái ngược… Còn trong đạo thì sao? Thực ra con số người thực hiện Lời Chúa còn khá khiêm tốn. Nhiều lần Chúa muốn nói thẳng với ta: “không phải cứ thưa lạy Chúa, lạy Chúa là được cứu rổi, mà chỉ những ai thi hành Ý Chúa Cha mà thôi…” Vậy người tuân phục Thiên Chúa chính là người thi hành chứ không nói suông. Ở đây Chúa nhấn mạnh việc làm, không phải là lời nói…
Câu chuyện: Anh Rmah Nguc, là người làng Plei-ia-ba, huyện Đức Cơ, bộ tộc Jrai, sinh năm 1966, được rửa tội từ nhỏ. Cha anh cũng là công giáo gốc, từng là người đi giúp đồng đạo thời Đức Cha Kim Paul Seizt… Sau năm 1975, tôn giáo và ngay cả những nét văn hóa như tiếng coòng chiêng, cũng bị kết tội là mê tín. Cha anh vì quá sợ hải nên… bỏ chuyện đạo qua một bên. Rmah Nguc lớn lên và hòa nhập nhanh vào đời sống xã hội. Các người lãnh đạo chú ý đến vì sự thông minh và hoạt bát của anh. Học xong lớp 9, R. Nguc được đưa đi học sơ cấp sư phạm để về làm hiệu truởng trường tiểu học của cả huyện. Chỉ mới 20 tuổi, anh đã được kết nạp đảng. Một vị lãnh đạo cho biết: “Thằng R. Nguc đã được đưa vào kế hoạch đào tạo để làm bí thư đảng ủy xã”. Là hiệu trưởng, anh đã sống hết mình cho học sinh. Năm 1990, cha anh mất, anh quyết tâm trở lại với Chúa. Dần dần cấp lãnh đạo biết anh là người công giáo, họ gọi anh lên cảnh cáo, đe dọa đủ cách, nhưng anh trả lời: “tôi theo đạo từ nhỏ, nên tôi phải giữ.” Thế là tự nhiên anh bị cho nghỉ việc, mất cả lương bổng, kể cả thâm niên…Anh bị người ta đuổi việc. Lúc đầu dĩ nhiên anh phải buồn…nhưng nhờ vậy, anh có nhiều giờ học giáo lý, đọc Thánh kinh… Ngày hôm nay (2002), nhà anh là là nơi giáo dân Jrai lui tới cầu nguyện. Có những buổi học giáo lý dành cho các ami (các bà mẹ), các ama (ông bố) và Lắc-ai (ca đoàn)…Rõ ràng anh Rmah Nguc, không vâng giữ lời Chúa chỉ bằng môi miệng; anh còn đem nó ra thực hành nữa…
c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Thiên Chúa yêu thương và kêu gọi tất cả mọi người tham gia vào công việc của Chúa muốn thực hiện nơi trần gian (gọi là làm việc trong vườn nho của Chúa), là đem ơn cứu độ, đem lại hạnh phúc và sự sống đến cho mọi người. Ai đón nhận và tích cực thi hành chứ không chỉ nói suông mới là người tuân phục Thiên Chúa và thuộc về Chúa, là con cái Chúa. Ta là hạng người nào đây? Ta có tích cực cộng tác với Chúa, với Hội thánh để lo làm việc trong vườn nho Chúa, hay chỉ nói suông mà thôi?
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
NGƯỜI BIẾT HOÁN CẢI CÓ CHỖ TRONG NƯỚC THIÊN CHÚA
Chủ đề nổi bật hơn cả của Chúa nhật XXVI thường niên A là sự thống hối ăn năn của con người tội lỗi gặp được lòng nhân lành của Thiên Chúa tình thương. Quả thật, lịch sử cứu độ của Thiên Chúa đối với con người là một chuỗi dài lịch sử tình thương, tội thì Chúa phạt, hoán cải thì Chúa cứu. Đó là lý do tại sao Thiên Chúa phán: “Ta muốn lòng nhân từ chứ không cần hy lễ” (Os 6, 6; Mt 9, 13). “Ta không muốn kẻ vô đạo chết, mà (muốn) kẻ vô đạo bỏ đường nó theo mà trở lại và được sống” (Ez 33,11). Cánh cửa trái tim nhân từ của Thiên Chúa luôn luôn rộng mở cho hết những ai chân thành hướng về Thiên Chúa với cả tấm lòng thành, và Ngài sẽ đón nhận họ với niềm vui khôn tả là cả thiên đàng sẽ vui mừng (x. Lc 15,10).
Chỉ có Thiên Chúa không qui kết tội lỗi mà còn thứ tha. Ngài là “Cha đầy tình thương xót” (2 Cr 1,3), là Thiên Chúa nhân lành, đầy lòng từ bi, và là Thiên Chúa mọi nguồn an ủi, luôn kiên nhẫn chờ đợi kẻ có tội thống hối ăn năn, luôn muốn điều tốt cho con cái. Hoán cải thực sự là dứt khoát từ bỏ tội lỗi, thống hối vì những tội đã qua và xin Chúa thứ tha. Thiên Chúa thương xót sẵn sàng tha thứ và tuôn đổ Thánh Thần tẩy xóa mọi tội lỗi quá khứ của hối nhân.
Trách nhiệm của con người
Thiên Chúa muốn chúng ta phải chịu trách nhiệm về những việc chúng ta làm, trả lời về những kết quả hành động của chúng ta. Nên chúng ta không được hành động nửa vời: vì nếu nửa vời chúng ta sẽ chết. Tiên tri Ezekiel cảnh báo: “Nếu kẻ gian ác bỏ đàng gian ác nó đã đi, và thực thi công bình chính trực, nó sẽ được sống. Nếu nó suy nghĩ và từ bỏ mọi tội ác nó đã phạm, nó sẽ sống chớ không phải chết” (Ed 18, 28).
Chúa Giêsu cảnh báo chúng ta rằng, nói “vâng”, “tôi biết”, “tôi thực hành giáo lý” mà thôi, chưa đủ, phải hành động, phải lên đường. Chính người con trai đã nói “không” với cha mình, nhưng nó hối cải và đi làm vườn nho, anh ta đã làm theo ý người cha, như thế, anh bước vào giao ước tình thương của cha anh, anh đã yêu mến cha trong hành động và chân lý.
Chúa Giêsu lên án các thượng tế và kỳ lão là những người biết rõ Kinh Torah, Lời Thiên Chúa, nhưng chỉ biết thôi không làm cho họ nên công chính. Chúa long trọng tuyên bố: “Tôi bảo thật các ông, những người thu thuế và gái điếm sẽ vào nước Thiên Chúa trước các ông” (Mt 21, 31). Các thượng tế và kỳ lão hiểu rất rõ sứ điệp trên, nên họ sẽ không dung tha cho Chúa Giêsu: ít ngày sau, chính họ là những kẻ sẽ lên án tử cho Người. Đúng, sự đồi bại của kẻ công chính sẽ dẫn đến cái chết, thậm chí dẫn đến cái chết của những người vô tội, như Hêrôđê dẫn đến cái chết của các thánh Anh Hài!
Những cô gái điếm sẽ vào Nước Thiên Chúa trước
Lời tuyên bố trên của Chúa Giêsu như một ánh hào quang của Tin Mừng được xây dựng chung quanh hạng nguời đĩ điếm, lý tưởng hoá họ và đối nghịch họ với những kẻ được gọi là công chính là các thượng tế và các kỳ lão, đã gây sốc cho nhiều người. Không có lời nói nào của Chúa Giêsu bị lạm dụng cho bằng lời nói: “Những cô gái điếm sẽ vào nước Thiên Chúa trước” (Mt 21, 31).. Khi lý tưởng hoá hạng đĩ điếm, người ta cũng lý tưởng hóa luôn cả hạng người thu thuế, luôn đi kèm hạng đi điếm, là những kẻ cho vay nặng lãi, một loại luôn đồng hành loại gái điếm trong Tin Mừng đã gây lên một sự hiểu lầm đáng sợ, khi người ta không nhận thức đủ.
Những người thu thuế, là những nhân viên các cơ quan thâu thuế Roma, tham dự trong những hành xử bất công của những cơ quan này. Nếu Chúa Giêsu liên kết những gái điếm và những người thu thuế với nhau, Người làm vậy không phải là không có lý do; vì cả hai đều coi tiền bạc là sự quan trọng nhất trong cuộc sống.
Nếu Chúa Giêsu tôn trọng các cô gái điếm và người thu thuế hay kẻ tội lỗi, không phải do kiểu sống của họ, nhưng vì khả năng thay đổi và phục thiện… như Maria Madalêna, kẻ đã trở lại và đã theo Chúa Giêsu trên tất cả con đường thánh giá, là một gương mẫu cho sự này (đặt giả thiết bà là một cô gái điếm), Giakêu (x. Lc 9, 1-10), người phụ nữ Samaria (Ga 4, 1-42), người phụ nữ ngoại tình (x. Ga 8, 1-11) và người con trai hoang đàng (x. Lc 15, 11 và 32).
Chúa Giêsu nói rõ lý do sẽ vào nước Thiên Chúa trước: “Vì Gioan đã đến với các ông trong đường công chính, và các ông không tin ngài; nhưng những người thu thuế và gái điếm đã tin ngài. Còn các ông, sau khi xem thấy điều đó, các ông cũng không hối hận mà tin ngài” (Mt 21, 32).
Hoán cải không bao giờ là muộn.
Chúng ta được yêu cầu từ bỏ thái độ để ý đến mình hơn là tha nhân, thậm trí hơn cả Thiên Chúa nữa. Vì Không phải mọi kẻ nói với Ta: “Lạy Chúa, lạy Chúa”, là sẽ vào được Nước Trời, nhưng là kẻ thi hành ý Cha Ta, Đấng ngự trên trời” (Mt 7, 21).
Những lời tuyên bố trên của Chúa Giêsu giúp chúng ta hiểu rõ hơn về dụ ngôn hai người con trai được cha sai đi làm vườn nho (x.Mt 21, 32). Qua đó, Chúa mở mắt những người Do Thái để họ hiểu rằng khi khép kín lòng mình trong sự bất chính và sai lầm của chính họ là một sự từ chối Nước Trời.
Họ nói “vâng” với Thiên Chúa. Nhưng trong thực tế, họ lại ngoan cố khước từ lời Thiên Chúa, gạt bỏ Nước Trời. Rõ ràng là nói “vâng” nhưng lại không thi hành. Và như một mẫu gưỡng về sự hoán cải, Chúa Giêsu đặt ra những tình huống trái nghịch: những người thu thuế và gái điếm. Ban đầu, họ nói “không” với Nước Trời và Giao Ước vì họ chưa nhận ra các yêu cầu phải thi hành để được vào Nước Trời, nhưng họ có đủ khả năng để thích ứng với dấu hiệu Nước Thiên Chúa. Sau đó, trên hành trình tìm kiếm Nước Trời. Dần dần, họ học cách nói “có”, nên Chúa Giêsu tuyên bố: “Bởi đó, tôi nói cho các ông hay: Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi không cho các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi” (Mt 21, 43).
Phần chúng ta, chúng ta cũng phải học cách nói “có”… “Con không đi’. Nhưng sau hối hận và đi làm” (Mt 21, 29).
34.Tôi khám phá ra 3 điều khác lạ
(Suy niệm của Lm. Trần Nguyên)
1. Bài Tin mừng hôm nay không khởi đầu như thường lệ bằng câu: “Khi ấy Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng”, nhưng: “Khi ấy Đức Giêsu nói với các Thượng tế và các trưởng lão trong dân rằng”.
Vào thời Đức Giêsu, các Thượng tế và trưởng lão đại diện cho toàn thể giới lãnh đạo tôn giáo và xã hội Do Thái. Họ cho mình là rường cột của niềm tin chính thống và nền tảng của xã hội. Đức Giêsu đồng hoá họ với người con trưởng: Nói mà không làm.
2. Đức Giêsu đảo lộn trật tự tôn giáo và xã hội. Ngài đồng hoá những người thâu thuế và các cô gái điếm với người con thứ hai: Ban đầu từ chối, nhưng sau đó hối hận và làm theo ý cha mình.
Bài Tin mừng không thuật lại phản ứng của những người đối thoại với Đức Giêsu. Nhưng sự so sánh của Ngài phải nói là rất táo bạo, phải được gọi là một cuộc cách mạng, một sự đảo lộn bậc thang giá trị: Hạ giới lãnh đạo, hạ những người chốp bu xuống và nâng những người tội lỗi, nâng hạng người bị xã hội khinh thường lên.
3. Người Cha là chủ vườn nho. Ông không sai những đầy tớ, những người làm công lao động trong vườn nho của mình, nhưng sai chính những người con.
Ba điều khác lạ trong bài Tin mừng hôm nay giúp chúng ta, những kitô hữu của ngàn năm thứ ba, sống Lời Chúa thế nào?
1. Đức Giêsu muốn trực diện và nói thẳng với mỗi người chúng ta: Không phải mang nhãn hiệu kitô hữu với giấy chứng Rửa tội, không phải mỗi ngày đọc kinh, mỗi Chúa Nhật tham dự Thánh Lễ là đương nhiên sẽ được giấy vào Nước Trời. Nhưng phải chấp nhận và hành động theo Tin Mừng, phải tuyên xưng và sống niềm tin, phải nối đạo với đời.
2. Mỗi thánh nhân đều có một dĩ vãng. Mỗi tội nhân đều có một tương lai. Không vì một dĩ vãng đen tối mà nằm lì trong vũng tội. Hãy noi gương những người thâu thuế và các cô gái điếm để biết lắng nghe Lời Chúa, chấp nhận Tin mừng và thống hối, canh tân đời sống. Không bao giờ quá trễ và phải khởi sự ngay trong ngày hôm nay.
3. Chúng ta, giáo sĩ và giáo dân, là những người con được Chúa trao trách nhiệm làm việc trong vườn nho của Ngài. Mỗi người chúng ta phải rao truyền và sống Tin mừng: Trong mỗi hành động, chúng ta phải là chứng nhân của niềm tin kitô; qua mỗi lời nói, bằng mỗi câu chuyện, chúng ta phải an ủi, nâng đỡ tinh thần và chia sẻ kinh nghiệm của đức tin, cậy, mến cho nhau.
(Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành)
Trong xã hội chúng ta sống luôn tồn tại hai hạng người: tốt và xấu. Thông thường người ta đánh giá kẻ tốt người xấu bằng cái nhìn từ bên ngoài. Nhưng thực tế, cái nhìn từ bên ngoài thì hay sai lầm.
Bởi vì, rất nhiều người bề ngoài có vẻ tốt lành, thánh thiện nhưng bên trong lại có tâm địa xấu xa: “Bề ngoài thớt thớt nói cười, trong lòng nham hiểm giết người không dao” (Truyện kiều) hoặc “Khẩu phật, tâm xà” (Tục ngữ). Ngược lại, có những người bề ngoài xem ra xấu xa nhưng cái tâm bên trong lại hết sức trong sáng, tốt lành. Vì thế, người ta mới nói “con người nhìn mặt, Thiên Chúa nhìn lòng”(x. 1Sm 16,7). Hay nói cách khác, chỉ có Thiên Chúa mới biết chắc chắn ai là người tốt và ai là kẻ xấu.
Đoạn Tin Mừng hôm, Đức Giêsu cho chúng ta thấy thế nào là người con tốt, thế nào là người con xấu?
Người con tốt là người con làm theo ý của cha mình chứ không phải bằng lời nói suông. Chúng ta thấy hình ảnh này nơi người con thứ nhất. Lúc đầu nó chống lại lệnh của Cha mình: “Thưa Cha, con không đi”, nhưng sau đó nó hối hận, nên nó thay đổi thái độ và nó đi làm. Nó là người con tốt. Người con này tượng trưng cho dân ngoại: Tuy ban đầu họ từ chối ơn cứu độ, nhưng nhờ lời rao giảng của Đức Giêsu họ đã tin theo. Người con này cũng tượng trưng cho những người thu thuế, các cô gái điếm và những kẻ tội lỗi khác: Đây là hạng người bị dân Do thái khinh miệt, bị loại ra khỏi cộng đồng xã hội, nhưng khi Đức Giêsu rao giảng, họ đã lắng nghe, thành tâm sám hối và tin nhận đi theo phục vụ Đức Giêsu. Họ chính là những người làm theo ý muốn của Thiên Chúa.
Người con xấu là người con không làm theo ý cha mình mà chỉ bằng lời nói suông. Chúng ta thấy hình ảnh này nơi người con thứ hai. Lúc đầu nó đã mau mắn vâng nghe lời cha: “Thưa Cha, con đi,” nhưng sau đó nó lại không đi làm. Nó là người con xấu. Người con này tượng trưng cho các Kỳ mục và Thượng Tế: Họ thường tự hào mình là dân riêng Chúa chọn, là con cái Abraham, là những người tuân giữ luật Môisê một cách tỉ mỉ; họ mau mắn thưa “xin vâng” nhưng trong thực tế họ nói mà không làm; họ bắt kẻ khác tuân giữ luật nhưng chính họ lại không tuân giữ; họ chất lên vai dân chúng những gánh nặng mà chính họ lại không thể mang nổi; họ “giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế “(x. Mt 23,27). Đặc biệt, khi Đức Giêsu đến, họ không tin nhận và thực hành giáo huấn của Ngài. Họ đúng là những người nói một đàng làm một nẻo. Họ là những người con xấu.
Như vậy, để đánh giá một người tốt hay xấu, người ta không dựa vào lời nói suông mà dựa vào hành động. Khi Đức Giêsu hỏi những người Do thái: “Ai trong hai người con đã làm theo ý cha mình?” và chính họ đã trả lời: “Người con thứ nhất”. Vì thế, Đức Giêsu đã khẳng định rằng những cô gái điếm và những người thu thuế sẽ được vào nước Thiên Chúa trước các Kỳ mục và Thượng tế. Vì sao? “Vì Gioan đã đến với các ông trong đường công chính, và các ông không tin ngài; nhưng những người thu thuế và gái điếm đã tin ngài. Còn các ông, sau khi xem thấy điều đó, các ông cũng không hối hận mà tin ngài”(x. Mt 28, 31-32).
Tóm lại, lời nói không quan trọng bằng việc làm, người tốt hay xấu là ở tại việc làm chứ không phải ở lời nói suông. Nhưng thời gian có thể giúp con người thay đổi: Từ lời nói tới việc làm, từ người xấu trở thành người tốt, người tốt trở thành người tốt hơn và ngược lại người tốt cũng có thể trở thành người xấu. Bài đọc I, tiên tri Êdêkiel chứng minh cho chúng ta thấy điều đó: Thứ nhất, kẻ tốt có thể trở thành người xấu, đó là “khi người công chính từ bỏ lẽ công chính và phạm tội ác, nó phải chết, chính vì tội ác nó phạm mà nó phải chết” (x. Ed 18,26). Thứ hai, kẻ xấu có thể trở thành người tốt: đó là “khi kẻ gian ác bỏ đàng gian ác nó đã đi, và thực thi công bình chính trực, nó sẽ được sống. Nếu nó suy nghĩ và từ bỏ mọi tội ác nó đã phạm, nó sẽ sống chớ không phải chết” (x. Ed 18,27-28).
Nhưng khi thời gian chấp dứt, thì tốt – xấu không thể thay đổi nữa. Đó là thời gian chung thẩm, khi Con Người ngự đến trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Ngài sẽ phân biệt kẻ dữ người lành, tách biệt chiên với dê. Lúc đó, người lành sẽ được vào Thiên đàng hưởng hạnh phúc muôn thuở, còn kẻ dữ phải sa Hỏa ngục đời đời, ở đó sẽ phải khóc lóc và nghiến răng (x. Mt 25,31-46).
Chính vì thế, chúng ta hãy quyết tâm thực hành những điều sau đây:
Thứ nhất, nếu nhận thấy mình đang ở trong tình trạng tốt: Hãy cảm tạ Chúa. Hãy giữ vững tình trạng đó bằng cách gắn bó với Chúa trong đời sống cầu nguyện, lãnh nhận các Bí tích, làm việc bác ái. Hãy cẩn thận với các chước cám dỗ: Ma quỷ, thế gian, xác thịt. Hãy nhớ lời khuyên của Thánh Phaolô rằng: “Ai tưởng mình đang đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã” (1Cr 10,12).
Thứ hai, nếu nhận thấy mình đang ở trong tình trạng tội lỗi, xấu xa: Hãy khiêm tốn nhận ra tội lỗi của mình, thống hối ăn năn, xưng tội và quyết tâm thay đổi đời sống để trở nên tốt hơn. Tin mừng để lại cho chúng ta nhiều mẫu gương đã biết thay đổi đời sống từ xấu sang tốt, từ tội lỗi trở thành thánh thiện: Mathêu; Giakêu, Maria Mađalêna, người phụ nữ ngoại tình, đứa con hoang đàng và nhiều kẻ tội lỗi khác.
Thứ ba, nếu nhận thấy mình không tốt cũng không xấu, nghĩa là có thái độ sống đạo lưng chừng: Hãy có gắng thay đổi thái độ sống, vì thái độ sống đạo lưng chừng này đã bị Lời Chúa lên án: “Ta biết các việc ngươi làm: ngươi chẳng lạnh mà cũng chẳng nóng. Phải chi ngươi lạnh hẳn hay nóng hẳn đi! Nhưng vì ngươi hâm hẩm chẳng nóng chẳng lạnh, nên Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng Ta” (x. Kh 3,15). Tại sao Chúa lại ghét thái độ sống đạo lưng chừng như vậy? Vì sống đạo lưng chừng là đi ngược lại với Tin mừng. Chúa không chỉ muốn chúng ta tránh xa tội lỗi, nhất là tội trọng mà Ngài còn muốn chúng ta phải có lòng kính mến Chúa hết lòng hết sức trên hết mọi sự và yêu tha nhân như chính mình.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con biết khiêm tốn nhận ra những sai lỗi nơi mình để ăn năn thống hối để trở nên người hoàn thiện một ngày một hơn. Amen.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)
Dụ ngôn hai người con trai là một truyện kể mà các phần tương ứng với ý tưởng Thiên Chúa muốn diễn ta. Chúa cố thử cho người ta hiểu điều sau đây: những người Biệt phái ưng thuận thi hành lề luật, nhưng đến cuối họ không đón nhận Đấng Messia được lề luật loan báo, thái độ ấy khiến họ thụt lùi sau những người tội lỗi. Những người này tuy không tuân giữ lề luật, nhưng cuối cùng đã biết đặt lòng tin vào Đấng được xức dầu của Thiên Chúa. Ông chủ vườn nho là Thiên Chúa. Hai người con trai là người thu thuế và người Biệt phái, người thì tuân giữ lề luật của Môisê, kẻ thì không. Những người thu thuế tuân giữ được ý định tối hậu của lề luật là tin vào Đấng Kitô cùng hoán cải vào đời sống; người biệt phái vì từ chối không chịu tin vào Chúa Giêsu cũng từ chối không hoán cải theo Phúc Âm. Kết cục người thu thế thi hành thánh ý Thiên Chúa, còn người Biệt phái thì không. Thông thường trong Phúc Âm khi một dụ ngôn nói thẳng cho người Do thái cũng kèm theo ý định giảng dạy cộng đoàn Kitô hữu. Do đó dụ ngôn hai người con trai cũng nói cho những ai trong Giáo Hội ngày nay buông mình mang lấy não trạng “chính nhân” giống như người Biệt phái. Chính cho chúng ta ngày nay mà lời khuyến cáo cần phải thi hành thánh ý Thiên Chúa, chứ không được dựa cậy vào những việc tuân giữ bề ngoài được thốt ra. Câu ngắn ngủi trung tâm của truyện kể được Chúa Giêsu tạo ra là: Ai là kẻ đã làm theo ý muốn của Cha? Ý muốn của Thiên Chúa ở đây là gì?
1) Ý muốn của Thiên Chúa là chúng ta tin vào Con Thiên Chúa, Đấng cứu chuộc loài người. Nhưng cần nhấn mạnh điểm này: dụ ngôn đòi chúng ta hãy dấn bước lên đường vì đức tin chứ không buộc chúng ta phải đến nơi rồi. Khi nghe dạy ra vườn nho, một trong hai đứa con cuối cùng đã đi. Câu ấy có nghĩa là dấn bước, đi tới một mục tiêu. Trong đời sống đức tin luôn luôn phải lên đường. Chúng ta chưa bao giờ đến đích cả. Vào lúc Chúa Giêsu phán dạy ngụ ngôn, các người nghe Ngài nói ngay cả các môn đệ, không thể nào đạt tới một đức tin trọn vẹn, họ chưa có đủ các yếu tố. Chúa Giêsu chưa đưa các môn đệ vượt qua mọi giai đoạn dẫn đến lời tuyên xưng đức tin mà họ sẽ công bố sau ngày Hiện xuống. Nhưng điều quan trọng ở chỗ nào? Ở chỗ khởi sự tin với những ánh sáng ta có và với tất cả thiện chí ta có.
2) Làm cách nào để luôn tiến bước trong cuộc sống đức tin? Bằng cách tự hoán cải không ngừng. Tự hoán cải là không làm theo ý của mình, nhưng làm theo ý của Thiên Chúa. Thực thi thánh ý Thiên Chúa có nghĩa là sống thực sự là Kitô hữu không ở trong lời nói nhưng trong việc làm, không những ở các việc đạo đức, nhưng trong cụ thể đời sống. Đức tin tuyên xưng trong tâm trí cần phải thấm nhập cụ thể cách sống và xử sự của chúng ta. Nếu tính ích kỷ của chúng ta phản ứng lại đòi hỏi ấy, đó cũng là việc thường tình và cũng thường tình nếu thoạt tiên đôi khi chúng ta cảm thấy cám dỗ khước từ lời Thiên Chúa dạy. Thiên Chúa không xét đoán chúng ta căn cứ vào cơn cám dỗ hay phản ứng thoạt tiên ấy. Ngài xét đoán chúng ta “tại chỗ”, nghĩa là những gì cuối cùng chúng ta làm khi tuân theo ý Ngài. Phúc cho Kitô hữu nào đi theo con đường trực tiếp ấy mà đến Nước Trời!
Chúng ta luôn thấy trong cuộc sống có sự mâu thuẫn giữa hành động và lời nói, có sự xung khắc giữa quyền bính và sự vâng phục trong nhiều lãnh vực của đời sống: trong gia đình, trong lớp học, trong nhà máy, trong chính quyền quốc gia và địa phương. Sự đấu tranh đó có quá nhiều khía cạnh mà chúng ta không thể nhắc đến được tất cả cũng như tìm cách giải quyết. Tuy nhiên chúng ta có thể đề ra một vài gợi ý.
Phần nhiều tùy thuộc ở cách thế, thời gian và nơi chốn mà lệnh truyền được ban ra. Cung giọng, vẻ mặt, cách xử sự góp một phần đáng kể có lẽ người cha trong câu chuyện Chúa Giêsu kể đã ra lệnh với cung giọng cộc cằn độc tài. Có lẽ không bao giờ ông tâm sự và chia sẻ với các con ông trong khi có những quyết định. Điều thực tế này rất thường có ngay trong đời sống giáo xứ, trong đời sống Giáo hội nói chung. Quyền bính và trách nhiệm được chia sẻ nhiều hơn thì sự đấu tranh phải giảm đi.
Dĩ nhiên, trên hết chúng ta coi như người ra lệnh hay những chỉ dẫn, thì có trí thông minh, khả năng hiểu biết và kinh nghiệm hơn.Trong câu truyện Chúa Giêsu kể, người con thứ nhất nói là anh ta đi làm, nhưng không đi làm. Người con thứ hai nói không đi làm và rồi lại đi làm.
Lúc đó Đức Giêsu quay lại phía các người chất vấn và hỏi họ: “Ai trong hai đứa con đã thi hành ý của Cha?”. Họ chỉ có thể đồng loạt trả lời: “đứa thứ nhất”. Đâu còn gì rõ ràng hơn, con người xứng danh được phán xét theo hành động họ làm, không theo ý hướng hay thay đổi của họ.
Khi thuật lại dụ ngôn này cho cộng đoàn, thánh sử Mt muốn biện hộ cho một Giáo Hội mở rộng vòng tay đón tiếp những người thu thuế, gái điếm đã hoán cải Ngài cảnh giác các Kitô hữu, xưa cũng như nay, chống lại một thứ tôn giáo bề mặt chỉ biết lải nhãi: “Lạy Chúa, lạy Chúa” nhưng không bao giờ “thi hành ý Cha”.Ngược lại, những người mà Do Thái giáo chính thức coi là đáng khinh bỉ và vô phương cứu chữa, những “người thu thuế” và “đĩ điếm”, những người tội lỗi công khai xem ra rất xa đường “công chính”, lại đón nhận lời rao giảng của Đức Giêsu cũng như họ đã đón nhận lời rao giảng của Gioan Tẩy giả: họ đã “hối cải và tin vào lời Ngài”.
Thật là tuyệt vời nếu chúng ta nói rằng: “Con sẽ làm hay con cố gắng làm” và rồi thực tế là đã cố gắng làm việc đó.Có một người con như thế thật đẹp lòng Chúa biết bao. Thiên Chúa không chỉ cần ta hành động trong cuộc sống, mà Ngài con muốn mỗi người chúng ta vừa biết vâng lời như đứa con thứ hai, vừa biết thực hành như đứa con thứ nhất.
Lạy Chúa, mẫu gương vâng lời và thực hành tuyệt vời là chính Con Thiên Chúa, Đấng đã vâng lời Cha trên trời cho tới chết, xin cho chúng con cũng vâng theo và thực thi ý Chúa mỗi ngày trong đời sống chúng con. Amen.
(Suy niệm của Charles E. Miller)
TRONG DỰ ĐỊNH CỦA THIÊN CHÚA, SỰ CHẾT DẪN ĐẾN SỰ SỐNG
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’)
Một học sinh đã thức khuya và dậy thật sớm để chuẩn bị cho kỳ thi tuyển vào trường trung học. Một nhạc công violon tập dợt nhiều tháng để trình diễn bản concerto đầu tiên dành cho violin của nhạc sĩ tài danh Mendelssohn. Một vận động viên đã chạy một đoạn đường khá dài mỗi ngày, ông thực hiện đó mỗi ngày để tham dự vào một giải chạy marathon.
Có phải Thiên Chúa giống như thế không? Có phải Người đã thực tập trước khi Người sáng tạo thực ư? Có phải bây giờ Người phải chịu đựng để mang vũ trụ đến một chung cục hoà điệu không? Có phải Thiên Chúa đang lớn dần lên và phát triển thành một điều gì quyền lực hơn bây giờ không? Dĩ nhiên là không rồi. Thiên Chúa hoàn hảo. Người không thể lớn lên và không thể thay đổi gì nơi thần tính của Người. Nhưng sự nhập thể lại là một chuyện khác.
Người Con Thiên Chúa, có tự đời đời và ngang bằng với Cha Người trong mọi sự, đã không do dự để trở thành một con người nhân loại. Trong lúc vẫn còn là thần linh, Người trở thành giống chúng ta mọi đàng ngoại trừ tội lỗi. Những lời mà thánh Phaolô đã can đảm dùng để miêu tả sự Nhập Thể thì đáng chú ý như chính sự kiện: “Chúa Giêsu đã tự làm trống rỗng chính mình và mặc lấy hình hài của một nô lệ, được sinh ra trong nòi giống con người”. Chúa Giêsu trở thành con người để tuân theo Thánh Ý Cha của Người, để hoàn tất chương trình của Cha Người là cứu độ chúng ta. Chúa Giêsu giống như người con trong dụ ngôn, nói “vâng” khi Thiên Chúa Cha sai Người đi vào vườn nho của thế gian để làm việc hầu cứu độ chúng ta và Người giống như đứa con thứ, Chúa Giêsu đã đi thật sự. Chính vì điều này mà “Người đã trở nên sự vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá”. Chúa Cha đã đáp lại hành động phi thường này bằng việc đưa Người Con tới sự sống Phục sinh. Chúa Cha không muốn Con của Người phải trải qua cái chết trong một cách như vậy, để rồi rơi vào quên lãng ngay cả trong bản tính nhận loại của Người nữa. Không. Chúa Cha muốn tán tụng Chúa Con và “ban cho Người một danh hiệu vượt trên hết mọi danh hiệu”. Nhưng điều kiện cho sự tán tụng này là, hay nói chính xác hơn, nguyên nhân của sự tán tụng này là Người đã vâng lời cho đến chết. Thánh Phaolô đã tuyên bố cách rõ ràng: “Chúa Giêsu đã chấp nhận cái chết” và bởi vì điều này mà Thiên Chúa đã tôn vinh Người. Chúng ta sẽ thấy từ: “Bởi vì” đã được viết hoa.
Không phải việc Chúa Giêsu chết và sống lại là một điều gì giống như anh chàng điên tự đập đầu mình rồi sau đó cảm thấy tốt hơn nếu không làm như thế nữa. Chân lý này mầu nhiệm Vượt Qua, dự định của Thiên Chúa Cha là biến những nơi đau buồn nên con đường để đến với niềm vui, sự khiêm tốn biến thành lời ca tôn vinh và cái chết biến đổi thành sự sống đời đời.
Mầu nhiệm Vượt Qua là con đường của Chúa, không chỉ vì một mình Chúa Giêsu mà cả chúng ta nữa. Chúng ta bước vào trong cuộc đụng chạm với Mầu Nhiệm Vượt Qua trong phép rửa tội, nơi mà chúng ta đã chết cho tội và sống lại với một sự sống mới thánh thiện trong Đức Kitô. Chúng ta cử hành mầu nhiệm Vượt Qua trong mỗi thánh lễ: chúng ta tuyên xưng “Chúa Kitô đã chết đi, đã sống lại và sẽ đến một lần nữa”. Từ hy tế Thánh Thể chúng ta kéo sức mạnh xuống để sống theo ý nghĩa của bí tích rửa tội. Giống như Đức Kitô, chúng ta phải vâng theo ý muốn của Thiên Chúa trong mọi sự, ngay cả cái chết nữa. Trong cung cách chúng ta đang sửa soạn cho cuộc kiểm tra cuối cùng, chúng ta thực hiện việc thông dự vào sự hoà hợp phong phú của thiên đàng và chúng ta cố gắng chiến đấu để ngày càng trở nên giống Đức Kitô hơn. Cung cách của Thiên Chúa là mầu nhiệm Vượt Qua, có vẻ lạ lùng đối với một số người, hoặc có vẻ thiên vị, nhưng Thiên Chúa đã dẫn Con của người qua Mầu nhiệm Vượt Qua. Chúng ta sẽ thấy sự khôn ngoan và niềm vui khi thông dự vào Mầu Nhiệm Vượt Qua với Đức Kitô.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Hữu)
Làm người bình thường ai cũng có miệng lưỡi và tay chân. Miệng để nói, tay để làm. Tuy nhiên có người ham nói mà lại không ham làm và có người hay làm mà lại không hay nói.
Người Việt Nam ta, ai cũng mến yêu người nói ít nhưng làm nhiều và ai cũng ghét những kẻ nói nhiều nhưng làm chẳng được bao nhiêu. Điều này đã được cha ông ta diễn tả qua những thành ngữ như: “Ba voi không được bát nước sáo; trăm nghe không bằng một thấy”.
Đức Giêsu, một người Dothái là Thiên Chúa thật và cũng là người thật, Ngài đã diễn tả sự tương phản giữa “nói” và “làm”, giữa nói “có trên môi miệng”, nhưng lại nói “không trong hành động” và nói “không trên môi miệng”, nhưng lại nói “có trong hành động” qua dụ ngôn hai người con đối xử với cha:
Người con thứ nhất xem ra từ chối lời cha, nhưng lại làm theo ý cha, chứ không làm theo ý mình.
Người con thứ hai xem ra vâng phục cha, nhưng lại không làm theo lời cha mà làm theo ý mình.
Từ thái độ của hai người con đối với người cha, Đức Giêsu dẫn người nghe đến một câu hỏi và một câu trả lời: Câu hỏi là trong hai người con, ai là người làm theo ý cha? Câu trả lời là ‘người con thứ nhất’. Câu hỏi là của Đức Giêsu – người kể chuyện, dành cho các thượng tế và kỳ lão Dothái ngày xưa và cho chúng ta ngày nay. Còn câu trả lời là của thính giả ngày xưa cũng như ngày nay.
Dựa vào thái độ của hai người con và câu trả lời của thính giả, Đức Giêsu đã đưa ra một khẳng quyết nhằm nhấn mạnh sự khác biệt giữa ‘đức tin và hành động theo đức tin’ với ‘không tin và không hành động theo đức tin’, giữa sám hối thay đổi đời sống và không sám hối thay đổi đời sống: “Tôi bảo thật các anh, những người thu thế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các anh. Vì những người thu thuế và những cô gái điếm đã tin lời Gioan Tẩy Giả mà sám hối ăn năn, còn các anh sau khi đã thấy điều đó, các anh vẫn không chịu tin lời Gioan Tẩy Giả mà sám hối, thay đổi đời sống”.
Thật vậy, xưa cũng như nay, trong đạo cũng như ngoài xã hội, người ta luôn thán phục tính hiệu quả và đề cao hành động. Người ta nghi ngờ những lời nói suông, những tuyên bố trống rỗng, những thề hứa, vâng dạ cho xong chuyện rồi chờ mãi chẳng thấy đâu. Chính những hành động mới quan trọng chứ không phải là ý định hay lời nói. Người ta có thể dùng đầu môi chót lưỡi để phỉnh lừa nhau…, nhưng chẳng ai dùng đầu môi chót lưỡi mà phỉnh lừa được Thiên Chúa: “Không phải bất cứ ai thưa với Thày: Lạy Chúa! Lạy Chúa! là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ những ai thi thành ý muốn của Cha Thày, Đấng ngự trên trời mới được vào mà thôi” (Mt 7,21).
Tuy nhiên nhìn vào thực tế, xem ra đời sống của chúng ta gần với người con thứ hai hơn là người con thứ nhất trong dụ ngôn. Chúng ta tiền hậu bất nhất, nói mà không làm, thề hứa mà không giữ, tin đạo mà không sống đạo.
Quả thật, nói mà không làm là tự vả vào mặt mình, tin đạo mà không sống đạo là bôi bác và nhạo báng Chúa: “Ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì? Đức tin có thể cứu người ấy được chăng? Giả như có người anh em hay chị em không có cơm ăn áo mặc mà có người lại nói với họ: hãy đi bình an, mặc cho ấm, ăn cho no, nhưng lại không cung cấp cho họ những thứ thân xác họ đang cần thì nào có ích gì?
Cũng vậy, đức tin không có hành động quả là đức tin chết. Con người được trở nên công chính nhờ hành động theo đức tin, chứ không phải chỉ tin xuông mà thôi. Tổ phụ Abraham đã hành động theo đức tin, ông được kể là người công chính và là bạn của Thiên Chúa. Ra-kháp cô gái điếm cũng vậy, chính nhờ hành động đón tiếp và cứu giúp các sứ giả của Chúa mà cô được trở nên công chính. Thật thế, một thân xác không hơi thở là một thân xác chết, đức tin không có hành động là đức tin chết” (x. Gc 2,14-26).
Hành động theo đức tin, sống đức tin hay sống đạo là gì? Là để cho đức tin hướng dẫn, chi phối, thanh luyện đời ta từ tư tưởng đến lời nói và việc làm khiến chúng luôn ăn khớp với nhau, nhằm biến tư tưởng xấu, lời nói xấu và việc làm xấu thành tư tưởng tốt, lời nói tốt và việc làm tốt.
Lạy Chúa, xin cho con biết thống nhất đời sống giữa lời nói và việc làm, giữa đi đạo và sống đạo. Amen.
40.Lời nói đi đôi với việc làm
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Hôm nay, Thánh sử Matthêu kể cho chúng ta nghe một câu chuyện khá thú vị:
Một người cha có hai người con. Một hôm ông nói với hai con: “Hôm nay, hai con đi làm vườn nho cho cha nghe!”Hai người con đã đáp lại bằng hai thái độ khác nhau: Người con thứ nhất đã dùng tiếng “không”để đáp lại lời mời gọi của cha. “không, con không đi”. Nhưng sau đó, anh ta nghĩ lại, rồi quyết định đi làm vườn nho như ý cha muốn.
Ngược lại, người con thứ hai, ngay từ đầu đã tỏ ra lễ phép và vâng phục. Anh ta đáp lại: “Thưa cha, vâng ạ!”, nhưng đó chỉ là câu nói lừa bịp đối với cha, vì anh ta không đi làm vườn nho như ý cha muốn. Anh chỉ nói mà không làm.
Thưa anh chị em,
Ai cũng hiểu Chúa Giêsu muốn nói gì qua câu chuyện người cha và hai đứa con này. Chúa muốn nói với chúng ta: Muốn vào Nước Trời, vấn đề không phải chỉ nói “có”ngoài môi miệng mà phải làm theo ý của Chúa Cha. Hai người con, không có người nào đem lại niềm vui trọn vẹn cho cha. Cả hai đều không làm cha mình hài lòng. Nhưng người con thứ nhất rõ ràng là tốt hơn người con thứ hai. Bởi vì, tuy lúc đầu anh đã nói “không”, rồi sau đó anh đã đi làm ngay, thì thật là tốt biết mấy!
Trong cuộc sống thường ngày, chúng ta thường gặp hai hạng người này: Thứ nhất là hàng người nói nhiều hơn làm, họ hứa hẹn đủ điều, nhưng rồi không làm gì cả. Thứ hai là hạng người làm nhiều hơn nói, họ không hứa hẹn, ba hoa khoác lác, nhưng người ta thấy họ làm những việc đạo đức, nhân hậu, tốt lành, có khi làm một cách kín đáo. Chúng ta thích hạng người này hơn, vì họ chân thành, lấy việc làm chứng minh lời nói.
Lời hứa không bao giờ có thể thay thế được việc làm, và lời nói hoa mỹ không bao giờ thay thế được nghĩa cử. Người con thứ hai tỏ ra lịch sự bên ngoài, khi lễ phép trả lời; “Thưa cha, vâng ạ”. Nhưng rồi lại không đi làm. Lễ phép suông là một việc giả dối, hảo huyền. Lễ phép thật là vâng lời, thực hiện một cách sẵn lòng, vui vẻ. Đạo Kitô dạy các tín hữu thực hành chứ không phải hứa hẹn. Người Kitô hữu đích thực là người đón nhận mệnh lệnh của Cha với thái độ vâng phục và kính trọng, là người chấp hành mệnh lệnh trọn vẹn: nói làm là làm ngay.
Thưa anh chị em,
Ngày nay, người ta thường nói: “Con đường dài nhất là con đường từ đầu đến tay”. Người Kitô hữu chúng ta vẫn có nguy cơ rơi vào một thứ “duy tâm”nào đó. Chúng ta cần để cho Lời Chúa “đi từ lỗ tai đến tim óc và cuối cùng đến đôi tay”. Nhiều người chỉ nghe Lời Chúa bằng tai thôi- tai này lọt qua tai kia là hết- Nhiều người khác đã để cho Lời Chúa đánh động quả tim và trí tuệ, nhưng rồi họ ngừng lại tại đó, không dám đi xa hơn, vì sợ phải hy sinh, từ bỏ… Rốt cuộc Lời Chúa vẫn là cái gì mông lung, không thực tế, không liên hệ gì đến đời thường: đời sống làm ăn, đời sống gia đình, đời sống tình cảm… Lời Chúa vẫn bị nhốt trong nhà thờ, trong các cuộc tĩnh tâm, các buổi cầu nguyện chia sẻ. Làm sao để Lời Chúa được “đến đôi tay”, nghĩa là được người kitô hữu đem ra thực hành ở giữa chợ, ở trường học, ở cơ quan, và cả ở những nơi giải trí… Chỉ như thế, men Lời Chúa mới có thể được trộn đều vào khối bột loài người và làm bột dậy men Tin Mừng.
Quả thực, con đường đi từ quả tim đến đôi tay là một con đường dài và gian khổ. Để đi trên con đường này, người kitô hữu phải được giải phóng khỏi cái tôi nặng nề, với những lo toan và sợ hãi, những tính toán và vun quén cho mình. Rung động trước nỗi khổ của người khác là một chuyện, chia sẻ cho người khác cái áo còn tốt của mình lại là chuyện khác. Thánh Gioan đã cảnh giác chúng ta: “Hỡi anh em, đừng yêu mến bằng lời nói suông, nhưng bằng việc làm thực sự” (1Ga 3,18).
Thời Chúa Giêsu, những người Luật Sĩ và Biệt Phái Pharisêu bị lên án dữ dội vì họ giả hình- nói mà không làm, đặt gánh nặng lên vai người khác nhưng tránh né cho chính mình. Ngày nay cũng vậy: có Pharisiêu thời xưa thì cũng có Pharisiêu ngày nay: dạy con cái phải giữ đạo, phải cầu nguyện, dự lễ, nhưng chính mình lại biếng nhác, tự chước chuẩn cho mình.
Kitô giáo là một tôn giáo của lòng tin. Nhưng lòng tin bên trong của chúng ta phải được thể hiện ra việc làm bên ngoài: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17). Chúa Giêsu đã định nghĩa Kitô hữu là “ánh sáng cho thế giới”. Thế giới hôm nay cần thấy việc tốt của chúng ta trước khi họ tin nhận giáo lý của Chúa Kitô. Họ tin vào Đạo vì thấy những người dám sống đạo, dù phải chịu thiệt thòi và nguy hiểm. “Ánh sáng của anh em cũng phải chiếu giải trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).
Chỉ có Chúa Giêsu là Người Con lý tưởng, Người Con đã thưa VÂNG ngay từ đầu và thưa VÂNG mãi mãi suốt cả đời. Nơi Ngài luôn là CÓ chứ không phải khi CÓ khi KHÔNG. Ngài đã thưa với Chúa Cha: “Này con xin đến để thi hành ý Cha” (Dt 10,9), và Ngài đã thi hành cho đến lúc hoàn tất trên Thập Giá. Như thế, Chúa Giêsu đã thi hành ý Chúa Cha một cách hoàn hảo để nêu gương cho chúng ta. Chúng ta hãy noi gương Ngài để trở nên những người con đích thực của Cha chúng ta trên trời.
(Suy niệm của Lm. Anphong Nguyễn Công Minh, ofm)
(Dụ ngôn hai người con đi làm vườn nho)
Trong kho tàng khôn ngoan La tinh, có một câu ngạn ngữ như sau: Nọc độc ở phía đuôi (Venenum in cauda). Câu này nếu hiểu sát nghĩa đen, thì chỉ trúng cho một số con vật, như bọ cạp, như con ong: nọc ở phía đuôi. Con rắn nọc độc không ở đuôi. Thằn lằn cụt đuôi vẫn sống và mọc đuôi khác. Vì thế nọc ở phía đuôi, không thể chỉ hiểu theo nghĩa đen mà phải hiểu theo nghĩa bóng mới đúng. Nọc: phần chính yếu, sự sống … mạch máu – nằm ở đuôi: phần cuối, phần kết.
Trong nghệ thuật kể chuyện đặc biệt chuyện vui – câu kết luôn là câu quan trọng. Nhờ nó mà ta nắm bắt được những tình tiết trong lúc kể chuyện.
Nhiều khi xem một vở kịch, một cuốn phim… ta nóng lòng muốn xem: để xem coi kết thúc ra sao. Chính cái kết thúc = phần cuối, cái đuôi: giúp ta hiểu được tại sao lại có cảnh này, người kia xuất hiện…Ta xem kịch, xem phim, không biết tại sao ông khách lạ kia lại quí mến người con gái của bà góa nọ như thế. Cuối phim, thì ra ông là bố ruột của cô.
Bài Phúc âm hôm nay nói về dụ ngôn người cha có 2 người con. Xét về mặt tâm lý, cả hai người con đều là người hay thay đổi. Trước lời mời gọi của người cha, “hôm nay, con hãy đi làm vườn nho cho cha”
– Người thứ nhất nói: con không đi – sau đó đổi ý – đi
– Người thứ hai nói: con đi – sau đó đổi ý – không đi.
Cả hai người đều thay đổi, nhưng quan trọng là phần cuối của đổi thay.
Người thứ nhất được khen vì kết bằng đi. từ không đi–đến đi
Người thứ hai bị chê vì kết bằng không đi. Từ đi – đến không đi.
Vậy chủ điểm mà chúng ta đang tìm hiểu đó là: quan trọng là phần cuối. Đặc biệt là cuối cuộc đời. Nọc nằm ở phía đuôi. (cuối ngày, cuối giờ, cuối năm, cuối đời…)
Cách đây khoảng ba chục năm, khi việc phong thánh cho 117 vị tử đạo tại Việt Nam đang hồi gay go căng thẳng. Lúc đó ở Hà Nội, Nhà Nước đã chuẩn bị sẵn một hồ sơ về một số vị tử đạo có tì vết. Tì vết về đời sống luân lý, hoặc tì vết về đời sống chính trị: như tham gia vào loạn quân, như đi với Pháp… Hay như thánh Gẫm có hai bà vợ… Có một vị chức sắc cao cấp trong Giáo hội Việt Nam đọc được những tài liệu đó, cảm thấy e ngại, nên muốn đề nghị HĐGM hoãn ngày phong thánh để duyệt xét lại …
ĐGM Nha trang (ĐGM Hòa) lúc đó đang ở Hà Nội cũng được thông báo cho biết có những hồ sơ như vậy, với một thách thức ngầm: coi chừng, lộn xộn, chúng tôi cho công bố hồ sơ bê bối đó. (Ở đây chúng ta không xét mức độ thật hư của các hồ sơ đó như thế nào, nó đúng hay sai, đúng bao nhiêu, sai bao lăm). Cái hay mà chúng ta muốn nhắc lại đây là câu trả lời của ĐGM Nguyễn văn Hòa. Các ông cứ cho công bố: Càng công bố càng làm nổi hơn cái chết vì đạo của vị thánh. Họ như vậy đó mà họ vẫn chọn cái chết như thế đó. Chúng tôi căn cứ vào cái chết để phong thánh cho họ. Ngày chết là ngày sinh trên trời của của mỗi vị thánh.
Một quá khứ đen tối không luôn luôn làm giảm giá cuộc đời của một vĩ nhân. Abraham Lincohn tổng thống 16 của Hoa Kỳ có một quá khứ thật ảm đạm, cùng cực, nghèo túng, nhưng đã vươn lên thành người có công thống nhất Nam Bắc nước Mỹ. Có người từng đi chăn bò, chăn trâu, ở đợ, nhưng sau làm giám đốc, chủ tịch… Nhưng, ngược lại thì không được: đã từng làm giám đốc, chủ tịch, nay đi chăn bò, chăn trâu…! Cái quan yếu là ở phần cuối, ở về sau. “Nọc ở phía đuôi”.
Cũng cách đây trên ba chục năm, khi đi ra chợ Nha Trang, một linh mục được một người bán hàng ở chợ Đầm mách bảo: ở Nha trang đang cho chiếu một bộ phim bài bác đạo ghê lắm! Chúng tôi đi xem, coi nó bài bác đến mức nào. Thật ra, nếu ai hiểu cốt truyện thì bộ phim không bài bác Đạo đâu, mà có khi trái lại nữa. Vì đạo diễn là Risac Be, người Ba Lan, công giáo. Bộ phim dựa trên tiểu thuyết của Anatole France. Tiểu thuyết lại dựa trên một câu chuyện có lẽ có thực, xảy ra vào thế kỷ 4-5. Bộ phim mang tựa đề: Thais.
Thais là một vũ nữ sống ở Ai Cập, nổi tiếng phóng đãng, xa hoa. Và vì là phim ảnh, nên cảnh ăn chơi sa đọa trụy lạc của lớp quí tộc thời Ai Cập cổ được phóng đại và trình diễn lên màn hình trong những căn phòng có bóng cây thánh giá. Đó là điều mà người bình dân nói là bôi bác đạo. Thật ra không phải thế. Nhà ẩn tu Papnuc (Pathnutius) khi nghe tin về người vũ nữ thì đã cầu xin Chúa soi sáng, giúp sức, quyết định đến tìm Thais để đưa nàng ra khỏi nơi ăn chơi sa đoạ và trở về với Chúa. Sau khi cải trang, vị ẩn tu đến nhà nàng và xin được gặp riêng nàng ở nơi kín đáo. Nhưng bởi vị ẩn tu luôn nói rằng nơi này chưa kín đáo đủ, nên bực mình, Thais nói: Chắc chắn không ai có thể nhìn thấy chúng ta nơi đây, nhưng nếu ông muốn tránh cái nhìn của Thiên Chúa, thì dù ông trốn bất cứ nơi nào kín đáo nhất, ông cũng không tránh được.
Khi nghe vậy, vị ẩn tu vội nói: “Cô cũng biết có vị Chúa ư?”
– Có lẽ thế, và tôi cũng biết có một thiên đàng dành cho người tốt và một địa ngục cho ác nhân.
– Vậy sao cô có thể sống cuộc đời tội lỗi như thế trước một vị Chúa luôn trông thấy cô?
Những lời này xoáy vào lòng Thais – nàng sấp mình xuống chân người của Thiên Chúa. Sau đó nàng đi theo ẩn sĩ Papnuc để tìm nơi tu trì nhiệm nhặt và rồi cuối cùng chết như một vị thánh.
Còn ẩn tu Papnuc, một tu sĩ khổ hạnh, qua việc đi cảm hoá người, hiểu được phần nào hương vị cay đắng ngọt ngào của tình yêu và cuối cùng, kết thúc của bộ phim: ẩn sĩ Papnuc trở thành kẻ phản đạo, không còn tin Chúa.
Qua bộ phim và qua tiểu thuyết, ta thấy thật dịu ngọt và cay đắng. Dịu ngọt vì khúc cuối, cái đuôi của một vũ nữ trước kia xa hoa phóng đãng nay được chết lành khi miệng luôn kêu tên Chúa lúc lìa đời. Còn cay đắng, vì vị ẩn tu suốt đời khổ hạnh, tìm cách cứu người – thì lại có phần cuối được bộ phim diễn tả bằng cảnh hoá thành con quỉ dơi đi xơi máu người.
Câu nói của Chúa Giêsu hôm nay với các trưởng lão Biệt phái thật thấm thía: “Thật, tôi bảo thật các ông, những người thu thuế và gái điếm sẽ vào Nước Trời trước các ông” vì họ đã tin, vì phần đuôi, phần cuối của họ: họ hối cải. Còn vị ẩn tu kia khởi đầu và phần thân là đẹp nhưng kết thúc là bi thương, trở thành con quỉ dơi hút máu. Vị tông đồ Dân ngoại Phaolô đã có lần thốt lên: “Tôi bắt thân thể phải chịu cực và phục tùng, kẻo sau khi rao giảng cho người khác, chính tôi lại bị loại” (1Cr 9:27).
Vậy thì ta có thể cùng với đức cha Bùi Tuần thưa lên với Chúa lời nguyện này:
Lạy Chúa, vì con không biết – và thực ra Chúa cũng không muốn cho con biết – đâu là phần cuối của cuộc sống con. Nó có thể tới bất cứ lúc nào, nên con phải ở trong tư thế luôn nói tiếng “Có” với Chúa, luôn đi làm vườn nho của Ngài. Lạy Chúa, xin cho con, xin cho chúng con, đừng xét đoán ai trước thời buổi, vì nào ai biết được phần cuối trước khi Chúa đến. Xin cho con, xin cho chúng con khi Chúa đến, con vẫn còn tình trạng nói tiếng “Có”. Có đây tức là tin. Con tin Chúa. Amen.
Thiên Chúa luôn muốn cho chúng ta những điều tốt đẹp nhất. Khi Chúa muốn ai đi làm một công việc gì thì chắc rằng điều đó có lợi cho loài người nói chung và bản thân người đó nói riêng. Do đó, chúng ta phải vâng lệnh và thi hành theo chương trình của Thiên Chúa nơi mỗi người chúng ta. Dụ ngôn hai người con cho chúng ta hiểu về đời sống đạo đức đích thực được thể hiện qua việc làm chứ không phải bằng lời nói suông.
Cả hai người này đều là con của Chúa. Ở đây không chú trọng đến tình trạng đạo đức của mỗi người con đó, cũng không để ý đến lời nói, nhưng quan tâm đến việc họ không làm hay sẽ làm. Thật ra, Chúa thường sai tôi đi làm công việc cho Chúa dưới hình thức nào, có bao giờ hiện ra gọi đích danh tôi không? Nếu Chúa hiện ra bảo tôi đi làm “vườn nho” chắc chắn tôi đã nói vâng và đi làm ngay, không dám chậm trễ. Tuy nhiên, Chúa không sai tôi trực tiếp mà sai tôi gián tiếp qua các vị bề trên, qua lời Kinh thánh, qua lương tâm, qua bổn phận trong cuộc sống. Ý Chúa thể hiện trong Mười Điều Răn, trong Tám mối phúc, trong lời giảng dạy của linh mục, bề trên, những câu giáo lý, hay qua những biến cố trong cuộc sống… Qua những gì đã hoặc sẽ xảy đến, tôi có thể đoán biết được mình là người thế nào, có những tính tốt hay tật xấu nào, cần phải làm gì… để xứng đáng là người con của Chúa.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, cả hai người con đều được mời gọi đi làm cho Chúa, một người xem ra không vâng lời nhưng biết hối lỗi và làm theo ý Chúa, một người xem ra công chính nhưng lại không thi hành giáo huấn của Chúa. Có thể nói, cả hai đứa con này là tiêu biểu cho hai hạng người được Chúa mời làm vườn nho của Chúa. Có người nói “vâng” nhưng lại lười cố gắng, bỏ thi hành lời Chúa; có người nói “không” nhưng biết suy nghĩ và hối hận về sự vô lối của mình nên đã thay đổi cuộc sống và tin theo Chúa. Chúa không xét bề ngoài nhưng xét từ trong lòng mỗi người, vì thế Chúa có thể chọn những tội nhân làm môn đệ và ban cho ơn cứu độ, trong khi một số người biệt phái cứng lòng không nhận ra Chúa. Do đó, mỗi người chúng ta phải xét mình hằng ngày để hiểu rõ tấm lòng của mình đối với Chúa. Chúa mời gọi mọi người, không phân biệt thứ hạng nào trong xã hội, vấn đề là mỗi người có làm, có sống theo lời Chúa dạy hay không.
Trong dụ ngôn này, người con thứ nhất nói: “con không đi”, cho thấy sự từ chối, bất tuân của kẻ tội lỗi, nhưng sau đó biết suy nghĩ lại, quyết tâm thay đổi và tuân phục thiên Chúa. Ngược lại, có những kẻ ngôn hành bất nhất, tỏ ra đạo đức nhưng chỉ là mồ mả tô vôi, không thi hành luật Chúa như lời họ nói. Khi Gioan Tẩy Giả đến làm phép rửa, nhiều tội nhân đến sám hối và chịu phép rửa, trong khi các kỳ lão, Biệt Phái lại từ chối lời mời gọi của Chúa, họ đã cứng lòng, bỏ qua mọi lời khuyên của Chúa. Những người mệnh danh là công chính này đã không nhận thấy thân phận yếu đuối nhiều lầm lỗi của mình. Phần chúng ta, chúng ta có hoán cải và lắng nghe tiếng Chúa luôn luôn không? Rất nhiều lần tôi chứng kiến ơn trở lại của người khác mà tôi có động lòng, từ bỏ lối sống cũ, mặc lấy Chúa kitô cách trọn hảo hơn trước không?
Chúng ta phải mau mắn thưa vâng và thi hành mọi lời Chúa dạy theo bậc sống, theo bổn phận của mình. Chúng con sẽ nổ lực thực hiện những gì mình hứa làm, nếu chúng con lỡ vấp phạm thì sớm ăn năn để được ơn tha thứ. Chúng ta có thể cầu nguyện, giúp đỡ những người khô khan, tội lỗi để họ trở về với Chúa và đến lượt họ khi trở nên sốt sắng sẽ là lời nhắc nhở chúng ta sống đạo tốt hơn.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con vốn là những kẻ tội lỗi, bất xứng trước mặt Chúa, nhưng Chúa không chấp tội chúng con, Ngài chỉ muốn con nhận ra được tình thương của Ngài và làm theo ý Ngài. Xin Chúa cho chúng con biết sống cho Chúa một cuộc đời mới để xứng đáng với tình thương của Chúa hơn và mai sau được Chúa thưởng trên Thiên Đàng vinh phúc.
(Suy niệm của Đức Ông Trần Văn Khả)
Bài Phúc âm theo thánh Matthêô 21,28-32 cần được đọc trong bối cảnh của những cuộc tranh luận cuối cùng giữa Chúa Giêsu và các người Pharisiêu và nhóm thù địch khác chống lại Chúa, và các cuộc này đưa tới sự căm thù và việc Chúa Giêsu bị lên án tử trên thập giá.
Ngoài ra đoạn Phúc Âm này cũng cần được đọc chung với bài sách Ngôn sứ Êdêkien (Ed 18,25-28, bài đọc thứ I Chúa nhật 26 Thường niên) về việc Thiên Chúa kêu mời người tội lỗi trở lại. Và đây là chủ đề của Chúa nhật thứ 26 hôm nay.
Trong mạch văn của Phúc âm thánh Matthêô, dụ ngôn Hai người con (Mt 21,28-32), cùng với Dụ ngôn những người tá điền vườn nho (Mt 21,33-41), và lời giáo huấn về viên đá góc tường bị loại bỏ (Mt 21,42-46), là những dụ ngôn và giáo huấn nhắm vào các tư tế và những người biệt phái và thái độ cứng cỏi của họ không chấp nhận lời mời gọi cứu rỗi của Thiên Chúa, qua con người và các phép lạ của Chúa Giêsu Kitô. Những người biệt phái đã hiểu rõ Chúa Giêsu nói những dụ ngôn này ám chỉ về mình, nên đã tìm cách bắt Chúa và loại trừ Chúa (xc Mt 21,45-46). Trước đó, họ chất vấn Chúa lấy quyền nào mà đánh đuổi những người buôn bán ra khỏi khuông viên đền thờ (xc. Mt 21,23-27). Để trả lời họ, không những Chúa làm cho họ cứng họng im lặng, mà còn cho họ thấy sự cứng cỏi trong thái độ đối với Chúa, cũng như với lời kêu gọi thống hối ăn năn. Như vậy, không những Chúa Giêsu cho cho họ biết Ngài là ai, mà còn đòi buộc chấp nhận Ngài là vị cứu rỗi duy nhất.
Trở lại với bản văn của dụ ngôn Hai người con, chúng ta có đưa ra mấy nhận xét sau đây để có thể hiểu được ý nghĩa của dụ ngôn và từ đó có những áp dụng cụ thể cho đời sống đức tin của mình.
Trước tin, Chúa Giêsu đặt câu hỏi với chính những người hỏi Chúa. Chúa bắt họ tự vấn về thái độ phải có đối với lời mời gọdi thống hối và trở về, tức là đối với chính Chúa Kitô: “Các ông nghĩ sao?”
Tiếp theo, Chúa dùng hình ảnh vườn nho, rất quen thuộc với người biệt phái và các tư tế, để nói lên thái độ của người môn đệ đối với Nước Trời, tức là với Chúa Kitô. Họ thuộc về vườn nho đó, hay không thuộc về vườn nho đó; thế nào là thuộc về vườn nho đó hay không thuộc về vườn nho đó, là ở trong vườn nho đó hay ở ngoài vườn nho đó? Có người mang tiếng thuộc về vườn nho, ở trong đó, nhưng lại thực sự không thuộc về, không ở trong đó.
Sau cùng là hình ảnh trái ngược giữa nhóm người biệt phái và những người tội lỗi. Hình ảnh này thường thấy trong Phúc âm thánh Matthêô. Những người biệt phái tưởng là thuộc về, là ở trong vườn nho Thiên Chúa, vì là thành phần nồng cốt; nhưng thực ra họ bị phán quyết là đã bị loại ra ngoài (Mt 6,2.5.16; 7,21). Còn những người thu thuế, đĩ điếm, tội lỗi, thì lại được tuyên bố là thuộc về, là ở trong vườn nho (xc. 9,10-13), Lý do chỉ là vì một bên không có, một bên có điều kiện cần của việc thuộc về này: đó là tâm tình thống hối trở về (xc. Mt 5,20; 7,21)
Đó là tóm lược giáo huấn của Gioan Tẩy Giả gửi tới mọi người và dọn đường cho Chúa Kitô tới (Mt 3,1tt;11,12). Đó là sự công chính do Gioan rao giảng: thống hối trở về để tin nhận Chúa Kitô.
Hôm nay khi đọc và suy niệm bài Phúc Âm này, chúng ta cũng đang được Chúa Giêsu Kitô hỏi chúng ta: con nghĩ sao về Ta? Về lối sống đạo của con trong liên hệ với Ta? Về sự công chính mà con tưởng con đang có và từ đó tự nhủ thầm về phần phúc thiên đàng mai sau? Và chúng ta hãy tự kiểm thảo cách thành thực đức tin của chúng ta trước mặt Chúa trong lương tâm của ta.
(Suy niệm của John W. Martens – Văn Hào, SDB chuyển ngữ)
“Vậy mà các anh lại nói, đường lối của Thiên Chúa không ngay thẳng” (Ez 18,25).
Nữ ca sỹ Frank Sinatra đã cất lên bài hát “Tôi đã làm theo đường lối của tôi, và cứ thế, tôi sẽ tiếp tục thực hiện, nhiều hơn, nhiều hơn nữa”. Đây là một quan niệm khá phổ biến. Con người có tự do. Vì thế, chúng ta dễ xác tín vào cuộc sống của chúng ta và cứ thực hiện, cứ sống theo cách thế của mình, theo lương tâm, theo tài năng của mình và cũng chẳng cần màng đến giá trị của chúng ta ra sao nữa. Nhưng đến một lúc nào đó, Chúa mời gọi chúng ta đi theo đường lối Chúa, thì cách tốt nhất, là chúng ta hãy sống theo con đường mà Chúa đã vạch dẫn, giống như Đức Giêsu đã thực hiện, khi Ngài dấn bước vào cuộc hành trình Thập giá.
Tiên tri Ezêkiel nói cho dân Israel về đường lối của Thiên Chúa, một cách rất rõ nét. Đó là một lối đường ngay thẳng và tốt lành. Đồng thời trong đường lối đó, Thiên Chúa cũng trao phó cho con người trách nhiệm để họ ý thức về những tội lỗi của chính mình. Dường như hơi kỳ lạ, là dân chúng phản kháng, chống lại tuyên bố trên. Họ cho rằng họ chẳng có trách nhiệm gì hết. Chính vì thế Ezêkiel đã khơi lại lời ca thán của dân khi họ nói “Đường lối của Thiên Chúa quả thật, không ngay thẳng chút nào”. Với sự ngạc nhiên, Thiên Chúa đáp trả khi vặn hỏi lại dân “Có phải đường lối của Ta không ngay thẳng, hay chính đường lối của các ngươi không ngay thẳng?”.
Lời phàn nàn của dân chúng dường như phát nguồn từ một não trạng cứng ngắc nơi những con người hay tự mãn, luôn cho mình là ngay lành và chân chính. Nhưng khi kẻ ngay chính từ bỏ sự ngay chính của họ, hay những con người tốt lành bỏ xa con đường tốt lành mà họ đang dấn bước, thì hậu quả sẽ ra sao? Thiên Chúa phán quyết một cách nghiêm khắc “Khi người ngay chính bỏ con đường ngay thẳng của họ và phạm những tội bất chính, nó sẽ chết. Cũng thế, khi một người gian ác từ bỏ tội lỗi họ đã gây nên mà tuân giữ các lệnh truyền của ta, và thi hành điều chính trực công minh, chắc chắn nó sẽ sống và không phải chết. Sự hoán cải và trở nên công chính là tâm điểm nơi phán quyết của Thiên Chúa. Thiên Chúa sẽ cân nhắc sự hối lỗi của chúng ta và Ngài sẽ đổi ý định giáng phạt. Kiên trung đi theo đường ngay nẻo chính là điều trọng yếu, chứ không phải chỉ khẳng định là mình đã sống chính trực trong quá khứ một cách nhất thời mà thôi. Vì thế, những ai biết suy xét, biết thay đổi đời sống, biết đoạn tuyệt với những sai phạm, họ sẽ được sống, và không phải chết.
Đường lối của Thiên Chúa luôn là đường ngay chính, cho dù lối đường này nhiều khi có vẻ đánh đố và làm chúng ta kinh ngạc, đặc biệt khi chúng ta không hiểu nổi lòng thương xót của Thiên Chúa sâu xa như thế nào. Chúng ta có thể cứng đầu cứng cổ cho rằng, lối đường của Thiên Chúa không ngay thẳng. Nhưng ngay cả khi chúng ta cố tình chống lại lối đường của Thiên Chúa, thì đường lối của Ngài vẫn luôn là cách thế tuyệt vời nhất để biểu tỏ lòng yêu thương của Ngài đối với con người. Đức Giêsu chính là nguyên mẫu cho chúng ta. Ngài đã trọn vẹn đi theo đường lối của Thiên Chúa. Thánh Phaolô đã bắt đầu bài thánh thi ca tụng Đức Giêsu, bằng việc khuyến mời giáo đoàn Philip hãy có “cùng một cảm nghĩ, cùng một lòng mến, cùng một tâm hồn, cùng một ý hướng như nhau” giống như Đức Giêsu đã thực hiện. Ngài xin anh chị em tín hữu “Hãy sống khiêm nhường, luôn coi người khác hơn mình. Mỗi người đừng tìm lợi ích riêng cho cá nhân, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác”. Theo Thánh Phaolô, cách thái này chính là lối bước trọn lành mà đức Giêsu đã vạch dẫn, và trên nẻo đường này, sự vâng phục Thiên Chúa luôn phải được thực thi cách triệt để.
Qua cách thái mà Chúa Giêsu đã thực hiện, Thánh Phaolô muốn ngỏ trao cho chúng ta một sứ điệp: “Đức Giêsu đã nêu gương cho ta, đã tự nguyện biến mình ra không, mặc lấy thân nô lệ, sống kiếp phàm nhân. Khi mang thân phận con người, Ngài đã tự hạ vâng lời cho đến chết và chết trên Thập tự”. Đây là con đường dẫn đến núi sọ và huyệt đá. Đây cũng chính là con đường mà trong vườn cây dầu, Đức Giêsu đã khiếp sợ khi phải đối diện, đến mức độ Ngài đã khẩn xin Chúa Cha cất mình tránh khỏi con đường đó. Tuy nhiên Ngài đã chấp nhận dấn bước trong khiêm tốn, trong vâng phục và hy sinh cho đến chết. Lẽ tất nhiên, nhiều lúc chúng ta cũng có thái độ giống như đám đông ngày xưa. Họ đã la toáng lên và nói với Ezêkiel “ Đường lối của Thiên Chúa chẳng ngay thẳng chút nào”. Sự cố chấp này trái ngược hẳn với thái độ của Đức Giêsu, Đấng luôn khiêm tốn và vâng phục cách triệt để. Họ phản kháng như thế không phải là để tra hỏi xem đường lối của Thiên Chua như thế nào, không giống như Đức Giêsu đã hành xử. Cũng không phải là họ nài xin Thiên Chúa thực hiện nơi họ một lối đường khác. Không phải thế. Chính họ đã phản kháng, ngoan cố chống lại Thiên Chúa và đường lối của Ngài. Khi chúng ta chối từ con đường mà Thiên Chúa đã vạch dẫn, chính là lúc chúng ta đang chống lại Ngài, và đang tìm cách để đào thoát cũng như xa tránh Ngài.
Tuy vậy, như Ezêkiel đã mô tả, ngay khi chúng ta đang tìm cách né tránh đường lối Thiên Chúa, Ngài vẫn còn tạo cho chúng ta cơ hội để giúp ta sám hối và quay trở về. Động thái khoan dung này được biểu tỏ qua dụ ngôn của Thánh Mathêu trong phụng vụ hôm nay với hình ảnh về hai người con. Trong dụ ngôn, đứa con thứ đã thưa không với cha, nhưng sau đó nó suy nghĩ lại và thay đổi quyết định, trong khi đứa thứ nhất nói có, nhưng lại không đi làm vườn nho cho cha nó. Nếu chúng ta là chính đứa con đã từng nói không với Thiên Chúa là Cha của chúng ta, chúng ta vẫn còn cơ hội để thay đổi. Ngay cả như đứa con thứ nhất tuy đã thưa vâng nhưng lại không đi, nó cũng vẫn có thể sám hối và đổi thay. Chúng ta hay thích làm theo ý chúng ta, thế thì tại sao, chúng ta lại không cố gắng tìm kiếm và thi hành theo đường lối của Thiên Chúa. Điều đó tùy thuộc vào thái độ nội tâm nơi mỗi người.
45.Thiên Chúa không thiên tư tây vị
(Suy niệm của Lm.Giuse Phạm Ngọc Khuê)
Chủ đề: “Thiên Chúa không thiên tư tây vị, ai kính sợ Người và thực hành đức công chính đều được Người vui lòng đón nhận” (Cv 10, 34).
Kính thưa quý cố ông bà và anh chị em,
Thiên tư tây vị là một ý niệm thuộc phạm trù tình cảm diễn tả yêu/ghét trong mối tương quan giữa con người với nhau. Từ đối tượng được yêu/ghét, chủ thể có hành động tương ứng với ý chí của mình. Yêu ai thì dành nhiều đặc ân cho người đó, ngược lại ghét ai thì tìm cách hạ bệ: “yêu nên tốt, ghét nên xấu” (tục ngữ Việt Nam).
Tự bản chất: thiên tư tây vị là bất công, vì lẽ, người xứng đáng, có tài bị gạt ra, còn kẻ xấu, bất tài lại được ân huệ, trọng dụng.
Đời sống gia đình, xã hội mọi nơi, mọi thời là một bức tranh đậm mầu thiên tư tây vị. Nó là mảnh đất tiềm năng cho “cỏ dại tiêu cực” mọc lên, lấn át công bằng trong cuộc sống nhân sinh.
Kinh Thánh ghi nhận thái độ thiên tư tây vị của dân Chúa là trầm trọng. Họ quan niệm sự báo oán của Chúa có tính nhân quả, dây chuyền: “cha ăn nho xanh, con ghê răng” (Ez 18, 2). Gán ghép cho Chúa thiên tư tây vị là phạm thượng, vì họ cào bằng tư tưởng của Chúa, vốn cao vời thánh thiện, với lòng dạ phàm nhân.
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay trình bày dung mạo về một Thiên Chúa công bình, rất mực nhân hậu, từ bi: không thiên tư tây vị, bất cứ ở đâu, thời nào, ai kính sợ Chúa và thực hành đức công chính, đều được Người vui lòng đón nhận (cf. Cv 10, 34).
Bài đọc I, trích sách ngôn sứ Ézékiel, hướng dân Chúa tới một tầm nhìn mới, thay đổi não trạng cổ xưa về sự báo oán của Chúa trên nhà Israel.
Quan niệm xưa kia cho rằng con cái phải mang tội của cha mẹ “quýt làm, cam chịu”, “cha ăn nho xanh, con ghê răng” trở thành tiêu chuẩn để phán xét người khác. Hãy xem tranh cãi trường hợp người mù bẩm sinh trong Tin Mừng Gio-an. Nhìn thấy anh mù, các tông đồ hỏi Chúa Giê-su: “Rabbi, ai đã phạm tội, nó hay cha mẹ nó, để nó phải sinh ra mù lòa như vậy?” (Jn 9, 1).
Một sự phán xét vô trách nhiệm, bất công, cần phải được loại trừ. Thiên Chúa, Đấng nhân hậu, giầu lòng xót thương, rất mực công bằng, không thể đoán xét và trừng phạt kẻ vô tội.
Nội dung bài sách thánh là cách sửa sai quan niệm cổ hủ, lỗi thời. Chúa bày tỏ đường lối công minh, chính trực trong việc xét xử thế nhân. Trách nhiệm cá nhân là tiêu chí xét đoán. Tất cả tùy thuộc thời điểm hiện tại trước lời mời gọi của Chúa: “Khi người công chính từ bỏ lẽ công chính mà làm điều bất chính, nó sẽ phải chết. Còn kẻ gian ác bỏ điều dữ nó đã làm, mà thi hành điều chính trực công minh, nó sẽ được sống” (Ez 18, 26 – 27).
Thật và rất thật, mạc khải Thiên Chúa không thiên tư tây vị là tin mừng cho muôn dân, cho con người mọi nơi, mọi thời. Tất cả đều là tội nhân, là những kẻ gian ác, có cơ may nhờ lời Chúa mà hoán cải, canh tân nên công chính để được sống, vì lẽ, nếu Chúa chấp tội, không ai đứng vững và được cứu rỗi.
Chúa Giê-su, trong bài Tin Mừng, coi việc sống đạo thực thi Lời Chúa vượt trội môi mép giả hình. Dụ ngôn hai người con được đề nghị đi làm vườn nho. Người con cả nói “không”, nhưng sau hối hận lại đi làm. Người con thứ thưa “vâng”, rồi lại không đi. Chúa hỏi ai trong họ thực hiện ý muốn của Cha. Họ trả lời: “người con thứ nhất”.
Thái độ của hai người con bày tỏ tình trạng chung của mỗi người chúng ta. Bao lần nói “vâng”, rồi lại bỏ qua không làm và cũng bao lần nói “không”, rồi lại hối hận trở về.
Thế mới rõ: không có thánh nhân nào mà không có một quá khứ, cũng chẳng có tội nhân nào mà không có một tương lai. Vấn đề then chốt là lắng nghe và đáp trả lời mời gọi của chúa. Bởi biết rằng: “Thiên Chúa không thiên tư tây vị, bất cứ ở đâu, ai kính sợ và thực hành đức công chính, đều được Người vui lòng đón nhận” (Cv 10, 34).
Qua dụ ngôn, Chúa dạy chúng ta về chân lý cứu rỗi. Đó là, đáp trả lời mời gọi của Chúa, thực hành liên lỉ hoán cải, canh tân, mới được kể là kẻ thực hiện ý muốn Chúa Cha, mới xứng đáng tiếp nhận tình yêu và sự sống muôn đời.
Thánh Phao-lô, trong bài đọc II, khuyên nhủ cộng đoàn liên kết mật thiết với Chúa Giê-su trong mọi sự, để kiến tạo sự hiệp thông, tình bác ái trong Thánh Thần.
Chính Giê-su, trong tình yêu tự hủy đến cùng kiệt, đã thực hiện sự hiệp thông, liên đới với gia đình nhân loại bằng sự khiêm hạ, vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá.
Giê-su là khuôn mẫu cho tất cả những ai muốn nên hoàn thiện, nên công chính. Sống như Giê-su trong mọi sự, người môn đệ được Cha tôn vinh như con yêu dấu của Ngài.
Thưa anh chị em,
Giáo huấn Lời Chúa hôm nay lưu ý chúng ta:
• Một là: Thiên Chúa tình yêu và sự sống luôn dành sẵn cho mỗi người một tương lai. Ở đó, Ngài vẫy gọi tội nhân hoán cải, canh tân để được tha thứ và được sống. Cho dù tội lỗi có nặng nề cách mấy, cũng đừng bao giờ thất vọng, vì Giê-su đã sẵn lòng chết, để đền thay tội lỗi chúng ta.
• Hai là: Hãy sinh hoa quả xứng với lòng sám hối. Siêng năng lãnh nhận các bí tích cứu độ, nhất là bí tích hòa giải và Thánh Thể. Bí tích giải tội ban ơn tha thứ, giao hòa tội nhân với Chúa và với nhau. Bí tích Thánh Thể làm vững mạnh đức tin, gia tăng đức cậy và củng cố đức mến, nhờ đó, người của Thiên Chúa đủ sức làm các việc lành, xứng với ơn cứu độ Chúa ban.
Xin Chúa thương nâng đỡ và chúc lành cho mỗi người chúng ta trong ngày chúa nhật hôm nay. Amen.
(Suy niệm của Lm. Minh Vận, CRM)
Khi Tom Mason về hưu, ông đã mua một thửa đất thật rộng lớn ở miền quê với ý định biến nó thành một vườn hoa mênh mông. Chàng thanh niên thứ nhất đến xin việc, ông hỏi: “Anh có biết nghề làm vườn không?” Chàng ta tự thú mình biết rất ít về phương diện này. Ông bảo anh: “Anh thấy những bông hoa nhỏ đó chứ? Anh hãy dập chúng xuống đất cho tôi”. Chàng thanh niên liền phản đối: “Tôi không biết cách làm vườn thật, nhưng tôi không biết đó là cách đối xử với các loại hoa nhỏ như thế”. Nói rồi, chàng từ giã ra đi. Sáng hôm sau, một chàng thanh niên khác tới xin việc, Tom Mason lại cũng hỏi chàng có biết nghề làm vườn không và được chàng trả lời: “Không, tôi không biết nghề làm vườn, nhưng tôi sẽ rán học”. Tom Mason nói tiếp: “Vậy anh dập những bông hoa nhỏ này xuống đất cho tôi”. Chàng thanh niên vâng lời làm theo ý chủ. Thấy vậy, Tom Mason nói với chàng: “Tôi đoán anh muốn biết tại sao tôi lại bảo anh dập những bông hoa đó xuống đất”. Chàng thanh niên đáp lại: “Tôi không biết tại sao, nhưng tôi nghĩ ông có lý do thì mới bảo tôi làm thế”.
I. Ý NGHĨA DỤ NGÔN TRONG TIN MỪNG
Chúa Kitô thường dùng những hiện tượng, những sự kiện xảy ra trong đời sống hằng ngày hoặc dùng những dụ ngôn để dạy cho nhân loại những bài học luân lý hợp với giáo lý Ơn Cứu Độ của Chúa.
Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa đã nêu một dụ ngôn, một người cha sai hai người con đi làm vườn nho, ngụ ý nói tới hai loại người tương phản xung khắc nhau lúc đương thời. Hai loại người đó là:
1. Người phần thu: Những người thu thuế làm việc cho chính quyền đô hộ, bị người Do Thái đương thời liệt vào hạng người tội lỗi đáng khinh bỉ, là loại mọt dân, tay sai ngoại bang; vì lẽ, họ không trung thành với luật Maisen và những luật lệ lưu truyền của tiền nhân.
2. Người pharisiêu: Pharisiêu là một giáo phái Do Thái, được tôn trọng là bậc thông thái, là hàng đạo đức, là bậc quí phái, là thầy dạy của dân chúng… Họ chủ trương cặn kẽ tuân giữ luật Maisen và các lưu truyền của tiền nhân theo nghĩa đen của từ ngữ. Loại người này thường kiêu căng, lên mặt dạy đời. Họ hay tìm cách bắt bẻ lời giảng dạy, cách cư xử và xuyên tạc để giảm uy tín các phép lạ của Chúa Kitô đã thực hiện trong thời Người rao giảng Tin Mừng Cứu Độ. Họ chỉ rình mò để tìm cớ tiêu diệt Chúa, không tiếp nhận giáo lý của Người.
Chính Chúa đã dùng nhiều dụ ngôn để vạch trần âm mưu và cảnh tỉnh lương tâm chai đá của họ bằng dụ ngôn hôm nay, cũng như dụ ngôn hai người lên Đền Thờ cầu nguyện… Chúa đã lên án tội kiêu căng của bọn người Pharisêu tự cao tự đại và khen ngợi lòng sám hối của người Phần Thu biết khiêm tốn thú nhận tội lỗi của mình và thực tâm cải thiện đời sống.
II. CHÚA KITÔ, GƯƠNG TUÂN PHỤC
Dụ ngôn hôm nay tả 2 thái độ của 2 người con khi được người cha sai đi làm vườn nho.
1. Người con thứ nhất: Được lệnh cha truyền, chàng ta vùng vằng trả lời: “Con không đi”, nhưng rồi chàng ta nghĩ lại và hối hận đi làm theo ý cha. Đó là hình ảnh những người Phần Thu hay thu thuế thường bị liệt vào hàng tội nhân, đã không tuân giữ luật Maisen và các lưu truyền của tiền nhân, nhưng họ đã thực lòng tiếp nhận giáo lý Chúa Kitô và tin tưởng tôn thờ phụng sự Ngài.
2. Người con thứ hai: Khi được lệnh cha truyền, chàng ta vui vẻ trả lời: “Con xin đi”, nhưng rồi lại không đi, chàng ta chỉ nói cho qua lần và coi thường lệnh truyền của cha. Đó là hình ảnh những người Pharisiêu tự cao tự đại, hãnh diện vì mình là những người thông thái đạo đức, trung thành tuân giữ luật Maisen và các lưu truyền của tiền nhân. Chính luật Maisen lại chỉ cho họ nhận biết Chúa Kitô, nhưng nhất định họ không tiếp nhận giáo lý trong những lời giáo huấn của Ngài, không tin nhận Ngài là Đấng Cứu Thế Thiên Chúa sai đến.
3. Người con thứ ba: Dụ ngôn hôm nay đề cập đến hai người con, tuy người con thứ nhất chối không đi, sau lại hối hận ra đi làm theo ý cha; người con thứ hai vui vẻ chấp nhận, nhưng lại không thèm làm… Chúng ta lại có hình ảnh một người con thứ ba hoàn hảo, Ngài không những vui vẻ sung sướng chấp nhận mà đã thực hiện trọn hảo ý Cha Ngài muốn, để làm vui lòng Người. Đó là chính Chúa Kitô, Đấng đã nêu lên dụ ngôn này và kêu gọi chúng ta noi theo bắt chước mẫu gương Ngài đã để lại.
Bài Thánh Thư, Thánh Phaolô đã nhắc lại: Khi tới trần gian, Chúa Kitô đã thưa với Cha Ngài: “Lạy Cha, này Con xin đến để chu toàn thánh ý Cha” (Heb 10:7). Thánh nhân còn quả quyết: “Người đã tự hạ vâng lời và vâng lời cho đến chết trên Thập Giá” (Phil 2:8). Chính vì lòng ngoan thảo vâng phục cao cả đó, Chúa Cha đã được thỏa lòng khen ngợi: “Con là Con Cha yêu dấu, Con hằng làm vui thỏa lòng Cha” (Mt 7:5). Đó chính là mẫu gương sáng ngời chúng ta phải noi theo bắt chước, khi Chúa bày tỏ thánh ý Người cho chúng ta.
III. BỔN PHẬN CỦA CỦA CON CÁI CHÚA
Khi lãnh Bí Tích Thánh Tẩy, được trở nên con cái Chúa, chúng ta đã long trọng tuyên thệ từ bỏ ma quỉ, từ bỏ tội lỗi, từ bỏ những mơn trớn của xác thịt và quyến dũ của thế gian. Tin nhận Chúa và thực thi thánh ý Người. Thánh ý Chúa được thể hiện nơi những giáo lý Tin Mừng, nơi những giáo huấn và lề luật tốt lành của Giáo Hội, nơi tiếng lương tâm chân chính đã được Chúa phú bẩm nơi mỗi người chúng ta. Một đôi khi, thánh ý đó trái với bản năng tự nhiên của con người phàm tục, khiến chúng ta khó chấp nhận, nhưng thánh ý đó lại có sức giải thoát chúng ta khỏi ách nô lệ của thần dữ hỏa ngục, khỏi những ràng buộc của tội lỗi đam mê dục vọng và gông cùm của thú tính đê hèn; lại ban cho tâm hồn chúng ta được hưởng sự bình an chân thật, nhất là ban cho chúng ta sức mạnh chiến thắng được những khó khăn, giúp chúng ta dễ dàng đạt tới Ơn Cứu Độ và Đích Thánh Thiện của con cái Chúa, là chính Hạnh Phúc Vĩnh Cửu đời sau Chúa dành cho con cái Chúa trên Quê Trời.
Kết Luận
Vậy chúng ta có mau mắn ngoan ngoãn, với hết tình con ngoan thảo sẵn sàng vui sướng chấp nhận và thực thi thánh ý Chúa qua các giáo huấn và tinh thần của Tin Mừng, lời dạy dỗ của vị Đại Diện Chúa, tiếng lương tâm chân chính đã được Chúa khắc ghi trong tâm hồn chúng ta không?
Để chúng ta cũng được sung sướng nghe lời Chúa phán với chúng ta như đã tuyên dương Chúa Kitô, Con Một Chí Ái của Người: “Con là Con rất yêu dấu của Cha, Con hằng làm vui thỏa lòng Cha” (Mt 7:5).
Vậy con hãy tới lãnh phần thưởng Cha dành cho con và vui hưởng hạnh phúc với Cha trong vinh quang vĩnh cửu Quê Trời.
NÓI VÂNG VỚI THIÊN CHÚA CHÍNH LÀ THAY ĐỔI NGAY LẬP TỨC
Một người bạn nói với tôi: -Việc biểu dương những kẻ mại dâm làm tôi bực mình. Cha sở của chúng tôi luôn trưng dẫn bản văn này: “Những cô gái mại dâm sẽ vào Nước Trời trước các con”.
Tôi đã sửa lại: Tin Mừng không nói “sẽ vào trước các con” mà là “vào trước các con”. Chúa Giêsu không dành một sự ưu tiên về mặt lý thuyết cho tất cả các cô gái mại dâm! Ngài nhận thấy một điều đó là trong số các thính giả của Ngài, những cô gái mại dâm là những người đầu tiên tin vào Ngài và trở lại đạo.
Người bạn của tôi ngập ngừng.
– Tôi làm vui lòng Chúa Giêsu nếu tôi là một tên vô lại chính cống hơn là một người suy nghĩ chín chắn hay sao?
Tôi đã thấy nhiều người Kitô hữu vấp phải khó khăn này, nhất là sau một bài giảng trong đó người ta đã hành hạ họ. Chắc chắn họ không để ý rằng họ phản ứng hơi giống như những người Pharisêu mà Chúa Giêsu dành dụ ngôn hai người con cho họ.
Hai người con nhận cùng một lời mời gọi. Đây là chi tiết chủ yếu: cho dầu hoàn cảnh và cuộc sống của chúng ta như thế nào, Thiên Chúa vẫn dành cho chúng ta lời mời gọi cơ bản và cũng một lời đề nghị đó. Những khác biệt giữa chúng ta có thể là lớn, nhưng chúng rất hời hợt so với sự chọn lựa sâu xa của chúng ta; trả lời vâng hoặc không cho Chúa Giêsu Kitô.
Khi hai người con nghe: “Hôm nay con ra làm vườn nho cho cha nhé”, một người nói vâng, nhưng anh ta không đi. Người kia nói không, nhưng “nghĩ lại” anh ta lại đi. Hãy ghi nhớ hai tiếng mấu chốt: hôm nay và nghĩ lại, và bạn hãy nghĩ đến những người vây quanh Chúa Giêsu lúc Ngài nói điều này. Chính Ngài là lời mời gọi của Thiên Chúa, lời mời gọi mạnh mẽ nhất: “Hôm nay, hãy lắng nghe Ta trong khi lắng nghe Con Ta”.
Cho tới lúc đó một số người tin rằng họ nói vâng với Thiên Chúa nhưng thực tế họ nói không với Ngài. Họ không biết thực sự người ta nói vâng với Thiên Chúa như thế nào. Trên quan điểm này những người Pharisêu gống y như những cô gái mại dâm. Tất cả những người ấy đều đứng trước cơ may lớn lao là cuối cùng có thể nói vâng với Thiên Chúa ngay lập tức (vào ngày hôm nay): họ chỉ cần lắng nghe Chúa Giêsu là đủ. Những người mại dâm chớp lấy cơ may này, trong khi người Pharisêu bình chân như vại.
Làm sao giải thích một phản ứng khác biệt đến thế được? Tất cả đều nằm trong điều này: “nghĩ lại”. Để nói vâng với Thiên Chuá, phải bắt đầu bằng việc thấy rằng chúng ta đang nói không với Ngài. Thú nhận điều đó không phải là điều dễ dàng. Có một nguy cơ rình rập những người tốt nhất, những kẻ có nhiều nỗ lực như người Pharisêu: tin rằng mình ở gần Thiên Chúa đến độ không nghĩ đến hoán cải, thay đổi. Đối với những người mại dâm, tiếng không của họ nói với Thiên Chúa lớn đến nỗi họ không ngần ngại khi họ đã hiểu họ có thể nói vâng với Ngài ngay lập tức. Chúng ta, người con cả! Chúng ta nói biết bao nhiêu lần Amen… nhưng chúng ta không nhúc nhích.
– Thế thì phải làm người luật sĩ hoặc kẻ mại dâm?
– Không, mà là khám phá ra chúng ta là những luật sĩ và những người mại dâm. Dù là ngươì này hay người khác, tức là những kẻ tội lỗi. Khi chúng ta ý thức về điều đó, chúng ta có cơ may làm người con thứ hai, người con của tiếng vâng thực sự.
(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’ – R. Veritas)
Thomas Mertin mồ côi cha mẹ lúc lên mười sáu tuổi, hai mươi tuổi ông theo Đảng Cộng Sản, lúc hai mươi ba tuổi thì trở lại đạo Kitô, hai mươi bốn tuổi làm phóng viên cho tuần báo New York, sau khi nghỉ phóng viên đến hai mươi sáu tuổi từ bỏ mọi sự cuốn gói đi theo Chúa.
Thomas Mertin đến ở nhà Dòng Kentucky và trở thành tu sĩ sống đời chiêm niệm. Trong tập sách tự thuật về “Cuộc Đời Của Mình”, Thomas mô tả lại những bước đầu tiên của cuộc trở lại như sau:
Lúc đó tôi vừa mới xong trung học và đang dùng xe lửa để đi thăm khắp nơi Âu Châu với một cuộc sống khá phung phí. Một hôm nằm trong khách sạn, tôi chợt ý thức về những tội lỗi của mình, tất cả mọi sự qua đi thật nhanh. Tôi như được soi sáng để nhìn biết sự khốn cùng của tâm hồn tôi. Tôi nhất định thoát ra khỏi hoàn cảnh này, khỏi những ồn ào và lần đầu tiên Thomas Mertin đã ý thức là mình đã có kinh nghiệm cầu nguyện, cầu nguyện để xin Thiên Chúa giải thoát mình khỏi mọi ràng buộc.
Bài Phúc Âm hôm nay xem ra như người con thứ nhất nói không đi rồi lại đi, anh ta có một thái độ thay đổi cách tự động máy móc. Nhưng trong thực tế, trong đời sống thiêng liêng của mỗi người chúng ta, cần phải có thời gian cùng với những lời cầu nguyện, xin Chúa thương nâng đỡ chúng ta, đưa chúng ta ra khỏi hoàn cảnh hiện tại là đang sống trong tội lỗi, đam mê của xác thịt. Mỗi người cần phải ăn năn trở lại, cần phải thưa vâng với Lời Chúa mời gọi, vì không ai có thể nói là mình đã hoàn toàn thưa vâng với Chúa.
Mỗi người đều cảm thấy nhiều khó khăn làm mình khó trở lại, khó chấp nhận với hoàn cảnh hiện tại của mình, cảm thấy trống vắng và muốn thay đổi, cảm thấy có một sự không ổn nào đó trong tâm hồn mỗi người chúng ta. Đó là bước đầu tiên của tiến trình trở lại cùng Chúa. Rồi một biến cố nào đó đánh động và mở ra một quyết định, một bất ngờ như Thomas Mertin đang ở trong khách sạn, bất ngờ cảm thấy sự khốn cùng của mình và muốn vượt ra khỏi sự khốn cùng ấy.
Nói theo ngôn ngữ thần học thì đây là giây phút của ân sủng đánh động, mời gọi chúng ta trở về với Ngài để đời sống chúng ta được ăn khớp với lời dạy của Chúa. Cuối cùng cần phải có một quyết định cụ thể để thực hiện một việc làm theo hướng đi mới. Mỗi ngày chúng ta cần cầu nguyện nhiều và tiếp xúc thân mật với Chúa để xin Chúa ban ơn soi sáng cho chúng ta có một quyết định dứt khoát theo đúng hướng đi mà Chúa muốn chúng ta tiến bước. Hơn nữa, mỗi ngày chúng ta cần trở về với Chúa và thưa với Chúa “Lạy Chúa, này con xin đến để thực thi ý Chúa”.
Xin Chúa soi sáng giúp con nhận ra thánh ý Chúa trong những việc làm hàng ngày, trong những biến cố xảy ra trong đời sống của con và xin Chúa ban cho con được ơn can đảm chu toàn đến cùng, xin Chúa gìn giữ mỗi người trong đức tin mà chúng con tuyên xưng qua kinh Tin Kính.
1) Ý nghĩa thứ nhất của dụ ngôn:
Do Thái và lương dân đều có những thái độ khác nhau, giống như thái độ của hai anh em đề cập trong dụ ngôn. Những người trước nài xin vâng rồi bỏ đi, và giờ quyết định họ sẽ bị kết án. Còn lương dân bị gạt bỏ, sau tìm thấy đường về với nước Chúa. Lối giải thích phổ biến này có vẻ hữu lý, nhưng chưa đi vào điểm cốt yếu. Không thể quả quyết về lương dân rằng họ đã từ chối từ nguyên tắc. Nói chung, thái độ của những người đại diện ưu tú của họ chứng tỏ rằng, họ là những người đang tìm hiểu và nhận biết đấng thần linh là lẽ sống của họ. Nhưng theo lời chú giải riêng của Đức Kitô, Ngài đã hướng dụ ngôn này theo một ý nghĩa khác.
Có những nhà chú giải thấy ở đó sự giải thích về tương quan giữa lý thuyết và thực tế. Bản văn tin mừng chỉ có những người trong lý thuyết không chấp nhận, nhưng lại chấp nhận trên thực tế. Song giải thích này cũng bất toàn, vì lời chối từ của người đầu tiên không dựa trên những nhận định lý thuyết mà phát sinh từ một tâm tính cục cằn và bất nhã. Những người khác thấy trong dụ ngôn của Chúa sự đối lập giữa thực tại và vẻ bên ngoài. Người con thứ hai hình như vâng lời, nhưng thực tế lại bất phục. Trong lúc người có một tâm hồn tốt đẹp, nhưng bên ngoài lại khó thương. Lối giải thích này cũng vô ích nếu ta đào sâu bản văn, vì yếu tố cốt yếu không phải là tình trạng cố hữu, cũng không phải là thái độ trung thực núp trong vẻ bên ngoài giả dối. Yếu tố cốt yếu chính là sự hoán cải tình cảm, chính là một ý hướng canh tân, một tình trạng cải hóa của con người: nghĩa là hối hận về một thái độ sai lạc và sau khi đã ý thức, họ ước muốn thay đổi. Đây là điều thấy hiện rõ trong lời Chúa: “Rồi sau anh hối hận và đi làm”.
Theo lời quả quyết của Chúa Giêsu, dụ ngôn này nói về những điểm khác nha giữa những người biệt phái và luật sĩ, những người thu thuế và những kẻ khác, những người lãnh đạo tinh thần của Israel sống mãi trong một thái độ vị kỷ, làm họ xa Thiên Chúa. Chỉ biết chấp nhận lời Chúa, họ trung thành với Môisen, với đức tin, và với những đòi hỏi, như đứa con thứ nhất trung thành với ý cha. Còn khi những giới luật Thiên Chúa không còn đáp ứng với những nguyện vọng cá nhân của họ, họ không còn tha thiết nữa. Qua việc làm của Gioan Tẩy giả xưa, Chúa đòi hỏi việc thống hối, kêu gọi hoán cải tâm hồn và cuộc sống, thì họ không lo gì đến. Còn những người phần thu có lẽ đã lầm lạc, có lẽ hành động trái với thiên ý, nhưng khi họ nghe thấy tiếng gọi của Chúa Giêsu, họ hối cải và đạt tới nước Chúa. Trung thành đích thực nghĩa là sẵn sàng trả lời tiếng gọi của Chúa. Người ta không thể tự khép mình mãi trong một hình thức cuộc sống, vì họ phải thay đổi ngay nếu tiếng gọi từ cao đòi hỏi. “Các ông đã không thống hối để tin vào Gioan tẩy giả”. Đó là lời mắng trách mà Chúa Giêsu nêu ra cho bọn Biệt Phái.
2) Ý nghĩa thứ hai của dụ ngôn.
Những chú giải khác đem tới kết luận khác nhau. Một lối chú giải sai lạc chỉ nêu cao ý nghĩa lịch sử. Dụ ngôn được áp dụng theo dự phóng của thời đại cho thái độ khác nhau của Do Thái và lương dân, biệt phái và phần thu. Lối giải thích lịch sử đó khá xa xôi với đòi hỏi quan trọng nhất. Vì như thế, dụ ngôn chỉ áp dụng cho kẻ khác chứ không cho chính mình.
Dụ ngôn có một ý nghĩa khác nếu ta thấy trong đó có một đòi hỏi phải sẵn sàng tin tưởng. Trong trường hợp này, con người cảm thấy tâm hồn bị khích động rồi nhận ra một đòi hỏi khắt khe rằng: cần phải thuộc về Giáo Hội và phê bình những ai ở ngoài Giáo Hội, rồi sẽ ngoan cố bịt tai không chịu nghe thấy tiếng gọi của Ngài. Vô tình người ta tự cho mình đang đi đúng đường và sống trong tình trạng thiện hảo. Lòng tự tin sai lạc này biến thành cảm giác tự mãn: trong lúc kết án Biệt phái thì người ta lại trở nên giống họ! Ở đây trái lại, Đức Kitô mạnh mẽ mời gọi những ai nghe theo tiếng Ngài phải thống hối, biến đổi, sẵn sàng thay đổi hay hoán cải cuộc sống theo lệnh Thiên Chúa. Thái độ chính đáng duy nhất là tâm hồn sẵn sàng đón nhận đức tin, luôn luôn chú ý nghe và vâng lời, không tự ý điều hòa cuộc sống, nhưng đặt tất cả trong bàn tay Thiên Chúa. Những người có tín ngưỡng giữ đạo theo vẻ bên ngoài, với thời gian sẽ không được chấp nhận vào nước Chúa. Những kẻ khác, bề ngoài có vẻ theo một đường xấu, nhưng trong thâm tâm nhận biết sự sai lạc của tâm hồn mình rồi hoán cải, chính họ sẽ được cứu rỗi. Vậy dụ ngôn này đề phòng chống lại thái độ cứng lòng trong tâm hồn, sự kiêu hãnh tôn giáo, sự an bình giả tạo bên trong và đòi hỏi chúng ta phải nghe Thiên Chúa để theo tiếng gọi của Ngài. Con người phải hoán cải và để cho người ta hoán cải không ngừng, bởi vì từ một thái độ sai lạc, họ sẽ lầm lạc vào đường xấu. Cho dù bên ngoài, tất cả xem ra tốt đẹp. Thật là kỳ cục khi thấy Chúa Giêsu yêu thích những kẻ phần thu hơn những bọn Biệt Phái và Luật sĩ. Hẳn thái độ đó phải là dịp tội cho Do Thái. Nhưng sở dĩ như thế, vì Chúa Giêsu thấu suốt thâm tâm nhân loại. Một tội nhân ý thức về tội tính của mình và hối cải khi được ơn sủng đánh động, còn giá trị hơn một người mộ đạo chỉ muốn sống trong vẻ đạo đức của mình, và vì kiêu ngạo không nghe thấy tiếng gọi siêu nhiên. Hiểu như thế, dụ ngôn bày tỏ sự nghiêm trọng và thái độ cứng rắn đặc biệt đối với những ai ở bên trong. Dụ ngôn khiển trách thái độ hoán cải giả trá và thái độ bất mãn ban đầu. Khi con người đi từ thái độ chấp nhận đến từ chối, thì đó là thái độ đáng thương hại. Vì thực ra, phải đi từ từ chối đến chấp nhận mới hợp lý. Con người mà luôn luôn liều lĩnh chối bỏ Thiên Chúa, cũng sẽ phải tỏ ra luôn sẵn sàng hối cải cách trung thực nhất. Đó là điều mà dụ ngôn này bàn tới.
Anh chị em thân mến.
Một lần nọ, người chủ ruộng dẫn con trâu đến mảnh đất để cày, con trâu và người chủ làm việc suốt buổi sáng. Đến trưa người chủ thả trâu cho nghỉ ngơi và ăn cỏ, còn người chủ cũng ăn uống lấy sức. Con trâu đang nằm nhơi cỏ, thì bỗng đâu có con cọp xuất hiện làm cho trâu hốt hoảng, nhưng cọp trấn an trâu và nói: thân mi to lớn, với sức khoẻ phi thường, tại sao mi phải lệ thuộc con người yếu đuối và chịu sự điều khiển như thế? Con trâu trả lời: con người tuy nhỏ bé, yếu đuối, nhưng họ có trí khôn, nên sức mạnh không làm gì được trí khôn của họ. Cọp mới hỏi trâu trí khôn là gì mà ghê thế? Trâu bảo cọp hãy đến hỏi con người. Cọp mới đến gần con người xin cho xem trí khôn. Con người bảo là để quên ở nhà, anh bảo cọp chờ anh ta về nhà lấy cho nó xem. Nhưng anh ta chợt suy nghĩ và bảo cọp. Mi hãy để ta trói mi lại, chứ nhở khi về lấy trí khôn cho mi xem, mi sợ và bỏ trốn thì sao? Cọp bị chạm tự ái, nên để cho người trói lại. Vừa trói xong, anh ta lấy một cây to đến bên cọp và đánh cho đến khi cọp không còn sức vùng vẫy nữa, anh ta bảo: trí khôn của ta đây nầy. Con trâu nhìn thấy thế và mỉm cười cho cọp.
Con trâu nhận ra được sức mạnh của con người nên nó vâng phục và không cưỡng lại, nên nó được an toàn và được sức mạnh đó bảo vệ nó. Còn con cọp, không biết được thực chất như thế nào nên nó bị sức mạnh đó tiêu diệt nó.
Hai người con trong dụ ngôn mà Chúa Giêsu cho mọi người nhìn thấy, họ không phải là những người bốc đồng hay thay đổi. Nhưng người con thứ nhất biết suy nghĩ và nhận ra được giá trị đích thực của cuộc sống, anh nhận ra được sức mạnh của tình yêu thương nơi người cha, nên anh hối hận và quay trở về với tình yêu thương và thi hành những gì mà người cha bảo anh làm. Còn người con thứ hai, chỉ sống hời hợt bên ngoài, anh tưởng nghĩ có thể lấy lòng người cha bằng cử chỉ bên ngoài; anh đã lầm, người cha rất buồn và có lẽ cũng đang chờ đợi anh hành động theo như những gì mình đã nói. Người thi hành ý muốn của cha, mới là người vâng lời cha thực sự, chứ không phải người nói khác nhưng thực hành hoàn toàn khác là có giá trị.
Ngôn hành bất nhất là những gì thường thấy nơi con người. Khi con người chỉ biết có chính mình mà không biết đến người khác, khi đó lời nói và hành động khó mà đi đôi với nhau được.
Những gì là thường tình của con người, những gì là của câu chuyện ngày xưa, nó có phải là những gì của mỗi người trong chúng ta ngày hôm nay không?
Nhiều lần trong cuộc sống, mỗi người chỉ nhìn thấy chính mình, nhìn thấy những gì mình có, những gì mình làm được, để rồi mang niềm tự hào đến tự phụ kiêu căng. Khi đó, Thiên Chúa không còn hiện diện và không có giá trị cho cuộc sống, vì khi đó chỉ có tài năng sức lực con người là trên hết. Thiên Chúa dường như phải thi hành để trả lại cho con người những gì đã ban ra. Những lúc đó, chúng ta giống như con cọp trong rừng, không biết mình cũng không biết người, không giá trị của mình như thế nào. Nếu cứ ngoan cố trong những ý nghĩ và suy tư của mình như thế, thì số phận của chúng ta không khác gì số phận con cọp bao nhiêu.
Nhưng nếu trong cuộc sống, chúng ta nhận ra quyền năng Chúa, chúng ta cũng nhận ra được những giới hạn của chính mình, để biết quay trở về và vâng phục thánh ý Chúa thì hạnh phúc biết bao.
Những lần chúng ta dâng lên Chúa những lời kinh, những lời cầu nguyện chân thành, cùng với những việc làm tốt đẹp mà chúng ta nhìn thấy nhu cầu cần thiết của người khác và đáp ứng cho họ. Đó là những lần chúng ta thi hành thánh ý Chúa bằng cả lời nói và việc làm. Cũng có những lúc chúng ta thấy bất mãn trong cuộc sống, muốn bỏ cuộc, muốn buông trôi tất cả, muốn hành động cho thỏa cơn nóng giận, nhưng chợt kịp suy nghĩ và ngưng ngay lại, vì nhận ra đây là những điều không đẹp lòng Chúa. Đó là những lúc chúng giống như người con thứ nhất, nói không rồi chợt hối hận để sẳn sàng thi hành những gì đẹp lòng Chúa.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa soi sáng cho mỗi người để biết nhận ra Chúa trong đời sống, đồng thời cũng biết nhận ra những yếu đuối của chính mình để biết quay trở về với tình yêu Chúa.
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Trang Tin Mừng hôm nay trình bày dụ ngôn hai người con nhận cùng một lời mời gọi của cha với hai thái độ khác nhau.
– Người con thứ nhất: Lúc đầu từ chối, không vâng lời cha. Nhưng sau đó nghĩ lại, nó đi làm vườn nho cho cha. Đứa con này tượng trưng cho các người thu thuế và tội lỗi.Tuy đã phạm tội, nhưng sau đó đã hồi tâm tin theo Chúa Giêsu mà quay về với Thiên Chúa.
– Người con thứ hai: Lúc đầu ngoan ngoãn vâng lời cha. Nhưng thực tế nó lại không đi làm vườn nho theo ý cha. Đứa con này có vẻ công chính, tượng trưng cho các Thượng tế Kinh sư Pharisiêu. Tuy giữ luật Môsê trong từng chi tiết, nhưng họ lại từ chối Gioan Tẩy Giả, người đã đến chỉ đường công chính. “Thưa cha, con đây”: câu trả lời lễ phép của một đứa con ngoan ngoãn hiếu thảo, sẵn sàng vâng nghe lời cha dạy bảo; “Nhưng rồi lại không đi”: đứa con này mới chỉ vâng lời cha bằng môi miệng bề ngoài. Sau đó nó không đi làm vườn nho theo lời cha dạy. Anh ta có thái độ “ngôn hành bất nhất”, “nói mà không làm”, “nói một đàng mà làm một nẻo”. Một đời sống vụ hình thức bề ngoài. Một thái độ đạo đức giả. Người con thứ hai ám chỉ những Thượng tế, Kinh sư và Pharisiêu. Thời ấy, họ là những bậc vị vọng, họ tự xưng mình là đạo đức, công chính, trong sạch. Thực tế họ rất giả hình. Nói rất hay nhưng không thực thi điều mình nói. Họ nói mà không làm.
Giữa lời nói và việc làm thường có một khoảng cách rất lớn. Nói thì dễ nhưng làm thì khó. Con người dễ rơi vào thói nói nhiều làm ít, hoặc chỉ nói suông mà không làm, hoặc còn tệ hơn nữa khi việc làm mâu thuẫn với lời nói.
Nói và làm, một tiêu chuẩn để xét định đời sống.
Kể xong dụ ngôn, Chúa Giêsu hỏi: “Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha?”. Họ trả lời: “Người thứ nhất”. Đó là người nói không, nhưng đã hối hận và đi làm việc. Ở đây rõ ràng có hai loại người: nói ít làm nhiều và nói nhiều làm ít.
– Nói ít làm nhiều.
Nói ít không phải là “ít nói” vốn thường hiểu theo nghĩa tiêu cực bộc lộ một lòng trí tối tăm hay lòng dạ mưu mô. Nói ít cũng chẳng phải là không có gì để nói hay không biết nói gì. Trái lại người nói ít là người biết mình nói gì và cũng là người có khả năng nói nhiều với chính mình bằng ngôn ngữ tư tưởng, với người bằng ngôn ngữ hành động. Chính vì thế họ dễ trở thành những người “làm nhiều”. Những người nói ít làm nhiều thường là những người tốt bụng, nhiệt thành với công việc, chu toàn nhiệm vụ và biết trách nhiệm. Họ không làm phiền người bên cạnh. Họ thích làm tốt cho người khác. Họ không bận tâm đến tiếng chê, chẳng nặng nợ với lời khen. Họ chăm chỉ làm việc và quan tâm tới từng việc làm. Với họ, làm là cách nói tốt nhất.
– Nói nhiều làm ít.
Có những người nói nhiều mà làm chẳng được bao nhiêu. Họ là những người hay nói. Hay nói chưa chắc nói hay nhưng chắc chắn một điều: hay nói là một cánh cửa luôn rộng mở cho những người thích nói hay nói tốt về mình, để làm điều kiện thuận lợi cho việc dèm pha phê bình người khác. Đây là một nguy cơ của việc nói nhiều. Có biết đâu phê bình người khác lại là một cách bộc lộ lòng dạ mình ra. Mang kính đen thì phê bình sao người khác đen quá, giống như lưỡi đắng có bao giờ thấy canh ngọt. (x. Làm nụ hoa trắng, trang 90-91, ĐGM Vũ Duy Thống).
Nói và làm, hai thái độ sống
Sau câu hỏi, Chúa Giêsu xác định một câu nghe thật nhức nhối: “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm sẽ vào nước trời trước các ông”. Những Thượng tế, Kinh sư và Pharisiêu không chịu nghe lời Chúa, không ăn năn sám hối. Những người thu thuế và gái điếm, khi được mời gọi đã thành tâm sám hối. Có hạng người nói không làm và hạng người làm không nói.
– Người nói mà không làm. Họ tự cho là mình đạo đức, nhưng khi Chúa Giêsu rao giảng, họ không những không tin mà còn phê phán chỉ trích những người tin Chúa, chỉ trích chính Chúa đã đón tiếp người tội lỗi.
– Người không nói nhưng lại làm. Đó là những người thu thuế và những cô gái điếm. Tuy sống tội lỗi, nhưng khi nghe Chúa rao giảng, họ đã ăn năn sám hối và tin vào Chúa.
Những bài học
Qua dụ ngôn, Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta hai bài học quan trọng.
– Việc làm quan trọng hơn lời nói.
Chính việc làm minh chứng lời nói. Chính việc làm mới có sức thuyết phục. Lý thuyết dù có hay có đẹp đến đâu nếu không thực hiện được thì cũng vô ích. Trong đời sống, chúng ta gặp không ít những người nói hay, nói nhiều, nhưng làm chẳng bao nhiêu. Nhưng trái lại, có những người nói không hay, có khi không nói gì cả, nhưng lại làm rất nhiều. Nhất thời chúng ta có thể thích những người nói hay. Nhưng sống càng lâu, chúng ta càng mến những người nói ít làm nhiều. Con đường đi từ trái tim đến đôi tay là một con đường dài và gian khổ. Rung động trước nổi khổ của người khác là điều tốt, giúp cho họ bớt khổ là điều tốt hơn. Thánh Gioan khuyên rằng: “Hỡi anh em, đừng yêu mến bằng lời nói suông, nhưng bằng việc làm thực sự” (1Ga 3,18).
Trong đời sống thiêng liêng cũng vậy. Chúa yêu chuộng những người làm việc hơn là những người chỉ biết nói suông. Những Luật sĩ Biệt phái Kinh sư bị lên án dữ dội vì họ giả hình. Họ nói mà không làm. Họ đặt gánh nặng lên vai người khác nhưng bản thân lại tránh né. Ngày nay cũng vậy, có những bậc cha mẹ dạy con cái phải giữ đạo, phải cầu nguyện, dự lễ, nhưng chính mình lại biếng nhác, không làm gương sáng cho con cái. Chúa đòi hỏi phải thực hành: “Không phải những ai nói rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào Nước Trời, nhưng là những kẻ làm theo ý Cha Ta trên trời” (Mt 7,21). Đức tin phải biểu lộ bằng việc làm mới là đức tin sống động. Thánh Giacôbê dạy: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17). Tình yêu cũng phải có việc làm. Việc làm minh chứng tình yêu đích thực. Tin yêu Chúa phải được biểu lộ bằng việc làm.
– Hãy làm một cách khiêm tốn.
Những người Pharisiêu làm gì cũng muốn phô trương. Muốn tỏ ra mình đạo đức, họ đeo lề luật trên trán, trên tay. Ðeo rồi, sợ người khác không nhìn thấy, họ phải “đeo những hộp kinh thật lớn, may những tua áo thật dài” để cho mọi người biết họ yêu mến lề luật, giữ đạo cặn kẽ. Thói phô trương dễ biến thành tự phụ tự mãn, hợm hỉnh. Nên những người Pharisiêu “ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là thầy”.
Khi phê phán người Pharisiêu, Chúa Giêsu muốn cho môn đệ hãy sống đạo trong kín đáo: “Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy… Vậy khi bố thí, đừng có khua chiêng đánh trống, như bọn đạo đức giả thường biểu diễn trong hội đường và ngoài phố xá, cốt để người ta khen. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi. Còn anh, khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm, để việc anh bố thí được kín đáo… Và khi cầu nguyện, anh em đừng làm như bọn đạo đức giả: chúng thích đứng cầu nguyện trong các hội đường, hoặc ngoài các ngã ba ngã tư, cho người ta thấy… Còn anh, khi cầu nguyện, hãy vào phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh, Ðấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Ðấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh” (Mt 6,1-6). Kín đáo làm việc đạo đức là dấu chỉ lòng mến Chúa chân thực. Lòng mến Chúa chân thực sẽ dẫn đến thái độ khiêm tốn, luôn biết kính trọng người khác và luôn biết phục vụ anh em.
Xin Chúa giúp chúng con biết sống “ngôn hành như nhất” để lời nói và việc làm của chúng con luôn đẹp lòng Chúa và mưu ích cho tha nhân. Amen.
Có một ông công chức, khi về hưu, đã mua mấy mẫu đất ở miền quê để làm một thửa vườn rộng. Thế nhưng, ông thấy mình không thể đảm đương hết mọi công việc, nên ông đã đi thuê người giúp việc.
Đầu tiên, một chàng thanh niên tới và ông đã hỏi:
– Anh có biết gì về nghề làm vườn hay không?
Anh trả lời:
– Tôi có biết chút ít.
Ông ta chỉ dẫn cho anh:
– Anh hãy lấy những hạt giống này, ngâm vào nước âm ấm cho qua một đêm, rồi mới đem gieo trồng.
Thế nhưng anh đã phản đối và cho rằng đó không phải là một cách thức tốt.
Sáng hôm sau, một chàng thanh niên khác đến xin việc, ông ta cũng hỏi:
– Anh có biết gì về nghề làm vườn hay không?
Anh trả lời:
– Tôi không biết nhưng rất vui lòng được học.
Ông ta cũng chỉ cho anh cách ươm cây và anh đã vâng theo làm như vậy. Cuối cùng ông ta cắt nghĩa:
– Đây là giống bạch đàn không dễ gieo trồng. Nếu không ngâm vào nước ấm trong một đêm thì hạt sẽ khó mà nẩy mầm.
Và chàng thanh niên đã thú nhận:
– Tôi không biết lý do nhưng tôi nghĩ rằng ông có kinh nghiệm hơn tôi nên ông bảo sao thì tôi làm như vậy.
Từ câu chuyện trên chúng ta thấy: Một số người có quyền và có bổn phận bảo cho người khác điều phải làm. Chẳng hạn người cha trong dụ ngôn chúng ta vừa nghe, có quyền và có bổn phận đó. Còn hai người con của ông tiêu biểu cho chúng ta, là những người có bổn phận phải làm, phải thi hành, phải vâng theo.
Từ ngàn xưa và cho đến ngày hôm nay, luôn có sự xung khắc giữa quyền bính và sự vâng phục trong nhiều lãnh vực của đời sống. Chẳng hạn như nơi gia đình, trường học, nhà máy, chính quyền và có khi ngay cả nơi Giáo Hội, là gia đình của Thiên Chúa.
Riêng với chúng ta, những người có bổn phận phải vâng nghe, chúng ta hãy coi những người ra lệnh hay chỉ dẫn là những người có khả năng và hiểu biết hơn chúng ta. Nhất là đối với cha mẹ trong gia đình.
Như chúng ta cũng đã thấy cha mẹ là những người thay mặt Chúa để nuôi dưỡng giáo dục chúng ta, vì thế dưới một góc độ nào đó, thì vâng lời cha mẹ cũng chính là vâng lời Chúa. Nhờ lời chỉ bảo và hướng dẫn của các ngài, chúng ta sẽ trở nên những con người tốt lành như ca dao đã bảo:
– Cá không ăn muối cá ươn,
Con cãi cha mẹ trăm đường con hư.
Qua câu chuyện Chúa Giêsu kể hôm nay, người con thứ nhất nói là mình không đi làm, nhưng sau anh đã nghĩ lại và đã vâng theo lệnh cha. Còn người con thứ hai nói làmình sẽ đi làm nhưng rồi lại không đi. Thật là tuyệt vời nếu như có người con thứ ba nói rằng: Con sẽ làm hay con sẽ cố gắng làm và thực tế là anh đã chu toàn công việc người cha trao phó.
Chính Đức Kitô đã làm gương cho chúng ta bởi vì Ngài đã vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có biết chu toàn thánh ý Chúa, nhất là khi thánh ý ấy được biểu lộ qua những lời chỉ dạy và hướng dẫn của cha mẹ, của những người bề trên chúng ta hay không?
Với lời mời gọi: Hôm nay, con hãy đi làm vườn nho cho cha, chúng ta cùng nhau xét lại thái độ của chúng ta đối với thánh ý Thiên Chúa.
Thiên Chúa luôn kêu mời chúng ta.
Rất có thể khi nghe biết được lời mời gọi ấy, chúng ta đã mau mắn xin vâng, nhưng rồi sau đó lại chẳng hề làm điều Chúa truyền dạy. Chúng ta chỉ nói mà không làm, chỉ ước muôn mà không dám chấp nhận mạo hiểm và dấn thân. Đó là trường hợp của người con thứ trong dụ ngôn, tượng trưng cho các thượng tế và kỳ mục.
Cũng có thể là khi nghe biết được lời mời gọi của Chúa, chúng ta đã từ chối, nhưng rồi sau đó chúng ta hối hận, nên đã đi làm. Đó là trường hợp của người con trưởng, tượng trưng cho những kẻ thu thuế và gái điếm.
Khi so sánh các thượng tế và kỳ mục cới những kẻ thu thuế và gái điếm, mà chân lý lại thuộc vào hạng người thứ hai này, thì rõ ràng cuộc đấu tranh giữa Chúa Giêsu và giai cấp lãnh đạo tôn giáo thời báy giờ đã đi tới chỗ quyết liệt.
Qua đó chúng ta thấy rằng Chúa Giêsu rất ghét sự giả hình của những kẻ nói mà không làm: họ nói thì nhiều mà làm chẳng được bao nhiêu, hay làm ngược lại những gì mình đã nói: họ nói vậy mà không phải vậy đâu. Đồng thời Ngài luôn yêu thích sự thành thật của những người làm theo ý muốn Chúa Cha..
Đây không phải là lần thứ nhất Chúa Giêsu để cao giá trị của việc thực thi thánh ý Thiên Chúa. Ngài cũng đã từng khẳng định:
– Không phải những ai nói rằng lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào Nước Trời, chỉ những ai chu toàn thánh ý Chúa Cha, Đấng ngự ở trên trời, thì mới được vào mà thôi.
Các thượng tế và kỳ lão đã làm rất nhiều việc, nào là cầu kinh, nào là dâng tiến lễ vật, nào là chăm sóc và hướng dẫn cộng đoàn Dân Chúa, không thể trách cứ họ được điều gì trong việc tuân giữ lề luật. Về phương diện này, họ là những mẫu gương sáng chói.
Thế nhưng, họ có thực sự làm những việc ấy vì Chúa và cho Chúa không? Các việc ấy có giúp họ tìm kiếm và thức thi thánh ý Chúa không? Hay chỉ giúp họ tìm kiếm chính mình, tạo cho họ niềm tin vào công đức của mình mà chểnh mảng với những đòi hỏi của lời Chúa, đó là sám hối và tin vào Phúc Âm, đó là thực thi những lệnh truyền của Tin mừng.
Họ có thể trung thành với mọi hình thức tôn giáo, nhưng lại không làm theo ý muốn của Chúa. Do đó, truớc mặt Chúa, họ chẳng làm được việc gì.
Trái lại, kẻ thu thuế và gái điếm, khi đã tin nhận Chúa Giêsu và đón nhận sứ điệp của Ngài mà trở về cùng Thiên Chúa, thì họ thực sự là những người đã làm theo ý muốn của Thiên Chúa. Hậu quả là họ sẽ được vào Nước Trời trước những vị kia.
Với chúng ta thì sao? Ngày hôm nay, Chúa muốn nói gì với tôi và tôi phải làm gì để đáp trả lời mời gọi của Chúa?
Như những người đi rừng phải chú ý tới những tiếng động hết sức nhỏ, nhờ đó biết được sự có mặt của một người hay một vật nào khác. Cũng vậy, tôi phải chú ý tới những tín hiệu rất nhỏ mà Chúa gửi đến qua những người tôi gặp gỡ, qua những biến cố xảy ra chung quanh tôi.
Tôi tìm dấu chân Ngài và tôi lắng nghe tiếng nói của Ngài trong những sự việc rất tần thường của cuộc sống. Tôi không cần phải lìa bỏ thế gian để đi tìm kiến Chúa, bởi vì Ngài có mặt ở đó, ngay giừa lòng cuộc đời chúng ta.
Người không đòi hỏi tôi phải làm những công việc rạng rỡ. Như các thượng tế và kỳ mục, có thể tôi đã làm rất nhiều, nhưng lại bỏ qua một việc chính yếu, đó là thực thi công bằng bác ái.
Như thánh nữ Têrêsa, tôi muốn đi trên con đường nhỏ, tôi muốn làm những công việc tầm thường một cách phi thường vì lòng yêu mến Chúa. Nhờ đó, chúng ta sẽ trở thành những con én, góp phần làm nên mùa xuân của Giáo Hội, hay trở thành những Têrêsa nhỏ, làm mưa hoa hồng xuống cho nhân loại.
Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu nói tới hai loại người qua hình ảnh hai người con: Người con thứ nhất, bảo đi làm thì nói không đi, nhưng rồi lại làm như ý người cha. Người con thứ hai, gọi dạ bảo vâng, nhưng rồi không chịu đi làm. Rồi chính Chúa đã giải thích cho chúng ta biết: người con thứ nhất ám chỉ những người thu thuế và những người đàng điếm, hai loại người này bị xã hội Do Thái khinh miệt nhất. Những người thu thuế bị khinh miệt vì họ cấu kết với ngoại bang để bóc lột đồng bào mình. Vì thế dân chúng oán ghét họ và liệt họ vào hạng người phản quốc, bỏ đạo và không thể ăn năn hối cải. Còn những ả giang hồ thì thời nào cũng vậy, đều bị xã hội khinh miệt sát đất, coi họ là hạng người xấu xa, làm dơ bẩn xã hội, và cũng không thể được cứu rỗi.
Ngược lại, người con thứ hai, ám chỉ những thượng tế, kinh sư và Pharisêu thời ấy, là những người tự xưng mình là đạo đức, công bằng, trong sạch, nhưng là thứ đạo đức, công bằng, trong sạch giả hình, bôi bác. Ngoài miệng thì nói hay lắm, nhưng không thực thi điều mình nói. Đó là những người “ngôn hành bất nhất”: nói mà không làm.
Nhưng tại sao Chúa lại nói với các thượng tế, kinh sư và Pharisêu: “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm sẽ vào nước trời trước các ông”? Bởi vì những thượng tế, kinh sư và Pharisêu khi Chúa giảng dạy, không chịu nghe, coi thường lời Chúa, không ăn năn sám hối. Còn những người thu thuế và gái điếm, khi được Chúa kêu gọi, họ đã thành tâm sám hối. Chúng ta thấy: những người nói sẽ làm, rồi lại không làm, là loại người đáng trách. Còn những người nói không làm, rồi lại làm, là loại người đáng khen.
Chúng ta biết: từ tư tưởng đến lời nói và tới việc làm là cả một đường dài xa xăm. Thực vậy, một khuôn vàng thước ngọc, dù có hay mấy mà không đem ra thực hành thì cũng là không hay và vô ích. Cũng thế, có tư tưởng hay mà không đem thực hành thì cũng như một bông hoa không bao giờ kết trái. Chúng ta vẫn nói: “Ăn vóc học hay”: ăn để mà học, học để mà biết, biết để mà làm. Không biết thì không thể làm gì được, chỉ còn biết đứng dựa cột mà nghe. Nhưng biết mà không làm thì lấy gì minh chứng cho sự hiểu biết ấy? Biết mà không làm thì giống như người đầy tớ đem chôn nén bạc và bị xét xử. Hơn nữa, biết mà lại cứ làm sai thì càng bị xét xử nặng hơn. Cho nên, đã biết thì làm, cả hai đi song song nhau, hỗ trợ nhau, thì mới hữu dụng, hữu ích. Nhưng thực tế, trong xã hội, chúng ta thấy có những người biết mà không làm, hoặc nói thì rất hay nhưng lại không chịu làm.
Câu nói: “Năng thuyết bất năng hành”: hay nói mà không hay làm, hoặc nói được làm không là như thế. Ở đời này, hơn thua nhau ở chỗ lý thuyết và thực hành: một lý thuyết dù hay mấy mà không đem ra thực hành thì cũng vô ích. Nhưng tại sao chúng ta nói mà không làm? Có thể là vì chúng ta không có khả năng hành động, có thể là vì chúng ta chống đối, bất tuân không muốn làm, có thể là vì việc làm đó không đem lại lợi ích gì cho chúng ta. Tuy nhiên, nói mà không làm thì lời nói không có giá trị và về sau người ta không tin lời chúng ta nói nữa. Cũng thế, “đức tin không việc làm là đức tin chết”. Cho nên, có đạo lý đúng và hay chưa đủ mà còn cần phải sống và thực hành thì mới minh chứng được đạo lý đó đúng hay sai.
Bài Tin Mừng nhắc nhở chúng ta hãy xét lại, hãy nhìn lại: lời nói và việc làm của chúng ta có đi đôi với nhau không? Chúng ta yêu cầu người khác phải sửa sai, nhưng chính chúng ta có biết tự sửa sai không? Chúng ta phê bình người khác, nhưng chúng ta có rờ lên gáy mình không? Hay là chúng ta thấy cái rác trong mắt người mà không thấy cái xà trong mắt mình? Hay là “chân mình thì lấm mê mê, lại cầm bó đuốc mà rê chân người”? Trong phạm vi gia đình, thật không gì tai hại cho bằng nói mà không làm: chúng ta bảo con cái phải biết nhường nhịn, tha thứ cho nhau, nhưng chúng ta thì lại cứ ăn thua đủ, không ai nhường ai. Chúng ta bảo con cái phải sống thành thật, nhưng chúng ta lại cứ quanh quéo, gian dối với người khác. Trong đời sống đạo đức cũng vậy, liệu tâm hồn chúng ta có phải là tâm hồn Kitô đích thực không? Liệu đời sống của chúng ta có phải là một thể hiện những gì chúng ta tuyên xưng không? Hay chúng ta chỉ có cái vỏ Kitô bên ngoài? Nếu chúng ta sống như vậy, chúng ta hãy coi chừng, chúng ta sẽ bị Chúa cảnh cáo: những người khác sẽ vào nước trời, còn chúng ta thì sao?
Một trong những khả năng độc đáo mà Thiên Chúa đã ban cho con người là khả năng hồi tâm. Nghĩa là con người biết nhìn lại những lời nói hay những việc làm của mình. Nhìn lại để thấy đâu là những điều tốt cần phát huy và đâu là những điều chưa tốt cần phải sửa chữa.
Người con thứ nhất trong dụ ngôn của đoạn Tin mừng hôm nay, đã biết sử dụng một cách tuyệt vời khả năng ấy. Lúc đầu khi nghe người cha kêu đi làm vườn nho thì nó trả lời: “Con không đi. Nhưng sau đó nó đã biết hối hận và đi làm”. (Mt 21,29). Ngược lại đứa con thứ hai thì nhanh chóng đáp lời cha. Tuy vậy, đáng tiếc là nó lại không đi.
Hình ảnh đứa con thứ nhất Chúa Giêsu muốn nói đến là những người được coi là tội lỗi nhưng biết thật lòng ăn năn sám hối. Còn hình ảnh đứa con thứ hai chính là những thượng tế và các kỳ lão trong dân Do thái thời ấy. Bên ngoài thì họ làm ra vẻ rất ngoan ngoãn. Nhưng thực chất họ không những không đón nhận những lời chỉ dạy của các tiên tri mà cũng chẳng đón nhận Người cũng như những lời dạy bảo của Người. Đến nỗi một lần nọ Chúa Giêsu đã nói: “Tôi phải ví thế hệ này với ai? Họ giống như lũ trẻ ngồi ngoài chợ gọi lũ trẻ khác,và nói:”Tụi tôi thổi sáo cho các anh, mà các anh không nhảy múa; tụi tôi hát bài đưa đám, mà các anh không đấm ngực khóc than.Thật vậy, ông Gio-an đến, không ăn không uống, thì thiên hạ bảo: “Ông ta bị quỷ ám.” Con Người đến, cũng ăn cũng uống như ai, thì thiên hạ lại bảo: “Đây là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi.” (Mt 11, 16-19).
Chúng ta thường nghe nói: “Đánh kẻ chạy đi chứ ai đánh kẻ chạy lại”. Cho nên Chúa Giêsu đã tuyên bố với các ông ấy: “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông” (Mt 21, 31b). Bởi lẽ: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! lạy Chúa!” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7,21). Như thế, không phải là Chúa Giêsu nhượng bộ hay dung túng cho những người được coi là tội lỗi này. Nhưng quan trọng là vì họ đã biết hối hận, sửa đổi lại cách sống sai trái của mình.
Là con người yếu đuối không ai là không có những lần sai lỗi. Điều quan trọng là sau những lần lầm lỗi đó chúng ta có biết nghe lời Chúa để quay đầu lại hay không. Augustinô là một trong những mẫu gương sống động cho chúng ta.
Hãy biết trân trọng và sử dụng sao cho có hiệu quả ơn độc đáo mà Thiên Chúa đã ban cho con người chúng ta. Đó là khả năng hồi tâm và biết sửa đổi.
(Trích báo Hiệp Nhất tháng 9-2014 – Lm. Thái)
“Con không đi!” Nhưng sau đó nó hối hận, và đi làm…
“Thưa cha, vâng, con đi!” Nhưng nó lại không đi. (Mt 21:28-32)
Một chàng thanh niên đang đi kiếm mấy món hàng cần dùng trong siêu thị, anh để ý thấy một bà cụ cứ chăm chú nhìn mình. Thoạt tiên, anh phớt lờ, nghĩ rằng chẳng có gì và tiếp tục đi kiếm hàng. Khi anh đến quầy tính tiền, lại gặp bà cụ đang đứng ở đó. Anh lịch sự nhường cho bà đứng xếp hàng phía trước anh. “Xin cậu thứ lỗi”, bà nói, “Tôi thành thật xin lỗi đã nhìn chăm chú vào cậu, vì trông cậu rất giống người con trai của tôi vừa mới qua đời”. Động lòng trước bà cụ đáng thương, chàng thanh niên nói: “Thật đáng tiếc, má à. Con có thể làm được gì để giúp má không”? Bà cụ mỉm cười trả lời: “Cậu biết cái gì làm cho má cảm thấy an ủi hơn không? Con trai của má thường đi sắm đồ chung với má. Khi má ra về, cậu ấy thường nói: “Tạm biệt, Má”, Cậu có thể nói như vậy giống như con trai của má đang đứng ở đây với má thêm một lần nữa được không?” – “Được chứ, con rất vui vẻ nói mà, đâu có sao!” chàng thanh niên đơn sơ trả lời.
Sau khi gom tất cả mọi món đồ từ quầy tính tiền đặt vào bao, bà cụ ra về. Chàng thanh niên lớn tiếng chào, “Tạm biệt, Má!” Bà cụ mỉm cười, quay lại vẫy tay từ biệt. Rồi chàng thanh niên lấy những món đồ đã chọn từ trong giỏ để lên quầy tính tiền. Cô thâu ngân tính toán, rồi đưa hóa đơn cho anh. Tổng cộng là 140 đôla. Chàng thanh niên giật mình: “Xin lỗi cô, cái hoá đơn đâu có đúng. Tôi chỉ mua có vài món hàng. Nó chưa đến 25 đôla”. Cô thâu ngân liền đáp: “Má của anh đã nói với tôi rằng anh sẽ trả cho bà mà”. Chàng thanh niên lịch sự đã không biết đến những khía cạnh phức tạp, đen tối của trái tim con người. Ngay cả những người già cũng có thể lừa đảo bằng những lời gian dối quanh co!
Con người là tạo vật phức tạp. Phức tạp trong trái tim. Phức tạp trong đời sống. Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu nói lên sự phức tạp trong trái tim con người qua dụ ngôn hai người con. Người cha thương lượng với hai anh em về việc đi làm trong vườn nho. Một người từ chối không đi làm, nhưng đã đi. Người kia chấp nhận đi làm, nhưng lại không đi!
Trong cuốn “The Cultural World of Jesus”, John J. Pilch nói rằng một nhà truyền giáo ở Trung Đông đã thường dùng dụ ngôn hai người con để chia sẻ Phúc Âm với những người dân làng nơi ông đến thăm viếng, và hỏi họ: “Người con nào tốt hơn?” Đại đa số đã trả lời người con thứ hai thưa vâng nhưng đã không đi làm vườn nho là người con tốt hơn. Sự trả lời của người con này đã làm vinh danh và kính trọng người cha. Đây là điều người cha muốn được nghe. Đối với người Trung Đông, danh giá là chủ yếu, còn việc người con có đi làm hay không chỉ là vấn đề phụ thuộc.
John Pilch nói tiếp: “Hãy nhớ rằng đời sống ở Trung Đông là đời sống cộng đồng. Giá trị chủ yếu của nền văn hoá này là danh giá cần phải được công bố công khai. Câu chuyện đối thoại giữa người cha và hai người con trong dụ ngôn này không xảy ra ở nơi riêng tư, nhưng ở nơi công cộng, dưới sự quan sát và lắng nghe của nhiều người trong làng. Giống như con cháu của họ ngày nay, những người dân làng Trung Đông trong dụ ngôn ưa thích người con biết kính trọng người cha mặc dù không vâng lời hơn là người con bất kính nhưng vâng lời”.
Trong nền văn hoá Trung Đông, đối với John Pilch, danh dự của người cha được quần chúng xác nhận qua lời tuyên bố công khai của con cái. Người con thưa vâng đã trả lời một cách kính trọng, và trong sự phán đoán của quần chúng, lệnh của người cha có giá trị, danh dự của ông được bảo vệ. Ngược lại, người con thưa không đã phỉ báng và công khai hạ nhục uy tín của người cha. Nhưng John Pilch cũng xin lưu ý ở điểm này: “Chúa Giêsu đã không hỏi người con nào thể hiện danh giá của người cha? Người hỏi: “Người con nào đã làm theo ý muốn của người cha?” Những người Trung Đông hiện đại cũng chấp nhận phán đoán của khán giả lắng nghe lời Chúa: “Người con thứ nhất”, là người nói không, nhưng đã hối hận và đi làm việc. Họ nhìn nhận tầm quan trọng của sự vâng lời, nhưng cũng coi trọng cả danh dự nữa”.
Sự phức tạp trong dụ ngôn này là điều rắc rối trong trái tim của con người. Người con thứ nhất thật lòng không muốn đi, thưa không, nhưng nghĩ lại đã ân hận vì làm sỉ nhục danh giá của cha, đành đổi ý, ra đi làm việc. Còn người con thứ hai chỉ muốn giữ danh giá bề ngoài cho cha, thưa vâng cho qua chuyện, rồi không giữ lời hứa. Hứa bằng lời nói thôi cũng chưa đủ, phải có hành động cụ thể (Lc 6:43; Mt 7:21).
Một linh mục phó xứ quyết định mở khóa học Thánh Kinh vào mỗi tối Chúa nhật. Sau Thánh lễ 8 giờ sáng, ngài yêu cầu giáo dân ở lại để trình bày ý tưởng về nhóm học Thánh Kinh. Sau khi cắt nghĩa chương trình, ngài hỏi, “Quý ông bà anh chị em có nghĩ rằng chúng ta nên mở khóa học Thánh Kinh trong họ đạo vào mỗi tối Chúa nhật không?” Có tất cả 54 người giơ tay đồng ý, tán thành ý tưởng đạo đức này. Sau đó, trở về nhà xứ, ngài trình bày với cha xứ về sự hưởng ứng nhiệt liệt của giáo dân đối với dự tính của ngài. Cha xứ đã lắng nghe, rồi nhẹ nhàng nói: “Có lẽ cha nên đặt lại câu hỏi.” Sáng Chúa nhật tuần sau, cũng sau Thánh Lễ, ngài xin giáo dân ý kiến, và đặt lại câu hỏi: “Có bao nhiêu người sẽ dự buổi học Thánh Kinh tối nay?” Thật tuyệt vọng, cha phó đã đếm được bốn người giơ tay.
Đối với lời mời gọi đi làm vườn nho của Thiên Chúa, hôm nay chúng ta cũng tự hỏi mình, chúng ta là người con nào? Sự phức tạp trong tâm hồn của con người còn có thể tạo ra nhiều thái độ hơn nữa. Xin nêu lên 4 thái độ điển hình:
1- Thưa “không” với Thiên Chúa, nhưng sau đó đã đi làm:
Theo John Pilch, những người thu thuế và đĩ điếm đã có thái độ giống như người con thứ nhất. Lúc ban đầu họ đã nói “không” với Thiên Chúa, nhưng khi Gioan Tẩy Giả rao giảng, họ đã sám hối, trở lại và hành động vui lòng Thiên Chúa (GLCG #535).
Thánh Phaolo là một gương sáng. Khi Phaolo mới nghe biết về Chúa kitô, về Phúc âm và những môn đệ của Người, ông đã chống lại họ bằng mọi cách. Phaolo hoàn toàn cự tuyệt, bắt bớ và hủy diệt Phúc âm cùng Giáo Hội của Người. Tuy nhiên điều này hoàn toàn vô ích. Một ngày nọ, Đức Kitô đã gặp ông trên đường Damascus, Phaolo đã sám hối, thay đổi, và trở thành một con người mới, với trái tim và tinh thần mới. Phaolo đã sống suốt cuộc đời còn lại để thưa vâng với Thiên Chúa.
2- Thưa “Vâng” với Thiên Chúa , nhưng sau đó đã không đi làm:
Theo John Pilch, các thầy thượng tế, và các bậc kỳ lão Do Thái đã có thái độ giống như người con thứ hai. Họ thích tôn trọng danh giá bề ngoài. Họ đã nghe lời kêu gọi sám hối của Gioan Tẩy Giả và nhìn thấy những người thu thuế, tội lỗi ăn năn trở lại. Họ làm bộ ưng thuận bằng những lời lẽ tôn vinh và kính trọng Thiên Chúa, nhưng đã không thể hiện điều gì trong cuộc sống (Lc 7:30).
Trong cuốn tiểu thuyết “The Fall” của Albert Camus, có một cảnh diễn tả một chàng luật sư đáng kính đang bước đi trên đường phố Amsterdam. Anh nghe rõ một tiếng kêu la giữa đêm tối. Anh nhận ra một người đàn bà đã ngã xuống đất, đang bị đẩy xuống dòng sông, và đang kêu la xin cầu cứu. Rồi những tư tưởng chợt đến trong tâm trí: “Dĩ nhiên tôi phải ra tay giúp đỡ, nhưng… một luật sư nổi tiếng lại can dự vào vụ này sao? Những người liên can đến vụ này là ai?… Và sự nguy hiểm cho tính mạng mình là gì? Sau cùng, ai biết được chuyện gì đang xảy ra ở đó. Vào lúc anh đang chần chờ suy tính thì đã quá trễ. Anh tiếp tục bước đi, và tạo ra đủ mọi lý lẽ để biện minh cho sự thất bại, không hành động của mình. Nhưng, Camus, trong một hàng chữ bi đát đã kết luận như sau: “Anh ta đã không đáp trả tiếng kêu xin cầu cứu. Đó là con người của anh!”
3- Nhất quyết thưa “không” với Thiên Chúa.
Đây là loại người có thái độ cương quyết nói “không” với Thiên Chúa từ ban đầu cho đến cuối đời, trong cả lời nói lẫn hành động. Họ sống cả cuộc đời từ chối và chống lại sự hiện hữu của Thiên Chúa.
4- “Con người” luôn nói “Thưa Vâng” với Thiên Chúa:
Con người luôn nói “thưa vâng” với Thiên Chúa từ ban đầu cho đến phút cuối, trong lời nói cũng như trong hành động, đó là Chúa Giêsu Kitô. Người đã dâng hiến tất cả mọi vinh quang và hạnh phúc cho Thiên Chúa. Người là khuôn mẫu hoàn hảo của chúng ta. Người đã được thánh Phaolo diễn tả bằng những đoạn tuyệt vời nhất trong lá thư gửi cho tín hữu Phi-líp-phê:
“Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hành với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn ttrút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl. 2:6-8).
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đi làm vườn nho Nước Trời, nhưng Ngài cũng đòi hỏi chúng ta một sự lựa chọn triệt để: “Để được Nước Trời, người ta phải cho tất cả (Mt 13:44-45), và lời nói không đủ, còn cần phải có những hành động nữa (Mt 21:28-32), (GLCG #546). Xin Thiên Chúa ban cho chúng ta có thái độ giống Chúa Giêsu: một tiếng “Thưa Vâng” trong lời nói và hành động suốt cuộc đời.
Một linh mục phó xứ quyết định mở khoá học Thánh Kinh vào mỗi buổi tối Chúa nhật. Sau thánh lễ 8 giờ sáng, ngài yêu cầu giáo dân ở lại để trình bày ý tưởng về nhóm học Thánh Kinh. Sau khi cắt nghĩa chương trình, ngài hỏi, “Quý ông bà anh chị em có nghĩ rằng chúng ta nên mở khoá học Thánh Kinh trong họ đạo vào mỗi tối Chúa nhật không?” Có tất cả 54 người giơ tay đồng ý, tán thành ý tưởng đạo đức này. Sau đó, trở về nhà xứ, ngài trình bày với cha xứ về sự hưởng ứng nhiệt liệt của giáo dân đối với dự tính của ngài. Cha xứ đã lắng nghe, rồi nhẹ nhàng nói: “Có lẽ cha nên đặt lại câu hỏi”. Sáng Chúa nhật tuần sau, cũng sau thánh lễ, ngài xin giáo dân ý kiến, và đặt lại câu hỏi: “Có bao nhiêu người sẽ dự buổi học Thánh Kinh tối nay?” Thật tuyệt vọng, cha phó đã đếm được bốn người giơ tay.
Đối với lời mời gọi đi làm vườn nho của Thiên Chúa, hôm nay chúng ta cũng tự hỏi mình, chúng ta là người con nào? Sự phức tạp trong tâm hồn của con người còn có thể tạo ra nhiều thái độ hơn nữa. Xin nêu lên 4 thái độ điển hình:
1. Thưa không với Thiên Chúa, nhưng sau đó đã đi làm: Theo John Pilch, những người thu thuế và đĩ điếm đã có thái độ giống như người con thứ nhất. Lúc ban đầu họ đã nói không với Thiên Chúa, nhưng khi Gioan Tẩy giả rao giảng, họ đã sám hối, trở lại và hành động vui lòng Thiên Chúa.
Thánh Phaolô là một gương sáng. Khi Phaolô mới nghe biết về Chúa Kitô, về Phúc Âm và những môn đệ của Người, ông đã chống lại họ bằng mọi cách. Phaolô hoàn toàn cự tuyệt, bắt bớ và huỷ diệt Phúc Âm cùng Giáo Hội của Người. Tuy nhiên điều này hoàn toàn vô ích. Một ngày nọ, Đức Kitô đã gặp ông trên đường đi Damascus. Phaolô đã sám hối, thay đổi, và trở thành một con người mới, với trái tim và tinh thần mới. Phaolô đã sống suốt cuộc đời còn lại để thưa vâng với Thiên Chúa.
2. Thưa vâng với Thiên Chúa, nhưng sau đó đã không đi làm: Theo John Pilch, các thầy thượng tế và các bậc kỳ lão Do Thái đã có thái độ giống như người con thứ hai. Họ thích tôn trọng danh giá bề ngoài. Họ đã nghe lời kêu gọi sám hối của Gioan tẩy giả và nhìn thấy những người thu thuế, tội lỗi ăn năn trở lại. Họ làm bộ ưng thuận bằng những lời lẽ tôn vinh và kính trọng Thiên Chúa, nhưng đã không thể hiện điều gì trong cuộc sống.
Trong cuốn tiểu thuyết “The Fall” của Albert Camus, có một cảnh diễn tả một chàng luật sư đáng kính đang bước đi trên đường phố Amsrerdam. Anh nghe rõ một tiếng kêu la giữa đêm tối. Anh nhận ra một người đàn bà đã ngã xuống đất, đang bị đẩy xuống dòng sông, và đang kêu la xin cầu cứu. Rồi những tư tưởng chợt đến trong tâm trí: “Dĩ nhiên tôi phải ra tay giúp đỡ, nhưng… một luật sư nổi tiếng lại can dự vào vụ này? Những người liên can đến vụ này là ai?…, Và sự nguy hiểm cho tính mạng mình là gì? Sau cùng, ai biết được chuyện gì đang xảy ra ở đó. Vào lúc anh đang chần chờ suy tính thì đã quá trễ. Anh tiếp tục bước đi, và tạo ra đủ mọi lý lẽ để biện minh cho sự thất bại, không hành động của mình. Nhưng, Camus, trong một hàng chữ bi đát đã kết luận như sau: “Anh ta đã không đáp trả tiếng kêu xin cầu cứu. Đó là con người của anh?”
3. Nhất quyết thưa không với Thiên Chúa:
Đây là loại người có thái độ cương quyết nói không với Thiên Chúa từ ban đầu cho đến cuối đời, trong cả lời nói lẫn hành động. Họ sống cả cuộc đời từ chối và chống lại sự hiện hữu của Thiên Chúa.
4. “Con Người” luôn nói thưa vâng với Thiên Chúa:
Con Người luôn nói thưa vâng với Thiên Chúa từ ban đầu cho đến phút cuối, trong lời nói cũng như hành động, đó là Chúa Giêsu Kitô. Người đã dâng hiến tất cả mọi vinh quang và hạnh phúc cho Thiên Chúa. Người là khuôn mẫu hoàn hảo của chúng ta.
Người đã được thánh Phaolô diễn tả bằng những đoạn tuyệt vời nhất trong lá thư gửi cho tín hữu Philipphê: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự”.
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đi làm vườn nho nước trời, nhưng Ngài cũng đòi hỏi chúng ta một sự lựa chọn triệt để: “Để được Nước Trời, người ta phải cho tất cả, và lời nói không đủ, còn cần phải có những hành động nữa”. Xin Thiên Chúa ban cho chúng ta có thái độ giống Chúa Giêsu: một tiếng “thưa vâng” trong lời nói và hành động suốt cuộc đời.
Một em bé ba tuổi cả ngày nghịch ngợm không ngoan ngoãn nên bà mẹ phạt bé phải đi ngủ sớm. Chú bé bỏ vào phòng không một lời phản đối, nhưng chỉ ít phút sau, chú ta đi ra với một con thú nhồi bông, con heo đất và một ít quần áo… Thằng bé nói: “Con bỏ nhà đi đây”. Ba nó hỏi: “Vậy thì con làm gì khi bị đói?” “Con sẽ về nhà để ăn”. “Ồ, vậy khi hết tiền rồi con làm gì?” “Thì con về nhà xin thêm”. “Vậy quần áo bẩn hết rồi con làm sao?” “Con mang về cho mẹ giặt”. Nhiều người cũng vội nói, vội quyết định hoặc nói mà không làm theo đường lối của mình.
Dụ ngôn trong bài Phúc Âm hôm nay là một dụ ngôn rất dễ hiểu. Đó là câu chuyện hai người con làm vườn nho cho cha. Một người trong họ hứa đi, nhưng thay đổi không đi; còn người kia nói không đi, nhưng thay đổi ý định của mình nên đi làm. Chúa Giêsu hỏi: “Các con nghĩ sao? Ai là người làm theo ý người cha?” (Mt 21,28,31). Dĩ nhiên ai trong chúng ta cũng có thể trả lời được là người con đã thay đổi ý định của mình nói không đi rồi đi làm vườn nho cho người cha.
Những người lãnh tụ tôn giáo là những người Chúa Giêsu đã hỏi họ và họ cũng biết họ khó mà chấp nhận những giáo lý của Chúa Giêsu, vì họ khó thay đổi cõi lòng để làm theo ý Thiên Chúa. Cho nên Chúa Giêsu đã phải thốt nên: “Thật ta bảo thật cho các ngươi biết những người thu thuế và gái điếm sẽ vào Nước Trời trước các ngươi.” (Mt 21,31) Tại sao? Bởi vì những người lãnh tụ tôn giáo tự cho mình luôn luôn đúng, không sai lầm bao giờ nên họ không cần thay đổi và tin ai khác. Nói cách khác là họ sẽ không bao giờ để Chúa thay đổi họ. Còn những người thu thuế, cao bồi du đãng và gái ăn chơi, họ nhận ra những gì họ cần phải thay đổi để sống tốt hơn trong mỗi ngày sống của họ.
Đây cũng là một bài học cho mỗi người chúng ta, vì nhiều lúc chúng ta cũng trở nên những người tự mãn. Như tự cho mình là người Kitô hữu ngoan đạo, là người biết những gì Chúa mong đợi. Chúng ta cũng dễ dàng rơi vào tình trạng là Chúa không còn gì để nói với chúng ta nữa. Và rồi chúng ta nhìn thấy mình giống như những người tự cho mình là người công chính, thượng tế và luật sĩ trong bài Phúc Ân hôm nay.
Có người biết tất cả mọi câu trả lời về mọi khía cạnh về thần học. Nhớ hết đoạn nào, câu nào trong Thánh Kinh, và tất cả những bài Thánh Vịnh một cách thuộc lòng và có thể viết lại tất cả những bài nguyện kinh ban sáng, trưa và tối không khó khăn chút nào. Nhưng chưa đủ, họ mới chỉ có nói. Họ cần thi hành Thánh ý Chúa Cha, cần đi làm vườn nho của Ngài. Sự cản trở lớn nhất cho việc Nước Chúa đến là do chính những người chỉ chuyên môn chúc tụng Chúa bằng môi miệng, nhưng không thực hành qua việc làm. Nếu chỉ bằng lời nói có thể cứu được nhân loại thì trần gian này chính là thiên đàng. Rất nhiều Kitô hữu chỉ sống đạo bằng những lời hay, tiếng tốt hơn là thi hành những điều mình nói, hoặc chỉ muốn bàn luận thật hay, nhưng không thấy hành động.
Lời Chúa chỉ có thể ăn sâu trong tâm hồn chúng ta, không phải qua những lời chúng ta nói, nhưng qua những cách thức chúng ta sống hằng ngày trong cuộc sống của chúng ta. Những gì không tốt chúng ta thường có thói hay kêu lớn tiếng. Có như thế chúng ta mới cảm thấy những gì chúng ta cần thiết để thay đổi để chúng ta có thể đến gần Chúa hơn và xa tránh những gì làm cho chúng ta xa Chúa. Những người cảm thấy mình không cần thay đổi lại chính là những người cần phải sửa đổi nhiều nhất.
Thời đại mà chúng ta đang sống được gọi bằng nhiều tên gọi. -t năm trước đây, một triết gia cho rằng thời đại chúng ta là thời đại “có và không.” Triết gia đó viết như sau: “Đây là thời đại của sự lưỡng lự, không quyết định. Vì câu trả lời của chúng ta thường nằm trong lãnh vực giữa có và không. Vả lại, chiều hướng câu trả lời của chúng ta cũng nằm giữa sự khả quyết và không khả quyết.
Trong Chúa Giêsu không có vấn đề “vâng và không”. Nhưng trong Ngài luôn luôn là tiếng “xin vâng”. Trong đền thánh, lúc 12 tuổi Ngài đã thưa “Vâng”: Ta phải thi hành công việc của Cha Ta. Sự cám dỗ trong sa mạc: “Ta phải thực hiện ý muốn mà Đấng đã sai Ta.” Giảng dạy tại Nararet: “Ta phải rao giảng sự công chính và tha thứ, cho dù họ muốn giết Ta.” Trong vườn Giêtsemani: “Xin đừng theo ý Con, nhưng theo ý Cha.” Trên đồi Canvê: “Xin tha cho chúng, Con xin phó thác linh hồn Con trong tay Cha.”
“Vâng” lạy Chúa! Ý Chúa sẽ được thực hiện trên trần gian. Nhưng do ai? Do chúng con chăng? “Vâng,” Lạy Chúa; chúng con phải thi hành thánh ý Chúa! “Vâng” lạy Chúa, chúng con phải “đi và làm vườn nho Chúa ngay hôn nay.” “Vâng,” lạy Chúa, chúng con phải thi hành điều Chúa dạy hơn là chúng con kêu lớn tiếng, để đáp lại điều mà Chúa dạy cho chúng con, nghĩa là chúng con phải yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương chúng con.
59.Nhìn với nhãn quan của Chúa
(Suy niệm của Lm. Xuân Hy Vọng)
Đâu đó, chúng ta vẫn thường được nghe hoặc được gieo vào tâm trí câu nói (chắc không có chủ ý!): “nếu không đọc kinh, cầu nguyện…Chúa phạt!”. Từ thuở nhỏ, con trẻ mà hư, trái quấy, mẹ/bố thường nói câu này để con biết vâng lời! Bước vào nhà trẻ, mẫu giáo, con trẻ chơi với nhau có khi xô xát đánh nhau, bố/mẹ cũng dùng câu nói này để con đừng đánh bạn bè! Và cứ lớn dần, được học giáo lý, được học chữ ngoài trường lớp, ra đời, có sự nghiệp, lập gia đình, có con, trong lúc vô tình hay cố ý cũng có lúc dùng câu nói được nghe từ xưa “nếu không…, Chúa sẽ phạt!” cho chính con cái mình!
Đối với những ai có tính gia trưởng (luôn cho suy nghĩ, cách nhìn của bản thân đúng đắn và một cách nào đó áp đặt lên người khác) thì ‘đường lối của người khác’ dường như chỉ là thứ yếu, luôn đứng sau ‘đường lối của chính mình”. Tương tự như dân Is-ra-en thời tiên tri Ê-zê-ki-en, cũng luôn cho rằng: ‘Đường lối của Chúa không chính trực’. Và Thiên Chúa đã dùng miệng tiên tri này mà đối chất, răn dạy, chỉ ra lối suy nghĩ, cách sống không đúng đắn của họ: “Hỡi nhà Is-ra-en, hãy nghe đây: phải chăng đường lối của Ta không ngay thẳng, hay đường lối của các ngươi mới không ngay thẳng?” (x. Ez 18, 25). Cách thức Chúa làm, con đường Chúa đi, kế hoạch Chúa vạch ra chắc chắn khác biệt với chúng ta; nhưng nếu chúng ta không tin nhận những gì khởi sự từ Chúa và kết thúc nơi Người luôn chính trực, đúng đắn, và ích lợi cho chúng ta, thì vô hình chung tư tưởng ngàn xưa của dân Is-ra-en cũng đang tồn tại trong chúng ta vậy!
Hơn nữa, khi mắc sai lầm mà không kịp thời dừng lại, xem xét, sửa đổi thì ‘sai lầm này kéo theo lỗi lầm kia’ như cách lập luận thường thấy nơi chúng ta ‘Thiên Chúa xử phạt’. Ở đây, chúng ta sẽ biết được một lời giải đáp rõ ràng, không chút mơ hồ hay mông lung, qua lời quả quyết của ngôn sứ Ê-zê-ki-en “khi người công chính từ bỏ công chính mà làm điều bất chính, thì nó phải chết vì điều bất chính nó làm” (x. Ez 18, 26). Đúng thật, Thiên Chúa không sát phạt hay xử phạt! Những ai sống chính trực mà bỏ đàng công chính, làm điều ác, việc xấu xa, thì họ phải chết không phải vì Chúa trừng phạt hoặc ra án xử, mà vì điều bất chính họ làm mà thôi. Chúng ta phải chịu trách nhiệm, chịu hậu quả do hành động, hành xử, hành vi, đường lối, cách sống của chúng ta.
Lẽ dĩ nhiên, lỡ may chúng ta là những kẻ gian ác, xấu xa (trong tư tưởng, lời nói, cũng như hành động) từ bỏ điều dữ, bỏ đàng tội lỗi, bỏ thói ngạo mạn kiêu căng, mà thi hành điều chính trực công minh, theo đường lối của Chúa thì “sẽ cứu được mạng sống mình” (x. Ez 18, 27). Hơn nữa, một khi nhận ra, nhìn thấy và từ bỏ mọi điều phản nghịch đã phạm, thì “chắc chắn sẽ được sống, chứ không phải chết” (x. Ez 18, 28).
Theo đường lối của Chúa, điều này đúng đắn cho hết thảy địa vị, nghề nghiệp, ngôn ngữ, văn hoá. Nó sẽ không nghiêng về người có thẩm quyền, có học thức, có chức tước, vị vọng…mà lại rời xa những kẻ thấp hèn, vô học, dân thường cùng đinh, thấp cổ bé miệng và bị loại ra ngoài xã hội (như người tội lỗi, người thu thuế, gái điếm…) như lời Đức Giê-su khẳng định với các thượng tế và kỳ lão trong dân, cũng như mỗi người chúng ta ngày nay rằng: “Tôi bảo thật các ông, những người thu thuế và gái điếm sẽ vào nước Thiên Chúa trước các ông” (Mt 21, 31). Nếu xét theo cách thức của con người, thì sự việc này không thể nào, đúng hơn là không bao giờ xảy ra được. Tuy nhiên, nếu nhìn theo đường lối của Thiên Chúa, thì điều chúng ta tưởng không, lại thành hiện thực một cách không tưởng! Vì sao như vậy? Câu trả lời ngay sau khi lời tuyên bố trên của Đức Giê-su: “Vì ông Gio-an đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy; còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại tin. Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy” (Mt 21, 32). Sự hoán cải liên lỉ, hành vì xét mình hằng ngày giúp chúng ta tin tưởng đón nhận đường lối của Chúa. Ngược lại, khi tin tưởng chấp nhận đường lối của Chúa, thì chính Chúa hoán cải con người chúng ta, biến đổi con đường dị biệt của ta, dẫn ta vào quỹ đạo tình thương, nói như Thánh Phao-lô tông đồ trong thư gửi cho giáo đoàn Phi-líp-phê “…liên kết với Đức Ki-tô đem lại cho chúng ta một niềm an ủi, tình bác ái khích lệ chúng ta hiệp thông trong Thần Khí, và sống thân tình, biết cảm thương nhau” (x. Pl 2, 1).
Một khi nhận biết, đón nhận, tin tưởng và bước theo đường lối của Chúa, thì những gì Thánh Phao-lô nhắc nhở, nhắn gửi, răn dạy trong bài đọc II phải được suy tư một cách nghiêm túc, rồi thực hành với cả con tim và khắc ghi suốt cuộc hành trình đức tin trên dương thế này: “đừng làm chỉ vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình. Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác. Anh em hãy cảm nghĩ trong anh em điều đã có trong Đức Ki-tô Giê-su” (Pl 2, 3-5). Giữa chúng ta với nhau, chúng ta hãy mặc lấy tâm tình như chính Đức Giê-su Ki-tô, cụ thể: “Người vốn dĩ là Thiên Chúa, nhưng không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Trái lại, Người huỷ bỏ chính mình mà mặc lấy thân phận tôi đòi, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người đã tự hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự…” (Pl 2, 6-8)
Đường lối Chúa chính lộ ngàn đời
Đường lối con chơi vơi khắp chốn.
Đường lối Ngài mãi vuôn tròn
Suốt cuộc đời này bước trọn tin yêu. Amen!
(Suy niệm của Jaime L. Waters – Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển)
SỰ BIẾN ĐỔI CÓ THỂ XẢY RA KHI BẠN MỞ LÒNG VỚI SỨ ĐIỆP TIN MỪNG
Trong Tin mừng Chúa nhật XXVI Thường niên năm A hôm nay, chúng ta đọc dụ ngôn hai người con. Chúa Giêsu dùng câu chuyện ngắn này để so sánh những nhà lãnh đạo Do Thái, những người thu thuế và gái điếm, với hy vọng họ thay đổi quan điểm và được thôi thúc sống công chính.
Trong dụ ngôn, người cha có hai người con. Ông sai người con thứ nhất đi làm vườn nho, nhưng anh từ chối. Sau đó, anh đổi ý và đi làm. Khi cùng được sai như vậy người con thứ hai nói anh sẽ đi làm nhưng lại không đi như đã hứa. Chúa Giêsu khẳng định dù lúc đầu người con thứ nhất từ chối, nhưng cuối cùng anh đã làm theo ý muốn của người cha.
Chúa Giêsu nhấn mạnh tầm quan trọng của sự biến đổi. Người con thứ nhất giống như những người thu thuế và gái điếm, là hiện thân của những hành vi tội lỗi. Trong suốt sứ vụ của Chúa Giêsu, nhóm người này đã đón nhận sứ điệp của Chúa và đã biến đổi từ cách suy nghĩ cho đến lối sống. Chúa Giêsu còn xác nhận sự biến đổi đã dẫn đưa họ đến Nước Thiên Chúa. Mặt khác, các thượng tế và kỳ lão được so sánh với người con thứ hai, có vẻ sống công chính nhưng thực ra lại không phải vậy. Họ đã từ chối sự hướng dẫn của ngôn sứ Gioan Tẩy Giả và đã không thay đổi cách suy nghĩ và lối sống của mình.
Dụ ngôn này minh chứng rằng hành động bộc lộ tính cách và ý hướng nhiều hơn là lời nói, là một suy gẫm thích hợp cho ngày lễ thánh Vinh Sơn. Thánh nhân đã hiến dâng cuộc đời để phục vụ người khác, đặc biệt là những người nghèo khó và bị tước đoạt quyền lợi. Công việc của ngài được hình thành trên sứ điệp Tin mừng nhằm tôn vinh phẩm giá con người và chăm sóc những ai cần sự giúp đỡ nhiều nhất. Thánh Vinh Sơn đã thành lập Tu đoàn Truyền giáo và cùng với thánh nữ Louise Marilac, đồng sáng lập Tu đoàn Nữ tử Bác ái hầu nhiều người có thể hành động theo lời kêu gọi phục vụ của Tin mừng. Di sản của thánh Vinh Sơn vẫn còn tiếp tục cho đến ngày nay nơi các giáo xứ, trường học và tổ chức Vinh Sơn trên toàn thế giới, chẳng hạn như Hội thánh Vinh Sơn Phaolô do một giáo dân theo linh đạo Vinh Sơn là chân phước Frédéric Ozanam thành lập. Các cộng đoàn này tiếp tục trả lời câu hỏi của linh đạo Vinh Sơn: Phải làm gì?
Tin mừng hôm nay là một lời nhắc nhở về tầm quan trọng của hành động. Bài Tin mừng cho thấy rằng sự biến đổi và hoán cải có thể xảy ra khi mọi người cởi mở đón nhận và hành động theo sứ điệp của Tin mừng. Thánh Vinh Sơn Phaolô là một mẫu gương xuất sắc của hành động theo sứ điệp Tin mừng.
Sống như người con Thiên Chúa: điều kiện để được vào Nước Trời
I. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
1) Ý CHÍNH: DỤ NGÔN HAI NGƯỜI CON.
Qua dụ ngôn “hai người con”, Đức Giêsu muốn gián tiếp cảnh cáo thái độ giả hình của bọn đầu mục Do thái, và kêu gọi họ hoán cải để được cứu độ. Dụ ngôn trình bày hai thái độ khác nhau của hai người con trước cùng một yêu cầu của người cha như sau:
– Người con thứ nhất (c 28-29): Lúc đầu đã từ chối không vâng lời cha. Nhưng sau đó nghĩ lại mà lại đi làm vườn nho cho cha. Đứa con này tượng trưng cho các người thu thuế và tội lỗi.Tuy đã phạm tội, nhưng sau đó đã hồi tâm tin theo Đức Giêsu mà quay về với Thiên Chúa.
– Người con thứ hai (c 30-32): Lúc đầu đã ngoan ngoãn vâng lời cha. Nhưng thực tế nó lại không đi làm vườn nho theo ý cha. Đứa con này tượng trưng cho các thượng tế và kỳ mục. Tuy giữ luật Mô-sê trong từng chi tiết, nhưng họ lại từ chối không tin Gio-an Tẩy giả, là người đã đến chỉ đường công chính cho họ, tức là dạy những điều Thiên Chúa muốn (c 32).
Cuối cùng Đức Giêsu kết luận: ” Tôi bảo thật các ông: Những người thu thuế và những cô gái điếm sẽ vào nước Thiên Chúa trước các ông ” (c 31).
2) CHÚ THÍCH:
– (c 28) Các ông nghĩ sao: Một người kia có hai con trai. Ong ta đến nói với người thứ nhất: “Này con hôm nay con hãy đi làm vườn nho”.:
+ Các ông nghĩ sao?: Các ông ở đây là các thượng tế và kỳ mục dân Do thái tại Giê-ru-sa-lem (x Mt 21,23-27). Họ đòi Đức Giêsu phải chứng minh về quyền giảng dạy của Người bắt nguồn từ Thiên Chúa (c 23). Để trả lời cho đòi hỏi ấy, Đức Giêsu đã lái vấn đề là đòi họ phải xác định nguồn gốc sứ mệnh của Gio-an Tẩy giả: “Phép rửa của Gio-an do đâu mà có? Do trời hay do người ta?”. Nếu họ bảo là do trời, thì tại sao lại không tin Đức Giêsu là Người mà Gio-an đã xác nhận là Đấng Thiên Sai?
+ Một người kia có hai con trai: Người kia là cách nói trống ngôi, ám chỉ Thiên Chúa. Cả hai con trai ở đây đều được cha đối xử công bằng và khách quan. Họ tượng trưng cho hai thành phần dân Do thái là các người tội lỗi và các người tự nhận là công chính.
+ Người con thứ nhất: ám chỉ các người thu thuế và các cô gái điếm tội lỗi. Lúc đầu những người này đã từ chối không chịu làm theo lệnh truyền của Thiên Chúa. Nhưng về sau, họ đã tin theo Đức Giêsu mà ăn năn sám hối và trở thành con ngoan của Thiên Chúa.
+ Hôm nay: Hôm nay là thời điểm hiện tại, ý nói về sự cấp bách cần phải làm ngay. Chẳng hạn Đức Giêsu đã tuyên bố về thời điểm cứu độ tại hội đường Na-da-rét như sau:” Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” (Lc 4,21).
+ Con hãy đi làm vườn nho: Đi làm vườn nho tức là làm theo ý Thiên Chúa.
– (c 29) Nó đáp: “Con không muốn đâu!” Nhưng sau đó, nó hối hận, nên lại đi “:
+ Con không muốn đâu: Câu trả lời cho thấy thái độ từ chối không tuân lệnh của cha. Điều này ám chỉ những kẻ tội lỗi đã sống ngược với thánh ý Thiên Chúa thể hiện qua thái độ không tuân giữ các giới răn Thiên Chúa và lề luật Hội Thánh.
+ Nhưng sau đó, nó hối hận, nên lại đi: Ở đây không cho biết lý do tại sao người con thứ nhất hối hận. Chỉ biết rằng nó đã nhận ra lỗi mình và hoán cải để vâng ý cha mà đi làm.
– (c 30) Ông đến gặp người thứ hai, và cũng bảo như vậy. Nó đáp: “Thưa ngài, con đây!” nhưng rồi lại không đi:
+ Ông đến gặp người thứ hai: Người thứ hai là những người có vẻ công chính, ám chỉ các đầu mục của dân Do thái là các thượng tế và kỳ mục.
+ Thưa Ngài, con đây!: Đây là câu trả lời lễ phép của một đứa con ngoan ngoãn hiếu thảo, sẵn sàng vâng nghe lời cha dạy bảo.
+ nhưng rồi lại không đi: Đứa con này mới chỉ vâng lời cha bằng môi miệng, nhưng lòng anh ta lại ở xa cha, nên sau đó đã không đi làm vườn nho theo lời cha dạy. Anh ta đã có thái độ “ngôn hành bất nhất”, “nói mà không làm”, chứng tỏ anh có một đời sống vụ hình thức bề ngoài. Đây là thái độ đạo đức giả của các đầu mục Do Thái là các thượng tế và kỳ lão. Họ giữ luật Mô-sê trong từng chi tiết nhưng lại không tin vào Đấng mà Thiên Chúa đã sai đến là Đức Giêsu.
– (c 31) “Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha?”. Họ trả lời: “Người thứ nhất”. Đức Giêsu nói với họ: “Tôi bảo thật các ông: Những người thu thuế và những cô gái điếm vào nước Thiên Chúa trước các ông”:
+ Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha?: Đặt ra câu hỏi này, Đức Giêsu muốn gián tiếp cho thấy thái độ mâu thuẫn của các đầu mục dân Do Thái
+ Tôi bảo thật các ông: Đức Giêsu muốn nhấn mạnh sự thật mà Người sắp bày tỏ
+ Những người thu thuế và những cô gái điếm: Đây là hai hạng người bị xã hội Do Thái khinh dể, vì họ không giữ luật Mô-sê và có đời sống tội lỗi, gây gương xấu cho kẻ khác.
+ Vào nước Thiên Chúa trước các ông: Ở đây không nhằm nói đến thời gian trước sau, nhưng là sự thay thế. Những người thu thuế và gái điếm vì biết hối cải mà tin theo Đức Giêsu nên họ sẽ chiếm chỗ trong nước Thiên Chúa mà Người sắp thiết lập, để thay chỗ của các đầu mục là các thượng tế và kỳ mục Do Thái.
– (c 32) “Vì ông Gio-an đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy. Còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại tin. Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy”.
* Vì ông Gio-an đã đến chỉ đường công chính cho các ông: Gio-an Tẩy giả bằng một lối sống khổ hạnh và bằng việc rao giảng phép rửa thống hối, đã dạy dân chúng biết những điều cần phải làm để chuẩn bị tâm hồn đón Đấng Thiên Sai. Nhờ đó mà họ sẽ được nên công chính
*Mà các ông không tin ông ấy. Còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại tin: Các thượng tế và kỳ mục Do Thái đã không tin lời Gio-an Tẩy Giả. Ngược lại, các người thu thuế và các cô gái điếm đã nghe Gio-an giảng và giới thiệu Đức Giêsu cho họ nên đã tin theo Người.
*Còn các ông: Các đầu mục Do Thái dù đã nhìn thấy lối sống khổ hạnh và đã được nghe lời Gio-an Tẩy Giả rao giảng thánh ý Thiên Chúa muốn cho họ “ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng”, nhưng họ vẫn cứng lòng không tin Gio-an, do đó cũng không tin Đức Giêsu, nên họ sẽ không được gia nhập và nước Thiên Chúa.
II. HỌC SỐNG LỜI CHÚA
1) LỜI CHÚA: Đức Giêsu nói với họ: “Tôi bảo thật các ông: Những người thu thuế và những cô gái điếm vào nước Thiên Chúa trước các ông” (Mt 21,31).
2) CÂU CHUYỆN:
– NGUYÊN NHÂN SỨC MẠNH SIÊU PHÀM CỦA MỘT CÔ GÁI ĐIẾM
Một hôm nghe tin về một cô gái điếm tuy tội lỗi, nhưng lại có một quyền năng siêu phàm, vua A-đúc (Ashoka) đã triệu vời cô ta tới và yêu cầu cô thi thố tài năng để có dịp tận mắt chứng kiến và biết rõ thực hư ra sao. Trước mặt nhà vua cùng các quần thần, các đạo sĩ và đám đông dân chúng tụ tập bên bờ sông Hằng, cô gái điếm kia đã thi thố tài năng: cô có thể ra lệnh cho dòng sông đang cuồn cuộn chảy phải thay đổi chảy ngược lại, gây ra những tiếng động ầm ầm giống như long trời lở đất. Đang khi đo, các vị đạo sĩ tuy đã dày công tu luyện nhiều năm và rất am tường Phật pháp lại đành chịu bất lực trước nạn lụt hằng năm, nước sông dâng lên tràn bờ đê, gây ra cảnh lụt lội lớn lao, làm cho nhân dân dọc theo hai bên dòng sông ngày một lầm than đói khổ! Nhà vua không thể tin đươc một cô gái điếm, thuộc hạng tiện dân và tội lỗi lại có sức mạnh siêu phàm như thế. Bấy giờ vua hỏi cô gái rằng: “Do đâu mà một kẻ tội lỗi ti tiện như ngươi lại có thể làm được việc lớn lao phi thường như thế?” Cô gái đáp:”Tâu Đức vua, đó là nhờ đức hạnh của tiện nữ!”. Đức vua lại cười khẫy và văn hỏi:”Thế đức hạnh của ngươi ra sao?”. Cô đáp: “Tâu đức vua, đức hạnh của tiên nữ chính là do cách cư xử công chính đối với mọi người. Khi tiếp chuyện với bất cứ ai, dù họ là bậc quân vương, quý tộc hay đám thường dân, tiện nữ đây cũng hết lòng tôn trọng và luôn đối xử vẹn tình trọn nghĩa. Tuyệt đối không dám khinh thường hoặc gian dối với bất cứ người nào cả!”.
Như vậy, theo lời cô gái trong câu chuyện trên: Muốn có sức mạnh làm được những việc phi thường, thì người ta phải ăn ở công chính, nghĩa là đối xử công minh chính trực với mọi người. Trong Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu đã nêu tên Gio-an Tẩy giả và đòi những ai muốn được ơn cứu độ phải tin ông Gio-an và đi theo đường công chính của ông như sau: “Vì ông Gio-an đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy. Còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại tin. Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy” (c 32).
– ĐIỀU KIỆN ĐỂ LỜI CẦU XIN ĐƯỢC CHÚA NHẬM LỜI?
Một chàng thanh niên kia cứ thắc mắc tại sao Chúa không ban những ơn cần thiết cho những kẻ tin vào Người. Một hôm Chúa đã cho anh ta nằm mơ thấy mình được đi theo Chúa Giêsu khắp đó đây. Anh đã thuật lại câu chuyện xảy ra trong chuyến đi ấy như sau:
Hôm ấy khi được Đức Giêsu cho đi theo một đoạn đường đất đỏ dẫn đến một làng nghèo nàn kia, thì anh nhìn thấy một người đàn ông đang hì hục đẩy chiếc xe thồ chất đầy hàng đang bị ngã đổ nằm nghiêng một bên đường, vì bánh xe chẳng may bị sụt ổ voi trên đường. Bấy giờ người chủ xe liền quỳ xuống giơ hai tay lên trời và lớn tiếng cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa Giêsu, xưa Chúa hay thương giúp những kẻ gặp gian nan khốn khó. Xin thương cứu giúp con:Chiếc xe của con đang bị lật ở giữa nơi thanh vắng này. Con tin vào quyền năng mạnh mẽ của Chúa. Chúa chỉ cần phán một lời là chiếc xe của con sẽ lật lại được, để con có thể tiếp tục đến chợ bán hàng. Lạy chúa, xin hãy mau đến giúp con!”. Cầu nguyện rồi, ông ta cứ quỳ mãi để chờ Chúa làm phép lạ theo ý ông xin. Bấy giờ anh chàng đi theo Chúa Giêsu cảm thấy bức xúc khi nghe lời cầu nguyện của người chủ xe. Nhưng anh rất ngạc nhiên khi thấy Chúa Giêsu làm như không nghe thấy gì và cứ tiếp tục đi qua chỗ anh ta đang quỳ cầu nguyện.
Một lát sau, hai người đến gần một cái chợ, anh chàng đi theo Đức Giêsu lại nhìn thấy một cảnh đổ xe tương tự. Anh ta nghe thấy người chủ xe chỉ cầu nguyện vắn tắt như sau: “Lạy Chúa Giêsu, con đang gặp tai nạn vượt quá sức con. Xin Chúa hãy soi sáng giúp cho con biết con phải làm gì để có thể vượt qua hoàn cảnh khó khăn này”. Cầu nguyện rồi, ông ta tìm cách dựng chiếc xe đổ lên như cũ. Sau một lúc làm không được, ông ta chạy đến nhờ người đi đường đến giúp. Bấy giờ anh chàng theo Đức Giêsu thấy Người tỏ vẻ quan tâm tới người chủ xe này. Người bảo anh ta: “Con hãy mau đến hợp sức giúp anh ta một tay!”. Khi chiếc xe đã được lật lên như cũ thì người chủ xe lại cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa đã thương sai người đến giúp con”. Sau đó, hai người lại tiếp tục lên đường. Bấy giờ anh ta mới hỏi Đức Giêsu rằng: “Lạy Chúa, tại sao người chủ xe trước tha thiết cầu xin lâu giờ mà Chúa lại dửng dưng và không làm gì để giúp đỡ ông ta? Đang khi người chủ xe sau chỉ xin Chúa một câu thôi, thì Chúa lại tận tình thúc giục nhiều người đến giúp ông ta như vậy?”. Bấy giờ Đức Giêsu mới ôn tồn giải thích cho anh ta hiểu như sau: “Con không thấy lời cầu nguyện của hai người khác nhau hay sao? Người chủ xe trước đã cầu xin Ta làm phép lạ giúp cho xe ông ta được lật lên, còn chính ông ta chỉ biết chờ đợi phép lạ. Nhưng Ta không muốn người ta làm biếng làm việc và chỉ biết ỷ lại vào Ta, nên Ta đã để mặc ông ta tự xoay sở lấy. Còn người chủ xe sau chỉ dám cầu xin ơn soi sáng, rồi cố gắng làm hết sức mình để khắc phục khó khăn. Chính vì thế mà Ta đã ra tay trợ giúp bằng cách thúc giục nhiều người khác, trong đó có con, đến giúp đỡ cho ông ta”.
Như vậy, qua câu chuyện trên, tác giả muốn nói rằng: Mỗi khi gặp một điều gì khó khăn, vượt quá sức lực tự nhiên, chúng ta hãy vừa cầu xin Chúa ban ơn soi sáng trợ giúp cho ta, nhưng đồng thời cũng phải cố gắng xử dụng những phương tiện tự nhiên Chúa ban để tự mình vượt qua sự gian nan ấy. Tục ngữ có câu: “Hãy tự cứu mình, rồi Trời sẽ trợ giúp”. Hoặc câu khác: “Hãy thắp lên một ngọn đèn, chứ đừng cứ ngồi yên mà nguyền rủa bóng tối”. Còn bạn, bạn thường có thái độ thế nào khi gặp hoàn cảnh khó khăn hoạn nạn?
3) SUY NIỆM:
Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã tuyên bố một câu khiến những người đầu mục dân Do Thái đương thời phải sững sờ: “Tôi bảo thật các ông: Những người thu thuế và những cô gái điếm vào nước Thiên Chúa trước các ông”. Một số nhà chú giải Kinh Thánh đã giải thích từ “vào trước” không chỉ có nghĩa là “trước” so với “sau”, nhưng là “thay thế”. Vì các đầu mục Do Thái “đã không tin” (c 32), nên họ sẽ không được vào nước Thiên Chúa, chứ không phải sẽ “vào sau”. Như vậy câu này có thể được dịch lại như sau: “Những người thu thuế và gái điếm vào Nước Thiên Chúa thay thế cho các ông”. Nếu những người thu thuế và gái điếm đã vào Nước Thiên Chúa thế chỗ của các đầu mục Do Thái rồi, thì chắc họ sẽ bị loại ra ngoài Nước ấy.
– TẠI SAO CÁC ĐẦU MỤC DO THÁI LẠI BỊ MẤT CHỖ TRONG NƯỚC THIÊN CHÚA?
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en trong bài đọc một đã nêu ra lý do thứ nhất: “Khi người công chính từ bỏ lẽ công chính của mình và làm điều bất chính, thì chính điều bất chính nó đã làm mà nó phải chết ” (Ed 18,26). Thực vậy, người ta thường nghĩ mình vẫn đang tốt khi đã từng sống tốt và được người khác đánh giá tốt, nên không ngờ có thể một ngày nào đó mình lại trở nên xấu. Để rồi đến giờ chết, khi định vào Nước Thiên Chúa, thì mới hay mình không có chỗ trong đó! Bài Tin Mừng cho biết lý do thứ hai: Người cha đến nói với đứa con thứ hai: “Con hãy đi làm vườn nho cho cha”. Nó đáp: “Thưa vâng, con đi”. Nhưng rồi nó lại không đi (Mt 21,30). Thực vậy, người ta thường hay tự lừa dối khi nghĩ rằng mình chỉ cần nói: “thưa vâng” với Chúa là đủ. Các đầu mục Do Thái đã “thưa vâng” nhiều lần khi họ tuân giữ Luật Mô-sê trong từng chi tiết. Chính chúng ta ngày nay cũng thường “thưa vâng” như thế khi giữ một số điều luật như đi lễ, đọc kinh. Nhưng những lời “thưa vâng” như thế cũng không phải là điều kiện để ta có chỗ trong Nước Thiên Chúa sau này.
– TẠI SAO NGƯỜI THU THUẾ VÀ GÁI ĐIẾM CHIẾM CHỖ TRONG NƯỚC THIÊN CHÚA?
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en trong bài đọc một đã cho biết lý do thứ nhất như sau: “Nếu kẻ gian ác từ bỏ điều dữ nó đã làm, mà thi hành điều chính trực công minh,thì nó sẽ cứu được mạng sống mình” (Ed 18,27). Lý do thứ hai là thái độ đứa con thứ nhất lúc đầu từ chối, nhưng sau đó nó hối hận nên lại đi (Mt 21,29). Thực ra cả hai câu trên đều cho thấy một lý do là: Biết hối hận về sai lầm trong quá khứ của mình và hồi tâm hoán cải. Thực vậy rất nhiều câu chuyện được diễn tả trong phim ảnh cũng như đời thường về những người có quá khứ tội lỗi như trọm cướp, trùm ma-phi-a nhưng họ không những đã được biến đổi nên người tốt, mà còn có lòng vị tha bác ái đặc biệt. Có những tú bà hay những cô gái điếm sau khi hoàn lương, đã bỏ được nếp sống nhơ nhớp trước kia, để sống một đời sống mới dạt dào tình thương yêu người khác. Họ thật xứng đáng vào trong Nước Thiên Chúa để thay thế những kẻ đã từng sống tốt, nhưng đã biến chất trở thành những kẻ giả đạo đức như bọn đầu mục Do Thái thời Đức Giêsu.
– VẬY CHÚNG TA PHẢI LÀM GÌ?
Ki-tô giáo là một tôn giáo của lòng tin. Nhưng lòng tin bên trong phải được biểu lộ ra bên ngoài: “Đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết” (Gc 2, 17). Lòng tin không phải chỉ là tuyên xưng ngoài miệng, nhưng phải được tuyên xưng bằng chính cuộc sống như Đức Giêsu dạy: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! Lạy Chúa! là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7,21). Dòng đời luôn thay đổi, và con người cũng dễ dàng đổi thay: Hôm nay có thể ta đang là một con người tốt, nhưng ngày mai lại hoá ra xấu và ngược lại. Do đó chúng ta đừng vội hãnh diện với quá khứ đạo đức của mình, đến nỗi không thấy được là mình đã thay đổi trở thành kẻ xấu. Cần năng tự kiểm vào mỗi cuối ngày để biết rõ con người thực của mình, mình có giữ lời hứa hay không. Vì dù ta có nói giỏi nói hay và hấp dẫn bao nhiêu đi nữa, nhưng nếu ta không giữ được lời đã hứa, hoặc “ngôn hành bất nhất” thì ta tự làm mất uy tín của mình và làm cho những lời ta nói không còn được mấy ai nghe. Mỗi ngày chúng ta hãy cầu xin Chúa giúp chúng ta thay đổi những sai lỗi hay thiếu sót để ta ngày càng sống tốt hơn và xứng đáng được Chúa đón nhận vào Nước Thiên Chúa sau này.
4) THẢO LUẬN:
Học Lời Chúa, nghe giảng Kinh Thánh có cần hay không? Học Lời Chúa cho thông suốt để đi tranh cãi hay để đi rao giảng Tin Mừng cho người khác đã đủ chưa? Việc sống Lời Chúa giữ đời thường có giá trị thế nào trong đời sống đức tin của bạn? Người ta thường nói: “Lời nói tốt xấu ra sao, thì con người tốt xấu như vậy”. Vậy hiện tại lời nói của bạn đang là lời xây dựng hoà bình và tình yêu thương hay đang gây chia rẽ, hiểu lầm và phân tán?
III. HIỆP SỐNG NGUYỆN CẦU
1) LẠY CHÚA GIÊSU. Con thấy việc sám hối không phải là điều dễ, vì chúng con hiện chưa đủ khiêm tốn để lắng nghe người khác phê bình chỉ trích thói hư khuyết điểm của mình. Chúng con chưa dám tự nhận lỗi về phía mình như lời kinh thú nhận: “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng!”. Nhưng chúng con cũng ngỡ ngàng khi thấy Chúa dù là Đấng vô tội, nhưng đã đứng xếp hàng chung với các tội nhân để chờ đến lượt được Gio-an Tẩy Giả làm phép rửa cho. Qua hành động ấy, Chúa muốn mang thân phận tội nhân giống chúng con để nêu gương khiêm nhường cho chúng con.
LẠY CHÚA. Xin cho chúng con biết năng tự kiểm về tư tưởng lời nói việc làm và những điều thiếu xót của mình mỗi ngày. Xin cho chúng con thường xuyên điều chỉnh lối suy nghĩ nói năng và hành động của mình để tránh ảo tưởng về mình, và khỏi trở thành những Pha-ri-sêu giả đạo đức trong thời đại hôm nay. Ước gì Chúa ban cho chúng con được ơn hoán cải, dám cắt tỉa đi những thói hư tật xấu nơi bản thân con. Hy vọng sau khi đã được Chúa ban ơn tha thứ như ông Gia-kêu, chúng con sẽ yêu mến Chúa nhiều hơn, sẽ quảng đại để hiến dâng cho Chúa tất cả những gì chúng con có, để Chúa sẽ ban tất cả những gì Chúa có cho chúng con.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. – Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
2) LẠY MẸ MA-RI-A. Xin cho chúng con tránh được thái độ của người con thứ hai trong bài Tin Mừng hôm nay: Thưa vâng rồi để đó không làm. Nhiều lần chúng con đã đi xưng tội, đã tham dự các buổi tĩnh tâm sám hối, đã thưa vâng với Chúa. Nhưng rồi sau đó đâu lại hoàn đó. Chúng con vẫn sống như cũ, chẵng có gì thay đổi, chẵng thêm gì mới cả!
LẠY MẸ. Xin cho chúng con biết hoán cải giống như người con thứ nhất. Tuy lúc đầu có lỗi phạm, nhưng đã hồi tâm sửa mình, thay đổi đời sống nên tốt hơn, bằng một thái độ quyết tâm đổi mới, để sẽ sẵng sàng lắng nghe lời Chúa, tìm hiểu thánh ý Chúa muốn và quyết tâm thực hành lời Chúa trong cuộc sống hàng ngày. Xin cho chúng con luôn giữ lời đã hứa, nói ít làm nhiều và nhiệt thành cải thiện môi trường sống của chúng con.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. – Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
62.Xin được mãi làm “người con thứ nhất”!
(Suy niệm của Lm. Trương Đình Hiền)
1. Người con thứ nhất là những ai?
Dụ ngôn “Hai người con” được Matthêu tường thuật hôm nay chắc chắn nằm trong một loạt những dụ ngôn được Chúa Giêsu sử dụng trong các cuộc tranh luận với những người ký lục và biệt phái, để vạch trần tính kêu căng, hợm hĩnh, giả hình, bất khoan dung… trong cung cách sống đạo và ứng xử với tha nhân của họ.
Không chỉ liên quan đến những người luật sĩ và biệt phái ngày xưa, lời dạy của Chúa Giêsu trong dụ ngôn Tin Mừng vừa được công bố vẫn còn nguyên giá trị giáo dục đức tin dành cho tất cả chúng ta hôm nay.
Bởi chưng, khi dừng lại để kiểm điểm cuộc đời, nào chẳng phải đã bao lần chúng ta cố tình quên mất thân phận tội lỗi của mình để kiêu căng hợm hĩnh tự cho mình là kẻ không làm điều gì gian ác, chu toàn lề luật “trăm phần trăm” và an nhiên tự tại với lối sống đạo và đối nhân xử thế đầy sai lệch và ích kỷ của mình đó sao!
Nếu ngày xưa, Chúa Giêsu mạnh mẽ lên án những người Ký lục và Biệt phái nói mà không làm, bắt kẻ khác giữ lề luật nhưng chính họ lại trốn tránh..Thì hôm nay, Lời Chúa cũng mời gọi chúng ta hãy thể hiện niềm tin không chỉ bằng lý thuyết hay lời nói suống; mà phải là những chứng nhân sống động trong mối quan hệ thân tình với Thiên Chúa và nghĩa thiết với anh em.
Nếu ngày xưa Chúa Giêsu đã từng dị ứng với cách hành đạo của những luật sĩ và biệt phái khi họ bắt kẻ khác giữ những điều tỉ mỉ, có khi chính họ đã bày vẽ ra để chất thêm gánh nặng cho kẻ khác, nhưng chính họ lại phủi tay chẳng buồn thực hiện; thì hôm nay Lời Chúa cũng đang thúc bách chúng ta hãy chu toàn những điều bé nhỏ nhất cùng với anh chị em trong tình hiệp thông và liên đới cộng đoàn.
Nếu ngày xưa, Chúa Giêsu đã thẳng mặt vạch trần lối sống đạo giã hình, kiêu căng, tự hào công chính và kế thừa di sản đức tin chính truyền, biến lề luật thánh thành những điều lệ vô căn cứ, biến Lời Hằng Sống của Thiên Chúa thành một mớ những giải thích vòng vo, những nghiêm lệnh nặng nề… để gạt ra ngoài những kẻ yếu đuối, tội lỗi, thấp cổ bé miệng…; thì hôm nay Chúa Giêsu cũng muốn dạy bảo chúng ta như Ngài đã dạy bảo dân Do Thái cách đây 2000 trước con đường “thực thi đức công chính mới” mà thái độ trước tiên chính là sám hối hoán cải, đó cũng chính là Tin Mừng mà ngay từ buổi xuất hiện công khai Ngài đã long trọng công bố: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,14)
Mà chân lý nầy đâu có phải mới mẻ gì đâu! Đó cũng chính là điều mà Thiên Chúa đã từng phán dạy ngày xưa trong thời Cựu ước như hôm nay chúng ta đã nghe sách sứ ngôn Ê-dê-ki-en trong bài đọc 1: “Còn nếu kẻ gian ác từ bỏ điều dữ nó đã làm, mà thi hành điều chính trực công minh, thì nó sẽ cứu được mạng sống mình…”. Đó cũng chính là điều mà dụ ngôn Tin Mừng hôm nay đã khắc họa bằng chân dung “người con thứ nhất”.
– Người con thứ nhất đó chẳng phải là một Lêvi bỏ bàn thu thuế, đứng dậy theo Đức Kitô để trở thành Tông Đồ sao?
– Người con thứ nhất đó chẳng phải là một Maria Mađalêna với những giọt nước mắt sám hối chân thành nhỏ trên chân Chúa để từ đó đứng lên làm lại cuộc đời trong ánh sáng và tình yêu sao?
– Người con thứ nhất đó chẳng phải là một Gia Kê với thái độ tò mò đến ngây thơ trèo lên cây sung để nhìn cho được mặt Chúa, rồi sau đó tiếp rước Chúa vào nhà mà bắt đầu một cuộc sống mới sao?
Và – Người con thứ nhất đó chẳng phải là tên tử tội sắp sửa lìa đời đã ngước nhìn về phía của Chúa Chịu đóng đinh với những lời thân thương và đầy lòng trông cậy: “Khi Thầy vào Nước của Thầy, xin nhớ đến tôi”…Và Chúa đã hứa chắc: “Hôm nay ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta”,
Vâng, – Người con thứ nhất đó cũng chính là những người mà Ngài đã long trọng công bố đích danh ngày nào trước mặt những ký lục và biệt phái: “Người thu thuế và hạng gái điếm sẽ vào Nước Trời trước các ông”.
Phải chăng đó là một “nghịch lý của Tin Mừng, mà nói như Bosuet “sự trái ngược chỉ có Thiên Chúa mới làm được” hay như văn hào Mauriac: “Trong những tâm hồn trước đây lửa dục vọng nung cháy thì Chúa đến khơi lên một bầu lửa tình. Họ biết rằng họ càng dơ bẩn thì càng được Chúa thương nhiều. Thương nhiều vì dơ bẩn nhiều”.
Đó chính là tinh thần khiêm hạ, khó nghèo của Chúa Kitô đã chọn lựa để nhập thể, để sống và để chết như Thánh Phaolô đã khắc họa trong thánh thi Philip được công bố trong bài đọc 2 hôm nay:
“Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nổi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự…”.
Cuộc đời đó, giáo huấn đó có gì xa lạ với nhịp sống đức tin của chúng ta hôm nay. Chính vì thế, ở giữa lòng Hội Thánh, trong “Vườn Nho Giáo Hội” hôm nay chúng ta hãy xin mãi được trở thành những “người con thứ nhất”.
2. Xin được làm những “người con thứ nhất”!
Và cộng đoàn Giáo Hội ngay từ thuở ban đầu đã được làm nên bởi phần đông những con người như thế: những kẻ đã từng bỏ Thầy chạy trốn như các Tông Đồ, chối Thầy ba lần như Phêrô, bắt bớ đạo Chúa như Phaolô, những cô gái điếm hoàn lương, những anh chàng mù sáng mắt, những phụ nữ lẻo đẻo tháp tùng Chúa đi lên đồi Sọ, những bà góa nghèo chỉ có mấy đồng xu ten để bố thí, những kẻ phung cùi lành bệnh, những thanh niên đã từng bị quỷ ám, những trẻ thơ được Chúa chúc lành, người phụ nữ bệnh hoạn đã từng chạm đến gấu áo Chúa Giêsu…
Và sau đó, trong ký ức của Hội Thánh, chúng ta lại đọc thấy bao nhiêu bóng dáng những “người con thứ nhất” như:
– Augustinô đã có một thời thanh niên buông thả và lầm lạc, nhưng rồi, nhờ những giọt nước mắt nguyện cầu của người mẹ tuyệt vời Monica, sau đó đã trở thành Giám Mục và Giáo phụ thời danh của Hội Thánh trong những thế kỷ đầu tiên.
– Phanxicô Assisi, chàng thanh niên giàu có lêu lổng, đã một lần nghe tiếng gọi của Lời Chúa và cương quyết dấn thân vào con đương hẹp của Tin Mừng. Cuộc đổi đời và sám hối đó đã thổi vào Giáo Hội lúc bấy giờ và mãi cho tới hôm nay một luồng gió canh tân trở về nguồn cội của Tin Mừng.
– Trong lịch sử Giáo Hội Viêt Nam, cũng không thiếu những Chứng nhân anh hùng, như các Thánh Phan Viết huy, Bùi Đức thể, Đinh Đạt, là những quân nhân, dù cho đã có lần yếu đuối chối đạo, nhưng sau đã trở lại cương quyết làm chứng đức tin và đã anh dũng lãnh nhận cành lá thiên tuế Tử đạo…
Phải chăng đó là “những người con thứ nhất” mà dụ ngôn Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu từng ám chỉ. Và như thế, “Vườn Nho của Cha” mãi mãi đang cần những hạng “người con thứ nhất” đó để đi vào canh tác và xây dựng, để chăm sóc và giữ gìn. Và như thế, tất cả chúng ta đều có lý do để hân hoan cảm tạ, để phấn chấn và hy vọng ắp đầy. Bởi vì chúng ta đang thấy mình trong chân dung của “Người con thứ nhất”, người con đã hơn một lần nghe tiếng Cha vẫy gọi “Hãy đi làm vườn nho cho Cha nhé!” nhưng đã yếu đuối khước từ vì biết bao lỗi lầm thiếu sót, bao phản bội vong ân…
Sám hối ăn năn, làm lại cuộc đời, phải chăng đó chính là của lễ mà Chúa ưa thích nhất: “Tế phẩm dâng Ngài là tâm thần tan nát., một tâm hồn tan nát dày vò Ngài sẽ chẳng khinh chê” (Tv 50), và đó cũng chính là tâm tình khiêm hạ và vâng phục của chính Chúa Giêsu, một chọn lựa căn bản để Ngài hoàn tất chương trình cứu độ nhân loại (BĐ 2), một tâm tình mà mỗi người chúng ta luôn luôn mang lấy theo mình như lời thúc dục của Thánh Phaolô trong bài đọc 2 hôm nay: “anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Giêsu-Kitô”. Và chính trong tâm tình đó, chúng ta sẽ nhiệt thành đáp lại lời kêu gọi của Thiên Chúa trên mọi nẻo đường đời: “Con hãy đi làm vươn nho cho Cha nhé”… bằng lớp đáp khiêm nhu: “xin cho con mãi được làm người con thứ nhất”…
(Suy niệm của AM. Trần Bình An)
Tháng 7 năm 1951, sau khi lãnh chức phụ phó tế, thầy Giuse Đích Nguyễn Ngọc Oánh được cử đi du học tại Hoa Kỳ. Tiếp tục học thần học tại Đại chủng viện Saint Meinrad, Indiana, thầy được chịu chức linh mục ngày 03-05-1952. Sau đó, Cha Giuse Đích Nguyễn Ngọc Oánh, được chuyển đến Đại học Loyola tại Chicago để học môn Xã hội học. Tháng 6 năm 1954 Cha tốt nghiệp master về Xã hội học. Đang tiếp tục dọn tiến sĩ thì ngài nhận được thư của Cha Phêrô Nguyễn Huy Mai chuyển đạt lệnh truyền của Đức Cha Giuse Maria Trịnh Như Khuê như sau: “Xin Cha biên thư cho các Cha Trương, Cha Thông, Cha Oánh, báo tin cho các Cha ấy biết tôi muốn cho các Cha ấy về Bắc. Các Cha bỏ đi Nam nhiều, thiếu người làm việc. Tôi muốn mở lại các Chủng viện. Tôi để tùy ý các Cha, nhưng nếu các Cha ấy về, thì tôi vui mừng lắm.”
Nhận được thư ấy, ngài lo âu suy nghĩ rất nhiều. Vì đang học dở dang. Vì hoàn cảnh quê nhà đang rối ren và những người thân thiết đều ngăn cản. Nhưng Cha Thông nói với ngài: “Bỏ tất cả mà về, thì được Chúa Thánh Thần.” Thế là hai Cha cùng nhau quyết định vâng lời bề trên trở về giáo phận dù rất băn khoăn lo lắng vì biết chắc sẽ gặp nhiều khó khăn.
Tháng 9 năm 1955, về đến nhà, ngài lao ngay vào công việc, vừa làm thư ký cho Đức Cha, vừa dạy học cho Tiểu chủng viện Gioan, vừa dạy giáo lý cho giới trí thức. Vì lớp giáo lý có ảnh hưởng sâu rộng nên chính quyền ra lệnh đình chỉ. Ngài lại lui vào âm thầm, tổ chức đào tạo giáo lý viên trong Tòa giám mục. Thấy ảnh hưởng mạnh mẽ của ngài, và vì ngài không ủng hộ Ban Liên Lạc Công giáo nên chính quyền quyết định bắt ngài cải tạo tại chỗ. Ngày 16-08-1965, ngài bị quản chế tại Chuôn Trung với kỷ luật nghiêm ngặt.
Tuy bị quản chế nghiêm ngặt, hằng ngày phải chịu đựng những thái độ, lời lẽ nghi kỵ, nhục mạ, luôn bị gọi lên thẩm vấn, điều tra, làm kiểm điểm, làm báo cáo liên tục, ngài vẫn luôn vui tươi. Ngài hăng hái làm việc tay chân như cuốc đất trồng rau, đào giếng. Và nhất là dù bị cấm đoán, ngài vẫn dâng lễ vào lúc 2 giờ sáng để giáo dân có thể tham dự thánh lễ. Ngài dâng lễ rất sốt sắng.
Trong suốt 20 năm, ngài thường xuyên liên lạc với Đức Cha Khuê bằng thư từ hoặc nhắn gửi. Đặc biệt trong những ngày lễ ngày tết, không bao giờ ngài quên viết thư chúc mừng Bề trên Giáo phận. Nhận được thư của ngài, Đức cha Khuê đều trả lời với lòng quí mến, rất ưu ái. Ngài cũng thường viết thư trao đổi với Đức Cha Fx Nguyễn Văn Thuận đang bị quản chế tại Hà Nội. Để trả lời ngài, Đức Cha Thuận cũng thường viết thư cho “em Oanh Sắc.” (Đức Ông Giuse Đích Nguyễn Ngọc Oánh, (1922-2007), Chân dung Lm, TGP Hà Nội)
Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, Thánh Matthêu thuật dụ ngôn hai người con được người cha gọi đi làm vườn nho. Người con thứ nhất từ chối, nhưng sau hối hận, đi làm. Người con thứ hai tuy vâng dạ, nhưng lại không đi làm. Đức Ông Giuse Đích Nguyễn Ngọc Oánh xứng danh người con hiếu thảo, đã vâng lệnh Bề Trên, về làm vườn nho, dù biết trước bao gian nan, khó khăn, thách đố đang chờ đón ngài.
Trong cuộc sống đạo, với sự yếu đuối cố hữu bất kỳ Kitô hữu nào cũng có thể nhập vai cả hai người con, tùy theo lửa mến nhiều hay ít, mà đáp lại lời mời gọi làm vườn của Chúa.
Người con hiếu thảo
Làm vườn nho với tâm hồn khiêm tốn, không tự mãn, không so bì, đố kỵ, mà chân thành ăn năn sám hối tội lỗi đã vấp phạm, người con thảo hiếu còn luôn tập sống xả kỷ vị tha, biết trân trọng, quan tâm và phục vụ tha nhân. Thánh Phaolô căn dặn khi vào làm vườn thì: “Đừng làm chỉ vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình. Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác.” (Pl 2, 3-4).
Muốn thế, người con hiếu thảo luôn tha thiết cầu nguyện, gần gũi, đắm say lửa mến, để mặc lấy tâm tình Thầy Chí Thánh, khiêm nhu, hạ mình, vâng phục Thánh Ý trọn hảo: “Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Kitô Giêsu, vốn dĩ là Thiên Chúa…” (Pl 2, 5-11)
Đồng thời, làm vườn nho là sống trọn vẹn giây phút hiện tại, có nghĩa đoạn tuyệt, quên đi quá khứ huy hoàng, thành quả tốt lành, hoặc giã từ những thất bại ê chề, tội lỗi nhám nhúa, để sám hối, canh tân. “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Chúa.” (Lc 9, 62)
Vì thế, sống giây phút hiện tại cũng là nhật nhật tân, hựu nhật tân, mỗi ngày mỗi đổi mới, mỗi thêm xả kỷ vị tha. Lời Chúa, Thánh Thể, cùng hồng ân hằng ngày của Người Cha thương ban, như lương thực dồi dào, bồi dưỡng tâm hồn, tăng sức đề kháng, tăng cường công lực, sẵn sàng dấn thân, người con thảo mới có thể an tâm lữ hành trên đường hy vọng.
Người Cha hằng hiện hữu
Vô thủy vô chung, “Thiên Chúa là Alpha và Omega, là Đầu và Cuối, là Khởi Nguyên và Tận Cùng.” (Kh 22, 13) Ngài là Đấng Tạo Hóa hằng hiện hữu bên ngoài không gian và thời gian, mà Ngài đã sáng tạo. Trong khi muôn loài thọ tạo thì chịu giới hạn và gắn chặt trong vòng kim cô của thời gian và không gian. Vì thế, tất cả biến cố, sự kiện diễn ra dưới trần thế, lòng vòng xoay vần như đèn cù, vẫn luôn mãi là thời hiện tại qua lăng kính kỳ diệu của Thiên Chúa.
Sau khi chịu phép rửa, Đức Giêsu đang cầu nguyện, thì trời mở ra, và Thánh Thần ngự xuống trên Người, dưới hình dáng chim bồ câu. Lại có tiếng từ trời phán rằng: “Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con.” (Lc 3, 21-22)
Đức Giêsu cũng luôn dùng thời hiện tại trong rao giảng. Như tại hội đường Nazareth, sau khi đọc xong một đoạn lời ngôn sứ Isaia, Người nói với cộng đoàn: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kính Thánh quý vị vừa nghe.” (Lc 4, 21). Đức Giêsu dạy Kinh Lạy Cha: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày…”(Mt 6, 11). Khi Người mời gọi người thu thuế: “Này ông Dakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông.” Sau khi ông Dakêu sám hối, ăn năn hứa đền bù tội, Đức Giêsu hân hoan:“Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này,.. Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất.”(Lc 19, 1-10)
Người Cha khoan dung hằng hiện hữu không chấp nhất quá khứ con cái, dù bất hiếu, ngỗ nghịch, bỏ đi hoang đàng, như qua lời cầu khẩn trong cơn quẫn bách, Vua Đavít đã tán dương, chúc tụng: “Ngài là Thiên Chúa nhân hậu từ bi, Ngài chậm giận, lại giàu tình thương và lòng thành tín.” (Tv 86, 16)
Người Cha khoan dung, rộng lượng quên ngay tội lỗi đứa con hư đốn, ương ngạnh, đanh đá, cá cầy, biếng nhác, chối phắt đi làm. Người lại trở nên rạng rỡ vui vẻ ngay, khi đứa con hôm nay biết ăn năn, hối hận, hoán cải, hiếu đễ, chịu thương chịu khó, hăng hái đi làm vườn. Đó là vì Chúa Giêsu kém trí nhớ! một trong mười khuyết điểm vô cùng đáng yêu của Đức Giêsu, mà ÐTGM Fx Nguyễn Văn Thuận đã chia sẻ lần đầu tiên vào sáng thứ Bảy, ngày 12.09.1998, tại nguyện đường Dòng Truyền-Giáo Ðức Mẹ Vô Nhiễm (O.M.I), Strasbourg, Pháp.
“Con sống giây phút hiện tại cho tràn đầy tình yêu. Chấm này nối tiếp chấm kia, ngàn vạn chấm thành một đường dài. Phút này nối tiếp phút kia, muôn triệu phút thành một đời sống. Chấm mỗi chấm cho đúng, đường sẽ đẹp. Sống mỗi phút cho tốt, đời sẽ thánh. Ðường Hy Vọng do mỗi chấm hy vọng. Ðời Hy Vọng do mỗi phút hy vọng.” (Ðường Hy Vọng số 978).
Lạy Chúa Giêsu, xin xóa đi niềm tự cao, tự đại trong tâm hồn chúng con, vì lầm tưởng rằng mình đạo gốc, công chính, đạo đức, dễ ngủ mê trong kiêu căng, tự phụ, đánh mất hết ân nghĩa của Chúa. Cũng xin Chúa xóa đi nỗi mặc cảm của chúng con tự ty, tội lỗi, xấu xa, gớm ghiếc, chua chát thất vọng, để có thể tỉnh ngộ, chân thành sám hối, ăn năn và trông cậy, trở về vòng tay yêu thương của Người Cha Nhân Từ.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ luôn nhắc nhủ, giúp đỡ, cầu bầu cho chúng con sống trọn vẹn giây phút hiện tại, với tràn đầy tình yêu Thiên Chúa và tha nhân. Amen.
(Suy niệm của Mark Link)
KINH NGHIỆM TRONG CĂN PHÒNG KHÁCH SẠN
Chủ đề:
“Hối cải là một tiến trình, là một cuộc du hành liên tục chỉ kết thúc vào lúc chết.”
Thomas Merton mồ côi cha mẹ năm 16 tuổi. Cậu gia nhập Đảng Cộng sản năm 20 tuổi và gặp được Đức Kitô năm 23 tuổi. Đến năm 24 tuổi chàng trở thành phóng viên tờ Nữu Ước thời báo (New York Times). Năm 26 tuổi, chàng thu gom toàn bộ tài sản vào một chiếc túi vải rồi đến sống ở Kentucky và trở thành một thầy dòng chiêm niệm Trappist (Anh em hèn mọn). Trong quyển sách tự thuật về cuộc sống tâm linh rất ăn khách nhan đề “The seven storey Mountain” (Ngọn núi bảy tầng), Thomas Merton mô tả lại bước đầu tiên trong tiến trình hối cải của chàng. Ngay khi vừa tốt nghiệp Trung học, Thomas đã đi du lịch một mình qua Âu Châu và sống một cuộc sống hơi buông thả. Một đêm nọ, chính trong căn phòng chàng. Thomas bỗng nhiên ý thức được tội lỗi của mình. chàng viết: “Toàn bộ sự việc xảy ra nhanh như chớp. Bỗng dưng một nhận thức sâu xa về nỗi bất hạnh và sự hư hỏng của linh hồn mình xâm chiếm hoàn toàn thân tôi. Tôi vô cùng ghê tởm những gì tôi trông thấy… và linh hồn tôi ao ước trốn thoát khỏi tất cả điều ấy một cách mãnh liệt và cấp bách mà trước đó tôi chưa hề bao giờ cảm thấy như thế”.
Merton nói rằng đó là lần đầu tiên chàng đã cầu nguyện, cầu nguyện thực sự. Chàng cầu xin Chúa, Đấng mà trước đó chàng chưa hề biết, xin Ngài tự trời ngự xuống giải thoát chàng khỏi quyền lực xấu xa đã cầm giữ tâm hồn chàng trong vòng nô lệ.
Câu chuyện về Thomas Merton minh hoạ về sự hối cải của người con thứ trong câu chuyện Phúc Âm hôm nay. Đồng thời nó cũng minh họa cho sự hối cải mà tiên tri Êdekien nhắc đến trong bài đọc thứ nhất hôm nay.
Điều gì đã khiến cho người ta hối cải giống như trường hợp của đứa con thứ trong Phúc Âm hôm nay, hay giống như Thomas Merton trong câu chuyện trên?
Cách đây nhiều năm, các lý thuyết gia chính trị thường phác thảo những bước cần thiết cho một cuộc cách mạng trong một nước.
Bước thứ nhất là tạo ra tâm lý bất mãn tận căn nơi dân. Bởi vì thiên hạ chỉ nghĩ đến việc đổi thay nếu họ cực kỳ bất mãn với tình cảnh hiện tại của họ. Điều này cũng đúng xét về bình diện từng cá nhân. Người ta chỉ lưu tâm thay đổi cuộc sống riêng khi nào họ bất mãn với hiện trạng cuốc sống ấy. Chúng ta thấy rõ điều này trông trường hợp của Thomas Merton. Chàng đã bất mãn sâu xa với cuộc sống mình. nói cách khác, bước đầu tiên trong tiến trình cải tà là bất mãn với cuộc sống của chính mình. “Bước nảy lửa” trong đời Thomas Merton chính là điều chàng kinh nghiệm được trong căn phòng khách sạn của chàng. Nói theo ngôn ngữ thần học, đó là lúc ân sủng Chúa tuôn xuống.
Bước thứ ba là thực hiện một điều cụ thể đầu tiên hướng về một cuộc sống mới. Chúng ta cũng thấy điều này nơi cuộc đời Thomas Merton. Ngay sáng hôm sau, sau khi có được cái kinh nghiệm đã xảy ra trong căn phòng khách sạn, Thomas Merton đã đi bộ ra ngoài ánh nắng ban mai. Tâm hồn ngài tan nát vì đau đớn và ăn năn. Nhưng đây là một cảm giác tốt đẹp, giống như cái nhọt được bác sĩ dùng dao giải phẫu.
Dù chưa phải là người Công giáo, Merton vẫn đi đến một nhà thờ quì gối xuống và chậm rãi đọc kinh Lạy Cha với tất cả niềm tin của mình. Sau khi cầu nguyện xong, Merton trở lại dưới ánh nắng mặt trời. Chàng cảm thấy như được tái sinh. Trông thấy một bức tường thấp bằng đá, Merton liền ngồi xuống trên đó lòng hân hoan trong niềm an bình tâm hồn mới tìm gặp được. Trước đây chưa bao giờ Merton có được sự an bình như thế.
Merton vẫn còn quãng đường dài phải bước trước khi hoàn tất cuộc hối cải của chàng. Tuy nhiên chàng đã bắt tay làm một việc đầu tiên cực kỳ quan trọng là hướng về một cuộc sống mới. Cần phải ghi nhớ rằng tất cả chúng ta vẫn còn lữ hành trên đường hướng về sự hối cải trọn vẹn. Chẳng hạn, trong chúng ta có một số người cần phải chiến đấu để từ những Kitô hữu bình thường trở thành Kitô hữu tốt, một số khác cần phải cố gắng từ những Kitô hữu tốt trở thành những Kitô hữu xuất sắc. Và số khác nữa thì cố gắng từ những Kitô hữu xuất sắc trở thành kitô hữu gương mẫu.
Khi bình luận về cuộc du hành bất tận của người kitô hữu hướng về sự hối cải trọn vẹn, một thần học gia thế kỷ 19 người Đan Mạch tên là Soren Kierkegaard đã nói: “Không hề có tình trạng đã thành một kitô hữu mà chỉ có tình trạng đang trở thành một kitô hữu”
Như thế, sự hối cải là một tiến trình, là một cuộc du hành đang tiếp diễn và chỉ chấm dứt khi nào chúng ta chết.
Bước thứ nhất trong cuộc du hành này là sự bất mãn tận căn với nếp sống hiện tại của chúng ta. Hãy nhớ lại Merton đã bất mãn với cuộc sống mình như thế nào.
Bước thứ hai là bước tia lửa làm thành ngọn lửa thúc giục chúng ta phải làm một điều gì đó cho cuộc đời mình. hãy nhớ lại cảm nghiệm trong căn phòng khách sạn của Merton.
Bước cuối cùng là thực hiện việc làm đầu tiên cực kỳ quan trọng là hướng về một cuộc sống mới. Hãy nhớ lại Merton đã tới nhà thờ để cầu nguyện ngay sáng hôm sau khi xảy ra cảm nghiệm trong căn phòng khách sạn.
Các bài đọc hôm nay mời gọi chúng ta khám phá ra cuộc sống của mình. Chúng ta có cảm thấy bất mãn về mối tương giao hiện tại giữa mình và Chúa Giêsu không? Chúng ta có ao ước thân tình sâu sắc hơn với Chúa không? Chúng ta có muốn yêu thương gia đình láng giềng chúng ta nhiều hơn giống như Chúa Giêsu yêu thương họ không?
Nếu có thì các bài đọc hôm nay có thể ví như tia lửa bật ra để biến thành ngọn lửa mà chúng ta cần thiết phải có để làm nên một điều gì cụ thể cho các mối tương giao nêu trên.
Có lẽ việc làm đầu tiên cực kỳ quan trọng hướng về cuộc sống mới là ra trình diện để được chữa lành trong Bí tích Cáo giải; là bắt đầu bỏ giờ ra nhiều hơn cho việc cầu nguyện, là lưu tâm đến một số vấn đề gia đình, chẳng hạn như tính hay nóng nảy với con cái, đồng thời cầu xin Chúa Giêsu giúp chúng ta làm một điều gì đó cụ thể ngay tức khắc để lướt thắng khó khăn ấy.
Đây là lời mời gọi hướng đến đức tin mà chúa ngỏ với mỗi người chúng ta đang hiện dịên nơi đây qua các bài đọc hôm nay.
Để kết thúc, chúng ta hãy cầu nguyện:
Ôi giọng nói của Chúa Giêsu,
Xin hãy kêu gọi chúng tôi,
Khi chúng tôi lạc bước quá xa Ngài.
Ôi đôi mắt Chúa Giêsu,
Xin hãy mỉm cười nhìn chúng tôi
Khi chúng tôi cần Ngài khích lệ
Ôi đôi tay Chúa Giêsu,
Xin hãy xức dầu cho chúng tôi
Khi chúng tôi yếu đuối mệt mỏi.
Ôi cánh tay Chúa Giêsu,
Xin hãy nâng đỡ chúng tôi
Khi chúng tôi vấp ngã.
Ôi trái tim Chúa Giêsu,
Xin hãy giúp đỡ chúng tôi yêu thương nhau
Như chính Ngài đã yêu thương chúng tôi.
(Suy niệm của Lm. Mark Link, SJ.)
Chủ đề: “Khi nào chúng ta thấy khó lòng tha thứ cho kẻ khác thì chúng ta nên quay về Chúa Giêsu, cầu xin Ngài giúp đỡ”.
Corri ten Boom sống tại Amsterdam (Hoà Lan) trong thế chiến thứ hai. Gia đình cô làm một cửa tiệm đồng hồ. Khi bọn Ðức Quốc Xã xâm chiếm Hoà Lan, gia đình cô bắt đầu giúp đỡ dân Do Thái đang bị truy nã có hệ thống và bị đem đi đến các trại tử thần. Cuối cùng có kẻ đã tố cáo gia đình cô. Thế là gia đình cô bị gởi đến trại tập trung. Corrie và em gái cô là Betsy bị gởi đến trại Ravens ô nhục. Cả gia đình Corrien chỉ mỗi mình cô còn sống sót sau cơn thử thách. Sau chiến tranh, cô đi du lịch khắp Aâu Châu rao giảng về sự tha thứ và hoà giải. Sau một cuộc nói chuyện ở Munich thuộc Ðức, một người đàn ông đã tiến đến cám ơn cô về bài nói chuyện. Corrie không thể nào tin nổi vào mắt mình. Gã này chính là một trong những tên lính gác Quốc xã từng có nhiệm vụ coi sóc phòng tắm vòi sen của phụ nữ tại trại Ravensbruck. Gã ta tiến tới tính bắt tay Corrie. Corrie như đông cứng người lại không thể nào giơ tay ra bắt được. Sự ghê tởm trại tập trung kèm theo cái chết của người em gái chợt trở lại trong ký ức của cô. Lòng cô tràn ngập nỗi oán hờn và ghê tởm. Corrie không thể tin được cách trả lời của cô. Chính cô vừa mới giảng một bài thật cảm động về lòng tha thứ, thế mà bây giờ cô lại không thể nào tha thứ được. Cô bị xúc động quá đến nỗi không thể nào bắt tay gã lính gác nọ được.
Thỉnh thoảng trong cuộc sống, tất cả chúng ta đã từng cảm nghiệm đôi điều tương tự như Corrie. Chúng ta cảm thấy mình không thể nào tha thứ cho một kẻ nào đó. Chúng ta thấy tình cảm mình như bị chận đứng lại đối với một kẻ nào đó đã từng gây đớn đau thương tích cho chúng ta.
Ðiều này nêu ra một vấn nạn xốn xang đau đớn. Làm sao chúng ta có thể xử lý một vấn đề như thế? Chúng ta phải làm gì đây khi không thể nào tha thứ cho một ai đó? Làm thế nào để thoát ra khỏi sự bế tắc tình cảm đang bít kín mọi nỗ lực tốt nhất của chúng ta nhằm để tha thứ? Làm thế nào thi hành giáo huấn về sự tha thứ mà Chúa Giêsu đưa ra trong phúc âm hôm nay? Thái độ của chúng ta phải như thế nào trước những lời cảnh cáo trong bài đọc thứ nhất hôm nay. Lời cảnh cáo đó là: nếu chúng ta từ chối không xót thương anh chị em mình, thì đừng mong Thiên Chúa sẽ thương xót chúng ta.
Hãy trở lại với câu chuyện của chúng ta về Corrie. Hãy xem cô ta xử lý trường hợp của mình thế nào. Trong lúc người cô như bị đông lạnh co cứng. Corrie liền im lặng cầu nguyện: “Lạy Chúa Giêsu, con không thể tha thứ cho người này. Xin ban cho con sự tha thứ của Chúa”. Ngay lúc đó, Corrie nói hình như có một sức mạnh của ai khác đẩy tới, tay cô bỗng nắm lấy tay gã lính gác trong niềm tha thứ thực sự. Và ngay lúc đó cô chợt khám phá ra một chân lý vĩ đại. Không phải dựa trên sự tha thứ của riêng chúng ta mà thế giới quanh ta được chữa lành mà chính là dựa trên sự tha thứ của Chúa Giêsu. Khi truyền bảo chúng ta yêu kẻ thù, Chúa Giêsu cũng trao cho chúng ta ân sủng cần thiết kèm theo để tha thứ cho họ. Như thế, phương cách thứ nhất để xử lý vấn đề không thể thứ tha cho một ai đó là cầu xin Chúa Giêsu ơn tha thứ. Phương cách thứ hai để xử lý vấn đề trên được nhắc đến trong bài phúc âm hôm nay, đó là làm điều mà viên chức nọ đã không làm, là tự mình ngồi xuống trước mặt Chúa Giêsu và nhớ lại Chúa đã tha thứ cho chúng ta không biết bao nhiêu lần. Ngài đã tha thứ cho chúng ta vô cùng nhiều hơn Ngài yêu cầu chúng ta tha thứ cho kẻ khác. Ðiều nhỏ nhất chúng ta có thể đáp lại là giơ tay ra tha thứ cho anh em mình. Và phương cách thứ ba để xử lý vấn đề trên là cố gắng nhìn kẻ thù mình trong một ánh sáng hoàn toàn mới mẻ, tức là nhìn họ không phải như kẻ thù mà là những con người đang đau khổ giống như chúng ta. Tôi xin cắt nghĩa rõ hơn điều tôi muốn nói:
Trong cuốn tiểu thuyết nhan đề “Mặt trận phía tây hoàn toàn yên tĩnh” (All quite on the Westem) có một cảnh đầy cảm động. Lúc đó cuộc chiến đang xảy ra dữ dội giữa đám lính Pháp và Ðức. Một chú lính Ðức trẻ nằm dưới một hầm đạn để tránh đạn pháo. Bỗng nhiên một người lính Pháp cũng nhảy vào cùng hầm ấy để tránh đạn pháo. Trước khi người lính Pháp kịp ra tay, thì chú lính Ðức đã đâm ngay người ấy vài nhát. Tuy nhiên người lính Pháp không chết liền mà nằm thoi thóp ra đó. Chàng lính Ðức, trẻ măng như một chú bé, chăm chú nhìn cặp mắt hãi hùng của người lính Pháp. Chú ta thấy miệng người lính Pháp này há hốc ra, đôi môi khô và nứt nẻ. Chú ta bèn động lòng thương và rút chai nước của mình ra cho người lính thù địch ấy uống. Cuối cùng khi người lính thù này qua đời, chú lính trẻ người Ðức cảm thấy ân hận sâu xa. Ðây là người đầu tiên bị chú ta giết. Chú thắc mắc không hiểu tên người này là gì. Trông thấy chiếc ví trong túi người chết, chú ta liền kính cẩn rút ra xem chiếc ví đựng vài tấm ảnh gia đình, một tấm có hình một người đàn bà và một đứa bé gái.
Chú lính Ðức vô cùng cảm động. Bỗng dưng, chú nhận thấy người lính đã chết không phải là kẻ thù, mà là một người cha, người chồng — tức là một người biết yêu và được yêu y hệt như chú vậy. Ðộng lòng thương xót, chú liền lấy một miếng giấy và ghi vào đó địa chỉ người đã chết. Chú tính sẽ viết một lá thư cho vợ ông ta.
Ðiều gì đã xảy ra trong chiếc hầm đạn ấy? Phải chăng chú lính Ðức bất ngờ nhận ra bổn phận phải yêu thương đồng loại và chú tự bắt mình phải yêu thương người lính vừa mới chết? Không phải thế đâu!
Sự việc xảy ra như thế này: chú lính Ðức chợt nhìn thấy người từng bị xem là kẻ thù của chú bằng một ánh sáng hoàn toàn mới mẻ. Và chính sự thay đổi cách nhìn này là đã thay đổi thái độ của chú đối với người ấy.
Trên thập giá, Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho các kẻ hành hình Ngài bằng một ánh sáng khác hẳn chúng ta nhìn nhiều. Ngài nhìn vượt lên trên vẻ bề ngoài của họ. Ngài nhìn ra bản chất thực sự của họ là những đứa con lạc đường của Cha Ngài.
Nếu muốn tha thứ cho kẻ thù, chúng ta phải bắt đầu nhìn thấy họ bằng một ánh sáng mới. Chúng ta phải bắt đầu nhìn họ giống như Chúa Giêsu nhìn thấy họ.
Tóm lại để xử lý cho trường hợp không thể tha thứ cho kẻ thù.
Thứ nhất chúng ta hãy cầu xin Chúa Giêsu ơn tha thứ giống như Corrie đã làm.
Thứ hai, hãy nhớ lại Chúa Giêsu đã tha thứ cho chúng ta vô cùng nhiều hơn là Ngài đang đòi chúng ta tha thứ.
Thứ ba, hãy cố gắng nhìn kẻ thù mình theo cách Chúa Giêsu nhìn quân thù Ngài, nghĩa là xem họ như những anh em đang lầm đường lạc lối.
Bài Phúc Âm hôm nay mời gọi chúng ta khám phá lại tương giao của mình với kẻ khác. Ðặc biệt với các thành viên trong gia đình mình. Bài phúc âm ấy mời gọi chúng ta tự vấn xem tương giao nào trong số này cần được cải thiện đồng thời mời gọi chúng ta khởi sự tiến trình chữa lành tương giao nào bị trục trặc.
Chúng ta hãy kết thúc với lời kinh cầu của thánh Phanxicô:
“Lạy Chúa xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa. Ðể con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem tin kính vào nơi nghi nan, đem hy vọng vào nơi thất vọng, đem ánh sáng vào nơi tăm tối, đem niềm vui đến chốn u sầu.
Xin hãy dạy con: tìm an ủi người hơn được người ủi an,
Tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết
Tìm yêu mến người hơn được người mến yêu.
Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh.
Chính lúc thứ tha là khi được tha thứ.
Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Bình An)
Trên đường tu đức, ai cũng ham đọc sách của Thomas Merton. Cha đã khai sáng một lối suy tư mới để cân bằng, cảnh tỉnh và thăng tiến đời nội tâm. Trong tác phẩm “Ngọn núi bẩy tầng” (The Seven Story Mountian) Thomas Merton đã diễn tả ơn trở về đặc biệt của chính bản thân.
Lúc 20 tuổi, Merton gia nhập đảng cộng sản và du lịch Âu châu. “Bỗng một đêm ở Paris, tôi nhận ra cái tình trạng tồi tệ, khốn quẫn và man dại của mình trong cơn ác mộng. Tôi bị quỉ dữ săn đuổi và cố chạy trốn! Càng chạy càng mắc và càng lâm nguy. Thức giấc trong kinh hoàng và ướt đẵm, tôi quì xuống khẩn cầu. Đây là lần đầu tiên trong đời, tôi tha thiết nguyện xin. Những mong Thiên Chúa giải cứu khỏi sự dữ đang kìm kẹp và đe doạ tôi. Thiên Chúa đã ra tay thị uy và tạo cơ hội cho tôi trở về”. Khi 23 tuổi, Merton đã tin nhân và suy phục Chúa. Anh làm phóng viên cho tờ Nữu Ước Thời Báo. Và lúc tròn 26, anh giã từ nghề nghiệp, bố thí gia sản, rồi dồn những đồ tùy thân vào một túi vải, gõ cửa xin gia nhập dòng Trapist tại Kentuckty. Chúa đã chuyển hóa một thanh niên hoang đàng thành một thầy dòng khổ tu. Thật lạ lùng!
Không hài lòng với bản thân, nổi loạn với cha mẹ, chống cưỡng quyền bính, và tranh đấu cho công bằng xã hội, chúng ta thường có hai phản ứng tương khắc. Một là dấn thân xây dựng cơ cấu và thế hệ mới, cải tiến gia đình, học đường và xã hội. Đây là con đường đoan chính và thánh thiện mà lịch sử Giáo Hội còn ghi đậm những nết son đặc thù của một Phaolô, Augustinô, Inhaxiô, Phanxicô. Hai là bất mãn, chống đối, làm loạn, thủ tiêu và trả thù theo thuyết “thần học giải phóng”. Thuyết này đã được phái vô thần áp dụng tuyệt mức. Họ cấy thù hận vào tâm não; dùng tra tấn, đàn áp và tù tội làm chính sách; lấy thủ tiêu, bỏ đói và tra tấn làm phương tiện. Kết quả là có nhiều tâm hồn thất vọng, chán chường.
Sống bất an và bất hạnh, Merton quyết tung cánh chim tìm về tổ ấm và ra khỏi ngõ cụt của văn hoá sự chết. Merton được cải tử hoàn sinh qua ba giai đoạn. Một là ý thức quá khứ lỗi lầm và hướng thiện. Hai là cương quyết thăng tiến và thay đổi. Ba là dấn thân sống lý tưởng và hành hiệp trượng nghĩa. Đây là ba chặng chuyển hướng quan trọng, phải theo đúng nếu muốn cải tử hoàn sinh. Merton, Phaolô, Mai Đệ Liên, Augustinô… đã thành công và trở thành những “tín hữu thật” theo quan niệm của Soren Kierkegaard “Chưa có một tín hữu thật sự trên đời, mà chỉ có tiến trình trở thành một tín hữu”. Quả vậy tâm tình “ngại núi e sông” đang trói chặt chúng ta. Vì thế chúng ta còn tiếc xót đời tiện nghi, ấm cúng, hạnh phúc, chưa đeo nổi túi vải lên vai và vui bước lên đường.
Phúc Âm hôm nay tra vấn, thức tỉnh và đưa chúng ta ra khỏi giấc mơ tầm thường của thế tục. Bạn nghĩ sao? Cải tử hoàn sinh để nhập vương quốc nước trời hay lết lê kiếp sống tai bay vạ gió và miệt mài với cảnh nay còn mai mất!!
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Những gì hôm qua thì đã qua, chuyện ngày mai thì chưa tới, còn việc hôm nay thì đang ở trong tầm tay. Đã là người có lương tri bình thường thì không ai vô tâm, bạc tình khi sống quay lưng với cội nguồn lịch sử và cũng ít có ai sống mà không hướng tới tương lai. Tuy nhiên, không thể chối cải rằng cái hôm nay mới là cái mang tính quyết định. Chính vì thế nhiều lúc chúng ta cần phải có thái độ “tự do” một cách nào đó với những gì đã qua và với những gì chưa tới.
Đừng quá bám víu vào sự đã qua dù đó là những thành quả lẫy lừng, những chiến công hiển hách hay là những thất bại ê chề, những lỗi lầm tủi nhục. Nếu quá khứ của ta là những sự màu hồng thì đáng trân trọng nhưng hãy coi chừng chuyện thường tình kiếp người rất dễ ngủ quên trên chiến thắng và nhất là hãy đề phòng cám dỗ tự kiêu, tự mãn, một cám dỗ thường gây “hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”. Thực tiển cho thấy chuyện vì tự hào, tự mãn“đã đánh thắng hai đế quốc to”, nên các nhà lãnh đạo nước Việt đã dần đưa đất nước ngụp lặn trong hố sâu của nghèo khó, tụt hậu do chính cái tư duy, nếp nghĩ và cung cách hành xử kiểu “chủ quan, duy ý chí”. Nếu quá khứ của ta vướng đầy những sự nhuốm màu tím hay đen thì cũng đáng nghiền ngẩm để tự kiểm và rút kinh nghiệm, nhưng cũng phải canh chừng cám dỗ buông xuôi, ngã lòng. Lỗi lầm nào cũng để lại vết thương đau. Thất bại là mẹ thành công. Có người do bị ám ảnh bởi những lỗi lầm, hay thất bại của quá khứ mà nản chí, buông xuôi. Cũng có người biết tích lũy những vết thương đau thành chuổi kinh nghiệm làm nền tảng cho những thành quả hôm nay. Bài học lịch sử thật đáng quý, tuy nhiên lịch sử không phải là vòng tròn lặp lại cái đã qua như cũ, như xưa.
Đừng quá ảo vọng vào những gì chưa đến. Tương lai thường chất chứa những sự tốt đẹp, vì đó là ước mơ của con người. Chẳng ai lại đi mơ ước điều xấu xa tồi tệ cho chính mình. Họa hiếm mới có một đôi người, khi ở trong tình trạng bất bình thường, mới mong những sự chẳng nên cho bản thân. Đã là người, cần phải có hoài bảo và ước mơ. Tuy nhiên cũng cần thận trọng trước cám dỗ xa rời thực tế. Đã có đó một vài chủ thuyết vẽ vời viễn ảnh tương lai “to đẹp hơn gấp mười, gấp trăm ngày nay” để rồi lòe bịp đồng loại lãng quên không nhìn thẳng vào cái hiện tại, một hiện tại đầy bất công, dối trá…
Thiên Chúa là Đấng của hôm nay: Với Thiên Chúa, cái hiện tại là cái quan trọng nhất, là cái có tính quyết định. Trước đây ngươi sống công chính mà bây giờ ngươi làm điều gian ác thì ngươi phải chết. Người tội lỗi xưa làm nhiều sự gian ác mà bây giờ bỏ điều dữ, làm điều chính trực công minh thì sẽ được sống. Ngôn sứ Êdêkien minh nhiên nói thay Thiên Chúa sự thật này (x. Ed 18,27-28).
Đến trần gian, Chúa Kitô thường cảnh tỉnh nhiều vị lãnh đạo Do Thái thời bấy giờ, những người vốn tự hào về công nghiệp đã qua của mình. Khi kể câu chuyện về hai người con, Chúa Kitô đã làm nổi rõ cái giây phút hiện tại. Người con cả sở dĩ được chấp nhận dù trước đó không vâng lời Cha nhưng giờ này anh hối hận và vâng theo lời cha. Trái lại, người con thứ, trước đó đã mau mắn đáp vâng lời cha mà giờ này anh lại không làm theo ý cha thì cũng bằng không. Để khẳng định chân lý này Chúa Kitô còn nói với những Thượng tế và kỳ mục hôm ấy bằng một kiểu nói long trọng: “ Tôi bảo thật các ông: Những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông. Vì ông Gioan đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy, còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại tin.” (Mt 21,31-32). Một số nhà chú giải phân tích chữ “ trước” còn có nghĩa là “thay thế”, nghĩa là những người thu thuế va gái điếm sẽ thế cái chỗ của các vị Thượng tế và kỳ mục trong Nước Trời. Kết thúc dụ ngôn “Người Cha nhân hậu”, Chúa Kitô đã nêu bật lời của người cha với đứa con cả:“ Chúng ta phải ăn mừng và hoan hỉ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy”(Lc 15, 32).
Sống mà không có ngày mai là một cuộc sống thiếu định hướng, thiếu tinh thần cầu tiến. Tuy nhiên cái của ngày mai phải được đặt nền tảng vững vàng trên cái của hôm nay. Nhiều khi chúng ta có thể quá lo lắng cho những sự chưa đến mà bỏ quên bổn phận trong hiện tại. “Anh em đừng lo lắng về ngày mai, ngày mai, cứ để ngày mai lo…”(Mt 6,34). “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày” (Mt 6,11). “ Hôm nay, nếu các ngươi nghe tiếng Người, đừng cứng lòng nữa!” (x. Tv 95,7-8)
Đừng để đến ngày mai những gì tốt đẹp và phải đạo có thể làm trong ngày hôm nay: Xét về mặt tiêu cực, dưới nhãn quan đức công bằng thì nếu giam tiền công nhật của người làm công đến hôm sau là đã phạm lỗi bất công (x.Lv 19,13). Còn trên bình diện đức ái thì nếu bỏ qua một việc tốt, một việc lành trong khả năng và hoàn cảnh của ta hôm nay thì đã phạm một điều tồi tệ, đó là tội thiếu sót mà chúng ta thường đấm ngực thú lỗi trong phần khởi đầu của Thánh Lễ: Tôi thú nhận cùng Thiên Chúa và cùng anh chị em: tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng, lời nói và những điều thiếu sót…”
Lúc sinh thời, mỗi khi gặp những người bệnh tật, dù đó là ngày Lễ nghỉ và theo luật Do Thái giáo bấy giờ thì không được phép, nhưng Chúa Giêsu vẫn ra tay thi ân giáng phúc bất chấp nhiều luật sĩ và biệt phái hậm hực chống đối và thậm chí còn tìm cách giết Người. Phải làm ngay hôm nay, lúc này, ở đây (hic et nunc) những điều chính đáng và phải đạo trong hoàn cảnh và khả năng của mình. Bởi chưng, nhiều lúc, chính khi không làm điều thiện là làm điều ác, không cứu sống là giết chết, không bênh vực công lý là toa rập với bất công… (x. Mc 3,4).
Những kẻ tự cao là nhưng người luôn nhớ và muốn kẻ khác nhớ mình đã làm một sự gì đó. Những người tự ti là những người không thể quên và nghĩ rằng người ta không thể quên mình đã lầm lỡ một sự gì đó. Những người lười biếng là những người luôn muốn làm một sự gì đó (mà không bao giờ làm) (Ngạn ngữ Pháp). Những người hèn nhát là những người luôn khát khao một sự gì đó (mà không dám làm). Còn những người công chính là những người bắt tay làm ngay những sự phải làm, đáng làm, nên làm, hôm nay, lúc này.
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Tiến Huân)
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu lấy ví dụ người cha có hai con. Ông đến nhờ đứa thứ nhất đi làm vườn cho ông. Nó trả lời rằng nó không đi, nhưng rồi sau đó nghĩ lại hối hận, nó lại đi. Ông nhờ đứa thứ hai, nó trả lời nó sẽ đi làm nhưng rồi lại không đi. Sau đó, Chúa Giêsu hỏi các Thượng tế và Kỳ lão Do thái: “Ai trong hai người con đó đã làm theo ý cha mình” và họ đáp “người con thứ nhất” (Mt 21,31).
Chúa Giêsu dùng chính câu trả lời của họ mà kết luận về chính họ: “Tôi bảo thật các ông, người thu thuế và gái điếm sẽ vào Nước Thiên Chúa trước các ông” (Mt 21,31). Tại sao vậy? Tại vì họ cũng giống như người thứ hai, biết ý cha mình muốn và ngoài miệng thì trả lời là làm theo, nhưng thực sự thì không. Họ là “những kẻ chỉ mến Chúa bằng môi, bằng miệng, còn lòng thì ở xa Người” (Mt 15,8). Mà những kẻ chỉ mến Người bằng môi bằng miệng mà không thực hiện ý Người thì không thể vào Nước Trời: “Không phải chỉ kêu Lạy Chúa, Lạy Chúa là sẽ vào được Nước Trời, nhưng là kẻ thi hành thánh ý Cha” (Mt 7,21)
Họ như cây vả xum xuê cành lá bên ngoài, nhưng không có trái là việc làm tốt, nên bị nguyền rủa (Mt 21, 18-19). Họ là những kẻ mà Chúa Giêsu đã ca thán: “Tại sao các ngươi kêu với Ta “Lạy Chúa, Lạy Chúa” mà điều Ta nói, các ngươi lại không làm?” (Lc 6,46).
Gioan đến với họ trong đường công chính và bề ngoài thì họ kính nể Gioan bởi nếu không, thì sẽ bị dân chúng ném đá (Lc 20,5-6), nhưng trong lòng thì không tin ngài (Mt 21,32). Trái lại những người thu thuế và gái điếm vẫn bị coi là kẻ tội lỗi, thì như người con thứ nhất, biêt “hối hận và đi làm” (Mt 21,29)
Thực vậy, khi Gioan rao giảng thì những người thu thuế đã thống hối xin chịu thanh tẩy và còn hỏi cho biết việc phải làm: “Thưa Thầy, chúng tôi phải làm gì?” (Lc 3,12) “Họ đã chấp nhận Thiên Chúa công minh, còn Biệt phái và Luật sĩ đã khinh màng ý Chúa” (Lc 7,29). Khi cầu nguyện với Chúa, thì ngược hẳn với thái độ kiêu ngạo khoe khoang của Biệt phái, họ “Đứng đàng xa, không dám ngước mắt lên trời, chỉ đấm ngực mà rằng: Lạy Chúa, xin thương xót con vì con là kẻ có tội”. (Lc 18,9-14). Họ biết thực hiện lời Chúa phán mà “bố thí nửa phần gia tài cho kẻ khó và nếu có gian lận ai thì đền gấp bốn”.
Còn những nguời gái điếm như người phụ nữ trong Luca 7,37-49 hay Maria Madalena trong Luca 8,2, và bọn Biệt phái khinh khi kẻ tội lỗi (Lc7,39), đã biết thống hối cải thiện đời sống theo ý Chúa muốn: “Họ đã tin Người. Còn các ông (Biệt phái), sau khi xem thấy điều đó, các ông cũng không hối hận mà tin Người”. (Mt 21,32).
“Khi người công chính từ bỏ lẽ công chính và phạm tội ác thì nó phải chết: chính vì tội ác nó phạm mà nó phải chết. Khi kẻ gian ác bỏ đàng gian ác nó đã đi và thực thi công chính thì nó sẽ được sống” (Ezekiel 18,26-27- Bài đọc I) Đó là điều chúng ta cần phải suy nghĩ và đem ra thực hành trong đời sống Công Giáo của chúng ta.
Lạy Chúa, tuần này con quyết vừa vâng nghe vừa làm theo thánh ý Chúa để đáng là đức con hiếu thảo tận tình của Chúa.
(Suy niệm của Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
Kinh Thánh là một kho tàng vô giá bảo toàn tất cả những điều Thiên Chúa mạc khải về sự khôn ngoan, các giá trị về đức tin, luân lý đạo đức và ân sủng cứu độ. Thiên Chúa đã chọn gọi các tổ phụ, cha ông, các tiên tri, tư tế và thầy dậy để ban truyền huấn lệnh và đường lối chính trực. Toàn bộ Kinh Thánh được hình thành trải qua cả ngàn năm tỏ bày sự khôn ngoan thương trí của Thiên Chúa. Các ngôn sứ và đặc biệt một số tác giả của sách Huấn Ca, sách Khôn Ngoan, Châm Ngôn và Thánh Vịnh… đã chia sẻ những trải nghiệm sống đức tin qua các biến cố thời đại. Khi thời gian đã mãn, Chúa Giêsu xuống trần đi rao giảng, Ngài đã khai mở một kho tàng ân sủng và con đường chính thật dẫn vào Nước trời. Trong tất cả các sách vở suy niệm, giảng giải, chia sẻ và các giáo huấn luôn nói lên những lời lẽ tích cực tốt đẹp, khuyên dạy và hướng thiện. Sứ mệnh rao giảng là mời gọi mọi người ăn năn hối cải, sửa đổi đời sống, nên gương tốt lành, làm việc siêng năng, cư xử hiền hòa, trau dồi nhân đức và thực hành bác ái yêu thương.
Tiên tri Ezekiel khuyến khích dân chúng hối lỗi để tìm về nguồn sống: Nếu kẻ gian ác, bỏ đường gian ác nó đã đi, và thực thi công bình chính trực, nó sẽ được sống (Ez 18, 27). Ngay từ thuở ban đầu mới tạo dựng, sự ác đã len lỏi vào lòng trí của loài người. Tổ tiên Adong và Evà đã bị sa vào cạm bẫy chiều theo ma quỉ và Cain cũng sa đà phạm tội giết em. Satan cứ rảo quanh tìm mồi để cắn xé. Con người yếu đuối dễ bị hướng chiều về đàng dữ. Chúng ta đang sống giữa một xã hội vàng thau lẫn lộn. Có nhiều người đang tiếp tay với ma quỉ để mở đường dẫn lối nhiều người đi xa lạc. Sự hướng dẫn của một số nhà lãnh đạo đã bị biến chất và tha hóa. Một số thầy dậy bị lôi kéo theo những thị hiếu của con người thời đại. Nhiều nhà lãnh đạo không còn giữ lập trường kiên định trong vấn đề luân lý đạo đức. Phần lớn thế hệ trẻ ngày nay nhìn vấn đề cuộc sống rất tương đối và tự do trong nhiều lãnh vực. Sự tốt sự xấu cận kề khó phân biệt. Những giới điều tôn giáo dần dần bị loại ra khỏi nơi công cộng hay trường lớp. Rất nhiều người không có định hướng cho lý tưởng sống, nhưng chỉ sống vui thỏa qua ngày.
Canh tân sửa đổi đời sống không phải luôn luôn dễ dàng. Trước hết, tự vấn là chúng ta có muốn cải thiện đời sống nên tốt lành thánh thiện hay không? Chúng ta có thể cậy dựa vào đâu để tìm một nguyên lý căn bản chính thật cho lý tưởng sống? Trong xã hội loài người, có rất nhiều niềm tin, ý thức hệ và quan niệm sống khác nhau. Vả nữa, nơi nhiều dân nước, chế độ, xã hội và tôn giáo có những chủ trương thực hành đạo lý khác biệt. Về tiêu chuẩn đạo đức luân lý cũng khó phân biệt. Một vấn đề đối với người này có thể là xấu, nhưng với người khác lại là hợp lý và tốt lành. Tùy theo cách nhìn vấn đề ở khía cạnh khách quan hay chủ quan và về khuynh hướng chính trị, xã hội, thương mại, tôn giáo, đạo đức và luân lý nhân bản. Chúng ta phải tìm về nguồn sự khôn ngoan mà Thiên Chúa đã tỏ bày. Chúa đã mạc khải con đường hướng thiện qua chính Ngôi Lời là Đức Giêsu Kitô. Chúa Giêsu là đường, là sự thật và là sự sống.
Giáo Hội dùng mọi cách trong mọi thời để nhắc nhở, khuyến khích và mời gọi mọi người hối lỗi bỏ đường gian tà mà trở về với Thiên Chúa. Từ xa xưa, tiên tri Ezekiel đã mở lối cho những người lầm lạc: Nếu nó suy nghĩ và từ bỏ mọi tội ác nó đã phạm, nó sẽ sống, chớ không phải chết (Ez 18, 28). Tiên tri nói đến sự sống viên mãn nơi quê trời, nơi niết bàn và là nơi an hưởng hạnh phúc. Trong cuộc sống, mỗi người chúng ta đều có kinh nghiệm về sự yếu đuối, sa ngã và phạm tội. Thú thật, trong đời sống có một sự hấp dẫn vô hình nào đó kéo lôi chúng ta trì trệ trong vũng lầy của tội lỗi. Lạ một điều, dù biết là tội, biết là lỗi, nhưng chúng ta không muốn hối cải, tránh xa, trút bỏ, từ bỏ hay xưng thú. Đôi khi, chúng ta cứ khất lần để phạm thêm tội cho nhiều, rồi mới đi xưng tội. Hình ảnh thí dụ: Khi chúng ta có chiếc áo trắng mới tinh, một vết dơ nhỏ, chúng ta cũng cảm thấy khó chịu và muốn giặt sạch ngay. Khi áo đã cũ và ngả mầu, chúng ta không màng nữa, dơ cho dơ luôn. Lời Chúa nhắc nhở chúng ta hãy ăn năn hối cải và sửa đổi đời sống, vì chúng ta không biết ngày giờ sẽ đến. Sự hối lỗi trở về không bao giờ trễ.
Câu truyện về hai người anh em được cha sai đi làm vườn nho trong bài Phúc Âm hôm nay, giúp chúng ta suy gẫm về cuộc sống đạo của mình. Thường khi chúng ta hay có những phản ứng tiêu cực nhất thời khi chưa kịp nghĩ suy như cãi lời, phản ứng gay gắt, chối từ và phủ nhận. Nhưng rồi suy đi nghĩ lại, chúng ta có những đáp trả tích cực hơn. Trong câu truyện, người cha muốn con đi làm vườn nho: Nó thưa lại rằng: Con không đi. Nhưng sau đó hối hận và đi làm (Mt 21, 29). Chúng ta không lấy làm lạ về cách hành xử thường ngày này. Già trẻ lớn bé, ai cũng vướng phải. Trải qua kinh nghiệm trong đời sống gia đình, cộng đoàn và xã hội, chúng ta cần có sự kiên nhẫn và tâm tình quảng đại trong việc đối xử với nhau. Vì ai cũng có khả năng để thay đổi nên tốt hơn. Miễn là cho mỗi người một cơ hội.
Lồng trong câu truyện của hai anh em, Chúa Giêsu nhìn rõ hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ. Có nhiều người nghĩ mình tốt lành và thánh thiện, nên không cần hồi tâm xét mình. Do đó, một số người đã đánh mất cơ hội cho chính mình. Họ hay liếc mắt hướng về người khác, giơ tay chỉ trích phê bình anh em, khó chịu với cách buông thả và khinh khi lối sống của những người đang bị lầm lạc. Chúa Giêsu lên tiếng: Tôi bảo thật các ông, những người thu thuế và gái điếm sẽ vào nước Thiên Chúa trước các ông (Mt 21, 31). Lời cảnh tỉnh của Chúa Giêsu làm chúng ta phải giật mình. Chúa nhìn thấu tâm can và lòng thành của mỗi người. Chúa ban cho ai nhiều, Chúa sẽ đòi hỏi lại nhiều. Chúa đã ưu đãi ban cho muôn vàn ân sủng và cơ hội để đổi mới, nhưng chúng ta lại cứ chứng nào tật ấy mà dậm chân tại chỗ. Thật ra, chúng ta không cần chờ đợi tới ngày mai, ngay lúc này đây, hãy dùng đôi phút xét mình, đấm ngực mình, hối lỗi, tìm cách sửa lỗi và xin ơn tha thứ.
Từ khi trở về cùng Chúa, thánh Phaolô rất nhiệt tâm thay đổi lối sống của chính mình và viết thơ khuyên bảo nhiều anh chị em: Chớ làm điều gì bởi cạnh tranh hay bởi tìm hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi kẻ khác vượt trổi hơn mình (Phil 2, 3). Có nhiều gương mù gương xấu đã xảy ra giữa các cộng đoàn dân Chúa. Cũng chỉ vì cái hư danh hão huyền mà gây xung đội. Sự cạnh tranh giữa các tín hữu đã xảy ra ngay từ khi thiết lập những cộng đoàn đức tin đầu tiên. Các tín hữu không tránh khỏi những thói tục trần thế. Vì Nước Trời giống như mẻ cá bắt được mọi thứ cá, lớn bé và tốt xấu. Giáo Hội là một cộng đoàn tín hữu, cần có hoàn cảnh và môi trường tốt lành để mọi người được học hỏi trau dồi nhân đức. Khiêm nhường là nhân đức căn bản giúp chúng ta học biết chính mình và tha nhân.
Thánh Phaolô đã viết 12 lá thơ gởi cho các cá nhân và các giáo đoàn. Ngài đã dùng nhiều cách để diễn tả tâm tình, đôi khi vì quá nhiệt tâm, đã dùng những lời lẽ cứng rắn, sửa đổi gay gắt, khiển trách nặng nề và trách mắng chua cay. Cũng có lúc tâm tình rất nhẹ nhàng yêu thương. Trong thơ gởi cho tín hữu Corintô, Ngài viết: Anh em hãy dành cho chúng tôi một chỗ trong lòng anh em. Chúng tôi không làm hại ai, không làm cho ai phải sạt nghiệp và không bóc lột ai (2Cor 7, 2). Nhiều khi những lời giáo huấn chân thật của Giáo hội và các chủ chăn cũng làm cho chúng ta cảm thấy chướng tai khó chịu. Tự hỏi: Tại sao chúng ta phải sám hối, phải ăn năn hối cải, phải hy sinh và phải đi vào con đường hẹp? Chúng ta nên nhớ rằng lời khuyên dậy của Giáo Hội luôn vì phần rỗi của chúng ta mà thôi.
Lạy Chúa, Chúa đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá (Phil 2, 8). Xin cho chúng con kiên trì dõi theo lối bước của Chúa để tìm về nguồn hoan lạc đời đời.
(Suy niệm của JB. Nguyễn Minh Hùng)
“Các ông nghĩ sao?”. Ngay từ đầu câu chuyện, Chúa Giêsu đã đưa ra lời hỏi đột ngột như một lời thẩm vấn buộc người nghe phải động não, phải tự đặt vấn đề cho mình. Có thể nói lời hỏi đột ngột của Chúa Giêsu như muốn gây giật mình, cùng lúc lôi cuốn sự chú ý của người nghe vào trong câu chuyện mà Người sắp nói nhằm giúp họ tra xét chính bản thân họ.
“Các ông nghĩ sao? Người kia có hai con trai”. Cả hai con trai đều được ông sai đi làm vườn nho. Nhưng các con của ông sao mà tính khí bất định, để rồi tiếng vâng mà thực là không, tiếng không lại là vâng. Đứa thứ nhất trả lời không, cuối cùng đi làm. Đứa thứ hai trả lời có, cuối cùng bất tuân. Dù tính cách và những câu trả lời của những người con bất định đến thế, nhưng theo mạch văn của Tin Mừng, đối với Chúa Giêsu, hình như cái làm cho chúng trở nên đúng hay sai, tốt hay xấu, không thuộc về tính cách và càng không phải là lời những người con ấy nói, nhưng là rốt cuộc chúng làm hay không làm theo ý của cha mình.
“Các ông nghĩ sao?”. Nếu ngày xưa Chúa hỏi những người đương thời như thế, thì hôm nay lời ấy cũng sẽ là lời tra vấn chúng ta. Hay nói cách khác, Chúa cũng sẽ hỏi bạn và tôi: “Các con là loại người nào trong hai người con trai kia?”. Dù trong ta, có thể có cả hai thái độ của hai người con, nhưng hôm nay, chúng ta nói đến người con thứ hai, qua đó xét lại thái độ sống đức tin của mình.
Chắc chắn không ai là không ủng hộ, đồng tình với việc giữ đạo từ nhỏ đến lớn, ủng hộ việc thường xuyên lãnh bí tích, thường xuyên dự lễ, đọc kinh… Nếu ai sống đạo được như thế, thực sự họ đã là những người ngoan đạo. Nhưng cái được coi là ngoan đạo của những người ngoan đạo ấy, nếu không để ý, có khi đẩy ta rơi vào một thái cực khác khá nguy hiểm: chỉ sống đạo theo thói quen. Việc giữ đạo lâu ngày trở thành một cái khuôn, chỉ cần rập khuôn theo là đủ, hoặc sự sáo mòn từ ngày nay qua ngày khác làm ta cảm thấy mình không sai luật, không lỗi bổn phận, và cuối cùng, không thấy cần phải sám hối ăn năn, vì không biết mình có phạm tội gì để ăn năn hay không? Từ đó sinh ra một thái độ khác càng tệ hại hơn nữa: thái độ tự mãn, tự kiêu, tự đắc thắng. Đó cũng chính là thái độ tự phong mình làm “thánh”, dù không nói ra thành lời. Nếu điều này có thật thì thật nguy hiểm cho ta. Bởi vì có ai hoàn hảo đâu, chỉ vì chưa nhận ra mình bất toàn nên không hoán cải mà thôi.
Đấy chính là thái độ của người con thứ hai. Anh ta thưa với cha mình: “Vâng, thưa cha con sẽ đi làm vườn nho”, nhưng lại không đi. Còn chúng ta, ai cũng đang sống trong Giáo Hội, ai cũng có thể thưa với Chúa rằng: con yêu mến Chúa, con tin Chúa, con muốn theo Chúa, nhưng trong thực tế, đời sống đạo của mình cứ ì ạch, không có gì khá hơn, không đổi mới gì và cũng không thấy mình cần phải ăn năn hối cải.
Nếu đúng là ta có một cung cách, một thái độ sống đạo tự mãn đó, chỉ biết rập khuôn theo luật, mà không có một tâm tình, một ý thức nào để cải thiện đời sống, điều đó có nghĩa là mình đang tự lừa dối chính bản thân. Nếu có lúc nào bạn và tôi thật khiêm tốn, tự kiểm điểm mình thật thành tâm, tôi nghĩ, chắc là lúc ấy chúng ta không còn dám tự mãn nữa.
Chắc bạn còn nhớ lời khen của Chúa Giêsu đối với thái độ của người thu thuế khi cầu nguyện. Anh ta đứng xa xa ở cuối nhà thờ, không dám ngước mắt lên, đấm ngực mà cầu nguyện: “Lạy Chúa tôi là kẻ có tội”. Sau lời cầu nguyện ấy, anh ra về và tội của anh được tha. Thế nhưng cùng lúc ấy, cũng có một người biệt phái cầu nguyện trong nhà thờ ấy. Rất tiếc và rất đáng thương cho anh ta. Anh ta quá tự mãn, chỉ thấy nơi mình toàn điều tốt. Thái độ tự mãn ấy đã biến lời cầu nguyện thành lời khoe khoang. Làm sao một người không từng thấy mình yếu đuối, thấy mình tội lỗi lại có thể được thứ tha! Bạn và tôi cần lắm thái độ của người thu thuế nơi chính bản thân mình. Và cũng cần lắm thái độ của người con thứ nhất trong bài Tin Mừng hôm nay: trả lời “không” với cha. Nhưng tiếng “không” lại biến thành tiếng “có” ngay sau đó. Tiếng “không” như thế vẫn đẹp rực rỡ, đẹp hơn nhiều so với tiếng “có” của người con thứ hai, rốt cuộc chỉ là một tiếng “không” vô tận. Bởi lời đáp trả dẫu có quan trọng, nhưng hành động đi liền với lời đáp trả ấy quan trọng hơn nhiều. Biết tránh thái độ tự mãn, biết nhận ra bản thân để thánh y Cha được thể hiện mới là điều quí giá vô cùng.
“Các ông nghĩ sao?”. Ngày xưa Chúa hỏi những người biệt phái, thượng tế, kỳ lão như vậy. Ngày hôm nay Chúa cũng hỏi mỗi người hiện diện ở đây, từng người một rằng: “Các con nghĩ sao? Nghĩ sao về cách sống đạo của mình? Nghĩ sao về cách thể hiện đức tin? Nghĩ sao về lòng yêu Chúa mà mình phải có? Nghĩ sao về thánh ý Chúa mà mình phải thực hiện?”.
“Các ông nghĩ sao?”, lời đó xin gởi lại cho bạn và cho những ai thành tâm thiện ý để tất cả chúng ta cùng suy gẫm và xét đạo cách sống đạo của mình. Trên hết mọi sự, bạn và tôi hãy để Lời Chúa tra vấn mình: “Các con nghĩ sao?”.
Câu hỏi gợi ý:
1. Khi giải quyết những vấn đề quan trọng, việc phân biệt điều chính điều phụ có quan trọng không? Còn trong việc nên thánh, việc giữ đạo, việc vào nước Trời thì sao? Điều nào là điều quan trọng nhất để nên thánh?
2. Đối với Đức Giêsu, thờ phượng Thiên Chúa, cầu nguyện và sống yêu thương, việc nào quan trọng nhất? Cái nào là mục đích, cái nào là phương tiện?
CHIA SẺ
1. Cần phân định chính phụ trong việc sống đạo để nên thánh
Trên đời, biết bao người cùng nhắm một mục đích, nhưng đạt được mục đích lại chẳng mấy người! Lý do: người ta không biết điều nào chính, điều nào phụ. Vì thế, họ cứ làm những cái phụ thuộc, chẳng cần thiết hoặc ích lợi gì cho mục đích. Việc nên thánh, nên hoàn hảo cũng vậy. Biết bao Ki-tô hữu lấy việc nên thánh, nên hoàn hảo làm lý tưởng cho cả cuộc đời mình, nhưng họ chẳng đi tới đâu. Họ có một cuốn Kinh Thánh chỉ cho họ đầy đủ con đường để nên hoàn hảo, nhưng họ lại không chịu đọc để xem cái cốt yếu hầu nên hoàn hảo là gì. Họ chỉ nghe người này nói thế này người kia nói thế nọ để bắt chước. Cuối cùng họ chẳng đạt được gì.
Nên thánh là việc chính yếu và quan trọng nhất của đời sống Ki-tô hữu. Vì thế, thiết tưởng người Ki-tô hữu cần nắm thật vững điều nào chính yếu và điều nào phụ thuộc trong việc sống đạo của mình. Nếu không, họ giống như một người muốn nấu cơm, mà lại cứ dùng cát để nấu: dù có nấu muôn đời cũng chẳng thành.
2. Những người dẫn đường mù quáng
Theo thánh Mát-thêu thì bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu nói với “các thượng tế và kỳ mục trong dân” (Mt 21,23), tức những bậc thầy về tâm linh cho các tín hữu Do Thái giáo. Điều thật bất ngờ đối với chúng ta là Đức Giêsu dám nói thẳng vào mặt họ: “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm sẽ vào Nước Thiên Chúa trước các ông”. Những người thu thuế và các cô gái điếm vốn là những người bị những bậc “đạo sư” Do Thái ấy coi thường và loại bỏ ngay từ đầu ra khỏi “Nước Thiên Chúa” theo quan niệm của họ. Lúc nào họ cũng chắc mẩm rằng họ là đối tượng ưu tiên của Nước Trời. Vì thế, câu Đức Giêsu nói làm cho họ bật ngửa. Điều thật mỉa mai là: họ là những bậc thầy chỉ dẫn người ta vào Nước Trời, thế mà chính họ lại được vào đấy sau cả bọn đĩ điếm. Lý do: họ là “những kẻ dẫn đường mù quáng” Mt 23,16), “là những người mù dắt người mù” (Mt 15,14).
Tại sao? Vì họ chuyên quan trọng hóa những điều phụ thuộc, còn những điều chính yếu và quan trọng nhất thì họ không thèm để ý tới. Đức Giêsu nói về họ: “Các người bảo: Ai chỉ Đền Thờ mà thề, thì có thề cũng như không; còn ai chỉ vàng trong Đền Thờ mà thề, thì bị ràng buộc. Đồ ngu si mù quáng! Thế thì vàng hay Đền Thờ là nơi làm cho vàng nên của thánh, cái nào trọng hơn?” (Mt 23,16-22); “Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, tình thương và sự thành thật” (Mt 23,23).
Rút kinh nghiệm quá khứ, thiết tưởng để nên thánh, chúng ta nên đọc kỹ Kinh Thánh để nghe chính Đức Giêsu chỉ dẫn cho những điều cốt yếu, và nên dựa trên những gì mà bản thân chúng ta xét thấy hợp lý. Đừng thuần túy dựa vào ý kiến hay chỉ dẫn của người khác.
3. Đức Giêsu chỉ cho chúng ta bí quyết để nên thánh
Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu hé mở cho chúng ta bí quyết hay điều cốt yếu phải làm để nên thánh qua dụ ngôn hai người con: một người nói mình sẽ làm theo ý cha mình, nhưng lại không làm, còn người kia không nói mà làm. Người không nói mà làm mới là kẻ làm đẹp lòng Cha. Rất nhiều chỗ trong Tin Mừng, Đức Giêsu cho biết điều chính yếu để nên thánh là thực hiện thánh ý của Thiên Chúa. Thiết tưởng đoạn sau đây là rõ ràng nhất: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! lạy Chúa!” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi. Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng:”Lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao?” Bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: “Ta không hề biết các ngươi; xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác!” Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá. Dù mưa sa, nước cuốn, hay bão táp ập vào, nhà ấy cũng không sụp đổ, vì đã xây trên nền đa” (Mt 7,21-27).
Tóm lại, điều chính yếu nhất để nên thánh và để vào nước Thiên Chúa chính là vâng theo thánh ý Thiên Chúa, tức thực hành những điều Đức Giêsu dạy. Vậy, chúng ta cần phải nắm thật vững thánh ý Thiên Chúa là gì, hay Đức Giêsu dạy ta điều gì? Hãy nghiêm túc đặt lại vấn đề này một lần cho cả cuộc đời để đi cho đúng đường, và đạt được mục đích của mình là nên thánh. Nếu không, coi chừng kẻo chúng ta giữ đạo cả cuộc đời mà vẫn “sôi hỏng bỏng không”, hay như “dã tràng xe cát biển đông, nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì”, chỉ vì điều quan trọng nhất thì ta coi thường, còn điều phụ thuộc thì chúng ta lại coi là tối quan trọng.
Đọc toàn bộ Tin Mừng, tôi thấy điều quan trọng nhất mà Đức Giêsu muốn nhấn mạnh là: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34). Ngay câu kế tiếp, Ngài nhấn mạnh tầm quan trọng của nó: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13.35). Ngoài điểm chính ấy, thì tất cả những điều khác, đều là phụ thuộc, và những điều phụ thuộc này dù quan trọng tới đâu thì cũng chỉ là quan trọng hàng thứ yếu. Chính vì thế, vào ngày phán xét, Đức Giêsu chỉ phán xét mọi người về một điều duy nhất: cách họ đối xử với tha nhân (x. Mt 25,31-46).
Chúng ta cần chú ý tới điều mà Đức Giêsu muốn nhấn mạnh, và những người dẫn đường thiêng liêng cho quần chúng cũng phải nhấn mạnh giống như Đức Giêsu. Nếu điều quan trọng nhất lại không nhấn mạnh, mà lại nhấn mạnh những điều phụ thuộc, thì họ cũng chỉ giống như những người dẫn đường thiêng liêng cho quần chúng trong đạo Do Thái mà thôi.
4. Chúng ta đặt nặng và sống đúng điều quan trọng nhất chưa?
Điều quan trọng nhất trong Ki-tô giáo chính là sống yêu thương: trước tiên là yêu thương những người gần gũi mình nhất (cha mẹ, vợ con, anh chị em…), rồi đến những người xa hơn một chút (bà con, lối xóm, bạn bè, người cùng cộng đoàn…), rồi mới đến những người xa hơn nữa (người quen, người gặp ngoài đường…), để rồi yêu thương không trừ một ai, kể cả kẻ thù của mình (vì họ cũng là con người, là hình ảnh và là con cái Thiên Chúa). Cần ghi lòng tạc dạ điều quan trọng nhất ấy để thực hành. Tất cả những chuyện khác đều là thứ yếu – không có nghĩa là không quan trọng, mà chỉ là không quan trọng bằng – thường là phương tiện để giúp ta thực hành điều quan trọng nhất ấy.
Chẳng hạn việc thờ phượng Chúa và việc cầu nguyện. Đây là hai việc được coi là rất quan trọng trong Ki-tô giáo mà không một Ki-tô hữu nào được phép coi thường. Nhưng chúng ta không thể coi hai việc này quan trọng hơn điều răn quan trọng nhất là sống yêu thương được. Đọc hết Tin Mừng, tôi không hề thấy có chỗ nào Đức Giêsu nhấn mạnh đến việc thờ phượng Thiên Chúa hay cầu nguyện bằng hoặc như Ngài đã từng nhấn mạnh bổn phận phải yêu thương cả.
Qua câu “Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5,23-24), tôi thấy rõ rằng Ngài coi trọng việc thể hiện tình thương đối với đồng loại hơn cả việc thờ phượng Thiên Chúa nữa. Ngôn sứ I-sa-i-a còn cho thấy Thiên Chúa ghê tởm việc thờ phượng và cầu nguyện của những con người đối xử với đồng loại không ra gì: “Ta chán ghét những ngày đầu tháng, những đại lễ của các ngươi. Những thứ đó đã trở thành gánh nặng cho Ta, Ta không chịu nổi nữa. Khi các ngươi dang tay cầu nguyện, Ta bịt mắt không nhìn; các ngươi có đọc kinh cho nhiều, Ta cũng chẳng thèm nghe. Vì tay các ngươi đầy những máu” (Is 1,14-15; nên xem hết cả đoạn Is 1,11-19). Hãy nghe Ngài kết án hết sức nặng nề những việc làm thiếu bác ái: “Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt” (Mt 5,21-22). Trong dụ ngôn người Sa-ma-ri nhân hậu, Ngài có vẻ như cay cú với thầy tư tế và lê-vi đã bỏ mặc nạn nhân bị cướp trên đường vì đã coi trọng việc thờ phượng và giữ những chi tiết trong luật Mô-sê hơn bổn phận bác ái là giới răn quan trọng nhất.
Cầu nguyện là để tiếp xúc với Thiên Chúa hầu nhận được sức mạnh của Ngài mà sống yêu thương anh chị em mình. Nó là phương tiện cần thiết để đạt được mục đích là sống yêu thương. Đừng biến phương tiện thành mục đích mà quên mục đích đích thực phải thực hiện. Về việc thờ phượng Thiên Chúa, hãy bắt chước Đức Giêsu: cả đời chỉ thực hiện tình thương đến mức hy sinh cả mạng sống, và cuộc đời đầy yêu thương đó chính là hy tế thờ phượng Thiên Chúa đẹp lòng Ngài nhất.
Đối với điều chính và điều phụ, lập trường của Đức Giêsu là: “Các điều này (điều chính yếu) vẫn cứ phải làm, mà các điều kia (điều phụ thuộc) thì không được bỏ” (Mt 23,23c). Dẫu phải làm cả hai, nhưng vẫn phải phân biệt điều nào chính điều nào phụ để khi không thể làm được cả hai, thì biết phải chọn lựa điều nào.
Cầu nguyện
Tôi nghe Chúa nói với tôi: “Lạ thật! Biết bao người nói rằng họ theo Ta, nhưng những điều Ta khuyên hay yêu cầu họ làm thì họ chẳng thèm làm. Họ cứ tưởng: họ bám theo Ta và lải nhải nịnh nọt Ta suốt ngày thì Ta sẽ hài lòng và như vậy mới là theo Ta. Họ làm như Ta là một bạo chúa chỉ thích nghe những lời nịnh nọt! Ta là Thiên Chúa, Ta có cần họ làm gì cho Ta đâu, thế mà họ lại cứ quan tâm đến Ta, đang khi anh chị em của họ ở ngay bên cạnh họ, rất cần họ yêu thương săn sóc – những người đó chính là hiện thân của Ta ở giữa họ – thì họ chẳng thèm màng tới. Quả thật, họ đang làm những chuyện vô ích mà cứ tưởng là cần thiết”.
72.Tôi khám phá ba điều khác lạ
1. Bài Tin mừng hôm nay không khởi đầu như thường lệ bằng câu: “Khi ấy Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng”, nhưng: “Khi ấy Đức Giêsu nói với các Thượng tế và các trưởng lão trong dân rằng”.
Vào thời Đức Giêsu, các Thượng tế và trưởng lão đại diện cho toàn thể giới lãnh đạo tôn giáo và xã hội Do Thái. Họ cho mình là rường cột của niềm tin chính thống và nền tảng của xã hội. Đức Giêsu đồng hoá họ với người con trưởng: Nói mà không làm.
2. Đức Giêsu đảo lộn trật tự tôn giáo và xã hội. Ngài đồng hoá những người thâu thuế và các cô gái điếm với người con thứ hai: Ban đầu từ chối, nhưng sau đó hối hận và làm theo ý cha mình.
Bài Tin mừng không thuật lại phản ứng của những người đối thoại với Đức Giêsu. Nhưng sự so sánh của Ngài phải nói là rất táo bạo, phải được gọi là một cuộc cách mạng, một sự đảo lộn bậc thang giá trị: Hạ giới lãnh đạo, hạ những người chốp bu xuống và nâng những người tội lỗi, nâng hạng người bị xã hội khinh thường lên.
3. Người Cha là chủ vườn nho. Ông không sai những đầy tớ, những người làm công lao động trong vườn nho của mình, nhưng sai chính những người con.
Ba điều khác lạ trong bài Tin mừng hôm nay giúp chúng ta, những kitô hữu của ngàn năm thứ ba, sống Lời Chúa thế nào?
1. Đức Giêsu muốn trực diện và nói thẳng với mỗi người chúng ta: Không phải mang nhãn hiệu kitô hữu với giấy chứng Rửa tội, không phải mỗi ngày đọc kinh, mỗi Chúa Nhật tham dự Thánh Lễ là đương nhiên sẽ được giấy vào Nước Trời. Nhưng phải chấp nhận và hành động theo Tin Mừng, phải tuyên xưng và sống niềm tin, phải nối đạo với đời.
2. Mỗi thánh nhân đều có một dĩ vãng. Mỗi tội nhân đều có một tương lai. Không vì một dĩ vãng đen tối mà nằm lì trong vũng tội. Hãy noi gương những người thâu thuế và các cô gái điếm để biết lắng nghe Lời Chúa, chấp nhận Tin mừng và thống hối, canh tân đời sống. Không bao giờ quá trễ và phải khởi sự ngay trong ngày hôm nay.
3. Chúng ta, giáo sĩ và giáo dân, là những người con được Chúa trao trách nhiệm làm việc trong vườn nho của Ngài. Mỗi người chúng ta phải rao truyền và sống Tin mừng: Trong mỗi hành động, chúng ta phải là chứng nhân của niềm tin kitô; qua mỗi lời nói, bằng mỗi câu chuyện, chúng ta phải an ủi, nâng đỡ tinh thần và chia sẻ kinh nghiệm của đức tin, cậy, mến cho nhau.
73.Biết nhận ra sai lỗi và hối hận
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Có một tâm sự như sau: Lúc tôi còn là một chàng thanh niên nhà nghèo từ miền quê lên thành phố học tập, mẹ tôi đã phải gồng gánh, chắt chiu từng đồng gửi cho tôi ăn học. Mỗi lần có dịp về thăm nhà, tôi thấy ngôi nhà ẩm thấp, nóng nảy ngày xưa vẫn không hề thay đổi. Trời tối nóng bức, mẹ tôi phải phe phẩy chiếc quạt nan cũ kỹ cả đêm. Tôi nói với mẹ: Tháng lương đầu tiên, con sẽ mua tặng mẹ cái quạt điện cho mát. Thời gian trôi qua, tôi cũng đã có việc làm, nhưng dường như tôi đã quên hẳn lời hứa với mẹ về tháng lương đầu tiên. Cuộc sống ở thành phố cứ cuốn tôi vào với dòng chảy của nó, bạn bè ngày càng nhiều hơn, các bữa tiệc ngoại giao ngày càng thường xuyên hơn, có những bữa tiệc tiêu tốn đến vài triệu.
Rồi một ngày, nhận được tin mẹ mất, tôi vội vã trở về với mẹ. Vẫn ngôi nhà đơn sơ năm xưa, mẹ tôi nằm đó, trên gương mặt còn đậm nét khắc khổ. Buổi chiều hôm ấy, khi người ta đặt mẹ vào quan tài, những người phục vụ đã không quên bỏ vào quan tài của mẹ chiếc quạt nan cũ kỹ năm xưa. Nhìn thấy chiếc quạt, tim tôi thắt lại, giật mình nhớ lại lời hứa về tháng lương đầu tiên sẽ mua tặng mẹ chiếc quạt điện. Tôi vô cùng hối hận vì đã không thực hiện được một lời hứa nhỏ bé dành cho mẹ. Kể từ đó, mỗi khi ngồi cạnh chiếc quạt điện tại văn phòng, tôi lại nhớ lời hứa năm xưa với mẹ mà lòng đau đớn.
Hối hận là gì? Thưa là tiếc nuối, day dứt về một hành động trong quá khứ, về một việc tốt có thể làm mà ta đã không làm và ước mong có cơ hội để chuộc lại sai lầm ấy.
Nếu hối hận chỉ là day dứt và tiếc nuối quá khứ thôi, thì chưa đủ; trái lại, nó cần phải đi kèm một quyết tâm khắc phục sửa chữa sai lầm của mình trong quá khứ, đó mới là hối hận thực sự. Thiên Chúa cũng luôn chờ đợi con người nhận ra sai lầm của mình, hối hận và làm lại cuộc đời, và khi con người hối hận thực lòng, Thiên Chúa không còn xét đến quá khứ của người ấy nữa, Ngài sẵn sàng tha thứ và đón nhận người ấy như người con đi xa trở về với Cha. Những luật sĩ và biệt phái tỏ ra khó chịu khi thấy Chúa Giêsu tiếp xúc với những người thu thuế và tội lỗi. Họ tự cho mình là những người đạo đức, luôn chu toàn giới răn lề luật của Thiên Chúa, nhưng thực ra họ chỉ nói mà không thực hành, xét đoán khắt khe với người khác, nhưng lại không nhìn lại bản thân mình.
Câu chuyện dụ ngôn về hai người con hôm nay, Chúa Giêsu cho thấy, Thiên Chúa quan tâm đến hành động hối lỗi một cách cụ thể hơn là những lời nói suông trống rỗng. Cả hai đứa con trong câu chuyện đều được cha đến tận nơi và mời gọi: Con ơi! Hôm nay, con hãy đi làm vườn nho cho cha. Đứa con thứ nhất trả lời: Con không muốn đi. Người con này, lúc đầu nó từ chối lời mời của cha nó, nó làm cho cha hụt hẫng, đau lòng vì bị từ chối thẳng như thế; nhưng sau đó, nó hối hận và đi làm. Chắc chắn khi thấy nó vào vườn nho làm việc, cha nó sẽ quên hết nỗi đau trước đây, và ông vui mừng vì sự hiện diện thiện chí của nó. Ngược lai, Người con thứ hai đã nhanh chóng trả lời: Vâng con sẽ đi. Nó nói để lấy lòng cha nó, nhưng rốt cuộc anh ta không đi.
Câu hỏi được Chúa Giêsu đặt ra với các thượng tế và kỳ mục rằng: Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha? Họ trả lời ngay: Người con thứ nhất. Như thế, ngay câu hỏi của Chúa Giêsu đã cho thấy: Thiên Chúa như người cha trong câu chuyện, Ngài chờ đợi không phải là những lời nói ngọt ngào, dễ nghe, mà Ngài mong muốn những người con làm theo ý Ngài. Khi kể câu chuyện này, Chúa Giêsu muốn so sánh những thượng tế và kỳ mục giống như người con thứ hai. Khi Đức Giêsu đến giảng dạy về giới răn, lề luật của Thiên Chúa, gửi đến họ cơ hội để gia nhập Nước Trời, bên ngoài thì họ tỏ ra như một người con hiếu thảo, nhưng thực ra, họ lại không tuân giữ giới răn và không làm theo ý muốn của Thiên Chúa, mà làm theo ý mình. Còn những người bị coi là tội lỗi như những người thu thuế và gái điếm, trong con mắt mọi người, họ như những kẻ từ chối Thiên Chúa, nhưng khi nghe những lời giảng dạy của Chúa Giêsu, thì họ đã mau mắn hối hận và quyết tâm thay đổi tình trạng của mình. Vì thế, Chúa Giêsu đã quả quyết với họ: Những người thu thuế và các cô gái điếm sẽ vào Nước Thiên Chúa trước các ông. Vì ông Gioan đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy, còn những người thu thuế và các cô gái điếm lại tin.
Đối với Thiên Chúa, quá khứ không quan trọng bằng hiện tại, việc làm cụ thể thì quan trọng hơn lời nói trên môi. Nếu chỉ dừng lại ở quá khứ để tự dằn vặt, trách mình thì sẽ chẳng ích lợi gì. Nhưng điều quan trọng là khi biết thực lòng hối hận ăn năn, thì đối với Thiên Chúa, không bao giờ là quá muộn, Ngài sẽ vui lòng và sẵn sàng tha thứ mọi lỗi lầm và quên hết quá khứ của tội nhân. Bài đọc một, Thiên Chúa đã nói qua miệng tiên tri Ezekiel như thế: Khi người công chính từ bỏ lẽ công chính mà làm điều gian ác, nó sẽ phải chết vì những điều bất chính của nó. Còn nếu kẻ gian ác từ bỏ sự gian ác nó đã làm, mà thi hành điều chính trực, nó sẽ cứu được mạng sống mình, nó sẽ được sống.
Thiên Chúa không muốn chúng ta nhìn Ngài như một nhà độc tài hoặc một vị thần khó tính, mà Ngài muốn chúng ta nhìn Ngài như một Thiên Chúa tốt lành, một người Cha nhân hậu. Ngài luôn đối xử với chúng ta theo lòng khoan dung của Ngài. Ngài chờ đợi tâm tình thảo hiếu của người con đối với cha, như Đức Giêsu là mẫu gương thảo hiếu, hết lòng yêu mến, vâng phục Cha. Thánh Phaolô đã nhận ra và mời gọi chúng ta noi gương Ngài: Anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Giêsu-Kitô.
Tâm tình của Đức Giêsu Kitô là tâm tình nào? Đó là tâm tình yêu mến và vâng phục Thiên Chúa, vâng phục một cách tuyệt đối. Thánh Phaolô đã diễn tả tâm tình ấy qua bài ca: Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ nhất quyết phải duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế…vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Vì thế là môn đệ của Đức Giêsu, là con thảo của Thiên Chúa, chúng ta cũng phải học nơi Đức Giêsu và phải có cùng một tâm tình vâng phục, yêu mến Thiên Chúa như Ngài.
Thưa quý OBACE, một trong những vấn đề của con người ngày nay, đó là họ làm điều tội, nhưng lại không cho là tội, làm tổn thương đến người khác mà vẫn coi như chuyện bình thường. Sự vô tâm đến vô tình ấy đã gây ra nhiều nỗi khổ cho người bên cạnh. Tình trạng ấy cũng đang xảy ra giữa nhiều người với Thiên Chúa. Họ gây tổn thương cho Thiên Chúa, từ chối lời mời gọi yêu thương của Ngài mà không hề áy náy hay hối hận. Ngoài ra, nhiều lần chúng ta không chỉ vô tình, mà còn cố ý xúc phạm đến Thiên Chúa, khi mang trên mình cái vỏ là Kitô hữu, nhưng thực ra, chúng ta từ chối giới răn lề luật của Chúa và để ngoài tai lời mời gọi của Ngài. Lời Chúa hôm nay là một lời nhắc nhở và mời gọi chúng ta, hãy can đảm nhìn vào tình trạng tâm hồn và đời sống của mình để biết hối hận ăn năn về những hành động, lời nói đã xúc phạm đến Chúa, đồng thời tin tưởng vào Thiên Chúa để quyết tâm sửa chữa sai lầm. Hãy đến với Chúa nơi Bí Tích Giải tội để nhận ra sự bao dung, tha thứ của Thiên Chúa. Hãy để cho Lời Chúa soi sáng, chỉ dạy chúng ta và quyết tâm thực hành những điều Chúa muốn. Chúa đang nói với mỗi người qua Lời Chúa chúng ta nghe mỗi ngày và qua tiếng nói của lương tâm, là lời mời gọi từ trong tâm hồn mà Chúa nhắn gửi chúng ta.
Không chỉ hối hận với Thiên Chúa, chúng ta cũng cần khiêm tốn để nhìn ra những tổn thương mà chúng ta đã gây ra cho nhau: trong gia đình, với ông bà cha mẹ, với vợ chồng con cái, với bạn bè. Một lời nói, một cử chỉ nào đó có thể gây ra vết thương trong tâm hồn nhau. Hãy mạnh dạn bước đến với nhau để bày tỏ sự hối hận của mình. Trước hết, mỗi người hãy bày tỏ sự hối hận với các bậc làm cha mẹ. Các Ngài là những Đấng sinh thành, dưỡng dục chúng ta, dạy dỗ chúng ta nên người, nhưng ngược lại, khi khôn lớn, chúng ta đã không kính trọng và biết ơn các ngài cho đủ, mà có những lời nói, cử khỉ hỗn láo, khinh thường. Điều đó làm tổn thương các ngài biết bao. Hãy làm những việc cần thiết, để bày tỏ sự hốn hận của mình với các Ngài trước khi quá muộn.
Không chỉ con cái gây tổn thương cho cha mẹ, nhưng nhiều khi chính cha mẹ cũng gây tổn thương cho con cái, vợ chồng gây tổn thương cho nhau, bạn bè làm tổn thương nhau… Đối với người Châu Á, việc một người lớn nói lời xin lỗi với người bề dưới quả là không dễ, nhưng là những bậc cha mẹ hoặc những người lớn, chúng ta cũng cần xét mình lại và can đảm bước đến với con cái, với những người bề dưới để nói với họ rằng mình đã sai và cố gắng sửa chữa sai lầm. Việc làm đó không làm giảm uy tín của người bề trên, mà trái lại càng làm tăng lòng cảm phục nơi người bề dưới. Trong tương quan với bạn bè cũng thế, khi biết hối hận và khắc phục sai lầm, sẽ làm cho tình bạn ngày càng chặt chẽ hơn.
Xin Chúa giúp mỗi chúng ta không ngừng nhìn lại tương quan của mình đối với Chúa để biết sống trọn tình con thảo, và nhìn lại tương quan của mình với anh em để sống với nhau trong sự cảm thông và yêu thương. Amen.
(Suy niệm của Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long)
Các con thương,
Các con thường nghe ông bà ta thường nói: “Đánh người chạy đi chứ ai đánh người chạy lại”, nghĩa là con người có lầm lỗi to lớn thế nào đi nữa, nếu biết ăn năn hối hận thì được mọi người thương và tha thứ. Hơn nữa, họ còn được có cơ hội để làm lại cuộc đời.
Trong bài đọc thứ 1 hôm nay, tiên tri Êdêkiel cảnh báo những ai cho rằng mình đã đạo đức, đã tốt rồi không cố gắng sống tốt hơn, coi chừng ngày nào họ phạm tội thì họ cũng phải chết.
Cũng vậy, Ngài khuyến khích những kẻ gian ác hãy bỏ đi con đường tội lỗi và quay về thì sẽ được ơn tha thứ và tiếp tục sống. Nghĩa là Thiên Chúa luôn mở cho con người một tương lai, khuyến khích người xấu và người tốt ngày càng tốt hơn. Thiên Chúa không nhớ quá khứ tội lỗi của người biết hối cải. Người ta nói rằng: Thiên Chúa nhận lấy tội lỗi của chúng ta và quẳng nó xuống hố thật sâu. Người đặt một bản hiệu trên bờ hồ: “Miễn Vớt Lên”
Tục ngữ có câu: “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”. Trong Tin mừng các con vừa nghe, Chúa Giêsu nhấn mạnh đến đời sống đạo đức thực sự, lòng đạo đức được thể hiện qua việc làm cụ thể chứ không do lời nói suông, không qua hình thức bên ngoài.
Cùng một câu nói: “Hôm nay con đi làm vườn nho cho cha nhé!”. Thế nhưng có hai câu trả lời khác nhau. – Người anh nói: “Con không đi đâu” nhưng rồi nó hối hận và đi làm; người em trả lời: “Vâng, con đi” nhưng rồi lại không đi.
Các con thương,
Điều giá trị không phải do các con nói hay, nói giỏi cho bằng làm giỏi và làm tốt.
Hôm nay, Chúa Giêsu cũng nói với các con rằng: “Các con hãy đi làm vườn nho cho Cha”! Các con sẽ trả lời với Chúa như thế nào? – Chắc các con sẽ hỏi lại: làm vườn nho của Chúa là làm những gì?
Theo Kinh thánh, dân Israel được ví như là vườn nho của Chúa. Chúa Giêsu ví “Thầy là cây nho, các con là cành nho”. Như vậy, vườn nho của Chúa là những con người: Cha mẹ, gia đình, anh chị, hàng xóm, trường học…
Khi phụ giúp cha mẹ và anh chị lau quét nhà, rửa chén, nấu cơm, giúp bà xỏ kim chỉ may áo… là các con đáp lời mời gọi làm vườn nho gia đình của Chúa.
Ở trường học, các con biết chăm chỉ học tập, vâng lời, quý mến thầy cô giáo, yêu thương giúp bạn học tập… là các con đang làm vườn nho trường học cho Chúa.
Các con đóng góp tiền để giúp nuôi bạn có điều kiện đến trường như mình; khi nuôi heo đất để xây dựng nhà tình thương cho người có hoàn cảnh khó khăn, khi sống những điều răn Chúa dạy ở môi trường hàng xóm… là các con đã tích cực làm vườn nho xã hội cho Chúa.
Đặc biệt, mỗi tuần đến nhà thờ, dự thánh lễ nghiêm trang, siêng năng chầu thánh thể, sốt sắng rước Chúa, hăng say học giáo lý… là các con đang làm vườn nho tâm hồn của Chúa.
Tất cả những công việc đạo đức thánh thiện tốt lành này không phải làm trong thời gian nào đó mà phải khiêm tốn làm trong sự kiên tri bền chí.
Trong thánh lễ hôm nay, các con xin lỗi Chúa vì nhiều lần các con như người em út trong câu chuyện, hứa với Chúa rất nhiều điều mà không thực hiện: không thưa kinh trong thánh lễ, còn nói chuyện trong nhà thờ, không thực hiện quyết tâm hy sinh mà Phong trào thiếu nhi Thánh Thể đề ra…
Xin Chúa giúp các con quyết tâm luôn biết thưa VÂNG với Chúa và kiên trì cho đến cùng.
Xin Chúa giúp các con luôn đồng nhất giữa lời nói và việc làm: “Nói thì phải giữ lấy lời, đừng như con bướm đậu rồi lại bay”. Amen.
75.Hành động tốt thắng câu nói hay
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển)
Ngày nay người ta đề cao vai trò của “thế giới kỹ thuật số”. Vì thế, họ vận dụng nghành kỹ thuật này như một phương tiện tối ưu cho vấn đề quảng bá trong lĩnh vực kinh doanh. Tuy nhiên, khi ngành này phát triển, họ đã không ngừng “kỹ xảo hóa” để làm bắt mắt người tiêu dùng và khai thác sự tò mò của người dân. Từ đó, sự gian trá trong lãnh vực này cũng leo thang. Nhiều người đã bị những viên: “Thuốc đắng bọc đường” đánh lừa.
Còn trong lãnh vực cuộc sống nhân sinh, con người ngày nay cũng đang phải đối diện với thực trạng tốt – xấu lẫn lộn. Khó có thể biện phân được đâu là người chân tình; đâu là người dối trá; đâu là người xây dựng, đâu là người phá hủy! Lý do là vì họ được bao bọc bởi cái mã bên ngoài rất tinh vi, quỷ quyệt!
Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã đưa ra hai hạng người tốt – xấu; thật – giả thông qua hình ảnh trong dụ ngôn: “Hai người con”, để nhằm giúp cho mọi người hiểu rằng: giá trị đích thực không phải ở chỗ nói nhiều, nhưng là thi hành đúng. Không phải ở chỗ nịnh hót, mà là toàn bộ đời sống của người đó có “ngôn hành đồng nhất” hay không.
1. Ý nghĩa dụ ngôn
Khởi đi từ sách tiên tri Isaia giới thiệu về cách hành xử của Thiên Chúa như sau: “Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy” (Is 55, 9), bởi vì: “… tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta” (Is 55,8).
Thật vậy, đường lối của Thiên Chúa thì khác xa với đường lối và tư tưởng của con người. Với chúng ta thì dễ nhìn về quá khứ và đóng khung trong đó như một định luật bất di bất dịch, hầu kết án hay khoan hồng. Nhưng với Thiên Chúa thì Người nhìn và hướng về tương lai để mong sao cuộc đời của mỗi người được tốt đẹp hơn và có cơ hội trở lại. Tuy nhiên, tiêu chuẩn để đạt được điều hoàn thiện lại không phải phụ thuộc vào lời nói, mà là nơi hành động.
Để làm sáng tỏ vấn đề trên, Đức Giêsu đã đưa ra hai hình ảnh của hai người con được cha sai đi làm vườn nho. Người thứ nhất không đi, nhưng sau lại đi. Người con thứ nhận đi, sau lại không đi.
Hình ảnh đứa thứ nhất được Đức Giêsu ám chỉ là những người tội lỗi, thấp cổ bé họng, bị xã hội ruồng bỏ. Họ cũng là những người dân ngoại, thu thuế và gái điếm, bị người Dothái khinh miệt. Vì thế, họ không dám tham gia vào công việc làm vườn của người cha, nhưng sau khi hiểu được lòng tốt của cha, họ đã sám hối, an tâm, can đảm và vui vẻ thi hành cách trung thực.
Còn đứa thứ hai là hình ảnh đại diện cho những Thượng tế, Kỳ lão, Luật sĩ và Biệt phái Dothái. Những người này luôn luôn tự hào mình là con cái Tổ Phụ Abraham, dòng dõi các Tiên tri và là những người trung thành với luật Maisen. Vì thế, cái vé vào Nước Trời là chắc chắn. Họ coi các dân tộc khác là những hạng người bị ruồng bỏ, là đứa con hoang, những hạng người như thu thuế, gái điếm thì khái niệm Nước Trời cũng không thể hiện hữu trong tâm tưởng phương chi nói gì đến ơn cứu độ!
Vì sẵn có tính tự kiêu, tự coi mình là con cưng, được ưu tuyển. Nên ban đầu, họ cũng nhận cho hài lòng người cha, nhưng vì kiêu ngạo, tự mãn, họ lại không làm. Điều này cho thấy, họ thuộc hạng người nịnh hót, nói một đàng, làm một nẻo.
Kết cục, Đức Giêsu phán: “Kẻ sau hết sẽ nên trước hết, và kẻ trước hết sẽ nên sau hết” (Mt 20, 16a); bởi vì: “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông” (Mt 21, 31).
Đó là câu chuyện Tin Mừng thời Đức Giêsu, nhưng ngày nay, điều đó có còn không?
2. Thật giả vẫn luôn tồn tại
Chỉ cần ngồi lại để suy nghĩ một chút, chúng ta thấy hiện lên trong đầu rất nhiều tình huống thật giả, tốt xấu lẫn lộn đan xen quá nhiều. Nhất là trong lãnh vực quảng cáo. Họ tuyên truyền, thổi phồng tin tức, sự kiện để làm hấp dẫn điều muốn nói. Hay trong lãnh vực Marketing, người ta quảng bá những sản phẩm chất lượng tối ưu, bán chạy như tôm tươi, nhưng thực chất chỉ là thứ hàng giỏm, hàng giả.
Đôi khi điều đó là hành vi của những người xung quanh. Nhưng cũng không chừng, đó lại là của chính chúng ta!
“Căn bệnh giả dối” là đầu mối sinh ra những xói mòn về đạo đức, niềm tin của con người, từ đó phát sinh ra những suy thoái về giá trị tinh thần, nhất là làm lu mờ lương tâm.
Điều đáng nói là sự giả dối nó lan tràn và gần như là chuyện bình thường trong xã hội, nếu không muốn nói là nó đã trở nên ông chủ tồi chỉ đạo cuộc sống! Vì thế, nhiều khi muốn sống lương thiện cũng khó, làm người tử tế trong bối cảnh hiện nay không dễ!
Tại sao vậy? Thưa! Bởi vì bậc thang giá trị không còn phụ thuộc vào sự thật nữa, cán cân công lý được điều chỉnh bằng tiền, quyền. Gian dối là bình thường, thật thà lại là bất thường, là ngu dốt, là kém cỏi… Vì thế, người ta thường có câu nói mỉa mai như sau: “Chân lý, chân giò cùng một giá”; “Lương thực, lương tháng và Lương Tâm bằng nhau”.
Thật vậy, nếu ai đóng kịch giỏi và giống thì sẽ được tôn vinh, kính trọng. Trong khi đó, người sống liêm chính thì phải chịu thân phận của 8 chữ “t”: “Thật thà thẳng thắn thì thường thua thiệt”. Còn kẻ vô tài, thất đức, lẻo mồm, tâng bốc, nịnh hót thì lên như diều, để rồi “làm láo, báo cáo hay”.
Vì vậy, không thiếu gì cảnh: “Bề ngoài thơn thớt nói cười, mà trong nham hiểm giết người không dao” (Truyện Kiều). Những người này thường dùng chiêu thức: “Tốt đẹp khoe ra, xấu xa che lại”, vì thế, họ ưa sống hào nhoáng bên ngoài nhưng thực chất bên trong trống rỗng. Họ thuộc hạng người: “Khác nào quạ mượn lông công. Ngoài hình xinh đẹp trong lòng xấu xa” (Ca dao), nên không sớm thì muộn, họ bị đặt nghi vấn: “Trông anh như thể sao mai, biết rằng trong có như ngoài hay không” (Ca dao).
Đứng trước thực trạng như thế, chúng ta nhiều khi thông cảm với cảm thức của người Việt là thích ứng và tùy nghi. Tuy nhiên, là người Kitô hữu, chúng ta không thể sống kiểu: “Gió chiều nào che chiều đó”. Sống như thế là trái với đạo lý của Tin Mừng, nghịch với Lương Tâm ngay thẳng. Khi sống như thế, ta chẳng khác gì một cây tầm gửi, hay ký sinh trùng ăn nhờ ở đợ người khác, nên khi họ bị thất thế, ngã gục thì cũng chết theo.
Thật vậy, chúng ta có thể “lừa dối vài người mãi mãi, có thể lừa dối mọi người một lúc nào đó, nhưng ta không thể lừa dối mọi người mãi mãi được”. Là người Kitô hữu, chúng ta phải nằm lòng câu nói sau: “Mất tiền là mất ít, mất người là mất nhiều, nhưng mất niềm tin là mất tất cả!”.
3. Hiểu và sống sứ điệp Lời Chúa
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy trở về đường ngay nẻo chính để được hạnh phúc, bằng không sẽ phải chết trong sự thất vọng: “Khi người công chính từ bỏ lẽ công chính của mình và làm điều bất chính mà chết, thì chính vì điều bất chính nó đã làm mà nó phải chết. Còn nếu kẻ gian ác từ bỏ điều dữ nó đã làm, mà thi hành điều chính trực công minh, thì nó sẽ cứu được mạng sống mình”(Ed 18, 26-27).
Lời Chúa hôm nay còn mời gọi chúng ta cần loại bỏ tư tưởng đạo đức giả và cho mình thuộc hàng công chính, rồi sống trong sự tự mãn, kiêu căng. Đừng mang danh là Kitô hữu nhưng thực tế không có “chất Kitô”. Luôn có tinh thần sám hối, quay trở về với Chúa. Không được có thái độ tự ti để rồi tự nhận mình thuộc hàng “thu thuế và đĩ điếm” để buông xuôi trong sự thất vọng.
Mong sao tất cả chúng ta, mỗi người luôn ý thức rằng mình đều là những người đang lữ hành, nên chưa phải là hoàn hảo. Vì thế: “Không hề có tình trạng đã thành một Kitô hữu mà chỉ có trong tình trạng đang trở thành một Kitô hữu” (Soren Kierkegaard).
Nếu: “Có thì nói có, không thì nói không, thêm thắt là do ma quỷ mà ra”. Thực hành lập trường “ngôn hành đồng nhất”, nếu không sẽ dễ dẫn đến tình trạng “mâu thuẫn nội tại”. Và chúng ta bị rơi vào tình trạng nói thì rất hăng nhưng khi làm thì chẳng thấy đâu, họ giống như người: “Nói thì đâm năm chém mười, đến khi tối trời chẳng dám ra sân” (Tục ngữ).
Lạy Chúa, xin cho chúng con được thuộc về sự thật và trở nên chứng nhân cho sự thật, bởi vì chỉ có sự thật mới giải thoát được chúng con mà thôi. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng)
Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu nói tới hai loại người qua hình ảnh hai người con: Người con thứ nhất, bảo đi làm thì nói không đi, nhưng rồi lại làm như ý người cha. Người con thứ hai, gọi dạ bảo vâng, nhưng rồi không chịu đi làm. Rồi chính Chúa đã giải thích cho chúng ta biết: người con thứ nhất ám chỉ những người thu thuế và những người đàng điếm, hai loại người này bị xã hội Do Thái khinh miệt nhất. Những người thu thuế bị khinh miệt vì họ cấu kết với ngoại bang để bóc lột đồng bào mình. Vì thế dân chúng oán ghét họ và liệt họ vào hạng người phản quốc, bỏ đạo và không thể ăn năn hối cải. Còn những ả giang hồ thì thời nào cũng vậy, đều bị xã hội khinh miệt sát đất, coi họ là hạng người xấu xa, làm dơ bẩn xã hội, và cũng không thể được cứu rỗi.
Ngược lại, người con thứ hai, ám chỉ những thượng tế, kinh sư và Pha-ri-sêu thời ấy, là những người tự xưng mình là đạo đức, công bằng, trong sạch, nhưng là thứ đạo đức, công bằng, trong sạch giả hình, bôi bác. Ngoài miệng thì nói hay lắm, nhưng không thực thi điều mình nói. Đó là những người “ngôn hành bất nhất”: nói mà không làm.
Nhưng tại sao Chúa lại nói với các thượng tế, kinh sư và Pha-ri-sêu: “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm sẽ vào nước trời trước các ông”? Bởi vì những thượng tế, kinh sư và Pha-ri-sêu khi Chúa giảng dạy, không chịu nghe, coi thường lời Chúa, không ăn năn sám hối. Còn những người thu thuế và gái điếm, khi dược Chúa kêu gọi, họ đã thành tâm sám hối. Chúng ta thấy: những người nói sẽ làm, rồi lại không làm, là loại người đáng trách. Còn những người nói không làm, rồi lại làm, là loại người đáng khen.
Chúng ta biết: từ tư tưởng đến lời nói và tới việc làm là cả một con đường dài xa xăm. Thực vậy, một khuôn vàng thước ngọc, dù có hay mấy mà không đem ra thực hành thì cũng là không hay và vô ích. Cũng thế, có tư tưởng hay mà không đem thực hành thì cũng như một bông hoa không bao giờ kết trái. Chúng ta vẫn nói: “Ăn vóc học hay”: ăn để mà học, học để mà biết, biết để mà làm. Không biết thì không thể làm gì được, chỉ còn biết đứng tựa cột mà nghe. Nhưng biết mà không làm thì giống như người đầy tớ đem chôn nén bạc và bị xét xử. Hơn nữa, biết mà lại cứ làm sai thì càng bị xét xử nặng hơn. Cho nên, đã biết thì làm, cả hai đi song song nhau, hỗtrợ nhau, thì mới hữu dụng, hữu ích. Nhưng thực tế, trong xãhội, chúng ta thấy có những người biết mà không làm, hoặc nói thì rất hay nhưng lại không chịu làm.
Câu nói: “Năng thuyết bất năng hành”: hay nói mà không hay làm, hoặc nói được làm không là như thế. Ở đời này, hơn thua nhau ở chỗ lý thuyết và thực hành: một lý thuyết dù hay mấy mà không đem ra thực hành thì cũng vô ích. Nhưng tại sao chúng ta nói mà không làm? Có thể là vì chúng ta không có khả năng hành động, có thể là vì chúng ta lười biếng, có thể là vì chúng ta chống đối, bất tuân không muốn làm, có thể là vì việc làm đó không đem lại lợi ích gì cho chúng ta. Tuy nhiên, nói mà không làm thì lời nói không có giá trị và về sau người ta không tin lời chúng ta nói nữa. Cũng thế, “đức tin không việc làm là đức tin chết”. Cho nên, có đạo lý đúng và hay chưa đủ mà còn phải sống và thực hành thì mới minh chứng được đạo lý đó đúng hay sai.
Bài Tin Mừng nhắc nhở chúng ta hãy xét lại, hãy nhìn lại: lời nói và việc làm của chúng ta có đi đôi với nhau không? Chúng ta yêu cầu người khác phải sửa sai, nhưng chính chúng ta có biết tự sửa sai không? Chúng ta phê bình người khác, nhưng chúng ta có rờ lên gáy mình không? Hay là chúng ta thấy cái rác trong mắt người mà không thấy cái xà trong mắt mình? Hay là ” chân mình thì lấm mê mê, lại cầm bó đuốc mà rê chân người”? Trong phạm vi gia đình, thật không gì tai hại cho bằng nói mà không làm: chúng ta bảo con cái phải biết nhường nhịn, tha thứ cho nhau, nhưng chúng ta thì lại cứ ăn thua đủ, không ai nhường ai. Chúng ta bảo con cái phải sống thành thật, nhưng chúng ta lại cứ quanh quéo, gian dối với người khác. Trong đời sống đạo đức cũng vậy, liệu tâm hồn chúng ta có phải là tâm hồn Kitô đích thực không? Liệu đời sống của chúng ta có phải là một thể hiện những gì chúng ta tuyên xưng không? Hay chúng ta chỉ có cái vỏ Kitô bên ngoài? Nếu chúng ta sống như vậy, chúng ta hãy coi chừng, chúng ta sẽ bị Chúa cảnh cáo: những người khác sẽ vào nước trời, còn chúng ta thì sao?
77.Lời nói đi đôi với việc làm
(Suy niệm của Lm. Phanxicô Xavie Lê Văn Nhạc)
Tin Mừng Mt 21, 28-32: Lời hứa không bao giơ có thể thay thế việc làm, và lời nói hoa mỹ không bao giờ thay thế được những nghĩa cử.
Hôm nay, Thánh sử Matthêu kể cho chúng ta nghe một câu chuyện khá thú vị:
Một người cha có hai người con. Một hôm ông nói với hai con: “Hôm nay, hai con đi làm vườn nho cho cha nghe!” Hai người con đã đáp lại bằng hai thái độ khác nhau: Người con thứ nhất đã dùng tiếng “không” để đáp lại lời mời gọi của cha. “Không, con không đi”. Nhưng sau đó, anh ta nghĩ lại, rồi quyết định đi làm vườn nho như ý cha muốn.
Ngược lại, người con thứ hai, ngay từ đầu đã tỏ ra lễ phép và vâng phục. Anh ta đáp lại: “Thưa cha, vâng ạ!”, nhưng đó chỉ là câu nói lừa bịp đối với cha, vì anh ta không đi làm vườn nho như ý cha muốn. Anh chỉ nói mà không làm.
Thưa anh chị em,
Ai cũng hiểu Chúa Giêsu muốn nói gì qua câu chuyện người cha và hai đứa con này. Chúa muốn nói với chúng ta: Muốn vào Nước Trời, vấn đề không phải chỉ nói “có” ngoài môi miệng mà phải làm theo ý của Chúa Cha. Hai người con, không có người nào đem lại niềm vui trọn vẹn cho cha. Cả hai đều không làm cha mình hài lòng. Nhưng người con thứ nhất rõ ràng là tốt hơn người con thứ hai. Bởi vì, tuy lúc đầu anh đã nói “không”, rồi sau đó anh đã đi làm theo ý Cha. Phải chi có người con thứ ba nói đi làm là làm ngay, thì thật là tốt biết mấy!
Trong cuộc sống thường ngày, chúng ta thường gặp hai hạng người này: Thứ nhất là hạng người nói nhiều hơn làm, họ hứa hẹn đủ điều, nhưng rồi không làm gì cả. Thứ hai là hạng người làm nhiều hơn nói, họ không hứa hẹn, ba hoa khoác lác, nhưng người ta thấy họ làm những việc đạo đức, nhân hậu, tốt lành, có khi làm một cách kín đáo. Chúng ta thích hạng người này hơn, vì họ chân thành, lấy việc làm chứng minh lời nói.
Lời hứa không bao giơ có thể thay thế việc làm, và lời nói hoa mỹ không bao giờ thay thế được những nghĩa cử. Người con thứ hai tỏ ra lịch sự bên ngoài, khi lễ phép trả lời: “Thưa cha, vâng ạ”. Nhưng rồi lại không đi làm. Lễ phép suông là một việc giả dối, hảo huyền. Lễ phép thật là vâng lời, thực hiện một cách sẵn lòng, vui vẻ. Đạo Kitô dạy các tín hữu thực hành chứ không phải hứa hẹn. Người kitô hữu đích thực là người đón nhận mệnh lệnh của Cha với thái độ vâng phục và kính trọng, là người chấp hành mệnh lệnh trọn vẹn: nói làm là làm ngay.
Thưa anh chị em,
Ngày nay, người ta thường nói: “Con đường dài nhất là con đường từ đầu đến tay”. Người kitô hữu chúng ta vẫn có nguy cơ rơi vào một thứ “duy tâm” nào đó. Chúng ta cần để cho Lời Chúa “đi từ lỗ tay đến tim óc và cuối cùng đến đôi tay”. Nhiều người chỉ nghe Lời Chúa bằng tai thôi – tai này lọt qua tai kia là hết – Nhiều người khác đã để cho lời Chúa đánh động quả tim và trí tuệ, nhưng rồi họ ngừng lại tại đó, không dám đi xa hơn, vì sợ phải hy sinh, từ bỏ … Rốt cuộc Lời Chúa vẫn là cái gì mông lung, không thực tế, không liên hệ gì đến đời thường: đời sống làm ăn, đời sống gia đình, đời sống tình cảm… Lời Chúa vẫn bị hốt trong nhà thờ, trong các cuộc tĩnh tâm, các buổi cầu nguyện chia sẽ. Làm sao để Lời Chúa được “đến đôi tay”, nghĩa là được người kitô hữu đem ra thực hành ỡ giữa chợ, ở trường học, ở cơ quan, và cả ở những nơi giải trí … Chỉ như thế, men Lời Chúa mới có thể được trộn đều vào khối bột loài người và làm bột dậy men Tin Mừng.
Quả thực, con đường đi từ quả tim đến đôi tay là một con đường dài và gian khổ. Để đi trên con đường này, người kitô hữu phải được giải phóng khỏi cái tôi nặng nề, với những lo toan và sợ hãi, những tình toán và vun quén cho mình. Rung động trước nỗi khổ của người khác là một chuyện, chia sẻ cho người khác cái áo còn tốt của mình lại là chuyện khác. Thánh Gioan đã cảnh giác chúng ta: “Hỡi anh em, ta đừng yêu mến bằng lời nói suông, nhưng bằng việc làm thực sự” (1Ga 3,18).
Thời Chúa Giêsu, những người Luật Sĩ và Biệt Phái Pharisêu bị lên án dữ dội vì họ giả hình – nói mà không làm, đặt gánh nặng lên vai người khác nhưng tránh né cho chính mình. Ngày nay cũng vậy: Có Pharisiêu thời xưa thì cũng có Pharisêu ngày nay: dạy con cái phải giữ đạo, phải cầu nguyện, dự lễ, nhưng chính mình lại biếng nhác, tự chước chuẩn cho mình.
Kitô giáo là một tôn giáo của lòng tin. Nhưng lòng tin bên trong của chúng ta phải được thể hiện ra việc làm bên ngoài: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17). Chúa Giêsu đã định nghĩa kitô hữu là “ánh sáng cho thế giới”. Thế giới hôm nay cần thấy việc tốt của chúng ta trước khi họ tin nhận giáo lý của Chúa Kitô. Họ tin vào Đạo vì thấy những người dám sống đạo, dù phải chịu thiệt thòi và nguy hiểm. “Ánh sáng của anh em cũng phải chiếu giải trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).
Chỉ có Chúa Giêsu là Người Con lý tưởng, Người Con đã thưa VÂNG ngay từ đầu và thưa VÂNG mãi mãi suốt cả đời. Nơi Ngài luôn là CÓ chứ không phải KHI có khi KHÔNG. Ngài đã thưa với Chúa Cha: “Này con xin đến để thi hành ý Cha” (Dt 10,9), và Ngài đã thi hành cho đến lúc hoàn tất trên Thập Giá. Như thế, Chúa Giêsu đã thi hành ý Chúa Cha một cách hoàn hảo để nêu gương cho chúng ta. Chúng ta hãy noi gương Ngài để trở nên những người con đích thực của Cha chúng ta trên trời.
“NHỮNG NGƯỜI THU THUẾ VÀ GÁI ĐIẾM … SẼ VÀO NƯỚC THIÊN CHÚA TRƯỚC CÁC ÔNG”
I. Ý CHÍNH
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại dụ ngôn hai người con, để trình bày về đời sống đạo đức đích thực, được thể hiện qua việc làm chứ không phải chỉ bằng lời nói suông.
II. SUY NIỆM
1/ “Chúa Giêsu phán cùng các thượng tế và các kỳ lão”:
Tại đền thờ Giêrusalem (Mt 21, 23-27) nhà chức trách Do Thái, tức là các thượng tế và các kỳ lão, đòi hỏi Chúa Giêsu phải đưa ra bằng cớ để chứng minh quyền bính của Chúa Giêsu có nguồn gốc từ Thiên Chúa. Để trả lời Chúa Giêsu liền lái vấn đề sang Gioan Tẩy Giả rằng: Ủy nhiệm của Gioan Tẩy Giả từ đâu mà đến? Nếu từ Thiên Chúa, tại sao nhà chức trách Do Thái không tin theo? Nhân cơ hội này, Chúa Giêsu đã nói lên dụ ngôn hai người con.
2/ “Các ông nghĩ sao…”
* Đây là kiểu hỏi để gây chú ý cho người nghe, Chúa Giêsu thờng dùng kiểu nói này nhiều lần (Mt 18,12; 22, 42). Riêng ở đây Chúa Giêsu không hỏi các môn đệ, nhưng hỏi các thượng tế và các kỳ lão.
* Người kia: Cách nói trống này có ý ám chỉ Thiên Chúa.
* Có hai người con: Ở đây chỉ nêu lên hai người con mà không xác định thêm chi tiết ai là con cả, con thứ, hoặc con nào tốt, con nào xấu. Như vậy co ý đặt hai người con trước một sự đối xử công bằng, khách quan không thiên vị, của người cha.
Khi áp dụng về hai người con này, người ta thường cho rằng hai người con đó có ý ám chỉ hai thành phần của dân Do Thái:
+ Một bên bị liệt vào số những người tội lỗi nhưng lại biết làm theo giáo huấn của Chúa, đó là các người thu thuế và gái điếm
+ Một bên là những người có vẻ công chính, nhưng lại cứng lòng không chịu tiếp nhận giáo huấn của Chúa. Đó là các thượng tế và các kỳ lão.
Cả hai hạng người này đều là con của Thiên Chúa. Ở đây không chú trọng đến tình trạng đạo đức của mỗi người con đó. Cũng không để ý tới lời nói, nhưng quan tâm đến việc họ không làm hay sẽ làm.
3/ “Hôm nay con hãy đi làm vườn nho cho cha”
* Hôm nay, chỉ thời gian hiện tại, có giá trị như một việc cấp bách phải làm ngay, vì nó có liên hệ đến một mệnh lệnh sẽ quyết định vận mệnh của mình: “Nầy, chính bây giờ là thời đại sủng. Này chính bây giờ là ngày cứu độ” (2Cr 6,2).
* Hãy đi làm vườn nho cho Cha: diễn tả một công việc làm theo ý của Thiên Chúa.
4/ “Con không đi…”
Diễn tả một sự từ chối, bất tuân. Đây là thái độ của những kẻ tội lỗi, sống ngược với lề luật Chúa và Giáo Hội.
Nhưng sau nó hối hận và đi làm: Ở đây không nói lý do tại sao nó hối hận, chỉ đơn giản nêu lên sự kiện tốt đẹp là “hối hận” và “đi làm”. Điều này chứng tỏ sự hối hận là động lực thúc đẩy việc đi làm. Vì muốn nhấn mạnh sự “hối hận và đi làm”, nên ở đây đã kể người con này trước. Trong khi đó có một số văn bản khác, có ý dùng dụ ngôn này để ám chỉ cách rõ rệt là hai hạng người là Israel và dân ngoại đã để theo thứ tự ngược lại.
5/ “Thưa cha, vâng con đi…”
Cách thưa diễn tả một thái độ ngoan ngoãn, lễ phép của người con này.
* Nhưng nó lại không đi. Vâng theo lời nói nhưng từ chối theo việc làm: ngôn hành bất nhất, chứng tỏ một nếp sống vụ hình thức. Ở đây có ý ám chỉ đến những người cầm đầu dân Do Thái: là các thượng tế và các kỳ lão, là những người tỏ ra đạo đức, nhưng lại không làm theo lời Chúa dạy.
6/ “Ai trong hai người con đã làm theo ý cha?”
Đặt câu hỏi này, một đàng Chúa muốn cho các thượng tế phải tỏ bày nhận thức của mình về điều hay lẽ phải, đàng khác Chúa cũng muốn cho những người nghe nhận thấy rõ sự mâu thuẫn giữa các thượng tế và kỳ lão là những người giữ luật tỉ mỉ và trung tín bề ngoài, nhưng lại từ chối công việc của Thiên Chúa là tin vào Đức Giêsu Kitô.
7/ “Tôi bảo thật các ông…”
Lẽ tất nhiên Chúa Giêsu không nói dối cũng chẳng nói đùa mà chỉ nói thật thôi. Nhưng sở dĩ Chúa muốn nói lên như vậy là có ý nhấn mạnh một điều Ngài sắp quả quyết.
– “Những người thu thuế và gái đếm”: Đây là hai hạng người đã bị xã hội Do Thái khinh bỉ vì không giữ luật Môisen và sống trong tội lỗi.
– “Vào Nước Thiên Chúa trước các ông”: “Vào Nước Thiên Chúa trước” ở đây không có ý chỉ thời gian trước hay sau, nhưng có ý nghĩa là thay thế. Những người thu thuế và gái điếm là những người biết hối hận và tin theo giáo huấn của Chúa, nên họ sẽ chiến chỗ trong Nước Trời thay thế cho các thượng tế và các kỳ lão.
8/ “Vì Gioan đã đến với các ông trong đường công chính”
Gioan Tẩy Giả, qua đời sống đạo đức cá nhân và qua lời giảng, đã chỉ cho dân Do Thái biết những điều cần phải chu toàn để thực hiện ý Thiên Chúa, đó là đường dẫn người ta đến Đấng Cứu Thế và làm cho người ta nên công chính. Những thượng tế và các kỳ lão đã không tin theo đường đó, ngược lại những người thu thuế và gái điếm đã tin theo nhờ lời giảng của Gioan Tẩy Giả.
9/ “Còn các ông…”
Sau khi xem thấy điều đó, những thượng tế và kỳ lão đã thấy lối sống đạo đức của Gioan Tẩy Giả và đã được nghe những lời ông giảng dạy, đồng thời họ cũng đã được chứng kiến những người thu thuế và gái điếm, thế mà họ vẫn không nhúc nhích gì. Họ đã cứng lòng tới mức không lay chuyển được.
Điều này muốn nói tới những người sống đạo đức giả vụ hình thức mà không để tâm trí đến việc hoán cải đời sống và thánh hoá bản thân, mặc dù họ đã từng được nghe giảng dạy, từng chứng kiến những gương lành và những ơn trở lại của người khác.
III. ÁP DỤNG
A/ Áp dụng theo Tin Mừng:
Qua bài Tin Mừng hôm nay, Giáo Hội muốn chúng ta có một đời sống đạo đích thực bằng cách biết lắng nghe và tuân giữ lời Chúa trong đời sống hằng ngày.
B/ Áp dụng thực hành:
1/ Nhìn vào Chúa Giêsu
a) Xem việc Chúa làm:
Chúa Giêsu đã khéo léo trình bày dụ ngôn này nhằm mục đích giúp người nghe tự rút ra kết luận (Họ đáp: người con thứ nhất) người nghe đây lại là các thượng tế và các kỳ lão mà dụ ngôn đang nhắm tới. Phương pháp trình bày dụ ngôn này cũng giống như tiên tri Nathan kể cho Davit để sữa lỗi ông (2Sm 12) hoặc dụ ngôn chủ nợ (Lc 7, 41-43). Chúng ta noi gương Chúa dùng phương pháp này trong vệc dạy dỗ hướng dẫn và cải hoá tha nhân.
b) Nghe lời Chúa nói:
– “Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho”: Hằng ngày, nhất là hôm nay, Chúa vẫn gọi chúng ta đi làm vường nho cho Chúa qua các việc bổn phận, các việc bác ái từ thiện:
+ Ta hãy thưa vâng rồi nỗ lực và chăm chỉ thực hiện sự vâng đó.
+ Nếu trót thưa không hoặc thưa có rồi không đi làm: hãy hối hận và đi làm
“Ai trong hai người con đã làm theo ý Cha mình”: Chúa thường đặt câu hỏi tương tự như vậy với mỗi người chúng ta, để đòi hỏi quyết định phải lực chọn cho phù hợp với tiếng lương tâm chân chính của mình.
“Những người gái điếm và thu thuế sẽ vào Nước Thiên Chúa trước các ông”. Chúa muốn nhắc chúng ta đừng khinh thường hay thất vọng về những người khô khan, xấu xa, tội lỗi, bởi vì sẽ có lúc họ đón nhận ơn Chúa để hoán cải và hoàn thiện cuộc sống. Bổn phận của chúng ta là phải nâng đỡ những người đó.
“Vì Gioan đã đến với các ông trong đường công chính”: Chúa muốn cảnh giác vì chúng ta không chịu nhìn nhận những gương lành của tha nhân, đã không chịu nghe theo những lời giảng dạy của Giáo Hội, của những người trên, để hoán cải và hoàn thiện đời sống của mình.
2/ Nhìn con người biết hối hận:
Việc hối hận đổi mới con người chúng ta. Việc này không phải chỉ thực hiện một lần rồi xong nhưng vì con người chúng ta yếu đuối, chúng ta sẽ phải lập lại vệc đó suốt đời.
3/ Nhìn vào con người thưa vâng rồi không đi:
+ Chúng ta hãy kiểm điểm lại tiếng vâng của chúng ta đối với Chúa, nhất là đối với ba lời khuyên Phúc Âm.
+ Ta muốn người khác giữ lời hứa với ta. Vậy ta cũng đừng thất hứa với Chúa.
79.Sự hoán cải nội tâm đích thực
(Suy niệm của Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng)
Tin Mừng Mt 21, 28-32: Lời hứa không bao giơ có thể thay thế việc làm, và lời nói hoa mỹ không bao giờ thay thế được những nghĩa cử.
Trong thực tế, đời sống Kitô hữu tồn tại một mối nguy hiểm cho đức tin đó là sự tự kiêu tôn giáo, lấy làm yên chí về những việc tốt của mình. Giáo hội qua các bản văn Kinh thánh được tuyên đọc hôm nay, lưu ý mọi người chống lại mối nguy hiểm đó. Hành động của mỗi người phải thể hiện niềm tin của mình, làm vì tin chứ không dùng môi miệng để minh chứng niềm tin của mình. Nói hay mà không làm thì không có ích gì. Người tội lỗi, người không biết vâng lời Chúa nhưng ăn năn hối cải tin theo Chúa, thực thi Lời Chúa thì có phúc hơn bội phần những người vâng lời Chúa dễ dàng nhưng không thực hành.
Trong Phụng vụ, rất thường khi chúng ta nói lên lời Amen, có nghĩa là xin vâng, là tin theo. Thế nhưng, lời thưa Amen có thực là lời thưa thực hiện trong cuộc đời hay chỉ là lời thưa đầu môi chót lưỡi?
II. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
1. Bài đọc I: Ed 18,25-28
Con người chịu trách nhiệm về vận mạng của mình
Con người được Thiên Chúa tạo dựng và trao cho quyền tự do; vì thế, có trách nhiệm về những hành vi của mình. Sẽ phải chịu số phận đau khổ nếu làm điều xấu; ngược lại, nếu biết làm điều tốt, biết thực tâm đứng lên từ bỏ điều sai trái thì sẽ được hạnh phúc.
a. Không chối bỏ trách nhiệm tập thể được xây dựng trên nền tảng đời sống cộng đoàn, tiên tri Êgiêkiel vẫn khẳng định trách nhiệm cá nhân của mỗi người; chính tự thân mỗi người sẽ trở nên công chính hay tội lỗi trước mặt Chúa.
b. Cũng vậy, Tiên tri Êgiêkiel nhấn mạnh, trên trái đất này không có gì thực sự có được hay bị mất đi mãi mãi: người công chính có thể bị sai đường và hư mất; người tội lỗi biết thay đổi cuộc sống sẽ được cứu.
c. Chúng ta hãy sống trong tình thân thiết với Thiên Chúa; hãy nắm giữ đừng đánh mất lòng trung tín của mình. Chúng ta là những tội nhân, hãy từ bỏ tội lỗi quay trở về trong tự do để đi vào khung trời tình yêu của Thiên Chúa.
2. Bài đọc II: Pl 2,1-11
Lời kêu gọi nên một trong khiêm nhường và yêu thương
Muốn mang lại giá trị hiệp nhất huynh đệ hoàn toàn cho các thành viên trong cộng đoàn Kitô hữu, Thánh Phaolô giáo huấn mọi người khiêm nhường trong tinh thần phục vụ nhau, sống vì mọi người như Chúa Giêsu Kitô đã tự hủy vì nhân loại.
a. Trong cộng đoàn Philipphê có thể tồn tại những sự phân hóa. Thánh Phaolô khuyên nhủ các thành viên cố gắng sống tâm tình của chính Chúa Giêsu nhằm mang lại cho cộng đoàn sự hiệp nhất sống động và đích thực.
b. Để làm được điều đó cần phải làm theo cách Chúa Giêsu đã làm: Thánh Phaolô đã viết lên bài ca, lấy ý từ những thánh thi phụng vụ của cộng đoàn Kitô hữu, ca ngợi sự tự hạ và vâng lời cách anh hùng của Đấng Cứu Thế.
c. Cộng đoàn sẽ trở nên sống động, phát triển, an vui và năng động nếu như các thành viên biết sống vì nhau; biết đặt trọng tâm cuộc sống của mình trong bác ái, khiêm nhu, cảm thông lẫn nhau, chính mỗi người là quà tặng, là hồng ân cho nhau.
3. Tin mừng: Mt 21,28-32
Dụ ngôn hai người con
Dụ ngôn giới thiệu hình ảnh hai người con, một người nói vâng với người cha nhưng cuối cùng không làm gì; một người đã thực hiện điều mà trước đó đã từ chối. Dụ ngôn như lời giải thích cho sự khác biệt giữa việc đi theo cái đúng và cái sai.
a. Hai người con tượng trưng cho hai hạng người Do Thái thời Chúa Giêsu: những người tội lỗi hay dửng dưng không giữ lề luật và qui định của tiền nhân; và những người công chính luôn tuân giữ lề luật tiêu biểu là các luật sĩ và biệt phái. Cả hai hạng người này đều là con cái Chúa.
b. Hạng người nói không nhưng thực sự lại vâng lời. Hạng người biết vâng nhưng thực sự lại không vâng. Vâng ở đây là vâng lời Thiên Chúa, tin vào Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Những người mau mắn vâng nhưng sau lại không làm gì là người không tin vào Chúa Giêsu, từ chối hoán cải. Khiêm tốn hơn, những người tội lỗi, ý thức tình trạng khốn khổ của họ, tin vào Chúa Giêsu và thay đổi cuộc sống.
c. Dụ ngôn hai người con cho chúng ta thấy rằng không thể đánh giá con người qua thái độ bên ngoài, qua thiên kiến, nhưng cần nhìn vào chính thực tế đời sống và hơn nữa đời sống tôn giáo để biết rõ tâm hồn con người. Chính bản thân mỗi người cũng vậy phải biết hoán cải cuộc sống tin theo Chúa, thực thi ý Chúa mới là con cái Chúa đích thực.
II. GỢI Ý BÀI GIẢNG
1. Cách sống, biểu lộ thâm tâm con người:
Qua dụ ngôn hai người con, Chúa Giêsu dạy chúng ta đừng xét đoán giá trị đạo đức của một con người theo lời nói, theo các cam kết lý thuyết hay nguyên tắc. Người con đầu từ chối lời cha, sau đó hối hạn và đi làm; còn người con thứ hai mau mắn vâng lời, nhưng lại chẳng làm gì. Trong hai người, người con đầu là người mới thực sự biết vâng lời. Trong thực tế cuộc sống tôn giáo, người ta thường có thái độ dễ vâng lời Chúa, mau mắn vâng lời nhưng thực hành thì lại không có. Gọi dạ bảo vâng nhưng không làm là cách sống của nhiều Kitô hữu. Cho nên, muốn đánh giá môt con người không phải là điều dễ dàng. Chính cuộc sống, cách sống của mỗi người sẽ biểu lộ thâm tâm họ. Chính Thiên Chúa cũng đã khẳng định Ta cần tấm lòng chứ không cần hy lễ. Thiên Chúa nhìn thấu tâm can mỗi con người.
Mỗi Kitô hữu hôm nay cần phải nhìn nhận lại thái độ sống của mình có thực tâm sống theo Chúa hay không? Con người dễ bị cám dỗ chạy theo những giá trị hời hợt bên ngoài, bằng lòng với một vài việc đạo đức nào đó hay với vài lời kinh nguyện rồi yên chí là đã sống vâng lời Chúa. Cần phải có thái độ và cách sống thực tâm đối với Chúa.
2. Hoán cải, cơ hội cho con người:
Người con đầu từ chối lời cha, sau đó hối hận và đi làm theo ý cha mình. Thái độ hoán cải đó thật cần thiết, nhờ đó, mọi lỗi lầm trước đây đã được xóa bỏ, giá trị cuộc sống của anh được nâng lên. Biết nhận ra lỗi lầm, hối hạn hoán cải và làm theo ý Chúa là điều quan trọng đối với Chúa. Những người thu thuế và gái điếm sẽ vào vào Nước Trời. Tội làm cho con người xa Chúa, nhưng một khi biết ăn năn thì vẫn được thứ tha. Và nhiều khi chính tội lỗi cũng có thể được sử dụng để trở về với Thiên Chúa. Thiên Chúa luôn mở cửa lòng thương xót để chờ đón tội nhân hoán cải. Ngài đủ kiên nhẫn để chờ đợi. Hoán cải luôn là cơ hội để làm lại cuộc đời, là cơ hội cho mỗi người vươn lên trên đường nên thánh.
Với Thiên Chúa điều quan trọng không phải là khởi điểm, là những lần từ chối đã qua, là các tội chồng chất, quan trọng là nhìn lại những tiếng không của mình để đổi thành tiếng vâng; nhìn lại những lỗi lầm đã qua để từ bỏ biến đổi cuộc sống nên công chính hơn. Điều này luôn làm được với ân sủng của Thiên Chúa.
III. LỜI NGUYỆN TÍN HỮU:
Mở đầu: Thiên Chúa vẫn đang tiếp tục mời gọi chúng ta đến cộng tác trong công cuộc loan báo Tin mừng giữa vườn nho thế giới. Chúng ta cùng đến với Ngài để nói lên tiếng đáp trả và những trăn trở trong sứ vụ của chúng ta.
1. Sự tín trung là một trong những điều cần thiết trong cuộc đời Kitô hữu. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các bậc tu trì luôn biết trung tín mãi với lời đáp trả của các ngài trong đời sống dấn thân phụng sự Chúa và phục vụ mọi người.
2. Hiện nay, có không ít người Công giáo đang quên sứ vụ mình đã lãnh nhận khi lãnh các bí tích khai tâm. Xin cho những người lầm đường lạc lối, những người đã không ít một lần nổi loạn, khước từ thánh ý Chúa biết can đảm đứng lên để sống cuộc đời mới theo cung cách của Tin mừng.
3. Nền “văn hóa báo công” đã và đang làm cho không ít người trở nên gian dối trong lời nói và việc làm. Chúng ta cùng hiệp lời cầu xin cho đời sống của mỗi người Kitô hữu chúng ta luôn là một sự hòa điệu giữa lời nói và việc làm như dấu chứng của Tin mừng sự thật giữa thế giới hôm nay.
Lời kết: Lạy Chúa, Chúa biết rõ sự yếu đuối và mỏng dòn của mỗi chúng con. Xin ban ơn trợ lực để mỗi người Kitô hữu chúng con luôn nhận ra sự thật này để thường xuyên hoán cải và làm mới lại đời sống của chúng con. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con.
(Giải thích bản văn Tin Mừng của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Dụ ngôn về hai người con (21,28-32) nằm ngay sau tranh luận về quyền bính của Chúa Giêsu (21,23-27). Dụ ngôn nầy tiếp tục cuộc đối thoại trước. Những dữ kiện chứng minh cho điều nầy. Trong đoạn trước, Chúa Giêsu đã không trả lời câu hỏi được đặt ra cho Ngài, và Ngài đã kể dụ ngôn nầy và áp dụng dụ ngôn nầy cho “các thượng tế và niên trưởng”. Các hạn từ liên kết hai đoạn: “các ông” (c. 28) là các thượng tế và niên trưởng”, “Gioan” vẫn còn bàn đến (21,25.26.32), cụm từ “các ông không tin vào ông ấy” (21,25) được lập lại ở 21,32.Vì thế để hiểu dụ ngôn, cần am hiểu đoạn tranh luận về quyền bính (21,23-27). Đoạn nầy có thể chia thành hai phần: – Dụ ngôn hai người con (cc. 28-31a) và Áp dụng dụ ngôn (cc. 31b-32).
Dụ ngôn hai người con (cc. 28-31a)
Dụ ngôn ngắn gồm một câu hỏi mở đầu “Các ông nghĩ sao?” (c. 28a), một tiền đề “Một người có hai người con”, và sau đó là hai đối thoại song song giữa người cha với hai người con (cc. 28b- 30). Từ prōtō, “người thứ nhất” đóng khung đoạn nầy.
Câu hỏi mở đầu “Các ông nghĩ sao?” lôi kéo sự chú ý. Matthêô dùng nhiều lần cách đặt câu hỏi nầy (x. 17,25; 18,12; 22,17; 22,42; 22,66). Điểm tương đồng gìữa hai người con nầy là có sự thay đổi ý nghĩ và hành động trong thời gian. Người con đầu từ “Con không muốn” đến “đã ra đi” làm vườn nho (c. 29). Người con thứ từ “Vâng! Thưa ngài” đến “đã không đi” (c. 30). Điểm tương phản giữa hai người là sự sám hối, metamelomai và kéo theo hành động. Chính sự sám hối nơi người thứ nhất làm thay đổi lời từ chối “Con không muốn” thành hành động “anh đã ra đi” làm vườn nho cho cha. Trong khi đó, người con thứ hai không có hành động nào cả. Người con nầy đã thưa lại với người cha một cách chắn chắn “Con đi! Thưa ngài!” nhưng lại không đi. Egō, “Con (đi)” được dùng là để nhấn mạnh, và cách xưng hôkyrie, “Thưa ngài/Chúa” cho thấy người thứ hai tỏ ra tử tế, ít là trong lời nói, đối với lời mời gọi của người cha. Tuy nhiên người con nầy lại không vâng lời đi làm vườn nho cho cha. Cách xưng hô “kyrie” nầy nhắc nhớ câu 7,21: “Không phải mọi kẻ nói với Ta: “Lạy Chúa, lạy Chúa”, là sẽ vào được Nước Trời, nhưng là kẻ thi hành ý Cha Ta, Ðấng ngự trên trời” (7,21).
Kết thúc dụ ngôn, Chúa Giêsu đặt ra cho các thượng tế và niên trưởng thêm câu hỏi thứ hai để dẫn họ đến kết luận: “Ai trong hai người làm theo ý người cha”. Lần nầy họ không giữ mình lại được như trong câu 27, mà trả lời: “Người thứ nhất” (c. 31a). Như thế, chính họ phán đoán đúng là người làm vui lòng Thiên Chúa là người làm theo ý Ngài.
Áp dụng dụ ngôn (cc. 31b-32)
Phần hai nầy mở đầu bằng một lời tuyên bố của Chúa Giêsu với công thức long trọng “Quả thật, Ta bảo các ông” là “người thu thuế và gái điếm đi trước các ông mà vào Nước Thiên Chúa” (c. 31b), và tiếp theo làcâu giải thích, bắt đầu với gar,“vì” (c. 32).
Với khẳng định trên, Chúa Giêsu cho chúng ta hiểu “người thứ nhất” (c. 28.31) chính là “người thu thuế và đàng điếm”. Họ đã “làm theo ý Cha” (c. 31a); bởi đó họ được đi trước vào “Nước Thiên Chúa” (c. 31b). Và trong câu 32, Chúa Giêsu giải thích là những người nầy đã “tin vào Gioan”. Trong tin mừng Matthêô, không tìm thấy một bằng chứng hiển nhiên nào về sự hoán cải của người thu thuế và đàng điếm trước lời rao giảng của Gioan, ngoại trừ câu 3,5-6 trình bày cách tổng quát là “Bấy giờ Giêrusalem và cả xứ Giuđê và khắp vùng giáp cận sông Giorđan trẩy đến với ông và người ta nhờ ông thanh tẩy cho trong sông Giorđan mà xưng thú tội lỗi”. Trái lại, Matthêô để lại nhiều bằng chứng giữa họ với Chúa Giêsu, điển hình là cuộc trở lại của Matthêô và những lần Chúa Giêsu gặp gỡ những người nầy (9,9-10; 11,9; 21,32).
Lời khẳng định của Chúa Giêsu “Gioan đến trong đường công chính”, mở đầu câu 32, xác nhận Gioan là người Thiên Chúa sai đến; tương phản với 11,18. “Đường công chính” đồng nghĩa với “đường lối Thiên Chúa” (22,16; x. Gióp 24,13; Cn 2,20; 8,20; Tv 23,3; 2 Ph 2,21), nghĩa là đường lối theo ý muốn của Thiên Chúa và dẫn đến Ngài và sự sống đời đời (x. 3,15; 5,20; 6,33).
Đại diện cho người con thứ hai là các thượng tế và niên trưởng. Phần còn lại của câu 32 gồm ba mệnh đề theo cấu trúc A-B-A’: – A: “các ông không tin vào ông”, B: “người thu thuế và đàng điếm tin vào ông”, A’: “các ông không hoán cải mà tin vào ông”.
Cấu trúc nầy cho thấy, các thượng tế và niên trưởng đã không tin vào Gioan, động từ “tin” ở thể phủ định” (A), và để có thể tin vào ông, động từ “tin” ở thể khẳng định” như trong mệnh đề B về “người thu thuế và đàng điếm”, cần lòng sám hối, nhưng họ đã không có (A’). Động từ metamelomai, “hoán cải” (c. 32d) đã được dùng cho “người thu thuế và đàng điếm” (c. 29), lại được dùng cho “các thượng tế và niên trưởng”, nhưng ở dạng phủ định: “không hoán cải”. Điều nầy hàm ý trước đây “thượng tế và niên trưởng” giống như người thu thuế vàđàng điếm. Tất cả đều là tội nhân, tất cả cần sám hối. Gioan Tẩy Giả gọi họ là “Nòi rắn độc!” và mời họ hoán cải (3,8tt), nhưng họ đã không thay đổi. Họ đã cho Gioan là “bị quỷám” (11,18), nên đã không tin vào ông, như lời họ thú nhận ngay trong đoạn trước: “Nếu ta nói: Tự Trời, – thì y sẽ nói với ta: Vậy tạo sao các ông lại không tin ông ấy?” (21,25).Vậy cần hoán cải để tin vào Gioan, nhưng họ đã không làm.
Tuy Chúa Giêsu Kitô không nói gì trực tiếp về mình, nhưng ai tin vào Gioan thì cũng tin vào Ngài. Và ai nhận quyền bính của Ngài, thì cũng nhận quyền bính của Gioan mà hoán cải và làm theo ý muốn của Thiên Chúa.
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)
Tin Mừng Mt 21, 28-32: Thật là ảo tưởng khi nghĩ rằng chỉ cần sám hối một lần là đủ. Không, muôn đời chúng ta luôn là những con người tội lỗi, nhưng là những người tội lỗi được thứ tha, đang sám hối.
Đức Giêsu nói với các thượng tế và kỳ mục trong bài Tin Mừng hôm nay: “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông. Vì ông Gioan đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy; còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại tin. Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu sám hối mà tin ông ấy.”
Vậy sám hối là gì? Sám hối trong Kitô giáo gồm bởi hai từ: ăn năn và thống hối
– Ăn năn là nghiền nát, chà đạp, tan thành miếng nhỏ.
– Thống hối là châm, đâm.
Vào một lúc nào đó, con tim chúng ta bị tổn thương, bị đâm thủng, một cõi lòng tan nát.
Và Sám Hối được chia làm ba giai đoạn.
– Giai đoạn thứ nhất: biết mình sa ngã phạm tội
– kế đó là quyết tâm trở lại với Chúa.
– sau cùng là tiến lên đi tìm sự trọn lành.
Thực tế thì không đơn giản cũng không phức tạp như vậy vì ân sủng là chính sự đơn giản. Khó khăn ở chỗ là đời sống trong Chúa Thánh Thần đâu dễ gì nhìn thấy, chúng đan chéo vào nhau không ngừng, đến nỗi không phải lúc nào cũng dễ phân biệt được những con đường đó. Quả vậy, tội lỗi, sám hối, và ân sủng đâu phải chỉ là ba giai đoạn nối đuôi nhau. Trong cuộc sống thường nhật, chúng rối rắm, đôi khi khó gỡ. Chúng lớn lên chung với nhau. Tôi không bao giờ hoàn toàn ở bên này hay bên kia. Tôi không ngừng ở trong cả ba.
Tội lỗi, sám hối và ân sủng là cơm gạo và thân phận hằng ngày của tôi. Thậm chí cả trong Nước Trời, như chính Đức Giêsu đã nói, nơi đó những người tội lỗi cũng không thiếu vắng và có khi những người thu thuế và gái điếm lại vào trước và dẫn đầu những người khác (Mt 21,28-32).
Ba giai đoạn này không phải là ba bậc thang giá trị, chúng ta không bước từ bậc này lên bậc kia như thể bước lên bậc tam cấp. Cũng không phải là ba quân hàm chúng ta gắn trên vai áo.
Không, trước giờ chết, chúng ta sẽ không bao giờ vĩnh biệt hẳn trạng thái này hay trạng thái kia trong ba trang thái đó.
Chúng ta luôn luôn là những người tội lỗi không ngừng đang sám hối, và trong sự sám hối đó chúng ta đang không ngừng được Thần Khí của Thiên Chúa thánh hoá. Thật là ảo tưởng khi nghĩ rằng chỉ cần sám hối một lần là đủ. Không, muôn đời chúng ta luôn là những con người tội lỗi, nhưng là những người tội lỗi được thứ tha, đang sám hối.
Thật vậy, sám hối luôn là vấn đề thời gian, con người cần thời gian và Thiên Chúa cũng cần thời gian với chúng ta. Thật là sai lầm nếu chúng ta nghĩ rằng, những chuyện đại sự trong cuộc sống con người có thể thực hiện ngay và một lần là đủ. Không, con người chúng ta là như thế đó, phải có thời gian để lớn lên, để chín mùi và để triển khai tất cả những khả năng của mình.
Ngày hôm nay, thời gian được ban cho chúng ta để mỗi ngày biết Thiên Chúa hơn, đó luôn là thời gian sám hối và ân sủng, quà tặng của lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa. Ngài chờ đợi và lúc nào cũng chờ đợi, nhưng chúng ta nên nhớ: cái gì cũng có những giới hạn của nó như câu chuyện “Mãi Mãi Tuổi 17” như sau:
Cái ngày tôi từ giã cõi đời là một ngày đi học bình thường như bao ngày khác. Chao ôi, ước gì lúc ấy tôi đã chịu đi xe buýt! Tôi nhớ là mình đã làm mình làm mẩy với mẹ để lấy xe hơi đi cho bằng được.
– Cho con lái đi mà mẹ – tôi nài nỉ – Bạn con đứa nào cũng đi xe hơi cả mà có sao đâu.
Khi chuông reng lúc 2 giờ 30 phút chiều, tôi quẳng vội sách vào ngăn tủ và tự nhủ: “mình được tự do đến sáng mai!”
Rồi tôi ngồi lên xe, phóng như bay và chẳng bao lâu sau đó, tôi nghe một tiếng va chạm thật lớn, người tôi bị chao đảo khủng khiếp. Kiếng và sắt thép văng ra khắp nơi. Toàn thân tôi như bị lộn nhào cả lên. Tôi nghe một tiếng thét kinh hoàng từ chính miệng tôi và rồi tôi không còn biết gì nữa.
Bỗng nhiên tôi tỉnh dậy, chung quanh hoàn toàn im lặng. Một nhân viên cảnh sát đang đứng bên cạnh một bác sĩ. Toàn thân tôi đầy thương tích. Cả người tôi đẫm máu. Những mảnh kiếng vụn nhọn hoắt găm khắp toàn thân tôi. Điều lạ lùng là tôi không cảm thấy đau đớn gì cả.
Này, đừng kéo tấm vải phú kín mặt tôi như vậy chứ! Tôi không thể chết. Tôi chỉ mới 17 tuổi.
Rồi người ta đặt tôi vào trong một chiếc quan tài. Gia đình đến nhận dạng tôi.
Tại sao người thân phải chứng kiến tình trạng thê thảm như thế này? Tại sao tôi phải nhìn vào mắt của mẹ khi mẹ đang phải đương đầu với nỗi đau khủng khiếp nhất trong cuộc đời mình?
Cha tôi trông già sọm hẳn đi. Cha tôi nói với người đàn ông trực ở đấy:
– Vâng! Đó chính là con trai chúng tôi.
Rồi đám tang cũng thật kỳ lạ. Tôi thấy tất cả họ hàng và bạn bè đi về phía quan tài. Họ nhìn tôi bằng đôi mắt buồn bã nhất mà tôi từng thấy. Một vài đứa bạn khóc sụt sùi. Vài cô gái sờ vào tay tôi và nức nở quay đi. Ai đó làm ơn hãy đánh thức tôi dậy! Tôi xin các người. Hãy đem tôi ra khỏi chỗ này. Tôi không thể chịu đựng nổi khi nhìn thấy cha và mẹ đau khổ như thế.
Ông bà tôi suy sụp, bước đi không vững. Anh chị em tôi thơ thẩn như những bóng ma và cử động như những cỗ người máy. Mọi người đều bàng hoàng. Không ai tin được chuyện này. Chính tôi cũng không tin. Làm ơn đừng chôn tôi! Tôi không chết! Tôi có nhiều chuyện phải làm! Tôi muốn cười đùa và chạy nhảy trở lại. Tôi muốn ca hát và nhảy múa. Làm ơn đừng chôn tôi dưới lớp đất kia!
“Con hứa nếu Thượng Đế cho con thêm một cơ hội nữa, con sẽ là người lái xe cẩn thận nhất trên trần gian này.” Tất cả những điều tôi muốn là hãy cho tôi thêm một cơ hội nữa.
“Làm ơn đi Thượng Đế, con chỉ mới 17 tuổi thôi.”
Tất cả đều không thể, vì em bé 17 tuổi đã chết bất ngờ trong một vụ tai nạn giao thông và em bé đã không kịp ăn năn sám hối.
82.Nghe và làm – Lm. FX. Vũ Phan Long
1.- Ngữ cảnh
Nhìn vào dàn bài tổng quát của phân đoạn gồm các chương 21 và 22, ta nhận ra đặc tính bút chiến của ba dụ ngôn Đức Giêsu kể ra nhằm biện minh cho kế hoạch của Thiên Chúa:
1) Dụ ngôn Hai người con (21,28-32) xác định trong Israel có những người tội lỗi thực sự vì bất phục tùng.
2) Dụ ngôn Những tá điền sát nhân (21,33-43) vạch trần kế hoạch sát nhân của người Do Thái và loan báo chương trình của Thiên Chúa là sắp chuyển sứ mạng của người Do Thái cho Dân ngoại (c. 45 cho thấy rằng các thượng tế và người Pharisêu hiểu là Người nói về họ, và như thế là gián tiếp nhìn nhận dự tính sát nhân của họ).
3) Dụ ngôn Tiệc cưới hoàng gia (22,1-14) gom lại các dữ kiện của hai dụ ngôn trước (từ khước vì bất phục tùng, sát hại người con trai, hủy diệt những kẻ sát nhân, kêu gọi những người khác).
Ba bài dụ ngôn này cũng được trình bày tiệm tiến (làm việc, cung cấp hoa trái, đến dự tiệc).
Dụ ngôn Những người thợ làm vườn nho (20,1-16) đã nêu bật rằng Thiên Chúa không hề bị lệ thuộc hành vi con người; Ngài hoàn toàn tự do và tốt lành. Trong dụ ngôn Hai người con, Đức Giêsu cho thấy lần nữa rằng thi hành ý muốn của Thiên Chúa là một bổn phận không thể tránh né.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia làm ba phần:
1) Dụ ngôn Hai người con (21,28-30);
2) Câu hỏi đặt ra cho thính giả (21,31);
3) Bài học kết thúc (21,32).
3.- Vài điểm chú giải
– Các ông nghĩ sao? Một người kia có hai con trai (28): Đức Giêsu hỏi ý kiến của các thính giả và cả các đối thủ của Người. “Người kia” tượng trưng Thiên Chúa; còn “hai người con” tượng trưng cho hai thành phần làm nên Dân Thiên Chúa vào thời Đức Giêsu: những người “tội lỗi”, không tuân giữ Lề Luật và các quy định của kinh sư, và những người “công chính” trung thành với tôn giáo chính thức, ở đây là các thủ lãnh của Dân. Cả hai bên đều được gọi là “con” của Thiên Chúa.
– nó hối hận (30): Tác giả Mt không dùng động từ “hoán cải” (metanoeô) mà là động từ metamelomai, chỉ có ở đây và ở Mt 27,3, nhưng được dùng nhiều trong Bản LXX theo nghĩa là “quay trở về với Thiên Chúa” (Ed 14,22; Tv 105,45; Xh 13,17…). Metamelomai có thể có nghĩa đơn giản là “thay đổi tâm trí, nghĩ lại”, nhưng ở đây, cũng như ở c. 32 và 27,3, rất có thể cũng có nghĩa là “hối hận”. Động từ này không có trọng lượng thần học của động từ metanoeô.
– vào Nước Thiên Chúa trước các ông (31): Động từ proagô thường có nghĩa là “đi trước”, nhưng ở đây có nghĩa là “chiếm chỗ”. Đây là một kiểu nói A-ram.
– Nước Thiên Chúa (31): Cụm từ basileia tou theou (Nước Thiên Chúa) không thông dụng trong Mt, nó đến từ truyền thống có trước, nhưng cũng có ý nghĩa như basileia tôn ouranôn (Nước Trời)
4.- Ý nghĩa của bản văn
Bản văn này được đặt trong khung cảnh một cuộc tranh luận giữa Đức Giêsu với các thượng tế và kỳ mục trong dân (x. 21,23). Sau khi Người đã khéo léo từ chối trả lời họ về nguồn gốc của “quyền” của Người, Đức Giêsu kể dụ ngôn Hai người con. Dụ ngôn này mở đầu và kết thúc bằng một câu hỏi mà họ phải trả lời.
* Dụ ngôn Hai người con (28-30)
Cả hai người con đều được cha đề nghị với giọng thân tình là đi làm vườn nho cho ông. Phản ứng của họ hoàn toàn khác nhau. Người thứ nhất trả lời bằng một câu “Con không muốn” khô khan và bất lịch sự, không đưa ra một lý do nào. Nhưng rồi anh nghĩ lại, “hối hận” (metamelêtheis), và đi làm việc trong vườn nho. Người thứ hai đáp lại bằng một câu “Con đây, thưa ngài! (egô kyrie)” lịch thiệp và khả ái: một kiểu xưng hô hợp với một nô lệ hơn là với một người con; anh hứa vâng phục. Tuy nhiên, anh lại không đi đến vườn nho.
* Câu hỏi đặt ra cho thính giả (31)
Câu hỏi của Đức Giêsu (“Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha?”, c. 31a) quá rõ là chỉ có thể có một câu trả lời mà thôi. Người đã thi hành ý muốn của cha chỉ có thể là người con đã đi làm việc trong vườn nho mà thôi. Do đó, câu trả lời của họ là: “Người thứ nhất”. Nhưng vì đây là một dụ ngôn nhắm đưa tới một quyết định mang tính pháp lý làm mẫu, khi trả lời, họ đã tuyên bố án xử trên chính họ.
Với một câu có từ amen long trọng mở đầu, Đức Giêsu lại quay về trực tiếp với các đối thủ và áp dụng dụ ngôn vào họ. Những người thu thuế và những cô gái điếm là hai nhóm người ở bậc thấp nhất trong hệ thông tôn giáo đương thời và về giá trị luân lý. Họ là những con người bị coi là không có phẩm cách cả về tôn giáo lẫn luân lý, nhưng lại được Đức Giêsu đặc biệt chiếu cố đến (x. Mc 2,13-17; Lc 18,9-14; 7,36-50; Ga 7,53–8,11). Họ sẽ được vào Nước Thiên Chúa trước các nhà lãnh đạo Israel.
Như thế, khi trả lời Đức Giêsu, các nhà lãnh đạo Do Thái đã phải tuyên bố chính bản án về mình. Tuy nhiên, không dễ mà áp dụng dụ ngôn vào họ, vì các khác biệt quá lớn. Đâu là sự đối lập giữa nói và làm mà bài dụ ngôn nêu bật? Có bao giờ họ đã thưa vâng với lời Gioan và Đức Giêsu công bố về Nước Thiên Chúa, mà rồi không chịu áp dụng giáo huấn của các ngài? Phải chăng những người thu thuế và các cô gái điếm đã vâng theo, rồi nay loại bỏ? Lại càng khó áp dụng câu amen (c. 31c) vào cuộc tranh luận cụ thể về quyền bính của Đức Giêsu và về phép rửa của Gioan ở cc. 23-27. Dường như cả dụ ngôn lẫn áp dụng ở c. 31c đều không liên hệ gì đến Gioan Tẩy Giả cả. Do đó, trong c. 32, tác giả Mt tìm cách làm sáng tỏ cách áp dụng và xây dựng mối liên kết với cc. 23-27.
* Bài học kết thúc (32)
Câu kết thúc liên kết dụ ngôn và cách áp dụng vào cuộc tranh luận giữa Đức Giêsu với các thượng tế và các kỳ mục ở cc. 23-27. Đức Giêsu thấy xuyên qua những chuyện họ thì thầm với nhau (c. 25). Bây giờ Người mới trả lời cho câu hỏi chính Người đặt ra về Gioan Tẩy Giả, và Người nói thẳng vào mặt các đối thủ: Gioan “đã đến với các ông trong đường công chính”, nhưng các ông đã không tin ông ấy. Có nghĩa là các ông đã không vâng lời ông ấy và nhìn nhận quyền bính thần linh của ông ấy. Do đó, các ông đã không hối hận (oude metemelêthête), và lại còn tệ hơn cả hai người con trong bài dụ ngôn. Cụm từ “trong đường công chính” (en [h]odô dikaiosynês) không phải là một công thức Kinh Thánh theo mặt chữ, nhưng ngôn ngữ Kinh Thánh vẫn nhắc nhớ rằng phải sống phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa. Đây là hướng phải theo để hiểu bản văn của chúng ta. Công thức này một đàng nhắc độc giả nhớ đến 3,15, là câu nói về sự công chính mà Gioan thực hiện khi làm phép rửa cho Đức Giêsu, đàng khác, nhớ đến 11,18, là câu nói đến Gioan “nhà khổ hạnh” (“không ăn không uống”) “đến”. Câu 31c hàm ý là “những người thu thuế và các cô gái điếm”, không giống các nhà lãnh đạo Do Thái, “đã tin” Gioan. Câu này sai niên biểu (anachronism), bởi vì chúng ta chỉ nghe nói đến Đức Giêsu, chứ chưa bao giờ nghe nói đến Gioan như là người có quan tâm đặc biệt đến các người thu thuế và các cô gái điếm. Tuy nhiên, ý tưởng rút ra từ c. 31c là quan trọng: vị trí trước nhan Thiên Chúa của các thượng tế và kỳ mục một bên và các người thu thuế và gái điếm bên kia đã bị đảo ngược. Điểm khác biệt là ngữ cảnh đã làm cho từ “(đi) trước” tương đối của c. 31c trở thành một phân biệt tuyệt đối. Họ tin – nghĩa là vâng phục – trong khi các nhà lãnh đạo Do Thái thì không. Trong khi các nhà lãnh đạo Do Thái đã thấy những người bị khinh dể đến với đức tin, kinh nghiệm vẫn không làm cho họ phải ghen tức (x. Rm 11,14), nên họ không giống người con thứ nhất, “sau đó (hysteron), đã hối hận”. Đối với tác giả Mt, “sau đó” đã đi đến hiện tại của ngài. Chính ngài và Hội Thánh ngài biết rằng “sự hối hận” này vẫn chưa xảy ra ngay ngày hôm nay.
+ Kết luận
Qua bài dụ ngôn này, Đức Giêsu dạy chúng ta đừng phê phán về giá trị tôn giáo của người ta dựa theo một bảng phân loại các hạng người hoặc thể theo những cam kết về lý thuyết hay nguyên tắc. Nói cho cùng, chính cách xử sự cho thấy đáy lòng.
Khi so sánh dụ ngôn này với dụ ngôn Người con hoang đàng, ta có thể thấy được là các quan hệ giữa Đức Giêsu và giới lãnh đạo Israel xấu đi rõ ràng. Người con nói không, rồi hối hận, có lẽ ít đáng bị trách hơn đứa con hoang đàng, nhưng người con nói vâng mà không làm gì cả thì bị phê phán nghiêm khắc hơn người anh cả ghen tị. Trong bài dụ ngôn Luca (ch. 15), thính giả có ấn tượng là người cha gia đình còn hy vọng bao trùm sự ghen tương tồi tệ của đứa con cả bằng tình thương của ông. Nhưng khi nghe dụ ngôn Hai người con, ta đoán ra rằng Đức Giêsu không còn hy vọng hoán cải người Pharisêu được nữa. Họ đã chứng kiến sự thánh thiện của Gioan Tẩy Giả, họ đã thấy những người thu thuế và các phụ nữ tội lỗi hoán cải, thế mà họ không hề băn khoăn nghĩ ngợi! Sự chai đá của họ thật vô phương cứu chữa!
5.- Gợi ý suy niệm
1. Chúng ta học nơi Đức Giêsu bài học là không có nhận định kiểu thành kiến về giá trị tôn giáo của người ta dựa theo cách phân loại các hạng người tùy các dấn thân theo nguyên tắc hay các lý thuyết của họ. Chỉ lối sống thực tế mới cho thấy lòng dạ con người.
2. Dù đã nói “không”, hoặc đã sống xấu xa, chẳng một ai lại phải tuyệt vọng. Câu trả lời đầu tiên không phải là lời quyết định, nếu ta không ở lại trong lời ấy, nếu ta biết điều chỉnh nó và vượt thắng nó bằng lối cư xử đúng đắn tiếp sau. Và lối xử sự đúng đắn của những người trước đấy đã sống sai lạc hẳn là phải thúc đẩy những người vẫn tự nhận là tốt lành đi đến hoán cải, nhưng không khiến họ bắt chước hành động trước đây của mình.
3. Cần phải đi tìm biết ý Thiên Chúa và mau mắn đón nhận. Cần phải nhận biết các sứ giả Thiên Chúa gửi đến nhằm thông tri cho ta biết ý muốn của Ngài. Từ khước lấy lập trường là một cách lấy lập trường chống lại ý muốn của Thiên Chúa. Lời nói không thể thay thế hành động hữu hiệu. Đã nói là vâng theo ý Thiên Chúa thì phải nghiêm túc thực hiện thánh ý Ngài trong đời sống mình.
4. Dù chúng ta hay người anh em có thế nào, tất cả đều là con của cùng một Cha, được Ngài thương trọn vẹn, tín nhiệm trọn vẹn, và giao công việc đồng đều: chăm sóc chính vườn nho của Ngài. Chúng ta có biết nhận ra vinh dự đó mà sống cho nghiêm túc đời sống và sứ mạng của mình, đồng thời giúp anh chị em cũng sống được như thế chăng?
(Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt)
CÂU HỎI GỢI Ý
1. Hãy so sánh sự đối nghịch giữa “nói” và “làm” ở đây với câu kết luận của Diễn từ trên núi (7, 21) và lời xác quyết ở 23, 3. Phải chăng đó là một chủ đề quan trọng trong Mt?
2. Ai là người đối thoại của Chúa Giêsu: đám đồng? Nhóm Biệt phái? Các môn đồ?
3. Đâu là điểm tương tự giữa dụ ngôn này và dụ ngôn đứa con hoang đàng? (Lc 15, 11 -32).
4. Chúa Giêsu muốn nói gì khi khẳng định quân thu thuế và lũ đàng điếm “qua trước các ông” mà vào Nước Thiên Chúa? Phải chăng đây chỉ là một vấn đề “trước” về thời gian, trước về thứ hạng?
5. Các người đối thoại của Chúa Giêsu đã nói vâng với Thiên Chúa theo nghĩa nào, và nói không theo nghĩa nào?
6. “Vì Gioan đến với các ông theo đàng công chính”: câu này có nghĩa là gì?
1. Mt đã tập trung trong phần này (ch.19-23) ba dụ ngôn nói lên sự đoạn tuyệt, phân cách: hai người con (cc.28-32), thợ vườn nho sát nhân (cc.33-34), tiệc cưới (22,1- 14). Đầu bộ ba, mà có lẽ bắt nguồn từ truyền thống Aram, Mt ghi lại cơ hội nói lên chúng (21, 23-27). Đó là Chúa Giêsu đang tranh chấp với nhà chức trách Do thái tại Giêrusalem; họ đòi Người đưa ra bằng chứng về ủy nhiệm thần linh mà bấy lâu Người vẫn sách viện. Người liền lái vấn đề sang Gioan Tẩy giả: ủy nhiệm của ông từ đâu mà đến? Nếu từ Thiên Chúa, tại sao nhà chức trách Do thái không tin theo? liền đó là tới dụ ngôn ta đang nghiên cứu.
2. Chính các thính giả quy hướng dụ ngôn (cc.28-30) về lối giải thích thứ nhất (c.31). Đây là một phương sách thông dụng: người đối thoại được đưa đến chỗ vô tình bày tỏ lập trường và như vậy là tự lên án; y tán thành một dụ ngôn răn đời mà không ngờ mũi dùi của nó lại chĩa vào chính y. Các ngôn sứ đã dùng mánh lới này nhiều, chẳng hạn Natan đã khiển trách Đavít về tội ông phạm bằng cách lúc đầu nói thật bóng gió (2Sm 12). Đây đúng là một luận cứ ad hominem (luận cứ đối nhân). Lối giải thích thứ hai liên kết dụ ngôn với những gì đi trước bằng việc đề cập đến Gioan Tẩy giả; qua ông này, hầu như toàn bộ lịch sử cứu rỗi được gợi lại.
3. Dụ ngôn đưa vào sân khấu hai người con trai. Thiết tưởng cần nhấn mạnh một chút cái danh từ này (mà đúng ra nên dịch là “hai người con”). Thoạt nhìn, mối liên hệ giữa ông cha với hai đứa con thật in hệt. Vì không phải một bên là con, bên kia là tôi tớ, cũng chẳng phải một người là con thứ, một đứa là con trưởng. Hai kẻ được lệnh đi làm vườn nho đều là con hết. Nếu về phía người cha có một sự biệt đãi, thì đó chỉ là hậu quả do lối cư xử của các con ông, chứ không phải theo óc phân biệt mà ngay từ đầu hắn đã cho thấy tình yêu nơi ông có tính cách bất công, thiên vị.
Thành thử bản văn chẳng nhấn mạnh đến tính cách của hai người con và càng không nhấn mạnh đến điều chúng nói. Cái phân biệt chúng rốt cuộc chính là việc chúng sẽ làm hay không làm theo lời yêu cầu của cha. Đứa thứ hai bên ngoài trông đầy đủ đức hạnh: lịch sự đến độ khúm núm, cung kính ra vẻ đạo đức vồn vã ưng thuận quá mức độ thực hiện như lời. Còn đứa thứ nhất cứng đầu nhưng tốt lành tâm địa.
Tiếng vâng mà thực sự là không, tiếng không mà thực là vâng có lẽ làm độc giả nghĩ hai anh chàng thật bất định, ưa nghịch đời, đầy óc mâu thuẫn, nếu người ta chẳng tiết lộ vì sao tiếng không ban đầu của đứa nhất đã biến thành tiếng vâng dạ, thành một việc “thực hiện ý cha”. Tính khí bất định không giải thích nổi sự chuyển hướng này, tính khí càu nhàu cũng chẳng cắt nghĩa gì hơn được. Cả hai tính khí không là chìa khóa của dụ ngôn. Nếu bảo là chìa khóa tức là cho xen vào những dữ kiện tâm lý chẳng mấy nằm trong nhãn giới Tin Mừng. Chỉ có thể giải thực.h việc thay đổi thái độ nơi người con thứ nhất bằng sự thống hối đích thực, một lòng thống hối mở được cửa nước trời lòng thống hối tạo nên niềm tin yêu.
4. Khi đã đồng ý nhìn nhận làm giá trị hơn nói, đáng ra các thính giả của Chúa Giêsu phải chấp thuận cái lý tiềm ẩn trong đó và phải bắt đầu đến lượt mình ăn năn hoán cải. Những người thu thuế và gái điếm (hạng vô luân thường đạo lý như ngày nay ta vẫn còn bảo) đã có thể sống nhiều năm xa cách Thiên Chúa. Họ đã có thể vô luân thường (vô lề luật) và vẫn còn có thể như vậy, nhưng họ không phải là không có đạo lý (đức tin). Để được cứu rỗi, họ đã chấp nhận phó thác và tín nhiệm vào một con người (Gioan Tẩy giả).
Như thế họ gần với ơn cứu rỗi hơn những Biệt phái giả hình nói vâng mà chẳng làm gì hết (x. 3, 3). Tiếng vâng của những kẻ này chỉ được cái bộ mã: một truyền thống lâu đời về sự mực thước, một sự trung tín bề ngoài không thể chối cãi nhưng lại từ chối công việc làm vườn nho, công việc lớn lao của Thiên Chúa là tin vào Chúa Giêsu Kitô. Việc họ tỉ mỉ giữ luật có lẽ sẽ làm cho họ vinh dự nếu họ ý thức mình làm là làm cho Thiên Chúa, và nếu họ không đặt tất cả tin tưởng vào chính bản thân và vào các nhân đức giả tạo của mình Họ có thể đã sống và sẽ còn sống với Lề luật, nhưng họ không có đức tin vậy.
5. Nói đúng ra, Chúa Giêsu chẳng loại bỏ sự phân biệt giữa những kẻ tuân hành và những kẻ vi phạm Lề luật. Người không chấp nhận sự buông tuồng của hạng này mà cũng chẳng lên án lòng trung tín của hạng kia. Nhưng người tỏ cho cả hai biết một con đường mới mà điều qui chiếu chủ yếu không còn là lề luật nữa. Một viễn tượng mới đã được mở ra: nó đem đến nhiều tự do hơn trước lắm yêu sách quá tỉ mỉ và ít câu thúc hơn trước một chương trình sống chỉ đè nặng và làm vấp ngã con người.
Viễn tượng mới này đòi hỏi phải tin vào sứ điệp của vị Tiền hô và do đó vào Chúa Kitô. Nó giả thiết lòng thống hối. Để vào Nước Trời, thực ra chỉ cần một điều kiện: lòng thống hối mà đức tin là một khía cạnh, cái lòng thống hối bao hàm một thái độ nội tâm sâu xa. Khi phạm tội, ta đã xây dựng lại với Thiên Chúa, bây giờ ta quay về với Ngài, với ý thức đầy đủ là ta không thể tự mình dứt bỏ được tội đã phạm, và vì thế phải trông cậy vào một Đấng khác. Các ngôn sứ đã xem đó là phương thế duy nhất tránh khỏi sự đoán phạt của Thiên Chúa, và “nhóm còn lại” chính là nhóm của những người thống hối ăn năn. Tính tự mãn của Biệt phái đã cản ngăn họ trở nên thành phần của nhóm còn lại này, vì thế họ tự đặt mình dưới án phạt của Thiên Chúa một cách tất nhiên.
6. Lòng thống hối, ơn của Thiên Chúa, một lần nữa dẫn ta về chính con người Chúa Kitô, và trong Người ta nói Amen (tiếng vâng của ta) cho vinh quang Thiên Chúa (2 Cr 1, 20). Dĩ nhiên phải mong rằng khi nghe lời yêu cầu của Chúa Cha, lập tức ta thưa vâng và đem thi hành ngay: vâng thì cho đúng là vâng vậy ” (Gc 5,12). Và điều này ta có thể làm được trong Chúa Giêsu là Đấng “đã chẳng phải là vừa “vâng” vừa “không”, trái lại chỉ toàn là “vâng” nơi Người ” (2 Cr 1, 19 ), cái tiếng vâng của lời hứa mà Thiên Chúa không hề hối tiếc” (Rm 11, 29), nhưng cũng là tiếng vâng của con người đến để làm theo ý Đấng đã sai mình (Ga 4, 34; 5, 30; 6, 38…). Điều Chúa Giêsu yêu cầu thính giả Người đến lượt họ cũng hãy làm, là tin vào Người, người Con mà Chúa Cha đã sai đến (Ga 6, 29).
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Các ông nghĩ sao? Một người có: hai con… “. Như ở 18, 12 và 22,42, Chúa Giêsu xin ý kiến không phải của môn đồ Người, mà là của các đối thoại viên hay địch thủ. Người này tượng trưng cho Thiên Chúa, như ta có thể diễn dịch dựa trên lời áp dụng Chúa Giêsu sẽ nói sau; hai đứa con của ông tượng trưng hai hạng làm nên dân Do thái thời đó: những “người tội lỗi” hay dửng dưng, không mấy giữ Lề luật và các qui định của giáo sĩ, và những “người công chính” hằng trung thành với tôn giáo chính thức, tức ở đây là các thủ lãnh của Israel. Hãy lưu ý là: hai hạng đều là con Thiên Chúa. Đối với cả hai, bản văn hẳn nhấn mạnh về tính chất (đạo đức, có chân lý tốt hay không), cũng như lời ăn tiếng nói của họ, mà về điều họ sắp làm hay không làm. Trên điểm này, Chúa Giêsu và đối phương người đều nhất trí với nhau (c.31b; xem thêm 23,3: các Biệt phái ngự tòa Môisen và dạy người ta làm, y như Chúa Giêsu). Ở đây cũng như mọi chỗ khác trong một, động từ làm (poiein) là căn bản.
“Hôm nay”: Chữ này quan trọng chứ chẳng phải chơi; ông cha trong dụ ngôn không muốn mất giờ giả định về tâm tính, dữ kiện khác biệt của hai con mình; ông đặt cả hai đứa trước cùng các lệnh sẽ quyết định vận mệnh của chúng.
“Về sau”: Không nên xem thành ngữ này là một ám chỉ đến lương dân, những kẻ vào Nước Trời sau người Do thái như một số nhà chú giải đã nghĩ. Lối giải thích gượng ép đó không ăn khớp với các hoàn cảnh mô tả trong dụ ngôn. Quả thế, người con thứ nhất trước tiên đã từ chối vâng lời, đó không phải là trường hợp của lương dân: sở dĩ họ vào muộn hơn trong Nước Trời, chỉ vì Nước Trời đã chưa được trình bày cho họ. Đàng khác, câu giải thích rõ ràng Chúa Giêsu thêm vào đã loại bỏ lối chú giải trên.
“Nó hối hận”: Nơi đây Matthêu không dùng động từ “thống hối” (melanoiein) nhưng dùng một động từ khác (metamelesthai); động từ này chỉ xuất hiện thêm trong Mt 27, 3, nhưng lại được dùng nhiều trong bản ‘Bảy Mươi’ theo nghĩa hoán cải, trở về với Thiên Chúa (Ed 14, 22; Tv 105, 45; Xh 13,17…). Người ta không giải thích tại sao người con ấy lúc đầu bướng bỉnh, sau cùng lại hối hận, mà chỉ khẳng định sự kiện thôi. Nhưng gương của nó đáng ra phải làm đứa thứ hai suy nghĩ: chắc hẳn đấy là lý do tại sao nó được đưa vào sân khấu đầu tiên (dù có một số thủ sao đã đảo ngược vai trò, có lẽ để gợi lên sự đối chiếu Israel dân ngoại).
“Vâng, thưa Ngài”: Tiếng “Ngài” đây, lạ lùng trên môi đứa con, có thể giải thích được dễ dàng nếu cho người cha là Thiên Chúa. Đây là một tiếng vụt qua bóng bẩy nhằm chuẩn bị cho lời áp dụng sắp tới.
“Qua trước các ông mà vào Nước Thiên Chúa”: Động từ được dùng chỗ này là proagein; ở đây, chữ pro (trước) không có một nghĩa thời gian nhưng có một nghĩa khai trừ. Các người tội lỗi chẳng đi trước Biệt phái song sẽ chiếm chính chỗ của họ trong Nước Trời. Đây là một ngữ điệu Aram, như có một bản văn giáo sĩ đặt vào miệng Thiên Chúa những lời này: “Ai đã đi trước Ta trong việc sáng tạo?”, nghĩa là: “Ta đã sáng tạo thế gian, chứ chẳng phải một ai nào khác” (Targ. Hi 41, 3).
“Theo đàng công chính”: Thành ngữ (Cn 8, 20; 12, 28, Pr 2, 21) diễn tả việc chấp nhận không những hạnh kiểm luân lý của Gioan Tẩy giả, mà còn toàn thể sứ vụ của vị Tiền hô. Thực vậy khi công bố nước Thiên Chúa đang tới gần, Gioan Tẩy giả đã cho thấy dấu hiệu về sự công chính đích thực sắp đến, sự công chính mà Chúa Giêsu mang lại một cách sung mãn tràn đầy. Gioan và Chúa Giêsu đã không giảng dạy hai đường khác nhau, nhưng đã chỉ cùng một con đường duy nhất, con đường thống hối và quay về với Thiên Chúa: trong 3,2 và 4, 17, Matthêu đã cố công làm nổi bật sự tương đồng sứ điệp này khi đặt vào miệng hai Đấng những lời nói như nhau. Thành thử kẻ không tin Gioan (nghĩa là chẳng xem ông như người đại diện hữu quyền của Thiên Chúa) cũng sẽ không tin Chúa Giêsu, Đấng mà Gioan loan báo vậy.
KẾT LUẬN
Khi so sánh dụ ngôn này với dụ ngôn đứa con phung phá, ta thấy được mối liên hệ giữa Chúa Giêsu với hàng thủ lãnh Israel đã đổi thay sắc thái đến độ nào. Đứa con nói không và về sau hối hận chắc hắn ít bị khiển trách hơn anh chàng phung phá, song đứa nói vâng rồi chẳng làm một tí mảy may thì bị lên án nghiêm khắc hơn người anh cả ghen tương. Trong trường hợp sau này, thính giả dụ ngôn có cảm tưởng người cha vẫn còn trông mong lấy tình yêu bao phủ lòng ghen tương đê tiện của đứa con cả. Nhưng khi nghe dụ ngôn hai người con, người ta đoán chắc Chúa Giêsu chẳng còn hy vọng hoán cải các người Biệt phái. Họ đã chứng kiến sự thánh thiện của Gioan Tẩy giả, lòng thống hối của những người thu thuế và tội lỗi mà rồi chẳng chút động tâm. Xem ra lòng chai đá của họ không thể biến cải được nữa.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Chúa Kitô dạy ta đừng dự đoán giá trị đạo đức của người ta theo các phạm trù chính thức cũng như theo các cam kết lý thuyết hay trên nguyên tắc. Vì cuối cùng, chính cách sống sẽ biểu lộ nhân tâm con người.
2. Tiếng Chúa Cha mời gọi ta đi làm vườn nho hãy còn được tiếp tục gởi đến cho ta. Nó sẽ gợi lên tiếng ta câu trả lời nào? Phải chăng ta sẽ là những kẻ khéo nói cố tránh đưa vào hành động những câu trả lời đẹp đẽ dựng lên? phải chăng ta sẽ coi những ước vọng cao quí, những quyết định hay ho là những hành vi đã thực hiện.
3. Sự thống hối cần có để vào Nước Trời chẳng bao giờ chỉ làm một lần là đủ. Phải luôn luôn làm lại, hôm nay cũng như ngày mai. Nếu không, những người thu thuế và đàng điếm (mà ngày nay vẫn còn) sẽ chiếm mất chỗ của ta trong Nước Trời, vì đức tin của họ chân thật hơn đức tin của ta, và cuối cùng sẽ mang nhiều hoa trái.
4. Nơi người con thứ nhất, rõ ràng là cái ý thức về việc nó từ chối đã gây nên lòng hối hận và thúc đẩy nó vâng lời. Thành thử thật là lạ lùng, chính một lời từ chối thẳng thừng với Thiên Chúa, một tội lỗi quá hiển nhiên đã giúp người con kiểm điểm lại thái độ của mình đối với Ngài và đã sửa đổi. Cũng vậy những người thu thuế, đàng điếm, bị dân chúng liệt vào hạng tội lỗi, đã không thể bị ảo tưởng về tình trạng của họ trước mặt Chúa, nên vì thế dễ thấy, dễ ao ước và dễ thực hiện sự công chính mà Chúa đề nghị với họ hơn. Ở đây họ trở nên chân dung của tất cả chúng ta, theo một cấp độ rõ ràng nhiều hay ít. Được Chúa yêu cầu mãi, ta khám phá ra mình đã nhiều lần thản nhiên từ chối thánh ý Ngài, ta đo lường được khoảng cách giữa cái ta đang là với cái đúng ra ta phải trở nên, và đó là một điều kiện đầu tiên để vào Nước Chúa. Không phải là cần phạm tội thêm để làm như một con đường đến cùng Chúa: từ bản chất; tội chỉ làm ta xa Ngài. Nhưng một khi đã phạm, chính tội cũng có thể được sử dụng để trở về với Thiên Chúa. So sánh với một nhân đức giả hình, tội ít ra vẫn có cái “lợi” (nếu có thể nói được như thế) là tạo nên một ảnh trạng rõ rệt: người ta bị dồn vào chỗ phải thống hối hay tiếp tục ngoan cố trong điều dữ, trong lúc nhân đức giả tạo bên ngoài của người Biệt phái, vì bịt mắt không cho ông thấy mình xa Thiên Chúa, đã ngăn chận ông thực lòng hoán cải ăn năn.
5. Thành thử cái quan trọng chẳng phải là khởi điểm, là những lần từ chối đã qua, là các tội dồn đống từng làm nên bao tiếng không với Chúa. Cái quan trọng là nhìn lại những tiếng không của mình để đổi thành tiếng dâng. Điều đó luôn có thể làm được với ân sủng của Thiên Chúa.
(Chú giải theo Fiches Dominicales)
PHỤC VỤ THIÊN CHÚA KHIẾN CON NGƯỜI TỰ DO
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Ai trong hai…
Trước sự phẫn nộ của các đối thủ, Đức Giêsu, được một đám đông cuồng nhiệt chào đón bằng những tiếng: “Hosana”, đã long trọng tiến vào Giêrusalem. Trong Đền Thờ, nơi Ngài giảng dạy, Ngài thường xuyên chịu đựng sự quấy nhiễu của “các thượng tế, và kỳ lão trong dân”. Hiển nhiên họ đến chất vấn Ngài về uy quyền nào cho phép Ngài nói và làm như vậy: “Do quyền nào ông đã làm điều đó, và ai đã ban cho ông uy quyền đó” (21,33). Nhưng Đức Giêsu từ chối trả lời bao lâu họ còn né tránh câu hỏi Ngài đặt ra: “Phép rửa của Gioan từ đâu đến, từ trời hay từ con người (21,44). Chính trong bối cảnh tranh cãi này, trong đó có 3 dụ ngôn về ngày phán xét, Đức Giêsu đã cho họ 1 lời cảnh báo mạnh mẽ sau cùng: Dụ ngôn 2 đứa con trai được sai đi làm vườn nho (Pâ CN 26). Dụ ngôn thợ làm vườn nho sát nhân (Pâ CN tới). Dụ ngôn khách được mời dự tiệc cưới (Pâ CN 28). Dụ ngôn đầu là của riêng Matthêu, dụ ngôn 2 đứa con trai được sai đi làm vườn nho có một vẻ đạm bạc đặc biệt, bỏ đi tất cả những chi tiết phụ thuộc để làm nổi bật sự tương phải giữa hai chàng trai. Tương phản trong thái độ ban đầu.
Đối lập thái độ vụng về của đứa con thứ nhất, nó phản đối thẳng thừng: “Tôi không muốn đi!”. Với thái độ kính cẩn thái quá của đứa con thứ hai: “Vâng, thưa cha”. Nhất là tương phản trong thái độ sau cùng.
Trong khi đứa thứ nhất, sau khi đã chối từ, nghĩ lại và ra vườn làm việc.
Đứa thứ hai, sau khi đã kính cẩn vâng phục và chấp nhận, lại chẳng làm gì hết.
2. … đã thi hành ý Cha?
Lúc đó Đức Giêsu quay lại phía các người chất vấn và hỏi họ: hai trong hai đứa con đã thi hành ý của cha?”. Họ chỉ có thể đồng loạt trả lời: “đứa thứ nhất”. Đâu còn gì rõ ràng hơn, con người xứng danh được phán xét theo hành động họ làm, không theo ý hướng hay thay đổi của họ. Sự ngỡ ngàng ập đến khi Đức Giêsu chuyển sang phần áp dụng dụ ngôn, đã làm họ thấy rằng họ vừa tự phán xử và tự kết án chính mình: “Thật, Ta bảo thật các ngươi, những người thu thuế và đĩ điếm sẽ vào Nước Thiên Chúa trước các ngươi. Vì Gioan Tẩy giả đã đến với các ngươi sống công chính và các ngươi không tin vào lời Ngài, trong khi những người thu thuế và đĩ điếm đã tin. Còn các ngươi, cả sau khi đã chứng kiến điều ấy, các người vẫn không hối chi, không tin lời Ngài. “Các thượng tế và các kỳ lão trong dân” tuyên xưng để trả lời “vâng” với Thiên Chúa bứng cách lo âu gắn bó với lề luật và mọi ghi chú từ lề luật. Thực ra, họ ẩn núp sau Lề Luật để từ chối tin sứ mệnh của Đức Giêsu, cũng như họ đã từ chối tin vào sứ mệnh của Gioan Tẩy giả. Họ né tránh ý Chúa: đón tiếp lời và con người Đức Giêsu; trở về với Chúa để tiến vào Nước Trời. Ngược lại, những người mà Do Thái giáo chính thức coi là đáng khinh bỉ và vô phương cứu chữa, những người “thu thuế” và “đĩ điếm”, những người tội lỗi công khai xem ra rất xa đường công chính”, lại đón nhận lời rao giảng của Đức Giêsu cũng như họ đã đón nhận lời rao giảng của Gioan Tẩy giả: họ đã “hối cải và tin vào lời Ngài”. Cl. Tassin bình luận: “Vì trước hết đức tin không phải là một vài tư tưởng công chính, nhưng là một hành động công chính, những người tội lỗi tồi tệ đã hiểu điều này nên đã bằng mọi giá cố gắng “thi hành ý Cha”. Còn các ngươi, Đức Giêsu nói, các thượng tế, chứng nhân của các cuộc hoán cải này mà các ngươi chẳng nhúc nhích các ngươi đã lỡ cơ hội đầu tiên, thậm chí các ngươi còn để vuột mất tất cả mọi cơ hội: dụ ngôn kế tiếp sẽ minh chứng điều đó.
Khi thuật lại dụ ngôn này cho cộng đoàn, thánh sử muốn biện hộ cho một Giáo Hội mở rộng vòng tay đón tiếp những người thu thuế, gái điếm đã hoán cải ngài cảnh giác các Kitô hữu, xưa cũng như nay, chống lại một thứ tôn giáo bề mặt chỉ biết biết lãi nhãi: “Lạy Chúa, lạy Chúa” nhưng không bao giờ thi hành ý Cha”.
BÀI ĐỌC THÊM:
1. Một ví dụ khích đối với những người đối thoại với Đức Giêsu (Mgr. L. Daloz, Le Règne des cieux s’est approché, DDB).
Đức Giêsu đã nói: Không phải những kẻ kêu rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa! mà được vào Nước Trời, nhưng là những kẻ làm theo ý Cha. Hôm nay Ngài còn đi xa hơn: Ngài nói con người có khả năng thay đổi ý kiến, thái độ, từ vâng lời có thể trở thành bất tuân, ngược lại từ chống đối có thể hoán cải. Ví dụ Ngài đưa ra quả là khiêu khích những người đối thoại: Thật, Ta bảo các ngươi, những người thu thuế và đĩ điếm sẽ vào Nước Trời trước các ngươi. Ngài chỉ cho thấy chìa khoá mở cửa Nước Trời: đó không phải là vị trí người ta chiếm giữ, cũng không phải địa vị đắc thủ, càng không phải là một lần đồng ý với Lời Thiên Chúa. Đó là tình trạng của các thầy thượng tế, các kỳ lão, các luật sĩ và các tiến sĩ luật. Họ có một nhiệm vụ chính thức trong dân; đó cũng là sự tự hào của bọn biệt phái, họ khoe khoang sự trung tín không hề lơi lỏng đối với Lề Luật và truyền thống. Khốn nỗi lối vào Nước Trời đâu mở ra cho giá trị, công phúc, trọn lành. Đó là món quà Thiên Chúa tặng không cho những ai tiếp nhận lời Ngài và hoán cải. Chìa khoá lối vào Nước Trời là sự hoán cải: hãy hoán cải, vì Nước Trời đã gần” (3,2) Gioan Tẩy Giả đã la lên như thế. Hoán cải là nhận biết những giới hạn của bản thân, là phó mình cho Thiên Chúa và ý định của Ngài. Đức Giêsu phân biệt những người khẳng định sự trung tín nhưng không hề nhúc nhích, với những người không sống “theo luật tắc”, nhưng nhận biết Người và thay đổi theo tiếng gọi của Thiên Chúa: Hoán cải là đi đến nơi. Để giải thích rõ, Đức Giêsu đưa ra một ví dụ cực kỳ, gây phẫn nộ nhất: những người thu thuế và đĩ điếm sẽ vào Nước Thiên Chúa trước các ngươi. Chứng cớ mà Ngài trưng dẫn là sự rao giảng của Gioan Tẩy Giả: “Thật vậy, Gioan đã đến vớt các ngươi trong đường công chính và các ngươi đã không tin, trái lại những người thu thuế và đĩ điếm đã tin ông. Sau đó, đã nhìn thấy như vậy, các ngươi vẫn không hoán cải mà tin ông”. Đâu có những người tin, đón nhận lời của Gioan và dấn thân thay đổi đời sống. Đức Giêsu nhận thấy đó là những người không tự hào, chẳng có đặc quyền đặc lợi gì, nhưng bị khinh miệt, coi thường. Họ chẳng có gì để bảo vệ, họ không sợ bị mất mặt hay bị nghi ngờ. Ai có “danh dự ” cần bảo vệ, ai tự tin mình công chính, người ấy khó mà nhận mình tội lỗi, khó mà ăn năn hối cải, khó mà nhận mình cần thay đổi, khó chấp nhận rằng mình sẽ vào nước Trời không do công phúc của mình… Ta không ngừng cầu xin Chúa ban cho ta một trái tim nghèo, xin Ngài tẩy sạch thói tự mãn, cho ta ý thức sự yếu hèn, tội lỗi của mình. Khi giảng dạy, Đức Giêsu đã ban một chìa khoá “chung” để vào Nước Trời: đó là sự hoán cải, thống hối, ai cũng làm được cho dù họ có những phẩm chất nào, khuyết điểm nào, thuộc dòng chủng tộc nào, dân tộc nào đi nữa. Ơn cứu độ ban cho tất cả những ai chấp nhận mở lòng ra và tin tưởng.
2. Chúng tôi chấp nhận bị Phúc Âm làm phiền (M. Hubaut, Prier les paraboles, DDB).
Lạy Chúa
Mỗi buổi sáng, Chúa nhắc lại lời mời:
“Hãy đi làm vườn nho cho Ta!”
Nhưng lời Chúa
Con đã nghe hằng trăm lần
Giờ thì còn là một âm thanh quen thuộc
Mỗi Chúa nhật ru ngủ cộng đoàn
Tuy vậy chúng con vẫn máy móc trả lời
“Vâng, vâng lạy Chúa
Rồi chúng con lặng lẽ trở lại
với những công việc thường lệ.
Chúng con đã thuần hoá sự mãnh liệt của Phúc Âm Chúa để chỉ còn nghe những lời lẽ dịu êm những công thức rất tế nhị. Chúng con đã làm giảm cường độ ánh sáng Phúc Âm qua lăng kính của quan niệm về trật tự, của Giáo Hội và xã hội. Và Phúc Âm của Chúa sẽ chẳng còn phiền nhiễu chúng con nữa.
(Suy niệm của Noel Quession)
Đức Giêsu nói với các thượng tế vằ kỳ mục: ”Các ông nghĩ sao?..”
Dụ ngôn bắt đầu như thế và thực ra gởi đến các từng lớp lãnh đạo của thời đại Người, “các thượng tế và kỳ mục”. Văn cảnh có tính chất bút chiến: Đức Giêsu vừa đuổi những kẻ buôn bán ra khỏi Đền Thờ (Mt 21, 12-17), rồi một cách tượng trưng Người đã làm cây vả chết khô vì nó không có trái (Mt 21,18-22). Những “kẻ cầm quyền” ở Giêrusalem tức giận hỏi Người có quyền gì để làm những hành động khiêu khích ấy. Chính lúc đó, theo bản văn của Matthêu, Đức Giêsu đáp lại bằng ba dụ ngôn: Hai người con, những tá điền sát nhân, những khách mời dự tiệc cưới (Mt 21,28 – 22,14). Cuộc khổ nạn đến rất gần. Đức Giêsu thật sự bị ám ảnh bởi ý tưởng Người sẽ bị loại trừ bởi chính những người lẽ ra phải tiếp đón Người.
Nhưng chúng ta không thể ở mãi trong cách giải thích lịch sử” về cuộc khổ nạn.
Nếu chỉ áp dụng những dụ ngôn của Tin Mừng ‘chúng cho người khác’ thì quả là gian dối. Ngày nay, các dụ ngôn được nói với mỗi người chúng ta.
Lời kêu gọi tối hậu của Đức Giêsu phải tra vấn chúng ta: “Bạn, X, Y,…., bạn nghĩ gì về điều đó?”
Một người kia có hai con trai. ông ta đến nói với người thứ nhất: “Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho”. Nó đáp: “Con không muốn đâu!”. Nhưng sau đó, nó hối hận, nên lại đi
Bạn nghĩ gì về điều này?.
Phản ứng đầu tiên của chúng ta là thấy đứa con quả là vô lễ khi nói với cha nó cách thiếu tôn trọng. Và rồi chúng ta thấy nó dễ thương, nó thay đổi ý kiến một cách thật thà và đi hoàn thành ý muốn của cha nó.
Đức Giêsu, khi đưa ra câu chuyện đơn sơ này đã không cho một lời giải thích nào về mặt tâm lý. Người chỉ cho chúng ta một con người ‘thay đổi’, “hoán cải “. Và đó là một mạc khải củng cố chúng ta. Thế giới hiện đại với những dòng tư tưởng hiện nay, các phương tiện truyền thông cố làm cho chúng ta tưởng rằng con người bị điều kiện hóa và như bị giam hãm luôn trong chủ nghĩa tất định, lấy đi của chúng ta mọi trách nhiệm và mọi tự do. Đặt những sự thất bại, khiếm khuyết của chúng ta lên trách nhiệm của xã hội của tính khí người khác quả là có lợi! Trái lại, Đức Giêsu đưa chúng ta về trách nhiệm của mình khi nhắc lại rằng các ván bài không bao giờ được chọn trước. Dù quá khứ của chúng ta là gì, dù trước đó chúng ta từ chối điều gì một sự thay đổi là luôn luôn có thể. Đức Giêsu là Đấng không bao giờ giam hãm một người nào trong quá khứ, Đức Giêsu là Đấng cho mỗi người cơ hội của mình, dù đó là người tội lỗi nhất.
Như thế chúng ta được mạc khải rằng Thiên Chúa không nhìn chúng ta “đông cứng” nhưng “đang trở thành”.
Trong những khó khăn hiện nay của chúng ta, Người nhìn thấy con người mới có lẽ sắp được sinh ra từ đó. Lạy Chúa, con cám ơn Chúa vì Chúa đặt vào lòng chúng con niềm hy vọng ấy. Lạy Chúa, xin giúp chúng con không làm đông cứng người khác, đừng dán lên người khác một nhãn hiệu không thể thay đổi, nhưng cho họ có cơ may đổi mới. Tuy nhiên, chúng ta đã đoán ra rằng Đức Giêsu có một ý tưởng khác trong trí óc Người. Tại sao Người đã mô tả đứa con thứ nhất ‘nói’ tiếng không, nhưng dầu sao nó đã vâng lời.
Ông đến gặp người thứ hai và cũng bảo như vậy nó đáp: “Thưa ngài, con đây!” nhưng rồi lại không đi. Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha?
Rõ ràng người con thứ hai được nhấn mạnh. Sự tương phản nổi bật như ý muốn. Và trong văn cảnh bút chiến tranh cãi giữa Đức Giêsu và các quyền bính tôn giáo tại Giêrusalem, Đức Giêsu nhắm đến họ, những thượng tế và kỳ mục. Nhưng, NGÀY NAY vấn đề cũng đặt ra cho chính chúng ta. Bạn nghĩ gì về vấn đề đó? Người nào trong hai người con đã làm theo ý muốn của người cha?
Họ trả lời: “Người thứ nhất”
Thật vậy chúng ta không thể có câu trả lời khác. Những lời nói đẹp mà thôi không đủ. Chính những hành động của chúng ta mới đáng kể chớ không phải ý định của chúng ta. Dưới góc độ này, Đức Giêsu rất hợp với thời đại: Thế giới ngày nay thán phục tính hiệu quả. Người ta nghi ngờ những người nói hay -những kẻ đại ngôn- chỉ làm cho chúng ta say sưa bởi những lời tuyên bố trống rỗng. Nhưng ý thức hệ lý thuyết đều mất hết tốc độ. Người ta phán đoán những lời hứa dựa vào những kết quả có thực.
Nhưng chúng ta chớ phán xét những người khác. Người con thứ hai này thường rất giống chúng ta. Chúng ta cũng tiền hậu bất nhất. Ví dụ như chúng ta cho rằng mình là những ‘tín hữu’ nhưng ‘không hành đạo’. Chúng ta nói theo Thiên Chúa bằng môi miệng nhưng không theo bằng hành động.
Hoặc giả, chúng ta sang sảng hát kinh Tin Kính ở nhà thờ, những suốt tuần lễ thì làm ngược lại. Biết bao lần chúng ta đã nói với Thiên Chúa: “Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện…” mà thái độ của chúng ta có tương ứng với những lời tuyên bố cao đẹp ấy không? Nhưng chúng ta đã được cảnh báo: “nói” không quan trọng bằng “làm”. Người ta không đánh lừa được Thiên Chúa. Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! Lạy Chúa là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời” (Mt 7,21). Và thánh Gioan diễn tả: “Chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm” (1Gioan 3,18).
Đức Giêsu nói với họ: “Tôi bảo thật các ông những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông”.
Đức Giêsu dẫn vào kết luận bằng một công thức long trọng. “Tôi bảo thật các ông!”. Khi Đức Giêsu sử dụng công thức này, luôn luôn Người muốn loan báo một điều gì rất quan trọng. Vả lại ở đây, quan điểm của Người làm ta kinh ngạc và gần như gây vấp ngã.
Bằng cách nào? Bằng cách cho chúng ta một ví dụ về ‘những người tội lỗi chuyên nghiệp’, những người tội lỗi bởi tình trạng đời sống, những người tội lỗi công khai chăng? những người thu thuế là những người thỏa hiệp với tiền bạc? Những cô gái điếm là những người thỏa hiệp về xác thịt?
Tuy nhiên, thật tệ hại khi tưởng tượng rằng Đức Giêsu biện minh cho ‘lợi lộc’ mà ‘tình dục sai lệch’ đem lại. Câu tuyên bố nghịch nhĩ này cũng như dụ ngôn nói trên của Đức Giêsu muốn nhấn mạnh đến sự hoán cải.
Tội lỗi tệ hại nhất chính là lòng tự mãn: không cần đến Thiên Chúa! bất chấp đến Người. Và chúng ta biết rằng vào thời của Đức Giêsu những người tin rằng mình ‘công chính’ quả thật đã không cần ơn cứu độ mà Đức Giêsu đem lại cho họ. Nhưng những người tội lỗi, đàn ông có, đàn bà có, đã chạy đến cùng Chúa Giêsu như đến Cứu Chúa của họ.
Nhà văn Péguy đã diễn tả một cách tài tình khía cạnh ấy của tội lỗi, vốn là một điều xấu tự bản chất trở thành một điểm hút thấm đối với ân sủng. “Người ta đã thấy ân sủng xâm nhập vào một linh hồn bại hoại, và người ta thấy ân sủng cứu sống ‘những gì đã bị hư mất’. Nhưng người ta không thấy nó xuyên qua cái gì không “thấm nước”. Những con người tử tế lương thiện hoặc sau cùng những con người mang danh như thế mà tấm áo giáp của họ không có chỗ khiếm khuyết. Bởi vì họ không thiếu sót gì, người ta không mang lại cho họ điều gì”.
Phải chăng như những người tội lỗi mà Đức Giêsu đề cập tôi biết chuyển những tội lỗi của tôi thành cơ hội mầu nhiệm để mong ước ân sủng cứu thoát tôi khỏi những giới hạn của mình?
Phải chăng tôi hay xét đoán bề ngoài những con người sa đọa nhất, thay vì cho họ cơ hội chưa từng có, theo đường lối của Tin Mừng. “Những kẻ tội lỗi công khai sẽ vào Nước Thiên Chúa trước các ông”. Đức Giêsu nói về hạng người nào? Người nói với ai bằng “các ông”? Những hạng người tin rằng mình công chính và bị gạt khỏi Nước Thiên Chúa là ai? Đôi khi tôi có thuộc vào hạng người đó không?
Lạy Chúa, xin hãy thương xót chúng con!
Vì ông Gioan Tẩy Giả đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy; còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại tin.
Trong lúc dụ ngôn “hai người con” nhấn mạnh đến sự tương phản giữa “nói” và ‘làm’ ‘giữa nói “có” trên môi miệng và nói “không” trong hành động’; kết luận này nhấn mạnh sự tương phản giữa ‘tin’ và ‘không tin’. Câu này có trong Tin Mừng Thánh Luca trong một văn cảnh khác (Lc 7, 29-30). Đã hẳn Matthêu đã thay đổi chút ít để đặt câu ấy ở đây để đáp lại câu hỏi mà Đức Giêsu đã đặt ra ở trước bài Tin Mừng này: “Vậy, phép rửa của ông Gioan do đâu mà có? Do trời hay do người ta?” (Mt 21,25).
Một lần nữa, qua những người đồng thời của Đức Giêsu, chính chúng ta được tra hỏi. Dù qua lời rao giảng của Gioan Tẩy Giả hay lời rao giảng của Đức Giêsu, thì lúc nào cũng chính là Thiên Chúa yêu cầu chúng ta nói tiếng ‘vâng’ bằng một đức tin ‘sống động’. Và tiếng ‘vâng’ ấy của đức tin thường là một ‘sự hoán cải, một sự đổi mới cuộc đời’.
Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy.
Đức tin trong Tin Mừng trước tiên không phải là sự liên kết với các chân lý phải tin bằng trí tuệ. Đúng ra đó là sự liên kết ý muốn của mình với ý muốn của Thiên Chúa kêu gọi chúng ta: “Hôm nay con hãy vào làm việc trong vườn nho của Thầy!”. Hoặc là người ta đáp ứng với lời kêu gọi ấy của Thiên Chúa, hoặc là qua những sự kiện cụ thể, người ta không đáp ứng lại. Có một từ nhỏ mà quan trọng trong đức tin Kitô giáo chúng ta, một từ không được dịch ra bất cứ ngôn ngữ phụng vụ nào và chung cho mọi tín hữu, đó là từ Amen có ý nghĩa chính xác là “xin vâng bằng các hành động” mà chúng ta phải nói với Thiên Chúa: “Amen, vâng, đúng vậy, tôi tin, chắc chắn là như thế, tôi trở về, tôi chấp nhận điều đó cho cuộc sống mỗi ngày của tôi”. Mỗi Chúa nhật, miệng chúng ta đọc bao nhiêu tiếng Amen? Và chúng ta đưa vào thực hành trong tuần lễ tiếp theo bao nhiêu lần?
Vì Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa đã không vừa là có vừa là không, Người chỉ toàn là có. Vì thế cũng nhờ Người mà chúng ta hô lên Amen để tôn vinh Thiên Chúa (lCr 1,19).
86.Ai ngoan nhất? – Lm Ansgar Phạm Tĩnh
Xin phép bạn cho tôi được paraphrase bài Tin Mừng của Chúa Nhật hôm nay một chút.
Các bạn nghĩ sao? Một người kia có hai con trai. Ông ta đến nói với người thứ nhất: “Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho.” Nó đáp: “Con không muốn đâu!” Nhưng sau đó, nó hối hận, nên lại đi. Ông đến gặp người thứ hai, và cũng bảo như vậy. Nó đáp: “Thưa ngài, con đây!” nhưng rồi lại không đi. Trong hai người con đó, ai là người con ngoan của ông chủ vườn nho?
Tôi đoán thế nào bạn cũng trả lời giống như những anh biệt phái: “Dĩ nhiên đó là người con thứ nhất!”
Nếu vậy thì bạn… lầm to! Trong hai anh con trai, chẳng có anh nào ngoan cả, cả hai đều cứng đầu, bướng bỉnh và phạm tội không vâng lời cha mình.
Bạn có biết tại sao cả hai người con lại không muốn đi làm vườn nho hay không? Tôi nghĩ chắc chắn là tại vì hai anh chàng này sợ “phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt.” (Mt. 20:12) cho nên mới ngần ngại không muốn đi làm vườn nho như ý cha của hai anh muốn.
Bạn thân mến, khi lãnh nhận Bí Tích Thanh Tẩy, bạn và tôi, chúng mình đã trở thành con cái của Thiên Chúa, chúng mình đều được sai đi làm vườn nho cho Ngài.
Thế nhưng, bạn và tôi cũng giống như hai người con trong dụ ngôn vậy! Chúng mình đều là những đứa con cứng đầu, bướng bỉnh và hay bất tuân lệnh của Cha. Chúng mình sợ phải làm việc nặng nhọc, và sợ bị nắng nôi thiêu đốt.
Giống như hai người con trai trong dụ ngôn, bạn và tôi thường có hai thái độ trước giáo huấn của Giáo Hội:
Một là tỏ ra khó chịu, bất mãn và phản kháng, chống lại một cách công khai.
Hai là chỉ ậm ừ cho qua chuyện, ngoài mặt thì vui vẻ tỏ vẻ vâng lời nhưng trong thực tế lại dửng dưng, làm lơ, không thực hành.
· Tôi làm lơ và thậm chí bất tuân những lời dạy dỗ của Giáo Hội về những vấn đề liên quan đến luân lý và đạo đức. Ví dụ như không được chung sống với nhau trước khi làm lễ cưới, không được phép ly dị, không được xem phim có dính dáng tới…Trư Bát Giới, không được dùng những phương pháp ngừa thai nhân tạo, không được phá thai, không được thí nghiệm trên phôi thai người…
· Tôi bực bội và làm lơ đến lời mời gọi của Chúa trong những thánh lễ ngày Chúa Nhật và lễ buộc. Tôi lý luận rằng ở nhà tôi cũng tôn thờ Chúa, cũng yêu Chúa được vậy? Làm việc cả tuần lễ tôi cần phải có thời gian để relax, enjoy, nghỉ ngơi, đi shopping, đi câu cá, đi casino…
· Tôi bất mãn, phản đối và có khi nổi loạn vì Giáo Hội khẳng định rằng phụ nữ sẽ không được làm linh mục; khẳng định rằng noi gương Chúa Kitô, linh mục phải sống đời sống độc thân để có thể chu toàn sứ mệnh rao giảng Tin Mừng: một là lập gia đình hai là sống độc thân chứ không có cái kiểu bắt cá hai tay, vừa muốn có vợ, lại vừa muốn thiên chức linh mục.
Bạn thân mến, bạn và tôi, chúng mình đều là những người con bướng bỉnh đã và đang bất tuân những lời dạy bảo, khuyên nhủ của Thiên Chúa qua những giáo huấn của Giáo Hội. Chúng mình hãy bắt chước anh con trai lớn: HÃY HỐI HẬN ĂN NĂN.
· Chúng mình hãy ăn năn sám hối vì những lần chúng mình bất tuân những giáo huấn của Giáo Hội bởi vì khi tôi phản đối quyền giáo huấn của Giáo Hội là khi đó tôi bất tuân Thiên Chúa “Phê-rô, con là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy”(Mt. 16:18-19).
· Chúng mình hãy xin lỗi Chúa bằng cách đi xưng tội thường xuyên hơn, một tháng một lần, đừng để 6 tháng hay 1 năm mới đến hòa giải với Chúa. Mỗi lần đến xưng tội là mỗi lần bạn và tôi lãnh nhận được rất nhiều ơn thánh. Thiên Chúa vui mừng và cả triều thần trên trời cũng vui mừng vì một người tội lỗi như tôi cũng như bạn ăn năn hối lỗi, quay trở về với Ngài (Lc 15:7).
87.Suy niệm Lời Chúa các ngày trong tuần 26 TN
(Jos. Vinc. Ngọc Biển)
THỨ HAI
Muốn làm lớn… phải trở nên bé nhỏ
Các Tổng Lãnh Thiên Thần: Michael; Gabriel; Raphael
(G 1, 6-22; Lc 9, 46-50)
Khi Đức Giêsu loan báo cuộc khổ nạn đầu tiên, các môn đệ can ngăn. Lần thứ hai thì không ai dám nói gì. Tuy nhiên, vì biết Thầy sắp ra đi, vị trí lãnh đạo sẽ khuyết, nên các ông bắt đầu nẩy sinh chuyện tranh dành xem ai là người lớn nhất trong anh em. Biết được tâm tưởng của các môn đệ, nhân cơ hội này, Đức Giêsu đã ban nhiều huấn dụ cho các ông để các ông hiểu và đi theo đúng con đường mà Đức Giêsu mong muốn nơi môn sinh của mình.
Huấn giáo của Đức Giêsu đã gây nên một ấn tượng mạnh nơi các môn đệ khi Ngài dùng hình ảnh một em nhỏ dẫn đến bên cạnh và nói: “Hễ ai đón nhận trẻ nhỏ này vì danh Thầy, tức là đón nhận Thầy: mà hễ ai đón nhận Thầy, tức là đón nhận Ðấng đã sai Thầy. Vì kẻ nào bé nhỏ nhất trong tất cả các con, đó là người cao trọng nhất”. Qua đó, Đức Giêsu mời gọi các môn đệ phải từ bỏ tính tham quyền cố vị. Tránh đi thái cực muốn được người khác ca tụng, hay thích ăn trên ngồi trước. Cần loại bỏ sự mong muốn được người khác phục vụ, rồi thích thống trị thiên hạ bằng quyền lực.
Ngày nay, hình ảnh và lối suy nghĩ của các môn đệ khi xưa vẫn thường diễn ra trong cuộc sống của chúng ta!
Thật vậy, vẫn còn đó những người kitô hữu có suy nghĩ và hành xử bè phái, cục bộ, không phục vụ vì Chúa và các linh hồn, nhưng là vì mình. Không quy về Đức Giêsu mà lôi kéo để mình có ảnh hưởng. Tính háo danh và ham địa vị, cũng như tính hay ghen tỵ cũng diễn ra thường xuyên.
Tất cả những thứ đó làm nguy hại đến tinh thần hiệp nhất và sứ mạng loan báo Tin Mừng rất lớn.
Vì thế, sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta:
Luôn sống kết hiệp với Thiên Chúa qua việc lắng nghe Lời Ngài dạy dỗ, bảo ban. Cần trở nên như trẻ nhỏ trong thái độ đơn sơ, chân thành và phục vụ cách vô vị lợi. Khiêm tốn và từ bỏ ham quyền, cố vị. Sẵn sàng cộng tác với hết mọi người để ra đi loan báo Tin Mừng cách trung thành.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết sống tinh thần của Chúa là trở nên như hạt lúa, chấp nhận chôn vùi đi để sinh nhiều bông hạt khác. Xin cho chúng con có được tinh thần của trẻ thơ, để không màng chi đến danh vọng, nhưng chỉ một lòng yêu mến Chúa và yêu người tha thiết. Amen.
THỨ BA
Hãy kiên trì để thi hành sứ vụ
Thánh Giêrônimô, linh mục, tiến sĩ Hội Thánh
(G 3, 1-3. 11-17. 20-23; Lc 9, 51-56)
Hành trình cứu độ của Đức Giêsu là một hành trình tiến về Giêrusalem để chịu chết trong chương trình cứu độ mà Thiên Chúa muốn. Trên hành trình ấy, Đức Giêsu đã tìm dịp thuận tiện để Thầy trò tâm tư về sứ mạng.
Thật vậy, một trong những điều mà Đức Giêsu quan tâm, đó là làm sao để cho các môn đệ có được tinh thần hy sinh, thái độ kiên trì trước nghịch cảnh và thử thách, khiêm tốn và tấm lòng bao dung, vị tha.
Tại sao vậy? Thưa! Người môn đệ của Đức Giêsu phải là người phản chiếu tình thương của Thầy cho anh chị em mình một cách trung thực, mà sự thật về Đức Giêsu là gì nếu không phải là một vị Thiên Chúa, Đấng nhân từ và hiền hậu, khiêm nhường và hay thương xót, Đấng đến để phục vụ thay cho được phục vụ, hy sinh và sẵn sàng chết cho người mình yêu…!
Vì thế, Đức Giêsu đã không chấp nhận thái độ trả thù của hai môn đệ Gioan và Giacôbê khi các ông xin Ngài cho phép khiến lửa từ trời xuống thiêu đốt dân làng Samaria vì họ không cho Thầy trò đi qua. Nhân đây Đức Giêsu đã dạy cho các ông bài học về sự bao dung, tha thứ và biết đón nhận thử thách vì lòng yêu mến Chúa. Đồng thời cũng dạy cho các ông bài học về sự kiên trì và trung thành.
Hôm nay, phụng vụ mừng kính thánh Giêrônimô. Thánh nhân là một con người đạo đức, thánh thiện. Sống hết mình vì Chúa và Giáo Hội. Tuy là con nhà giàu, có quyền thế và bản thân ngài dư điều kiện để làm việc tại triều đình tại Trêve. Nhưng ngài đã bị tác động mạnh bởi câu nói nổi tiếng của Đức Giêsu: “Hãy từ bỏ, hãy về bán hết của cải, phân chia cho kẻ nghèo khó, rồi đi theo Ta”. Vì thế, thánh nhân đã từ bỏ mọi sự sang trọng để sống một cuộc sống nghèo khó trong sa mạc Syrie. Sau này được chọn làm linh mục, ngài say mê Lời Chúa, đến nỗi dành gần như cả cuộc đời cho việc suy chiêm Lời Chúa. Câu nói nổi tiếng của ngài là: “Không biết Kinh thánh là không biết Chúa Kitô”.
Thánh nhân luôn xây dựng tư tưởng và hành động của mình dựa trên Lời Chúa. Nên những gì đi ngược lại với bản chất của Tin Mừng thì đều bị ngài phản đối quyết liệt. Vì thế, cái giá phải trả đối với ngài chính là sự thù hằn, ghen ghét của nhiều người vốn có lối sống gian dối, hình thức, bảo thủ và lộng quyền…
Vì lấy Lời Chúa làm nền tảng, nên dù trong hoàn cảnh nào, ngài cũng là người họa lại hình ảnh của Đức Kitô cách trung thực nhất.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy có thái độ cảm thông cho những nghi kỵ, khinh khi và cự tuyệt của người đời, ngay cả những sự vu khống, bắt bớ vì Đạo. Noi gương Đức Giêsu, sẵn sàng đón nhận đau khổ vì sứ vụ: “Phúc cho anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao” (Mt 5,11-12). Biết chấp nhận những sự giới hạn của con người, và ý thức rằng: chúng ta đi đến đâu cũng có một số người sống chết với ta, một số người quyết loại bỏ ta và số còn lại thì chẳng cần quan tâm đến chúng ta cũng như công việc của ta. Đây cũng chính là thân phận của Thầy Chí Thánh Giêsu đã trải qua.
Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn có tấm lòng bao dung như Chúa. Luôn hiểu và thông cảm cho những bất toàn của anh chị em mình. Đồng thời, xin cho chúng con biết đón nhận mọi thử thách, nghịch cảnh xảy đến trong đời và nơi sứ vụ vì lòng yêu mến Chúa. Amen.
THỨ TƯ
Từ bỏ mọi sự để theo Chúa trọn vẹn
Thánh Nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu
(G 9, 1-12. 14-16; Lc 9, 57-62)
“Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Lc 9, 58). Đó chính là thân phận và tinh thần của Đức Giêsu và cũng là thái độ của người môn đệ cần có. Lần giở lại lịch sử cứu độ, chúng ta thấy Chúa muốn chọn và gọi ai để ra đi thi hành sứ vụ, hẳn Người đều muốn kẻ được chọn và gọi phải có thái độ dứt khoát.
Khởi đi từ tổ phụ Abraham: Người gọi ông và truyền cho ông phải rời bỏ xứ sở để lên đường đến một nơi Người sẽ chỉ cho. Rồi Người chọn dân riêng là Israel, Thiên Chúa cũng truyền cho họ ngay lập tức phải rời bỏ Aicập và lên đường tiến về Đất Hứa. Tiếp theo là các môn đệ, Đức Giêsu luôn mời gọi các ông lập tức lên đường và để lại mọi sự sau lưng.
Bài Tin Mừng hôm nay tường thuật việc hai thanh niên xin đi theo Đức Giêsu, Ngài cũng mời gọi họ phải từ bỏ tất cả, kể cả những cái gắn liền với cuộc sống của họ như công việc hay tình cảm: hãy để kẻ chết chôn kẻ chết, phần ngươi hãy theo Ta… ai tra tay cầm cày mà còn ngoảnh lại nhìn đằng sau thì không xưng đáng với nước Thiên Chúa (x. Lc 9, 59-62).
Mỗi người chúng ta, ngày lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, Đức Giêsu cũng mời gọi chúng ta từ bỏ những gì không phù hợp với tư cách làm con Chúa và sứ mạng được trao. Thật vậy, nếu không từ bỏ, chúng ta sẽ bị vướng víu vào những điều phụ thuộc và quên đi công việc chính yếu. Đồng thời, theo Chúa mà còn quá nhiều lỉnh kỉnh thì hẳn khó có thể chu toàn và dễ rơi vào tình trạng dở dang, chẳng khác gì kẻ “bắt cá hai tay”.
Như vậy, chúng ta chỉ có thể an vui và hạnh phúc khi “là” môn đệ của Chúa thay vì “làm” môn đệ.
“Là môn đệ”, chúng ta trở nên giống Thầy. “Là môn đệ”, chúng ta từ bỏ như Thầy. “Là môn đệ”, chúng ta sống chết như Thầy… Nhưng “làm môn đệ”, chúng ta sẽ dễ bị rơi vào tình trạng thích thì làm, không thích thì thôi. Thuận thì dấn thân, khó thì lừng khừng. “Làm môn đệ”, chúng ta dễ bị có cảm tưởng như một công việc được hợp đồng, nên có lợi thì làm mà không có lợi thì hủy…, không khác gì một nghề kinh doanh thuần túy.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: một khi đã đi theo, làm môn đệ của Chúa thì phải từ bỏ mọi tham vọng, mọi ràng buộc, nhất là về của cải vật chất, danh vọng, địa vị và thỏa mãn cá nhân để tự do hiến thân mình cho Chúa, trọn vẹn thuộc về Chúa để làm công việc cho Chúa. Không có chuyện lừng khừng, do dự, tính toán. Sống phó thác và tin tưởng nơi Chúa trọn vẹn. Chấp nhận sự bấp bênh do con người, sự vật gây nên cho mình. Ngay cả mối liên hệ tình cảm là gia đình, nếu vì đó mà ảnh hưởng và có nguy cơ làm cho chúng ta xa Chúa, thì chúng ta buộc phải khước từ.
Có thế, chúng ta mới coi mọi người là anh chị em của mình, và mình phải có trách nhiệm lo lắng, giúp đỡ họ. Nếu không, chúng ta sẽ bị cám dỗ là chuyện đó có người khác lo, không phải chuyện của ta; chỉ muốn hay đáp ứng cho một số người mà ta ưa thích, số còn lại, chúng ta vô cảm vì họ không phải thuộc phe ta.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết sẵn sàng từ bỏ những quyến luyến của tình cảm, nếu điều này làm cho chúng con xa Chúa và phần rỗi của mình. Xin cho chúng con biết can đảm để tiếp bước theo Chúa trên con đường hoàn thiện. Amen.
THỨ NĂM
Mỗi người đều là nhà thừa sai
Các Thiên Thần Hộ Thủ
(G 19, 21-27; Lc 10, 1-12)
Loan báo Tin Mừng là sứ mạng của hết mọi người chứ không chỉ dành riêng cho các linh mục hay tu sĩ. Hình ảnh 72 môn đệ được Đức Giêsu sai đi rao giảng Tin Mừng cho thấy tính phổ quát của sứ vụ này.
Khi được sai đi loan báo Tin Mừng, người thừa sai cần hiểu rõ một nguyên tắc căn bản về sứ vụ tông đồ là: việc Tông đồ là của Chúa. Người tông đồ là người được sai đi để thi hành ý muốn của Thiên Chúa. Mục đích là làm sao cho muôn người được ơn cứu độ.
Tuy nhiên, không phải ai được sai đi cũng đều thành công trong sứ mạng, bởi lẽ người tông đồ sẽ bị những thử thách, khó khăn do ngoại cảnh gây nên, và đôi khi do chính sự yếu đuối của bản thân, nên dẫn đến tình trạng buồn chán, thất vọng và buông xuôi…
Vì vậy, bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã hướng dẫn các môn đệ về tư cách, phương pháp và tinh thần của người thừa sai, để các ông ra đi và hy vọng mang lại nhiều hoa trái.
Trước tiên: người môn đệ phải noi gương Thầy của mình đến để cứu độ bằng con đường thập giá. Vì thế, can đảm đón nhận những khó khăn, trở ngại do hiểu lầm, kỳ thị, ghen tức và hóa giải nó trong yêu thương là tinh thần của người môn đệ. Khó khăn này được ví như: “Chiên giữa bầy sói”.
Thứ đến: người môn đệ phải sống cuộc sống thanh thoát, nhẹ nhàng trong sự thiếu thốn. Không quá lo lắng về cơm áo gạo tiền cách thái quá. Không bị của cải, sự sung sướng và an thân níu kéo bước chân người thừa sai. Bởi vì của cải vật chất không đương nhiên đem lại hạnh phúc cho con người, trái lại nó luôn có nguy cơ tha hóa và nô lệ hóa con người. Của cải vật chất vốn dễ làm cho con người trở nên mù quáng đối với bản thân cũng như trong tương quan với tha nhân; và khi đã trở thành mù quáng, con người tôn của cải vật chất lên làm cứu cánh và tự giam mình trong vỏ ích kỷ. Cần cảm nghiệm được tình yêu của Chúa trên cuộc đời mình qua sự chăm sóc của Ngài, vì thợ thì đáng được thưởng công. Nên: không bị, không tiền, không mang hai áo… là tinh thần của người thừa sai.
Tiếp theo: hãy noi gương Đức Giêsu, Đấng đến để cho chiên được sống và sống dồi dào, còn bản thân Ngài thì lại hóa mình ra không đến nỗi trở nên của ăn cho người khác. Vì thế, người môn đệ cần nhạy bén để khước từ cám dỗ là tìm mọi cách để thay đổi điều kiện sống cho mình, nhằm an thân và sung túc, trong khi đó sứ vụ thì bỏ bê. Như thế, không cẩn thận sẽ dẫn đến tình trạng: “Đi hết nhà này đến nhà kia” mà sứ vụ thì không sinh hoa trái.
Mặt khác: hội nhập văn hóa là điều cần thiết để Lời Chúa thấm nhập vào truyền thống, văn hóa, được chuyển tải bằng những thứ ngôn ngữ của chính người bản địa. Những sinh hoạt hằng ngày như ăn uống, nghỉ ngơi cũng cần thích nghi. Được như thế, người thừa sai sẽ không bị cuốn theo bản năng để chỉ lo cho bản thân nhằm đáp ứng nhu cầu “hạ đẳng” của chính mình. Vì vậy: “Vào bất cứ thành nào mà người ta tiếp đón thì cứ ăn những gì mà người ta dọn cho anh em”.
Hơn nữa: truyền giáo phải đi đôi với bác ái. Nếu lời giảng dạy là để giới thiệu Đức Giêsu như một vị Thiên Chúa nhân từ, yêu thương, đứng về phía người nghèo, áp bức, bất công để giải thoát con người cách toàn diện, thì việc bác ái chính là một chứng minh cụ thể về tình thương, sự liên đới do lòng thương xót của Thiên Chúa cho con người. Vì thế, người môn đệ cần: an ủi kẻ âu lo, nâng đỡ kẻ yếu đuối… để làm chứng cho: “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần”.
Cuối cùng: nhà truyền giáo phải là người thấm thía sự bình an của Chúa. Nếu không có bình an thì không thể trao ban cho người khác bình an được. Cuộc đời sứ vụ của người thừa sai mà thiếu đi yếu tố này, thì hẳn chính bản thân cũng bất hạnh, và như thế, chỉ còn gieo rắc sự thất vọng mà thôi. Tuy nhiên, bình an là một ơn ban của Thiên Chúa, kèm theo sự cộng tác của con người. Vì vậy: “Nếu ở đấy có con cái sự bình an, thì sự bình an của các con sẽ đến trên người ấy. Bằng không, sự bình an lại trở về với các con”.
Lạy Chúa, lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Xin Chúa sai những người thợ lành nghề để ra đi thu lúa về cho Chúa. Xin Chúa cũng ban cho chính chúng con, là những người cũng được mời gọi tham gia vào sứ mạng truyền giáo ngày lãnh Bí tích Rửa Tội, luôn biết làm gương sáng, chu toàn bổn phận và trung thành với đời sống bác ái yêu thương. Amen.
THỨ SÁU
Sám hối để được đón nhận Tin Mừng
(G 38, 1. 12-21; 39, 33-35; Lc 10, 13-16)
Càng văn minh, tiến bộ, thì càng làm cho người ta được sung túc. Chuyện này là lẽ thường tình, và sống trong một xã hội thì sự phát triển của nó là điều mà ai cũng mong muốn. Tuy nhiên, mặt trái của vấn đề là ở chỗ: nó dễ làm cho tâm thức của con người rơi vào tình trạng bình thường hóa, tương đối hóa mọi chuyện, nhất là vấn đề đạo đức. Vì thế, con người dễ bị sa vào những vòng vây của tội lỗi và tệ nạn… khiến nền tảng luân lý bị đe dọa và cuộc sống trác táng là điều dễ dàng xảy đến.
Hình ảnh này đã có từ trước thời Đức Giêsu như các thành: Sôđôma, Gômôra, Babylon, Tyrô, Sidon… Sang đến thời của Ngài, diễn biến này cũng không thiếu, cụ thể là các thành: Bethsaida, Corozain, Caphanaum… Họ đã chối bỏ sự hiện diện của Thiên Chúa, chối bỏ những chứng từ đức tin và tôn thờ ngẫu tượng. Trai lỳ trong tội và đi tìm sự thỏa mãn xác thịt để bù lấp khoảng trống trong tâm hồn. Nhưng tiếc thay, họ càng đi tìm thì lại càng mất. Bởi vì họ đã không gặp được Thiên Chúa ở trong chốn ăn chơi, xa đọa, mà chỉ gặp toàn những đối tượng, phương tiện làm cho mình xa Chúa và băng hoại đời sống đạo đức mà thôi.
Sự lãnh đạm, chai lỳ của dân các thành Bethsaida, Corozain, Caphanaum, cũng chính là sự chai lỳ và lãnh đạm của dân Chúa ngày nay là chúng ta. Hẳn mỗi người chúng ta đều thấy tình thương của Thiên Chúa trong thế giới và nơi cuộc sống, thế mà chúng ta đã không trở về với phẩm giá đích thực của mình là con cái Chúa, con cái Sự Sáng, nhưng vẫn sống thờ ơ, lãnh đạm và vui hưởng những thú vui tội lỗi…
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy bám vào Thiên Chúa như là cứu cánh của mình. Chỉ có Thiên Chúa và trong Ngài, chúng ta mới tìm được niềm vui và hạnh phúc đích thực. Loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống, con người không chỉ rơi vào sa đoạ mà còn cắt đứt mối tương quan với tha nhân.
Thật vậy, chỉ có lắng nghe Lời Thiên Chúa và thực hành, thì chúng ta mới trở nên người hoàn thiện, và xã hội, gia đình mới trở nên tốt mà thôi.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết yêu mến Lời Chúa và hân hoan thi hành, để Lời Chúa hướng dẫn chúng con biết làm điều thiện, tránh điều dữ. Có thế, Giáo Hội, xã hội và gia đình mới trở nên lành mạnh và chúng con mới có hy vọng được cứu độ. Amen.
THỨ BẨY
Ơn Chúa phù trợ kẻ bé mọn
Thánh Phanxicô thành Assisi
(G 42, 1-3. 5-6. 12-16; Lc 10, 17-24)
Hôm nay, bài Tin Mừng trình thuật việc các môn đệ tập kết quanh Đức Giêsu để báo cáo thành tích mà các ông đã đạt được trong lần đi truyền giáo vừa qua. Các ông khoe với Chúa: “Thưa Thầy, nhân danh Thầy thì cả ma quỷ cũng vâng phục chúng con”. Tuy nhiên, Đức Giêsu thay vì khen ngợi các ông, Ngài lại tạ ơn Thiên Chúa vì đã làm những điều kỳ diệu nơi các ông, mặc dù bản thân và khả năng các ông không xứng đáng. Nhân đây, Đức Giêsu cũng mặc khải và hướng các ông về niềm vui siêu nhiên. Vì thế, sự chiến thắng không nằm ở chỗ khuất phục được thiên nhiên, bệnh tật, ma quỷ, mà là tên các ông đã được nghi dấu trên trời.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi chúng ta, cần phải ý thức rằng: sứ mạng truyền giáo không chỉ dành riêng cho ai, mà cho hết mọi người. Qua Bí tích Rửa Tội và Thêm Sức, sứ mạng đó thuộc về chúng ta, và chúng ta phải có bổn phận thi hành.
Khi thành công đến, chúng ta cần cảm nghiệm niềm vui siêu nhiên hơn là tự nhiên. Được cứu độ hơn là chiến thắng bề ngoài, vì giá trị tinh thần thì cao trọng và có sức biến đổi chứ không phải hình thức hay số lượng bên ngoài. Để đạt được điều đó, chúng ta luôn sống trong tâm tình đơn sơ, khiêm nhường, tín thác của kẻ bé mọn.
Hôm nay, phụng vụ mừng kính thánh Phanxicô thành Assisi, ngài là đấng sáng lập dòng “Anh Em Hèn Mọn” (dòng Phanxicô). Ngài nổi tiếng là một con người đơn sơ, khiêm nhường và nghèo khó. Yêu mến thiên nhiên, vì coi đây như là quà tặng của Thiên Chúa cho con người. Ngài là một vị thánh nghèo của tình yêu, đời sống của ngài luôn toát lên sự trung thực và vui tươi. Thánh nhân luôn muốn họa lại hình ảnh của một Đức Giêsu Nagiarét khó nghèo, một vị vua tình yêu cao vời, nhưng lại sống chân thực không hoa mỹ, không hời hợt, không lòe loẹt. Nếu cuộc đời của Đức Giêsu bị nhiều người cho là “điên” là “khùng” chỉ vì Ngài yêu Chúa Cha đến triệt để và yêu con người đến tha thiết, thì cuộc đời của thánh Phanxicô Assisi cũng là một cuộc đời “điên” như Thầy Chí Thánh. Vì thế, ngài đã từng ví mình như: “Một người điên kiểu mới giữa thế gian”.
Thánh Phanxicô “điên” vì Ngài nhận ra tình yêu của Thiên Chúa khắp nơi: nơi thiên nhiên, thụ tạo; nơi chim trời cá biển; nơi núi đồi và biển khơi; nơi cây cối, sông ngòi; nơi sự sống, sự chết… Tuy nhiên, tình yêu đó đều xoay vần chung quanh Đức Giêsu là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử mọi loài thọ sinh (x. Col 1, 15-17). Vì vậy, trong Đức Kitô, mọi sự, mọi vật, mọi loài, kể cả con người đều hòa quyện nơi Tình Yêu của Chúa, và như thế, tất cả đều trở nên bài ca tình yêu muôn thuở, cảm tạ tri ân Thiên Chúa Ba Ngôi.
Lạy Chúa, trong hành trình loan báo Tin Mừng, xin Chúa cho chúng con biết khiêm tốn, nghèo khó và tín thác nơi Chúa trọn vẹn. Xin cho chúng con được cảm nghiệm tình yêu Thiên Chúa nơi vạn vật và cách sâu đậm trong tâm hồn chúng con, để tâm hồn chúng con được bình an và hạnh phúc. Amen.