SUY NIỆM CHÚA NHẬT 29 THƯỜNG NIÊN – A
Lời Chúa: Is. 45, 1.4-6; 1Tx. 1,1-5b; Mt. 22, 15-21
MỤC LỤC
- Trả về Thiên Chúa.
- Chúa Nhật 29 Thường Niên.
- Thiên Chúa và Xê-da.
- Chúa Nhật 29 Thường Niên.
- Trả về Chúa những gì thuộc về Chúa.
- Của Xêda hay của Thiên Chúa.
- Công bằng.
- Chúa Nhật 29 Thường Niên.
- Chân tường.
- Trả Thiên Chúa điều thuộc Thiên Chúa.
- Trả Thiên Chúa điều thuộc Thiên Chúa.
- Thiên Chúa và Caesar
- Chúa Nhật 29 Thường Niên.
- Chúa Nhật 29 Thường Niên.
- Yêu nên ghen! – Anmai, CSsR.
- Của Thiên Chúa, trả cho Thiên Chúa.
- Thiên Chúa.
- Của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa.
- Nộp thuế.
- Trên đầu viễn vọng kính.
- Vấn nạn quyền bính dân sự.
- Nộp thuế hay không nộp thuế.
- Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà.
- Của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa.
- Của Cê-da trả về cho Cê-da.
- Trả nợ cuộc đời
- Ác ngầm..
- Của César
- Suy niệm của ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.
- Mọi sự là của Chúa, hãy trả Thiên Chúa.
- Độc lập tinh thần và phục vụ chính trị.
- Những đòi hỏi của Tin Mừng.
- Mầu nhiệm tuyển chọn.
- Trả cách sòng phẳng.
- Nên nộp thuế chăng?.
- Song hành.
- Cái gì của Cêsar hãy trả cho….
- Suy niệm của Lm Nguyễn Hữu An.
- Chúa Nhật 29 Thường Niên.
- Suy niệm của Charles E. Miller.
- Xin Thầy cho biết ý kiến.
- Tôn giáo và chính trị
- Hình ai đây?.
- César
- Thiên Chúa và nhà nước.
- Trả về Thiên Chúa.
- Trả về.
- Sở hữu – Trầm Thiên Thu.
- Trả về.
- Sống có trách nhiệm..
- Kurios Christos!
- Nên giống Chúa.
- Tôi là công dân nước nào?.
- Cái gì của Cêsarê thì trả cho Cêsarê….
- Bổn phận đối với Chúa và xã hội
- Trả cho Xêda và trả cho Thiên Chúa.
- Xin Thầy cho biết ý kiến.
- Chúa Nhật 29 Thường Niên.
- Nộp thuế cho Xêda.
- Của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa.
- Chú giải của Noel Quesson.
- Chú giải của Fiches Dominicales.
- Nộp thuế cho hoàng đế.
- ”Tốt đời đẹp đạo” – Lm. Đan Vinh.
- Phải trả về cho ai?.
********************************
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
“Có được phép nộp thuế cho Xê-da không?”
Câu hỏi sắc như một con dao hai lưỡi. Nếu Đức Giêsu bảo phải nộp, ắt Ngài chẳng yêu nước yêu dân. Thứ thuế thân nộp cho đế quốc Rôma thật là điều ô nhục. Nhưng nếu Ngài bảo đừng nộp, hẳn Ngài sẽ bị tố cáo.
“Cho tôi xem đồng tiền dùng để đóng thuế.” Khi đưa cho Đức Giêsu đồng bạc có hình Xê-da, những kẻ giương bẫy thú nhận họ có dùng thứ tiền này, và như thế họ đã mặc nhiên nhìn nhận quyền của Xê-da. Khi biết hình và dòng chữ trên đồng bạc là của Xê-da, Đức Giêsu đã nói một câu không dễ hiểu: “Vậy hãy trả lại cho Xê-da những gì của Xê-da”. Ngài nhìn nhận một sự độc lập nào đó của ông. Ông có quyền điều hành đế quốc của ông như ông muốn. Đối với người Do Thái sử dụng đồng bạc của Xê-da, Đức Giêsu không hề ngăn cản họ nộp thuế cho ông ấy, như sau này có kẻ tố cáo (x. Lc 23,2). Nhưng Ngài cũng không buộc mọi người phải nột thuế cho Xê-da, vì có người coi việc nộp thuế thân cho hoàng đế Rô-ma là phủ nhận quyền tối thượng của Thiên Chúa.
Chẳng những Đức Giêsu không bị mắc bẫy mà Ngài còn nhân cơ hội đi lên một bình diện cao hơn: “Hãy trả lại cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa.” Đây mới thật là vấn đề Ngài hết sức quan tâm. Chúng ta tự hỏi: có cái gì ngoài Thiên Chúa mà lại không phải là thụ tạo của Ngài?
Phải trả lại cho Xê-da đồng tiền mang hình và tên ông, nhưng phải trả lại cho Thiên Chúa những gì mang hình Ngài, những gì đã được ghi khắc tên Ngài trên đó. Hình ảnh nổi bật nhất là con người (x. St 1,26). Toàn bộ con người mang dấu ấn của Thiên Chúa. Không ai được khinh miệt phụ nữ, thai nhi hay người già. Không ai được làm hoen ố sự trong sáng của lương tâm. Xúc phạm con người là phạm đến nơi sâu thẳm của Thiên Chúa.
Mọi quyền bính đạo đời đều nhằm phục vụ con người, đều nhằm làm sáng lên hình ảnh Thiên Chúa nơi nó. Trả con người lại cho Thiên Chúa là dâng nó cho Ngài, là nhìn nhận chủ quyền của Ngài trên đời ta. Cả vũ trụ cũng tiềm tàng dấu ấn của Thiên Chúa: đất, rừng, sông biển, không khí, tài nguyên và muôn sinh vật. Hãy trả lại cho Thiên Chúa vũ trụ trong lành, hiền hậu, nghĩa là trả lại cho con người món quà Ngài đã tặng.
Mọi quyền bính đều bắt nguồn từ Thiên Chúa (x.Ga 19,11). Chúng có giá trị và sự tự lập, nếu phù hợp với ý Ngài, cũng là phù hợp với quyền lợi chính đáng của con người.
– Chúng ta có chiếm đoạt điều gì của Thiên Chúa không?
– Hình ảnh của Thiên Chúa nơi tôi rõ hay mờ nhạt?
– Có lớp bụi nào che khuất khuôn mặt Chúa nơi tôi?
Ước gì tôi đọc được tên Thiên Chúa, tên Đức Giêsu trên những người tôi gặp, những biến cố tôi sống mỗi ngày.
Gợi Ý Chia Sẻ
– Bạn nghĩ gì về những điểm giống nhau và khác nhau giữa quyền của quốc gia và quyền của Hội Thánh? Theo bạn, đâu là giới hạn của những quyền này?
– Hình ảnh Thiên Chúa nơi con người nhiều khi đã bị che lấp và những hình ảnh khác đã chiếm chỗ. Theo bạn, đâu là những hình ảnh khác đang in dấu trên con người hôm nay?
Cầu Nguyện
Lạy Cha,
Có những người bạn trẻ thích xăm hình lên người, hay muốn ăn mặc, đi đứng theo kiểu một ngôi sao thể thao hay điện ảnh. Họ vui khi thấy mình giống hệt những thần tượng mà mình yêu thích.
Xin Cha giúp chúng con biết hãnh diện vì mang nơi mình hình ảnh cao quý của Cha và sống theo phong cách của Cha:
– Cha quảng đại mở ra để chia sẻ hạnh phúc thần linh,
– Cha khiêm tốn tôn trọng tự do của con người,
– Cha yêu thương đến nỗi dám trao hiến Người Con Một chí ái,
– Cha bao dung tha thứ trước những tâm hồn hoán cải,
– Cha luôn tận tụy làm việc để nâng đỡ cả thế giới.
Ước gì người ta biết Cha trên trời, khi gặp chúng con ở dưới đất.
Ước gì người ta đọc thấy tên Cha trong tim của chúng con, và nhận ra chúng con là con Cha. Amen.
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)
Suy Niệm
Khi Thượng Hội Đồng điệu Đức Giêsu ra trước mặt Philatô, họ tố cáo Ngài về tội sách động dân chúng nổi loạn, tội ngăn cản dân nộp thuế, và tội xưng mình là vua (Lc 23,1-2.5.14). Philatô chẳng bao giờ tin vào những lời tố cáo ấy (Lc 23,4.14.22). Đối với ông, Đức Giêsu chẳng hề phạm tội chính trị. Dù Đức Giêsu có nói về Nước của Ngài, nhưng Nước ấy lại không thuộc về thế giới này (Ga 18,36). Cũng chẳng bao giờ Ngài nhận mình là vua một cách minh nhiên (Mc 15,2; Mt 27,11; Lc 23,3; Ga 18,37).
Tin Mừng hôm nay cho thấy Ngài không chống lại chuyện nộp thuế. Đế quốc Rôma cai trị xứ Giuđê từ năm 63 trước công nguyên. Mọi người Do-thái trưởng thành phải nộp thuế thân cho họ. Mỗi năm nộp một đồng tiền denarius, bằng một ngày lương. Có một số người Do-thái phản đối mạnh mẽ chuyện nộp thuế, vì đối với họ nộp thuế là tôn thờ các hoàng đế Rôma.
Nhóm Pharisêu cũng không ưng chuyện nộp thuế, nhưng họ phản ứng nhẹ nhàng hơn, chứ không dùng bạo động. Còn nhóm Hêrôđê vì thân với Rôma nên ủng hộ chuyện này. Vậy mà hôm nay hai nhóm Pharisêu và Hêrôđê lại hợp lực để gài bẫy Đức Giêsu về chuyện nộp thuế. Họ khéo léo nịnh Đức Giêsu là người nói thẳng, nói thật, để Ngài bộc trực mà trả lời câu hỏi của họ (Mt 22,16): “Có được phép nộp thuế cho Xê-da không?” Đây là câu hỏi nóng vào thời đó, và cũng khá nham hiểm vì đưa Ngài vào thế kẹt.
Nếu trả lời được phép, thì Đức Giêsu là người chạy theo Rôma. Nếu trả lời không được phép, thì Ngài là người chống đối đế quốc. Đức Giêsu biết họ đang thử mình, nhưng Ngài thoát bẫy ra sao? Ngài xin họ đưa cho Ngài một đồng tiền để nộp thuế. Họ đem đến cho Ngài một đồng denarius, trên đó có khắc hình và danh hiệu. Khi biết đó là hình và danh hiệu của Xê-da, hoàng đế Rôma, Đức Giêsu nói ngay một câu làm họ kinh ngạc: “Của Xê-da trả lại cho Xê-da, của Thiên Chúa trả lại cho Thiên Chúa.”
Câu trả lời này đã làm Đức Giêsu thoát khỏi cái bẫy họ giăng. Ngài không trả lời được phép hay không được phép, nhưng khi nói “của Xê-da trả lại cho Xê-da” Ngài có vẻ không phản đối chuyện nộp thuế cho Rôma, và không coi đó là một tội phạm thượng. Ngài còn đi xa hơn khi nói: “của Thiên Chúa trả lại cho Thiên Chúa.”
Cầu nguyện
Lời của Đức Giêsu đã được đưa vào sách Giáo lý Công giáo (số 2242). “Của Xê-da trả lại cho Xê-da”: mọi quyền hành hợp pháp đều đến từ Thiên Chúa, nên ta phải tôn trọng, phục tùng và cộng tác (Rm 13,1-7; 1 Pr 2,13-17). Chỉ khi quyền hành đó bị lạm dụng, đi ngược với đạo lý luân thường, ngược với Lời Chúa dạy, với những đòi hỏi của lương tâm ngay thẳng, chúng ta mới phải từ chối tuân theo.
“Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm” (Cv 5,29). Chúng ta đang sống trong một thế giới cho phép làm nhiều điều, như phá thai, ly dị, án tử hình, an tử, hôn nhân đồng tính… nhưng chúng ta không buộc phải theo.
“Của Thiên Chúa trả lại cho Thiên Chúa.” Nói cho cùng, không có gì lại không phải là của Thiên Chúa. Mọi người, dù là ai, cũng đều mang hình ảnh của Thiên Chúa (St 1,27). Mọi sự tôi có và mọi sự trên mặt đất là của Đấng Tạo thành. Con người không được quyền lấy cắp của Ngài.
Bổn phận của chúng ta là trả lại cho Thiên Chúa điều thuộc về Ngài, là chỉnh lại những hình ảnh của Ngài đã bị méo mó, dập nát. là đưa mọi thụ tạo trên trái đất về với Ngài là nguồn cội. Mong mọi người đều mang hình và danh hiệu Thiên Chúa trong tim.
CẦU NGUYỆN
Giữa một thế giới mê đắm bạc tiền, xin được sống nhẹ nhàng thanh thoát. Giữa một thế giới lọc lừa dối trá, xin được sống chân thật đơn sơ. Giữa một thế giới trụy lạc đam mê, xin được sống hồn nhiên thanh khiết. Giữa một thế giới thù hận dửng dưng, xin được chia sẻ yêu thương và hy vọng.
Lạy Chúa Giêsu mến thương, xin dạy chúng con biết cách làm chứng cho Chúa giữa cuộc đời. Xin giúp chúng con tìm ra những cách thức mới để người ta tin và yêu Chúa.
Ước gì hơn hai tỉ Kitô hữu giữ được vị mặn của muối và sức biến đổi của men, để chúng con làm cho thế giới này mặn mà tình người, và làm cho trần gian trở thành tấm bánh thơm ngon. Chỉ mong Thiên Chúa Cha được tôn vinh qua những việc tốt đẹp chúng con làm cho những người bé nhỏ.
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)
Đọc lịch sử Giáo Hội, chúng ta thấy có những giai đoạn, thần quyền và thế quyền hợp làm một. Điều này có nghĩa, Giáo Hội vừa có uy quyền đối với các tín hữu, vừa có quyền hành mang tính quyết định trong xã hội. Tình trạng này đem lại lợi ích không nhỏ cho Giáo Hội, nhưng cũng làm cho Giáo Hội mất đi tinh thần của Chúa Giêsu, Đấng Sáng lập Giáo Hội. Mặt khác, đã là quyền hành chính trị thì bao giờ cũng có thủ đoạn âm mưu, bao giờ cũng có kẻ ủng hộ, người chống đối. Chính vì vậy, nếu Giáo Hội của Chúa Giêsu tham gia vào quyền lực chính trị, thì sẽ có nhiều kẻ thù. Lịch sử đã chứng minh điều ấy. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu phân biệt dứt khoát: Của Xê-da thì trả cho Xê-da, và của Thiên Chúa thì trả cho Thiên Chúa. Cần phân biệt rõ ràng thần quyền với thế quyền, để Giáo Hội mang gương mặt của Chúa Giêsu, Đấng là Thiên Chúa cao sang đã trở nên khó nghèo vì chúng ta, đồng thời giúp Giáo Hội thực thi sứ mạng của mình, là tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu để loan báo Tin Mừng cứu độ.
Thiên Chúa là Chủ của lịch sử. Ngài vừa sáng tạo vũ trụ thiên nhiên và con người, vừa nâng đỡ điều khiển để vũ trụ tồn tại và xoay vần trong trật tự. Vua Ki-rô được coi như vị cứu tinh Chúa gửi đến để giải phóng người Do Thái khỏi ách lưu đày bên Babilon. Ngôn sứ Isaia (Bài đọc I), đã diễn tả việc Chúa chọn vua Ki-rô rất chi tiết: Ngài cầm lấy tay ông, cho ông một tước hiệu và ban cho ông sức mạnh với quyền năng. Với việc tuyển chọn vua Ki-rô, Thiên Chúa tỏ ra Ngài là Cha của gia đình nhân loại. Mọi quyền hành đều từ Ngài mà đến và phải phục vụ lợi ích của con người. Những ai nắm quyền hành trong tay mà đi ngược lại với ý muốn của Thượng Đế và đàn áp bóc lột dân nghèo, thì quyền lực của họ không vững bền. Họ sẽ phải diệt vong. Sau này, Đức Giêsu tuyên bố với Philatô: Ông chẳng có quyền gì trên tôi nếu không từ ơn trên ban cho.
Xê-da vừa là tượng trưng cho quyền bính thế gian, vừa diễn tả ảnh hưởng của vật chất trần thế. Cũng như những quyền lực trần gian có những lúc huy hoàng hùng mạnh, nhưng rồi cũng đến lúc phải suy thoái tiêu tan, vật chất trên đời có thể giúp con người làm được mọi sự, nhưng cũng có thể là chiếc bẫy làm cho con người gục ngã. Sống ở đời, cần phải biết phân biệt Xê-da với Thiên Chúa, để có một mối tương quan quân bình trong cách sử dụng và tích luỹ của cải.
Người tin Chúa không bị bứng khỏi thế gian, nhưng sống giữa thế gian. Họ sống ở đời này nhưng hướng về đời sau. Họ được mời gọi chung tay xây dựng cuộc sống xã hội nhân ái yêu thương, nhưng quê hương vĩnh cửu của họ lại ở trên trời. Chính vì vậy, người tín hữu phải biết phân biệt điều gì thuộc về Thiên Chúa và điều gì thuộc về thế gian. Họ không được phép để cho thế gian lôi kéo và nhấn chìm trong những ràng buộc đam mê đến nỗi họ đánh mất hạnh phúc Nước Trời. Trong giáo huấn của mình, Chúa Giêsu luôn đòi buộc những ai muốn theo Chúa phải chọn lựa dứt khoát, để xứng đáng trở thành môn đệ của Người. Hình ảnh người cầm cày còn ngoái lại đàng sau diễn tả những người bắt cá hai tay hay đức tin nửa mùa. Cũng vậy, những ai đã tin vào Chúa còn cậy dựa và những thế lực thần thiêng khác, thì không phải là môn đệ đích thực. Ngỏ lời với giáo dân cộng đoàn Thê-sa-nô-li-ca, Thánh Phaolô khen ngợi lòng bác ái của họ. Một cộng đoàn được thúc đẩy bởi Đức tin, Đức cậy và Đức mến, dồi dào sức sống và nhiệt thành truyền giáo. Tình yêu thương và liên đới giữa cộng đoàn tín hữu đã làm toả lan sự thánh thiện và diễn tả hình ảnh sống động về Đức Giêsu, Đấng cứu độ trần gian. Tình liên đới và quảng đại của cộng đoàn Thê-sa-nô-li-ca, là mẫu mực cho các cộng đoàn đức tin của chúng ta hôm nay.
Hôm nay là Chúa nhật thứ ba của tháng Mười, là ngày Truyền giáo. Truyền giáo là bản chất của Giáo Hội. Mỗi người tín hữu, nhờ Bí tích Rửa tội, đều có bổn phận truyền giáo, tuỳ theo khả năng, trình độ và địa vị của mình. Lệnh truyền của Chúa Giêsu phục sinh cho các môn đệ hai ngàn năm qua vẫn mang tính thời sự cấp bách. Cùng với lời cầu nguyện, mỗi chúng ta hãy làm toả lan sự thánh thiện qua đời sống hằng ngày của mình, để trình bày hình ảnh của Giáo Hội và hình ảnh của Đấng Cứu thế nơi trần gian. Noi gương Chúa Giêsu không mệt mỏi đi đến với mọi người, đem cho họ sự chữa lành và an ủi phần xác cũng như phần hồn, mỗi tín hữu cần ra khỏi chính mình để đến với tha nhân, khởi đầu từ những người thân thuộc lân cận, rồi đến với những người không cùng niềm tin hay bất đồng quan điểm đang sống xung quanh chúng ta.
(Suy niệm và chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)
Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXIX Thường Niên năm A nêu lên một vấn đề thật tinh tế: mối tương quan giữa công dân trần thế và công dân Nước Trời.
Is 45: 1, 4-6
Bài Đọc I trích từ sứ điệp an ủi của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị cho những người lưu đày ở Ba-by-lon, trong đó ông thoáng thấy vua Ba-tư là Ky-rô là lợi khí mà Thiên Chúa chọn để giải thoát dân Ngài khỏi cảnh đời nô lệ tại Ba-by-lon.
1Th 1: 1-5
Bài Đọc II trích từ thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca. Đây là bản văn Tân Ước đầu tiên làm chứng về sức sống mãnh liệt của Hội Thánh tiên khởi, trong đó thánh nhân ca ngợi đức tin, đức mến và đức cậy của họ.
Mt 22: 15-21
Trong cuộc tranh luận với nhóm Pha-ri-sêu và nhóm Xa-đu-xê-ô, Đức Giêsu trả lời một vấn đề nan giải giữa nghĩa vụ của người công dân trần thế và nghĩa vụ của người công dân Nước Trời khi công bố rằng “Của Xê-da trả về Xê-da, của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa”.
BÀI ĐỌC I (Is 45: 1, 4-6)
Bản văn này là một trong nhiều sứ điệp an ủi mà vị ngôn sứ biệt danh I-sai-a đệ nhị ngỏ lời với những người lưu đày ở Ba-by-lon. Vị ngôn sứ nầy, trên mười năm, từ 550 đến 539 trước Công Nguyên, đã tìm cách an ủi đồng bào của mình, họ nhục chí trước cuộc lưu đày tưởng chừng như vô tận nầy. Ông hứa với họ rằng Thiên Chúa sắp ra tay giải thoát dân Ngài khỏi cảnh đời nô lệ tại Ba-by-lon. Niềm hy vọng của ông nhắm đến vua Ky-rô, nước Ba-tư.
Vào năm 553 trước Công Nguyên, vua Ky-rô đã cất đi quyền thống trị của vua Mê-đi. Sau khi đã thống nhất quyền lực Mê-đi vào Ba-tư, ông xuất quân chinh phục miền Tiểu Á. Vào năm 539, ông tiến quân vào Ba-by-lon, chấm dứt thời kỳ thống trị của Đế Quốc Ba-by-lon. Ngay cả trước khi những cuộc chiến thắng ngoạn mục của vua Ky-rô vang dội khắp nơi, vị ngôn sứ lưu đày này đã loan báo rằng ý định của Thiên Chúa là sử dụng vua Ky-rô để giải thoát dân Ngài khỏi cảnh đời tù đày tại Ba-by-lon.
- Sấm ngôn của vị ngôn sứ.
Sấm ngôn này thật sự gây hoang mang. Phải chăng Đức Chúa nhờ đến một vị vua ngoại giáo để giải thoát dân Ít-ra-en? Vị ngôn sứ xua đi những thành kiến của những người lưu đày bằng cách khẳng định đó là cách hành xử của Thiên Chúa. Ông mạnh dạn quả quyết rằng vua Ky-rô đã được Đức Chúa tuyển chọn và thánh hiến để trở nên khí cụ trung thành của Ngài.
Phần đầu sấm ngôn được trình bày như một bản văn phong vương, đồng hóa vua Ky-rô với một vị vua của dân Ít-ra-en: Đức Chúa thánh hiến vị vua mà Ngài đã tuyển chọn, và “cầm lấy tay phải nó”, nghĩa là trợ giúp và bảo vệ vua, đảm bảo rằng vua sẽ chiến thắng mọi quân thù. Tất cả những diễn ngữ trong sấm ngôn nầy được gặp thấy không chỉ trong các bản văn Kinh Thánh nhưng cũng trong các bản văn miền Cận Đông. Người ta có thể đọc những dòng chữ được khắc trên một hình trụ: “Marduk (vị thần Ba-by-lon) tìm kiếm một lãnh tụ chí công vô tư mà thần có thể cầm tay. Đó là Ky-rô mà Ngài công bố là Chúa Tể muôn dân. Ngài đặt dưới chân vua xứ sở Guti, thúc dục ông xuất chinh chống lại Ba-by-lon, đi bên cạnh ông như một người bạn”.
Trong sấm ngôn của mình, vị ngôn sứ xác định rằng Đức Chúa hứa với vua Ky-rô một cuộc chiến thắng như thế nào khi gợi lên: “Ta sẽ tước khí giới của các vua, mở toang cửa thành trước mặt nó, khiến các cổng không còn đóng kín” (Is 45: 1). Cốt là các cổng thành danh tiếng bằng đồng của Ba-by-lon. Quả thật, các cổng thành mở toang đón tiếp vua Ky-rô mà ông không phải phí sức đánh chiếm. Ba-by-lon bị sụp đổ mà không cần phải giao chiến.
- Đức Chúa, Chúa Tể của mọi biến cố.
Chính vì dân Ngài mà Đức Chúa dẫn đưa vua Ky-rô từ chiến thắng nầy đến chiến thắng khác: “Ta đã cầm lấy tay phải nó, để bắt các dân tộc suy phục nó” (45: 1) Thiên Chúa “gọi đích danh vua”, đây là diễn ngữ Kinh Thánh muốn nói rằng Thiên Chúa đã trao phó cho vua một sứ mạng. Ngài ban cho vua một tước hiệu: “người được xức dầu” (45: 1) dù vị vua ngoại giáo nầy không biết Ngài.
Quả thật, vua Ky-rô hành xử như một vị vua được Đức Chúa tuyển chọn. Vua tỏ ra mình hào hiệp: khi chiến thắng vua Mê-đi là Astyage, ông để cho vua nầy được sống và khi chiến thắng vua Ba-by-lon là Crésus, ông cũng hành xử như thế. Ông không gây bất kỳ thiệt hại nào đối với thành Ba-by-lon, bày tỏ lòng tôn kính tôn giáo của kẻ bại trận và nhất là giải thoát những dân tộc bị lưu đày tại Ba-by-lon trong số đó có dân Do thái. Dù thế nào, vị ngôn sứ quả quyết chính Đức Chúa là Chúa Tể của mọi quyền bính chính trị, chính Ngài ban quyền lực, chính Ngài hướng dẫn mọi biến cố: “Ta là Đức Chúa, không còn chúa nào khác; chẳng có ai là Thiên Chúa, ngoại trừ Ta” (45: 5).
Sứ điệp của vị ngôn sứ thật rõ ràng. Đức Chúa không chỉ là Thiên Chúa của dân Do thái mà còn là Thiên Chúa của muôn dân muôn nước. Ngài không lệ thuộc vào một quyền lực trần thế nào, trái lại mọi quyền bính đều xuất phát từ Ngài. Dù ý thức hay không, họ đều là khí cụ trong tay Ngài để thi hành chương trình cứu độ của Ngài. Đó cũng là câu trả lời của Đức Giêsu với tổng trấn Rô-ma là Phi-la-tô: “Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài” (Ga 19: 11.
BÀI ĐỌC II (1Tx 1: 1-5)
Chúng ta bắt đầu đọc thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca. Thánh nhân viết thư nầy từ Cô-rin-tô vào năm 51. Đây là bức thư đầu tiên của thánh nhân và đồng thời cũng là bản văn Tân Ước cổ kính nhất. Được viết chưa tới hai mươi năm sau cái chết của Đức Giêsu, bức thư nầy thật sự là một chứng liệu quý báu vén mở cuộc sống đức tin của Giáo Hội tiên khởi.
- Lời chứng:
Phần đầu của bức thư cung cấp một lời chứng đáng chú ý về đức tin của Giáo Hội tiên khởi. Trước hết, đây là một trong những bức thư liên kết thường hằng nhất danh xưng “Thiên Chúa” với tước vị “Cha”: “Thiên Chúa là Cha” và “Thiên Chúa là Cha chúng ta”; tiếp đó, danh xưng “Chúa Giêsu Ki-tô”, nghĩa là Đức Giêsu là Đấng Mê-si-a và là Chúa, một tước hiệu bao hàm thần tính và vinh quang của Ngài. Cựu Ước dành riêng tước hiệu “Chúa” nầy cho Thiên Chúa của dân Ít-ra-en. Cuối cùng, quyền năng của Chúa Thánh Thần được bày tỏ ở nơi công cuộc loan báo Tin Mừng. Như vậy, Ba Ngôi Thiên Chúa là nét độc đáo của niềm tin Ki-tô giáo.
Mặc khác, ngay từ bản văn Tân Ước đầu tiên này, xuất hiện thuật ngữ “Hội Thánh” (“ecclesia”) được dùng để chỉ một cộng đoàn Ki-tô hữu: “Kính gởi Hội Thánh Thê-xa-lô-ni-ca”. Trước tiên, thuật ngữ “Hội Thánh” mang nét nghĩa phàm trần: tại dân Hy lạp, thuật ngữ nầy chỉ Hội Đồng nhân dân. Thánh Mát-thêu là thánh ký duy nhất đã đặt trên môi miệng Đức Giêsu thuật ngữ nầy trong sách Tin Mừng Hy-lạp của mình (Mt 16: 18; 18: 17). Phải nói rằng để loan báo Giáo Hội tương lai của mình, Đức Giêsu thật ra đã sử dụng thuật ngữ Híp-ri và A-ram: “qahal”, một thuật ngữ chỉ “đại hội” trong sa mạc (Đnl 4: 9-13; 9: 10; 18: 16; 23: 2; 31: 30) hoặc cộng đồng phụng vụ của dân Thiên Chúa Cựu Ước (1Sb 13: 2; 28: 8; 2Sb 20: 3; 30: 1; Nkm 1: 12). Vả lại, hai thuật ngữ Do thái và Hy lạp cùng chia sẻ một thực tại bởi ngữ căn của chúng: trong khi thuật ngữ Do thái: “qahal”, bao hàm một khái niệm về một dân được Thiên Chúa kêu gọi, triệu tập thành dân riêng của Ngài dưới chân núi Xi-nai, thì thuật ngữ Hy lạp: “ecclesia”, phát xuất từ động từ “kaleô” ở thể thụ động (được kêu gọi) và tiếp đầu ngữ: “ex” (tách riêng ra). Cả hai được dùng để diễn tả cách chính xác thực tại Hội Thánh: không tự mình hình thành nên, nhưng được Thiên Chúa quy tụ lại thành dân riêng của Ngài.
Nếu thánh Phao-lô gọi các cộng đoàn Ki-tô hữu địa phương là Hội Thánh, thánh nhân luôn luôn hiệp nhất các cộng đoàn nầy vào Hội Thánh Mẹ, là Hội Thánh Giê-ru-sa-lem. Toàn thể hình thành nên một Hội Thánh duy nhất, mà thánh nhân sẽ gọi là “Thân Thể Đức Ki-tô”.
- Hội Thánh Thê-xa-lô-ni-ca:
Thê-xa-lô-ni-ca là thủ phủ miền Ma-kê-đô-ni-a. Đây là thành phố thứ hai của Châu Âu mà thánh Phao-lô mang Tin Mừng đến. Thành phố thứ nhất là Phi-líp-phê cũng thuộc miền Ma-kê-đô-ni-a.
Thê-xa-lô-ni-ca là một thành phố cảng được hưởng một nền thương mại phồn vinh. Tên của thành phố được một trong các tướng lãnh của A-lê-xan-đê đại đế lấy tên vợ của mình là Thê-xa-lô-ni-ca đặt cho. Ở đây có một cộng đồng kiều bào Do thái sinh sống. Họ có một hội đường. Trong sách Công Vụ, thánh Lu-ca đã thuật lại tiến trình thành lập Hội Thánh Thê-xa-lô-ni-ca nầy cách giản lược nhưng đầy gian nan (Cv 17: 1-9). Chính trong hội đường Do thái nầy mà thánh Phao-lô đã rao giảng trong ba ngày sa-bát liên tiếp.
Lời rao giảng của thánh nhân được vài người Do thái và một số đông người Hy-lạp hoan hỉ tiếp đón, trái lại gây phẩn nộ cho cộng đoàn Do thái ở đây. Họ gây náo loạn trong thành phố đến nổi thánh Phao-lô và bạn đồng hành của ngài là ông Xi-la buộc phải vội vã trốn khỏi thành phố ngay trong đêm ấy. Thánh Phao-lô trốn chạy đến Bê-roi-a và từ đó đến A-thê-na bằng đường biển. Lo lắng vì đã để lại một cộng đoàn non trẻ, đức tin chỉ vừa mới bén rễ, ấy vậy đã phải chịu nhiều phiền nhiễu rồi, thánh nhân khẩn khoản xin người môn đệ thân tín của mình là ông Ti-mô-thê trở lại Thê-xa-lô-ni-ca để ủy lạo những người Kitô hữu non trẻ nầy. Khi gặp lại thánh Phao-lô lúc đó ở Cô-rin-tô, ông Ti-mô-thê đem đến cho thánh nhân những tin tức đầy khích lệ: Hội Thánh non trẻ nhưng thật kiên vững trong đức tin. Vui mừng và an tâm, thánh Phao-lô viết thư thứ nhất nầy. Thư gởi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca nầy cùng với thư gởi tín hữu Phi-líp-phê chất chứa những lời trìu mến nhất của thánh nhân.
- Chúng tôi, Phao-lô, Xin-va-nô và Ti-mô-thê.
Theo thể thức thư tín vào thời đó, một hay nhiều người đồng ký tên vào một bức thư: “Chúng tôi, Phao-lô, Xin-va-nô và Ti-mô-thê”. Ông Xin-va-nô cũng được gọi Xi-la trong sách Công Vụ và sau nầy trở thành thư ký của thánh Phê-rô ở Rô-ma (1Pr 5: 12). Vào lúc nầy, ông thay thế ông Ba-na-bê ở bên cạnh thánh Phao-lô, sau khi thánh nhân chia tay với Ba-na-bê ở Cô-rin-tô. Còn ông Ti-mô-thê là một trong những người đồng hành trung tín nhất của thánh Phao-lô. Chúng ta gặp thấy tên ông bên cạnh tên thánh Phao-lô trong sáu bức thư của thánh nhân.
- Thiên Chúa là Cha chúng ta và Chúa Giêsu Kitô.
Tiếp đó là tên người nhận thư: “kính gởi Hội Thánh Thê-xa-lô-ni-ca”. Chúng ta lưu ý việc chuyển từ danh từ số ít để chỉ tập thể: “Hội Thánh”, đến ngôi thứ hai số nhiều: “Chúc anh em được ân sủng và bình an”. Đây thật sự là điều hoàn toàn mới mẻ và có sức hấp dẫn của cộng đoàn Ki-tô hữu tiên khởi, trong đó mọi người đều nhận ra nhau như anh chị em trong Thiên Chúa được tuyên xưng là Cha và trong Đức Giêsu Ki-tô được tuyên xưng là Chúa, tương phản với tổ chức cơ cấu của xã hội dân sự và thậm chí của Do thái giáo. Quả thật, chúng ta cũng gặp thấy danh xưng “anh chị em” cùng với biểu thức tiêu biểu của thánh Phao-lô: “trong Đức Giêsu Ki-tô” hay “trong Đức Ki-tô” không chỉ ngay từ những hàng đầu tiên của bức thư đầu tiên nầy, nhưng còn được lập đi lập lại thường hằng trong tất cả các bức thư khác của thánh nhân. Đây thật sự là danh xưng diễn tả mối tương quan thân thiết của thánh nhân với tất cả mọi Ki-tô hữu và đây cũng là biểu thức chủ chốt hình thành nên cuộc sống nội tâm của thánh nhân, cũng như tính năng động sứ vụ Tông Đồ của ngài.
Như vậy, thuật ngữ “Hội Thánh” tự nó nói lên cộng đồng Ki-tô hữu, trong đó mọi người, dù ở chức vụ nào, đều coi nhau như anh chị em, tránh được quan niệm Giáo Hội trước Công Đồng Vatican II theo đó Giáo Hội như gắn liền với các Đấng các Bậc mà bỏ qua một thành phần đông đảo và sinh động là Giáo Dân.
- Ân sủng và bình an.
Lời chào mở đầu của bức thư liên kết lời chào của người Do thái: “bình an” (“shalom”) với lời chào của người Hy-lạp: “ân sủng” (“c-haris”). Thánh nhân sẽ sử dụng lời chào nầy trong tất cả các bức thư của ngài, ngoài trừ hai bức thư gởi Ti-mô-thê trong đó thánh nhân thêm vào “lòng thương xót”: “ân sủng, lòng thương xót và bình an”. Thật ra, sự liên kết của hai thuật ngữ: “bình an” và “ân sủng” nầy vốn đã hiện diện trong Do thái giáo rồi. Chúng ta gặp thấy như vậy trong sách Dân Số: “Nguyện xin Đức Chúa chúc phúc cho anh em… Nguyện xin Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh em”. Lời nguyện chúc nầy tái xuất hiện trong các sách khải huyền Do thái ngoại thư như sách Hê-nốc 1: 4: “Nguyện xin Thiên Chúa ban cho anh em ân sủng và bình an”, cũng như trong các lời cầu nguyện của cộng đồng Qum-rân. Nhưng thánh Phao-lô đem lại cho lời cầu chúc nầy ý nghĩa phong phú của Ki-tô giáo như khi thánh nhân viết cho các tín hữu Phi-líp-phê: “Bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết” (Pl 4: 7).
- Cảm tạ Thiên Chúa.
Sau nầy, hầu như tất cả những bức thư của mình, thánh Phao-lô đều bắt đầu với lời “cảm tạ” hay “chúc phúc” theo cách thức Do thái. Trong thư gởi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca nầy, thánh nhân đặc biệt khai triển lời cảm tạ: “Chúng tôi hằng cảm tạ Thiên Chúa khi nghĩ đến anh chị em”. Thánh Phao-lô diễn tả niềm vui của mình khi biết rằng các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca vẫn một mực trung thành và vững mạnh bất chấp những phiền nhiễu mà những người Do thái gây ra cho họ.
- Ba nhân đức đối thần.
Một lần nữa, một trong những lợi ích lớn lao về phương diện lịch sử cũng như về phương diện thần học của bản văn Tân Ước đầu tiên nầy, đó là khám phá ở đây lời phát biểu ba nhân đức căn bản mà sau nầy sẽ được gọi là ba nhân đức đối thần: “Chúng tôi không ngừng nhớ đến những việc anh em làm vì lòng tin, những nỗi khó nhọc anh em gánh vác vì lòng mến, và những nghịch cảnh anh em kiên nhẫn chịu đựng vì trông đợi Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô”. Ở đây cũng như ở Col 1: 4-5, thánh nhân trích dẫn ba nhân đức đối thần nầy theo cùng một trật tự: đức tin, đức mến và đức cậy, còn ở 1Cr 13: 13 theo một trật tự khác: đức tin, đức cậy và đức mến.
- Chiều kích Ba Ngôi.
Các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca đa số đều xuất thân từ lương dân. Thánh nhân nhấn mạnh họ thuộc về dân Chúa chọn, cùng một tước hiệu như những người đồng đạo của họ là những người Ki-tô hữu xuất thân từ Do thái. Từ đây, ơn tuyển chọn của Thiên Chúa mở rộng cho hết mọi người. Nhưng nhất là thánh nhân thán phục những thành quả đáng ngạc nhiên ở Thê-xa-lô-ni-ca: họ không thể là hoa trái duy nhất do lời loan báo Tin Mừng của thánh nhân, nhưng trên hết do tác động của Chúa Thánh Thần.
Trong thư gởi cho các tín hữu Cô-rin-tô, thánh nhân viết: “Tôi nói, tôi giảng mà chẳng có dùng lời lẽ khôn khéo hấp dẫn, nhưng chỉ dựa vào bằng chứng xác thực của Thần Khí và quyền năng Thiên Chúa. Có vậy, đức tin của anh em mới không dựa vào lẽ khôn ngoan phàm nhân, nhưng dựa vào quyền năng Thiên Chúa.” (1Cr 2: 1-4). Thật ra, đây là điều mà thánh nhân đã nói với các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca rồi: “Khi chúng tôi rao giảng Tin Mừng cho anh em , thì không phải chỉ có lời chúng tôi nói, mà còn có quyền năng, có Thánh Thần, và một niềm xác tín sâu xa” (1Tx 1: 5).
TIN MỪNG (Mt 22: 15-21).
Bài Tin Mừng nầy rất nổi tiếng được cả ba Tin Mừng Nhất Lãm thuật lại. Lời công bố của Đức Giêsu: “Của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa” đã được biện luận như một sự phân biệt giữa hai lãnh vực: đạo và đời. Biện luận nầy gợi lên nhiều áp dụng thực tiển khác nhau qua nhiều thế kỷ. Trong bối cảnh trực tiếp, lời công bố nầy được ghi ở giữa những cuộc tranh luận với nhóm Pha-ri-sêu vào những ngày cuối cùng sứ vụ của Đức Giêsu ở Giê-ru-sa-lem trước cuộc Tử Nạn của Ngài: “Nghe các dụ ngôn Người kể, các thượng tế và người Pha-ri-sêu hiểu là Người nói về họ. Họ tìm cách bắt Người, nhưng lại sợ dân chúng, vì dân chúng cho Người là một ngôn sứ” (Mt 21: 45).
- Âm mưu thâm độc:
Những người Pha-ri-sêu bàn mưu tính kế với nhau tìm cách làm cho Đức Giêsu phải lỡ lời để triệt hạ Ngài. Họ cấu kết với phe Hê-rô-đê, một đảng phái chính trị, được thiết lập từ Hê-rô-đê Cả, luôn luôn sát cánh với chính quyền Rô-ma với hy vọng rằng lần nầy có thể làm chứng tố cáo Đức Giêsu để có thể hãm hại Ngài.
Bằng cách rào trước đón sau, họ tán dương đức tính chí công vô tư của Đức Giêsu: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật, và cứ sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa”. Chữ “đường lối” là thuật ngữ tôn giáo. Thuật ngữ nầy có nguồn gốc trong các Thánh Vịnh, đặc biệt Tv 119 trong đó tác giả đề xuất hai con đường, một dẫn đến việc thực thi đức công chính và một dẫn đến sự hư vong. Bất chấp ác ý của họ được khôn khéo bọc trong những lời tâng bốc, lời khen ngợi này phải thật sự phản ảnh dư luận quần chúng về con người của Ngài qua lời nói cũng như hành động của Ngài, nếu không làm thế nào những lời này có thể trở nên cái bẫy được chứ. Cuối cùng, viện cớ soi sáng lương tâm của mình, họ đặt ra một câu hỏi gài bẫy: “Có được phép nộp thuế cho Xê-da, hoàng đế Rô-ma hay không?”.
Phải nhận định hoàn cảnh đặc thù của miền Giu-đê vào thời đó miền Giu-đê. Kể từ khi vua Ác-khê-lao, con vua Hê-rô-đê Cả, bị hoàng đế Au-gút-tô truất quyền vào năm 6 Công Nguyên, miền Giu-đa đặt dưới quyền cai trị trực tiếp của chính quyền Rô-ma, đại diện tại chỗ là một quan Tổng Trấn Rô-ma, trong khi miền Ga-li-lê và những địa hạt phía Bắc vẫn dưới quyền cai trị của hai người con khác của vua Hê-rô-đê Cả là tiểu vương Hê-rô-đê An-ti-pát và tiểu vương Phi-líp-phê. Ở miền Giu-đê, nhóm Nhiệt Thành khuyến cáo không được nộp thuế, vì đây là thái độ thuần phục chính quyền chiếm đóng; trong khi nhóm Sa-đu-xê-ô, hợp tác với chính quyền Rô-ma, ủng hộ việc nộp thuế; còn nhóm Biệt Phái giữ lập trường trung dung: họ không tán thành chủ trương bạo động của nhóm Nhiệt Thành cũng như thái độ cộng tác của nhóm Sa-đu-xê-ô. Vì thế, “nộp thuế hay không” là một vấn đề có tính thời sự. Nhưng các địch thủ của Ngài có ý định hoàn toàn khác: họ muốn đặt Ngài vào một vấn đề tiến thoái lưỡng nan để trừ khử Ngài.
Nếu trả lời “được phép”, Đức Giêsu sẽ đánh mất uy tín của Ngài đối với quần chúng, vì dân chúng đặt ở nơi Ngài niềm hy vọng giải phóng quốc gia khỏi ách đô hộ của đế quốc Rô-ma. Nếu trả lời “không được phép”, Ngài tự đặt mình đối đầu với chính quyền Rô-ma, và chắc chắn những người thuộc phe Hê-rô-đê thân chính quyền Rô-ma sẽ có cớ để tố cáo Ngài là phản động, là sách động quần chúng chống chính quyền đô hộ. Nhưng nếu như Ngài giữ thái độ im lặng, các đối thủ của Ngài có cớ để bài bác đức tính chí công vô tư của Ngài mà họ đã rào trước đón sau trước đó rồi.
- Câu trả lời của Đức Giêsu
Nhưng Đức Giêsu không tránh né câu hỏi hóc búa nầy. Ngài yêu cầu họ cho Ngài xem “một quan tiền nộp thuế”. Lời đòi hỏi rất quan trọng, vì nó quyết định cho câu trả lời của Ngài. Chung quy có hai loại tiền tệ hiện hành ở Giê-ru-sa-lem. Đồng tiền chính thức của đế quốc Rô-ma mang hình và danh hiệu của Xê-da, hoàng đế Rô-ma. Mọi hình thức nộp thuế đều phải được quy định bằng đồng tiền chính thức nầy. Ngoài ra, còn có “tiền đền thờ” đặc thù của dân Do thái, được dành riêng cho các cách dùng trong phụng tự (đó là lý do tại sao có những người đổi tiền trong sân đền thờ). Cầm lấy một quan tiền mà họ trao cho Ngài, Ngài hỏi họ: “Hình và danh hiệu nầy là của ai đây?” Họ đáp: “Của Xê-da”. Ngài trả lời: “Của Xê-da trả về Xê-da; của Thiên Chúa trả về cho Thiên Chúa”.
- Công dân trần thế và công dân Nước Trời:
Về phương diện lịch sử, đây là lần đầu tiên mà sự phân biệt giữa hai nghĩa vụ: người công dân trần thế và người công dân Nước Trời, được diễn tả cách rõ nét nhất. Đứng trước sự phân biệt ấy người ta dễ rơi vào hai thái cực: hoặc đặt nặng các giá trị công dân Nước Trời mà xem thường các giá trị công dân trần thế, hay quá chú tâm vào các giá trị công dân trần thế mà coi nhẹ những giá trị công dân Nước Trời.
Câu trả lời của Đức Giêsu “Của Xê-da trả về Xê-da; của Thiên Chúa trả về cho Thiên Chúa” đặt người tín hữu trước hai nghĩa vụ phải chu toàn: công dân trần thế và công dân nước trời. Cả hai không hề loại trừ nhau, nhưng đồng hiện diện và ảnh hưởng hổ tương: tìm cách xây dựng Nước Trời qua việc cùng chung sức xây dựng trần thế bằng cách thăng tiến đời sống con người về phương diện vật chất lẫn tinh thần, thăng hoa những giá trị của con người, và nhất là làm cho mọi lãnh vực trần thế thấm nhuần sự hiện diện của Thiên Chúa để rồi cuối cùng dẫn đưa trần thế trở về với Thiên Chúa. Đó cũng là lời dạy của Công Đồng Va-ti-can II: “Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngay nay, nhất là của người nghèo và những ai đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Ki-tô, và không có gì thực sự là của con người mà lại không gieo âm hưởng trong lòng họ” (“Vui Mừng và Hy Vọng”, 1).
Các đối thủ của Đức Giêsu nghĩ là đặt Ngài vào thế bí không có lối thoát, nhưng cuối cùng chính họ phải nhận ra rằng Ngài quán triệt vấn đề đến nổi họ phải kinh ngạc. Những kẻ muốn Ngài cứng họng chắc hẳn phải gặp thấy ở nơi câu trả lời của Ngài một giáo huấn rành mạch thấu tình đạt lý: một sự hiệp nhất cuộc đời của người tín hữa giữa công dân Nước Trời và công dân trần thế, bởi vì hai nghĩa vụ này hàm chứa một huấn lệnh quan trọng bậc nhất, một huấn lệnh làm nên chân tính của người Ki-tô hữu: mến Chúa và yêu người là một.
5. Trả về Chúa những gì thuộc về Chúa
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
Trong những dụ ngôn mà chúng ta có dịp nói đến trong những Chúa Nhật vừa qua: Dụ ngôn hai người con, dụ ngôn những tá điền sát nhân, dụ ngôn tiệc cưới của hoàng tử, chúng ta thấy mối căng thẳng giữa nhóm Pha-ri-sêu và Chúa Giêsu càng ngày càng tăng. Nhóm nầy tìm hết mọi cách để hạ uy tín của Chúa Giêsu trước mặt dân chúng, và hôm nay họ tìm cách gài bẫy Ngài.
Nhóm Pha-ri-sêu và nhóm thân Hê-rô-đê không bao giờ hợp nhau, vì lập trường của họ thường đối chọi nhau. Nhưng đối với Chúa Giêsu, họ lại cấu kết với nhau, vì cả hai nhóm đều căm thù Chúa Giêsu và ganh tị với Ngài.
Trong xã hội mọi thời, chúng ta cũng thấy đầy dẫy những liên minh giữa những nước thù địch nhau, tranh chấp với nhau trước một kẻ thù chung. Giữa những phe phái và các nhóm cũng thế, cấu kết với nhau để diệt kẻ thù chung.
Họ đến với Chúa Giêsu, lời lẽ của họ ngọt ngào làm sao! “Thầy là người chân thật… không vì nể ai…”
Chúa Giêsu không thích dua nịnh. Hơn nữa, Ngài thấu suốt tâm tưởng của họ, Ngài thẳng thắn vạch trần sự điêu ngoa giả trá của họ: “Tại sao các ngươi lại thử tôi? Hỡi những kẻ giả hình!”
Ngài trả lời câu hỏi của họ không né tránh: “Hãy cho tôi xem đồng tiền nộp thuế”.
Vào thời của Chúa Giêsu, người Do-thái sống dưới ách nô lệ của người Rô-ma. Họ phải sử dụng đồng tiền của Rô-ma, của kẻ thống trị. Họ phải nộp rất nhiều thứ thuế và xem đó như một ách nô lệ đang đè nặng trên vai họ. Họ âm thầm phản đối, nhưng vẫn phải nộp thuế. Trốn thuế, đối với người Rô-ma là một tội nặng phải vào tù.
Nhóm Pha-ri-sêu chống chính quyền Rô-ma, còn nhóm thân Hê-rô-đê thì lại thân chính quyền, nhưng lần này họ thỏa thuận với nhau để đánh gục kẻ thù chung của họ là Chúa Giêsu.
Họ đặt câu hỏi như một cái bẫy, như một gọng kềm, trả lời cách nào cũng bị mắc bẫy: “Thưa Thầy, xin Thầy cho biết ý kiến, có được phép nộp thuế cho vua Xê-da hay không?” Chỉ có một câu trả lời: nộp thuế hay không .
Nếu bảo nộp thuế, thì Chúa Giêsu sẽ bị dân chúng phản đối, vì đó là hành động đồng lõa với kẻ thống trị, bóc lột thường dân. Uy tín của Ngài sẽ bị tổn thương nặng nề trước mặt dân chúng. Còn nếu bảo đừng nộp thuế, thì phe Hê-rô-đê sẽ tố cáo với chính quyền Rô-ma và Ngài sẽ bị vào tù. Trả lời kiểu nào cũng thua.
Nhưng Chúa Giêsu là Thiên Chúa, không ai có thể ràng buộc Ngài hay gài bẫy Ngài được. Ngài sẽ phải trả lời thế nào để thoát khỏi gọng kềm đang siết chặt quanh Ngài?
Nhiều người trong chúng ta thường xem câu trả lời của Chúa Giêsu là quá hợp lý, và Ngài đã làm câm miệng bọn người gian manh kia. Chúng ta không đặt vấn đề gì, nhưng cần phải hiểu tại sao Chúa Giêsu bảo nộp thuế mà mọi người đều đồng ý, và không có ai thắc mắc gì cả, kể cả nhóm Pha-ri-sêu? Đối với nhóm này, nộp thuế là nô lệ, là phản dân hại nước, sao họ không phản đối gì cả?
Câu hỏi của họ có tính cách dân sự và chính trị. Chúa Giêsu không đứng trên bình diện tầm thường đó, Ngài đưa vấn đề về phương diện đạo đức, Ngài giải quyết vấn nạn bằng Luật Chúa. Ngài không nói ra, nhưng mọi người đều có thể hiểu là điều răn thứ bảy đòi buộc: “Của ai phải trả cho nấy”. Ngài hỏi: “Đồng tiền này của ai? Hình này là của ai?” Họ trả lời mà không biết Ngài đi đến đâu: “Của Xê-da”. “ Vậy, của Xê-da thì trả cho Xê-da”, đó là đúng Luật Chúa, không ai không biết điều đó và họ phải đồng ý thôi. Nhưng Chúa Giêsu không dừng lại ở đó, Ngài đòi buộc họ đi xa hơn, lên cao hơn.
Cuộc sống của chúng ta thường đặt chúng ta vào những hoàn cảnh “tiến thoái lưỡng nan” như thế. Cần phải chọn một giải pháp đúng, và phải chọn theo tiêu chuẩn của Chúa chứ không theo trần gian. Chúng ta là những kẻ tin Chúa, cho nên chúng ta vừa là công dân trần thế, vừa là công dân Nước Trời.
Hiện nay chúng ta đang sống trong một xã hội vô đạo. Con người hôm nay đa số là duy vật (duy vật thực hành) và một số người Công giáo đã sống theo làn sóng vô đạo đó. Tiền bạc, danh vọng và tiện nghi trở thành một thứ tôn giáo mới: thờ tiền. Đó là một thứ tôn giáo đang lan tràn nhanh chóng trong thế giới, trong mọi tầng lớp xã hội hiện nay.
Một số người Công giáo đã từ từ bỏ rơi Thiên Chúa để chạy theo “ông thần tài”.
Tôn giáo mới này hấp dẫn hơn và làm thỏa mãn những ước muốn vật chất của con người; vì “có tiền, mua tiên cũng được”. Ngay cả những người của Chúa cũng không thoát khỏi cơn cám dỗ của “ông thần tài” này.
Chúa Giêsu khẳng định: “của Xê-da, hãy trả cho Xê-da, của Chúa hãy trả cho Chúa”.
Trả cho Chúa cái gì?
Chúng ta có gì để trả cho Chúa? Thực ra chúng ta không có gì để trả cho Chúa cả. Chúng ta trọn vẹn là của Chúa. Chúng ta được tạo nên và “có cái gì mà chúng ta không lãnh nhận?” (Thánh Phao-lô).
Chúng ta sẽ trả cho Chúa được gì?
Tất cả. Mọi sự của chúng ta là của Chúa ban, nhưng chúng ta có thể trả cho Chúa một thứ: Chúng ta phải trả cho Chúa tình yêu. Chúng ta mắc nợ Chúa một món nợ mà suốt đời chúng ta trả không hết: đó là nợ tình yêu.
Chúa không buộc chúng ta làm gì cho Ngài, vì Ngài không cần chúng ta. Ngài chỉ mong chúng ta hạnh phúc. Từ lúc Ngài quyết định: “Ta sẽ tạo nên con người giống hình ảnh Ta”, Ngài chỉ mong tạo nên một đứa con và đứa con đó sẽ hạnh phúc với Ngài và trong Ngài. Sách Sáng Thế đã vẽ ra cảnh sống thần tiên trong vườn địa đàng, và khi A-đam phản bội, Chúa không bỏ rơi con người trong vực sâu tội lỗi, nhưng Ngài cho chúng ta Người Con Một của Ngài… Và xuyên suốt quyển Kinh Thánh, chúng ta thấy gì? Chúng ta chỉ thấy tình yêu tràn ngập trên chúng ta, là những con người đáng ghê tởm.
“Của Thiên Chúa, hãy trả cho Thiên Chúa”. Đó là những gì Thiên Chúa đang đợi chờ nơi chúng ta. Thiên Chúa là Tình Yêu, Ngài chỉ mong chúng ta sống cho tình yêu. Chúng ta được yêu thương trọn vẹn, hãy đáp trả lại bằng tình yêu trọn vẹn. Thực ra tình yêu của chúng ta chỉ như sương mờ ban mai, mau tan mau biến, nhưng bàn tay của Chúa luôn yêu thương dìu dắt. Thánh Thần Tình Yêu đã được ban cho chúng ta, nhờ đó chúng ta có thể gọi: “Abba”, (lạy Cha) với tất cả tâm tình con thảo.
Hơn nữa, Người Con Một yêu dấu của Chúa Cha đã đến với chúng ta, để nhờ Ngài, chúng ta đến với Chúa Cha: “Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy.” Chính nhờ Ngài, “Đấng đầy ân sủng và chân lý”, chúng ta được “hết ơn này đến ơn khác”, và trong Ngài, chúng ta yêu mến Chúa Cha như Ngài hằng mong ước. Như thế, chúng ta đáp trả tình yêu bằng tình yêu.
Hôm nay, nơi bàn thờ này, chúng ta thấy thực hiện trước mắt chúng ta, chương trình yêu thương của Chúa Cha. Ngài đã ban Con Một Ngài cho chúng ta, và tiếp tục ban đến tận thế. Nơi đây, chúng ta được yêu thương, được nuôi dưỡng, không phải bằng thứ của ăn hay hư nát, mà bằng Bánh ban sự sống.
Hãy làm như Chúa Giêsu đã nói: “Của Thiên Chúa, hãy trả cho Thiên Chúa”. Chúng ta trả bằng chính Người Con Một của Ngài, và cùng với Người Con Cha yêu dấu ấy, chúng ta cũng hiến dâng tất cả cuộc sống, tất cả gánh nặng hôm nay, tất cả con tim nhỏ bé của chúng ta.
6. Của Xêda hay của Thiên Chúa
Năm 1920 thánh Grandhi hô hào dân chúng Ấn không đóng thuế cho đế quốc Anh, để tranh đấu cho nước được độc lập.
Đóng thuế là nghĩa vụ của dân đối với chính quyền. Dân Ấn không đóng thuế là không công nhận người Anh là chính quyền của mình, là chống lại đế quốc xâm lăng để giải phóng đất nước thoát ách thực dân.
Câu hỏi của phái Pharisiêu nói với Đức Giêsu: “Có nên đóng thuế cho Xêda, hoàng đế Rôma không?” Không phải họ mong Ngài đứng lên hô hào dân Do thái chống đế quốc như ông Grandhi, vì họ đã đi với phe Hêrôđê, thân đế quốc, đến hỏi Đức Giêsu. Cũng không phải họ mong Ngài hô dân đóng thuế cho Xêda, vì họ thuộc phái ái quốc quá khích, bài đế quốc.
Vậy họ muốn gì ở câu đáp của Đức Giêsu? Họ chỉ muốn Ngài đáp có hay không thôi, nên họ tâng bốc khen ngợi Ngài rất khéo léo: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật, và cứ sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa. Thầy không vị nể ai. Không đánh giá người ta theo bề ngoài”. Như vậy, họ đặt hai cái bẫy: một bẫy tâng bốc để buộc Ngài phải trả lời, một bẫy nộp thuế để kẹp ngài giữa hai gọng kìm phải đáp có hay không.
Đức Giêsu đáp đúng như họ khen, chứ không đúng như họ gài bẫy. Đúng như họ khen: “Thầy là người chân thật, không đánh giá theo bề ngoài”. Ngài đã thành thật đánh giá đúng lòng, đúng tim, đúng đầu óc tâm tư của họ. Ngài nói: “Các ông thật giả hình, các ông có ác ý gài bẫy tôi!” Đánh giá họ xong, Ngài cứ sự thật dậy đường lối của Thiên Chúa: “Của Xêda, trả về Xêda. Của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa”
+ Của Xêda, trả về Xêda:
Tiền của Xêda, trả về Xêda; của ai trả về chủ nó. Không xài nó, không lợi dụng nó để mua tiên hay phạm tội ác. Cũng không để nó lôi kéo mình, bắt mình làm nô lệ nó. Của ai trả về họ, vừa thực thi công bằng vừa giải thoát mình, cho mình sống tự do, thanh thoát. “Nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo” (Nguyễn Công Trứ)
+ Của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa:
Đây là mục đích chính của Đức Giêsu. Đấng Cứu thế đến giải thoát mọi người khỏi nợ trần gian, khỏi ách satan, trả họ về Thiên Chúa. Khi Đức Giêsu nói đến của Thiên Chúa, Ngài muốn cứu đối phương thoát khỏi vòng kiểm tỏa chính trị đang dằn vặt họ, đang buộc trói họ, khiến họ âm mưu dùng thủ đoạn chính trị hắc ám gài bẫy ngài. Ngài muốn nhắc nhở họ nhận biết: Chính họ là của Thiên Chúa vì Thiên Chúa đã sinh thành, bảo trợ họ, chọn họ làm dân riêng, chính ra họ phải nên giống như vua Ky-Rô, dù là dân ngoại, đã được Thiên Chúa chọn làm mục tử của Ngài. Vua đã biết Thiên Chúa là Đấng nắn ra ông từ lòng mẹ, Đấng cứu chuộc ông, Đấng tác thành mọi sự (Is. 44, 24.28). Đấng đã xức dầu tấn phong ông, đã cho muôn dân suy phục ông, đã bắt các vua phải hạ khí giới. Đấng đã trang bị đầy đủ cho ông, để ông làm cho từ đông sang tây, thiên hạ biết Ngài là Thiên Chúa của họ, chẳng có thần nào khác (Bài đọc I – Is. 45, 1. 4-6). Vua Ky-Rô đã biết ơn Thiên Chúa và đã thành tựu mọi ý muốn của Thiên Chúa (Is. 44, 28).
Chính ra, họ phải lo thành tựu mọi ý muốn của Thiên Chúa như vậy, chứ đừng lo âm mưu tiêu diệt những người của Thiên Chúa. Những người của Thiên Chúa là Đấng Messia và tất cả thiên hạ. KyRô cũng như Moisen chỉ là hình bóng Đấng Messia. KyRô chỉ giải thoát dân Israel khỏi nô lệ Babilon. Moisen cũng chỉ giải phóng con cháu Giacop khỏi nô lệ Ai Cập. Đấng Messia mới thực là Đấng Cứu thế từ trời xuống giải phóng muôn dân thiên hạ khỏi kiếp sống lưu đầy trần gian, khỏi thần chết quỷ dữ để trả muôn dân về làm con cái Thiên Chúa muôn đời. Đấng Messia đó chính là Đức Giêsu Kitô, đã đến tuyên bố năm hồng ân, thời kỳ đại xá, xóa tội trần gian, bắt đầu thời đại mới. Thời đại Tin mừng cứu độ, mở toang cửa tình yêu Thiên Chúa cho muôn dân được kết hợp cùng Thiên Chúa là Cha, như Hội thánh “Thessalonica đang kết hợp cùng Thiên Chúa là Cha và Đức Giêsu Kitô trong ân sủng và bình an” (Thes. 1,1). Để rồi tất cả đều làm việc vì lòng tin, gánh vác những nỗi khó nhọc vì lòng mến, và kiên nhẫn chịu đựng những nghịch cảnh vì trông đợi Chúa Giêsu Kitô (Bài đọc II – Thes. 1,5).
Lạy Chúa, tất cả là của Chúa, tất cả đều được Chúa mến thương, tất cả đều được Chúa ban Tin mừng cứu độ, tất cả đều được mời gọi làm con Chúa và là anh em với nhau, dù Xêda, Hêrôđê hay Pharisiêu. Xin cho tất cả mọi người biết thành tựu ý muốn của Chúa như Đức Kitô, như KyRô, như thánh Phaolô và Hội thánh Thessalonica để tất cả đều được xác tín sâu xa là mọi sự đều là của Chúa và biết cảm tạ Chúa với lòng thương mến chân tình, thoát mọi âm mưu tranh giành, gài bẫy nhau. Amen.
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang)
Ai trong chúng ta cũng biết vụ thiên tai kép ở Nhật năm 2011. Năm ấy, một tình nguyện viên đi làm công tác từ thiện kể lại rằng: “Khi trận động đất sóng thần xảy ra vài ngày, tôi được phái tới một trường tiểu học phụ giúp hội tự trị ở đó phân phát thực phẩm cho những người bị nạn. Trong cái hàng rồng rắn những người xếp hàng tôi chú ý đến một em nhỏ chừng 9 tuổi, trên người chỉ có chiếc áo thun và quần đùi. Trời rất lạnh mà em lại xếp hàng cuối cùng, tôi sợ đến lượt của em thì chắc chẳng còn thức ăn nên mới lại hỏi thăm. Em kể khi đang học ở trường trong giờ thể dục thì động đất và sóng thần đến, từ ban công lầu 3 của trường em nhìn thấy chiếc xe và cha bị nước cuốn trôi, nhiều khả năng đã chết. Nhìn thấy em nhỏ lạnh, tôi mới cởi cái áo khoác cảnh sát trùm lên người em nhỏ. Vô tình bao lương khô khẩu phần ăn tối của tôi bị rơi ra ngoài, tôi nhặt lên đưa cho em và nói: “Đợi tới phiên của con chắc hết thức ăn, khẩu phần của chú đó, chú ăn rồi, con ăn đi cho đỡ đói”. Cậu bé nhận túi lương khô của tôi, khom người cảm ơn. Tôi tưởng em sẽ ăn ngấu nghiến ngay lúc đó nhưng không phải, cậu bé ôm bao lương khô đi thẳng lên chỗ những người đang phát thực phẩm và để bao lương khô vào thùng thực phẩm đang phân phát rồi lại quay lại xếp hàng. Ngạc nhiên vô cùng, tôi hỏi tại sao con không ăn mà lại đem bỏ vào đó. Cậu bé trả lời: “Bởi vì còn có nhiều người chắc đói hơn con. Bỏ vào đó để các cô chú phát chung cho công bằng chú ạ”.
Công bằng là một trong bốn nhân đức nhân bản của Đạo Công Giáo: Khôn ngoan, công bằng, dũng cảm và tiết độ. Nhưng thế nào là công bằng? Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo dạy rằng: “Công bình là đức tính luân lý cốt tại một ý chí liên lỉ và vững chắc, quyết tâm trả lại những gì mình mắc nợ với Thiên Chúa và với người lân cận. Công bằng đối với Thiên Chúa được gọi là “nhân đức thờ phượng”. Đối với người ta, công bằng là tôn trọng quyền lợi của mỗi người và thiết lập sự hài hòa trong các tương quan nhân loại, sự hài hòa này đưa tới việc không thiên vị đối với các nhân vị và đối với các công ích, như Lời Chúa dạy: “Các ngươi không được thiên vị người yếu thế, cũng không được nể mặt người quyền quý, nhưng hãy xét xử công minh cho đồng bào” (Lv 19,15). “Người làm chủ hãy đối xử công bằng và đồng đều với các nô lệ, vì biết rằng cả anh em nữa cũng có một Chủ trên trời (Cl 4,1)” (số 1807).
Cho nên, Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu dạy chúng ta về đức ông bằng này: “Của Xê-da trả lại cho Xê-da, của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa” (Mt 22, 21). Xê-da có gì mà trả? Xê-da tên và huy hiệu của một hoàng đế. Chúa Giêsu nói tên và huy hiệu là của Xê-da thì trả lại cho ông. Còn mạng sống và mọi sự của ông đều là của Chúa ban cho. Của Xê-da ở đây là những thứ công bình bác ái giữa người với người, hay là bổn phận phải thi hành cho đất nước, cho gia đình và xã hội gọi tắt là đức công bằng đối với tha nhân. Cho nên, đối với tha nhân, đức công bằng đòi ta phải trả về cho họ những quyền được sống, quyền có của cải… Cho nên, đức công bằng đòi buộc ta phải tôn trọng của cải, tiền bạc, danh dự, mạng sống của tha nhân. Bởi thế, ta không được lấy, không được giữ, không được làm thiệt hại những gì thuộc về người khác.
Còn của Thiên Chúa trả về cho Thiên Chúa? Của Thiên Chúa là cái gì? Thưa là tất cả mọi sự, chính sự hiện hữu của ta, chính sự sống của ta, tất cả đều là quà tặng Thiên Chúa ban. Bởi vì Thiên Chúa là Đấng tạo dựng vũ trụ và dựng nên ta, cứu chuộc ta. Cho nên, đức công bằng đòi ta phải biết ơn Thiên Chúa qua việc , tạ ơn, chúc tụng, ngợi khen, suy tôn, thần phục và thờ phượng Ngài, “Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi” (Lc 4, 8).
Lời Chúa hôm nay như là lời chất vấn lương tâm công bằng của chúng ta rằng chúng ta phải trả lại cho Thiên Chúa và tha nhân những gì? Thứ nhất, con người đã quay lưng lại với Thiên Chúa, đã phá vỡ những nét đẹp của hình ảnh Thiên Chúa khi lao vào những đam mê lầm lạc như: ngoại tình, dâm ô, cướp của, giết người hay gian dối, điêu ngoa… khiến tâm thiện nơi con người thành tâm tà, tâm ác vì đức công bằng với Thiên Chúa, hỡi con người, hãy trả lại cho Thiên Chúa những thứ thuộc về Thiên Chúa: con người là hoạ ảnh Thiên Chúa, là “nhân chi sơ tính bản thiện”. Rồi, con người đã lạm dụng tự do để giết chết các thai nhi vô tội khiến hàng triệu thai nhi bị tước đoạt quyền sống, quyền làm người của mình, vì lẽ công bằng với Thiên Chúa hãy trả lại cho Thiên Chúa quyền làm chủ sự sống. Rồi nữa, con người đã đang tâm phá vỡ trật tự tự nhiên khi ngăn sông, lấp biển, chặt cây, đốt rừng khiến lũ lụt tràn lan, mưa nắng thất thường, vì đức công bằng với Thiên Chúa, hỡi con người hãy trả lại cho Thiên Chúa những trật tự thiên nhiên mà chính Ngài đã khôn ngoan xếp đặt. Thứ hai, chúng ta phải trả lại cho tha nhân những gì? Thưa, con người ngay nay đã sớm vong ân bội nghĩa khi dứt bỏ tình cha, nghĩa mẹ. Họ đã sống thiếu trách nhiệm với gia đình và xã hội khi lười biếng và sống sa đoạ tội lỗi, vì đức công bằng với tha nhân, hỡi con người, hãy trả lại cho tha nhân lòng biết ơn, lòng hiếu thảo mà mỗi người chúng ta từng mang ơn khi bước vào đời. Rồi, ngay nay nhiều người đã làm dụng quyền bính để vun quén cho bản thân, để bóc lột kẻ thấp cổ bé họng để làm giầu cho bản thân, vì đức công bằng với tha nhân, hỡi con người, hãy trả lại cho tha nhân sự công bình và bác ái mà mỗi người khi sinh ra đều được hưởng dùng của cải mà Thiên Chúa ban tặng qua vũ trụ vạn vật này.
Quả thật chúng ta đều đã phạm tội, vi phạm luật Chúa nên đáng bị hình phạt. Nhưng vì yêu thương con người nên Thiên Chúa đã cứu chuộc chúng ta bằng chính mạng sống của Chúa Giêsu trên thập giá. Vâng, Thập Giá bày tỏ sự công bằng tuyệt đối của Thiên Chúa khi Ngài tha tội cho chúng ta để trọn sự công bằng theo luật của Chúa, nhưng cũng trọn vẹn tình yêu thương của Ngài đối với chúng ta. Vì vậy, phương cách tốt nhất để chúng ta có được sự công bằng theo ý muốn của Thiên Chúa nơi mình đó là: từ bỏ tội lỗi và trở về với Chúa Kitô, tin vào Phúc Âm và rao truyền Phúc âm.
Chúng ta là con cái của Chúa nên được Ngài yêu thương hơn ai hết. Tuy nhiên, Thiên Chúa – Đấng Công Bình, không bao giờ chấp nhận tội lỗi hay một điều gì bất công. Chúa sẵn sàng sửa trị để chúng ta ăn năn, chứ không bỏ rơi chúng ta. Như người mẹ thương con có lúc phải đánh con để sửa trị, để dạy dỗ để người con mỗi lúc một tốt hơn chứ không đánh cho bỏ ghét. Thiên Chúa đối với chúng ta cũng vậy.
Ước gì qua Lời Chúa hôm nay, xin cho mỗi người chúng ta biết dấn thân vào việc kiến tạo những công bằng đồi với Chúa và xã hội loài người qua việc Kính mến Chúa trên hết mọi sự sau lại yêu người như Chúa yêu ta vậy. Đây cũng là cách chúng ta loan truyền Tin Mừng cứu độ một cách nhanh nhất và hữu hiệu nhất trong cánh đồng truyền giáo hôm nay. Amen.
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
Chủ đề: Bổn phận đối với thế quyền và thần quyền
- Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
“Sống Phúc âm giữa lòng dân tộc”, đó là phương châm mà Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam đề ra cho mỗi người giáo dân Việt Nam.
Trong Thánh lễ hôm nay, chúng ta cầu xin Chúa giúp chúng ta chu toàn hai bổn phận đối với Chúa và đới với tổ quốc.
- Gợi ý sám hối
- Vì ích kỷ, chúng ta không góp phần xây dựng xã hội và đất nước.
- Vì mải mê lo việc thế gian, chúng ta sao lãng bổn phận đối với Chúa.
- Lẽ ra vì có ánh sáng Tin Mừng hướng dẫn, chúng ta phải là một công dân gương mẫu, nhưng chúng ta chưa được như thế.
III. Lời Chúa
- Bài đọc I (Is 45,1.4-6)
Bối cảnh lịch sử: Năm 587, đế quốc Babylon xâm chiếm Giêrusalem, bắt dân Do Thái đi đày. Gần 50 năm sau, đế quốc Babylon sụp đổ và đế quốc Ba Tư dành ngôi bá chủ. Vua của Ba Tư lúc đó là Cyrô. Vừa mới chiến thắng Babylon xong, năm 538, Cyrô ra sắc chỉ cho dân Do Thái được hồi hương.
Mặc dù Cyrô là một người ngoại không hề thờ kính Thiên Chúa, nhưng ngôn sứ Isaia lại coi ông là người được Thiên Chúa dùng: chính Thiên Chúa trao quyền cho ông, Thiên Chúa cho ông thống trị các dân, và Thiên Chúa xui lòng ông cho dân Chúa được hồi hương. Tóm lại, Cyrô là dụng cụ Chúa dùng để thực hiện chương trình của Ngài. Vì thế, cuối đoạn trích này, Isaia nhấn mạnh: “Ta là Chúa và chẳng có chúa nào khác”.
- Ðáp ca (Tv 95)
Tv này ca tụng Thiên Chúa với tư cách là Vua và Chúa tể duy nhất đích thực của muôn dân. So với Ngài, các vua chúa trần gian đều là hư ảo.
- Tin Mừng (Mt 22,15-21)
Bình thường, phái Pharisêu và nhóm Hêrôđê không thuận nhau, bởi một bên (nhóm Hêrôđê) thì chạy theo chính quyền Rôma đang đô hộ xứ Palestine, còn bên kia (phái Pharisêu) thì chống lại quân đô hộ. Nhưng hôm nay hai nhóm này liên minh nhau để chất vấn Ðức Giêsu nhằm tìm được cơ hội làm hại Ngài.
Vấn đề họ đem ra chất vấn Ðức Giêsu là “Có được phép nộp thuế cho Xêda không?” Ðây là một cái bẫy thâm độc, vì nếu Ðức Giêsu trả lời “Có” thì nhóm Pharisêu sẽ kết án Ngài là phản quốc; còn nếu Ngài nói “không” thì nhóm Hêrôđê sẽ tố cáo Ngài là phản động.
Với câu trả lời “Của Xêda trả cho Xêda, của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa”, Ðức Giêsu chẳng những không mắc bẫy họ, mà còn dạy lại họ một bài học: đừng chỉ mải mê lo chuyện chính trị, mà hãy lo chu toàn một bổn phận khác còn quan trọng hơn nhiều, đó là bổn phận đối với Thiên Chúa.
- Bài đọc II (Tx 1,1-5b) (Chủ đề phụ)
* Từ Chúa nhựt này, bài đọc II được trích từ thư thứ nhất Thánh Phaolô gửi tín hữu Thêxalônikê.
Thêxalônikê là một giáo đoàn non trẻ mà Phaolô rất chăm lo:
Non trẻ: Phaolô thành lập giáo đoàn này vào năm 50 trong chuyến truyền giáo thứ hai. Nhiều người đã đón nhận Tin Mừng và lập thành một cộng đoàn sống động với đức tin cậy mến sốt sắng.
Lo lắng: Nhưng Phaolô chỉ được ở với họ trong một thời gian ngắn (Cv 17,2 nói Phaolô ở với họ “3 ngày”. Có lẽ “3 ngày” này không theo nghĩa đen, chỉ có ý muốn nói là trong một thời gian rất ngắn). Sau đó do những người Do Thái mưu hại, Phaolô phải trốn khỏi đó. Tuy Phaolô đã đi xa, nhưng rất lo lắng cho giáo đoàn non trẻ này trước những đòn tấn công của kẻ thù. Vì thế Phaolô gửi thư về khuyến khích họ.
Phần đầu của lá thư này là những lời chào hỏi và khuyến khích. Ðặc biệt Phaolô khen ngợi đức tin, cậy và mến của họ: “Chúng tôi không ngừng nhớ đến những việc anh em làm vì lòng tin, những nỗi khó nhọc anh em gánh vác vì lòng mến, và những gì anh em kiên nhẫn chịu đựng vì trông đợi”.
- Gợi ý giảng
- Bổn phận công dân
“Có được phép nộp thuế cho Xêda không?” Có nhiều từ trong câu hỏi này cần được giải thích thêm cho rõ:
Thuế: không phải chỉ có ý nói tới việc đóng thuế, mà còn bao gồm tất cả những gì thuộc bổn phận công dân như: yêu nước, góp phần xây dựng đất nước, tuân thủ luật pháp, tùng phục chính quyền…
Xêda: đối với hoàn cảnh lịch sử riêng thời Ðức Giêsu thì Xêda chỉ chính quyền đang đô hộ đất nước Do Thái. Còn đối với hoàn cảnh chung của mọi thời thì chữ Xêda này nên được hiểu theo nghĩa rộng, chỉ chính quyền cách chung.
Có được phép không: Ðộng từ “được phép” ở thể thụ động, gián tiếp muốn hỏi Thiên Chúa có cho phép không.
Như thế ý nghĩa của câu hỏi này là: Theo ý Thiên Chúa thì người tín hữu có bổn phận gì đối với đất nước và chính quyền không?
Câu trả lời của Ðức Giêsu “Của Xêda hãy trả cho Xêda” là nền tảng giáo lý về bổn phận công dân: người tín hữu của Chúa cũng là công dân của một đất nước, cho nên phải chu toàn mọi bổn phận công dân một cách đầy đủ và gương mẫu.
Không phải vì là thần dân của Vua Giêsu và là công dân của Nước Trời mà người tín hữu không còn bổn phận gì đối với đất nước và chính quyền trần gian, bởi vì Nước Trời mà Vua Giêsu thành lập “không thuộc thế gian này” cho nên cũng không chống lại nước và chính quyền trần gian.
Chính Ðức Giêsu đã làm gương chu toàn bổn phận công dân: cha mẹ Ngài đã vâng lệnh hoàng đế để về quê quán khai tên (Lc 2,3-5); Ðức Giêsu bảo Phêrô đóng thuế cho ông và cho Ngài (Mt 17,24-27).
- Lợi riêng và ích chung
Người Việt Nam nói chung và người tín hữu Việt Nam nói riêng có một thiếu sót rất lớn, đó là không tích cực đóng góp cho lợi ích chung.
Những thể hiện: trốn thuế, gian lận để giảm thuế, ăn cắp của chung, không quan tâm giữ gìn tài sản chung của xã hội, ngại đóng góp để bảo trì hoặc tu sửa nhà thờ, không nhiệt tình góp “tiền rỗ” trong các thánh lễ…
Thiếu sót ấy có lẽ phát xuất từ một cách suy nghĩ rằng mình không có bổn phận gì đối với việc chung và ích chung. Từ suy nghĩ ấy, mỗi lần bỏ ra chút ít gì cho ích chung thì cho rằng đó là một việc thi ơn, một việc từ thiện.
Suy nghĩ ấy hoàn toàn sai. Góp phần cho ích chung không phải là việc tuỳ ý mà là bổn phận, không phải là bố thí mà là công bằng, bởi vì mình được thụ hưởng ích chung cho nên theo công bằng mình phải đóng góp vào đó.
Những công dân và tín hữu có trình độ suy nghĩ trưởng thành ở một số nước khác đều rất ý thức bổn phận này: đối với đất nước, họ quan tâm đóng thuế đầy đủ; đối với Hội Thánh, mỗi lần dự lễ họ đều góp “tiền rỗ”, thậm chí có người ít đi lễ mà cũng gởi tiền góp vào quỹ xứ đạo…
- “Của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa”
Vế thứ hai trong câu Ðức Giêsu trả lời là một lời nhắc nhở cho những kẻ muốn gài bẫy Ngài. Họ đều là tín đồ Do Thái giáo nhưng họ mải mê lo chuyện chính trị, kẻ thì phò theo chính quyền Rôma, người thì chống lại. Họ lại còn muốn lôi Ðức Giêsu vào vòng tranh chấp chính trị của họ nữa. Ðang khi đó thì họ rất thờ ơ với bổn phận đới với Thiên Chúa. Bởi thế Ðức Giêsu nhắc: việc chính trị thì cứ lo, nhưng đừng quên bổn phận đối với Thiên Chúa.
Ta thường nghe nói “tốt đời đẹp đạo”. Xét cho cùng, một người tín hữu có “đẹp đạo” trước thì mới dễ “tốt đời” sau, bởi vì chính “đạo” vừa dạy vừa giúp ta cách sống tốt ở “đời”.
- Chuyện minh họa
a/ Ngày nay, hai chữ “chính trị” thường được hiểu theo nghĩa xấu, “làm chính trị” bị coi là một việc nguy hiểm, như những chuyện sau đây:
– Hai vợ chồng nhà kia sinh được cậu quí tử. Ngày cậu thôi nôi, một người bạn góp ý thử xem tương lai cậu ra sao. Họ đặt trên bàn một cây vàng, một cuốn Thánh Kinh. một chai rượu và xem cậu chọn cái gì. Nếu cậu chọn vàng thì tương lai sẽ là thương gia. Nếu chọn Thánh Kinh thì là linh mục. Nếu chọn chai rượu thì cuối cùng chỉ là anh chàng bét nhè.
Rồi họ đưa cậu vào. Cậu lấy cây vàng đút túi, kẹp cuốn sách vào nách và ôm chai rượu bước ra. Thấy thế, người chồng bảo vợ: “Tốt lắm! Nhất định sau này nó sẽ là một nhà chính trị!”
– Ba người chết và về trời cùng ngày. Người thứ nhất là giáo hoàng, người thứ hai là linh mục và người thứ ba là một chính trị gia.
Thánh Phêrô dẫn họ vào thiên đường: giáo hoàng và linh mục ở trong hai túp lều nhỏ, còn nhà chính trị gia vào tòa nhà lớn.
Cả linh mục và giáo hoàng cung kính hỏi xem tại sao hai tôi tớ trung thành như họ được hưởng cuộc sống hạnh phúc ở nơi không hấp dẫn, trong khi nhà chính trị được sống trong tòa nhà vĩ đại.
Thánh Phêrô trả lời: “Này các con, ở đây đã có nhiều linh mục và giáo hoàng. Nhưng đây là nhà chính trị đầu tiên của chúng ta”.
b/ Nhưng tham gia chính trị và làm chính trị cũng là bổn phận công dân của người tín hữu. Sau đây là những tấm gương của một số tín hữu làm chính trị để phục vụ cho quyền lợi đồng bào và nhân loại:
– Dag Hammarskjold, tổng thư ký Liên hợp quốc, chết trong một tai nạn máy bay năm 1961 đang lúc ông đi thăm vùng Trung Phi. Ông không nghĩ việc ông làm chính trị là phương tiện thăng tiến xã hội, mà là thi hành ơn gọi làm tín hữu của ông. Ông nói: “Thờ ơ trước sự ác còn tệ hơn chính sự ác nữa; trong một xã hội tự do, kẻ phạm tội chỉ là một số ít, nhưng tất cả mọi người đều phải chịu trách nhiệm về tội phạm của họ”; “Không một lối sống nào thỏa mãn hơn sống mà phục vụ vô vị lợi cho đất nước và nhân loại”.
– Gandhi nói: “Tôi làm chính trị vì tôi không thể tách rời cuộc sống với niềm tin của tôi. Vì tôi tin Thượng Ðế nên tôi bước vào chính trị. Làm chính trị là cách tôi phụng sự Thượng Ðế”.
Lời nguyện cho mọi người
CT: Anh chị em thân mến
Thiên Chúa là Cha nhân từ. Người dựng nên trời đất muôn vật, và lúc nào cũng: quan tâm chăm sóc hết thảy mọi loài. Chúng ta cùng cảm tạ Chúa và dâng lời cầu xin.
- Hội Thánh luôn nhắc nhở các kitô hữu phải sống gương mẫu / tuân thủ luật pháp / mến yêu tổ quốc / sống hòa hợp với hết thảy mọi người / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu / biết luôn yêu mến tổ quốc của mình / và gương mẫu trong việc tuân giữ luật pháp.
- Người kitô hữu có thể khác nhau về quốc gia / chủng tộc / ngôn ngữ / nhưng luôn hiệp nhất trong cùng một đức tin / đức cậy và đức mến / Chúng ta hiệp lời cầu xin / cho các tín hữu luôn biết sống đoàn kết / thương yêu và nâng đỡ nhau / trong mọi tình huống của cuộc sống thường ngày.
- Người kitô hữu có hai bổn phận quan trọng / bổn phận đối với Chúa và đối với tổ quốc / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu / biết chu toàn mọi trách nhiệm đối với Chúa / và làm tròn nghĩa vụ của một người công dân tốt / là mến yêu tổ quốc / và hiệp sức cùng đồng bào xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh hơn.
- Ngoài người mẹ ruột của mình / người kitô hữu có hai người mẹ thiêng liêng khác / đó là Hội Thánh và Ðất nước / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết luôn làm tròn chữ hiếu với các bà mẹ này.
CT: Lạy Chúa, Chúa đã thương ban cho chúng con một dày non sông gấm vóc, một tổ quốc hào hùng, một dân tộc quật cường, một đất nước nhiều tiềm năng về mọi mặt. Xin cho chúng con biết hết lòng yêu mến và bảo vệ tổ quốc chúng con. Chúng con cầu xin…
- Trong Thánh Lễ
– Trước kinh Lạy Cha: Qua lời nguyện “Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”, chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng ta chu toàn những bổn phận cả đối với cả trần thế lẫn đối với Chúa.
– Sau kinh Lạy Cha: “… xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an. Xin giúp chúng con khôn ngoan biết trả cho Xêsa những gì của Xêsa, và trả cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa. Nhờ Cha rộng lòng thương cứu giúp…”
VII. Giải tán
Anh chị em đã nghe giáo huấn của Chúa về hai bổn phận. Anh chị em hãy ra về và sống “đẹp đạo tốt đời”.
(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)
Cuộc sống kẻ ít, người nhiều đều có kinh nghiệm bị dồn vào ngõ bí, dồn vào chân tường hầu như không lối thoát. Hoàn cảnh đó gây lo lắng cho cá nhân và âu lo cho thân nhân, thân hữu. Bị dồn vào chân tường ít hay nhiều lệ thuộc vào hoàn cảnh sống và công việc người đó làm. Đức Kitô trong cuộc đời rao giảng công khai cũng có kinh nghiệm bị người dồn vào chân tường. Hoàn cảnh trớ trêu này xảy ra không phải vì Ngài nói hay làm điều gì sai trái mà do ghen vì Ngài nổi tiếng hơn chúng, họ tức nên tìm cách chống đối. Căm thù vì giáo huấn của Ngài cắn rứt lương tâm họ, làm cho họ ăn không ngon, ngủ không yên, lương tâm dầy vò do những thủ đoạn xem ra tốt lành nhưng thật ra là những hành động ác độc, tội lỗi họ chủ trương nhằm thu lợi cho cá nhân. Thái độ của họ cho biết họ không những từ chối lắng nghe Chúa giảng dậy, kêu gọi họ thống hối mà còn chống lại giáo huấn của Đức Kitô. Một khi từ chối hay chống lại í kiến người khác có nghĩa là từ chối học từ người đó. Vì thế họ không học được những gì tốt đẹp, cao quí, tha thứ, yêu thương từ Đức Kitô. Thái độ kiêu ngạo này được thêm dầu bằng những cuộc họp kín với mục đích tìm cách hại Đức Kitô. Họ tin tưởng vào tài trí của nhóm gom lại sẽ thắng Đức Kitô dễ dàng vì thế họ họp kín dàn trận mong Đức Kitô sập bẫy. Cái bẫy họ giương ra xem có vẻ khiêm nhường nhưng thực tế không phải vậy bởi họ tính toán với nhau một câu hỏi mà trả lời đồng thuận thì bị trói chân tay mà trà lời bất đồng sẽ dẫn đến cái chết thảm. Họ muốn giết người nhưng không muốn tay mình vấy máu
Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật và cứ sự thật mà dậy đường lối của Thiên Chúa. Thầy cũng chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta. Vậy xin Thầy cho biết í kiến: có được phép nộp thuế cho Xêda hay không? Mat 22,16-17
Viên thuốc bọc đường này nhìn thì ngọt ngào bắt mắt nhưng nuốt vào sẽ là độc dược huỷ diệt toàn lục phủ, ngũ tạng. Đức Kitô biết rõ thâm í họ. Phần đầu của câu hỏi mang tính cách tôn giáo. Họ ca tụng Đức Kitô ngoài miệng nhưng trong lòng họ không tin điều họ nói ra. Nếu tin như những gì họ ca tụng Đức Kitô họ đã không tìm cách gài bẫy Ngài. Phần sau của câu hỏi lại dính đến chính trị đương thời và đó là mấu chốt của cái bẫy. Tất cã nhưng phần khác của câu nói chỉ trang trí, mong đánh lạc hướng người nghe. Theo họ nghĩ Đức Kitô không còn chọn lựa nào khác ngoại trừ hai câu trả lời là thuận nộp thuế hoặc chống nộp thuế. Nếu Đức Kitô dậy là nộp thuế họ sẽ ghép Ngài vào hàng ngũ những người cộng tác với ngoại bang, cộng tác với quân xâm lược đế quốc Roma mà toàn dân đang oán hận. Nếu Đức Kitô trả lời là không nên đóng thuế họ sẽ mau mắn tố cáo với đế quốc là Đức Kitô không những chống lại nộp thuế mà còn xúi dân chúng làm loạn và như thế chính Đức Kitô chọn lựa tròng thòng lọng vào cổ mình do đế quốc Roma giết chết. Đức Kitô đã không sập bẫy nhưng còn mượn dịp chúng sốt sắng lắng nghe dậy cho chúng một bài học khác biệt về của cải chóng qua, mau tàn trần thế và của cải vĩnh cửu trên nước trời.
Ngài dậy chúng những gì thuộc về trần gian là của trần gian, những gì thuộc về Thiên Chúa là của Thiên Chúa. Thật là sai lầm khi so sánh của cải hư nát trần thế với của cải muôn đời tồn tại trên Thiên Quốc.
Đầu óc con người thường bị tư tưởng chính hướng dẫn và ngày đêm tư tưởng chính đó chỉ đạo, ảnh hướng tới lối sống, cách suy nghĩ của người đó. Thí dụ tù nhân sống trong trại khổ sai, thiếu dinh dưỡng nên ngày đêm cái tư tưởng đói khát hành hạ con người. Người đang khao khát tìm việc luôn nghĩ đến cách làm sao có việc, việc gì cũng được miễn là có việc rồi hãy hay. Chính trị gia mỗi lần xuất hiện trước công chúng quan tâm chính của họ không phải là nói những gì nhưng nói sao để được tiếng. Người không may mắc bệnh nan y luôn sốt sắng nghe đâu hay là cầu nơi đó. Tương tự như vậy nhóm chống đối Đức Kitô ngày đêm luôn tìm cách làm sao hạ được Ngài, càng sớm càng tốt, càng thê thảm càng mừng. Sau khi đóng đanh Đức Kitô vào thập giá nhóm chống đối họp nhau mở tiệc mừng. Cách nhìn về cuộc sống giữa nhóm chống đối và Đức Kitô quả khác biệt không cách nào hoá giải. Họ coi Đức Kitô như là đá tảng ngăn cản con đường họ đang tiến. Không lăn được tảng đá Kitô đi họ không thể thi hành được quỉ kế bóc lột kẻ khác. Đức Kitô trái lại coi sứ mạng của Ngài nơi trần gian là mang lại sự sống vĩnh cửu, giải thoát họ khỏi đam mê tội lỗi.
Ngài xác định Ngài đến để giải thoát nên mọi thế lực trần thế cố thể dồn Ngài vào chân tường đều thất bại. Riêng Ngài tự chọn làm tảng đá góc, nền tảng hạnh phúc muôn đời cho những ai bước theo con đường Ngài hướng dẫn, đó chính là xây nhà trên nền đá.
10. Trả Thiên Chúa điều thuộc Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
Câu trả lời của Đức Yêsu trong trường hợp đặc biệt đã trở thành tiêu chuẩn nhận định và sống: “hãy trả cho Xêda điều thuộc Xêda, và trả cho Thiên Chúa điều thuộc Thiên Chúa.”
- Mỗi người đều thuộc về Thiên Chúa
Có phải mọi người đều thuộc về Thiên Chúa, hay chỉ có một số người đặc biệt thôi? Người Do Thái nhận họ là dân riêng của Thiên Chúa, được Thiên Chúa yêu thương cưng chiều, được Thiên Chúa giải phóng khỏi nô lệ Aicập; chính Thiên Chúa đã dẫn dắt họ qua những người được Ngài tuyển chọn và xức dầu. Kitô-hữu cũng nhận mình thuộc về Thiên Chúa, là con của Thiên Chúa và là những người được gọi để thừa kế cùng với Đức Kitô.
Lời Chúa trong sách tiên tri Ysaya gọi một vị vua nước ngoài là Kitô, tức người được Thiên Chúa xức dầu. Vua Xyrô là vị vua đã cho người Do Thái lưu đầy được trở về quê hương. Vua Xyrô đã hành xử theo lương tri, và như vậy vua đã làm theo thánh ý Thiên Chúa. Không phải chỉ có mình vua Xyrô, một người ngoại được là con của Thiên Chúa, nhưng tất cả những người ngoại cũng đều là con của Thiên Chúa. Với người Do Thái, chỉ có dân Do Thái là dân của Thiên Chúa, còn các dân tộc khác và cả các Kitô-hữu cũng là dân ngoại; nhưng với nhãn quan của sách tiên tri Isaya người ta có thể nói vua Xyrô và mọi người thuộc mọi dân tộc cũng đều là dân con của Thiên Chúa.
Con người là một tạo vật tuyệt vời của Thiên Chúa. Qua biến cố Đức Yêsu chết trên thập giá, con người nhận ra giá trị cao quý của mình, vì nếu không quý giá thì tại sao Thiên Chúa đã phải nhập thể làm người, tại sao Đức Yêsu đã phải chết trên thập giá. Mọi người đều thuộc về Thiên Chúa, đều có Thiên Chúa là Cha. “Của Xêda trả cho Xêda, còn những gì thuộc Thiên Chúa thì trả cho Thiên Chúa.”
- Thiên Chúa là Cha của tất cả mọi người mọi dân tộc
Mỗi người đều có Thiên Chúa là Cha. Chính Thiên Chúa tạo dựng mỗi người qua cha mẹ mình. Con cái không là điều hoàn toàn theo ý cha mẹ muốn, có những cặp vợ chồng muốn có con nhưng không có; có những cha mẹ muốn có người con gái nhưng lại sinh con trai. Con cái là hồng ân của Thiên Chúa, cho cha mẹ cũng như cho chính người con. Thiên Chúa là Cha, hiểu theo nghĩa như cha mẹ sinh con cái thì Thiên Chúa cũng tạo dựng mỗi người qua người cha người mẹ.
Mọi dân tộc đều do Thiên Chúa tạo dựng. Như một cha mẹ sinh con, nhưng chiều cao màu da mái tóc của mỗi người con cũng thường khác nhau; cũng vậy những dân tộc khác nhau đều do Thiên Chúa tạo dựng với những nét đặc biệt, tuy nhiên đều là anh em của cùng một Cha trên trời. Như cha mẹ yêu thương tất cả những người con mình sinh ra, Thiên Chúa cũng yêu thương mọi dân tộc. Dân Do Thái là một dân đặc biệt, vì qua dân Do Thái Thiên Chúa ngỏ lời với tất cả mọi người về tình yêu của Ngài đối với mọi dân tộc. Kinh Thánh tuy được viết qua dân Do Thái nhưng là lá thư tình Thiên Chúa viết cho tất cả con người của mọi dân tộc, như vậy mỗi dân tộc đều có quyền và có bổn phận phải đọc những lá thư tình yêu này.
Thiên Chúa yêu thương con người. Ngài muốn ngỏ lời với con người. Ngài đã chọn dân tộc Do Thái để ngỏ lời và diễn tả tình yêu của Ngài. Đức Yêsu, Lời Thiên Chúa nhập thể làm người, là một người Do Thái, nhưng Ngài là người của tất cả mọi người và của mọi dân tộc. Đức Yêsu là biểu tượng tình yêu Thiên Chúa cho tất cả mọi người. Qua Đức Yêsu, con người biết Thiên Chúa là Đấng yêu thương, đã yêu con người đến độ ban Con Một Ngài cho con người. Không ai yêu con người bằng Thiên Chúa, không ai yêu “tôi” bằng Thiên Chúa, không ai tin “tôi” bằng Thiên Chúa, không ai hy vọng ở “tôi” bằng Thiên Chúa. Qua Đức Yêsu, con người hiểu biết về Thiên Chúa cách rất đặc biệt. Đức Yêsu là Lời Tuyệt Vời Thiên Chúa cho con người.
- Mạng sống và tự do như những quà tặng
Con người của mọi thời đại đều bận tâm về những vấn đề rất cụ thể. Ngày xưa người ta cũng bận tâm về vấn đề nộp thuế, cũng bận tâm tìm ăn tìm mặc đến độ Đức Yêsu phải rao giảng “tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Trời, còn những điều khác như cơm áo sẽ được ban thêm cho con người.” Hôm nay, câu trả lời của Đức Yêsu cho những người gài bẫy nhằm hại Ngài nhắc nhở con người về chân lý quan trọng: “hãy trả cho Thiên Chúa điều thuộc Thiên Chúa.”
Điều thuộc Thiên Chúa là gì? Mạng sống con người, quà tặng Thiên Chúa ban cho mỗi người, cho cha mẹ, cho dân tộc, và cho con người. Mạng sống con người thuộc về Thiên Chúa. Một số người và một số nước không quý mạng sống, không đón tiếp hồng ân sự sống, nên xã hội của họ, dân tộc của họ đang ít đi, đang chết dần. Hiện tại, dân da đen châu Phi đang lan tràn ở châu Âu và châu Mỹ, vì tuy nghèo nhưng dân tộc này lại quý mạng sống. Họ sẵn sàng chấp nhận món quà Tạo Hoá ban cho họ. Một gia đình không có tiếng trẻ em, không có thế hệ trẻ, gia đình đó buồn chừng nào; cũng tương tự một nước không có nhiều người trẻ, nhìn chung quanh chỉ thấy người già, đất nước đó ảm đạm chừng nào. Một người suy nghĩ xa, sẽ thấy đất nước và dân tộc đó đi về đâu! Đó là tương lai của những dân tộc không quý trọng hồng ân sự sống mà Chúa ban và mời gọi họ đón nhận.
Tự do là quà tặng Thiên Chúa ban cho con người. Con vật không có tự do, chỉ có con người hoặc thiên thần mới có tự do. Với tự do, con người có thể hoặc trở nên tuyệt vời hoặc trở nên đồi tệ. Tự do, như một con dao hai lưỡi; tuy vậy Thiên Chúa vẫn ban cho con người như một quà tặng vô cùng quý. Thiên Chúa ban tự do cho con người, và Ngài tôn trọng tự do của con người. Ngài tạo dựng mỗi người không hỏi ý kiến mỗi người vì lúc đó con người chưa hiện diện, nhưng Ngài không ép con người lên thiên đàng để chia sẻ sự sống vĩnh cửu với Ngài. Nếu Thiên Chúa tôn trọng tự do của con người như vậy, con người cũng phải tôn trọng tự do của nhau. Cả những bậc cha mẹ cũng phải tôn trọng tự do của con cái khi chu toàn sứ mạng giáo dục con cái như Thiên Chúa trao phó.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
- Điều gì nơi bạn thuộc Xêda và điều nào thuộc Thiên Chúa?
- Một người ngoại được gọi là Đấng Kitô của Đức Chúa, điều này có nghĩa gì với bạn?
- Có dấu chỉ nào cho thấy bạn thuộc về Thiên Chúa không?
11. Trả Thiên Chúa điều thuộc Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
- Ngay cả khi không nhận biết Ngài…
Thiên Chúa kêu gọi Kyrô vua Ba-Tư, vì Thiên Chúa yêu thương con dân Israel. Thiên Chúa đã kêu gọi Kyrô ngay cả khi vua này không nhận biết Thiên Chúa. Thiên Chúa đã thắt lưng cho vua Kyrô, ngay cả khi vua “ngoại” này không nhận biết Ngài. Qua vua Ba Tư, Thiên Chúa đã thực hiện bao điều lạ lùng; cụ thể là diễn tả tình yêu của Ngài đối với dân tộc Ngài thương yêu là Israel.
Thiên Chúa yêu thương và gọi đích danh từng người chúng ta, thậm chí ngay cả khi chúng ta không nhận biết Ngài. Và bao điều tốt đẹp chúng ta lãnh nhận, đó cũng là những hồng ân của Thiên Chúa đang thực hiện cho chúng ta qua trung gian nào đó!
- Khi tôi cầu nguyện, tôi hằng nhớ đến anh em
Dân Thessalonica cũng là cớ để thánh Phaolô chúc tụng Thiên Chúa! Sự kiện một người đón nhận Tin Mừng, đó là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa hiện diện và hồng ân của Ngài đang tỏ lộ. Lòng tin, cậy, công việc bác ái mà dân Thessalonica đã thực hiện, là bằng chứng cho thấy Thiên Chúa yêu thương con người, và cụ thể là dân Thessalonica.
Thiên Chúa yêu thương dân Thessalonica; cụ thể Thiên Chúa yêu thương dân Thessalonica qua thánh Phaolô. Dân Thessalonica luôn ở trong trái tim của Phaolô; rõ ràng và cụ thể qua việc thánh nhân luôn nhớ đến dân Thessalonica trong kinh nguyện.
- Cái gì của Thiên Chúa thì trả cho Thiên Chúa
“Bọn người giả hình, các ngươi gài bẫy ta làm gì?”! Biệt phái giả hình! Tâm địa ác nhưng lại che dấu điều đó đi! Muốn gài bẫy Đức Yêsu để hại Ngài, nhưng lại làm như thể có điều không biết để xin Ngài chỉ dẫn!
Nếu người ta không làm điều xấu, thì người ta đã không giả hình. Đừng làm hại ai! Khi làm hại người khác, hoặc muốn điều xấu cho người khác, thì chính mình trở thành người bất hạnh, xấu xa!
Thiên Chúa tạo dựng tất cả đều tốt đẹp! Có cái gì không là công trình, không thuộc về Thiên Chúa? Chúng ta là công trình của Thiên Chúa. Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Ước gì chúng ta luôn ý thức mình thuộc về Thiên Chúa, để cả đời sống chúng ta là lời ca ngợi tôn vinh Thiên Chúa. Được vậy, chúng ta sẽ bình an hạnh phúc!
Các người biệt phái và thông luật không dám dùng võ lực để bắt Chúa, vì thế họ tính đến chuyện dùng mưu mẹo. Để đạt mục đích, họ tạo thêm vây cánh. Họ chọn một số đồ đệ sắc sảo, tức là những người theo học với các thầy ký lục hay tiến sĩ luật. Họ còn mời thêm những người thuộc phái Hêrôđê. Nhóm này theo một con đường chính trị rộng rãi, muốn đem văn minh Hy Lạp vào mọi cơ cấu xứ Palestin, vì thế họ rất được các nhà cầm quyền Lamã nể vì. Về phương diện tôn giáo họ theo phái Sađốc, từ lâu rồi họ liên kết với các nhà thông luật để chống lại Chúa Giêsu. Họ đặt một câu hỏi rất hóc búa: Có nên nộp thuế cho Caesar không?
Caesar là vua Lamã, tất cả xứ Palestin đều thuộc quyền Lamã, nên phải cúng tiền và đóng thuế. Người Do Thái tranh luận ráo riết liệu có nên nộp thuế cho người ngoại giáo chiếm quyền không? Nhận nộp thuế có khác chi phủ nhận quyền lợi tối cao của Thiên Chúa, là Đấng đã thương nhận cai tri dân Ngài. Nộp thuế có khác chi từ chối những đòi hỏi của quyền hành Đấng cứu thế. Đàng khác chính quyền Lamã rất nghi kỵ. Palestin còn vua nào khác ngoài Caesar.
Câu hỏi của họ là một con dao hai lưỡi. Nếu bảo rằng phải nộp thuế thì họ sẽ kết án là vong bản, còn nếu bảo rằng không thì sẽ bị kết án là phản loạn. Chúa Giêsu biết ý họ nên bảo: Hãy đưa cho Ta xem đồng tiền nộp thuế. Đó là đồng tiền được lưu hành, trên mặt có khắc chữ hoàng đế Caesar. Người Do Thái đã dùng đồng tiền này một cách không áy náy, như vậy là một việc đã rồi. Họ nhận Caesar là vua của họ. Vì thế Chúa bảo: Của Caesar hãy trả cho Caesar. Qua lời đó, Chúa dạy phải nộp thuế nhưng cùng một trật Chúa đòi cái thái độ ấy không được mâu thuẫn với quyền lợi của Thiên Chúa. Vì của Thiên Chúa phải trả cho Thiên Chúa. Và như vậy, Chúa phân biệt rõ ràng, một quyền của Thiên Chúa gọi là thần quyền và một quyền khác gọi là thế quyền. Cho đến nay nhiều người vẫn lẫn lộn hai thứ quyền đó: Tôn giáo với quê hương, thế quyền với thần quyền, nay Chúa phân tách rõ ràng không phải trái ngược nhau mà còn bổ túc cho nhau. Cả hai quyền cùng lo cho lợi ích con người. Thần quyền giúp ích cho phần hồn, thế quyền giúp ích cho phần xác. Xác hồn tuy hai mà là một. Con người chỉ là người khi có hồn và xác. Hai quyền đều chỉ phục vụ cho con người, hướng con người về với Thiên Chúa. Sự lẫn lộn rất tai hại, nhưng đồng thời sự thiếu thỏa hiệp cũng không kém tai hại, vì cả hai đều bởi Thiên Chúa và cùng đi tới một mục đích đó là lợi ích của con người.
Theo gương Chúa Giêsu, Giáo Hội ngày nay cũng muốn nói rõ những nhận định của mình về các vấn đề con người như: Văn hoá, kinh tế, xã hội, hoà bình. Trong hiến chế Vui mừng và Hy vọng, Công đồng Vatican II cũng đã xác quyết như thế. Là người Công giáo, chúng ta cũng cần có những nhận định đúng đắn về những sự kiện xảy ra theo tinh thần Phúc Âm, để có thể sử dụng khôn khéo và tích cực. Tuy nhiên cần noi theo gương Chúa Giêsu, luôn luôn là dấu chỉ của sự hiệp nhất và cố gắng dung hoà cũng như tạo được sự tốt đời đẹp đạo.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Hữu)
CỦA CÉSAR TRẢ CHO CÉSAR, CỦA THIÊN CHÚA TRẢ CHO THIÊN CHÚA
Tiền tệ là phương tiện trao đổi mua bán giữa con người với nhau trong đời sống xã hội. Để khẳng định quyền làm chủ của mình, thường mỗi quốc gia đều có đồng tiền riêng.
Đế quốc Rôma có đồng tiền riêng của mình. Đồng tiền này in hình các vị vua trong đế quốc. César và các hoàng đế trong đế quốc Rôma cho in hình ảnh của mình trên đồng tiền, nhưng Thiên Chúa thì lại in hình ảnh của Ngài nơi muôn loài muôn vật, nhất là nơi con người (x. St 1,27). Điều đó cho thấy, César và các hoàng đế Rôma chỉ có quyền làm chủ trong đế quốc Rôma. Còn Thiên Chúa, thì làm chủ trời đất muôn loài muôn vật, kể cả loài người và trong đó có cả hoàng đế Rôma nữa.
“Cái gì của César thì hãy trả cho César và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa”. Đồng tiền in hình của César thì hãy trả lại cho ông. Trời đất, muôn loài muôn vật và loài người in hình ảnh của Thiên Chúa thì hãy trả về cho Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã dạy như vậy, khi những người biệt phái đến hỏi Ngài: “Thưa Thày, có được phép nộp thuế cho César không?”
Thật công bằng, chính đáng và phải đạo! Ngoài bổn phận phải vâng lời các vua chúa trần gian, Chúa Giêsu còn nhắc con người chúng ta còn phải vâng lời Thiên Chúa. Ngoài nghĩa vụ xây dựng trần thế, con người chúng ta còn phải có bổn phận xây dựng Nước Trời. Vì con người là xác hồn nhập thể, có sự sống đời này và sự sống đời sau…
Quả thật, con người là công dân trong một đất nước thì phải chu toàn nghĩa vụ, bổn phận của người công dân theo như luật pháp quốc gia đã định, một khi luật pháp ấy phù hợp với công ích, không trái ngược với lương tâm và phẩm giá của con người.
Con người cũng là công dân Nước Trời, được Thiên Chúa dựng nên giống hình ảnh Ngài, nên con người có bổn phận phải xây dựng Nước Trời và phải trả lẽ trước Thiên Chúa những gì con người đã lãnh nhận từ nơi Ngài. Từ vua quan cho đến thứ dân, ai cũng phải trả lẽ trước Thiên Chúa, không ai được miễn trừ. Cyrô vua Ba-tư, César hoàng đế Rôma, hay bất kể vua quan trần thế nào cũng thế thôi, tất cả đều phải thần phục Thiên Chúa, tất cả đều phải ra trước tòa Chúa mà chịu phán xét về những việc lành dữ mình đã làm.
Lạy Chúa, mất những đồng tiền in hình ảnh của César, người ta tiếc xót, người ta ra công gắng sức tìm kiếm. Tìm lại được người ta vui mừng hớn hở, mời gọi mọi người đến chia vui (x. Lc 15,8-9).
Mất con người mang hình ảnh mình, Thiên Chúa cũng tiếc xót, Thiên Chúa cũng tìm kiếm như chủ chiên băng đèo lội suối đi tìm chiên lạc. Tìm lại được, Thiên Chúa cùng các thần thánh trên trời vui mừng và mở tiệc ăn khao (x. Lc 15,4-7).
Xin cho chúng con ở đời này, đừng bao giờ liều mình phạm tội làm méo mó và hoen ố hình ảnh Chúa nơi chúng con, nhưng xin cho chúng con biết chăm sóc, gìn giữ hình ảnh Chúa nơi chúng con luôn được trong sáng và nguyên vẹn, bằng một đời sống thánh thiện, mến Chúa yêu người và chu toàn bổn phận, để mai ngày chúng con xứng đáng ra trình diện trước tòa Chúa. Amen.
(Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành)
Biệt phái là một nhóm tín đồ Do Thái giáo, thông thạo Lề Luật, giữ luật cách nhiệm nhặt theo mặt chữ, tự cho mình là thánh thiện, sống tách biệt với dân nghèo và dân ngoại. Họ tin linh hồn bất tử, tin có đời sau, tin các thiên thần. Nhưng cuộc sống của họ thường đối nghịch với Chúa Giêsu (x. Mc7,5; 8,11; 10,2; 12,13), có óc nệ luật (x. Lc 6,1-5), chi ly (x. Mt 23,23-24), tự cao tự đại (x. Mt 18, 11-12), và nhất là giả hình (x. Mt 23,3-6). Chính vì thế, nhiều lần Đức Giêsu đã tố cáo sự giả hình của họ, Ngài không ngần ngại ví họ như “mồ mả tô vôi” (x. Mt 23). (x. Tiểu ban Từ vựng – UBGLĐT/HĐGMVN)
Bản chất giả hình của những người Biệt phái lại một lần nữa được họ thể hiện một cách rõ nét trong đoạn Tin mừng hôm nay (x. Mt 22,15-21). Thật vậy, Thánh Mathêu cho chúng ta biết, họ dùng những lời ngon ngọt để nịnh hót, tâng bốc, ca ngợi Đức Giêsu: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người ngay chính, căn cứ theo sự thật mà dạy bảo đường lối Thiên Chúa. Thầy chẳng cần để ý đến ai, vì Thầy không tây vị người nào.” (Mt 22,16). Nội dung của những lời nói này không có gì sai, thậm chí còn rất đúng với bản chất vốn có của Đức Giêsu. Giá như họ nói những lời đó với một tấm lòng yêu mến, tôn trọng và chân thật trong lòng thì tốt biết mấy. Nhưng thực tế miệng họ nói những lời ngon ngọt như vậy không phải phát xuất từ lòng yêu mến, tôn trọng và chân thật trong lòng mà để che đậy ác ý của họ từ bên trong. Bởi vì, sau khi nịnh hót, tâng bốc, ca ngợi Đức Giêsu, họ đưa ra một câu hỏi hết sức hóc búa để gài bẩy Ngài. Họ hỏi: “Xin Thầy nói cho chúng tôi biết Thầy nghĩ thế nào: Có được phép nộp thuế cho Cêsarê hay không?”(Mt 22,7). Đúng là“miệng nam mô bụng bồ dao găm.” Với câu hỏi này, nếu Đức Giêsu trả lời “có” thì đồng nghĩa với việc Ngài ủng hộ chính quyền ngoại bang Rôma đang đô hội Nước Do Thái lúc bấy giờ, mà chính họ được coi là những người ái quốc đang chống lại chính quyền đó. Cho nên, Đức Giêsu sẽ bị chính họ và dân chúng lên án là kẻ phản quốc. Ngài sẽ mất uy tín với dân chúng. Ngược lại, nếu Đức Giêsu trả lời “không” thì Ngài sẽ bị liệt vào kẻ phản động, chống đối chính quyền, bị nhóm Hêrôđê lên án. Bởi vì nhóm Hêrôđê là những kẻ “cọng rắn cắn gà nhà”, họ ủng hộ chính quyền Rôma để trục lợi. Cho nên, chúng ta mới hiểu vì sao bình thường giữa nhóm Biệt phái và nhóm Hêrôđê hay chống đối nhau, thế mà hôm nay họ lại được nhóm Biệt phái mời đến để hợp tác chống lại Đức Giêsu.
Như thế, họ đã đưa Đức Giêsu vào cái thế “lượng đao luận”, nghĩa là trả lời cách nào cũng mắc bẫy của họ. Nhưng “vỏ quýt dày có móng tay nhọn”. Sau khi nghe những lời tâng bốc và câu hỏi của họ đặt ra, Đức Giêsu đã tố cáo ý đồ thâm độc của họ và Ngài đưa ra giải pháp của mình, Ngài nói: “Bọn người giả hình, các ngươi gài bẫy Ta làm gì? Hãy đưa Ta xem đồng tiền nộp thuế”. Họ đưa cho Người một đồng bạc. Và Chúa Giêsu hỏi họ: “Hình tượng và danh hiệu này là của ai?” Họ thưa rằng: “Của Cêsarê”. Bấy giờ Người bảo họ rằng: “Vậy, cái gì của Cêsarê thì hãy trả cho Cêsarê, và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa.” (Mt 22,18-21).
Câu trả lời của Đức Giêsu khiến họ chưng hửng, nhưng qua câu trả lời này cũng dạy cho họ và chúng ta một bài học: Mỗi người đều có bổn phận đối với Tổ quốc và đối với Thiên Chúa.
- Bổn phận đối với Thiên Chúa
– Chu toàn bổn phận đối với Thiên Chúa:
Người kitô hữu tin Thiên Chúa là Cha, là Đấng dựng nên, cứu chuộc, quan phòng và muốn mọi người được hưởng hạnh phúc Nước Trời. Kinh thánh cũng dạy mọi người phải biết Kính sợ, yêu mến và biết ơn Thiên Chúa: Thật vậy, con người phải biết kính sợ Thiên Chúa: “Hỡi Israel, nào Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, có đòi hỏi anh em điều gì khác đâu, ngoài việc phải kính sợ Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em.” (x. Đnl 10,12); Con người phải biết yêu mến Thiên Chúa, yêu mến bằng cách tuân giữ các giới răn và lệnh truyền của Ngài: “Anh em phải đi theo mọi đường lối của Người, yêu mến phụng thờ Người hết lòng, hết dạ, giữ các mệnh lệnh của Đức Chúa và các thánh chỉ của Người mà tôi truyền cho anh em hôm nay, để anh em được hạnh phúc.” (x. Đnl 10,12-13); Con người phải biêt tạ ơn Thiên Chúa: “Hãy tạ ơn Thiên Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.” (Tv 118,1); “Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh”(1Tx 5,18); “Chúng tôi không ngừng tạ ơn Thiên Chúa” (x. 1Tx 2,13).
– Trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Ngài:
Thiên Chúa ban cho con người có tự do, nhưng con người đã lợi dụng tự do để cướp đi quyền làm chủ của Thiên Chúa: Con người cướp đi quyền làm chủ sự sống của Thiên Chúa để giết chết bao nhiêu mạng người: Vụ xả súng mới đây tại bang Las Vegas của Mỹ đã giết chết 59 người; vấn đề phá thai, an tử hằng năm giết chết hàng triệu người vô tội; Con người cướp đi quyền làm chủ thiên nhiên của Thiên Chúa: nạn phá rừng gây ra lũ lụt, dùng thuốc sâu, chất hóa học gây ô nhiễm môi trường; Con người cướp đi quyền làm chủ lương tâm, không còn nghe theo tiếng lương tâm để làm lành lánh dữ nên gây ra biết bao nhiêu tội ác; Con người cướp đi quyền sở hữu của Thiên Chúa qua sự quản lý của Giáo hội về các vấn đề như: đất đai, cơ sở tôn giáo; Người của Thiên Chúa như các giám mục, linh mục, tu sỹ bị hành hung, đánh đập, giết chết nhiều nơi trên thế giới…Đức Giêsu nói: “Hãy trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa” (x. Mt 22,21).
- Bổn phận đối với Tổ quốc
Mỗi người đều có một tổ quốc, có quyền công dân. Đi liền với quyền lợi là bổn phận đối với tổ quốc của mình. Bổn phận trên hết và trước hết là nộp những khoản thuế hợp pháp cho nhà nước. Thời Chúa Giêsu, người Do thái bị đế quốc Rôma đô hộ, nên họ đang tiêu dùng tiền Rôma. Vì tiêu dùng tiền của Rôma nên đương nhiên họ phải nộp thuế cho đế quốc Rôma. Đây là một hành động hợp lý mang tính xã hội. Chính gia đình Thánh gia và cụ thể là chính Đức Giêsu cũng đã từng chu toàn nghĩa vụ công dân của mình. Kinh thánh cho biết: Thánh Giuse và Mẹ Maria đã vâng lệnh nhà vua trở về Bêlem để kê khai hộ khẩu (x. Lc 2,4); Đức Giêsu đã sai Phêrô đi câu cả để lấy tiền nộp thuế cho Ngài và cho Phêrô (x. Mt 17,26); dù biết lệnh bất công nhưng Ngài vẫn để cho chính quyền bắt Ngài (x. Lc 23,22). Thánh Phaolô dạy: “Anh em nợ ai cái gì, thì hãy trả cho người ta cái đó: nộp sưu cho người đòi sưu, trả thuế cho người đòi thuế, sợ người phải sợ, kính người phải kính.” (Rm13,7)
Ngoài ra, nếu chính quyền là hợp pháp và làm đúng với nghĩa vụ của họ thì buộc lòng người dân phải vâng phục và kính nể. Thánh Phêrô đã từng bảo các kitô hữu rằng: “Hãy tôn trọng mọi người, hãy yêu thương anh em, hãy kính sợ Thiên Chúa, hãy tôn trọng nhà vua.” (1Pr 2,17). Thánh Phaolô thì bảo các Kitô hữu: “Mỗi người phải phục tùng chính quyền, vì không có quyền bính nào mà không bởi Thiên Chúa, và những quyền bính hiện hữu là do Thiên Chúa thiết lập.” (Rm 13,1). Chính trong bài đọc thứ nhất cho chúng ta biết, Thiên Chúa đã dùng vua Cyrô để giải phóng dân Ngài, nên việc làm của vua Cyrô chính là đường lối của Thiên Chúa. Vì vậy, dân Chúa phải tùng phục nhà vua.
- Phải ưu tiên bổn phận đối với Thiên Chúa
Nếu những khi bổn phận đối với Tổ quốc đi ngược lại với bổn phận đối với Thiên Chúa thì phải ưu tiên bổn phận đối với Thiên Chúa hơn. Bởi vì, người kitô hữu không thể làm những điều trái với giáo huấn của Thiên Chúa, của Đức Giêsu và kể cả giáo huấn của Giáo hội. Chính Thánh Phêrô và các Tông đồ đã khẳng định rằng: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm” (Cv 5,29). Câu chuyện của Thánh Thomas More sau đây là mẫu gương cho mỗi người kitô hữu chúng ta:
Vua Henry VIII nước Anh đã kết hôn hợp thức với bà Catherine d’Aragon, nhưng ông nại đến tòa thánh Rôma xin hủy bỏ cuộc hôn nhân đó. Toà thánh đã từ chối. Henry liền tự mình giải quyết vấn đề và tái kết hôn. Thế là ông ta ra lệnh cho bạn bè và các chức sắc ký vào một văn bản tuyên bố đồng ý nhìn nhận hành động của ông là đứng đắn. Nhiều bạn bè của More đã ký vào, nhưng More thì từ chối. Henry yêu cầu More ký vào, nếu không sẽ bị bắt giam và xử tội tạo phản theo luật nhà nước. More vẫn khăng khăng từ chối. Ngài bị giằng co giữa hai bổn phận: một đối với Chúa, một đối với Tổ quốc. Khi chúng xung đột nhau, thì More không còn chọn lựa nào ngoài sự trung tín với luật Chúa. (M. Link, Giảng lễ Chúa nhật, năm A, tr.305).
Tóm lại, mỗi người kitô hữu có hai bổn phận quan trọng phải chu toàn, đó là bổn phận đối với Thiên Chúa và bổn phận đối với Tổ quốc. Nhưng khi phải lựa chọn một trong hai thì cần ưu tiên bổn phẩn đối với Thiên Chúa hơn. Xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết tránh thói giả bình của Biệt phái và sự thông đồng ác ý của nhóm Hêrôđê. Đồng thời, xin Chúa giúp chúng ta luôn biết chu toàn bổn phận đối với Thiên Chúa và bổn phận đối với Tổ quốc. Amen.
15. Yêu nên ghen! – Anmai, CSsR
Một đứa bé ghen với em mình khi bố mẹ đều dành hết tình cảm cho thằng cu Tí mới sinh. Một em bé khóc thét lên khi mẹ bế một em bé khác… Lớn hơn một chút là ghen với đứa bạn học cùng lớp khi nó được thầy cô quý mến hơn hay được nhiều bạn bè mến mộ hơn. Khi đến tuổi trưởng thành rồi thì ghen với người yêu với người bạn đời khi họ có biểu hiện không chung thủy. Thậm chí khi làm cha làm mẹ rồi họ vẫn còn ghen. Ghen với đứa con nhỏ mới sinh khi “thằng nhóc” dành hết sự quan tâm của vợ, ghen… với con dâu, nhiều bà mẹ có cảm giác mất con trai.
Ghen, một “phẩm chất” cố hữu của tình yêu đôi lứa, một điều nghe đã quá đỗi bình thường nhưng lại không hề cũ trong mọi thời đại.
“Phẩm chất” này đã tồn tại lâu đời, như một thực tại khách quan trong ý thức hệ của con người từ lúc sinh ra và có thể còn tồn tại mãi mãi cùng với cuộc sống.
Bản chất của tình yêu là không thể chia sẻ. Bất cứ một sự chia sẻ nào cũng làm cho tình yêu trở nên không trọn vẹn và mất đi sự thiêng liêng của thứ vốn có tính bền vững vĩnh cửu trong đời sống tinh thần của con người.
Khi đã đem lòng yêu ai, người ta chỉ muốn người ấy chỉ là của riêng mình. Một cách tuyệt đối. Theo đó, những người yêu chưa hết mình, theo kiểu nửa vời hoặc những kẻ tính toán, hẳn nhiên không thể có cái “ghen nồng nàn”, đáng yêu, đẹp đẽ như một người có sự trao gửi tuyệt đối về tư tuởng và hành động đối với người mình yêu.
Lời ngôn sứ Isaia mà chúng ta vừa nghe đã gợi lại cho chúng ta về hình ảnh của một Thiên Chúa ghen tuông. “Ta là Đức Chúa, không còn chúa nào khác; chẳng có ai là Thiên Chúa, ngoại trừ Ta. Dù ngươi không biết Ta, Ta đã trang bị cho ngươi đầy đủ, để từ Đông sang Tây, thiên hạ biết rằng chẳng có thần nào khác, ngoại trừ Ta. Ta là Đức Chúa, không còn chúa nào khác”.
Lời ngôn sứ ấy đã tả về một Thiên Chúa phải nói là quá ghen tương “chẳng có thần nào khác, ngoại trừ Ta”. Nếu ai nghe Đức Chúa nói câu này cũng sẽ rất sốc. May mà câu nói này nó đặt trong bản văn Kinh Thánh và có đầu có đuôi, có nguyên nhân chứ không Đức Chúa cũng bị các phương tiện truyền thông cắt đầu cắt đuôi và sẽ “cảnh cáo” là người không xứng đáng là công dân Nước Trời chứ huống hồ gì là Chúa của Nước Trời. Mà cũng đúng thôi, nghe qua sốc thật. Nhưng, chúng ta hãy bình tình, ngồi lại với nhau đọc lại, nhìn lại lịch sử cứu độ mà Thiên Chúa thực thi cho dân Ngài thì chúng ta sẽ hiểu rõ văn mạch của đoạn này. Cũng thế! nếu chúng ta đọc lại toàn bộ bản văn phát biểu của Đức Tổng Giuse Ngô Quang Kiệt, tâm tình, thao thức của Ngài, chúng ta sẽ hiểu được Ngài muốn nói gì.
Tại sao Đức Chúa lại phán như thế? Không phải tự nhiên mà Ngài phán như thế! Chúng ta, khi nhìn lại lịch sử cứu độ thì chúng ta thấy Đức Chúa có ý và có lý chứ không phải là không không mà Đức Chúa nói như thế.
Từ thuở tạo thiên lập địa, Thiên Chúa đã tạo nên trời đất muôn vật, tạo nên con người có nam có nữ và Ngài cũng không quên thiết lập mối quan hệ, mối tương quan và nói đúng hơn là mối tình với con người. Thế nhưng, chẳng bao lâu thì ông bà nguyên tổ đã sa ngã, đã phạm tội và đã đánh mất đi cái tình yêu tinh tuyền tự ban đầu. Và cứ tiếp tục như thế, Thiên Chúa đã yêu thương con người nhưng hình như con người cứ cố tình ngoảnh mặt làm ngơ và khước từ cái tình yêu ấy. Không từ bỏ, không đoạn tuyệt, Thiên Chúa vẫn một lòng chờ đợi lòng chai dạ đá của con người sẽ thay đổi nhưng chờ mãi vẫn không thấy.
Qua miệng của các ngôn sứ, Thiên Chúa đã nhiều lần ngon ngọt có, răn đe có nhưng lòng dạ của con người cứ trơ trơ ra vậy.
Qua Môsê, người trung gian giữa Thiên Chúa và con người, Thiên Chúa đã phán: “Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã đưa ngươi ra khỏi Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ. Ngươi không được có thần nào khác đối nghịch với Ta. Ngươi không được tạc tượng vẽ hình bất cứ vật gì ở trên trời cao cũng như dưới đất thấp, hoặc ở trong nước phía dưới mặt đất, để mà thờ. Ngươi không được phủ phục trước những thứ đó mà phụng thờ: vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, là một vị thần ghen tương. Đối với những kẻ ghét Ta, Ta phạt con cháu đến ba bốn đời vì tội lỗi của cha ông. Còn với những ai yêu mến Ta và giữ các mệnh lệnh của Ta, thì Ta trọn niềm nhân nghĩa đến ngàn đời. Ngươi không được dùng danh Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi một cách bất xứng, vì Thiên Chúa không dung tha kẻ dùng danh Người một cách bất xứng. Ngươi hãy giữ ngày sa-bát, mà coi đó là ngày thánh, như Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã truyền cho ngươi. (Tl 6,6-12)
Hơn một lần Môsê đã cảnh báo: “Nếu các ngươi thực sự vâng nghe những mệnh lệnh Ta truyền cho các ngươi hôm nay, mà yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, và phụng thờ Người hết lòng hết dạ, thì Ta sẽ ban mưa cho đất các ngươi đúng mùa, mưa đầu mùa và mưa cuối mùa, và các ngươi sẽ thu hoạch lúa mì, rượu mới và dầu tươi của các ngươi. Ta sẽ cho cỏ mọc trong cánh đồng của các ngươi, cho súc vật của các ngươi ăn. Các ngươi sẽ được ăn và được no nê. Anh em hãy ý tứ kẻo lòng anh em bị quyến rũ mà bỏ đi phụng thờ những thần khác và sụp xuống lạy chúng, vì Đức Chúa sẽ nổi cơn thịnh nộ với anh em, Người sẽ đóng cửa trời: sẽ chẳng còn mưa, đất sẽ không còn trổ sinh hoa trái, và anh em sẽ mau chóng biến khỏi miền đất tốt tươi mà Đức Chúa ban cho anh em. Những lời tôi nói đây, anh em phải ghi lòng tạc dạ, phải buộc vào tay làm dấu, mang trên trán làm phù hiệu. Anh em phải dạy những lời ấy cho con cái, mà nói lại cho chúng, lúc ngồi trong nhà cũng như lúc đi đường, khi đi ngủ cũng như khi thức dậy. Anh em phải viết lên khung cửa nhà anh em và lên cửa thành của anh em. Như vậy, bao lâu trời còn che đất, anh em và con cái anh em còn được sống trên đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã thề với cha ông anh em rằng Người sẽ ban cho các ngài.”. (Tl 11,13-21).
Thiên Chúa, vì lẽ quá yêu thương con người nên Ngài đã lập một giao ước tình yêu với con người, thế nhưng con người cứ ngoảnh mặt đi với tình yêu ấy.
Chắc có lẽ chúng ta không thể nào quên được cái sự kiện khi mà Môsê lên núi để đàm đạo với Chúa thì ở dưới núi, dân chúng đã đúc bò vàng… chưa hết, dân chúng sau này còn đi theo thần ngoại bang để rồi ngày hôm nay, chúng ta được nghe Isaia cảnh báo.
Tưởng chừng Cựu Ước là kinh nghiệm lớn chuyện tình giữa con người và Thiên Chúa nhưng con người thời Tân Ước cũng thế! Cũng chạy theo không biết bao nhiêu là thần khác để rồi ngày hôm nay khi những người Pharisiêu và những người muốn Chúa mắc bẫy đã chửi thẳng vào mặt họ: “Hỡi những kẻ giả hình! Người còn nói với họ: “của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa.” Nói như thế, Ngài muốn nói với Pharisiêu, những người thử Ngài và thậm chí ngay cả những người chúng ta rằng những gì của Thiên Chúa trả về cho Thiên Chúa.
Vâng! Chúng ta là con cái của Thiên Chúa, chúng ta phải sống sao cho ra con cái Thiên Chúa chứ đừng sống theo kiểu người đời. Thánh Phaolô hơn một lần đã nhắc nhở chúng ta: “Anh em đừng có rập khuôn theo đời này! Chúng ta, hôm nay có cơ hội để nhìn lại mình xem chúng ta sống như thế nào? Chúng ta có sống với tư cách là con cái Thiên Chúa hay không hay là chúng ta sống theo tư cách của người đời.
Chúng ta phải nhớ một điều rằng, qua trang sách Isaia Thiên Chúa có cái thái độ gì đó mà ta nôm na gọi là ghen! Tại sao ghen! Tại vì yêu quá nên ghen và khi con người quay lưng thì Thiên Chúa cảnh báo.
“Chúa có tình yêu cao vời vợi,
tình vượt cao hơn ngàn vì sao
mãi mãi luôn bao la, muôn đời con cảm tạ tình Cha
Mãi mãi Chúa là cha nhân ái, là mẹ hiền nuôi sống con”.
Chúng ta vẫn thường hát như vậy nhưng tình ta và tình Chúa như thế nào? Ta có khá hơn những người dân trong thời Cựu Ước, chúng ta có khá hơn luật sĩ, biệt phái thời Tân Ước hay không? Hình như nó chẳng khá hơn mà nó còn tệ hơn nữa. Chúa thường hay trách móc biệt phái và luật sĩ nhưng thử hỏi chúng ta có giữ luật Chúa bằng họ không? Nếu so sánh thì chúng ta khác quá xa. Tình Chúa thì vẫn còn còn tình của ta với Chúa nó nhạt nhạt làm sao đấy.
Tình ta và Chúa đã nhạt thì tình con người làm gì mà mặn được?
Nhìn vào thực trạng đời sống mỗi người chúng ta ngày hôm nay nó làm sao đó để rồi cuộc đời nó cũng làm sao đó. Xã hội nó làm sao đó, gia đình nó làm sao đó, thành viên trong gia đình nó làm sao đó để rồi cái tình, cái nghĩa giữa con người ngày hôm nay nó cũng không được đong đầy. Chúng ta thấy nó nhợt nhạt nhưng chúng ta cứ lờ đi, chúng ta không nhắc nhở nhau để sống với nhau chung tình chung thuỷ hơn.
Thật sự ra mà nói, có yêu mới có ghen chứ chẳng ai dại đi ghen khi không yêu. Chúa quá yêu nên Chúa mới ghen và nhắc chúng ta không có thần nào khác ngoài Chúa. Chúng ta ngày hôm nay thì quá sức tưởng tượng, chúng ta chạy theo đủ thứ thần hết: tiền, tình, dục, danh, vọng… chúng ta làm thế làm sao mà Chúa không ghen được?
Còn gia đình, nó cứ nhợt nhợt với nhau làm sao đó. Chúng ta nhìn lại mình, xem mình có yêu chồng, yêu vợ, yêu con cái, yêu thành viên trong gia đình, trong cộng đoàn mình chưa?
Nguyện xin Chúa là vua của tình yêu đổ đầy con tim chúng ta tình yêu nồng nàn để chúng ta yêu Chúa, yêu anh chị em đồng loại hơn.
16. Của Thiên Chúa, trả cho Thiên Chúa
(Giải thích Tin Mừng của Lm. Louis Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Sau ba dụ ngôn (21,28-32; 22,33-41 và 22,1-14) liên quan trực tiếp đến các lãnh đạo tôn giáo: thượng tế, kỳ lão (21,23) và người Pharisêô (21,45), Matthêô trình bày bốn tranh luận giữa Chúa Giêsu với những người nầy trong phần còn lại của chương 22: 1/ Người Pharisêô và nhóm người Hêrôđê và việc nộp thuế cho Cêsarê (cc. 15-22), 2/ Người Sađucêô và sự sống lại (cc. 23-33), 3/ Người Pharisêô và điều răn trọng nhất (cc. 34-40), 4/ Người Pharisêô và nguồn gốc Đức Kitô (cc. 41-46). Từ logos, “lời”, (22.15 và 46) đóng khung phần nầy. Người Pharisêô, xuất hiện trong tranh luận thứ nhất và cuối cùng, đã tìm cách đặt bẫy Chúa Giêsu trong lời nói (c. 15), chính họ đã không thể nói lời nào. Họ đã không thể bắt bẻ những câu trả lời của Ngài; do đó không còn dám đặt vấn đề với Ngài nữa (c. 46).
Tranh luận đầu tiên là việc nộp thuế cho Cêsarê (22,15-22). Về mặt nội dung, đoạn nầy liên hệ về chủ đề với các dụ ngôn trên, cách riêng với dụ ngôn “Các tá điền vườn nho” (21,33-46): nộp/trả cho Thiên Chúa hoa trái/phần thuộc về Ngài. Có thể phân chia bố cục đoạn nầy như sau: Dẫn nhập (c. 15); tranh luận về việc nộp thuế (cc. 16-21); kết luận (c. 22).
Dẫn nhập (c. 15)
Người Pharisêô vẫn giữ ý định bắt Chúa Giêsu (x. 21,46). Matthêô cho thấy điều nầy ngay trong câu dẫn nhập (c. 15). Trước tiên, họ “bàn mưu”. Cụm từ nầy chỉ được dùng cho những người lãnh đạo. Họ chỉ “bàn mưu” để làm hại và giết Chúa Giêsu (12,14; 22,15; 27,1.7; 28,12). Ở đây họ bàn mưu “đặt bẫy Ngài trong lời nói”. Matthêô dùng động từ pagideuō, “đặt bẫy” thay vì anreuō trong Mc 12,13. “Đặt bẫy trong lời nói”, pagideusōsinen logō, nghĩa là người ta đặt ra một vấn nạn nào đó để cho người trả lời có thể bị tố cáo ngược lại căn cứ vào một vài lời nói trong câu trả lời của họ. Ở những chỗ khác, những người nầy đặt cho Chúa Giêsu những câu hỏi để “thử” Ngài, peirazō, nghĩa là để biết Ngài suy nghĩ gì hoặc phán đoán như thế nào (x. 16,1; 19,3; 22,35). Trong ngữ cảnh của đoạn nầy, động từ peirazō, trong câu Chúa Giêsu tố cáo thâm ý của họ (c. 18), có nghĩa tương tự như động từ pagideusōsin.
Tranh luận về việc nộp thuế (cc. 16-21)
Phần chính của trình thuật nầy có thể phân chia làm hai: – Lời khen ngợi và câu hỏi về việc nộp thuế (cc. 16-17), – Lời tố cáo và câu trả lời của Chúa Giêsu (cc. 18-21). Cả hai bên, các đồ đệ của người Pharisêô và Chúa Giêsu, đều có nhận xét về nhau trước khi đặt câu hỏi và câu trả lời. Qua những lời nầy, Matthêô cho thấy sự tương phản giữa hai bên.
Lời khen ngợi và câu hỏi về việc nộp thuế (cc. 16-17)
Trước tiên, Người Pharisêô gọi Ngài là “Thầy” (c. 16); cách gọi nầy chỉ thấy trong các trình thuật tranh luận ở chương 22 nầy (22,16.24.36) và ở 12,38; nơi khác họ gọi Ngài là “Thầy của các anh (các môn đệ) (9,11). Tiếp đến, Ngài là “Đấng chân thật”, alēthēs, Ngài “dạy đường lối của Thiên Chúa trong sự thật”, alētheia; ở đây có một cấu trúc đối đảo nhỏ: a. “Thầy” – b. “chân thật” – c. “đường lối của Chúa” – b’. “sự thật” – a’. “dạy”; cấu trúc nầy nhấn mạnh ở “đường lối của Thiên Chúa”. Chúa Giêsu là thầy, là Đấng chân thật, vì Ngài dạy “đường lối của Thiên Chúa”; Gioan Tẩy giả được nói là “đến trong sự công chính” (21,32). Sau cùng, Ngài “không bận tâm người nầy người nọ, vì Ngài không nhìn vẻ bên ngoài”, nghĩa là Ngài không thiên vị; phẩm tính nầy của Thiên Chúa được áp dụng cho Ngài (x. Đnl 10,17; Cv 10,34; Rom 2,11; Giacôbê 2,9). Vậy họ xem Chúa Giêsu, ít là cách bên ngoài và qua những lời nầy, như là người của Thiên Chúa.
Người Pharisêô đặt với Chúa Giêsu câu hỏi về việc nộp thuế cho hoàng đế. Thuế nầy tính theo đầu người, được thu ngang qua các cuộc kiểm tra dân số (Lc 2,1-5; Cv 5,37). Mỗi năm là một đồng bạc (E. Schürer, The History of the Jewish People in the Age of Jesus Christ, ed. by G. Vermes – F. Millar, Edinburgh, 1973 -, 1, pp. 399–427). Vấn đế nộp thuế được đặt ra trong tương quan với lề luật của Thiên Chúa; exestin có nghĩa là “được phép”, “đúng luật”. Mỗi lần đặt ra vấn đề “được phép/đúng luật”, người Pharisêo thường cho là không đúng luật. (12,2.10; 19,3; 22,17). Ở đây Chúa Giêsu đã không trả lời “có” (x. 12,2.10.12), mà cũng không trả lời “không” (x. 19,3). Nếu Ngài trả lời “có”, sẽ có người phản đối Ngài, vì nhiều người Do thái chống lại việc nộp thuế, như Giuđa người Galilê (x. Josephus, Bell, 2-118). Nếu Ngài trả lời “không”, họ có thể tố cáo Ngài là người nổi loạn. Chúa Giêsu trả lời theo cách của Ngài, chứ không đi vào trong cái bẫy “có” hoặc “không” của người Pharisêô.
Nhận xét và câu trả lời của Chúa Giêsu (cc. 18-21)
Các câu 18-21 trình bày giải đáp của Chúa Giêsu. Tên của Chúa Giêsu, Iēsous, được đưa vào ngay đầu câu để đối lại với tên của nhóm người Pharisêô và Hêrôđê (c. 16). Họ đến hỏi chuyện nộp thuế cho hoàng đến, Chúa Giêsu nói thêm trách nhiệm cá nhân đối với Thiên Chúa.
Câu 18 trình bày nhận xét của Chúa Giêsu về người Pharisêô.Ngài nhận ra lòng “xấu xa”, ponēria, nơi họ (c. 18). Những điều họ nhận xét về Ngài rất đúng, nhưng vì những lời ấy phát xuất từ ý đồ “bàn mưu đặt bẫy”, nên đó là những lời bất lương, và “xấu xa” của họ là không có sự chân thật nơi mình.
Các câu 19-21 giải đáp câu hỏi về nộp thuế. Trước tiên, Ngài yêu cầu, bằng câu mệnh lệnh, người ta đưa cho Ngài một đồng tiền nộp thuế (c.19a). Rồi Ngài đặt câu hỏi và để họ trả lời (cc. 20-21a). Hình ảnh trên đồng tiền là của hoàng đế Tiberius (A.D. 14-37), với hàng chữ bằng tiếng Latinh: Augustus Ti(berius) Caesar Divi Aug(usti) F(ilius), “Tiberius Caesar, con thần linh Augustus”. Các chi tiết nầy muốn nói là đồng tiền nầy thuộc về Cêsarê, và khi người ta dùng đồng tiền nầy để đóng thuế, thì tiền thuế sẽ thuộc về ông, “Của Cêsarê trả lại cho Cêsarê” (c. 21a). Với khẳng định nầy, việc đóng thuế cho Cêsarê không trái với lề luật của Thiên Chúa (x. Rm 13,1-7; 1Ph 2,13.17).
Chúa Giêsu đã không dừng lại ở khẳng định nầy. Trong các cuộc tranh luật về lề luật, Chúa Giêsu thường không dừng lại ở “được phép/đúng luật, exestin” hay không. Ngài thường hành động vượt trên lề luật dựa vào lý do ưu tiên cho con người và Thiên Chúa (12,6; 12,11-12; 19,6). Trường hợp nầy cũng thế, tuy chỉ là tranh luận trên lý thuyết, Ngài đặt việc nộp thuế cho Cêsarê trong tương quan với Thiên Chúa. Câu trả lời quyết định của Ngài gồm hai vế đối nhau (c. 21), trong đó “Thiên Chúa”, có mạo từ xác định, đối lại với “Cêsarê”. Động từ apodidōmi, “trả lại” được dùng một lần chung cho cả hai vế. Cấu trúc nầy cho thấy nếu phải đóng thuế cho vua chúa trần gian, thì cũng phải làm điều nầy cho Thiên Chúa và làm một cách tuyệt đối, vì Thiên Chúa vượt trên hết mọi vua chúa, vương quốc trần gian (x. 4:10). Động từ apodidōmi được dùng nhiều lần trong tương quan giữa con người và Thiên Chúa. Matthêô cho thấy nhiều lần Thiên Chúa “trả lại” cho con người (6,4.6.18; 16,27; 20,8), trong khi đó, không một lần nào thấy con người làm điều nầy cho Thiên Chúa (18,25.34); điều nầy được nói cách hiển nhiên hơn trong dụ ngôn tá điền vườn nho (21,41). Bởi đó, Chúa Giêsu kêu gọi “Hãy trả lại cho Thiên Chúa điều thuộc về Thiên Chúa”.
Vậy Chúa Giêsu, vị Thầy “dạy đường lối của Thiên Chúa” (c. 16), đã chỉ cho người Pharisêô thấy điều họ phải làm đối với Thiên Chúa là “trả lại cho Thiên Chúa phần thuộc về Thiên Chúa” (c. 21b); Ngài cũng đã làm tương tự đối với ma quỉ (4,7.10).Trong dụ ngôn tá điền vườn nho, Ngài nói điều nầy bằng dụ ngôn (21,34.43). Người Pharisêôđã không chịu lắng nghe mà hoán cải (x. 2146). Ở đây, Ngài khẳng định với họ trực tiếp và rõ ràng.
Kết luận (c. 22)
Trình thuật kết thúc với nhận xét của thánh sử (c. 22). Phản ứng của người Pharisêô là “kinh ngạc”, “sững sờ”, thaumazō; ở đây được hiểu theo nghĩa của Is 52,15: “Cũng vậy, nó sẽ làm cho muôn dân phải sững sờ, vua chúa phải câm miệng, vì được thấy điều chưa ai kể lại,được hiểu điều chưa nghe nói bao giờ”. Câu trả lời quyết định của Chúa Giêsu đã làm cho người Pharisêô kinh ngạc. Họ nghe điều họ không chờ đợi và nghĩ tới. Sự kinh ngạc làm họ phải nín lặng (x. 22,46), và “bỏ” Chúa Giêsu mà đi. Hành động của họ được mô tả như hành động của ma quỉ là “bỏ Ngài mà đi” sau khi “thử” Ngài (4,7) mà không thành công (4,11).
Người Pharisêôđem chuyện nộp thuế cho hoàng đế Cêsarê đến với Chúa Giêsu. Ngài nói thêm việc “nộp thuế” cho Thiên Chúa. Bổn phận bắt buộc và không thể gỡ mình ra được nầy rơi ngược lại trên họ, và làm cho họ hiểu rằng họ đã không trả lại cho Thiên Chúa điều thuộc về Ngài.
(Suy niệm của Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
Thiên Chúa đã mạc khải cho dân biết về thần tính của Người, tiên tri Isaia ghi: Ta là Chúa và chẳng còn Chúa nào khác: Ngoài Ta ra không có Thiên Chúa nào nữa, Ta đã thắt lưng cho ngươi khi ngươi không nhận biết Ta (Is 45, 5). Không phải tự nhiên mà loài người có thể nhận biết rõ về Thiên Chúa. Trải qua muôn thế hệ, con người vẫn còn lần mò đi tìm kiếm về nguồn chân, thiện, mỹ. Trên thế giới còn rất nhiều người chưa nhận biết Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa. Khái niệm về một Đấng Tối Cao hay Thượng Đế rất là đa dạng. Mỗi tôn giáo có các quan niệm khác nhau về Thượng Đế. Các niềm tin tôn giáo cổ thời lưu lại cho chúng ta một kho tàng quí báu trong công việc suy tư tìm kiếm nguồn cội. Hình như có bao nhiêu tôn giáo là có bấy nhiêu cách giải thích về sự hiện hữu của Tạo Hóa.
Niềm tin của con người rất phức tạp và đa dạng, chúng ta có thể phân chia niềm tin làm nhiều ngành: Niềm tin đa thần (Polytheism), niềm tin Phiếm Thần (Pantheism) và niềm tin Độc Thần (Monotheism), còn gọi là Nhất Thần Giáo. Tín ngưỡng Đa Thần phát sinh từ lòng khao khát, sự sợ hãi các hiện tượng thiên nhiên và những cảm tính về một thế giới linh thiêng nào đó. Niềm tin Đa Thần cũng có thể bắt nguồn từ truyện thần thoại miêu tả những nhân vật có hình tướng lạ thường, phi thường và siêu phàm. Trong lịch sử cổ đại, đa số các nền văn hóa đặt niềm tin vào nhiều thần linh và quyền lực thiên nhiên. Các vị thần được con người tôn phong danh hiệu. Họ tin rằng những vị thần này cai quản và độ trì cho con người trong những lãnh vực khác nhau trong đời sống. Những người thuộc Đa Thần Giáo không có khái niệm về một vị thần tối cao, duy nhất tự hữu và hằng hữu.
Độc Thần Giáo là niềm tin vào một Đấng Tối Cao duy nhất. Niềm tin khởi nguồn từ tổ phụ Abraham được xem là tôn giáo Độc Thần. Họ tin rằng chỉ có một Thiên Chúa duy nhất và con người phải phụng thờ Ngài. Trong Kinh Thánh Cựu Ước, nguồn kiến thức chủ yếu là độc thần giáo. Niềm tin này được chính Thiên Chúa mạc khải cho cha ông, các tổ phụ, các tiên tri và dân riêng. Đạo Do-thái Giáo đặt căn bản niềm tin chủ yếu về Độc Thần. Người Do-thái dùng từ Giavê, Elohim, Chúa, Thiên Chúa, nhưng họ không chấp nhận Đấng Messia (Chúa Giêsu) là Chúa. Chúng ta phân biệt một chút: Chúa Giavê là niềm tin của Do-thái Giáo, Allah của Hồi Giáo và Thiên Chúa (Ba Ngôi) của Kitô Giáo. Đạo Hồi Giáo trình bày xác tín về độc thần giáo. Họ đặt trọn niềm tin vào Đấng Allah duy nhất và qua một tiên tri là Mohamad. Tính duy nhất của Đấng Allah là giáo lý căn cốt của niềm tin.
Kitô Giáo tin vào Thiên Chúa tạo dựng toàn thể vũ trụ và tiếp tục bảo tồn vũ trụ trong mọi nơi và mọi lúc. Khái niệm miêu tả Thiên Chúa là một thực thể tối cao, nguyên nhân đệ nhất, vĩnh tồn và siêu nhiên. Chúng ta đọc trong sách Sáng Thế Ký: Thiên Chúa phán: Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để con người làm chủ các biển, chim trời, gia súc, tất cả mặt đất và mọi giống bò dưới đất (Stk 1, 26). Giải thích của Kitô Giáo, dựa vào Lời Chúa mạc khải, các giáo phụ lập luận về giáo lý: Thiên Chúa phán: ‘Chúng Ta…’, nói về Chúa Ba Ngôi. Thiên Chúa duy nhất trong Ba Ngôi riêng biệt: Chúa Cha tạo dựng, Chúa Con cứu chuộc và Chúa Thánh Thần thánh hóa.
Chúng ta tìm hiểu sơ qua về quan niệm của những người hữu thần và vô thần. Thuyết Hữu Thần (Theism) cho rằng Thiên Chúa vừa siêu nhiên và vừa hiện hữu nội tại. Thần Giáo (Deism) miêu tả Thiên Chúa siêu nhiên và là một vị thần mơ hồ và xa cách. Vô Thần (Atheism) không tin có Thượng Đế hoặc thiếu niềm tin rằng: Có Thượng Đế, đồng nghĩa với Phi Thần Luận (Nontheism). Có khoảng 2% dân số thế giới là người vô thần. Người Vô Thần có thái độ hoài nghi tất cả những gì thuộc tôn giáo và tín ngưỡng. Họ đòi hỏi mọi thứ phải có bằng chứng thực nghiệm và không tin có sự tồn tại của thần thánh. Thuyết vô thần khẳng định quan điểm thần thánh không tồn tại và phủ nhận mọi thứ siêu nhiên. Đạo Phật Giáo (Buddhism) và Ấn Độ giáo (Hinduism) không đòi hỏi niềm tin vào một vị Thiên Chúa cá thể. Con người chưa có sự thống nhất về các khái niệm vô thần.
Dân Do-thái sống giữa một thế giới đa thần. Giữa muôn hình vạn trạng của các niềm tin và văn hóa, họ đã dễ dàng bị nhiễm những tư tưởng về cách sống tự nhiên và tự do phóng khoáng. Nhiều khi họ chạy theo các dân tộc chung quanh thờ kính những vị thần mà họ không hiểu biết. Thí dụ: thần Baal, có mắt mà không nhìn, có tai mà không nghe và cũng chẳng cảm thông được gì. Các thần chỉ là gỗ đá vô cảm, vô tài và vô năng. Thiên Chúa yêu thương dân mà Ngài đã chọn. Chúa sai các tiên tri để hướng dẫn và qui tụ dân về một mối cùng tôn thờ một Thiên Chúa duy nhất. Lịch sử dân Do-thái là lịch sử ơn cứu độ được Thiên Chúa mạc khải: Để các kẻ từ đông sang tây nhận biết rằng ngoài Ta ra không có ai khác: Ta là Chúa và chẳng có chúa nào khác (Is 45, 6).
Bài phúc âm hôm nay, kể lại câu chuyện các nhà lãnh đạo tôn giáo muốn gài bẫy bắt bẻ Chúa Giêsu cả về đạo lẫn đời liên quan vấn đề nộp thuế: Khi ấy, các người Biệt Phái họp nhau lại bàn mưu để bắt bẻ Chúa Giêsu trong lời nói (Mt 22, 15). Chúa Giêsu thấu tỏ sự lật lừa không ngay thẳng trong lòng của họ. Chúa Giêsu đã trả lời cho họ một cách khôn ngoan tuyệt đối: Vậy cái gì của Cêsarê thì hãy trả cho Cêsarê và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa (Mt 22, 21). Câu trả lời không chỉ cho những người Biệt Phái ngày xa xưa, nhưng cho chính chúng ta ngày hôm nay đây. Chỉ có hai đối tượng, Thiên Chúa và con người. Vậy cái gì là của Thiên Chúa? Nếu xét cho tận cùng, tất cả mọi sự đều thuộc về Thiên Chúa. Từ sự sống, khả năng, thời gian, không gian, nguồn vốn và cả con người đều phát sinh từ Thiên Chúa. Chúng ta thuộc về Chúa trọn vẹn cả xác lẫn hồn. Cái gì là của Cêsarê, có nghĩa là của con người trần thế? Chúng ta mắc nợ nhau vì sự hỗ tương. Chúng ta sống là sống cùng và sống với người khác. Chúng ta có trách nhiệm đối với xã hội, với chính quyền, với quốc gia dân tộc và với nhau. Đóng thuế là một bổn phận và nghĩa vụ của người công dân để giúp bảo trì cuộc sống an sinh xã hội.
Chúng ta sống trên đời để tìm nhận biết thờ phượng Thiên Chúa là Cha chúng ta và yêu thương mọi người như anh em để cùng được chung hưởng hạnh phúc đời này và đời sau. Con người là một loài thụ tạo cao quí nhất, nhưng không thể sống độc lập một mình. Thượng đế an bài mọi sự cách lạ lùng trong vũ trụ. Muốn sinh tồn, con người phải gắn kết với môi trường thiên nhiên chung quanh. Tâm linh hướng về Đấng Tối Cao để thờ lạy và cảm tạ. Thánh Phaolô đã cầu nguyện trong tâm tình tạ ơn: Tôi hằng tạ ơn Thiên Chúa cho mọi người anh em, trong khi tôi cầu nguyện, tôi hằng nhớ đến anh em không ngừng (1Thess 1, 2). Thiên Chúa là tình yêu. Vì yêu, Thiên Chúa đã chia sẻ sự sống và tạo dựng con người giống hình ảnh của Chúa. Giữa Thiên Chúa và loài người có một sợi giây liên kết sâu đậm trong tình yêu: Hỡi anh em là những kẻ được Thiên Chúa yêu mến, tôi từng biết anh em được Thiên Chúa yêu mến (1Thess 1, 4).
Lạy Chúa, chúng con tôn thờ Thiên Chúa duy nhất trong Ba Ngôi: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Xin Chúa mở lòng mở trí để chúng con biết trả lại cho Chúa những gì thuộc về Chúa. Chúng con tạ ơn Thiên Chúa đến muôn ngàn đời.
18. Của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa
Cùng đích của cuộc sống con người là ăn tiệc cưới trong Nước Trời. Muốn ăn cưới thì phải sắm áo cưới. Trước tiên là “trả về cho Thiên Chúa” cái gì là của Thiên Chúa, là làm trọn bổn phận với Thiên Chúa. Là công bình. Là sắm áo cưới.
Vài điểm CHÚ GIẢI
– Có được phép nộp thuế cho Xêxa không? Người Do thái chống lại Rôma không nộp thuế. Nếu Đức Giêsu nói “nộp” là đi ngược, là có tội với dân tộc. Không nộp thì chóng lại Rôma là phản động. Câu hỏi khó. Nhưng không khó với Đức Giêsu.
– Cho ta xem đồng tiền nộp thuế….hình và huy hiệu là của ai? Họ đáp: của Xêxa. Người liền bảo họ: Của Xêxa hãy trả cho Xexa, của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa. Rất đơn giản. Là phép công bình. Không ai bắt bẻ được.
Bài Phúc Âm hôm nay chỉ nhằm một ý thôi: Của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa. Là công bình. Nhưng người ta không công bình đối với Thiên Chúa. Họ giết người con thừa tự để cướp vườn nho. Mọi sự thành khó.
Của Xêxa trả cho Xêxa. Xêxa có gì? Có chăng là tên và huy hiệu. Tên và huy hiệu là của Xêxa thì để cho ông. Còn mạng sống và mọi sự của ông đều là của Chúa ban cho. Dù ông đã kiêu căng, ngạo mạng xưng mình là Augustô, là thần thánh tuyệt đối, loại bỏ Thiên Chúa, tôn mình lên thay thế Thiên Chúa. Rõ ràng là không của ông vì ông không làm chủ, không giữ được dù là một tí xíu. Thực tế chứng minh là ông đã mất tất cả dù ông đã hết sức cố gắng bám lấy để giữ lại. Nhưng lực bất tòng tâm. Caligula, con nuôi ông đã ám sát ông và đã tước lấy tất cả.
Còn Thiên Chúa. Người là Chủ Tể thật sự, tồn tại mãi mãi. Số phận của bao nhiêu Xêxa cũng đều vậy. Không khác tí nào, nói lên sự thật “Thiên Chúa mới là Chủ Tể” dù ai muốn xưng gì thì xưng nhưng đều là “rởm”. Vậy mà người ta vẫn thích xưng mình nầy nọ.
Chúng ta tưởng là chúng ta có, chúng ta làm chủ! Nhưng hỏi: chúng ta có làm chủ mạng sống mình không? Sống chết không tuỳ chúng ta. Mọi cái chúng ta có đều không thựôc quyền làm chủ của chúng ta, còn mất lúc nào chúng ta không nắm chắc. Trời cho không thấy trời lấy chẳng hay mà.
Của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa. Là lẽ công bình: Của ai thì trả cho nấy. Người ta không nhìn nhận trật tự nầy mới sinh rối.
Voltaire mỗi khi viết đều ký tên “EI” (Écrasons l”Infâme). Nhưng chính y bị tiêu diệt. Là bằng chứng cụ thể “không trả cho Thiên Chúa của Thiên Chúa” thì phải vậy.
Người ta chối bỏ Thiên Chúa để khỏi trả cho Thiên Chúa “của” Thiên Chúa.
Còn những người nhìn nhận Thiên Chúa thì chỉ biết xin thêm chứ không biết trả.
Cụ thể trả gì?
Thí dụ Chúa nhật, ngày của Chúa thì phải trả cho Chúa. Nhưng người ta có chịu đâu. Có trả thì trả bậy một chút vì mắc cả trăm thứ mắc! Mắc coi nhà, mắc hội phụ huynh, mắc phụ bầu cử… cứ mắc rồi “thưa cha con có bỏ Chúa nhật”, xong, các lễ trọng, chầu MTC, kinh hôm kinh mai, học giáo lý, học kinh thánh, tham gia hội đoàn, quét nhà thờ, phụ việc nhà thờ, cho Chúa ăn, cho Chúa uống, việc bác ái,… hành hương…
Có làm mới có công và có lý do để Chúa thưởng cho công bằng.
Những người đi tu hiến cả cuộc đời cho Chúa là trả nhiều nhất. Giáo dân thường thì làm quới chức, trùm, câu để nhiều thì giờ giúp việc nhà thờ…
Không biết trả cho Chúa thì Chúa không cho thêm mà còn lấy lại cái đã cho.
Của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa.
Thời bấy giờ, dân Do Thái đang sống dưới ách thống trị của đế quốc Lamã. Có những kẻ cộng tác với đế quốc, thì ủng hộ việc nộp thuế. Nhưng cũng có những người muốn lật đổ ách thống trị, thì chống đối việc nộp thuế, bởi vì làm như thế chẳng khác nào nối giáo cho giặc.
Trong một bối cảnh như vậy, câu hỏi có nên nộp thuế cho César hay không, quả là một cái bẫy. Trả lời là có thì mất lòng dân. Còn trả lời là không thì sẽ bị kết án là chống đối nhà nước. Trước hết Chúa Giêsu bảo họ đưa cho mình xem đồng tiền La mã. Hành động này đẩy họ vào cái thế phải trả lời cho chính câu hỏi đã nêu ra, bởi vì mang trong người đồng bạc La mã là chấp nhận những sự ràng buộc của La mã. Tiếp đến hình và chữ ký trên đồng tiền này đã đem lại cho Chúa Giêsu một câu trả lời đầy lý tưởng: Của César hay trả cho César, của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa.
Với câu trả lời này, Chúa Giêsu không nề nhằm mục đích đưa ra nền tảng cho một học thuyết chính trị, cũng không hề có ý định tách biệt thế giới làm hai. Một thuộc về César, một thuộc vê Thiên Chúa. Ngài để việc này tuỳ cá nhân quyết định vì mỗi người phải giải quyết về những đối nghịch giữa Thiên Chúa và trần gian.
Là người Kitô hữu, chúng ta có hai quyền công dân đi đôi với nhau, sở dĩ như vậy vì chúng ta là công dân của hai thế giới, đó là thế giới trần gian và thế giới thiên quốc. Như vậy, chúng ta phải tôn trọng những đòi buộc của mỗi bên. Chính vì thế mà trong bức thư gởi tín hữu Rôma, thánh Phaolô đã khuyên nhủ: Hãy vâng phục các vị cầm quyền, hãy nộp cho họ những gì chúng ta mắc nợ. Mong rằng giữa hai quyền công dân này không bao giờ xảy ra những xung đột, nhưng luôn đi song song và bổ túc cho nhau, vì đạo chỉ đẹp khi ở trong đời và đời chỉ tốt khi ở trong đạo.
Còn nếu chẳng may xảy ra xung đột thì người Kitô hữu phải biết cách giải quyết: Vâng phục Thiên Chúa hơn vâng phục loài người. Đó là cách thức đã từng được người Kitô hữu giải quyết trong dòng lịch sử, mỗi khi có những cấm cách và bách hại xảy đến.
Vua Henri VIII nước Anh đã kết hôn hợp pháp, nhưng rồi ông xin Đức Giáo Hoàng huỷ bỏ cuộc hôn nhân hợp pháp ấy. Vì không có nền tảng chính đáng, Đức Giáo Hoàng đã từ chối. Và thế là ông ra lệnh cho bạn bè và các chức sắc ký vào một bản tuyên bố đồng ý chấp nhận hành động của ông. Nhiều người đã ký, nhưng Thomas More thì từ chối. Nhà vua yêu cầu Thomas More ý vào nếu không sẽ bị tống giam và khép vào tội phản loạn, nhưng Thomas More vẫn khăng khăng từ chối. Ngài bị giằng co giữa hai bổn phận. Một đối với Thiên Chúa và một đối với nhà vua. Và khi chúng chống đối nhau, ngài không còn một lựa chọn nào khác ngoài việc trung thành với lề luật của Thiên Chúa.
Bởi vì, Thiên Chúa phải chiếm chỗ nhất, phải chiếm địa vị số một trong tâm hồn và trong cuộc sống của chúng ta.
(Suy niệm của Thiên Phúc – Trích trong “Như Thầy Đã Yêu”)
Vua nước Đức Frederic tự cho mình là học rộng tài cao, lấy làm hãnh diện đã khám phá ra một phương pháp mới, khả dĩ làm cho nền kinh tế quốc gia phát triển mạnh. Ông ngồi trong phòng tính đi tính lại: cứ mỗi năm chim sẻ ăn hết 2 triệu thùng thóc trên toàn lãnh thổ. Vì thế, ông truyền phát động chiến dịch bài sẻ. Giết được một con chim là được một phần thưởng.
Toàn dân hưởng ứng nhiệu liệt vì thấy công việc dễ dàng và vui thú. Thế là lần lượt chim sẻ bị bắn chết, một số khác bay về một phương trời xa. Cuối cùng, chẳng còn thấy một mống nào trền toàn lãnh thổ. Frederic vui mừng khôn tả vì tin chắc kế hoạch của mình sẽ thành công rực rỡ.
Nhưng có ngờ đâu, vừa khi ngày mùa tươi tốt đầy hứa hẹn tới, thì không biết từ đây từng bầy sâu bọ đua nhau kéo đến, từng đàn châu chấu cũng ùn ùn xuất hiện tràn lan khắp lãnh thổ, không cách nào diệt nổi. Thế là Frederic chỉ còn cách ngồi trong điện rồng lòng buồn ủ rũ, chứng kiến kỳ công của mình hoàn toàn sụp đổ.
Các qui luật của thiên nhiên, các định luật trong vũ trụ, đều được Thiên Chúa an bài, sắp xếp, để nên tốt đẹp và hữu ích cho con người. Một khi con người đã phá vỡ những qui luật ấy thì tai họa sẽ ập tới chỉ còn là vấn thời gian.
Đức Giêsu trong Tin Mừng hôm nay, đã không chỉ thoát khỏi cạm bẫy của nhóm Phariseu: “Có được phép nộp thuế cho Xeda hay không?” (Mt 22,17). Người còn bất ngờ đưa ra một câu nói thời danh khiến bọn họ phải câm miệng: “Của Xeda, trả về Xêda; của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa” (Mt 22,21). Qua câu này, Đức Giêsu đã nhìn nhận thế quyền của Xêda. Nhưng có quyền gì của Xêda, mà lại chẳng xuất phát từ Thiên Chúa. Đức Giêsu đáp lại Philato: “Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chửng ban cho Ngài” (Ga 19,11).
Nếu phải trả lại cho Xêda đồng bạc mang hình và danh hiệu của Xêda, thì có loài thụ tạo nào mà không mang hình hài và tên gọi của thiên Chúa. Nhà bác học Newton đã nói: “tôi nhìn thấy Thiên Chúa trên đầu viễn vọng kính của tôi”.
Người ta phá vỡ hình ảnh bao la hùng vĩ của Thiên Chúa, khi người ta chặt cây, đốt rừng cho lụt lội tràn lan; rồi thải khí carbonic lên bầu trời, cho lủng từng Ozone.
Người ta phá vỡ hình ảnh xinh đẹp của Thiên Chúa, khi người ta ly dị, phá thai, sinh hoạt đồng tính luyến ái.
Người ta phá vỡ hình ảnh chân thật của Thiên Chúa, khi người ta đọc kinh, đi lễ; nhưng sống ích kỷ, lường gạt, và gian lận.
Sách Sáng thế viết: “Thiên Chúa sáng tạo con người theo hginh ảnh thiên Chúa” (St 1,27)). Vì thế, con người là tác phẩm tuyệt vời mà Thiên Chúa nhìn thấy rất rõ hình ảnh củaNgười trong đó. “Của Thiên Chúa trả về cho Thiên Chúa”. Hãy trả lại cho Thiên Chúa hình ảnh con người đã được Người dựng nên rất thanh khiết thuở ban đầu. Hãy trả lại cho Thiên Chúa vũ trụ, tài nguyên và muôn sinh vật, hình ảnh trong lành mà người đã dựng nên. Hãy trả lại cho thiên Chúa thế giới do Người tạo nên, hình ảnh của an bình và yêu thương.
Chính Thiên Chúa đã yêu chúng ta trước bằng một tình yêu vô biên. Vì thế hãy mở rộng tâm hồn để đón nhận tình yêu Chúa. Huyền diệu của tình yêu là khi nào người kia lãnh nhận, tình yêu ấy mới thực sự thành tình yêu. Tình yêu cho đi, không người nhận, sẽ trở về với người đã trao ban.
***
Lạy Chúa, cảm tạ Chúa đã yêu thương chúng con, đã cho chúng con mang hình ảnh cao quý của Chúa.
Xin cho chúng con biết làm cho hình ảnh của Chúa ngày càng rõ nét trong cuộc đời chúng con, bằng cách quảng đại và yêu thương con người. Amen.
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
“Của Xêda hãy trả cho Xêda.
Của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa” (Mt 22,21).
Câu nói của chúa Giêsu năm nào đã làm cho nhiều người Pharisêu và nhóm người phe Hêrôđê là những người đầy dã tâm đang tìm mọi cách hãm hại Người phải chưng hửng. Thoặt nghe câu chuyện chúng ta dễ nghĩ đến sự khôn ngoan của Chúa Giêsu. Phải nhận rằng Người đã tài tình thoát khỏi cái thế tiến thoái lưỡng nan do bởi cái bẫy hiểm độc của nhóm Pharisêu và phe Hêrôđê, những người vốn không thích nhau, thì nay lại hợp sức giăng ra. Tuy nhiên, nhân câu chuyện thú vị này và nhất là qua câu trả lời của Chúa Giêsu, chúng ta có được một cái nhìn chuẩn mực hơn về vấn nạn quyền bính trong các xã hội dân sự.
Con người là hữu thể có tính xã hội. Có thể nói rằng tính xã hội là một trong những yếu tố nền tảng làm nên con người. Không ai là một hòn đảo. Kinh Thánh khẳng định: “con người ở một mình không tốt” (St 2,18). Cái không tốt ở đây không chỉ liên hệ đến phẩm tính mà còn liên hệ đến căn tính, nghĩa là liên hệ đến hữu thể “người”. Nói nôm na là nếu “ở một mình” thì không thể thành người đúng nghĩa. Một vài sự kiện về các trẻ bé lạc trong rừng sâu như một minh chứng rõ ràng. Dù sau đó khi được phát hiện và đưa về thì “người rừng” rất khó hòa nhập với xã hội loài người. Quyền bính có ra là do yêu cầu của tính xã hội. Đã là hai người thì tất yếu có kẻ trên, người dưới. Đã là tập thể thì phải có người đứng đầu để lãnh đạo. Một tập thể mà không có người chỉ huy thì chuyện tan rã là chuyện không sớm thì muộn cũng xảy ra. Không có người lãnh đạo thì sẽ dẫn đến tình trạng hỗn độn, cá lớn nuốt cá bé. Chính vì thế sự hiện hữu của quyền bính là điều tất yếu cần thiết. Vị trí quan trọng và thiết yếu của quyền bính được nhìn nhận do bởi vai trò của nó. Quyền bính có ra là để gìn giữ xã hội ổn định trong trật tự, công bằng; xây dựng công ích; bảo vệ kẻ cô thân, yếu thế, người bất hạnh; tạo điều kiện cho mỗi người và mọi người hoàn cảnh thuận lợi để tồn tại, phát triển và nên hoàn thiện.
Theo viễn kiến này và dưới ánh sáng đức tin, chúng ta nhìn nhận rằng Thiên Chúa muốn có sự hiện hữu của quyền bính trong xã hội dân sự. Và sự hiện hữu của quyền bính là trong chương trình sáng tạo của Thiên Chúa, khi Người dựng nên nhân loại mang tính xã hội. Như thế chúng ta có thể nói không sợ sai lầm rằng quyền bính là một trong những công trình của Thiên Chúa, nghĩa là do Thiên Chúa làm nên.
Những gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa. Xêda là một hình thức quyền bính của xã hội dân sự thời phong kiến xưa. Xêda là hoàng đế của La mã hoặc bất cứ vị hoàng đế của nước nào cũng đều thuộc về Thiên Chúa. Ngày nay, Tổng thống, Thủ tướng, Bộ trưởng, Quốc Hội, Tòa án…cũng là quyền bính xã hội và chúng đều thuộc về Thiên Chúa. Vì thuộc về Thiên Chúa thì những người nắm giữ quyền bính ấy phải hành động theo thánh ý Thiên Chúa. Hoàng đế Kyrô khi ra sắc chỉ cho dân Do Thái bị lưu đày trước đây được hồi hương và tái thiết Đền thờ thì đã được ngôn sứ Isaia nhìn nhận như là người được Thiên Chúa tuyển chọn. Hoàng đế Kyrô còn được gọi là người được xức dầu vì ông đã thực thi thánh ý Thiên Chúa (x.Is 45,1).
Chúng ta cần phân biệt sự hiện hữu của quyền bính với người nắm quyền bính. Sự hiện hữu của quyền bính là chính đáng, hợp pháp và phải đạo vì do Thiên Chúa làm nên. Tuy nhiên không phải bất cứ ai nắm quyền bính cũng đều chính đáng, vì có thể họ chiếm lấy quyền bính cách không hợp pháp hoặc họ thực thi quyền bính cách không phải đạo. Lich sử minh chứng có trường hợp người ta đã chiếm lấy quyền bính cách “ma đạo” và hành quyền kiểu độc tài, phi nhân và phi luân. Như thế chúng ta cần phải phân biệt rạch ròi thực thể quyền bính với những người nắm quyền để khỏi nhầm lẫn.
Xét quyền bính như là một cơ cấu tổ chức điều hành một tập thể xã hội hay tôn giáo thì nó thật chính đáng và hợp lý. Tuy nhiên hình thức quyền bính này cũng cần phải được chỉnh sửa cho phù hợp với sự phát triển của con người và xã hội để phục vụ cách hữu hiệu ngày mỗi hơn. Chẳng hạn như cơ cấu quyền bính loại hình quân chủ chuyên chế không thể nào thích hợp với con người và xã hội hôm nay. Nhiều hình thái cơ cấu, tổ chức không chỉ cần phải được đổi mới mà thậm chí còn phải bị thay thế bằng hình thái khác. Có thể nói rằng với đà phát triển của nhân loại như hôm nay thì những hình thái quyền bính mang tính độc tài, chuyên chế không còn lý do để hiện hữu. Xét những con người nắm quyền bính thì trước hết chúng ta cần xem xét cách thức họ nắm giữ quyền hành có hợp pháp không, nghĩa là có minh bạch và công bằng không. Chúng ta dễ nhận ra cách thức xem ra được gọi là khá công bằng hiện nay để xây dựng công quyền đó là “phổ thông đầu phiếu”. Và dù được tổ chức bầu bán công khai thì cũng cần phải xét xem việc bầu bán ấy có tiến hành trong sự tự do và công bằng hay không. Thực tế đã có đó những cuộc bầu bán tuy là công khai những chỉ là một thứ hình thức hợp pháp hóa sự độc quyền, vì chưa bầu mà thiên hạ đã biết những ai sẽ đắc cử và sẽ đảm nhận vai vế gì trong hệ thống công quyền. Kế đến chúng ta cần xem xét những người cho dù đảm nhận quyền bính cách hợp pháp và công minh nhưng họ có hành quyền cách công tâm và đúng mực không, dĩ nhiên là ở một mức độ nào đó khả dĩ có thể chấp nhận. Nếu đang nắm quyền mà không thực thi vai trò của quyền bính như đã nói trên, đó là xây dựng công ích, gìn giữ trật tự, bảo vệ người cô thế…, thì chắc chắn những người ấy đang đi ngoài đường lối của Thiên Chúa. Như thế họ không chỉ không đáng được tôn trọng mà thậm chí còn cần phải bị thay thế.
Giáo Hội không làm thay việc của Chính quyền. Đây là một lời khẳng định đúng. Thế nhưng cần hiểu hai từ Giáo Hội ở đây xét như là một thực thể tôn giáo mang tính xã hội có cơ cấu tổ chức và cả quyền bính. Còn những con người có tôn giáo thì chắc chắn phải thực thi nghĩa vụ “con người mang tính xã hội” của mình. Họ phải tích cực tham gia và xây dựng quyền bính xã hội để làm cho nó ngày càng thuộc về Thiên Chúa hơn, nghĩa là được vận hành cách chính đáng và phải đạo. Giáo hội Công giáo chỉ cấm hàng giáo sĩ và tu sĩ không được tham gia vào các chức vụ công quyền, trừ khi có lý do thật khẩn thiết và được ban phép (GL Đ.287.2 ; Đ.672). Còn với tín hữu giáo dân thì việc trực tiếp hay gián tiếp tham gia công quyền và xây dựng công quyền ngày càng trở thành “chính quyền” là một nghĩa vụ khẩn thiết, không thể xao nhãng hay bỏ qua vì bất cứ lý do gì.
“Của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa”. Có thể khẳng định rằng thể chế nào, nền công quyền nào hay người nắm quyền lực nào mà không “thuộc về Thiên Chúa” thì đang bị Thần dữ chi phối. Thần dữ vốn là tên sát nhân và là cha của sự gian dối thì “thành quả” của nó chính là sự chết chóc, bạo lực và hận thù (x.Ga 8,44). Chính vì thế để làm phát triển nền văn minh tình thương và sự sống thì mọi Kitô, dù là giáo dân, tu sĩ hay giáo sĩ, theo cách thế của mình, đều có bổn phận làm cho các cơ chế công quyền và những người nắm quyền “thuộc về Thiên Chúa”, nghĩa là hiện hữu, vận hành và thi hành quyền bính phù hợp với thánh ý Thiên Chúa. Để được vậy, thiết nghĩ không gì hơn chúng ta cần tích cực can đảm bảo vệ công lý và làm chứng cho sự thật trong tình yêu. Ủy Ban Công Lý và Hòa Bình thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đang có chương trình phổ biến và học tập “Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội Công Giáo”. Mong sao chương trình này không dừng lại ở phạm trù truyền đạt kiến thức mà được hiện thực hóa bằng việc làm cụ thể, rõ ràng.
22. Nộp thuế hay không nộp thuế
(Suy niệm của Barbara E. Reid – Văn Hào, SDB chuyển ngữ)
“Hãy trả cho Xê-da những gì thuộc về Xê-da, và trả về cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa” (Mt 22, 2).
Trong bài Tin Mừng hôm nay, những người Pharisiêu và nhóm Hêrôđê nêu lên một câu hỏi để chất vấn Đức Giêsu về việc có phải nộp thuế cho Xê-da hay không. Họ đặt câu hỏi nhưng không phải thực lòng muốn Đức Giêsu chỉ dẫn xem phải thực hành nghĩa vụ mang tính luân lý này như thế nào, nhưng chỉ để gài bẫy Ngài. Họ đặt Đức Giêsu trước một tình huống tiến thoái lưỡng nan, không dễ trả lời. Từ khi người Rôma chiếm lãnh thổ Palestine năm 63 trước công nguyên, và đặt sự đô hộ tại đó, người Do Thái buộc phải nộp thuế hàng năm cho đế quốc tính theo đầu người đã kê khai, bất kể đàn ông, đàn bà hay nô lệ. Mỗi người một năm phải nộp một đồng Dina, nộp bằng tiền đúc Rôma, có in hình hoàng đế Tibêriô, ông vua đã trị vì từ năm 14 đến năn 37 sau công nguyên.
Thái độ của những người Do Thái đồng hương với Đức Giêsu đối với đế quốc Rôma rất khác nhau, tùy theo kế sách của họ phản ứng trước sự đô hộ như thế nào. Một số người thì muốn an phận, và chấp nhận nộp thuế để khỏi phiền hà, cho dù họ rất khó chịu. Một số khác bằng lòng nộp thuế vì họ coi nhà cầm quyền Rôma như là đại diện cho quyền bính của Thiên Chúa (xem Rm 13, 1-7; 1P 2, 13-17). Một số khác, theo phe thân vua Hêrôđê, sẵn lòng cộng tác với chính quyền Rôma, và được nhà nước bảo hộ trao ban những đặc quyền trong các tổ chức dân sự. Họ tự nguyện nộp thuế, không phản đối. Một số khác thì hoàn toàn tuyệt vọng, vì tiền thuế cao là một gánh nặng, khiến họ dễ lâm cảnh nợ nần, mất đất đai để sinh sống. Khi không còn tiền để trả nợ, họ sẽ bị bán làm nô lệ (Mt 18, 23-25). Còn một nhóm khác lại nhất quyết không chịu nộp thuế, vì họ nghĩ tất cả mọi sự đều thuộc về Thiên Chúa (Lv 25,23). Một ít thành phần thì hoàn toàn cự tuyệt chống đối, và bất hợp tác với đế quốc trong bất cứ vấn đề gì. Cũng có một số người cực đoan, ngấm ngầm hình thành nhóm ái quốc, quyết nổi dậy cướp chính quyền bằng vũ lực, lật đổ sự cai trị của đế quốc. Sử gia Josephus có nêu tên một vài lãnh tụ cách mạng, cầm đầu nhóm nổi dậy vào đầu thế kỷ thứ nhất, trong đó có Guiđa người Galilê (Cv 5,37) người đã nổi dậy chống nền đô hộ, đương nhiên chống cả việc nộp thuế, nhưng cuộc nổi dậy bị thất bại.
Khi đưa ra câu hỏi hóc búa này để vặn hỏi Đức Giêsu, người Pharisiêu muốn hạ uy tín Ngài. Nêú Ngài cổ vũ việc nộp thuế, có nghĩa là Ngài thỏa hiệp với ngoại bang, với kẻ thù của dân tộc, như vậy dân sẽ không còn tin Ngài là một ngôn sứ nữa. Các sứ ngôn luôn rao giảng về đường lối Thiên Chúa đối kháng với đường lối cầm quyền của đế quốc, của Xê-da. Nếu chủ trương như thế, uy tín của Đức Giêsu sẽ không còn. Còn nếu Ngài trả lời không phải nộp thuế, Ngài tự đặt mình vào tình huống rất nguy hiểm vì sẽ bị nhà cầm quyền Rôma sờ gáy ngay lập tức.
Giữa hai trạng huống này, Đức Giêsu đã tìm ra một giải pháp. Đồng tiền thuộc về hoàng đế Xê-da, hãy trả về cho Xê- da. Rồi quay về Thiên Chúa, Ngài nói với đám đông, tất cả mọi sự phải quy hướng về Thiên Chúa. Những gì thuộc về Thiên Chúa, phải trả về cho Thiên Chúa. Đối với những người tin, thì tất cả mọi sự đều thuộc về Thiên Chúa, không chừa cái gì. Thế rồi, Đức Giêsu phóng một tầm nhìn để tương đối hóa những quyền bính trần gian, khi Ngài nhấn mạnh rằng chỉ Thiên Chúa mới là Đấng tối cao, nắm quyền trên mọi sự. Câu trả lời khôn ngoan của Đức Giêsu khiến những kẻ chống đối và muốn gài bẫy Ngài rất kinh ngạc. Họ câm họng không nói được gì, và đợi chờ một dịp khác để bắt bí Ngài.
Trong Tin Mừng, những người chất vấn Đức Giêsu nêu ra câu hỏi không phải với dụng ý ngay chính và thật lòng. Họ chỉ muốn gài bẫy để ám hại Ngài. Dẫu sao, trình thuật cũng có thể gợi ý cho các Kitô hữu thời nay biết cách ứng xử, khi phải đối mặt với một chính quyền có những hành động đi ngược thánh ý của Thiên Chúa và thiết định những luật lệ về luân lý trái nghịch với lương tâm Công giáo.
Chúng ta có phải nộp thuế cho chính phủ hay không? Ví dụ có vài Kitô hữu như Đức Cha Raymond Hunthausen, Tổng Giám mục giáo phận Seatle trước đây, đã phản đối chính phủ về việc nộp thuế để có ngân sách trang bị vũ khí hạt nhân. Chúng ta có nên phản kháng không nộp thuế thu nhập cá nhân, như một động thái để chống chiến tranh, như ông Dorothy Day đã làm hay chăng? Hoặc chúng ta vẫn nộp thuế, nhưng khôn khéo vận động, bỏ phiếu hoặc tham gia vào những tổ chức bất bạo động để phản kháng ôn hòa những chính sách sai lầm của chính phủ?
Đức Giêsu mời gọi chúng ta quy hướng về nước Thiên Chúa. Sự khôn ngoan của Ngài trong câu trả lời về bổn phận đối với Thiên Chúa và đồng thời cũng phải chu toàn nghĩa vụ trần thế, mời gọi chúng ta trước tiên phải luôn hướng vọng về Thiên Chúa, và đặt Thiên Chúa vào chỗ tối thượng trong cuộc đời chúng ta.
Ngài sẽ giúp chúng ta biện phân để biết ứng xử trong những trạng huống cụ thể của cuộc sống phức tạp ngày hôm nay.
23. Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà
(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’)
CỦA XÊ-DA, TRẢ VỀ XÊ-DA;
CỦA THIÊN CHÚA, TRẢ VỀ THIÊN CHÚA
Những người biệt phái và những người thuộc phe Hê-rô-đê âm mưu gài bẫy hãm hại Chúa Giêsu. Khởi đầu, họ đưa ra những lời mật ngọt để dụ Người đi vào cạm bẫy: “chúng tôi biết Thầy là người chân thật và cứ sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa. Thầy cũng chẳng vị nể ai…” rồi tiếp đó, xô Chúa Giêsu vào tròng: “Có được phép nộp thuế cho Xê-da không?”
Trả lời đằng nào cũng mắc nạn. Nếu bảo rằng: được phép, thì người Do-Thái sẽ vin vào đó mà kết án Chúa Giêsu là người ủng hộ đế quốc Rô-ma, phản bội đồng bào; nếu bảo không thì họ sẽ tố giác Người với chính quyền Rô-ma với tội danh là xúi dân đừng nộp thuế.
Chúa Giêsu biết ngay mưu đồ thâm độc của họ, Người lách khỏi cạm bẫy cách tài tình khi đề nghị họ cho Người xem đồng tiền nộp thuế và yêu cầu họ trả lời hình và hiệu trên đồng tiền đó là của ai. Họ trả lời: “của Xê-da”. Chúa Giêsu mượn cơ hội đó để nêu lên cho mọi người một nhận định đáng quan tâm suy nghĩ: “của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa”.
***
- Mọi sự đều là của Chúa, nếu Người lấy đi, ta chẳng còn gì
Mọi thứ chúng ta có đều là của Chúa ban. Nếu Chúa cất đi những gì Chúa ban, thử hỏi chúng ta còn lại được gì? Chúng ta hãy nghe lại chuyện ông Gióp để hình dung xem khi Chúa lấy lại những gì Chúa trao thì con người còn lại những gì.
“Xưa ở đất Út có một người tên là Gióp. Ông là người vẹn toàn và ngay thẳng, kính sợ Thiên Chúa và lánh xa điều ác. Ông sinh được bảy người con trai và ba người con gái. Ông có một đàn súc vật gồm bảy ngàn chiên dê, ba ngàn lạc đà, năm trăm đôi bò, năm trăm lừa cái và một số rất đông tôi tớ. Ông là người giàu có nhất ở Phương Đông…
Một ngày kia, Satan đến gặp Thiên Chúa. Thiên Chúa khen ông Gióp là người vẹn toàn và ngay thẳng, kính sợ Thiên Chúa và xa lánh điều ác. Satan cho rằng ông Gióp tốt với Chúa như vậy chẳng qua là vì Chúa ban cho ông ta phúc lộc dư dật. Nếu Chúa thử giơ tay rút lại những tài sản Chúa ban cho Gióp, xem Gióp có còn kính sợ Chúa nữa không? Chắc chắn là Gióp sẽ nguyền rủa Chúa thôi!
Thiên Chúa chấp thuận để cho Satan thử thách lòng trung tín của ông Gióp đối với Người.
Vậy là một ngày kia, đang khi các con trai con gái của Gióp đang ăn uống ở nhà anh cả, thì có một người đưa tin đến cho ông Gióp rằng: “Trong lúc bò của ông đang cày ruộng và lừa cái ăn cỏ bên cạnh, dân Sơ-va đã xông vào cướp lấy; chúng lại còn dùng gươm giết chết các đầy tớ. Chỉ còn mình tôi thoát nạn chạy về báo cho ông hay”.
Người ấy còn đang nói thì một người khác chạy về thưa: “Lửa của Thiên Chúa từ trời giáng xuống đốt cháy chiên dê và đầy tớ; lửa đã thiêu rụi hết, chỉ có mình tôi thoát nạn chạy về báo tin ông hay”.
Người nầy còn đang nói thì một người khác chạy về thưa: “Người Can-đê chia thành ba toán ập vào cướp lấy lạc đà; còn các đầy tớ, chúng dùng gươm giết chết, chỉ có mình tôi thoát nạn chạy về báo tin ông hay”.
Người ấy còn đang nói thì một người khác chạy về thưa: “Con trai con gái ông đang ăn uống tại nhà người anh cả thì một trận cuồng phong từ bên kia sa mạc thổi thốc vào bốn góc nhà; nhà sập xuống đè chết hết tất cả mọi người, chỉ có mình tôi thoát nạn chạy về báo tin ông hay”.
Bấy giờ ông Gióp chỗi dậy, xé áo mình ra, cạo đầu, sấp mình xuống đất, sụp lạy và nói: “Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ, tôi cũng sẽ trở về đó trần truồng. Đức Chúa đã ban cho, Đức Chúa lại lấy đi: xin chúc tụng danh Đức Chúa!” (Gióp 1, 6-22).
Câu chuyện trên đây giúp chúng ta biết rằng: mọi sự ta có đều là của Chúa tạm ứng cho ta hưởng dùng, nếu mai đây Chúa đòi lại thì chúng ta không khác gì ông Gióp: trần trụi, chơ vơ, chẳng còn gì!
Nhờ đôi mắt Chúa ban, chúng ta được nhìn thấy vẻ huy hoàng của thế giới; nếu Chúa lấy đi, chúng ta thành kẻ mù loà. Đôi chân nầy cũng là ân huệ Chúa ban, nhờ đó chúng ta có thể đi đến bất cứ nơi đâu mình muốn; nếu Chúa lấy đi, chúng ta trở thành người tàn phế. Nhờ hơi thở Chúa ban, chúng ta còn tồn tại đến hôm nay; nếu Chúa cất đi, chúng ta tắt hơi sau năm phút. Nhờ ánh sáng mặt trời Chúa ban, chúng ta được sưởi ấm và được sống; nếu Chúa lấy đi, chúng ta sẽ chết cóng vì lạnh sau nửa tiếng đồng hồ… Chúa ban cho chúng ta tất cả, chúng ta là những kẻ mắc nợ Ngài trong tất cả những gì chúng ta có.
Ngoài những món quà vật chất còn có vô số ân huệ thiêng liêng, mà ân huệ lớn nhất là Thiên Chúa Cha đã trao ban cho ta ngay cả Con Một của Người để mang lấy tội lỗi chúng ta, chịu khổ hình và chịu chết thay cho chúng ta.
Ngoài ra chúng ta cũng mang nợ xã hội rất nhiều: Thợ hồ xây nhà cho ta ở; thợ mộc đóng bàn ghế cho ta dùng; thợ may cung cấp cho ta quần áo che thân; thầy giáo cho ta tri thức và văn hoá; cha mẹ sinh ra, nuôi dạy chúng ta được khôn lớn như ngày hôm nay…
- Hãy đền đáp công ơn Thiên Chúa vì những ân huệ Người ban tặng cho ta.
Trong tương quan xã hội, người Việt Nam có truyền thống đáp nghĩa đền ơn rất chu đáo. Bánh ít đưa đi, bánh dì đưa lại. Có qua có lại mới toại lòng nhau. Hôm nay có dịp nhận quà mừng của người khác, mai đây người ta không quên đáp lại bằng một quà mừng tương xứng.
Nợ người đời tuy ít mà người ta còn lo đáp đền sòng phẳng, huống là những món nợ rất lớn đối với Thiên Chúa toàn năng.
Thầy giảng Anrê Phú Yên là một vị thánh tử đạo rất trẻ, là học trò của cha Đắc Lộ. Thầy được lãnh bí tích rửa tội năm 15 tuổi, được đào tạo và trở thành giáo lý viên năm 17 tuổi và đến năm 19 tuổi thì bị quan quân bắt bớ. Thầy vui lòng được chết để làm chứng cho Tin Mừng và cho Chúa Kitô. Ước vọng của thầy là muốn dâng hiến trọn vẹn cuộc đời để đền đáp lại ân tình của Chúa. Ước vọng đó được thầy diễn tả qua câu nói: “Đem mạng sống đáp đền mạng sống, lấy tình yêu đáp trả tình yêu.” Thiên Chúa đã yêu thầy vô cùng thì thầy cũng đáp lại bằng tình yêu thật lớn. Thiên Chúa đã chết cho thầy thì thầy cũng muốn dâng hiến mạng sống thầy cho Chúa. Đó cũng là nội dung lời dạy trong Tin Mừng hôm nay: hãy trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Người.
Cùng nguyện xin Thiên Chúa giúp chúng ta không vô ơn và tự phụ khi nhận được rất nhiều ân huệ của Thiên Chúa nhưng biết dâng hiến tất cả những gì Chúa ban, từ thời giờ, sức lực, trí tuệ đến tài năng, của cải và trọn cuộc sống chúng ta để báo đền vô vàn hồng ân Thiên Chúa.
24. Của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa
Người Pharisêu là những người giữ luật rất tốt. Họ giữ luật tỉ mĩ. Vì thế, ai không giống họ thì sẽ bị họ thanh trừ. Ngược lại, Chúa Giêsu là người sống cụ thể của luật bằng tình thương và lòng nhân ái. Điều này làm cho họ mất ảnh hưởng thậm chí là còn đe doạ quyền lợi của họ. Do đó, người Pharisêu càng thêm ghét Chúa Giêsu và họ tìm đủ mọi cách để loại trừ Ngài.
Hôm nay Phúc âm cho chúng ta thấy những người Pharisêu cố tình gài bẫy Chúa Giêsu. Nhưng họ không thể bắt bẻ được Ngài. Họ không thành công trong âm mưu của mình. Bởi vì Chúa Giêsu là Sự Thật. Ngài nói thật và làm thật. Ngài không thích gian dối. Khi đi rao giảng, gặp gỡ dân chúng, Ngài thường lên án sự giả hình và gian dối của những người Pharisêu bằng những lời lẽ thật nặng nề: “Tại sao các người lại thử Ta, hỡi những kẻ giả hình!” (Mt 22, 18).
Những người pharisêu là người lãnh đạo tôn giáo Do Thái. Mặt trong họ chống lại chính quyền Rôma đang cai trị dân Do Thái, mặt ngoài họ thoả hiệp với chính quyền để củng cố và duy trì địa vị của mình. Họ đã bàn tính với những người thuộc phái Hêrôđê, đang điều hành guồng máy chính quyền La Mã thu thuế ở Palestine. Họ hỏi Chúa Giêsu rằng: “Có được phép nộp thuế cho Cêsarê không?” (Mt 22, 17). Nếu trả lời không, Chúa sẽ bị chính quyền Rôma bắt về tội phản loạn. Nếu trả lời có, Chúa sẽ bị những người Do Thái ái quốc và dân chúng đang theo Ngài bỏ rơi. Trả lời cách nào Chúa cũng bị thiệt thòi, theo như họ đã nghĩ. Một cách khôn ngoan, Ngài không trả lời không hay có nhưng chỉ vào đồng tiền có hình Cêsarê mà nói: “Trả về Casarê cái gì của Casrê, và trả về Thiên Chúa cái gì của Thiên Chúa” (Mt 22, 21)
Qua câu trả lời của Chúa Giêsu, chúng ta hiểu ngay Thiên Chúa luôn nắm giữ quyền tối thượng trên mọi sinh hoạt của con người (Ga 3, 27; 19, 11; 1Cr 4, 7)
Một câu chuyện huyền thoại cổ kể về một ông vua đầy quyền lực và tàn bạo có thể điều khiển thuộc hạ phải làm theo ý mình tất cả mọi việc. Nhưng trừ một điều nhà vua không thể làm được là phá huỷ niềm tin của họ vào Thiên Chúa. Do đó, vua cho gọi ba nhà cố vấn thông thái nhất nước đến và hỏi: “tôi có thể dấu Thiên Chúa ở đâu để dân chúng sẽ không tìm ra Ngài” Nhà thông thái thứ nhất trả lời; “Hãy dấu Thiên Chúa vào các hành tinh thật xa trong không gian, dân chúng sẽ không tìm ra Ngài” Nhà thông thái thứ hai không đồng ý: “Như thế không được! Một ngày nào đó dân này sẽ nghiên cứu cách bay vào không gian, tới những hành tinh đó, và họ sẽ tìm thấy Thiên Chúa của họ. Tốt hơn hết là dấu Ngài xuống đáy đại dương.” Người thứ ba phản đối: “Như thế cũng không được! Một ngày nào dân này sẽ biết cách lặn xúông đáy biển, và họ sẽ tìm thấy Thiên Chúa. Tốt hơn hết, hãy dấu Ngài trong đời sống hằng ngày của mỗi người, không ai sẽ có thể tìm thấy Ngài cả!”. Thiên Chúa hiện diện trong mọi sinh hoạt của con người. Phần mình, con người, một loài thụ tạo, có bổn phận phải nhận biết yêu mến Thiên Chúa.
Như vậy, cái gì của Thiên Chúa và cái gì của Casarê? Đây không chỉ là vấn đề của những người Pharisêu, nhưng còn là vấn đề của các Tông Đồ, của chúng ta, và của con người qua mọi thời đại.
Chúa Giêsu đã không tránh né vấn đề bằng cách bỏ mặc con người với cách giải quyết riêng của mình. Trái lại, Ngài đã hiến thân để chứng mình cho cách thức giải quyết của Ngài. Ngài đã ban cho con người nguyên tắc chung, và con người có bổn phận phải áp dụng nguyên tắc đó vào trong những trường hợp cụ thể. Khi được hỏi ý kiến về điều răn nào quan trọng nhất, Chúa Giêsu đã ban hành nguyên tắc chung là: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn lớn nhất và điều răn đứng đầu. Còn điều răn thứ hai, cũng giống như diều răn ấy là; ngươi phải yêu mến người thân cận như chính mình” (Mt 22, 37-39)
Trong suốt cuộc đời rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu đã tận tình cắt nghĩa luật lệ này trong mọi lúc, mọi nơi và mọi hoàn cảnh. Hai điều luật vĩ đại nàykhông thể phân chia ra làm hai. Chúng ta không thể chu toàn lụât thứ nhất nếu không thi hành luật thứ hai. Yêu mến Thiên Chúa mà không yêu thương người lân cận là một sự mâu thuẫn. Thánh Gioan đã viết: Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy… ai yêu mến Thiên Chúa, cũng phải yêu mến anh em mình” (1Ga 4, 20-21)
Một câu chuyện kể về bốn vị thiên thần chứng kiến việc sáng tạo vũ trị của Thiên Chúa. Thiên thần thứ nhất hỏi: “Tại sao Ngài đã tạo nên nó?” vị thứ hai nói: “Ngài đã tạo nên nó bằng cách nào?” vị thứ ba năn nỉ Thiên Chúa; “Xin Ngài hãy ban nó cho con” Sau cùng, vị thứ tư nói: “Thật là tuyệt diệu! Nào ta hãy đi và chăm sóc nó!” Câu hỏi thứ nhất: “Tại sao Ngài đã tạo nên nó?” là phương pháp của triết học. “Ngài đã tạo nên nó bằng cách nào?” là phương pháp của khoa học. “Xin Ngài hãy ban nó cho con” là phương pháp ích kỷ. “Nào ta hãy chăm sóc nó!” là phương pháp của tôn giáo nhận ra rằng tất cả mọi sự là của Thiên Chúa. Tất cả đất đai thuộc về Thiên Chúa, gồm cả bầu trời, nước non, loài vật và con người là của Thiên Chúa, gồm cả những người kiêu căng hay khiêm tốn; giàu sang hay nghèo hèn; Tất cả mọi người đã được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa, và có quyền lực yêu thương và kính trọng theo đúng phẩm giá con người.
Mẹ Têrêsa Calcutta đã nói: “Chúng ta không được kêu gọi để thành công, nhưng chúng ta đã được kêu gọi để trung thành.” Trung thành với Thiên Chúa là quyền ưu tiên tối thượng trên tất cả mọi sự.
Thử hỏi xem có một cái gì hay vật gì trong vũ trụ này mà lại không thuộc về Thiên Chúa? Trái đất và vũ trụ này do Thiên Chúa tạo dựng nên, và chính con người cũng được Ngài tạo dựng. Mỗi người chúng ta đã lãnh nhận sự sống từ Ngài, bởi vì không có gì mà chúng ta đang dùng mà lại không do Ngài ban cho.
Vậy, nếu không trả về cho Thiên Chúa những gì thuộc về Ngài, không hướng về Ngài tất cả những gì trong vũ trụ hay tất cả những gì ta đang hưởng dùng thì đó là thái độ phản loạn của con người. Con người muốn chiếm hữu lấy chỗ của Thiên Chúa và qui mọi sự về chính mình, lấy mình làm chủ, làm tiêu chuẩn cho mọi sự, những thái độ kiêu ngạo sai lầm này chỉ dẫn đưa đón những tranh chấp, hận thù, bạo lực và xa rời Thiên Chúa mà thôi. Vì thế, bao lâu mỗi người chúng ta không nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng chủ tể của mình, không trả lại cho Ngài và không qui hướng về Ngài tất cả những gì thuộc về Ngài, không để cho Thiên Chúa chiếm chỗ nhất trong cuộc sống của mình, thì bấy lâu con người không thể xây dựng một xã hội nhân bản xứng đáng là con người, không thể nào xây dựng một xã hội hoà hợp, trong đó mọi người nhìn nhận nhau như là anh chị em trong đại gia đình có Thiên Chúa là Cha: “Hãy trả cho Xêsa những gì của Xêsa, và hãy trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa”.
Hôm nay Lời Chúa mời gọi mỗi người Kitô hữu chúng ta hãy dấn thân nhiều hơn nữa, đặt Chúa vào chỗ nhất trong cuộc sống của mình, đặt Chúa vào chỗ nhất trong mọi sinh hoạt xã hội của mình. Tất cả mọi biến cố, tất cả những gì chúng ta đang thừa hưởng là đến từ Thiên Chúa và đều do tình yêu thương của Ngài trao ban.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con cảm lạ và tri ân Ngài mãi mãi, vì tất cả những gì chúng con có đều là do Chúa ban cho. Xin Chúa giúp chúng con sống ở đời này nhưng biết dùng mọi của cải mà làm sáng danh Chúa. Amen.
25. Của Cê-da trả về cho Cê-da
(Suy niệm của Lm. Inhaxiô Maria Hải Dương CRM)
Bài Phúc Âm Chúa Nhật hôm nay, Chúa Giêsu xác quyết bổn phận của chúng ta là phải vâng phục quyền bính. Nhóm Biệt Phái và Hêrôđê gài bẫy Ngài bằng một câu hỏi: Có phải nộp thuế cho Cê-da không?
Người Do Thái quan niệm đóng thuế như vậy chỉ làm cho thế lực ngoại bang trên dân tộc thêm vững mạnh. Nếu Chúa đồng ý, Ngài sẽ bị kết án là hợp tác với người Rôma. Nếu không đồng ý, Ngài sẽ bị tố cáo chống đối nhà cầm quyền Rôma. Thực vậy, đối với người Do Thái thời Chúa Giêsu: từ chối nộp thuế là chống lại Rôma, còn chịu nộp thuế là công nhận quyền bính hoàng đế ngoại bang và ngoại đạo. Trong khi người Do Thái vẫn cứ phải nộp thuế và giao dịch bằng đồng tiền Rôma với hình hoàng đế Cê-da và chữ Cê-da thần thánh. Trong khi người Do Thái không thờ ngẫu tượng, ở đây lại là ngẫu tượng sống .
Chúa trả lời: những gì của Cê-da trả về cho Cê-da, những gì của Thiên Chúa, trả về cho Thiên Chúa. Câu trả lời của Chúa Giêsu không có ý dạy ta phân biệt đạo đời. Quan điểm của Chúa Giêsu không dạy ta từ chối dấn thân, tham gia chính trị, vì ta không thể phụng thờ Thiên Chúa nếu chúng ta không dấn thân phục vụ anh chị em. Dấn thân vào đời không phải để thống trị ai, nhưng là theo gương Đức Giêsu đã hiến dâng cả mạng sống để mở ra một tương lai hoà bình, tình thương và công lý cho con người. Chúa Kitô muốn đưa Thiên Chúa vào trong cuộc sống thường ngày của con người. Chính Ngài cũng chia sẻ kiếp sống con người qua hình ảnh con bác thợ mộc, và rồi làm những phép lạ để cứu chữa con người cả hồn xác. Ngài không cho đó là chuyện trần thế, không liên quan gì đến Thiên Chúa. Ngài chỉ muốn trả lại cho Cê-da: thuế má, sự tùng phục luật công bình. Ngoài ra không còn gì khác. Nói cách khác, Ngài không muốn biến con người trở thành một ngẫu tượng, được coi ngang hàng với Thiên Chúa.
Là công dân, người tín hữu được kêu mời chu toàn nghĩa vụ đóng góp cho quốc gia những tài lực, nhân lực như công ích đòi hỏi, cũng như trách nhiệm đóng thuế, vì đó là nghĩa vụ người công dân. Vì một khi người dân đón nhận những lợi ích xã hội thì họ phải có bổn phận đóng góp. Đây chính là vấn đề tình liên đới nhân loại. Thêm vào đó, người tín hữu cũng phải cầu nguyện cho những nhà lãnh đạo quốc gia, biểu lộ lòng tôn kính biết ơn đối với nhà cầm quyền, vì quyền bính đến từ Thiên Chúa. Tất cả những sự liên hệ với chính quyền phải thực sự trở nên con đường dẫn tới sự thánh thiện. Thế nên, việc đóng thuế, quyền bầu phiếu, tham gia những tổ chức công ích phải là nghĩa vụ không riêng gì của ai. Đối lại, chính quyền phải lo cho lợi ích người dân, mà không trục lợi cá nhân mình. Chính quyền cũng phải biết tôn trọng luật tự nhiên, và lo cho quyền lợi dân chúng, bao gồm việc bảo vệ sự sống ngay từ trong bụng mẹ tới lòng đất, bảo vệ nền tảng hôn nhân truyền thống gia đình một nam một nữ, bảo vệ quyền tự do tôn giáo, phát huy quyền lợi cha mẹ, và đẩy mạnh việc giáo dục trẻ em cách thích ứng.
Chúa Kitô tuyên bố: của Cê-da hãy trả cho Cê-da, của Thiên Chúa trả về cho Thiên Chúa. Bình luận về lời Chúa Kitô, Thánh Augustinô nói với chúng ta, và cũng như lời kết cho bài suy niệm hôm nay: “Thiên Chúa đòi hỏi chúng ta trả lại hình ảnh Người cho Người, hình ảnh mà theo đó chúng ta đã được tạo dựng nên. Đó là điều Người muốn nói với người Do Thái khi hỏi: có được phép nộp thuế cho Cê-da hay không?… Cũng như Cê-da tìm hình tượng mình trên đồng tiền thế nào thì Thiên Chúa cũng tìm hình tượng mình trong linh hồn chúng ta như vậy. Cê – da đòi bạn trả gì? Trả hình ảnh lại cho ông. Chúa đòi bạn trả lại gì? Trả lại dung mạo của Người. Nếu mất đồng tiền làm bạn phải than khóc vì bạn đã đánh mất hình tượng Cê-da thì khi mất hình ảnh Chúa trong lòng bạn, bạn gây xỉ nhục cho Chúa biết mấy”.
Xin Đức Mẹ, Đấng hằng suy niệm và ghi nhớ Lời Chúa trong tâm hồn, giúp chúng con luôn giữ gìn hình ảnh Chúa trong tâm hồn chúng con. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có một câu chuyện kể rằng: có một người con gái nông thôn lên thành thị học, sau khi học thì cưới chồng giàu sang. Khi đám cưới, mẹ cô từ dưới quê nghèo lên dự, nhưng vẫn mang dáng dấp quê mùa với bộ đồ đã bạc màu, cũ kỹ. Sợ khách chê cười và xem thường mình, cô con gái không dám nhìn mặt mẹ và không dám giới thiệu mẹ với khách. Dù rằng, cô vẫn biết bà mẹ nhà quê rất tủi thẹn, nhưng cô vẫn lạnh lùng làm ngơ. Cô con gái đã đánh mất lòng thương yêu ngay cả đến với mẹ mình. Cô là loại người vong ân bội nghĩa. Cô đã phạm tội bất hiếu khi đang tâm không nhìn nhận công đức của mẹ đã dành cho cô: “chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm, tất bật nuôi con cho tới khi trưởng thành”. Những loại người như vậy thường bị người đời kết án, tẩy chay, xem thường…
Lời Chúa hôm nay như là lời chất vấn lương tâm chúng ta. Của Xê-za hãy trả về cho Xê-za, của Thiên Chúa hãy trả về cho Thiên Chúa. Của Xê-za có thể là những thứ công bình bác ái giữa người với người, hay có thể là bổn phận phải thi hành cho đất nước, cho gia đình và xã hội. Của Thiên Chúa chính là con người phải lệ thuộc vào Thiên Chúa vì sự sống là của Thiên Chúa ban, và còn được Ngài ưu ái dựng nên giống hình ảnh Ngài. Của Thiên Chúa còn là những kỳ quan thiên nhiên mà Thiên Chúa đã quan phòng xếp đặt cho có thời, có lúc để nuôi dưỡng con người. Chính vì thế mà có ai đó nói rằng: con người sinh ra đã mang kiếp nợ trần. Con người đã mang ơn khi vào trần gian nên phải trả nợ cho hết cuộc đời. Trả nợ Thiên Chúa và trả nợ tha nhân.
Vậy, chúng ta phải trả lại cho Thiên Chúa và tha nhân những gì?
Hãy trả lại cho Thiên Chúa những thứ thuộc về Thiên Chúa. Đó chính là con người là hoạ ảnh Thiên Chúa, là “nhân chi sơ tính bản thiện”. Nhưng đáng tiếc, con người đã quay lưng lại với Thiên Chúa, đã phá vỡ những nét đẹp của hình ảnh Thiên Chúa khi lao vào những đam mê lầm lạc như: ngoại tình, dâm ô, cướp của, giết người hay gian dối, điêu ngoa… khiến con người trở thành “chó sói của con người” như lời của Saint paul Sart đã từng thốt lên trong chua chát!
Hãy trả lại cho Thiên Chúa quyền làm chủ sự sống. Nhưng đáng tiếc, con người đã lạm dụng tự do để bức tử các thai nhi vô tội khiến hàng triệu thai nhi bị tước đoạt quyền sống, quyền làm người của mình.
Hãy trả lại cho Thiên Chúa những trật tự thiên nhiên mà chính Ngài đã khôn ngoan xếp đặt. Nhưng đáng tiếc, con người đã đang tâm phá vỡ khi ngăn sông, lấp biển, chặt cây, đốt rừng khiến lũ lụt tràn lan, mưa nắng thất thường…
Hãy trả lại cho tha nhân lòng biết ơn mà mỗi người chúng ta từng mang ơn khi bước vào đời. Nhưng đáng tiếc, nhiều người đã sớm vong ân bội nghĩa khi dứt bỏ tình cha, tình mẹ. Họ đã sống thiếu trách nhiệm với gia đình và xã hội khi lười biếng và sống sa đoạ tội lỗi.
Hãy trả lại cho tha nhân sự công bình và bác ái mà mỗi người khi sinh ra đều được hưởng dùng của cải mà Thượng Đế ban tặng qua vũ trụ vạn vật. Nhưng đáng tiếc, nhiều người đã làm dụng quyền bính để vun quén cho bản thân, để bóc lột kẻ thấp cổ bé họng để làm giầu cho bản thân.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: hãy trả lại cho Thiên Chúa sự trong trắng tâm hồn của con người là hình ảnh ban đầu mà Thiên Chúa đã tạo dựng nên. Hãy trả lại cho tha nhân không chỉ là quyền được sống mà còn được sống dồi dào trong sự tôn trọng tự do của nhân quyền giữa người với người, không phân biệt giai cấp hay màu da sắc tộc…
Chúng ta đang sống trong một xã hội mà mọi giá trị đang mai một và đảo ngược. Ngay thẳng thật thà thì bị coi là ngu khờ dại dột… “Lương tâm không bằng lương tháng”. Một xã hội mà dối trá đang ngự trị khắp nơi mà có ai đó nói trong cay đắng rằng: xã hội hôm nay đang tiến từ thời kỳ đồ đá, đồ đồng sang thời kỳ “đồ đểu”! Một xã hội mà Cái TÔI lên ngôi Thượng Đế nên có quá nhiều những thị phi. Con người hôm nay đang lừa dối lòng mình và lừa dối tha nhân khi nói rằng: không có Thiên Chúa, không có thần linh. Chết là hết… Vì vậy mà người ta luôn đang tâm làm hại lẫn nhau, luôn tìm cách loại trừ Thiên Chúa để dễ dàng làm ngược với lương tri con người.
Ước gì mỗi người chúng ta biết nhận ra sự sống là quà tặng Thiên Chúa ban và được nuôi dưỡng trong tình yêu thương của đồng loại, để rồi mỗi người chúng ta luôn biết sống trong tâm tình tri ân Thiên Chúa và cảm tạ tha nhân. Amen.
(Suy niệm của Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn)
Cổ Học Tinh Hoa có thuật lại câu chuyện xảy ra trong thời Chiến quốc bên Trung Hoa: Vua nước Nguỵ muốn cầu hoà với vua Kinh nước Sở nên đã dâng cho vua này một cô gái tuyệt đẹp. Vua Kinh yêu nàng ta mê mệt đến nổi chẳng còn thiết gì đánh nhau. Vua đem cô gái về nước và lập làm vợ thứ.
Hoàng hậu nước Sở là Thịnh Tụ thấy vua thương cô gái cũng đem lòng quí mến chiều chuộng. Muốn mặc gì, đi chơi đâu, nhất nhất hoàng hậu cũng đồng ý. Thấy thế vua Kinh mừng lắm, có lần khen: “Hoàng hậu thấy ta yêu quí vợ mới mà cũng đem lòng thương mến như thế thì có gì khác nào con thảo biết thờ kính cha mẹ, tôi trung biết làm vui chủ mình”.
Hoàng hậu thấy vua không nghi ngờ gì nên một dịp kia mới bảo cô gái đẹp: “Đức vua thương yêu ngươi lắm, chỉ ghét có cái mũi của ngươi. Giá mà từ nay, mỗi lần trông thấy đức vua, ngươi che mũi lại thì chắc sẽ được yêu thương hơn nhiều”.
Nghe lời khuyên nên hễ vừa thấy đức vua, cô gái nọ liền che mũi lại. Thấy lạ vua Kinh mới dò thăm với hoàng hậu. Trước thì hoàng hậu trả lời “không biết” đến khi thấy vua cứ gặng hỏi, bà mới nói; “Thiếp nghe đâu cô ấy nói thân thể đức vua có mùi hôi khó ngửi, nên cứ phải che mũi thế đấy”. Nghe vậy nhà vua nổi giận quát lên: “Thế thì xẻo ngay cái mũi của nó cho ta”. Lập tức một tên lính cầm dao đi xẻo mũi cô gái, bởi hoàng hậu có dặn: hễ nghe vua phán gì thì phải thi hành ngay.
Ôi nham hiểm và thâm độc thay! Lòng bừng bừng ghen tức, nhưng ngoài mặt lại rộng lượng vô bờ. Bên trong muốn xé nát người ta, nhưng bên ngoài vẫn quyến luyến thiết tha. Rồi cuối cùng, bằng một mũi tên độc, Trịnh Tụ hạ được hai “con nhạn”: tình địch bị cắt mũi, nhà vua mất người yêu. Thế mới hay tác hại kinh khủng của những kẻ khẩu tâm bất nhất. Miệng nam mô, lòng là một bồ dao găm.
Tội nghiệp nhà vua, vô tư đến nỗi tưởng lời nói của hoàng hậu là chân tình. Thấy người ta thuận ý thì đắc chí, khi nghe tiếng chê thì lồng lộn căm tức, không cần suy xét, nên mắc vào cạm bẫy gian manh.
Hôm nay, một chiếc bẫy cũng được giương lên rất khéo. Kẻ đặt bẫy cũng tinh ranh không kém Trịnh Tụ. Nhưng người họ muốn gài bẫy không dại khờ như vua Kinh.
Các ký lục biệt phái cùng nhóm người Hêrôđê giăng lên một chiếc bẫy. Họ chắc mẩm Chúa có chạy đường trời cũng không thoát. Đầu tiên họ ca tụng tang bốc Ngài lên tận mây xanh. Nào là “chúng tôi biết Thầy là người ngay chính”, nên chúng tôi tìm đến. Nào là “Thầy cứ căn cứ theo sự thật mà dạy bảo đường lối Thiên Chúa”, nên chúng tôi xin học hỏi. Nào là “Thầy không thiên tư tây vị ai”, nên thầy sẽ nói tất cả, chẳng sợ mất lòng người nào.
Thật ghê gớm! Lời ca tụng của họ ngầm bảo rằng chuyến này Đức Giêsu phải mở miệng. Mà như thế ắt sẽ mắc quai.
Sau khi rào đầu chắn đuôi, họ mới giăng bẫy để Chúa bước vào: “Thưa Thầy, có nên nộp thuế cho Cêsarê không?”. Nếu không im lặng thì câu trả lời chỉ còn là “có” hay “không”. Nhưng “có” cũng chết, mà “không” cũng hết sống. Vì khi trả lời “có”, lập tức Đức Giêsu bị ghép với phường thu thuế, đám người đang bị dân Do thái ghét đắng ghét cay: hễ ai ủng hộ nộp thuế hay cộng tác với chính quyền Rôma đều bị xem như bọn cấu kết với ngoại bang, thiếu tinh thần dân tộc, và đáng khinh chứ không đáng kính, đáng tôn.
Nhưng nếu Đức Giêsu nói “không”, ngay lập tức bọn theo phe Hêrôđê sẽ tố cáo Ngài có tinh thần dấy loạn, dám chống lại chính sách nhà nước. Và tất nhiên Ngài sẽ khó tránh khỏi án phạt đích đáng.
Một câu hỏi đơn sơ nhưng sao khó giải quyết. Tuy nhiên việc giải quyết câu hỏi vẫn không phức tạp cho bằng giải quyết lòng người. Phức tạp là vì người hỏi không mang chủ đích tìm một con đường hay một hướng đi cho đời, nhưng là để làm hại kẻ khác. Phức tạp còn là vì người hỏi không định lái đời mình theo điều dạy bảo, nhưng mong có câu trả lời theo ý mình muốn.
Đừng tưởng chỉ có đời xưa người ta mới hỏi phức tạp như thế. Đời nay cũng thế thôi! Có người từng đặt vấn đề: “Con đi làm, bị chủ trả lương thấp, con câu giờ, làm ít tính nhiều có tội không? Mình ‘ăn’ tiền chính phủ rồi thỉnh thoảng đem cúng nhà thờ có sao không?” Có người lại thắc mắc: Nếu vợ chồng chẳng còn nồng ấm, gia đình đang biến thành hoả ngục, li dị hay ngoại tình sẽ là lối thoát hay nhất, nhưng tại sao Giáo hội không cho phép?” Người khác còn nói: “Thời buổi này nuôi dạy con cái không dễ, nhưng sao Giáo quyền không cho ngừa thai như chính quyền cho phép? Tại sao Giáo hội không rộng rãi đôi chút để đáp ứng lối sống và nhu cầu con người thời đại? Dường như lề luật của Chúa và Giáo hội làm nên xiềng xích trói buộc tự do và hạnh phúc con người?”
Thế đấy, xưa và nay không thiếu những câu hỏi “đơn sơ” như của biệt phái và bè Sađoc. Nhưng một câu hỏi và cũng là câu trả lời căn bản nhất sẽ là: Tại sao người ta không chịu thay đổi lối sống cho phù hợp với những giá trị bất biến của Tin Mừng như công bằng, hy sinh, bác ái, yêu thương, tha thứ, tôn trọng sự sống, một vợ một chồng…, mà lại cứ đòi Chúa Kitô và Giáo hội thay đổi chân lý theo sở thích và đam mê của con người? Tại sao không dùng những phương cách chính đáng để đạt đến mục đích tốt lành mà lại dùng những mục đích rất kêu để biện minh cho các hành động vô luân và bất nhân?
Thành ra vấn nạn không phải nơi Thiên Chúa nhưng là nơi con người. Thay vì “con vâng ý cha”, người ta lại cứ muốn “Cha theo ý con”. Vấn đề không phải là Thiên Chúa hay Giáo hội khắt khe, độc tài, thiếu cảm thông hiểu biết, nhưng vấn đề là vì con người cứ cho mình hiểu biết hơn Thiên Chúa, khoan nhân hơn Hội Thánh. Thế rồi khi lên tiếng thì tiếng đó không phát xuất từ con tim khao khát chân lý, muốn tìm con đường đúng nhất hầu có được niềm vui thẳm sâu, nhưng nó lại phát xuất từ ích kỷ dối gian, đam mê bất chính, khát khao tội lỗi. Chúng đến từ ý tưởng của thế gian chứ không phải từ Thiên Chúa.
Trong khi người ta hỏi Chúa Giêsu về chuyện thế tục, Ngài lại hướng họ đến một chiều kích cao hơn: Hãy trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa. Thử hỏi, có gì tốt đẹp người ta nhận được mà không đến từ Thiên Chúa. Thành ra, vượt lên Cêsarê để đi đến Thiên Chúa, vượt qua vật chất để hướng về tâm linh là bổn phận cần thiết nhất trong đời con người.
Ước chi bao tâm tư mỗi ngày đời tôi sẽ luôn khởi đi từ con tim mến thương chân thành, nhiệt tình xây đắp nhân phẩm, tha thiết làm sáng danh Cha. Có thể, hồn tôi sẽ được bình an; cuộc sống sẽ chứa chan tin yêu hy vọng.
Ngày nay trước vấn đề tục hoá, vai trò của tôn giáo dường như mỗi lúc một mờ nhạt. Thế nhưng rải rác đó đây vẫn còn những sự kiện đáng cho chúng ta suy nghĩ. Chẳng hạn giáo chủ Khomenei ra lệnh hành quyết đối với nhà văn Salman Rushdie vì ông này đã báng bổ Hồi giáo qua cuốn “Vần thơ của ác quỷ”. Và cũng đã lâu, các học giả Hồi giáo đòi lấy đầu bà Thủ tướng Butto nước Pakistan vì bà này dám huỷ bỏ luật chặt tay những kẻ trộm cắp. Trong bối cảnh đó thì đoạn Tin Mừng sáng hôm nay có ý nghĩa gì?
Đây là lần đầu tiên bọn biệt phái và phe Hêrôđê liên kết với nhau tưởng rằng sẽ mưu cầu đại sự, ai ngờ chỉ nhằm loại bỏ Chúa Giêsu bằng cách gài bẫy Ngài trước một vấn đề xem ra nan giải: Có được phép nộp thuế cho César hay không? Nêu lên câu hỏi này, bọn biệt pháp chỉ chờ câu trả lời có để ghép tội Chúa Giêsu là kẻ chống phá tôn giáo, đi với đế quốc. Trong khi phe Hêrôđê thì lại chờ câu trả lời không để xếp Ngài vào số những kẻ thù địch với chính quyền. Có hay không, phần thiệt luôn nghiêng về Chúa Giêsu.
Nhưng thật bất ngờ đến độ chưng hửng, Chúa Giêsu không những đã vạch trần thủ đoạn nham hiểm của họ, mà còn đẩy họ tới chỗ phải chịu trách nhiệm về những chọn lựa của mình. Ngài nói: Của César hãy trả cho César. Đây là một sự kiện thực tế bởi vì họ tiêu dùng tiền Rôma thì cũng phải đóng thuế cho Rôma. Quyền lợi đi liền với nghĩa vụ. Nộp thuế cho César không phải là một hành vi phạm thánh như bọn biệt phái cố tình dàn dựng, nhưng là một hành động hợp lý với những ai có ý thức xã hội.
Bọn biệt phái thì chưng hửng còn phe Hêrôđê thì cụt hứng. Những tưởng đã chụp mũ được Chúa Giêsu trong góc độ chính trị, nếu Ngài phủ nhận quyền bính của César, nhưng Ngài lại muốn khẳng định mình trong cương vị tôn giáo. Thế nên, chẳng thể bảo Ngài là thoả hiệp hay chống đối, bởi vì Ngài là con người tôn giáo biết chu toàn mọi bổn phận công dân.
Vượt trên vấn nạn của kẻ thù, Chúa Giêsu còn mời gọi họ bước tới với trách nhiệm tôn giáo. Dù đứng trong lập trường nào, họ đều là những người Do Thái, kính mến Thiên Chúa và tuân giữ luật lệ của Maisen, nên bổn phận trước hết của họ phải là bổn phận tôn giáo: của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa. Qua đó Ngài cũng xác quyết vê quyền tối thượng của Thiên Chúa. Thực vậy, Thiên Chúa là chủ và quyền năng của Ngài bao trùm mọi lãnh vực. Ngài không tự đặt mình ngang hàng với César để tranh chấp hay bảo vệ những quyền lợi của mình. Bởi vì nộp thuế hay không nộp thuế cho César đâu có thêm bớt được cho vinh quang của Ngài. Do đó, chúng ta có thể chu toàn những bổn phận đối với Thiên Chúa mà vẫn cứ an tâm nộp thuế cho César.
Chúng ta không phải chỉ ngỡ ngàng và thán phục cung cách trả lời của Chúa Giêsu, mà còn ngỡ ngàng và thán phục hơn nữa với nội dung của lời giải đáp, có sức làm bật tung những lối nhìn tù túng. Có thể nói được rằng chỉ có một bổn phận duy nhất là làm đẹp lòng Thiên Chúa, Đấng bao trùm trong mọi lãnh vực. Bởi vì đạo chỉ đẹp hơn khi ở trong đời và đời chỉ tốt hơn khi ở trong đạo.
29. Suy niệm của ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.
CỦA THIÊN CHÚA TRẢ CHO THIÊN CHÚA
Người Do Thái muốn gài bẫy Chúa nên đưa ra câu hỏi hóc búa. Không ngờ Chúa trả lời thật khôn ngoan: “Của César trả cho César, của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa”. Với câu trả lời này, Chúa Giêsu minh định hai điều:
Thứ nhất: Tôn giáo và chính trị tách biệt nhau. Chính trị không thể trở thành tôn giáo hoặc bắt tôn giáo làm nô lệ. Tôn giáo cũng không thể đi vào chính trị, đánh mất bản chất của mình.
Thứ hai: Mỗi người phải chu toàn hai nhiệm vụ. Nhiệm vụ đối với xã hội là “trả cho César” những gì của César. Nhiệm vụ đối với Thiên Chúa: “trả cho Thiên Chúa” những gì thuộc về Thiên Chúa.
Hình và huy hiệu khắc trên đồng tiền là của hoàng đế César vì thế phải trả lại cho ông. Nhưng linh hồn con người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa nên linh hồn phải được trả về cho Thiên Chúa.
Để có được đồng tiền mang hình ảnh César, người dân phải làm việc vất vả. Cũng thế, để linh mang hình ảnh Thiên Chúa, con người cũng phải ra sức làm việc.
Nhưng hai cách làm việc thật khác xa nhau. Để chia sẻ phần nào quyền lực của vua chúa trần gian, người ta phải làm việc theo cách vua chúa đó là tìm chiếm hữu của cải. Để trở nên giống hình ảnh Thiên Chúa, con người phải suy nghĩ và hành động như Thiên Chúa đó là yêu thương và cho đi.
Bí tích Thánh Thể là minh họa rõ nét nhất về tính cách yêu thương và cho đi của Thiên Chúa. Nói về bí tích Thánh Thể, lòng trí ta tự nhiên hướng về bữa Tiệc Ly, cuộc Khổ Nạn và cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá. Qua đó ta thấy một vài khía cạnh trong tình yêu của Chúa.
Đó là tình yêu phục vụ. Tin Mừng thánh Gioan thuật lại. Chúa Giêsu yêu thương những kẻ thuộc về mình thì yêu thương cho đến cùng. Nên trong bữa ăn tối, Người cầm lấy chậu nước và khăn rồi đi rửa chân cho từng môn đệ.
Đó là tình yêu tự hiến. Khi lập phép Thánh Thể. Chúa Giêsu đã nói: “Đây là Mình Thày bị nộp vì anh em; Đây là Máu Thày đổ ra cho anh em và mọi người được tha tội” (Lc 22,19).
Đó là tình yêu hiền lành khiêm nhường. Chúa Giêsu cam lòng chịu kết án oan ức, chịu sỉ nhục, chịu hành hạ chịu chết mà chẳng một lời oán thán.
Đó tình yêu tha thứ. Không chỉ tha thứ mà còn cầu xin Chúa Cha tha cho những kẻ làm hại mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ lầm không biết” (Lc 23,34). Người cũng tha thứ cho kẻ trộm lành: “Thật Ta bảo thật, hôm nay con sẽ ở với Ta trên thiên đàng” (Lc 23,43).
Đó là tình yêu muốn tiếp diễn mãi mãi. Nên Người truyền cho ta: “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thày” (Lc 22,19). Cử hành thánh lễ, chầu Mình Thánh, kiệu Thánh Thể để Chúa ở mãi với ta, tiếp tục bày tỏ tình yêu thương với ta.
Người mong muốn kéo dài tình yêu của Người cho đến tận cùng không gian và đến tận cùng thời gian nơi cuộc đời chúng ta. Vì thế khi ta chịu lễ, ta phải kết hiệp mật thiết với Người, nên một với Người. Nên một với Người là biến đổi để ta suy nghĩ, nói năng và hành động như Người, nghĩa là sống như Người.
Sống như Chúa là hãy có tình yêu thương phục vụ. Vì Chúa đã dạy: “Như Thày đã rửa chân cho các con, các con cũng hãy rửa chân cho nhau” (Ga 13,14). Sống như Chúa là hãy có tình yêu tự hiến. Quên mình vì hạnh phúc của người khác. Dám hy sinh thời giờ, sức khỏe, tiền bạc vì anh em. Sống như Chúa là hãy có lòng hiền lành khiêm nhường. Vì Chúa đã dạy: “Hãy học cùng Thày, vì Thày hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11,29). Sống như Chúa là hãy tha thứ, không phải chỉ tha thứ 7 lần mà đến 70 lần 7 (x. Mt 18,21-22).
Sống như thế, ta trở nên hình ảnh sống động của Thiên Chúa giữa trần gian. Sống như thế, ta trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa. Sống như thế ta tôn sùng bí tích Thánh Thể một cách thiết thực và hữu hiệu nhất. Sống như thế là sống nhờ Thánh Thể. Không còn sống cho những giá trị trần gian mau qua, nhưng sống cho những giá trị vĩnh cửu của Nước Trời.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin dạy con biết sống bí tích Thánh Thể để con được kết hiệp với Chúa và càng ngày càng nên giống Chúa hơn. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
- Ban đã phải trả cho César những gì thuộc về César. Nhưng bạn có thực sự trả cho Chúa những gì thuộc về Người không?
- Bạn làm gì để nên giống Chúa?
- Qua bí tích Thánh Thể, bạn có thể hiểu được gì về tình yêu Chúa đối với bạn?
30. Mọi sự là của Chúa, hãy trả Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Dịp lễ Đức Mẹ La Vang, tháng 8 năm 2017 vừa qua. Khi đề cập đến tình hình tự do tôn giáo tại Việt Nam, Đức Tổng Giám Mục Girelli nhận định rằng, tại một số tỉnh, nhà cầm quyền lo lắng và phàn nàn về người Công Giáo và các hành động của họ. Nhưng ngài khuyên nhà cầm quyền CSVN nên nhận thức rằng, Giáo Hội Công Giáo nên được xem như một điều tích cực, thay vì một điều có vấn đề đối với đất nước.
Trích câu nói thời danh của Chúa Giêsu rằng: “Trả cho Caesar những gì của Caesar, và trả cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa”. Đức Tổng Giám Mục Leopoldo nói tự do tôn giáo không phải cái gì thuộc về các quan chức chính quyền, mà phải nằm trong tay của người dân. Ông kêu gọi “các Caesar Việt Nam hãy trả lại cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa”.
Đoạn Tin Mừng hôm nay mang đầy tính thời sự vì chúng ta đang sống trong một thế giới con người muốn gạt bỏ Thiên Chúa ra ngoài cuộc sống, hoặc nhận tất cả về mình, không còn kể đến Thiên Chúa nữa. Câu kết của đoạn Tin Mừng hôm nay đã trở thành lời bất hủ và ghi đậm dấu ấn trong lịch sử, trong tương quan phân chia, sở hữu thường ngày.
Đoạn Tin Mừng hôm nay mang đầy tính thời sự vì chúng ta đang sống trong một thế giới con người muốn gạt bỏ Thiên Chúa ra ngoài cuộc sống, hoặc nhận tất cả về mình, không còn kể đến Thiên Chúa nữa. Câu kết của đoạn Tin Mừng hôm nay đã trở thành lời bất hủ và ghi đậm dấu ấn trong lịch sử, trong tương quan phân chia, sở hữu thường ngày.
Thầy dạy bảo đường lối Thiên Chúa
Chúng ta khẳng định, Chúa Giêsu là Lời sống động của Thiên Chúa thế mà con người lại cố tìm để bắt lỗi Lời của Ngài! Con người nói: “Thầy dạy bảo đường lối Thiên Chúa”, nhưng vẫn cứ hỏi: “Có được phép nộp thuế cho Cêsarê hay không?” (Mt 22, 17). Hỏi để mà hỏi, không phải để biết cho bằng gài bẫy. Thực tế nhóm Pharisiêu lại tự bẫy và trói chặt mình trong câu hỏi lưỡng nan ấy. Bằng cách từ chối đơn giản hóa vấn đề của đối phương, Chúa Giêsu đặt ra vấn đề căn bản mới và thiết yếu là: ai đứng vào vị trí Thiên Chúa?
Chính vì họ hỏi con đường của Thiên Chúa, “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy … dạy bảo đường lối Thiên Chúa” (Mt 22, 16), nên Người dẫn họ đi theo hướng đó, đây là tất cả giáo lý của Chúa. Thấu hiểu tâm tư của họ, Chúa bảo họ đưa cho xem đồng tiền, xem xong, thấy có khắc hình của một hoàng đế trên đồng tiền, họ khẳng định đó là hình của Cêsarê, Chúa nói: “Cái gì của Cêsarê thì hãy trả cho Cêsarê” (Mt 22, 21). Thực tế, người Do thái không nhận biểu tượng hình ảnh này, dù Cêsarê được biết đến là một hoàng đế tự cọi mình là thần đi chăng nữa, ông cũng chỉ là một con người. Theo Lời Chúa trong sách Sáng Thế, chỉ có Thiên Chúa làm ra con người giống hình ảnh Chúa cách sống động: “Chúng ta làm ra con người giống hình ảnh chúng ta và giống chúng ta” (St 1, 26). Hãy trả đồng tiền này cho chủ nhân của nó và hãy trả cho Thiên Chúa linh hồn chúng ta.
Linh hồn chúng ta thuộc về Chúa
Đồng tiền mang hình ảnh của Cêsarê, nhưng linh hồn chúng ta là chính hình ảnh của Thiên Chúa Ba Ngôi, thể theo thánh vịnh: “Lạy Chúa, xin tỏa ánh tôn nhan Người trên chúng tôi”. (Tv 4, 7)… Ánh tôn nhan Thiên Chúa là ánh của ân sủng ghi dấu trên chúng ta hình ảnh Ngài, làm cho chúng ta giống Ngài, ánh tôn nhan Chúa còn là ấn tích được ghi trong trí chúng ta, chúng ta nhận biết ai đó nhờ khuôn mặt của người ấy, thì Thiên Chúa cũng nhận biết chúng ta nhờ tấm gương của lý trí. Nhưng lý trí này đã bị biến dạng do tội lỗi con người, vì tội lỗi khiến con người chống lại Thiên Chúa. Ân sủng Đức Kitô sửa chữa lại lý trí chúng ta. Đó là lý do tại sao thánh Tông đồ Phaolô nói trong thư gửi tín hữu Êphêsô rằng: “Hãy đổi mới tình thần” (Ep 4, 23). Ánh sáng ở đây còn là ân sủng, nhằm phục hồi hình ảnh Thiên Chúa ghi khắc trong chúng ta.
Thiên Chúa Ba Ngôi đã khắc ghi vào con người hình ảnh giống Ngài. Con người giống Chúa Cha ở điểm trí nhớ, giống Chúa con ở trí hiểu, giống Chúa Thánh Thần ở chỗ biết yêu mến… khi tạo dựng, con người được dựng lên” giống hình ảnh Chúa” (St 1,26). Hình ảnh trong sự nhận biết chân lý, tương tự trong nhân đức yêu thương. Ánh tôn nhan Thiên Chúa chính là ân sủng công chính hóa chúng ta và một lần nữa cho thấy hình ảnh được tạo ra. Ánh sáng này là tất cả những điều tốt đẹp nơi con người, được ghi dấu, như hình ảnh của nhà vua trên đồng tiền. Đó là lý do tại sao Chúa nói: “Cái gì của Cêsarê thì hãy trả cho Cêsarê” (Mt 22, 21). Điều này ý nói: phải trả cho Cêsarê hình ảnh của Caesar, trả cho Thiên Chúa linh hồn anh em, đã được điểm tô và ghi dấu ánh sáng tôn nhan Thiên Chúa. Chúng ta không thể trao cho Cêsarê linh hồn của chúng ta, nó luôn thuộc về Chúa.
Mọi sự là của Chúa
Lời Chúa Giêsu nói: “Cái gì của Cêsarê thì hãy trả cho Cêsarê, và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa” (Mt 22, 21) xác lập một sự khác biệt sâu xa giữa thiêng liêng với thế trần, làm nền tảng cho sự tìm kiếm của người kitô hữu trên mặt đất này. Con người là trung tâm và tột đỉnh của sự sáng tạo, phẩm giá con người hiện nay được thừa nhận rộng rãi, tuy nhiên, khó khăn vẫn còn đó, chúng ta phải phân biệt hai chủ quyền khác nhau của Thiên Chúa trên thế giới. Cêsarê và Chúa không ở cùng một cấp độ, Chúa là Đấng Sáng Tạo, Chúa tể trời đất, Cêsarê là hoàng đế, những ông cũng chỉ là một thụ tạo, một con người, ông phải phụ thuộc vào Chúa và cũng phải trả lẽ trước mặt Chúa, đây không phải là Thiên Chúa hoặc Cêsarê mà là Thiên Chúa và Cêsarê, mỗi vị trong cấp độ xứng hợp riêng của mình.
Vậy “Trả cho Cêsarê những gì thuộc về Cêsarê” nghĩa là trả cho Cêsarê những gì chính Chúa muốn trao cho Cêsarê. Chúa thống trị trên tất cả kể cả Cêsarê, nên Thiên Chúa làm chủ quyền thiêng liêng Nước Chúa được thực thi trong Chúa Kitô qua Giáo hội của Người. Đương nhiên, Ngài làm chủ cả thế tục và thể chế chính trị mà Chúa thực hiện gián tiếp qua các quyền bính thế gian. Về vấn đề này, Chúa Giêsu đã từng nói rõ với Philatô khi ông nói với Chúa: “Ông không biết rằng ta có quyền tha ông, mà cũng có quyền đóng đinh ông hay sao?” (Ga 19, 10) Chúa Giêsu đáp: “Quan chẳng có quyền gì trên tôi, nếu từ trên không ban xuống cho” (Ga 19,11). Thánh Phaolô là người đầu tiên nhìn thấy hiệu quả của giáo huấn này nên viết: “Mọi người hãy phục tùng chính quyền bởi vì không có quyền bính nào mà không đến từ Chúa. Ai chống lại quyền bính thì chống lại trật tự Thiên Chúa đã đặt ra… đó là lý do tại sao anh em phải nộp thuế bởi vì chính quyền chịu trách nhiệm như những người phục vụ Chúa” (Rm 13,1).
Trước khi vâng lời con người, chúng ta phải vâng lời Thiên Chúa và lương tâm chúng ta. Đó cũng là nghĩa vụ của chúng ta phải nói với Cêsarê, cụ thể với quyền bính thế gian rằng, hãy trả lại cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa.
Lạy Chúa là Đấng tạo thành trời đất và là chủ muôn loài, tất cả thuộc về Chúa, xin cho chúng con biết luôn hướng lòng về Chúa và tôn thờ Chúa là Chúa chúng con. Amen.
31. Độc lập tinh thần và phục vụ chính trị.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)
Xứ Pa-lét-tin vào thời Chúa Giêsu là một tỉnh của đế quốc La mã. Như mọi tỉnh khác, ngoài đủ thứ thuế còn nộp thêm một sắc thuế đặc biệt để tỏ dấu phục tùng Hoàng đế. Giữa những người Do thái có kẻ chủ trương nộp thuế; kẻ khác, những người phái Nhiệt thành –những người kháng chiến đương thời, coi như bổn phận tôn giáo phải từ chối không nộp thuế. Những người phái Nhiệt thành rất được lòng dân. Các kẻ đối nghịch với Chúa Giêsu đặt cho Ngài câu hỏi sau: Có nên nộp thuế cho vua Cê-sa không? Câu hỏi ấy là một cái bẫy. Họ đã tính toán nếu Chúa Giêsu trả lời không, Ngài sẽ gặp khó khăn với chính quyền La mã và sẽ bị bắt giam; nếu Ngài trả lời có, Ngài sẽ làm mất lòng dân, dân sẽ loại bỏ Ngài. Dầu thế nào họ cũng thanh toán được Ngài. Như các trường hợp tương tự, thường Chúa Giêsu đưa ra một câu trả lời vượt quá câu hỏi. Vấn đề thật đối với Ngài là gì? Việc Nước Thiên Chúa đến và lan rộng. Đối với quyền hành trần thế, Ngài trả những gì thuộc phạm vi nó trên mặt trần thế, đồng thời khẳng định rằng vương quyền Thiên Chúa không liên kết gì với thực tại ở đời mà người ta gọi là Quốc gia. Đối với Thiên Chúa, Ngài trao trả những gì thuộc về Thiên Chúa, phẩm giá và định mệnh con người: Người ta đã bình luận nhiều về lời Chúa Giêsu “Trả cho Cê-sa những gì thuộc về Cê-sa và trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa”. Để hiểu rõ cần đi vào cách nhìn của chính Chúa Giêsu và nhớ lại các hoàn cảnh thực thụ khi Ngài giảng dạy.
1) Xã hội chung quanh lôi kéo muốn tôn vinh Ngài làm vua trần thế.
Sau việc hoá bánh ra nhiều, đám đông muốn phong vương cho Ngài. Chính các môn đệ lâu ngày tin tưởng vào một vương quyền trần thế. Chúa Giêsu đã phải không ngừng chống lại quan niệm sai lầm ấy của những người đi theo. Nhiều lần Ngài công bố mà không ai hiểu rằng Ngài là “Người tôi tớ đau khổ” được các tiên tri báo trước và sứ mạng Ngài nhằm khai trương Nước Thiên Chúa. Do đó câu Ngài trả lời cho những người Biệt phái vượt quá bình diện một thái độ kháng cự hay không kháng cự một quyền hành trần thế. Chế độ trần thế của bất kỳ cộng đoàn nhân loại nào, dầu có mang hình thức nào, con người trong đó cần phải có thể dâng cho Chúa những gì thuộc về Chúa và việc phục vụ phải dâng cho Thiên Chúa (thờ phượng, rao giảng, Phúc âm, các phép bí tích..) đi qua trung gian Người Tôi Tớ đau khổ và chiến thắng, không phải tách biệt các quyền hành thế gian này nhưng đứng trên chúng.
2) Nhưng như vậy phải nói Phúc âm muốn bất biến chính trị hay sao
Vấn đề đang bàn luận sôi nổi. Trong căn bản có thể nói công việc chính yếu của Phúc âm là thay đổi tâm hồn, Ở mức độ các cơ cấu xã hội. Dĩ nhiên có một số cơ cấu nâng đỡ hay gây khó khăn cho công việc của Phúc âm. Việc biến cải cá nhân và việc thay đổi xã hội ảnh hưởng lẫn nhau. Bổn phận chính trị của Kitô hữu do đó là góp phần xây dựng một trật tự xã hội thuận lợi cho Phúc âm. Phải dành ưu tiên cho việc nào? Biến cải nội tâm hay cải tạo xã hội? Vì tâm hồn là một nguồn mạch và vì Phúc âm đâm rễ trong tâm hồn, ưu tiên được dành cho cố gắng thường trực hoán cải tâm hồn. Khi ấy người Kitô hữu nào dấn thân cải tạo xã hội thoát nguy cơ chọn làm quy luật hành động những nguyên tắc, những mục tiêu và phương tiện thuộc về thế gian chớ không thuộc về Phúc âm. Hơn nữa sẽ giúp ích cho thế gian bằng cách không tự giới hạn vào việc lập lại những gì thế gian nói, nhưng đóng góp được sứ điệp riêng của Phúc âm.
32. Những đòi hỏi của Tin Mừng
(Suy niệm của Lm. Bùi Mạnh Tín)
Vì tin theo Chúa Kitô và sống theo những điều Ngài giảng dạy, chúng ta trở thành môn đệ của Ngài, được mệnh danh là “Kitô hữu”, như sách Tông Đồ Công Vụ ghi: “Chính tại Antiokia, lần đầu tiên các môn đệ được gọi là kitô hữu” (CV 12,27).
Tuy nhiên, dù đã theo Chúa Kitô, được rửa tội, trở nên phần tử cửa Giáo Hội, và là “những công dân Nước Trời”, chúng ta vẫn sống trong xã hội, vẫn là công dân của một quốc gia nào đó, với những bổn phận dân sự phải thi hành, những đóng góp phải chu toàn, và nhất là với những luật lệ đôi khi trái với các nguyên tắc Phúc Âm.
Chính vì thế, với hai tư cách “công dân Nước Trời” và “công dân trần thế”, chúng ta thường có những lẫn lộn phức tạp nhiều khi khó phân biệt, có những dằng co khó giải quyết, được bên này thì mất bên kia: tốt đời mà không đẹp đạo, tốt đạo lại hỏng đời, nhất là khi những đòi hỏi của hai bên trái ngược nhau. Sư lẫn lộn và dằng co này nhiều khi trở thành những thách thức lớn lao hoặc những cạm bẫy khó tránh. Câu truyện trong Phúc Âm hôm nay là một bằng chứng…
Ngày nay trong xã hội chúng ta cũng đầy dẫy thách thức cà cạm bẫy như thế:
- Vấn đề ly dị hôm nay đã trở thành “bình thường và quen thuộc”. Trong những gia đình ly dị, có một số là Công Giáo. Tôi sẽ cố gắng giữ vững lập trường của một kitô hữu, trung thành với luật Chúa, hay tôi nên chạy theo các trào lưu trần tục của xã hội.
- Nếu cần thì cứ phá thai. Hàng ngày có biết bao vụ giết thai nhi trong các nhà thương hay tại những địa điểm có tên là “Kế hoạch hóa gia đình” (Parenthood Plans). Chỉ vì không muốn có thêm một đứa con, chỉ vì danh dự cá nhân hoặc gia đình, tôi nên quyết định thế nào? Phải giữ giới răn “Thứ năm chớ giết người”, hay quyết định phá hủy một thai nhi vô tội do chính huyết nhục của tôi tạo thành?
- Tôi cần tiền mua chiếc xe. Tôi sẽ cống gắng làm lụng và để dành tiền trong thời gian lâu dài, hay sẽ đến một cơ quan chính quyền khai rằng mình bệnh tật, dù tôi rất khỏe mạnh?
Trước những vẫn đề như thế, chúng ta có thể chạy theo các trào lưu xấu của xã hội và những lợi ích bất chính, đánh mất lập trường của một kitô hữu, hay quyết định gắn bó với giáo huấn của Chúa… Đứng bên này hay bên kia là quyền tự do của mỗi người. Nhưng nếu muốn trở thành những môn đệ đích trung thành và những Kitô hữu đích thực của Chúa, chúng ta cần sáng suốt và can đảm, và luôn nhắc nhở cho mình lời Chúa Kitô: “Lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì được ích gì?” Lời này của Đức Kitô phải trở thành châm ngôn cho cuộc sống đức tin của chúng ta, một châm ngôn đã thực sự tạo thành sức mạnh vô cùng lớn lao nơi các thánh Tử Đạo Việt Nam. Đúng vậy, thánh Phạm Khắc Khoan (1771- 1840) khi được hỏi: “Ông có muốn sống không?”, đã trả lời: “Sống thì ai không ham…, nhưng nếu sống mà phải bỏ Chúa tôi, thì tôi không ham”. Thánh Trần Văn Trung, trước giờ chết, đã mạnh dạn nói lên lập trường của mình: “Tôi là người theo đạo Công Giáo, tôi sẵn sàng đi đánh quân địch nước nhà, nhưng bắt tôi bỏ đạo, thì không bao giờ tôi chịu”. Khi bị dụ dỗ, thánh Nguyễn Huy Mỹ cương quyết đáp: “Bẩm quan, tôi biết đạo Công Giáo là đạo thật, nên tôi không thể bỏ được, và không bao giờ dám chà đạp Thánh Giá Chúa tôi”.
Ước gì trong cuộc sống này, khi luôn cố gắng trở thành những công dân yêu nước thực sự, chúng ta luôn sáng suốt và cam đảm tranh đấu cho tư cách “công dân Nước Trời” của mình, dù phải đương đầu với những khó khăn và phải mất đi tư cách công dân trần thế.
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê)
Chủ đề: Mầu nhiệm tuyển chọn.
Được sinh vào đời, mỗi người có ơn gọi đặc thù phù hợp với hoàn cảnh của mình. Cái đó gọi là mầu nhiệm tuyển chọn.
Đường lối của Chúa khác biệt suy nghĩ phàm nhân. Người hành động bởi tình yêu nhân hậu, đòi kẻ được chọn đáp trả cũng bằng tình yêu.
Câu chuyện giữa Chúa Giê-su và Phê-rô trên bờ biển hồ Gililêa minh chứng hồng ân tuyển chọn của Chúa.
Ngược với Chúa, con người hành động dựa trên lợi nhuận, nên khi lựa chọn, cắt đặt ai cho một vị trí chức quyền, luôn đòi điều kiện. Lối tuyển chọn nhân sự của con người gây nên bất ổn, tiêu cực, kéo lùi sự thăng tiến đời sống cộng đồng.
Những nhận định trên được xem như sự dọn đường, mở lối vào phụng vụ Lời Chúa hôm nay. Chúng ta được mời gọi chiêm ngắm mầu nhiệm tuyển chọn thần linh qua những cách thức rất đa dạng không giống những tiêu chuẩn loài người.
Bài đọc I, trích sách ngôn sứ Isaia, tường thuật việc Chúa chọn Kyrô, vị vua thuộc hàng dân ngoại, làm người giải phóng Israel khỏi kiếp nô lệ, lưu đày bên Babylon.
Chúa tỏ ra thân tình, quan phòng, săn sóc đặc biệt: cầm tay dẫn đi, xức dầu, ban vinh quang danh dự, giầu sang phú quý, mặc dầu ông không biết Người.
Việc tuyển chọn Kyrô nhằm trao cho ông sứ vụ phục vụ lợi ích của dân Chúa.
Công việc ông làm thật đáng khen trước mặt Chúa và người đời: ra chiếu chỉ cho phép người Do Thái hồi hương, cung cấp lương thực, tài chánh cho dân trở về tái thiết đền thờ Jerusalem, đốc thúc thực hiện công trình tái thiết thành và đền thờ trong thời gian sớm nhất.
Chúa gọi Kyrô là “bầy tôi của Chúa”, một tước hiệu danh dự cao quý, vì lẽ, được phục vụ Chúa là một hồng ân Chúa ban.
Là dân ngoại, nhưng ông đã vâng lời thực thi ý muốn của Chúa, mặc nhiên trở nên “con yêu quý của Chúa”, đã góp phần làm cho Danh Cha vinh hiển, cho Nước Cha trị đến.
Qua việc tuyển chọn Kyrô, mạc khải cho biết: “Thiên Chúa không thiên tư, tây vị, bất cứ ở đâu, ai kính sợ Người và thực hành đức công chính, đều được Người vui lòng đón nhận” (Cv 10, 34).
Mầu nhiệm tuyển chọn của Chúa làm chứng hai điều:
Thứ nhất: Thiên Chúa là Cha hết thảy mọi người. Ngài điều khiển, cắt đặt mỗi người vào vị trí riêng, để họ phát huy tốt, hoàn thành ý muốn của Chúa, nhằm đem lại lợi ích cho chính đương sự và mưu cầu hạnh phúc cho cộng đoàn.
Thứ hai: Chọn và được sai đi là huyền nhiệm, là hồng ân, để không ai tự phụ cho rằng mình xứng đáng với ân huệ Chúa ban. Người đời có thể đánh giá người này, người kia không xứng đáng, nhưng Chúa lại tín nhiệm, chỉ đòi nơi họ sự khiêm tốn và tình yêu thương.
Bài Tin Mừng vừa tuyên đọc phác họa chân dung Chúa Giê-su, Đấng được Cha tuyển chọn và sai đến, làm Đấng cứu chuộc thế gian. Người đã sống trọn thân phận con người như chúng con, ngoại trừ tội lỗi, đã loan Tin Mừng cho người nghèo khó, sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, niềm hân hoan cho người sầu khổ trong tâm hồn.
Giê-su đã thực hiện ý muốn của Cha bằng con đường thập giá: dang tay chịu chết, hầu phá hủy sự chết, và khơi nguồn sự sống.
Cuộc đời và hoạt động của Người nơi trần gian chỉ vì một mục đích: loan báo Tin Mừng Chúa Cha. Và vì vâng lời, Giê-su cứ đường lối Chúa mà đi, không lả lướt theo quan điểm phe nhóm, ngay cả những thù địch của Ngài cũng phải nhìn nhận: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật và cứ sự thật mà dạy đường lối Thiên Chúa. Thầy cũng chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta” (Mt 22, 16).
Là Thầy dạy chân lý, Giê-su dạy chúng ta phải phân biệt rõ ràng, minh bạch: cái gì của Thiên Chúa và thứ nào là của thế gian: “Của Xê-da, trả về cho Xê-da, của Thiên Chúa, trả về cho Thiên Chúa” (Mt 22, 21).
Đối chiếu cuộc đời với lệnh truyền của Chúa, chúng ta thấy mình không minh bạch: hay lẫn lộn và còn cố ý lẫn lộn.
Thái độ ngạo mạn, khinh thường anh em, gian dối bất công khi thi hành nhiệm vụ Chúa trao là lẫn lộn trầm trọng giữa của Chúa và của cải trần gian.
Sự lẫn lộn biến chúng ta thành kẻ gian phi, trở nên đồ rác rưởi trong mắt người khác. Hậu quả bi thảm là cản ngăn tha nhân vào Nước Trời và gây ác cảm với người chưa tin.
Vậy phải tính sao đây?
Thánh Phao-lô, trong bài đọc II, khuyến khích chúng ta sống công chính theo đấng bậc và ơn Chúa ban.
Trước hết là tình liên đới hiệp thông trong cộng đoàn dân thánh. Hiệp thông trong lời cầu nguyện và trong hy tế tạ ơn.
Kế đến, quan tâm đến nhau, đến nhu cầu khẩn thiết của anh chị em mình. Cảm thông được sự vất vả, thiếu thốn của anh chị em, nhất là những người hiến mình phục vụ Tin Mừng.
Cuối cùng, khuyến khích nhau sống niềm hy vọng, kiên trì trong đức tin, mạnh mẽ trong đức cậy, nhiệt thành trong đức mến, bởi biết rằng, ngày Đức Kitô ngự đến sẽ ban thưởng hạnh phúc Nước Trời cho tất cả những ai sống và phục vụ trong yêu thương, trong quyền năng của Chúa Thánh Thần.
Thật tốt đẹp và hạnh phúc biết bao! Xin Chúa chúc lành cho mỗi người chúng ta. Amen.
(Suy niệm của John W. Martens – Văn Hào, SDB chuyển ngữ)
“Thưa Thầy, có được phép nộp thuế cho Hoàng đế không?” (Mt 22,17)
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Thánh sử Matthêu đã ghi lại một trong những câu nói của Chúa Giêsu mang tính thách đố lớn nhất, khiến chúng ta tự hỏi “Thế thì chúng ta mắc nợ ai, và mắc nợ cái gì để phải trả cách sòng phẳng?” Câu trả lời của Chúa Giêsu, được dịch giả King James chuyển dịch rất nhẹ nhàng “Hãy trả cho Xêda những gì thuộc về Xêda, và trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa”. Câu trả lời xem ra có vẻ giản đơn và đương nhiên phải làm như vậy. Tuy nhiên ẩn ý sâu xa thì không đơn giản chút nào. Thế những gì được cho là thuộc về Xêda, và không thuộc về Thiên Chúa?
Trong một đoạn văn khá hay nơi trình thuật của Isaia chương 45 (bài đọc thứ nhất), ngôn sứ cho thấy Thiên Chúa đã cắt đặt Ky-rô một người ngoại đạo thuộc xứ Ba Tư làm vua, và gọi ông ta là “người được xức dầu” (mashiach). Đó là một người lãnh đạo gốc dân ngoại giống như Xêda, nhân vật được nói tới hôm nay. Trong bản văn của Isaia, Thiên Chúa dùng Ky-rô như khí cụ của Ngài. Ngài nói về ông ta: “Ta đã cầm lấy tay phải nó, để bắt các dân suy phục nó. Ta tước khí giới của các vua”. Thiên Chúa còn nhấn mạnh thêm “Dù ngươi không biết Ta, Ta đã gọi ngươi đích danh, đã ban cho ngươi một tước hiệu, đã trang bị cho ngươi đầy đủ, để từ đông sang tây, thiên hạ biết rằng chẳng có thần nào khác ngoại trừ Ta. Ta là Đức Chúa, chẳng còn Chúa nào khác”. Ky-rô là công cụ mà Thiên Chúa sử dụng để biểu thị quyền năng thần thiêng nơi Ngài. Quyền lực mà Ky-rô có trong tay, không phải do tài cán hay sức lực nơi cá nhân ông, nhưng được vay mượn từ nơi Thiên Chúa. Đối với ngời Do Thái, họ vẫn xác tín rằng chỉ một mình Thiên Chúa có quyền năng tối thượng trên mọi loài.
Vì vậy, một số người Pharisiêu và phái Hêrôđê hỏi Chúa Giêsu “Có phải nộp thuế cho Hoàng đế hay không?” Câu hỏi này là một cú đòn nham hiểm được tung ra để tấn công Ngài. Họ giả vờ nịnh hót, tâng bốc nhằm gài bẫy Ngài “ Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người ngay thật, và cứ sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa. Thầy cũng chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta”. Câu hỏi tung ra một chiêu rất độc, như một cái bẫy để hạ giá Đức Giêsu. Cái bẫy đó là gì? Hoặc là Đức Giêsu đồng thuận và cổ xúy việc nộp thuế cho đế quốc. Điều này sẽ gây bất bình trước cảm thức chung của người Do Thái. Hoặc Đức Giêsu chống lại việc nộp thuế, như phần đông người Do Thái vẫn có xu hướng như vậy, thì đó lại là một hành động tiềm ẩn nguy hiểm rất lớn trước sự cai trị khắc nghiệt của những người cầm quyền Rôma.
Đức Giêsu đã từng bị gài bẫy trước những câu hỏi được đưa ra, nhưng Ngài đã khôn khéo và dễ dàng đáp trả, ví dụ như khi các thượng tế và kỳ mục hỏi Ngài “Ông lấy quyền gì mà hành xử như thế (Mt 21, 23-27). Tuy nhiên, trước câu hỏi nêu ra trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu tỏ vẻ khó chịu khi phải trả lời. Có thể vì những người đặt câu hỏi có một dụng ý quá nham hiểm, cung điệu có vẻ tâng bốc và giả dối. Vì thế, trong câu trả lời, Đức Giêsu lại đặt một câu hỏi ngược lại để đánh đố họ. Việc Đức Giêsu nhắm đến, là họ phải trả lời, xem họ nghĩ gì về sự tương quan giữa Thiên Chúa và nhà cầm quyền, hay giữa Giáo hội và quyền bính trần thế.
Đức Giêsu nói với họ, những người giả vờ thắc mắc để gài bẫy Ngài, là “hãy đưa Ngài xem đồng tiền để nộp thuế. Họ trưng ra một đồng tiền đúc Denarius. Hình ảnh in trên đồng tiền là chân dung hoàng đế Tiberiô, kèm theo câu viết “Tiberiô Xê-da, con của Augustô, đấng thần linh”. Đồng tiền biểu thị phong thái rất cao ngạo, vì sự thần thánh được gắn cho Augustô và Tiberiô. Khi những người Pharisiêu và phái Hêrôđê xác nhận đồng tiền thuộc về Xê-da, Đức Giêsu trả lời họ: Hãy trả cho Xê-da những gì thuộc về Xê-da, và trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa”.
Vậy thì ai là chủ và là người có quyền, và có quyền trên cái gì? Vài học giả nghĩ rằng có một cách cắt nghĩa rất giản đơn. Đồng tiền in hình Hoàng đế, thì ông ta là chủ và có quyền trên đồng tiền đó. Đồng tiền thuôc về ông ta. Lý luận đơn giản là như thế. Nhưng chúng ta phải biết rằng, quyền lực của chính phủ, ngay cả một chính phủ ngoại bang như đế quốc Rôma, chỉ có thể tồn tại nhờ vào quyền lực tối cao phát nguyên từ chính Thiên Chúa. Nộp thuế là một phần nói lên sự tuân phục quyền bính trần thế. Một số học gỉa khác lại đưa ra tính cách thâm sâu và bí nhiệm nơi câu nói của Đức Giêsu. Ý nghĩa sẽ tùy thuộc vào thái độ chúng ta, khi chúng ta tin rằng mọi sự đều thuộc về Thiên Chúa và phải quy hướng trọn vẹn về Ngài. Như vậy, Xê-da không sở đắc bất cứ một thứ quyền bính nào, cho dù đồng tiền có in hình ông, và người ta phải nộp thuế cho chính quyền Rôma, do ông cai trị. Dầu sao, trong cả hai tình huống, Đức Giêsu gắn trách nhiệm cho những kẻ chất vấn để gài bẫy Ngài, và tránh được cái bẫy được giăng ra. Không phải Ngài trực tiếp cổ xúy cho những đầu mục Do Thái giáo thuộc phái nhiệt thành, hay rơi vào cái bẫy để những người Rôma có thể đến bắt Ngài. Tuy nhiên, chúng ta phải động não về câu hỏi được Đức Giêsu đưa ra cho chúng ta hôm nay, cũng như ngày xưa Ngài đã hỏi ngược lại “Ai là người chủ của đồng tiền Denarius?”. Thực tế, nếu chúng ta suy xét thấu đáo và biết phân định một cách sâu xa, câu hỏi mang chở lời chất vấn “Chúng ta mắc nợ Thiên Chúa cái gì? Thiên Chúa có thật sự là ông chủ, và có phải tất cả những gì chúng ta có đều thuộc về Ngài hay không?
Đồng tiền Denarius được Rôma sản xuất, thuộc về Rôma. Nhưng Rôma đã trịch thượng gắn mác Tiberius lên đó như một vị thần linh. Tính thần linh này chỉ dành riêng cho một mình Thiên Chúa mà thôi. Có lẽ trong câu trả lời của Đức Giêsu, Ngài muốn nói cho chúng ta biết rằng, trong thế giới linh thánh, tiền bạc không phải là đơn vị để chúng ta giao dịch hay trao đổi. Vậy thì tiền bạc trần gian, chúng ta cứ trả lại cho trần gian, trong đó có những nhà cầm quyền ở trần gian này. Còn điều mà chúng ta phải trả cho Thiên Chúa, cho một mình Thiên Chúa là Đấng tối thượng, chính là sự tôn thờ và suy phục Ngài. Chúng ta suy phục và tôn thờ duy nhất một mình Thiên Chúa mà thôi, không mắc nợ ai điều này. Khi những gì thuộc về Xêda, và những gì thuộc về Thiên Chúa đối kháng nhau, chúng ta phải tuyệt đối quy thuận Thiên Chúa. Ngài là chủ nhân của tất cả. Ngài là Đấng duy nhất mà chúng ta phải luôn quy hướng về.
(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’ – R. Veritas)
Đi hỏi xem Đức Giáo Hoàng có bao nhiêu sư đoàn? Stalin đã có lần thốt lên như thế khi nhắc đến người có vai trò trung gian của Tòa thánh trong chiến trường quốc tế. Không đầy một thế kỷ sau, một vị Giáo hoàng đến từ Đông Au đã làm lung lay tận gốc rễ chế độ của Liên xô. Quả thật, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II tỏ ra là một con người đáng sợ đối với rất nhiều nhà lãnh đạo chính trị và người cuối cùng hẳn phải là chủ tịch Phidel Castro, người đã đặt tất cả nhân loại dưới bờ vực của chiến tranh nguyên tử từ đầu thập niên 60. Dưới mắt giới truyền thông, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II chỉ là một con người bảo thủ, bênh vực giá trị truyền thống. Thế nhưng, nếu ta cần chứng kiến khi những giá trị truyền thống ấy bảo đảm cho phẩm giá con người thì không ai tỏ ra thẳng thắn, can đảm cho bằng ngài.
Người ta vẫn còn nhớ khi đến Pháp lần đầu tiên từ năm 1981, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã không ngần ngại hỏi từng người dân Pháp, kể cả vị nguyên thủ quốc gia của nước này như sau: “Hỡi nước Pháp, tôi đã làm gì với phép rửa của ngươi?”. Câu hỏi ấy ngài đi thẳng vào lương tâm mỗi người dân Pháp: “Đâu là chỗ đứng của niềm tin tôn giáo trong cuộc sống của mỗi người?”.
Một câu hỏi như thế cũng có thể được nêu lên cho mỗi một người Kitô hữu chúng ta. Người có tôn giáo dễ có khuynh hướng phân chia cuộc sống thành nhiều ô độc lập với nhau, ô ở Công giáo, ô ở phố chợ với nhau, ô ở nhà thờ v.v. Sự phân chia ấy dễ tạo nên hai bộ mặt tương phản nơi người tín hữu. Một bộ mặt rất đạo đức ở nhà thờ hay khi cầu kinh và một bộ mặt phi đạo đức bên ngoài nhà thờ.
Khi tuyên bố: “Của Xêda hãy trả lại cho Xêda, của Thiên Chúa hãy trả lại cho Thiên Chúa”, Chúa Giêsu không những đã thoát được cái bẫy thâm độc của những người Biệt phái và phe Hêrôđê. Ngài còn khẳng định về chỗ đứng trong cuộc sống con người: “Của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa”.
Thiên Chúa không phải là một vị thần, hay vị thần của thế giới thần linh. Thiên Chúa không phải là món đồ trang sức cho con người, nhưng Thiên Chúa là Chủ tể, là gia nghiệp, là tất cả của con người. Ngài không chiếm chỗ nhất trong cuộc sống con người, mà con người phải tìm kiếm Ngài trong tất cả mọi sự. Ngài không chỉ ngự một góc nào đó trong nhà thờ, Ngài không chỉ hiện diện trong một buổi cầu kinh nào đó. Ngài gặp gỡ con người ở khắp mọi nơi, trong mọi sinh hoạt của cuộc sống con người. “Của Thiên Chúa hãy trả lại cho Thiên Chúa”, có nghĩa là hãy dành chỗ nhất cho Ngài trong cuộc sống, tìm kiếm Ngài, gặp gỡ Ngài, yêu mến Ngài trong tất cả mọi sự.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta tự vấn lương tâm và xác định lại sự chọn lựa căn bản của chúng ta. Niềm tin tôn giáo không phải là một sinh hoạt xa xỉ tùy tiện, được giản lược trong bốn bức tường của nhà thờ, hay chỉ trong bài diễn văn đặc biệt trong năm hay trong suốt một đời người. Niềm tin ấy phải thấm nhập vào toàn bộ cuộc sống và hướng dẫn mọi chọn lựa, suy nghĩ và hành động của người Kitô hữu.
Khi niềm tin được sống một cách triệt để như thế, thì Giáo Hội không chỉ có một vài sư đoàn, mà sẽ là một đạo binh có sức cải tạo và thay đổi bộ mặt của xã hội. Khi người tín hữu Kitô sống cho đến cùng những đòi hỏi của niềm tin, họ sẽ tìm được bình an và hạnh phúc đích thực cho cuộc sống, bởi vì họ có Chúa làm gia nghiệp cho cuộc đời.
“Của Xeda trả cho Xeda
của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa”
Khi phân tích ngữ nghĩa của câu trong ngôn ngữ, người ta nhận thấy có nhiều câu đúng ngữ pháp nhưng ngữ nghĩa lại không rõ ràng. Nhà ngôn ngữ gọi chúng là câu mơ hồ nghĩa (arbitrary). Thí dụ câu “Ông lão nhìn đứa trẻ với cái kính hiển vi”. Câu này có hai nghĩa. 1. Ông lão với cái kính hiển vi nhìn đức trẻ (cái kính của ông lão). 2. Ông lão nhìn đức trẻ mà nó đang có cái kính (cái kính của đứa trẻ).
Trong các phiên toà xét xử, thẩm phán hay luật sư bào chữa không được hỏi những câu mơ hồ như thế. Đai loại như “Anh không còn đánh vợ nữa phải không?”. Trả lời còn thì rõ tội rồi. Còn trả lời không, nghĩa là trước đây có. Như vậy cũng không thoát tội.
Hôm nay, bọn Pharisêu đưa Đức Giêsu vào một tình cảnh nữa sống nữa chết như vậy. “Có được phép trả thuế cho Xeda không?”. Trả lời không là chống đế quốc Lamã. Còn nói có thì ủng hộ ngoại bang, là đồ phản quốc. Thế nhưng, đâu đơn giản mà Đức Giêsu mắc lừa họ. Ngài đã trả lời họ bằng một câu không còn có thể bắt bẻ vào đâu được. Cái gì cũa Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa, của Xeda trả cho Xeda. Và qua cơ hội này, Ngài lưu ý cho mọi người một bài học. Mọi người đều phải có trách nhiệm với Thiên Chúa và với xã hội mà mình sinh sống.
Là một Kitô hữu, chúng ta có bổn phận với Thiên Chúa, với Giáo Hội là lẽ đương nhiên. Vì ngang qua Giáo hội ta hưởng ân huệ của Thiên Chúa. Chúng ta phục vụ cho Giáo Hội vì chúng ta thừa biết điều đó có lợi cho chúng ta. Đó không chỉ là một bổn phận mà còn là một quyền lợi. Quyền cai quản của chức tư tế cộng đồng mà ta nhận lãnh khi chịu phép Rửa Tội. Đây là một suy nghĩ trưởng thành của một người có trình độ.
Tuy vậy, số những người am tường đạo lý ấy vần còn quá ít trong Giáo hội. Tình trạng cha chung không ai khóc vẫn nhan nhãn mỗi ngày. Việc của Giáo Hội ư? Đã có hàng Giáo sĩ lo. Đâu phải trách nhiệm của tôi? Nếu có đóng góp thì kêu ca phàn nàn, tìm cách thoái thác. Không tránh được thì xem như việc đại từ thiện, rộng rãi, hy sinh vô bờ bến. Để rồi bắt người khác phải nhớ ơn, lưu dấu, phục vụ, trả lễ theo điều kiện này kia của mình. Hành động như thế quả thật không sinh ít lợi mà còn mắc thêm tội kêu ngạo. Bạn thật không hiểu rằng: Giáo Hội là Mẹ. Chúng ta múc lấy sinh lực từ Mẹ để lớn lên. Vậy thì hỗ trợ xây dựng Giáo hội là lẽ công bằng trước khi đó là hành vi bác ái.
Điểm thứ hai mà chúng ta cần phải quan tâm cho thấu đáo là trách nhiệm của một người công dân đối với đất nước, dân tộc mình. Từ “thuế” ở câu nói của người Pharisêu không đơn thuần là nộp thuế mà còn là bổn phận xây dựng xã hội, bảo vệ hoà bình, tuân thủ luật pháp. Ngoài những vị trí và những vai trò khác nhau của một cá nhân chúng ta không loại bỏ bổn phận là công dân của một đất nước, là thành viên của một cộng đồng dân tộc. Nếu loại bỏ hai yếu tố ấy ra khỏi một con người thì chúng ta tự tách mình ra khỏi cộng đồng con người. Do vậy, bản thân ta luôn gắn liền với sự thịnh, suy của dân tộc mình. Theo đó Giáo hội không cấm đóan con cái mình tham gia vào các hoạt động chính trị, xã hội. Nếu không nói là ủng hộ con cái mình trong tinh thần chân lý và sự thật tích cực dấn thân đề nhờ đời sống tốt đạo của mình mà góp phần cải biến xã hội, thánh hoá thế trần, đưa mọi người trở về Ánh Sáng chân thật. Chẳng phải đường hướng của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam là “Sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc” đó sao? Chính Đức Giêsu đã làm gương mẫu cho chúng ta về vấn đề này. Cha mẹ Ngài theo lệnh vua mà trở về quê khai nhân khẩu (Lc 2,3-5). Ngài đã bảo Phêrô đi đóng thuế cho hai người (Mt 17,24-27). Theo gương Đức Giesu Giáo hội đã làm biết bao những việc để phát trển nhân sinh và con người.
Nói khác hơn, cả hai trách nhiệm trên đều đáng trân trọng và cần được duy trì. Hơn ai hết, Kitô hữu phải ý thức vấn đề này một cách sâu sắc hơn. Tuy nhiên để dung hoà được cả hai đòi hỏi chúng ta cần có sự khôn ngoan của Thánh Thần để trong hoạt động ta có được nhũng kết quả khả quan nhất.
37. Cái gì của Cêsar hãy trả cho….
Anh chị em thân mến,
Đức TGM Ngô Quang Kiệt, ngày 20. 09. 2008, trong bài phát biểu tại UBND TP. Hà nội, trước một cử tọa khá đông người, Ngài đã nói: ” Chúng tôi đi ra nước ngoài rất nhiều. Chúng tôi rất là nhục nhã khi cầm cái hộ chiếu Việt Nam đi đâu cũng bị soi xét. Chúng tôi buồn lắm chứ. Chúng tôi mong muốn đất nước mình mạnh lên. Làm sao như một anh Nhật nó cầm cái hộ chiếu là đi qua tất cả mọi nơi, không ai xem xét gì cả. Anh Hàn Quốc bây giờ cũng thế. Còn người Việt Nam chúng ta thì tôi cũng mong đất nước lớn mạnh lắm và làm sao thật sự đoàn kết, thật sự tốt đẹp, để cho đất nước chúng ta mạnh…” Vậy mà hôm sau báo đài Việt Nam đã loan tin ầm lên, trong khi họ chỉ trích có một phần nhỏ câu nói của ngài: “Chúng tôi rất là nhục nhã khi cầm cái hộ chiếu Việt Nam…” Thói đời là thế, khi người ta không ưa ai, muốn hạ bệ ai, nhất là khi người ta chẳng tôn trọng sự thật, chẳng sợ lương tâm gì cả… Câu chuyện hôm nay của Tin mừng cũng tương tợ thế, khi phái Pharisêu muốn gài bẫy để bắt bẽ Chúa Giêsu, cả muốn hạ bệ Người nữa. Kính mời anh chị em cùng suy niệm.
a/. Có hai điểm chúng ta cần lưu ý:
* Câu hỏi của người Do thái: “chúng tôi có được nộp thuế cho người La mã không?” Phái Pharisêu cùng bàn mưu với phái Hêrôđê; họ tìm cách bắt bẽ Chúa Giêsu. Họ hỏi Người: “chúng tôi có phải nộp thuế cho La mã không?” Thực ra, họ ghét cay ghét đắng người Lamã và cả phái Hêrôđê…. Qua câu hỏi này, họ đặt Chúa trong tình thế tiến thoái lưỡng nan. Cái bẫy được gài rất chu đáo: Trả lời có cũng mắc bẫy, vì họ sẽ tố cáo Chúa không trung thành với hoàng đế. Trả lời không cũng dính luôn, vì nhóm pharisêu sẽ tố cáo Chúa không trung thành với dân tộc, muốn bán đứng quê hương mình. Họ nghĩ rằng thế nào Chúa Giêsu cũng không thoát khỏi cái bẫy đã giăng. Nhưng họ không ngờ….!
* Câu trả lời của Chúa Giêsu: “Cái gì của Xêda, hãy trả cho Xêda, cái gì của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa.” Trước cái bẫy đang chờ sẵn, Chúa Giêsu rất bình tĩnh, tự chủ, không khiêu khích, cũng không sợ sệt, Ngài bảo họ đưa đồng tiền cho xem và hỏi: hình và danh hiệu này là của ai? Họ trả lời: của Xêda. Chúa liền nói: “Vậy thì của Xêdahãy trả về cho Xêda, của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa. Câu trả lời làm cho hai phe nhóm phải bĩ mặt, đầy kinh ngạc. Họ không ngờ câu trả lời đầy khôn ngoan và kỳ diệu của Chúa…
b/. Câu trả lời của Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta điều gì?
* Cái gì của Xêda, hãy trả cho Xêda: người Kitô hữu thuộc về Chúa, nhưng không ở ngoài guồng máy xã hội. Chúa xác định rõ rệt và tổng quát về vai trò của nhà nước, của các quyền bính xã hội trần thế. Triều đại Nuớc Thiên Chúa đã khai mở khi Chúa Giêsu ra đi rao giảng công khai, nhưng quyền bính trần thế vẫn còn cần thiết và chính đáng để duy trì và ổn định phát triển xã hội. Thiên Chúa hoàn toàn không lệ thuộc cũng không chống đối xã hội trần thế. Vì thế, CĐ Vatican II xác định: người kitô hữu có nhiệm vụ vừa tìm kiếm Nước Thiên Chúa, vừa có bổn phận xã hội là một công dân góp phần xây dựng xã hội công bằng, thịnh vuợng và đầy tình thương (HC Lumen Gentium).
* Cái gì của Thiên Chúa, hãy trả cho Thiên Chúa: sứ mạng của Chúa đến trần gian là sứ mạng tôn giáo, không phải là chính trị. Với sứ mạng tôn giáo, Chúa nhắc nhở mọi người có nghĩa vụ trở về với Thiên Chúa, trả cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa. Chính Chúa Giêsu đã nói vói Philatô: Nuớc tôi không thuộc về thế gian này; nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thì thuộc hạ của tôi sẽ chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do thái… Những người chất vấn Chúa Giêsu muốn nhìn Chúa dưới góc độ chính trị, nhưng chính Chúa lại muốn họ thấy Chúa là con người của tôn giáo.
Câu chuyện: Vua Henri nước Anh đã có vợ rồi; nhưng vua muốn bỏ vợ mình để cuới bà Anne Boleyne. Vua buộc các quần thần phải ký vào bản tuyên ngôn công nhận việc vua làm là đúng. Sau vua tuyên bố ly khai với Tòa Thánh, và lập Anh giáo. Thomas More (1478-1535) quan chưởng ấn rất mực trung thành của nhà vua, đã không nhận ly khai với Tòa Thánh, để theo Anh giáo. Ông đã bị kết án. Đây chính là tấm gương can đảm, dám nói lên sự thật: cái gì của Xêda, hãy trả cho Xêda, cái gì của Thiên Chúa, hãy trả cho Thiên Chúa. Chính vì thế mà Ông bị hành quyết và đã trở thành một vị thánh.
Thánh Gioan Tẩy giả cũng thế, vì lời nói ngay thật đã phải chết dưới lưỡi đao oan nghiệt của vua Hêrôđê… Tất cả mọi điều này để minh chứng câu nói của Chúa Giêsu: cái gì của Xêda phải trả lại cho Xêda, cái gì của Thiên Chúa phải trả cho Thiên Chúa.
c/. Gợi ý sống và chia sẻ:
Là người công giáo, trong cuộc sống bình thường, chúng ta có can đảm sẵn sàng tuyên xưng Chúa trước mặt mọi người, bằng lối sống ngay thật, không gian dối, không bè phái không? Sống trong xã hội, chúng ta vẫn phải có bổn phận tôn trọng luật pháp phần đời, nhưng vẫn luôn ý thức cuộc sống của ta là của Thiên Chúa, và ngày nào đó, ta phải trở về với Thiên Chúa không?
38. Suy niệm của Lm Nguyễn Hữu An.
CON NGƯỜI – HÌNH ẢNH THIÊN CHÚA
Trong Phật giáo có một câu chuyện nổi tiếng:
Có một người đàn ông cao ngạo chẳng biết sợ ai, luôn coi thường đạo lý. Nghe Đức Phật dạy rằng đừng bao giờ lấy ác báo ác và một ngày kia, hắn đến gặp Đức Phật và dự tính xem Phật có sống được điều Ngài giảng không. Hắn bắt đầu tuôn ra đủ mọi lời thóa mạ Ngài và gọi Ngài là tên đần độn. Trong khi hắn liên tục xổ ra đủ thứ lời lăng mạ thì Đức Phật vẫn kiên nhẫn lắng nghe. Chờ hắn mỏi miệng không nói thêm lời nào nữa, Ngài mới lên tiếng: “Này con, nếu một người không chịu nhận món quà mà kẻ khác biếu cho thì món qùa ấy sẽ đi về đâu”? Gã cay cú đáp: “Thằng điên nào mà chẳng biết, dĩ nhiên là món ấy sẽ trở về lại với người đem cho”. Đức Phật liền nói: “Hỡi con, con vừa tặng ta rất nhiều lời thóa mạ nhưng ta chẳng nhận đâu nhé”. Gã kia câm miệng không thốt ra lời nào nữa. Đoạn Đức Phật nói tiếp: “Kẻ nào lăng mạ một người thánh thiện thì cũng giống như hắn ta khạc nhổ lên trời. Những thứ hắn khạc nhổ ra khôntg làm nhơ bẩn bầu trời, trái lại sẽ rơi xuống làm nhơ bẩn gương mặt của chính hắn. Cũng thế kẻ nào thóa mạ một người nhân đức thì khác nào tung bụi ngược chiều gió, bụi sẽ chỉ bay vào mắt hắn mà thôi.” (Trích tuyển tập chuyện hay, Giấc mộng vàng trang 167)
Câu chuyện trên là một minh họa cho cuộc tranh luận nổi tiếng giữa các Pharisiêu, Luật sĩ và Chúa Giêsu qua bài Tin mừng hôm nay.
Nhóm Biệt phái bàn mưu để làm cho Đức Giêsu lỡ lời mắc bẩy. Họ hợp tác với phe Hêrôđê để chất vấn Người về vấn đề nộp thuế. Nhóm Biệt phái ghét cay ghét đắng người Rôma đang đô hộ Israel, còn phe Herôđê thì lại nịnh bợ các quan bảo hộ để được hưởng nhiều đặc quyền đặc lợi. Dù không ưa nhau nhưng họ lại liên kết với nhau để chống lại Đức Giêsu. Một mình đối nghịch với Đức Giêsu trong lãnh vực tôn giáo, nhóm Biệt phái không làm được gì đến Người, họ muốn nhờ bàn tay chính quyền là phe Hêrôđê để gài bẫy Người trong vấn đề chính trị. “Chúng tôi có được nộp thuế cho Xêda hay không?” Câu hỏi đặt Đức Giêsu trong tình thế tiến thoái lưỡng nan, bẫy gài sắc như con dao hai lưỡi. Trả lời có cũng mắc bẫy, không có cũng mắc bẫy. Nếu Đức Giêsu bảo không thì nhóm Hêrôđê tố cáo là không trung thành với Hoàng đế. Còn nếu Người bảo có thì Người sẽ bị nhóm Pharisiêu tố cáo là không trung thành với dân tộc. Hai đàng, đàng nào cũng trọng tội. Trước gọng kềm đang siết chặt, Đức Giêsu rất bình tĩnh, rất tự chủ, không ngạo mạn khiêu khích nhưng cũng không khúm núm sợ sệt. Người bảo họ đưa cho xem đồng tiền và hỏi: hình va danh hiệu này là của ai?. Khi được trả lời là “của Xêda” Đức Giêsu liền tuyên bố “thế thì của Xêda trả về Xêda; của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa”. Câu trả lời của Người làm cho 2 phe nhóm bẽ bàng hụt hẫng. Đức Giêsu phân biệt đâu ra đó: của Hoàng đế hãy trả cho Hoàng đế, của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa. Đức Giêsu không dùng miệng lưỡi mình để kết án họ, nhưng bắt chính họ phải tự tuyên án cho mình như có lời chép rằng: Vì nhờ lời nói của anh mà anh sẽ được trắng án và cũng tại lời nói của anh mà anh sẽ bị kết án (Mt 12, 37).
Sứ mạng của Đức Giêsu khi đến trần gian là sứ mạng tôn giáo, là đưa nhân loại về với Thiên Chúa chứ không phải là chính trị. Chính Người đã từ chối làm vua, làm Messia đánh đông dẹp bắc theo mong đợi của người Do Thái. Câu trả lời của Đức Giêsu làm nổi bật chân lý ấy. Với sứ mạng tôn giáo, Đức Giêsu nhắc cho họ nghĩa vụ phải trở về với Thiên Chúa, trả cho Thiên Chúa những gì là của Thiên Chúa. Những kẻ chất vấn muốn nhìn Đức Giêsu dưới gốc độ chính trị thì Người làm cho những kẻ có lập trường chính trị phải thấy Người là con người tôn giáo.
Một cuộc đối thoại giữa thần quyền và thế quyền, giữa Thiên Chúa và Xêda. Cũng như sau này trong cuộc đối thoại với Philatô, Đức Giêsu trịnh trọng tuyên bố: Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thì thuộc hạ của tôi sẽ chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do Thái, nhưng nước tôi không thuộc về thế gian này. Qua lời tuyên bố này Đức Giêsu có vẻ như khẳng định vương quyền của mình, một vương quyền mà Philatô chưa có thể hiểu thấu.
Mối tranh chấp giữa thần quyền và thế quyền, giữa đạo và đời đã xảy ra từ thời Chúa Giêsu cũng như từ muôn thưở. Đức Giêsu không muốn được coi như vị cứu tinh chính trị theo ý của người Do thái. Người không đến để nắm lấy chính quyền, thống trị như một vị hoàng đế Xêda hay như vua Hêrôđê. Trong thực tế Người phân biệt rõ thần quyền và thế quyền, tuy công nhận quyền hành chính trị như một điều tất nhiên nhưng Người tự đặt mình vào mức độ khác. Nước Trời mà Người đang rao giảng, đang thể hiện hoàn toàn khác biệt vàkhông cạnh tranh với đế quốc của Xêda, vì Nước Trời là vương quốc trường tồn của Thiên Chúa dành cho tất cả, nơi đó không có áp chế, không có thống trị, chỉ có niềm vui, bình an và hạnh phúc miên trường.
Những gì của Xêda hãy trả cho Xêda. Xêda là hiện thân cho một đế quốc hùng mạnh và giàu có của một thời lịch sử đã qua. Xêda cũng còn là biểu tượng cho thế lực tiền bạc, tham vọng quyền bính và danh lợi dưới mọi hình thức trong xã hội ngày nay đối với mọi người.
Những gì của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa. Đức Giêsu đã khéo léo nhắc đến bổn phận của con người đối với Thiên Chúa. Có cái gì ngoài Thiên Chúa mà lại không phải là thụ tạo của Ngài? Phải trả cho Thiên Chúa những gì mang hình ảnh Ngài, những gì được khắc ghi tên Ngài trên đó. Hình ảnh nổi bật nhất là con người (St 1, 26). Toàn bộ con người mang dấu ấn Thiên Chúa và cả vũ trụ cũng tiềm tàng dấu ấn của Thiên Chúa. Trả con người lại cho Thiên Chúa là dâng nó cho Ngài, là nhìn nhận chủ quyền của Ngài. Trả vũ trụ trong lành cho Thiên Chúa cũng là trả lại cho con người món quà lớn lao mà Ngài đã trao tặng.
Mỗi người Kitô hữu luôn hãnh diện vì mang trong bản thân mình hình ảnh cao quý của Thiên Chúa và luôn sống phong cách của Ngài: quảng đại chia sẻ, yêu thương trao hiến, bao dung tha thứ, khiêm tốn phục vụ. Được như thế, mỗi người chúng ta sẽ luôn làm cho hình ảnh Thiên Chúa ngày càng rõ nét trong cuộc đời mình.
(Suy niệm của Lm. Phaolô Đoàn Thanh Phong)
CỦA CESAR, TRẢ VỀ CESAR
CỦA THIÊN CHÚA, TRẢ VỀ THIÊN CHÚA
Thưa Anh Chị Em,
Nếu có dịp đến viện bảo tàng Manchester bên nước Anh, và khi đến ghé thăm khu trưng bày các loại đồng tiền cổ từ thời đế quốc Rôma, ai cũng có thể nhìn thấy đồng tiền Denarius bằng bạc, trên có đúc niên biểu và hình của hoàng đế Roma. Đây là đồng tiền được lưu hành trong nước Do Thái thời Chúa Giêsu. Trên đồng tiền này, có in hình Ce’sar Tiberius, đầu đội vòng hoa như một vị thần, cùng với dòng chữ: “Ce’sar Tiberio, con của thần Augusto” (cf. Tassin). Cầm đồng tiền ấy trên tay, người ta có thể liên tưởng đến câu chuyện người đàn bà với đồng tiền bị mất; đến dụ ngôn ông chủ vườn nho đã trả lương cho những người thợ làm vườn. Nhất là, người ta có thể liên tưởng đến đồng tiền Chúa Giêsu đã dùng để trả lời cho cả 2 nhóm Pharisêu và Herodes trong Tin Mừng hôm nay.
Thực ra, đây là 2 nhóm người khác nhau về nguyên tắc, về quan điểm sống. Nếu như những người thuộc nhóm Herodes chấp nhận nộp thuế cho hoàng đế, như là phương cách bảo vệ chỗ đứng của mình trong bộ máy cai trị, thì trái lại, nhóm Pharisêu chỉ chấp nhận nộp thuế cách miễn cưỡng. Bởi, họ không đón nhận thái độ của các Ce’sar Rôma luôn tự coi mình là thần minh, cho nên đối với họ, việc nộp thuế cho đế quốc được xem như một sự xúc phạm đến Thiên Chúa. Vì thế, không chỉ phải nộp thuế, mà ngay cả việc mang trong mình đồng tiền của kẻ ngoại bang đã là một hành vi bội giáo. Nhưng vì cùng mâu thuẫn, xung đột tư tưởng với Chúa Giêsu, nên họ sẵn sàng xóa bỏ nguyên tắc, quan điểm riêng, chấp nhận liên minh lại với nhau để gài bẫy Chúa Giêsu bằng câu hỏi: “Có được phép nộp thuế cho hoàng đế Ce’sar không?”. Đây là một vấn đề mới nghe qua thật bình thường, nhưng sự thực lại không hề đơn giản. Thật vậy, nếu Chúa Giêsu trả lời rằng nên nộp thuế, thì chính Ngài đã nhìn nhận Ce’sar là Chúa của mình,Ngài sẽ trở thành một kẻ bội giáo, mất tín nhiệm với số đông quần chúng. Còn nếu Ngài trả lời rằng không nộp thuế, thì Ngài sẽ bị tố cáo là kẻ chống lại hoàng đế, chống lại chính quyền Rôma. Thật “tiến thoái lưỡng nan”, trả lời thế nào cũng khó. Thế nhưng, thật bất ngờ Ngài lại dùng đồng tiền hai mặt của Rôma để trả lời: “Của Ce’sar, trả về Ce’sar; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa” (Mc 12,17). Trả lời như thế, không những Chúa Giêsu thoát được cái bẫy thâm độc của những người đạo đức giả, mà còn khẳng định chỗ đứng của Thiên Chúa trong đời sống, trong vũ trụ: “Phải trả cho Ce’sar đồng tiền mang hình ảnh và tên của Ce’sar thế nào, thì cũng phải trả lại cho Thiên Chúa những gì mang dáng hình của Thiên Chúa”. Trả lời như vậy là Chúa Giêsu muốn dạy họ rằng mỗi người luôn có hai bổn phận phải thực hiện giữa đời và trong đạo. Vì có đạo nào lại không ở trong đời và có đời nào lại không là của đạo. Một người Kitô hữu trong đạo cũng là công dân của một đất nước, cho nên cần phải chu toàn cả hai bổn phận thì mới đúng là người Kitô hữu đích thực, là công dân trong đất nước và cũng là công dân trong Nước Trời mai sau.
- Sống giữa đời phải hiểu rằng: Quốc gia thì có luật pháp; Gia đình thì có gia pháp; Cộng đoàn thì có luật riêng của cộng đoàn. Vì thế, ai ai cũng phải có trách nhiệm chu toàn bổn phận với đời, với xã hội. Cụ thể, gia đình Nagiarét, dù Mẹ Maria sắp đến ngày sinh con, nhưng họ vẫn tùng phục luật xã hội, phải rời miền Bắc trở về miền Nam. khi được lệnh trở về quê để khai báo hộ khẩu.
- Sống trong đạo thì phải chu toàn bổn phận đối với Thiên Chúa. Chính Chúa Giêsu luôn ưu tiên cho công việc của Chúa Cha. Nên khi hành hương ở hội đường, Ngài đã ở lại để giảng dạy giáo lý, qua đó, Ngài muốn khẳng định rằng: lo việc của Thiên Chúa thì hơn lo việc trần thế (x.Lc 2,46). Không chỉ Ngài đề cao việc của Cha Ngài, mà những người theo Ngài, Ngài cũng đòi hỏi rất gắt gao: “Kẻ nào đến với Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ, con cái, anh chị em mình và cả mạng sống mình nữa, ắt không thể làm môn đệ của Ta” (Lc 14,26-27). Và cũng vì thế, mà Thánh Phaolô xác định: “Nếu tôi luôn luôn làm hài lòng mọi người, thì tôi không còn là môn đệ của Chúa Giêsu” (Gl 1,10). Nghĩa là, Ngài phải làm hài lòng Thiên Chúa trước, thì Ngài mới có khả năng làm hài lòng mọi người. Rõ ràng, với câu trả lời của Chúa Giêsu “Của Xêda, trả về Xêda; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa” (Mc 12,17), thì hai bổn phận đối với đời và đối với đạo, với Thiên Chúa, luôn cần phải đi song hành với nhau, không có sự loại trừ. Bởi vì, Đạo Công Giáo không phải là Đạo Duy Tâm mà là Đạo có: Có Chúa Kitô, có linh hồn và thể xác, có nhân tính và thần tính, có đời này và có đời sau.
Thưa Anh Chị Em,
Một trong những khuynh hướng tiêu cực nơi những người có tôn giáo đó là khuynh hướng phân chia đời sống thành nhiều phạm vi tách rời nhau: phạm vi ở phố chợ khác với ở gia đình, và lại càng khác với phạm vi trong khuôn viên nhà thờ, giáo xứ. Sự tách biệt ấy dễ làm nên những bộ mặt tương phản nơi người tín hữu: Ở nhà thờ là dung mạo rất đạo đức hiền lành và đơn sơ, nhưng bên ngoài pham vi nhà thờ, thì lại là một bộ mặt khác xấu xí hơn như người ta thường nói vui với nhau: Ơ nhà thờ thì hứa với Chúa thật nhiều và ra khỏi nhà thờ thì thất hứa với Chúa cũng thật nhiều. Vì vậy, cần phải hiểu rằng Thiên Chúa hiện diện – không chỉ ở trong một góc nào đó của nhà thờ khi cử hành phụng Vụ hay trong những buổi cầu nguyện sốt sắng. Chúng ta có thể gặp thấy Ngài ở mọi nơi, cả trong các sinh hoạt đời thường. Vì Thiên Chúa là Đấng Emmanuel – một Thiên Chúa ở với con người, nhưng quan trọng hơn, con người là nơi hình ảnh của Thiên Chúa được thể hiện tròn đầy nhất. Được tạo thành theo dáng hình Thiên Chúa, con người chỉ thực sự lớn lên trong ơn gọi làm người, ơn gọi làm con Chúa khi thể hiện đúng vai trò bổn phận của mình trong thế giới hôm nay và trong lòng Hội Thánh. Vì vậy, lắng nghe lời Chúa hôm nay, xin cho mỗi người chúng ta ý thức bổn phận của mình trong xã hội cũng như trong Giáo hội để có thể thống nhất trong phương cách thực hiện dưới sự hướng dẫn của Chúa. Có như thế, chúng ta mới thực sự làm đúng như lời Chúa Giêsu mời gọi: “Của Cesar, trả về Cesar; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa”. Amen.
40. Suy niệm của Charles E. Miller.
HÃY DÂNG CHO THIÊN CHÚA NHỮNG GÌ LÀ CỦA THIÊN CHÚA (Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’)
Nếu Đức Giêsu phải qua một cuộc kiểm tra trong trường học ngày hôm nay, thì Ngài sẽ không Vượt Qua nổi. Ngài không bao giờ trả lời một câu hỏi, hay ít nhất là không trả lời trực tiếp. Một số người cũng giống như thế. Các bạn hỏi họ: “Bạn thế nào?”. Và họ trả lời: “Cám ơn bạn vì đã hỏi”. Đó không phải là một câu trả lời.
Trong bài Phúc Âm ngày hôm nay Chúa Giêsu đã bị hỏi là để chu toàn Lề Luật có trả thuế cho đế quốc hay là không? Một câu trả lời có hay là không đủ để trả lời cho câu hỏi này. Thay vào đó, Chúa Giêsu đã làm cho đối thủ của Ngài phải đưa cho Ngài đồng bạc Rôma, tiếp đến Người đòi hỏi họ phải đưa ra chính kết luận của họ. Chúa Giêsu có một lý do đúng đắn trong việc không đưa ra một câu trả lời trực tiếp bởi vì những người hỏi Ngài không chân thành; họ cũng đặt bẫy trong câu hỏi của họ. Nếu Ngài trả lời có, phải chu toàn Lề Luật đóng thuế thì người Pharisiêu sẽ tố cáo Ngài phản bội lại những người đồng hương Do Thái, xứ sở của chính Ngài. Mặt khác nếu trả lời không, họ sẽ có thể bắt Ngài bởi chống lại người Rôma.
Từ bài học đồng bạc, không ngạc nhiên gì khi Chúa Giêsu đã nói với họ hãy trả cho Cesar những gì thuộc về Cesar. Còn hơn là ngạc nhiên và ngay cả bị sốc nữa, khi Chúa Giêsu nói thêm hãy trả cho Thiên Chúa tất cả những gì thuộc về Thiên Chúa. Điều đó giông như là nói với cổ động viên bóng đá nhiệt thành rằng đừng quên xem một số trò chơi trên TV, nếu một người nào đó cho anh một vé chơi trò chơi hãy bảo đảm rằng anh sẽ đi. Loại trò chơi đó đối với một người cổ động viên bóng đá là một chuyện dư thừa. Vì những người Pharisiêu cũng gần giống như thế nếu nói với họ hãy trao cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa thì không chỉ là dư thừa nhưng đúng là một sự nhục mạ.
Ý của Chúa Giêsu thì không cố ý nhục mạ họ, nhưng là thách đố họ. Không nghi ngờ gì họ đã trả thuế cho đế quốc cai trị họ. Những người Rôma làm điều đó bằng cưỡng bách, bằng bạo lực nếu cần thiết. Nhưng Thiên Chúa không cưỡng bách chúng ta bất cứ điều gì. Ngài tìm kiếm sự phục vụ, trao ban một cách tự do. Trên tất cả Ngài yêu cầu một tình yêu mà tình yêu đó phải thành thật và không ích kỷ, giống như tình yêu của Ngài hướng đến chúng ta. Những người cố ý gài bẫy Chúa Giêsu trong bài giảng của Ngài, tin rằng tôn giáo là một cái gì nhỏ bé hơn qua việc giữ luật bên ngoài. Họ nghĩ rằng tôn giáo như xây một bức tường, cứ đặt những viên gạch với nhau thì bức tường sẽ được dựng lên. Họ không nhận ra rằng với cái vẻ đạo đức bên ngoài đã đặt nên một bức tường giữa họ với Thiên Chúa, và giữa Thiên Chúa với dân của Người. Họ cũng thành công trong việc cô lập chính họ khỏi những đòi hỏi cần quảng đại trong việc lạy Thiên Chúa hoặc trong việc phục vụ đồng loại, những kẻ đang có nhu cầu cần giúp đỡ.
Những thách đố đối với chúng ta là gì? Chúng ta có trả về cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa không? Chúng ta có xứng đáng được khen ngợi như thánh Phaolô đã khen ngợi tín hữu Thessalonica: “Chúng tôi đã kiên bền, chú ý… Còn anh em có chứng minh đức tin của anh em, khổ nhọc trong tình yêu, và trình bày cách kiên bền trông cậy vào Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta không?”.
Chứng mình đức tin của chúng ta: nó có nghĩa là sống theo một cách mà mọi người biết chúng ta là người Công giáo, những người thực thi tôn giáo của chúng ta một cách nghiêm chỉnh và sẵn lòng chịu những điều khác nữa. Lao nhọc trong tình yêu: đó là nhận biết chúng ta phải thực hiện theo cách của mình như chúng ta tử tế với những người khác, chúng ta tự nguyện thăm viếng đau ốm hoặc đi mua sắm đồ hco những người không thể đi được. Trình bày niềm hy vọng kiên bền vào Đức Kitô: Thách đố này là sống cuộc sống của chúng ta không theo cảm tính, như Thiên Chúa không hiện diện bởi vì chúng ta một là được thúc đẩy bởi cái vĩnh cửu còn không chỉ là do những giá trị thế lực.
Chúa Giêsu cảm thấy không cần thiết để trả lời những câu hỏi của người Pharisiêu nhưng chúng ta sẽ nồng nhiệt và sẵn lòng trả lời với một lòng sốt sắng khi Người hỏi: “Các con có sẵn lòng trả về cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa không?”.
Khi nói đến từ “bổn phận” thì tất chúng ta đều nghĩ ngay đến hai việc cần phải làm tròn, đó chính là bổn phận với Chúa và với người đời. Nhưng trong thực tế không phải người ta không biết về điều này nhưng đôi khi họ cố tình quên hoặc cố tình không hiểu, để rồi họ thắc mắc xem bên nào trọng hơn, bên nào kém hơn. Chính câu trả lời của Chúa Giêsu hôm nay đã làm thỏa mãn biết bao người, đã làm sụp đổ ý đồ bắt bẻ xấu xa của bọn Pharisêu: “Của Xêsa hãy trả cho Xêsa, của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa”. Đó là câu trả lời đầy ý nghĩa sâu xa của Chúa Giêsu cho những người đối nghịch muốn gài bẫy để có cớ bắt bẻ Ngài.
Những người ấy chính là bọn Pharisiêu và những kẻ theo phái Hêrôđê. Trong thực tế, hai nhóm người này có trường phái ngược nhau; nhóm Pharisiêu thì chỉ muốn bênh vực truyền thống sống đạo của cha ông họ mà thôi. Họ coi đó là cách thế duy nhất để làm đẹp lòng Thiên Chúa, và trên phương diện chính trị thì họ không chấp nhận sự hiện diện của chính quyền Rôma đang nắm quyền cai trị vùng đất Palestine lúc đó.
Bấy giờ, vua Hêrôđê được hoàng đế Rôma bổ nhiệm nắm chính quyền, vua Hêrôđê này không phải là người Do Thái, nhưng ông là người dân ngoại không thuộc Do Thái giáo. Còn những người Pharisiêu thì không chấp nhận sự thống trị của chính quyền Rôma trên đất nước Palestine. Theo lẽ thường thì hai nhóm người này không hoà hợp được với nhau. Thế nhưng, trớ trêu thay, để chống lại Chúa Giêsu thì họ liên kết với nhau, những người Pharisiêu liên kết với những người của vua Hêrôđê.
Mặt khác, những người của Hêrôđê thì lại ủng hộ tập trường của vua Hêrôđê, tức của hoàng đế Rôma để chấp nhận sự thống trị của vua. Nhưng hai nhóm người này liên kết với nhau để đặt ra một vấn nạn mà họ cho là phức tạp nhất: “Có nên nộp thuế cho hoàng đế Xêsa hay không?”. Nếu Chúa Giêsu trả lời là không, thì nhóm người Hêrôđê sẽ bắt Chúa vì tội xúi giục dân chúng làm loạn không nộp thuế cho hoàng đế Rôma. Còn nếu Chúa trả lời “có” thì những người phe Pharisiêu sẽ có cớ để tố cáo Chúa với dân chúng là Chúa đi với người ngoại bang, không đáng là một vị lãnh đạo tôn giáo.
Đối với họ, theo cái nhìn và suy luận của họ thì Chúa Giêsu chắc chắn sẽ rơi vào bẫy, vì không có câu nào khác để trả lời: Một là phải nộp thuế hai là không nộp thuế. Nhưng câu trả lời của Chúa Giêsu làm cả hai hạng người này không bắt bẻ được Ngài, đồng thời Chúa Giêsu còn xác quyết một chân lý sự thật đầy mới mẻ, đó là: “Những gì của Xêsa hãy trả cho Xêsa và những gì của Thiên Chúa hãy trả lại cho Thiên Chúa. Hãy tìm nước Thiên Chúa trước, rồi mọi sự khác sẽ được ban cho anh em dư đầy”.
Thử hỏi xem có một cái gì hay vật gì trong vũ trụ này mà lại không thuộc về Thiên Chúa? Trái đất và vũ trụ này do Thiên Chúa tạo dựng nên, và chính con người cũng được Ngài tạo dựng. Mỗi người chúng ta đã lãnh nhận sự sống từ Ngài, bởi vì không có gì mà chúng ta đang dùng mà lại không do Ngài ban cho.
Vậy, nếu không trả về cho Thiên Chúa những gì thuộc về Ngài, không hướng về Ngài tất cả những gì trong vũ trụ hay tất cả những gì ta đang hưởng dùng thì đó là thái độ phản loạn của con người. Con người muốn chiếm hữu lấy chỗ của Thiên Chúa và qui mọi sự về chính mình, lấy mình làm chủ, làm tiêu chuẩn cho mọi sự, những thái độ kiêu ngạo sai lầm này chỉ dẫn đưa đón những tranh chấp, hận thù, bạo lực và xa rời Thiên Chúa mà thôi. Vì thế, bao lâu mỗi người chúng ta không nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng chủ tể của mình, không trả lại cho Ngài và không qui hướng về Ngài tất cả những gì thuộc về Ngài, không để cho Thiên Chúa chiếm chỗ nhất trong cuộc sống của mình, thì bấy lâu con người không thể xây dựng một xã hội nhân bản xứng đáng là con người, không thể nào xây dựng một xã hội hoà hợp, trong đó mọi người nhìn nhận nhau như là anh chị em trong đại gia đình có Thiên Chúa là Cha: “Hãy trả cho Xêsa những gì của Xêsa, và hãy trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa”.
Ngày hôm nay Giáo Hội tha thiết mời gọi mỗi người Kitô hữu chúng ta hãy dấn thân nhiều hơn nữa, đặt Chúa vào chỗ nhất trong cuộc sống của mình, đặt Chúa vào chỗ nhất trong mọi sinh hoạt xã hội của mình. Tất cả mọi biến cố, tất cả những gì chúng ta đang thừa hưởng là đến từ Thiên Chúa và đều do tình yêu thương của Ngài trao ban.
Lạy Chúa, chúng con vâng lời ca tụng những hồng ân Chúa ban, xin Chúa ban cho con nhiều sức mạnh để con vừa là tính hữu tốt, vừa là một công dân tốt, mải là một người sống “tốt đạo đẹp đời”. Amen.
– Nếu Thầy chống nộp thuế thì Thầy chống lại người Rôma; nếu Thầy ủng hộ việc nộp thuế, thì Thầy chống lại Thiên Chúa.
Để làm hại Chúa Giêsu, người ta giăng một cái bẫy buộc Ngài phải rơi vào đó. Đất nước đang sống dưới sự chiếm đóng của Rôma và người Do thái biến đều đó thành một vấn đề tôn giáo. Cho nên đó là điều Tin Mừng muốn làm cho chúng ta suy nghĩ: tôn giáo và chính trị.
Những người theo Hêrôđê là những người hợp tác và rình mò Chúa Giêsu có lời nào bất cẩn nhằm tố cáo Ngài là người xách động. Nhưng những người Pharisêu, và thực tế là toàn thể dân Do thái, ghét người Rôma và xem họ là những kẻ đàn áp và là dân ngoại. Đóng thuế, tức là công nhận phục tùng một vị hoàng đế ngoại đạo. Như thế chẳng phải là chống lại Thiên Chúa hay sao? Thầy tự xưng là Đấng Cứu Thế, Thầy không thể chấp nhận điều đó, Thầy không ủng hộ việc đóng thuế chứ?
Chúa Giêsu bẻ gẫy cái bẫy kết hợp đó: các ngươi đang sử dụng tiền của César, các ngươi chấp nhận tình cảnh đất nước bị chiếm đóng, do đó, “hãy trả cho César những gì thuộc về César”, nhưng các ngươi đừng trộn lẫn điều này bất cứ như thế nào với đức tin của các ngươi vào Thiên Chúa.
Cho nên Chúa Giêsu phân biệt tôn giáo với chính trị. Không như người ta thường làm bằng cách cắt cuộc sống ra làm hai: một bên là lãnh vực của César, chính trị, và bên kia là lãnh vực của Thiên Chúa, tôn giáo. Không, tôn giáo và chính trị khác hẳn nhau, tuy nhiên chúng chồng chéo lên nhau.
Hẳn có hai lãnh vực, hoặc đúng hơn là nhiều lãnh vực. Trước hết là lãnh vực của Thiên Chúa là lãnh vực bao trùm tất cả. “Hãy trả cho Thiên Chúa cái gì thuộc về Thiên Chúa” có nghĩa là: các ngươi hãy xem tất cả trong cuộc sống của các ngươi liên quan đến Thiên Chúa như thế nào. Ai cũng có quyền có quan điểm. Cho nên phải “trả lại cho Thiên Chúa” tất cả những gì chúng ta làm trong chính trị cũng như trong tất cả. Đó là ánh sáng rõ ràng về các vấn đề “đức tin và chính trị” và về bao nhiêu vấn đề khác nữa.
Bởi vì bên trong quyền tối thượng hoàn toàn cuả Thiên Chúa, có biết bao nhiêu là lãnh vực trong đó chúng ta phải thực thi tự do của chúng ta: cuộc sống cá nhân, gia đình, xí nghiệp, xã hội. Không có vấn đề sống tất cả những cuộc sống đó một cách độc lập với Thiên Chúa. Cũng không có vấn đề ràng buộc Ngài với sự chọn lựa của chúng ta, trong khi tuyên bố rằng thái độ chính trị này là thái độ chính trị duy nhất của người Kitô hữu chẳng hạn. Trước kia, người ta dễ dàng nghĩ rằng bỏ phiếu cho cánh hữu là “vì Thiên Chúa”; ngày nay, đúng hơn là ngược lại, và đây là cũng sai nốt. Dầu sao thì cũng có cám dỗ lớn lao trong việc đặt Thiên Chúa vào trong những đề cương bầu cử hoặc trong nhiệt tình chính trị. Không, đó là César chứ không phải Thiên Chúa. Thiên Chúa không còn thuộc về cánh hữu hay cánh tả nữa.
Nhưng cám dỗ ngược lại cũng xấu: tìm cách thoát ra để gần Chúa, xa rời mọi sự dấn thân tập thể. Thế là chúng ta trốn tránh yêu thương anh em chúng ta, bởi vì phần lớn nhờ hoạt động chính trị mà chúng ta có thể thăng tiến công bằng xã hội và chất lượng cuộc sống. Ở kỹ trong nơi ấm áp, đọc kinh, và để cho người ta làm bất cứ điều gì trong nước thì đó không phải là đạo đức mà là ích kỷ.
Người ta đã sử dụng câu trả lời của Chúa Giêsu theo nhiều cách. Tôi nghĩ rằng đây là nguyên tắc phát xuất từ đó cho phép từ chối sự tách biệt hoàn toàn giữa đức tin và chính trị trong khi tránh được sự tập hợp các khuynh hướng: không có một nền chính trị nào có thể ràng buộc Thiên Chúa, nhưng tất cả các nền chính trị đều phải trả lẽ cho Ngài.
Mỗi người chúng ta đã được Thiên Chúa dựng nên giống hình ảnh Ngài có lý trí, có ý chí. Có lý trí để hiểu biết và có tâm tình để yêu mến. Trước khi dựng nên loài người, Thiên Chúa phán: “Ta hãy dựng nên con người như hình ảnh Ta và giống Ta… và Thiên Chúa đã thực hiện dự định ấy: Thiên Chúa đã dựng nên con người giống hình ảnh Chúa”. Cái hình ảnh ấy con người mang trong mình từ khi được thụ thai trong lòng mẹ, con người có những đức tính giống Thiên Chúa, nếu mỗi ngày biết trau dồi phát triển thêm, thì con người càng trở nên giống Chúa hơn. Tư tưởng ấy Chúa Kitô đã nhắc lại cho chúng ta hôm nay trong dịp tranh luận với nhóm Pharisêu.
Chúa là sự thật hiện thân, là chân lý vĩnh cửu, nên Ngài rất ghét những kẻ giả hình: bề ngoài thơn thớt nói cười mà bề trong nham hiểm giết người không gươm. Họ định đến gài bẫy để bắt lỗi Chúa thế mà họ chỉ dùng toàn những lời tâng bốc xu nịnh: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật… chẳng vị nể ai…”. Chúa không thể chịu được cái giọng dối trá ấy, vì đối với Ngài thì “có phải nói là có, không thì nói là không, còn những cái quá trớn đều là xấu xa”. Vì không thể chịu được nên Chúa đã phải gọi họ là bọn giả hình, và Ngài đã cho họ biết những mánh lới quỷ quyệt của họ không làm gì nổi Ngài. Chúa bảo họ cho Ngài xem một đồng tiền vẫn đóng thuế. Thời ấy ở Palestine, dân chúng tiêu dùng hai thứ tiền: khi đóng thuế vào đền thờ thì bắt buộc phải dùng tiền Do Thái, bởi vì theo luật Do Thái, không một hình ảnh sinh vật nào được đưa vào khu vực đền thờ, mà tiền ngoại quốc lại thường có hình người hay vật, còn tiền Do Thái chỉ có số và niên hiệu mà không có hình ảnh gì. Trái lại, khi nộp thuế cho chính phủ bảo hộ thì phải dùng tiền Rôma, tiền của Xêda. Ai đổi lấy tiền ấy, tức là bằng lòng đóng thuế. Chúa bảo đưa Chúa xem không phải là Chúa không biết thứ tiền ấy, mà Ngài chỉ muốn đưa họ vào chính cái bẫy mà họ đã gài định mưu hại Chúa. Nghĩa là Chúa làm cho họ thú nhận bằng lời nói và việc làm rằng họ muốn hay ít nữa bằng lòng đóng thuế cho Xêda rồi. Chúa sẽ không trả lời câu họ hỏi có nên hay không nên nộp thuế mà Ngài chỉ nói: “Của Xêda thì trả về Xêda”, nghĩa là các ông đã có tiền của Xêda tức là các ông đã sẵn sàng đóng thuế cho Xêda rồi, còn hỏi làm gì nữa? Hãy đưa cái của nợ ấy mà hoàn lại cho Xêda, thế là xong. Câu trả lời của Chúa còn bao hàm một ý nghĩa về quyền lợi của chính phủ hay chính quyền hợp pháp, “Quyền hành hợp pháp là do Thiên Chúa”.
Thánh Phaolô đã viết như thế cho giáo đoàn Rôma và Ngài còn thêm: “Những gì ta nợ ai thì phải trả cho người ấy”, mắc sưu thì trả sưu, mắc thuế thì trả thuế, mắc tôn trọng thì trả tôn trọng, mắc yêu mến thì trả yêu mến. Những cái đó cũng là những món nợ: nợ vật chất và tinh thần. Chúng ta phải thanh toán tất cả những món nợ ấy với những ai có quyền đòi hỏi ở chúng ta. Nhưng không phải chúng ta chỉ nợ nhau, nợ loài người mà thôi, mà còn nợ cả Thiên Chúa nữa. Để làm tròn nhiệm vụ thiêng liêng, Chúa Giêsu đã không ngần ngại thêm: “Và hãy trả về Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa”. Chúng ta nợ Chúa những gì? Chúng ta nợ tất cả. Thánh Phaolô viết cho giáo đoàn Côrintô: “Ngươi có cái chi mà ngươi đã không nhận được? Nếu ngươi đã nhận được ở chỗ khác thì sao lại hãnh diện như là không”. Ngoài những đức tính, những khả năng tự nhiên của bản tính loài người: linh hồn, lý trí, ý chí, những cái chúng ta nhận được khi thụ thai, những cái làm cho chúng ta nên giống Thiên Chúa một phần nào, Chúa còn in vào trong tâm hồn chúng ta, trao cho chúng ta nhiều hình ảnh, nhiều vốn khác nữa.
Lúc chịu phép rửa tội, Chúa đã in vào trong tâm hồn chúng ta một hình ảnh Con Chúa, hình ảnh Chúa Kitô, một hình ảnh thật tốt, không thể tẩy xoá đi được, nhưng chưa được rõ lắm. Không những chúng ta có nhiệm vụ bảo tồn hình ảnh ấy được nguyên vẹn, mà chúng ta còn có bổn phận tô điểm bức ảnh ấy cho thêm rõ ràng, tươi đẹp. Hình ảnh ấy không thể chỉ là bức hoạt hoạ hay hí hoạ. Bức hoạt hoạ chỉ làm trò cười cho thiên hạ thôi. Bức hình ấy phải là bức ảnh truyền thần tô mầu, đúng chân dung Chúa Kitô: Chúa là Đấng đáng yêu mến, quý trọng… thì hình ảnh của Ngài cũng phải gợi lên được những tâm tình ấy, nghĩa là chúng ta phải làm thế nào để người khác trông vào nơi chúng ta là hình ảnh của Chúa, họ phải cảm thấy sự đáng yêu mến quý trọng của Ngài, nếu không, chúng ta chỉ là bức hí hoạ của Chúa. Những người mới tập vẽ hay những hoạ sĩ kém khi vẽ một bức chân dung xong, cho dù cố gắng mấy vẫn còn phải đề tên người được vẽ ở dưới, không thì người xem bức hình ấy sẽ không biết là ai. “Hình này là hình ai đây?”. Câu ấy có thể là một câu mà Chúa muốn đặt ra cho chúng ta chăng? Có biết bao tín hữu đều là những bức hình cần phải đề tên rõ ở dưới, nghĩa là nếu không có một mẫu ảnh, một tấm áo hay một huy hiệu nào trên người họ thì người khác không thể biết được họ là tín hữu. Trên cổ họ có lẽ lúc nào cũng cần phải đeo một tấm bảng nhỏ ghi: “Đây là một tín hữu”, bởi vì họ không mang trên mình họ, trong con người họ, trong tư tưởng, trong lời nói, trong hành động của họ một nét nào là nét Chúa nữa.
Hôm nay, Chúa đòi và mong muốn chúng ta sẽ mang lại cho Chúa hình ảnh mà Chúa đã trao cho chúng ta khi chúng ta được thụ thai cũng như khi chúng ta chịu phép rửa tội, và không những chỉ một hình ảnh y nguyên như lúc chúng ta nhận được nơi Chúa, mà còn phải là một hình ảnh đẹp gấp bội nữa, bởi vì nén vàng nén bạc trao cho chúng ta cần phải sinh lời ra nữa, bức hình trao cho chúng ta cần phải tô điểm thêm nữa. “Hình ai đây?”. Hằng ngày chúng ta hãy tự cảnh tỉnh mình như thế: tôi làm việc này, tôi nghĩ ngợi như thế, tôi ăn nói như vậy có giống Chúa không? Hành động này, tư tưởng ấy, lời nói kia là hình ảnh ai đó? Chúa hay Xêda? Hãy trả ngay cho Xêda những gì là của Xêda. Và nhất là hãy giữ lại để trao về cho Chúa những gì là của Chúa.
Người Do Thái lúc bấy giờ đang sống dưới ách thống trị của đế quốc La mã. Họ thường phải nộp những thứ thuế khá nặng cho hoàng đế César. Đứng trước vấn đề này, họ có ba thái độ khác nhau.
- Thái độ thứ nhất của những người thuộc phái Sađốc và đảng Hêrôđê, họ chấp nhận việc nộp thuế, nhằm bảo đảm cho chỗ đứng của họ và sự bao bọc của chính quyền Rôma.
- Thái độ thứ hai là của bọn Biệt phái, miễn cưỡng chấp nhận nộp thuế. Họ coi ách đô hộ của người La mã là một thứ hình phạt của Thiên Chúa, vì thế cần phải tu thân tích đức để được tha thứ.
- Cuối cùng là thái độ của những người ái quốc, họ không chấp nhận sự hiện diện của ngoại bang trên quê hương đất nước. Họ chủ trương dùng võ lực để đánh đuổi thực dân và coi việc nộp thuế là điều ô nhục, xúc phạm đến Thiên Chúa, vì không chấp nhận để Thiên Chúa thống trị trên Israel là dân riêng của Ngài.
Còn thái độ của Chúa Giêsu là như thế nào? Trước hết, Ngài tố giác sự giả hình của bọn Biệt phái: Họ giả bộ khen ngợi Ngài bằng những lời đẹp đẽ nhất: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật, Thầy dạy đường lối của Thiên Chúa. Thầy chẳng vị nể ai và không đánh giá theo bề ngoài”.
Thế nhưng bên trong những lời đẹp đẽ ấy lại là một ý đồ đen tối, muốn gài bẫy để hại Ngài. Bởi vì nếu Ngài trả lời phải nộp thuế thì Ngài sẽ bị dân chúng phản đối. Còn nếu Ngài trả lời không phải nộp thuế thì họ sẽ tố giác Ngài với chính quyền Rôma.
Vì thế, Ngài bảo họ cho xem đồng tiền nộp thuế. Đây là một đồng tiền bằng bạc, được lưu hành trong toàn đế quốc La mã từ năm 268 trước công nguyên, mãi đến năm 200 sau công nguyên vẫn còn được xử dụng. Trên mặt đồng tiền có hình bán thân của hoàng đế Tibêriô Xêda. Chúa Giêsu cầm đồng tiền và hỏi: “Hình và dòng chữ này là của ai?”
Và khi biết là của Xêda, Ngài bèn nói: “Của Xêda hãy trả cho Xêda, còn của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa”.
Câu nói đó có ý nghĩa: Đồng tiền mang hình Xêda nên chúng ta phải trả cho Xêda, còn con người chúng ta mang hình ảnh Thiên Chúa, nên chúng ta phải trả toàn bộ bản thân chúng ta cho Thiên Chúa. Ngài không nói một cách rõ ràng là phải nộp thuế cho Xêda để bày tỏ sự phục tùng, nhưng nếu chúng ta được phép nộp thuế vì nghĩa vụ thì cũng đừng quên rằng mình thuộc về Thiên Chúa, và chỉ mình Ngài mới có quyền tối thượng, mới là Đấng chúng ta phải yêu mến trên hết mọi sự.
Tóm lại, tiền bạc của con người có thể thuộc về hoàng đế, còn chính bản thân chúng ta phải thuộc về Thiên Chúa. Vì Ngài có quyền tối thượng trên mọi người và mọi quyền bính trần gian.
Những gì của Thiên Chúa phải trả cho Thiên Chúa. Đó là lời nhắn nhủ thật bất ngờ khiến chúng ta phải kiểm điểm lại cuộc sống, bởi vì chúng ta có bổn phận phải tôn trọng những đòi hỏi của Ngài. Thế nhưng khi bon chen trong lãnh vực trần thế, chúng ta đã thực sự chu toàn những bổn phận của chúng ta đối với Thiên Chúa hay chưa?
Thật là sai lạc khi nghĩ rằng Giáo hội Công giáo thì chống đối lại nhà nước. Với chúng ta thật rõ ràng và minh bạch, khi chúng ta trả lại cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa, nhưng chúng ta cũng không quên trả lại cho quê hương đất nước những gì thuộc về quê hương đất nước. Thế nhưng, trong trường hợp có những nhà nước chủ trương một chính sách bài trừ tôn giáo, xoá bỏ địa vị của Thiên Chúa, thì chúng ta phải phản ứng như thế nào?
Tôi nghĩ rằng chúng ta phải đấu tranh, phải phản kháng nhưng không phải với bạo lực và sức mạnh, bởi vì đối với chúng ta chống lại chính quyền hợp pháp là một tội, lỗi điều răn thứ tư. Chúa Giêsu cũng đã không giảng dạy sự bạo động nhưng đã giảng dạy đức vâng lời, cho dù là vâng lời một chính quyền ngoại đạo.
Thánh Phaolô cũng chủ trương như thế khi ngài viết cho các tín hữu Rôma: Ai chống đối lại quyền bính thì cũng chống đối lại Thiên Chúa. Các tín hữu đầu tiên đã không dùng gươm giáo để chống lại những sự bắt bớ cấm cách, nhưng đã chấp nhận tù đày và chết chóc. Cuộc chiến đấu của chúng ta là một cuộc chiến đấu cân não, là một cuộc chiến đấu siêu nhiên. Bằng những đường lối hợp pháp, chúng ta thành thực bày tỏ những nguyện vọng chính đáng của chúng ta. Trong trường hợp có những luật lệ đi ngược với đường lối của Thiên Chúa, thì chúng ta không buộc phải tuân giữ, bởi vì chúng ta hãy nhớ tới lời thánh Phaolô: Thà vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người đời.
Đức thánh Cha Léo XIII đã cho biết một kinh nghiệm quí giá: trong thời bình cũng như trong thời chiến, những Kitô hữu nhiệt thành bao giờ cũng là những người công dân tốt. Họ sẵn sàng chấp nhận mọi khổ đau, và ngay cả cái chết để không chối bỏ Thiên Chúa và Giáo Hội, bởi vì nhà nước không phải là Thiên Chúa, chỉ có Thiên Chúa mới là Đấng tối cao và quyền năng mà thôi.
Hẳn chúng ta còn nhớ trước toà án Philatô, Chúa Giêsu đã trả lời: Nếu từ trên không ban cho ông thì ông chẳng có quyền hành gì đối với tôi. Hay như thánh Phaolô cũng đã viết: Mọi quyền bính đều xuất phát bởi Thiên Chúa để phụng sự cho Thiên Chúa. Còn trong trường hợp nhà nước tôn trọng tự do tín ngưỡng, đảm bảo cho người công dân được thi hành niềm tin tưởng của mình, thì chúng ta có bổn phận phải cộng tác. Mặc dù có sự phân biệt giữa đạo và đời, nhưng chúng ta vẫn có thể tạo được một sự hợp nhất chân thành để cùng nhau làm tốt đời đẹp đạo. Bởi vì của César phải trả cho César và của Thiên Chúa phải trả cho Thiên Chúa.
Chúng ta mong muốn, chúng ta nguyện ước cho nhà nước luôn được như thế. Có người cho rằng nhà nước và Giáo Hội là hai cơ chế riêng biệt, như hai đường thẳng song song, mà sự hợp nhất chỉ đem đến những lạm dụng tai hại. Dĩ nhiên chúng ta không chối cãi giữa nhà nước và Giáo Hội có nhiều điểm khác biệt, thế nhưng cả hai cùng theo đuổi cái lợi ích, cái tốt lành cho dân chúng. Chính ở khởi điểm này mà có thể hợp nhất với nhau. Nếu nhà nước và Giáo Hội cùng cộng tác và nếu mỗi người chúng ta cùng nỗ lực làm tốt đời đẹp đạo, thì chắc chắn đất nước này sẽ mỗi ngày một phát triển và quê hương này sẽ mỗi ngày một tốt đẹp hơn lên.
(Suy niệm của AM. Trần Bình An)
Chiến dịch diệt chim sẻ (Đả ma tước vận động) là một trong những hành động đầu tiên trong kế hoạch Đại Nhảy Vọt của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa từ năm 1958 đến năm 1962. Bốn loại con vật cần phải bị diệt trừ đó là chuột, ruồi, muỗi và chim sẻ.
Chiến dịch được Mao Trạch Đông, chủ tịch Cộng hòa Nhân dân Trung hoa phát động. Chim sẻ bị liệt kê vào trong danh sách vì chúng ăn hạt thóc lúa, gây thiệt hại cho nông nghiệp. Theo quyết định thì tất cả các nông dân tại Trung Quốc nên đập gõ nồi, niêu và rượt đuổi chim sẻ khiến chúng sợ sệt bay đi. Ổ chim sẻ bị phá, trứng bị đập vỡ, các chim con trong tổ bị giết chết. Chim sẻ bị giết được chất thành đống cao như ngọn núi nhỏ trên đồng ruộng.
Mùa vụ năm sau được khá hơn năm trước, vì không còn chim sẻ, nhưng họ đã quên đi một sự thật là chim sẻ ăn châu chấu. Sau đó châu chấu tràn ngập vùng miền quê phá nát mùa màng và kéo theo sau là một nạn đói xảy ra tại Trung Quốc.
Tháng tư năm 1960 Viện Hàn Lâm Khoa học Quốc gia Hoa Kỳ (United States National Academy of Sciences) nêu lên vấn đề là chim sẻ ăn côn trùng nhiều hơn là ăn hạt thóc. Mao Trạch Đông chỉ nói là: “Hãy quên nó đi”, và ra lệnh ngưng diệt chim sẻ. Vào lúc đó thì quá trễ vì số lượng châu chấu đã bùng nổ ngoài tầm kiểm soát. Từ năm 1959 đến 1961, có đến 30 triệu người chết đói trong Nạn Đói Lớn ở Trung Quốc.
Cũng đáng ghi nhận là có nhiều nhân tố ngoài nạn châu chấu tràn ngập nông thôn ngoài tầm kiểm soát vào thời đó. Một trong các nhân tố gây ra nạn đói là việc tập thể hóa ruộng đất ở nông thôn.
Ngày 19 tháng 6 năm 1998, một bích chương ở Đại học Nông nghiệp Tây Nam tại Trùng Khánh có dòng chữ như sau: “Hãy diệt bốn loại con vật gây hại.” Một chiến dịch tương tự cũng được thấy vào mùa xuân năm 1998 tại Bắc Kinh. Lần này thì không ai đáp lời kêu gọi cho loại chiến dịch kiểu đó. (Wikipedia)
Trong thiên nhiên luôn có các loài thiên địch như chim chóc, sâu bọ, giun dế, vi sinh,… có nhiệm vụ cân bằng sinh thái, để môi trường luôn phát triển bền vững. Tiêu diệt những thiên địch là phá vỡ hệ sinh thái tự nhiên, thì môi trường sẽ bị hủy diệt, gây nên những hệ quả tàn khốc, như đất đai bị sói mòn, thảm thực vật biến dạng, suy thoái, cạn kiệt, kéo theo lũ lụt và sa mạc hóa. Vậy hãy trả lại thiên nhiên tươi tắn nguyên thủy cho Thiên Chúa. Ngài đã tạo dựng cho con người thụ hưởng những môi trường tự nhiên, hỗ tương, đa dạng, phong phú, những cảnh quan hùng vĩ, ngoạn mục, thân thiện và hữu ích cho cuộc sống lành mạnh.
Tin Mừng thánh Matthêu hôm nay thuật lại âm mưu của nhóm Pharisiêu và nhóm thân Hêrôđê gài bẫy Đức Giêsu. Trả lời nộp thuế cho César, hay không cũng đều bị kết án. Nhưng Người khôn ngoan không những tránh sập bẫy, mà còn răn dạy một bài học chí tình, chí lý: “Của César, trả về César, của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa.”
Của César, trả về César
Trong lần thứ ba cám dỗ nơi hoang mạc, quỷ đem Đức Giêsu lên một ngọn núi cao, và chỉ cho Người thấy tất cả các nước thế gian, và vinh hoa lợi lộc của các nước ấy và bảo rằng: “Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ đó, nếu ông sấp mình bái lạy tôi.” Đức Giêsu liền nói: “Satan kia, xéo đi! Vì đã có lời chép rằng: “Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi.” (Mt 3, 8-10).
Lần này, nhân chuyện đóng thuế cho Roma, Đức Giêsu phán của César thì hãy trả về César. Vậy của César chính là vinh hoa lợi lộc, giàu sang, phú quý, của cải, tiền bạc, chức tước, quyền lực, danh giá, như Satan đã từng cám dỗ Đức Giêsu.
Không phải Đức Giêsu khuyên hoàn toàn từ bỏ tiền bạc của cải vật chất, mà Người muốn tín hữu khôn ngoan dùng làm phương tiện, mua lấy tình người, nhân ái, bác ái và phục vụ, cũng như ký thác vào tài khoản ngân hàng Thiên Quốc, để lấy lợi tức sống đời đời. “Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi vĩnh cửu (Lc 16, 9).
“Của cải chôn vùi con, nếu con đội nó trên đầu; của cải làm bệ chân con, nếu con đứng lên nó.” (Đường Hy Vọng, số 407)
Của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa
Khi tạo dựng con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Người đã đặt vào lòng dạ con người lương tâm, trí khôn, và nhất là Tình Yêu, bộc lộ qua tình mẫu tử, tình phụ tử, tình huynh đệ, tình bạn, tình đôi lứa và tình người. Vậy phải trả về Thiên Chúa những gì Người đã trao phó, đầu tư cho từng người. Đó là đạo đức, khôn ngoan, tình yêu Thiên Chúa và tình yêu tha nhân. Trả lại Chúa tất cả những gì tốt đẹp mà Chúa đã tín nhiệm gửi gắm, đầu tư cho từng cá nhân phát triển, sinh lợi, gặt hái nhiều hoa thơm trái ngọt.
Từ vốn liếng căn bản đó, Thiên Chúa mong đợi mỗi người phát triển phong phú hơn. Mỗi người được giao một vài nén bạc làm vốn liếng, phải trả về Thiên Chúa cả gốc lẫn lãi, phải sinh lời gấp năm gấp mười, gấp trăm. Chắc chắn Người sẽ vui mừng, hoan hỷ, khen ngợi, ban thưởng cho gấp bội lần: “Khá lắm! hỡi đầy tớ tài giỏi và trung thành! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!” (Mt 25, 21)
Trả lại Thiên Chúa công ơn sinh thành, dưỡng dục, nuôi nấng, vì cha mẹ, thầy giáo, chính là những người thay mặt Thiên Chúa nuôi dạy. Trả lại Thiên Chúa những lời giáo huấn của các Chủ Chiên, Linh mục, tu sĩ, giáo dân đã hướng dẫn, chỉ bảo, răn dạy, khuyên nhủ, cũng như ban các Bí Tích, giúp kẻ liệt, từ khi sinh ra đến khi xuôi tay nhắm mắt.
Trả lại Thiên Chúa hồng ân cứu độ do chính Đức Chúa Con đã xuống trần, rao giảng, chịu nạn, chịu chết, và đã sống lại, chỉ vì Ngài muốn giải thoát con người khỏi kiếp đọa đầy. Làm sao có thể trả được cho Thiên Chúa những công ơn vĩ đại vô cùng, vô song, vô tận, nếu không khiêm nhường, cúi đầu, đấm ngực ăn năn thống hối trở về hằng ngày, vì những lỗi lầm, tội lỗi, vô ơn bạc nghĩa, chất chồng liên tục lâu nay. Cùng trở nên nhân chứng của Đức Giêsu cho mọi người.
“Dùng của cải cách quảng đại, trọng của cải cách tế nhị, xa của cải cách anh hùng. Vì không phải của con, chính là của Chúa trao cho con sử dụng, của người nghèo.” (Đường Hy Vọng, số 414)
Lạy Chúa Giêsu, xin soi sáng cho chúng con biết đâu là của thế gian, đâu là của Chúa. Tuy tất cả mọi thứ tốt lành đều là của Chúa, từ Chúa ban phát, mà chúng con cứ lầm tưởng là của công sức chúng con thu vén, làm lợi. Kính xin Chúa cho chúng con luôn nhận thức tất cả những gì tốt lành là của Chúa, để chúng con luôn cố gắng sinh lợi gấp chục, gấp trăm dâng lên Chúa.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ giúp chúng con biết dùng của cải đúng đắn, hữu ích, để mưu cầu hạnh phúc vĩnh cửu. Xin giác ngộ chúng con luôn nhớ công ơn cứu chuộc và những hồng ân hằng ngày của Chúa, để chúng con luôn dâng lời tạ ơn, chúc tụng, ngợi khen Thiên Chúa. Amen.
Một thương gia tuổi đã trung niên, vừa đáp máy bay xuống phi trường sau một chuyến đi làm ăn xa trở về. Bà vợ ra phi trường đón chồng ngay tại cửa máy bay. Vừa bước ra khỏi cửa, người chồng gặp cô chiêu đãi viên hàng không trẻ đẹp và hấp dẫn đi ngang qua. Với vẻ mặt rạng rỡ, ông thương gia nói với cô chiêu đãi viên hàng không rằng: “Tôi hy vọng chúng mình sẽ bay chung với nhau nữa, cô Saunders”. “Làm sao anh biết tên cô ấy?” Bà vợ liền hỏi chồng. Ông chồng trả lời ngon lành, “Em nhìn thấy không, tên của cô ấy được ghi trên bảng ngay phía trước máy bay, dưới tên của người phi công chính và phi công phụ”. Căn cứ vào lời chồng nói, bà vợ hỏi tiếp, “Thế hả, vậy anh nói cho em biết tên của người phi công chính và phi công phụ đi?” Ông thương gia đỏ mặt lúng túng. Sự gian dối, giả hình đã bị lộ tẩy.
Phúc âm hôm nay, cho chúng ta thêm một ví dụ nữa về lòng dạ gian dối của những người Pharisêu khi họ cố tình gài bẫy Chúa Giêsu. Ngài thường lên án sự giả hình và gian dối của họ bằng những lời lẽ thật nặng nề: “Tại sao các người lại thử Ta, hỡi những kẻ giả hình!” “Khốn cho các ngươi, hỡi những người Pharisêu!”
Trong chương trình “Late Show” kể chuyện hài hước trên tivi, Jay Leno nói về bài diễn văn nhận chức tổng thống của tổng thống George Washington kéo dài chỉ có một phút rưỡi mà thôi. Leno đã nói: “Tôi đoán rằng sẽ chẳng có chuyện gì nhiều để nói nếu bạn là một nhà chính trị mà lại không nói dối!”
Những người Pharisêu là những chức sắc trong tôn giáo, mặt trong họ chống lại chính quyền Lamã đang cai trị dân Do Thái, mặt ngoài họ thoả hiệp với chính quyền để củng cố và duy trì địa vị. Họ đã bàn tính với những người thuộc phái Hêrôđê, đang điều hành guồng máy chính quyền Lamã thu thuế ở Palestine, hỏi Chúa Giêsu rằng: “Có được phép nộp thuế cho Cêsarê không?”. Nếu trả lời không, Chúa sẽ bị chính quyền Lamã bắt vì tội phản loạn. Nếu trả lời có, Chúa sẽ bị những người Do Thái ái quốc và quần chúng đang theo Ngài bỏ rơi. Trả lời cách nào Chúa cũng bị thiệt thòi, theo như họ đã nghĩ. Một cách khôn ngoan, Chúa không trả lời “không” hay “có”, nhưng chỉ vào đồng tiền có hình Cêsarê mà nói: “Trả về Cêsarê cái gì của Cêsarê, và trả về Thiên Chúa cái gì của Thiên Chúa”.
Qua câu trả lời của Chúa Giêsu, chúng ta không nên giải thích rằng Thiên Chúa và Cêsarê nằm trên hai đường thẳng song song, không nên nghĩ rằng Thiên Chúa và xã hội trần gian sẽ không bao giờ gặp gỡ nhau. Thiên Chúa luôn nắm giữ quyền tối thượng trên mọi sinh hoạt của con người.
Một câu chuyện huyền thoại cổ kể về một ông vua đầy quyền lực và tàn bạo có thể điều khiển thuộc hạ phải làm theo ý mình tất cả mọi việc. Nhưng trừ một điều nhà vua không thể làm được là phá huỷ niềm tin của họ vào Thiên Chúa. Do đó, vua cho gọi ba nhà cố vấn thông thái nhất nước đến và hỏi: “Tôi có thể dấu Thiên Chúa ở đâu để dân chúng sẽ không thể tìm thấy Ngài?” Nhà thông thái thứ nhất trả lời: “Hãy dấu Thiên Chúa vào các hành tinh thật xa trong không gian, dân chúng sẽ không tìm ra Ngài”. Nhà thông thái thứ hai không đồng ý: “Như thế không được! Một ngày nào đó dân này sẽ nghiên cứu cách bay vào không gian, tới những hành tinh đó, và họ sẽ tìm thấy Thiên Chúa của họ. Tốt hơn hết là dấu Ngài xuống đáy đại dương”. Người thứ ba phản đối: “Như thế cũng không được! Một ngày nào dân này sẽ biết cách lặn xuống đáy biển, và họ sẽ tìm thấy Thiên Chúa. Tốt hơn hết, hãy dấu Ngài trong đời sống hằng ngày của mỗi người; không ai có thể tìm thấy Ngài cả!”
Thiên Chúa hiện diện trong mọi sinh hoạt của con người, và con người, một loài thụ tạo, có bổn phận phải nhận biết và yêu mến Thiên Chúa như sách Giáo lý Công giáo đã dạy ở số 1. bắt đầu sách giáo lý rằng: “Trong một dự tính hoàn toàn do lòng nhân hậu, Thiên Chúa vô cùng toàn hảo và hạnh phúc nơi bản thân mình, đã tự ý sáng tạo nên con người để cho con người được thông phần vào sự sống diễm phúc của Ngài. Bởi vậy, ở mọi nơi và mọi thời, Ngài muốn ở gần con người. Ngài kêu gọi con người, giúp con người tìm kiếm Ngài, nhận biết và yêu mến Ngài hết sức mình”.
Không ai lại không có gì sở hữu, hiểu đơn giản là quyền làm chủ. Đó là quyền cơ bản nhất của mỗi con người. Về tài chính, người ta còn có “quyền sở hữu chéo” (ngân hàng này sở hữu ngân hàng khác, doanh nghiệp này sở hữu một doanh nghiệp khác,… mối quan hệ vừa trực tiếp vừa gián tiếp – khái niệm này xuất hiện từ thập niên 1980).
Thiên Chúa ban cho chúng ta thời gian và quyền tự do, chúng ta được quyền sở hữu đó, nhưng chúng ta không làm chủ mà chỉ quản lý. Chúa Giêsu đã nói rõ: “Chẳng ai có thể nhận được gì mà không do Trời ban” (Ga 3:27). Thật vậy, khi nói về một tài năng nào đó, người ta dùng chữ “thiên phú” – tức là “trời cho” đó thôi. Tác giả sách Giảng Viên cảm nhận: “Tôi nhận ra rằng mọi sự Thiên Chúa làm sẽ tồn tại mãi mãi. Không có gì để thêm, chẳng có gì để bớt. Thiên Chúa đã hành động như thế để phàm nhân biết kính sợ Người” (Gv 3:12-14). Vấn đề quan trọng là người nào đó có tài năng mà còn “biết kính sợ Chúa” hay không, có biết khiêm nhường hay không. Ảo tưởng là “chết chắc”!
Đức Chúa phán với kẻ Ngài đã xức dầu là vua Kyrô: “Ta đã cầm lấy tay phải nó, để bắt các dân tộc suy phục nó, Ta tước khí giới của các vua, mở toang các cửa thành trước mặt nó, khiến các cổng không còn đóng kín nữa” (Is 45:1). Ngài giải thoát ai, người đó thuộc quyền sở hữu của Ngài. Chúng ta cũng được Thiên Chúa cứu độ bằng Giá Máu của Đức Giêsu Kitô, Con Một Yêu Dấu của Ngài, vậy chúng ta cũng thuộc về Thiên Chúa, thuộc về Đức Kitô, thuộc dòng dõi Áp-ra-ham và được thừa kế (Gl 3:29). Mà những ai thuộc về Thiên Chúa thì phải vâng lời Ngài (Ga 8:47). Đó mới là vấn đề!
Thiên Chúa giải thích: “Vì lợi ích của tôi tớ Ta là Giacóp, và của người Ta đã chọn là Ít-ra-en, Ta đã gọi ngươi đích danh, đã ban cho ngươi một tước hiệu, dù ngươi không biết Ta. Ta là Đức Chúa, không còn chúa nào khác; chẳng có ai là Thiên Chúa, ngoại trừ Ta. Dù ngươi không biết Ta, Ta đã trang bị cho ngươi đầy đủ, để từ Đông sang Tây, thiên hạ biết rằng chẳng có thần nào khác, ngoại trừ Ta. Ta là Đức Chúa, không còn chúa nào khác” (Is 45:4-6). Thiên Chúa nhấn mạnh tính cao cả duy nhất của Ngài bằng cách lặp đi lặp lại: “Ta là Đức Chúa, không còn chúa nào khác”. Điều đó chứng tỏ rằng chúng ta chỉ được phép tôn thờ một mình Ngài. Và thật diễm phúc, chúng ta đã nhận ra điều này, để rồi chúng ta đang tôn thờ Ngài và không ngừng nỗ lực học bài học yêu của Ngài. Cũng như dân Ít-ra-en, chúng ta được trở nên dân riêng của Ngài.
Trước đó, Thiên Chúa cũng đã động viên và xác nhận với dân Ít-ra-en: “Đừng sợ, vì Ta đã chuộc ngươi về, đã gọi ngươi bằng chính tên ngươi: ngươi là của riêng Ta!” (Is 43:1). Ngài cũng đang nói với chúng ta như vậy. Dân Ít-ra-en là “vật sở hữu” của Thiên Chúa, chúng ta cũng thế. Ngày nay cũng có những thứ thuộc về Thiên Chúa, tương tự như Dân Riêng vậy, thuộc quyền sở hữu của Ngài. Ai dám liều mạng mà “đụng chạm” đến những gì của Chúa thì “kẹt lắm” đấy!
Ở dưới bầu trời này, mọi sự đều có lúc, mọi việc đều có thời. Ngay cả chuyện ăn uống và hưởng những thành quả do công lao khó nhọc mình làm ra, tức là tận hưởng những gì mình sở hữu, đó đã là một món quà Thiên Chúa ban tặng rồi (x. Gv 3:1-12). Vâng, tất cả chỉ là phù vân, chúng ta “chẳng khác chi con vật một ngày kia phải chết” (Tv 49:13), chẳng có gì bền vững, chỉ có Thiên Chúa là Đấng vạn đại trường tồn (Tv 102:25). Biết mình hữu hạn, biết Chúa vô hạn, để mà hết lòng tôn thờ và tán tụng Thiên Chúa. Tác giả Thánh Vịnh mời gọi chúng ta: “Hát lên mừng Chúa một bài ca mới, hát lên mừng Chúa, hỡi toàn thể địa cầu!” (Tv 96:1).
Việc chúng ta ca tụng Chúa chẳng thêm gì cho Ngài, nhưng đem lại ơn cứu độ cho chúng ta (Kinh Nguyện Thánh Thể). Ca tụng Chúa không chỉ là trách nhiệm và bổn phận của chúng ta mà còn là niềm hạnh phúc cho chúng ta: “Hát lên mừng Chúa, chúc tụng Thánh Danh! Ngày qua ngày, hãy loan báo ơn Người cứu độ, kể cho muôn dân biết Người thật là vinh hiển, cho mọi nước hay những kỳ công của Người. Chúa thật cao cả, xứng muôn lời ca tụng, khả tôn khả uý hơn chư thần, vì chư thần các nước thảy đều hư ảo, còn Đức Chúa, Người sáng tạo trời cao” (Tv 96:3-5). Ca tụng Chúa khi chúng ta may mắn, đó là điều dễ dàng, nhưng ca tụng Chúa ngay cả khi cuộc đời chúng ta không “xuôi chèo mát mái”, đó mới là điều khó thực hiện nhưng lại có giá trị cao.
Thiên Chúa ban cho chúng ta mọi thứ (vật chất và tinh thần) mà chúng ta cứ tưởng là “điều dĩ nhiên”, chúng ta không biết tạ ơn thì thôi, lại còn “so đo” vì cứ thưởng mình không được may mắn như người khác. Thật ra đó là ý mình, không phải Ý Chúa. Quả thật, Thiên Chúa luôn xứng đáng để chúng ta xưng tụng mọi nơi và mọi lúc: “Hỡi các dân các nước, hãy dâng Chúa quyền lực và vinh quang, hãy dâng Chúa vinh quang xứng danh Người. Hãy bưng lễ vật, bước vào tiền đình Chúa, và thờ lạy Chúa uy nghiêm thánh thiện, toàn thể địa cầu, hãy run sợ trước Thánh Nhan. Hãy nói với chư dân: Chúa là Vua hiển trị, Chúa thiết lập địa cầu, địa cầu chẳng chuyển lay, Người xét xử muôn nước theo đường ngay thẳng” (Tv 96:7-10).
Thiên Chúa sở hữu tất cả, chúng ta chẳng có gì. Vả lại, Chúa Giêsu đã xác định: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15:5). Vậy vì cớ gì mà chúng ta lại không tôn vinh và không tạ ơn Thiên Chúa? Có ai đau khổ bằng ông Gióp? Thế mà trong lúc đau khổ đến tột cùng, mất hết mọi vật sở hữu, từ của cải tới con cái, nhưng ông Gióp vẫn “không hề phạm tội cũng không buông lời trách móc phạm đến Thiên Chúa” (G 1:22). Thiên Chúa đã nói với Satan về ông Gióp: “Chẳng có ai trên cõi đất này giống như nó: một con người vẹn toàn và ngay thẳng, kính sợ Thiên Chúa và lánh xa điều ác” (G 1:8). Một tấm gương to lớn và sáng chói để chúng ta soi vào. Cũng chưa đến nỗi nào mà chúng ta đã than trách đủ thứ. Còn lâu thật là lâu chúng ta mới có thể “xách dép” chạy theo Thánh Gióp. Thật vậy, vác thập giá đâu có sướng, đâu có nhàn, không thể cứ tà tà mà vác!
Bổn phận chúng ta không chỉ phải biết tạ ơn và cầu nguyện cho mình mà còn phải tạ ơn và cầu nguyện cho người khác, đồng thời còn phải biết cảm ơn nhau. Thánh Phaolô nói: “Chúng tôi hằng tạ ơn Thiên Chúa về tất cả anh em. Chúng tôi nhắc đến anh em trong lời cầu nguyện, và trước mặt Thiên Chúa là Cha chúng ta, chúng tôi không ngừng nhớ đến những việc anh em làm vì lòng tin, những nỗi khó nhọc anh em gánh vác vì lòng mến, và những gì anh em kiên nhẫn chịu đựng vì trông đợi Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô” (1 Tx 1:2-3). Tình liên đới Kitô giáo thật tuyệt vời!
Thánh Phaolô vừa giải thích vừa xác định: “Anh em là những người được Thiên Chúa thương mến, chúng tôi biết rằng Thiên Chúa đã chọn anh em, vì khi chúng tôi loan báo Tin Mừng cho anh em, không phải chỉ có lời chúng tôi nói, mà còn có quyền năng, có Thánh Thần, và một niềm xác tín sâu xa. Anh em biết, khi ở với anh em, chúng tôi đã sống thế nào để mưu ích cho anh em” (1 Tx 1:4-5). Thánh Phaolô nói với giáo đoàn Thêxalônica nhưng cũng là nói với chính chúng ta – mỗi người, mỗi gia đình, mỗi hội đoàn, mỗi giáo xứ, mỗi giáo phận, mỗi tu viện, mỗi chủng viện,…
Nhà có gia phong, nước có quốc pháp. Quốc gia nào cũng có hiến pháp – nhưng hiến pháp phải hợp lòng dân, không thể tự ý ra luật “tùy hứng” rồi bắt người khác thực hiện. Luật có sau con người. Luật vị nhân sinh, luật vì con người. Luật giúp con người sống tốt hơn và giúp duy trì trật tự. Nên giữ luật nhưng đừng câu nệ luật, cứng ngắc theo “chữ đỏ”. Tương tự, tam nhân đồng hành tất hữu ngã sư yên. Trong ba người cùng đi cũng có một người là thầy, có khả năng hướng dẫn hai người kia, tức là có thể “làm luật”.
Trình thuật Mt 22:15-21 nói về việc sở hữu. Một hôm, những người Pharisêu đi bàn bạc với nhau, tìm cách làm cho Đức Giêsu phải lỡ lời mà mắc bẫy. Không chỉ vậy, họ còn cấu kết với phe Hêrôđê, ông vua nham hiểm và hèn nhát. Quả thật, họ sai các môn đệ của họ cùng đi với những người phe Hêrôđê đến nói với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật và cứ sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa. Thầy cũng chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta. Vậy xin Thầy cho biết ý kiến: có được phép nộp thuế cho Xêda hay không?” (Mt 22:16-17). Đó là những người “miệng nam-mô mà bụng một bồ dao găm”. Kinh khủng thật!
Tuy nhiên, vải thưa không thể che mắt thánh! Chúa Giêsu biết tỏng họ có ác ý, nên Ngài nói thẳng: “Tại sao các người lại thử tôi, hỡi những kẻ giả hình? Cho tôi xem đồng tiền nộp thuế!”. Họ thường xuyên bị Chúa Giêsu trách mắng thẳng mặt và nguyền rủa, thế mà họ vẫn cứ trơ trơ. Họ thản nhiên đưa cho Ngài một quan tiền. Ngài vừa chỉ đồng tiền vừa hỏi họ: “Hình và danh hiệu này là của ai đây?”. Họ đáp tỉnh queo: “Của Xêda”. Trơ trẽn thật đấy! Bấy giờ, Ngài bảo họ: “Thế thì của Xêda, trả về Xêda; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa” (Mt 22:21). Cái gì của ai thì trả cho người đó. Câu trả lời của Chúa độc đáo quá! Nghe vậy, họ ngạc nhiên lắm, nhưng đành lẳng lặng bỏ đi!
Cái gì của người khác, tức là không thuộc quyền sở hữu của mình, chớ có “mong muốn” hoặc rờ tới. Điều mà Thiên Chúa đã nghiêm cấm trong Thập Giới: “Chớ lấy của người” và “chớ tham của người” (Giới Răn thứ bảy và thứ mười). Thế nhưng có một số người có khái niệm lệch lạc thế này: “Cho không lấy, thấy không xin, kín thì rình, hở thì rinh”. Nguy hiểm quá! Cuộc sống có nhiều dạng sở hữu, nhưng cần phải biết phân biệt rạch ròi: Cái gì thuộc về trần tục, và cái gì thuộc về tâm linh. Đừng lầm lẫn để rồi râu ông nọ lại đem cắm cằm bà kia. Vâng lời quyền bính thế gian cũng là vâng lời Thiên Chúa, nếu khoản luật đó hợp với công bình và bác ái.
Thánh Phaolô nói về nhà chức trách: “Làm điều thiện thì không phải sợ nhà chức trách, có làm điều ác mới phải sợ. Bạn muốn khỏi phải sợ chính quyền ư? Hãy làm điều thiện, và bạn sẽ được họ khen ngợi, vì chính quyền là người thừa hành của Thiên Chúa để giúp bạn làm điều thiện. Nhưng nếu bạn làm điều ác thì hãy sợ, vì họ mang gươm không phải không có lý do. Thật vậy, họ là người thừa hành của Thiên Chúa để giáng cơn thịnh nộ của Người xuống kẻ làm điều ác. Vì lẽ đó, cần thiết phải phục tùng, không những vì sợ bị phạt, mà còn vì lương tâm” (Rm 13:3-5). Ở đây là “lương tâm ngay lành”. Cũng nên lưu ý loại “lương tâm chai cứng”, lệch lạc, không đủ mức phân biệt phải hoặc trái. Loại lương tâm này rất nguy hiểm, vì mất cảm thức tội lỗi. Những người thuộc tổ chức IS (Islamic State – Nhà nước Hồi giáo) giết người dã man vì họ cho đó là “điều chính nghĩa” (sic!). Thậm chí họ còn hành hạ cả các trẻ em vô tội. Mới đây, có khoảng 70.000 trẻ em bị hành hạ dã man. Niềm tin tôn giáo của họ lệch lạc nên họ bất nhân quá!
Thánh Phaolô đã dặn dò đệ tử Titô: “Anh hãy nhắc nhở cho ai nấy phải phục tùng và tuân lệnh các nhà chức trách, các người cầm quyền, phải sẵn sàng làm mọi việc tốt, và đừng chửi bới ai, đừng hiếu chiến, nhưng phải hiền hoà, luôn luôn tỏ lòng nhân từ với mọi người” (Tt 3:1-2). Những mệnh lệnh cách rất mạnh mẽ, dù theo thể phủ định hoặc xác định!
Tất cả là phù vân. Mọi thứ sẽ qua đi. Ngay cả những gì sở hữu cũng không thuộc về chúng ta mãi mãi, kể cả sự sống: “Chúa lấy sinh khí lại, là chúng tắt thở ngay, mà trở về cát bụi” (Tv 104:29). Những gì chúng ta sở hữu và thuộc về chúng ta là nhân đức. Loại “vật sở hữu” này rất quan trọng, gọi là “công trạng”, vì đó sẽ là chứng cớ hùng hồn bênh vực cho chính chúng ta, chỉ nhờ đó mà chúng ta được trở thành Công Dân Nước Trời – dĩ nhiên trước tiên phải nhờ công cuộc cứu độ của Đức Giêsu Kitô. Có Chúa là có tất cả, Thánh Tiến sĩ Thomas Aquinas rất khôn ngoan khi cầu xin: “Con chỉ muốn Chúa thôi!”. Đó là điều duy nhất mà mỗi chúng ta phải nỗ lực để khả dĩ “sở hữu” mãi mãi!
Hôm nay là ngày Khánh nhật Truyền giáo, ngày cổ vũ ơn thiên triệu linh mục và dâng hiến, nói đơn giản là “ơn gọi đi tu”. Ngày Thế giới Truyền Giáo được Đức Piô XI khai sinh từ năm 1926, và theo truyền thống thường rơi vào Chúa Nhật áp chót của tháng 10, năm nay là ngày 19-10-2014. Hôm nay cũng là ngày tuyên Chân phước cho ĐGH Phaolô VI (triều đại giáo hoàng từ 21-6-1963 tới 6-8-1978), người được mệnh danh là “Giáo hoàng Trầm tư”.
Trong sứ điệp Khánh nhật Truyền giáo năm nay, ĐGH Phanxicô chia sẻ: “Nhân Ngày Thế Giới Truyền Giáo này, tôi nghĩ đến các Giáo hội địa phương. Đừng bao giờ để mình mất đi niềm vui của việc loan báo Tin mừng! Tôi mời gọi anh chị em hãy chìm mình trong niềm vui của Tin Mừng và nuôi dưỡng một tình yêu có thể thắp sáng lên niềm ơn gọi và sứ mạng của anh chị em. Tôi thúc bách mỗi người trong anh chị em nhớ lại, như thể anh chị em đang thực hiện một cuộc hành hương nội tâm, ‘mối tình đầu’, mối tình mà Đức Chúa Giêsu Kitô đã sưởi ấm con tim anh chị em, không phải để nhớ nhung, nhưng là để luôn ở lại trong niềm vui. Các môn đệ của Chúa đã luôn ở lại trong niềm vui khi họ ở với Ngài, thực thi ý Ngài và chia sẻ với người khác đức tin, niềm hy vọng và đức ái tin mừng”. Và ngài nhắc nhở thêm: “Hãy hướng về Mẹ Maria, mẫu gương loan báo tin mừng khiêm nhường và với trọn niềm vui, chúng ta hãy dâng lên lời cầu nguyện của chúng ta để Giáo hội có thể trở nên mái nhà cho tất cả mọi người, một người mẹ cho tất cả mọi dân tộc và có thể sinh ra một thế giới mới”.
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết nhận thức đúng đắn về niềm tin và quyền sở hữu của chúng con. “Ngày là của Chúa, đêm cũng là của Chúa” (Tv 74:16), “trời là của Chúa, đất cũng là của Chúa” (Tv 89:12), chúng con chẳng có gì, xin triệt tiêu tính kiêu ngạo trong chúng con và đổ vào trái tim chúng con đầy “máu yêu thương” để chúng con NÊN MỘT (Ga 17:20-23) theo Tôn Ý Con yêu Dấu của Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
Cái gì là của Thiên Chúa và cái gì là của Cêsarê?
Đây không chỉ là vấn đề của những người Pharisêu, nhưng còn là vấn đề của các tông đồ, của chúng ta, và của con người qua mọi thời đại. Chúa Giêsu đã không tránh né vấn đề bằng cách bỏ mặc cho con người với cách giải quyết riêng của mình. Trái lại, Ngài đã hiến thân để chứng minh cho cách thức giải quyết của Ngài. Ngài đã ban cho con người luật lệ chung, và con người có bổn phận phải áp dụng luật chung đó vào trong những trường hợp cụ thể. Khi được hỏi ý kiến về điều răn nào quan trọng nhất, Chúa Giêsu đã ban hành nguyên tắc chung là: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn lớn nhất và điều răn đứng đầu. Còn điều răn thứ hai, cũng giống như điều răn ấy, là: ngươi phải yêu mến người thân cận như chính mình”,
Trong suốt cuộc đời rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu đã tận tình cắt nghĩa luật lệ này trong mọi lúc, mọi nơi và mọi hoàn cảnh. Hai điều luật vĩ đại này không thể phân chia ra làm hai. Chúng ta không thể chu toàn luật thứ nhất nếu không thi hành luật thứ hai. Yêu mến Thiên Chúa mà không yêu thương người lân cận là một sự mâu thuẫn. Trong thư gửi tín hữu, thánh Gioan đã viết: “Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy… ai yêu mến Thiên Chúa, cũng phải yêu mến anh em mình”.
Tất cả mọi người đã được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa, và có quyền được yêu thương và kính trọng theo đúng phẩm giá của con người. Chính quyền không có quyền ban cho hay lấy đi quyền này của mỗi người, nhưng có bổn phận che chở và bảo vệ nó. Khi chính quyền chu toàn bổn phận này, chính quyền đã giúp cho người dân thi hành cả hai bổn phận trung thành với Thiên Chúa và với tổ quốc. Nhưng khi chính quyền theo đuổi một chính sách phủ nhận và chà đạp quyền căn bản của con người, người dân không thể chu toàn cả hai bổn phận được, khi đó lương tâm sẽ lên tiếng trả lời.
Sách Giáo lý Công giáo số 2242 đã nói: “Người công dân có nghĩa vụ, theo lương tâm, không tuân theo những luật lệ của chính quyền dân sự, khi các luật lệ này nghịch với những đòi hỏi của trật tự luân lý, nghịch với những quyền căn bản của con người hoặc với những lời dạy của Phúc âm. Sự từ chối vâng phục các uy quyền dân sự khi họ đòi hỏi những điều nghịch với lương tâm ngay chính, được biện minh bởi sự phân biệt giữa việc phục vụ Thiên Chúa và việc phục vụ cộng đồng chính trị. “Trả về Cêsarê cái gì của Cêsarê, và trả về Thiên Chúa cái gì của Thiên Chúa”. “Phải vâng phục Thiên Chúa hơn là vâng phục người ta”.
Vua Henri nước Anh, đã có vợ rồi, nhưng muốn cưới thêm vợ thứ hai. Vua ra lệnh cho các quần thần phải ký vào bản tuyên ngôn công nhận việc làm của vua là đúng. Thomas More, quan chưởng ấn không ký, vì ông không thể làm trái với tiếng nói của lương tâm mình. Ông đã bị hành quyết và trở thành một vị thánh.
Dietrich Bonhoeffer đã dám đi ngược lại đường lối của nhiều nhà thờ ở Đức để lên tiếng chống lại sự cai trị tàn bạo của Adolf Hitler trong thời gian quyền lực của Hitler đang lên tới tột đỉnh ở Đức. Bonhoeffer đã bị hành quyết vì tiếng nói chân chính của mình, và sau này những lời cảnh cáo của ông mới thành sự thực.
Mẹ Têrêsa Calcutta đã nói, “Chúng ta không được kêu gọi để thành công, nhưng chúng ta được kêu gọi để trung thành”. Trung thành với Thiên Chúa là quyền ưu tiên tối thượng trên tất cả mọi sự.
Một tờ báo cổ vũ về giá trị của đời sống gia đình đã kể câu chuyện về một người đàn ông lần đầu tiên đến thăm thủ đô Washington D.C… Ông rất cảm động trông thấy những nghị sĩ và dân biểu mà từ trước tới nay chỉ nghe nói mà thôi. Ông say mê nhìn ngắm những toà nhà của chính phủ và những cơ quan quan trọng của đất nước. Nhưng cái cảnh gây ấn tượng mạnh nhất là lá cờ tổ quốc bay phất phới trên đầu khi viếng thăm toà nhà quốc hội. Kết thúc một vòng tham quan thành phố thủ đô Washington, ông tự nghĩ: “Đây là nhà của chính phủ. Đây là nơi cư ngụ của quyền lực. Đây là nơi quan trọng nhất trên toàn thể đất nước Hoa Kỳ!”
Sau này, người đàn ông đó có dịp đến thăm một gia đình nông trại. Ông chăm chú nhìn thấy con cái của gia đình này sau khi đi học về, mỗi người tự động mau mắn làm những công việc nhà. Ngồi vào bàn ăn tối, ông hân hoan nhìn thấy những khuôn mặt vui tươi và lắng nghe những câu chuyện huyên náo sống động. Trước bữa ăn, ông cảm thấy ấm lòng khi người cha của gia đình đọc đoạn Thánh Kinh, rồi cha mẹ con cái cùng nắm tay nhau, cúi đầu tạ ơn lòng nhân lành của Thiên Chúa, và cầu nguyện cho Giáo Hội, cho bạn bè, cho tất cả mọi người đang lầm than. Họ cũng cầu nguyện cho tổ quốc, cho tổng thống và tất cả mọi người đang cầm quyền. Sau này, khi ra về, ông bắt đầu suy nghĩ về điều vừa nhìn thấy ở nông trại đơn sơ. Thình lình ông nhận ra mình đã sai lầm khi nghĩ rằng thủ đô Washington là nơi quan trọng nhất ở Hoa Kỳ. Ông ý thức rằng quyền lực thực sự của một quốc gia không phải nằm ở cơ cấu tổ chức của chính quyền. Quyền lực thực sự của một quốc gia được tìm thấy trong những mái gia đình đang tự do: “trả về Cêsarê cái gì của Cêsarê, và trả về Thiên Chúa cái gì của Thiên Chúa”.
Anh chị em thân mến.
Trong trận chiến nam bắc của Mỹ, có một người lính dũng cảm dưới thời của tướng Abraham Lincoln. Sau khi thống nhất đất nước, anh lính trẻ được đưa về phục vụ kề cận bên tổng thống. Hằng ngày anh ta đến văn phòng làm việc với bộ quần áo chỉnh tề, làm việc theo giờ giấc hẳn hoi, giữ mọi nghi lễ phép tắc của nơi làm việc. Đồng thời phải hoàn thành công việc theo mọi người đòi hỏi. Anh làm việc được mọi người thương yêu và kính trọng, vì sự nhiệt tình đồng thời còn là người của tổng thống. Nhưng anh ta cứ khó chịu vì công việc cứ lập đi lập lại hằng ngày. Với sức lực của một người trẻ, anh ta thấy công việc văn phòng dường như không thích hợp và có vẻ như vô ích cho anh. Một hôm anh gặp tổng thống và nói: “Xin hãy trao cho tôi một công việc như thế nào cũng được, khó khăn như thế nào tôi cũng không sợ, tôi sẵn sàng chết cho tổ quốc, chứ đừng dể tôi làm công việc nhàm chán này”. Vị tổng thống bèn vỗ vai thân mật và nói với anh ta: “Anh muốn chết cho tổ quốc, chứ anh không muốn sống để phục vụ tổ quốc sao?”
Sau đó vị tổng thống bỏ đi, anh lính trẻ chắc cũng hiểu ra lời nói với anh, anh lo sống cho xứng đáng với trách nhiệm hiện tại để sống phục vụ cho tổ quốc.
Những người biệt phái và những người thuộc phái Hêrôđê họ họp nhau bàn tính để hại Chúa Giêsu. Họ là những người Do Thái đạo đức, họ đang trông chờ Đấng cứu thế. Vậy mà Đấng cứu thế ở bên họ, họ không chấp nhận, họ muốn loại trừ vì họ chỉ muốn sống theo như những gì mình muốn. Họ muốn sống đạo đức theo cách của họ, chứ không phải đạo đức như Thiên Chúa muốn. Họ đến bên Chúa Giêsu để hỏi về cách sống hiện tại, nhưng họ cũng không thuộc về hiện tại. Họ không chấp nhận được cái hiện tại mình đang sống, họ không chấp nhận được hoàn cảnh sống, họ không muốn thi hành những gì hoàn cảnh đòi buộc họ. Những người đó họ chỉ muốn thực hiện những gì theo ý riêng mình, họ không cần biết những gì họ muốn có hợp lý hay không.
Chúa Giêsu cho họ bài học về cuộc sống: “Của César hãy trả cho César, của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa”. Ngài muốn nói với họ: họ đang dùng những gì mà trần thế ban cho họ, thì hãy chu toàn trách nhiệm mà trần thế đòi hỏi nơi họ, không được trốn tránh. Còn những gì của Thiên Chúa mà con người nhận biết được, thì cũng phải đền đáp cho xứng đáng với những gì họ nhận được từ Thiên Chúa. Nhưng họ cũng không chu toàn được.
Những người xưa là như thế. Còn những người của ngày hôm nay, mỗi người trong chúng ta; Thiên Chúa cũng cho mỗi người một địa vị, một hoàn cảnh sống, Thiên Chúa muốn mỗi người sống tốt trong hoàn cảnh địa vị của mình. Chúng ta nhìn lại xem: chúng đang là những người biệt phái, chúng ta đang tự hào mình là người đạo đức, nên tự cho mình cái quyền chê bai, chỉ trích người khác. Trân tráo hơn nữa, chúng ta còn cho mình một quyền hạn lớn lao hơn là bắt mọi người phải thi hành theo những gì mình gọi là đạo đức. Nếu người khác không chấp nhận thì làm đủ mọi cách để loại trừ và chê họ là quân vô đạo. Nhưng có khi nào chúng ta chịu nhìn lạixem, những gì mình nghĩ, mình muốn, đó có phải là những gì Thiên Chúa muốn không. Hay chúng ta chỉ đòi hỏi những gì không phải của hiện tại, không bằng lòng với những gì đang có; như vậy chúng ta giống như anh lính trẻ của vị tổng thống hoa kỳ: muốn chết cho tổ quốc, chứ không muốn sống để phục vụ tổ quốc.
Nếu chúng ta nhìn thấy được trách nhiệm của mình trong hiện tại, nhìn thấy được những gì mình cần phải làm, nhìn thấy được công việc mình phải chu toàn với tất cả trách nhiệm, để rồi bắt tay vào việc và hành động với tất cả trách nhiệm cần phải có. Khi đó chúng ta hoàn thành trách nhiệm những gì Thiên Chúa muốn nơi chúng ta. Khi đó chúng ta đang trả cho Thiên Chúa những gì là của Ngài. Nếu chúng ta nhận ra được những người chung quanh mình đang cần gì và không ngần ngại đáp ứng nhu cầu của họ, vì nhận ra Thiên Chúa nơi họ. Khi đó thật hạnh phúc cho chúng ta, vì lời của Chúa Giêsu: “của César hãy trả cho César, của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa” đang được thực hiện một cách trọn hảo nơi chúng ta.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa ban ơn soi sáng và sức mạnh cho mỗi người, biết nhận ra trách nhiệm của mình đối với Chúa và với mọi người để biết thi hành cho tốt đẹp.
Nghi thức hôn phối được bắt đầu khi nghe tiếng đàn vọng lên. Họ hàng bên đàng gái hồi hộp đợi chờ tiếng đàn vang lên. Nhưng đợi mãi vẫn không thấy, nên người giúp lễ đã ra hiệu cho người đánh đàn bằng cách búng tay. Những vẫn không thấy động tĩnh gì. Người giúp lễ liền vỗ tay để ra hiệu, cũng không ăn thua. Vì mọi người đang chờ, cho nên người giúp lễ hoảng hốt vội vàng kêu tên của người đánh đàn to tiếng: “Quì… Quì.” mọi người trong nhà thờ liền quì xuống.
“Kurios Christos!” (Chúa Kitô là Chúa) là bản tuyên xưng đức tin của nhóm người La Mã sống vào thế kỷ đầu tiên công nguyên. Họ là những người được gọi là Kitô giáo. Vào thời kỳ này vua là chúa mọi người vì thế mọi người phải quì bái trước bàn thờ của vua Caesar. Mỗi năm họ buộc phải kêu tên nhà vua, “Kurios Caesar,” nghĩa là “Caesar là chúa tể.” Khi nhóm người Kitô giáo hồi đó đọc bản tuyên xưng của họ thì cũng có nghĩa là “Quốc gia-Caesar-không phải là chúa!”
Họ đã minh chứng những gì đã được tuyên xưng trên núi Sinai: “Chúng tôi sẽ không có chúa nào khác ngoài Thiên Chúa”. Họ cũng xác định sự trung thành đối với Chúa cao hơn đối với quốc gia. Chính vì thế, nhiều người đã bị quẳng cho sư tử ăn thịt. Tuy nhiên, lòng cương quyết của họ vẫn không ngừng cho dù phải chết cách nào đi nữa họ vẫn thưa, “Không!” vì họ nghĩ, “quốc gia này phải luôn luôn dưới quyền của Chúa, và quốc gia này sẽ bị Chúa phán xét.”
Một thương gia vào khoảng 45 tuổi được vợ đón tại phi trường sau khi thi hành công tác. Khi cô chiêu đãi viên xinh đẹp đi ngang qua hai người, người chồng liền nói với cô ấy: “Tôi hy vọng sẽ được bay với cô trong chuyến bay khác. Cô Lan.” Người vợ nghe thấy vậy, nóng mặt hỏi chồng: “Làm sao anh biết được tên cô ta?” Ông chồng đáp: “Tên cô ta được ghi trong danh sách của chuyến bay, anh còn biết tên cô ta ở dưới tên của người phi công nữa.” Người vợ hỏi tiếp: “Vậy tên của người lái máy bay tên gì. Anh có thể cho em biết được không?” Ông ta thua trận và sự giả dối của anh ta đã bị lộ.
Chúa Giêsu chỉ trích mạnh mẽ về sự giả hình. Ngài lên án những hạng người chỉ bày tỏ vẻ bề ngoài khi họ ăn chay và cầu nguyện: “Giả hình, vì họ làm như vậy để được khen ngợi và được mọi người biết đến.” Ngài lên án những người làm đầu trong đền thờ vì họ chỉ ca tụng Chúa trên môi miệng, nhưng lòng họ thì trống rỗng.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, nhóm Pharisiêu cố gắng dụ Chúa Giêsu vào cạm bẫy của họ bằng cách làm cho Ngài lỗi luật quốc gia. Họ hỏi Chúa có nên nộp thuế cho Caesar hay không. Họ nghĩ Chúa Giêsu sẽ chống lại việc nộp thuế cho chính phủ La Mã, như vậy có lợi cho nhóm người tư tế, và Ngài sẽ bị bắt vì chống lại nhà nước. Và nếu Chúa Giêsu làm ngược lại thì làm phật lòng nhóm tư tế. Họ gài Chúa Giêsu vào thế tiến thoái lưỡng nan. Nhưng Chúa Giêsu trả lời họ cách khôn ngoan, tránh né không đi vào phe nào. Ngài cắt nghĩa cho họ biết những gì của Caesar thì trả cho Caesar, còn những gì của Thiên Chúa thì trả cho Thiên Chúa. Ngài nhìn thấu sự giả hình của bọn họ, Ngài không muốn bước vào cạm bẫy của bọn chúng.
Nhưng những gì của Caesar? Những gì của Thiên Chúa? Đó không phải là những câu hỏi khó trả lời chỉ riêng đối với nhóm Biệt Phái, nhưng cũng là những câu hỏi khó giải quyết đối với các Tông đồ. Và ngay trong thời đại này cũng là một vấn nạn trong tôn giáo. Chính phủ thay đổi, hình thức cũng thay đổi, quốc gia, kinh tế, văn hóa và xã hội luôn được thay đổi nhưng vấn nạn thì không bao giờ thay đổi.
Những gì là của Chúa? Những gì là của Caesar? Chúa Giêsu để cho chúng ta tự giải quyết lấy chính mình. Hơn thế nữa, Ngài đã dùng chính mạng sống mình để giải quyết vấn nạn đó. Ngài ban cho chúng ta lề luật thông thường nhất, nhưng chúng ta đã làm cho nó trở nên phức tạp khi thi hành. Luật đó được đặt ra khi người ta hỏi Ngài về giới luật nào trọng nhất. Ngài trả lời: “Ngươi phải yêu Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng hết sức và hết linh hồn ngươi.” đó là điều răn thứ nhất và trọng nhất. Còn điều răn thứ hai: “Ngươi phải thương yêu kẻ khác như chính mình ngươi” (Mt 22:38).
Chúa Giêsu đã đề cao giới luật này trong suốt cuộc sống công khai của Ngài trong mọi nơi, mọi lúc và trong mọi hoàn cảnh. Ngài tuyên bố hai giới luật này không bao giờ tách rời được. Chúng ta không thể chu toàn giới luật thứ nhất nếu không hoàn tất giới luật thứ hai. Nói yêu Chúa nhưng không thương yêu tha nhân thì hoàn toàn trái nghịch. Thánh Gioan nói,” Nếu ai nói tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối, vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy thì họ không thể yêu mến Thiên Chúa, Đấng mà họ không trông thấy. Đây là giới luật mà chúng ta đã nhận được từ Người: ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình (1 Jn 4:20,21).
Nếu như vậy khi nào chúng có thể vừa thi hành luật Chúa và đồng thời thi hành luật quốc gia? Thiên Chúa ban cho chúng ta phẩm tính con người khi tác tạo nên chúng ta. Mỗi cá nhân được hưởng quyền đó. Mọi người đòi buộc phải trọng kính nhân phẩm này. Khi luật quốc gia vi phạm đến nhân phẩm con người như: phá thai, kỳ thị, nô lệ vân vân… chúng ta không tuân theo cũng không lỗi luật quốc gia, vì chúng ta phải vâng lời Thiên Chúa hơn luật con người.
Chúng ta hãy trao lại Chúa những gì thuộc về Ngài. Chúng ta phải vâng phục Thiên Chúa. Chúng ta phải bỏ đi những gì làm chúng ta xa lìa Chúa.
Việc xảy ra trong một hầu quốc gần bờ sông Rhin nước Pháp. Vua của lãnh thổ này vừa qua đời. Sau một thời gian đất nước loạn lạc và chinh chiến, dân chúng chán cảnh chiến tranh và đòi một người kế vị yêu chuộng hòa bình. Nhưng các quan trong triều có trách nhiệm chọn người kế vị lại bối rối, khó xử, vì vị vua mới qua đời có để lại hai đứa bé còn nằm trong nôi, và đứa nào cũng dễ thương hết. Làm thế nào biết được em nào sẽ là con người yêu chuộng hoà bình?
Lúc đó, một vị quan có trách nhiệm lựa chọn đưa ra ý kiến là hãy quan sát kỹ hai em đang nằm ngủ trong nôi như hai thên thần, ông thấy em bé thứ nhất ngủ mà tay mở ra trong khi đứa thứ hai nắm chặt tay lại. Không do dự, ông chọn ngay đứa thứ nhất, và sử đã ghi lại rằng đó là vị hoàng tử đầy từ tâm và nhân ái dịu hiền.
Đây là hình ảnh kỳ diệu của Chúa Giêsu dịu hiền và tốt lành, là vua và là trung tâm của mỗi tâm hồn. Ngài xuống thế, lúc ở trong máng cỏ cũng như khi ở trên cây thập giá, Ngài đưa tay ra trong dáng điệu đón nhận.
Mỗi người trong chúng ta đã được Chúa dựng nên giống hình ảnh Ngài có lý trí, có trí khôn để hiểu biết và có tâm tình để yêu mến. Cái hình ảnh ấy, con người mang trong mình tự khi được thụ thai trong lòng mẹ, con người có những đức tính giống Thiên Chúa, hay đúng hơn, có những khả năng để trở nên giống Thiên Chúa. Nếu mỗi ngày biết trau dồi phát triển thêm, thì con người càng trở nên gống Chúa hơn, và người đời sẽ nhận ra giống hình ảnh Chúa nơi chúng ta, như cử chỉ em bé trong câu chuyện nói lên đời sống em.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đặt câu hỏi: hình này là hình ảnh của ai đây? Câu ấy có thể là câu một Chúa muốn đặt ra cho chúng ta chăng? Ngoài những đức tinh, những khả năng tự nhiên của bản tính loài người, linh hồn thiêng liêng, lý trí và ý chí, những cái ta nhận được khi thụ thai, những cái làm ta nên giống Thiên Chúa một phần nào, Chúa còn in vào trong tâm hồn chúng ta, trao cho chúng ta nhiều hình ảnh khác nữa.
Lúc chịu phép rửa tội, Chúa đã in vào trong tâm hồn chúng ta một hình ảnh con Chúa, hình ảnh Chúa Kitô, một hình ảnh thật tốt, không thể tẩy xóa đi được, nhưng chưa được rõ lắm. Không những chúng ta có bổn phận tô điểm bức ảnh ấy cho thêm rõ ràng, cho thêm tươi đẹp… nghĩa là chúng ta phải làm thế nào để người khác trông vào nơi chúng ta là hình ảnh của Chúa, họ phải cảm thấy sự đáng mến đáng quí trọng của Ngài, nếu không, chúng ta chỉ là bức hí họa của Chúa.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu còn bảo nhóm biệt phái Do thái: “Cái gì của Xêda và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa”. Câu trả lời này của Chúa bao hàm nhiệm vụ trần thế và thiêng liêng của chúng ta. Thánh Phaolô đã dạy: “Những gì ta nợ ai, thì phải trả cho người ấy. Hãy nộp thuế cho kẻ có quyền thu thuế hay trả công cho kẻ có quyền lấy công, hãy sợ kẻ đang sợ, hãy kính kẻ đáng kính” (Roma 13,7). Những cái đó là những món nợ vật chất và tinh thần. Chúng ta phải thanh toán tất cả những món nợ ấy với những ai có quyền đói hỏi ở nơi ta.
Nhưng không phải chúng ta chỉ nợ nhau, nợ loài người mà thôi mà còn nợ cả Thiên Chúa nữa. Thi hành việc bác ái cho tha nhân chính là trả nợ cho Thiên Chúa. Chính Chúa Giêsu đã nói: “Những gì làm cho họ “là” làm cho chính Ngài”. (Mt 25,40)
Mong rằng: chúng ta sẽ mang lại cho Chúa hình ảnh mà Ngài đã trao cho chúng ta khi được thụ thai cũng như khi chúng ta chịu phép rửa tội. Và không những chỉ một hình ảnh y nguyên như lúc chúng ta nhận được nơi tay Chúa mà còn phải là một hình ảnh tươi đẹp gấp bội nữa, bởi vì chúng ta cần phải tô điểm thêm nữa.
Xin Chúa chúc lành cho các bạn.
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển)
Trong thế chiến thứ hai, người ta kể một câu chuyện như sau:
Franz JaŠggerstatter sinh ra tại nước Áo. Anh được giáo dục theo tinh thần Kitô giáo. Trong cuộc sống, anh không có gì nổi trội, trình độ học vấn nơi anh chỉ là sơ cấp. Cuộc sống của anh trôi đi cách bình thường, nhưng thanh thản với nghề làm thuê theo hợp đồng. Sau đó anh lấy vợ và có với nhau 3 mặt con.
Tuy nhiên, điều đáng nói ở đây chính là sự trưởng thành trong cuộc sống thường nhật cũng như đời sống đức tin nơi anh.
Sự trưởng thành này đã đem lại cho anh một lập trường kiên định về việc trung thành với Luật Chúa được ghi khắc trong Lương Tâm.
Đang sống trong cảnh thanh bình thì thế chiến thứ hai ập đến. Anh cũng như nhiều thanh niên khác buộc phải đi lính cho đội quân Hitler. Tuy nhiên, Franz đã từ chối và trả lời những người thắc mắc rằng: “Cuộc chiến này không phải là cuộc chiến vì chính nghĩa. Nên, thật là sai lầm nếu tôi gia nhập quân đội. Điều này trái với Lương Tâm tôi!”; anh nói tiếp: “Tôi yêu dân tộc, và tôi yêu quê hương tôi. Nhưng có một luật lệ cao cả hơn, đó là Luật của Thiên Chúa. Và Luật của Thiên Chúa nói trong Lương Tâm tôi: cuộc chiến này phi nghĩa!”.
Kết cục, anh bị bắt và cầm tù. Mọi người khuyên ngăn, kể cả vợ anh, họ nài nỉ anh xem xét lại… Nhưng không thể thay đổi được tư tưởng của anh, cuối cùng anh đã bị chém đầu vào ngày 9.8.1943.
Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy cả cuộc đời của Franz là một cuộc chọn lựa giữa chính nghĩa và bất nhân. Giữa cái tạm bợ và vĩnh viễn. Giữa hạnh phúc và đau khổ… Franz đã đi theo đúng đường lối của Thiên Chúa là: “Cái gì của César thì hãy trả cho César, và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa”.
- Ý đồ của nhóm Pharisiêu và Hêrôđê với Đức Giêsu
Hôm nay, bài Tin Mừng trình thuật việc Đức Giêsu bị hai nhóm Hêrôđê và Pharisiêu chất vấn Ngài về việc nộp thuế.
Kỳ thực thì hai nhóm này vốn từ lâu đã không đội trời chung, bởi vì nhóm Hêrôđê thì phò cho chính quyền Rôma, còn phe Pharisiêu thì trung thành với dân tộc và chống lại việc đô hộ trên đất nước họ. Tuy nhiên, ngàn năm một thủa, hôm nay cả hai nhóm, họ đều có chung một mục đích là trả thù Đức Giêsu.
Tại sao thế? Chuyện rất đơn giản là: Đức Giêsu được dân chúng mến phục vì những việc tốt lành, những bài giảng hấp dẫn, nhất là Ngài đã đứng lên tố cáo sự giả hình của nhóm Pharisiêu để bênh vực cho người nghèo, người thấp cổ bé họng không có tiếng nói… Vì thế, nhóm Pharisêu sợ mất uy tín với dân chúng. Họ không ngần ngại tận dụng mọi cơ hội để để thực hiện cho kỳ được mục tiêu của họ là loại bỏ Đức Giêsu ra khỏi xã hội bằng cái chết. Còn nhóm Hêrôđê thì sợ tầm ảnh hưởng của Đức Giêsu trên dân và vì thế, có nguy cơ bị lật đổ chế độ đô hộ của đế quốc Rôma.
Để thực hiện được hành vi này, họ đã cấu kết với nhau để chung tay gài bẫy Đức Giêsu.
Điều mà họ đưa ra để nhờ Đức Giêsu giải quyết, chính là: “Có được phép nộp thuế cho vua César chăng?” Đây là một câu hỏi hóc búa, một tình huống đầy cam go, chẳng khác gì chuyện người phụ nữ ngoại tình bị bắt quả tang và họ nhờ Đức Giêsu phân xử. Họ đã dùng chiêu thức: “Nhất tiễn diệt song điêu” (một mũi tên, bắn hai đích). Đây là cái bẫy thâm độc. Nếu Chúa trả lời “có” thì nhóm Pharisiêu kết án Ngài phản quốc; còn nếu Người nói “không” thì phe Hêrôđê tố cáo Ngài phản động, chống tại chính quyền Rôma. Câu trả lời nào thì cũng đều sụp bẫy của chúng. Tuy nhiên, Đức Giêsu đã trả lời cách khôn ngoan, khiến họ không thể tìm cớ tố cáo Ngài được. Ngài nói: “Cái gì của César thì hãy trả cho César, và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa”.
Với câu trả lời trên, Đức Giêsu thoát ra khỏi cái bẫy họ đã giăng sẵn, và không những thế, Ngài còn dạy cho họ một bài học quan trọng, đó là: cần ý thức để biện phân đâu là những cái thuộc về Thiên Chúa và đâu là thuộc về con người. Bổn phận của con người phải có đối với Thiên Chúa là gì?
- Sứ điệp Lời Chúa
Khi nói “Cái gì của César thì hãy trả cho César, và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa”. Đức Giêsu muốn nói đến sự lựa chọn của chúng ta. Sự phân định để lựa chọn cho đúng được đặt nền trên chính Lương Tâm nơi mỗi người.
Lương Tâm chính là hoạt động của Chúa Thánh Thần. Nhờ Lương Tâm, chúng ta biết được điều thiện và điều bất toàn. Lương Tâm được ví như cái bánh lái của con tàu giữa biển khơi. Nếu không có bánh lái, con tàu sẽ không biết sẽ đi về đâu! Lương Tâm cũng giống như chiếc la bàn mà người thám hiểm đi trong rừng cần có để xác định hướng đi cho đúng. Nói cách khác, nhờ Lương Tâm chúng ta biết được điều gì nên làm và điều gì không nên. Vì thế, trong mọi tình huống, người Công Giáo phải ưu tiên cho Lương Tâm lên tiếng và làm theo.
Vì vậy, chúng ta phải tôn trọng điều đúng phù hợp với luân lý Kitô Giáo và nội dung Tin Mừng. Tránh những điều nghịch với Lương Tâm và trái với đạo lý của Đức Giêsu và giáo huấn của Giáo Hội. Phải can đảm, nhất quyết không thể phó thác cuộc đời, công việc và mục đích cuối cùng của chúng ta cho César, nhất là Lương Tâm. Noi gương các thánh Tử Đạo, là những người đã nhất quyết trung thành với Thiên Chúa khi phải lựa chọn giữa sự sống và sự chết vì không luật lệ nào được chống lại Luật của Thiên Chúa!
- Thực hành sứ điệp Lời Chúa
Ngày nay, giữa tôn giáo và chính trị, chúng ta được mời gọi vừa tuân thủ những lợi ích quốc gia khi điều được ban bố đúng với Lương Tâm. Mặt khác, chúng ta phải có nghĩa vụ trung tín với Thiên Chúa qua Luật của Ngài được nghi khắc trong Lương Tâm.
Vì thế, cần có những nguyên tắc như sau:
– Luôn đồng hành với dân tộc để phục vụ hạnh phúc của đồng bào
Thứ nhất, là người Công Giáo, chúng ta được mời gọi sống tinh thần: “là người Công Giáo tốt thì cũng là người công dân tốt” (Đức Giáo Hoàng Biển Đức 16); Tuy nhiên, “lòng yêu nước của chúng ta phải thiết thực” (HĐGM VN).
Vì thế: “Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và những ai đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Kitô, và không có gì thực sự là của con người mà lại không gieo âm hưởng trong lòng họ” (Vat II. Gaudium Et Spes, số 1). Thật vậy, khi được Chúa Thánh Thần hướng dẫn qua Lương Tâm, chúng ta đều có sự liên kết mật thiết với cuộc sống, con người và xã hội hiện thời mà ta được mời gọi để sống cùng và sống với.
Trong thực tế, có nhiều sự khác biệt rõ rệt, nhưng luôn tâm niệm rằng: dù sống nơi đâu, làm bất cứ việc gì, chúng ta đều chung một mục đích là phục vụ hạnh phúc cho con người và thăng tiến quê hương. Nếu đi ngược lại, ấy là lúc chúng ta đang phản bội quê hương, đất nước.
– Chỉ buộc vâng phục quyền bính trần thế khi điều được ban hành là đúng
Thứ hai, khi sống trong xã hội trần thế, chúng ta được mời gọi chu toàn nghĩa vụ của mình là một công dân trong một đất nước. Vì thế, chúng ta phải chung tay, góp sức với mọi thành phần, nhằm xây dựng đất nước ngày càng tốt đẹp, trong sáng và lành mạnh hơn. Đã là công dân, mỗi người đều có bổn phận đóng thuế, tuân thủ những định luật đúng do một thể chế hợp pháp ban hành. Nhưng những điều lệ, luật định đó phải phù hợp với lẽ phải.
Vì thế, chúng ta luôn ủng hộ đường lối, chính sánh đúng. Tuy nhiên, tùy vai trò, hoàn cảnh thực tế, hẳn chúng ta sẽ không chấp nhận chính sách trái với luân lý Công Giáo! Bởi lẽ, điều này nghịch với Lương Tâm chân chính của một con người.
– Phải ưu tiên cách tuyệt đối cho Lề Luật của Thiên Chúa
Cuối cùng, người Kitô hữu có mục đích tối hậu là chính Thiên Chúa và sự sống đời đời mai hậu. Vì vậy, luật lệ mang tính tuyệt đối mà người Công Giáo phải thượng tôn và thi hành cách trung thành, đó chính là Luật của Thiên Chúa.
Là người Công Giáo, nhưng sống trong một xã hội dân sự, chúng ta được Thiên Chúa mặc khải và định hướng bởi Lương Tâm nhằm biết làm lành, lánh dữ, nên trong mọi lựa chọn, phải lựa chọn Thiên Chúa và những căn tính thuộc về Ngài. Mặt khác, lựa chọn người nghèo; thấp cổ bé họng; những người không có tiếng nói phải là ưu tiên của chúng ta khi được chi phối bởi Luật Thiên Chúa. Khi lựa chọn như thế, hành động của chúng ta là phải yêu thương và nâng đỡ họ, nhằm giúp cho con người, xã hội và cuộc sống được công bằng, dân chủ, văn minh.
Xác định được như thế, chúng ta sẽ hiểu hơn về câu nói của Đức Giêsu: “Cái gì của César thì hãy trả cho César, và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa”.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban Chúa Thánh Thần xuống trên chúng con, để chúng con biết việc chúng con phải làm, ngõ hầu chúng con được bình an, hạnh phúc ngay trong xã hội trần thế. Xin cho chúng con biết lựa chọn những điều ưu tiên, tuyệt đối cho sự sống đời đời. Amen.
54. Cái gì của Cêsarê thì trả cho Cêsarê….
(Suy niệm của Paul-Maurice Lâm Thái Sơn)
Đọc bài Phúc âm hôm nay, chúng ta không khỏi ngạc nhiên khi thấy Chúa Giêsu, thay vì trả lời thẳng vào câu hỏi của đối phương đề cập đến pháp luật của hoàng đế La Mã và chuyện có nên nộp thuế cho Cêsarê hay không thì Ngài lại nói đến quyền hành của Thiên Chúa.
Thực tế mà nói, vấn đề nộp thuế là chuyện đương nhiên, không cần phải bàn. Vả lại câu hỏi được đặt ra cũng không đúng vào đâu, chẳng qua đối phương muốn bàn mưu để bắt bẻ và ám hại Chúa mà thôi. Cái gút mắc của vấn đề là: dân Do Thái thời bấy giờ đang bị đế quốc La Mã xâm chiếm và đô hộ, vì thế họ xem người La mã như dân vô đạo và thù nghịch, vậy thì nộp thuế cho hoàng đế Cêsarê (một kẻ ngạo mạn phách lối dám tự cho mình là thần thánh) là một hành vi nhục mạ điều luật Thiên Chúa (vì ngươi chỉ tôn thờ một Chúa duy nhất mà thôi). Cho nên: nếu bảo rằng phải nộp thuế, Chúa Giêsu sẽ bị họ tố cáo là kẻ phiến loạn. Trước câu hỏi đầy mưu mô của đám Hêrôđê và biệt phái. Chúa Giêsu lên tiếng: ” Hãy trả cho Cêsarê những gì Cêsarê, và trả cho Thiên Chúa những điều thuộc về Thiên Chúa”. Qua câu trả lời này, ta thấy Chúa phân biệt rõ quyền hạn của Cêsarê và quyền lực của Thiên Chúa.
Mối tranh chấp giữa thần quyền và thế quyền, giữa đạo và đời đã xảy ra từ thời của Chúa Giêsu cũng như từ muôn thuở. Một thí dụ điển hình trong lịch sử Pháp quốc: vào năm 1801, một ” hoà thân điều ước” (concordat) đã được ký kết giữa hoàng đế Nã Phá Luân đệ I và Đức Giáo Hoàng Piô VII; cho đến năm 1905 thì sự tách lìa hai quyền bính thiêng liêng và trần thế đã được tuyên bố dứt khoát.
Trở lại bài Phúc Âm, Chúa Giêsu khi rao giảng Tin Mừng, Ngài không muốn được coi như vị cứu tính chính trị theo ý của người Do Thái. Ngài không đến để nắm lấy chính quyền, đảm nhận trách nhiệm và chúc vụ như một vị hoàng đế Cêsarê hay như một vị vua Hêrôđê. Trong thực tại, Ngài phân biệt rõ thần quyền và thế quyền, tuy công nhận quyền hành chính trị như một điều tất nhiên, nhưng Ngài tự đặt mình vào mức độ khác. Nước Trời mà Ngài đang rao giảng và đang thể hiện nơi Ngài hoàn toàn khác biệt và không cạnh tranh với đế quốc của Cêsarê, vì Nước Trời là vương quốc trường tồn của Thiên Chúa dành cho tất cả, nơi đó không có áp chế, không phân chia kẻ đô hộ và người bị trị.
Thái độ của Chúa cho thấy rõ chính trị có giá trị riêng của nó. Các xã hội ngày nay cần phải có sự tổ chức theo phương diện chính trị, nhưng Thiên quốc không được lẫn lộn với bất cứ thể chế hoặc cơ cấu tổ chức trần thế nào, cho dù chế độ đó có hoàn mỹ chăng nữa.
Chính trị là nghệ thuật và khoa học bảo đãm đời sống con người một cách hài hòa trong một xã hội. Mục đích chủ yếu là: kiếm tìm ấm no hạnh phúc cho từng người, tôn trọng và bảo vệ an ninh trật tự cho mọi công dân v..v… Những mục tiêu này cần phải hoà hợp với các tôn chỉ của Nước trời nơi mà tình yêu và sự kính trọng Thiên Chúa được gắn liền với tha nhân. Nơi nào có liên hệ đến số mệnh của con người thì nơi đó có Thiên Chúa. Vì thế Giáo hội vẫn kêu gọi các tín hữu không nên khinh thường sứ mệnh và trách nhiệm của những nhà lãnh đạo quốc gia, đồng thời phải thi hành đúng bổn phận người công dân (nộp thuế, nghĩa vụ…) cũng như tích cực góp phần xây dựng xã hội cho tốt đẹp hơn.
Để đạt mục đích này, các xã hội trần gian sử dụng nhiều phương thế khác nhau, có những chính sách phức tạp và cơ cấu tổ chức đa diện đôi khi cũng tương phản nữa… Nhưng trong lãnh vực chính trị, Giáo hội luôn tôn trọng sự tự trị của quyền bính thế trần với mỗi cách thức riêng biệt của nó, và dĩ nhiên Thiên Chúa không tự biểu lộ dưới hình thức các đảng phái chính trị: thật là sai lầm khi gán ghép Thiên Chúa trong phe tả hoặc phe hữu. Tiếc rằng trên chính trường thế giới ngày nay, ta thấy có những chính thể dám khinh thường và chống chọi quyền bính của Thiên Chúa, hoặc ngược lại tuyên bố hữu thần nhưng ngang nhiên áp bức, bốc lột, chà đạp phẩm giá và tự do của con người. Và chúng ta đã thấy rõ nơi nào mà tất cả không được tôn trọng thì nơi đó con người cũng không được đề cao. Khi quyền lực của một quốc gia coi rẻ nhân phẩm thì đương nhiên công dân sẽ bị áp bức chà đạp. Một chính thể vô thần thì cũng vô nhân đạo một cách bi thảm.
Vì thế, những gì của Cêsarê thì hãy trả cho Cêsarê và những gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa. Chúng ta đều biết Cêsarê là hiện thân cho một đế quốc hùng lực và giàu mạnh của thời lịch sử đã qua, nhưng Cêsarê cũng còn là biểu tượng cho thế lực tiền bạc hay tham vọng quyền bính và lợi danh dưới mọi hình thức trong xã hội ngày nay đối với mọi người… nhưng xin đừng lên án vội, vì Cêsarê có thể là kẻ khác mà cũng có thể là chính mỗi người chúng ta. Cho nên trong cái phức tạp của đời sống, trong sự giằng co thường nhật, Thiên Chúa mời gọi chúng ta nên nhận thức rõ vấn đề chọn lựa và chu toàn trách nhiệm.
Trước một câu hỏi chỉ nêu lên vấn đề pháp lý trần thế, Chúa đã khéo léo nhắc đến bổn phận của con người đối với Thiên Chúa. Vậy thì lúc mà chúng ta chu toàn công việc hằng ngày là lúc mà chúng ta đang trả cho Cêsarê những gì thuộc về Cêsarê, và đến lúc tham dự Thánh Lễ, khi bánh và rượu mà Chúa ban cho chúng ta được dâng lên trước bàn thờ, thì lúc đó chúng ta đang dâng lên Thiên Chúa những gì thuộc về Ngài.
55. Bổn phận đối với Chúa và xã hội
Nói đến loài người, chúng ta không thể nào bỏ qua vấn đề bổn phận. Vì con người tồn tại được là nhờ ơn Chúa và con người lớn lên nhờ có cha mẹ, tha nhân, xã hội chăm lo. Do đó, mọi người đều có bổn phận đối với Chúa và đối với đồng loại. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cho người Do thái cũng là cho chúng ta hiểu thêm về vấn đề này.
Để hiểu đúng lời Chúa Giêsu dạy, trước nhất, chúng ta hãy xét đến bối cảnh của đoạn Tin Mừng này: Đất nước Do thái trong cảnh đô hộ, do người Rôma cai trị, ngoài việc phải đóng góp riêng cho đền thờ như luật Chúa truyền, họ còn phải nộp thuế cho đế quốc. Người Do thái nói chung không chấp nhận sự đô hộ này và coi việc nộp thuế là điều sỉ nhục, vì là dấu họ bị nô lệ cho dân ngoại. Thực ra, việc nộp thuế cho Rôma là vấn đề phức tạp, phái Hêrôđê và biệt phái không đồng quan điểm với nhau trong chuyện này. Người Do thái yêu nước không thể chấp nhận việc nộp thuế mà chỉ làm vì ép buộc, còn những người thuộc phái Hêrôđê thì đồng ý với đế quốc Rôma. Cả hai nhóm này tuy không đồng quan điểm nhưng hôm nay vì muốn chống Chúa Giêsu nên họ cùng đến để dò xét và tìm cách bắt bẻ Người.
Khi Do thái còn nô lệ Rôma thì không thể trốn tránh việc nộp thuế! Nhòm Biệt Phái và Hêrôđê biết rõ là vấn đề này chưa thể giải quyết được nên đã đưa ra hỏi với ý gài bẫy Chúa Giêsu. Hiểu được thâm ý của họ, Ngài bảo họ: “Cho Ta xem đồng tiền nộp thuế! ” Họ liền đưa cho Người một quan tiền. Người hỏi họ: “Hình và danh hiệu này là của ai đây?” Họ đáp: “Của Xê-da.” Bấy giờ, Người bảo họ: “Thế thì của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa.” (x. Mt 22, 19-22) Một khi đã chấp nhận xài tiền tức là chấp nhận mặc nhiên quyền của Cêza nhưng những người này vẫn làm ra vẻ như không chấp nhận. Ở đây, Chúa Giêsu vừa trả lời cho họ vừa muốn dạy họ phân định hai thực quyền khác nhau nhưng bổ túc nhau. Đó là:
Thế quyền có bổn phận điều hành, lo công ích xã hội, bảo đảm ổn định đời sống vật chất cho dân chúng. Người Do thái đã nhận sự điều hành này thì tất nhiên họ phải tuân theo những luật lệ chính đáng của chính quyền La mã.
Thần quyền vượt trên mọi quyền nhân loại, lo cho lợi ích đời đời của con người, con người phải tôn thờ, kính mến và tuân phục thiên Chúa qua những người đại diện Giáo hội.
Như vậy, sống trên đời này, con người có bổn phận tuân phục Chúa và những luật lệ hợp lý của xã hội nữa. Chúng ta không thể bỏ qua nhiệm vụ với xã hội khi sống đạo và khi lo bổn phận trần thế chúng ta không được đặt nhẹ bổn phận đối với Chúa. Chúng ta phải luôn tuân theo lời Giáo huấn của Chúa trong Giáo hội, giữ các giới răn, sống 8 Mối Phúc và năng lãnh các Bí tích.
Thế quyền có bổn phận lo an sinh và phát triển kinh tế, gìn giữ an ninh, bảo đảm trật tự xã hội cho chúng ta an ổn làm ăn sinh sống. Do đó, chúng ta có bổn phận đóng góp công sức cho xã hội theo lẽ công bằng và mưu ích hạnh phúc cho toàn xã hội trong đó có chúng ta.
Là những người con cùng một Cha, chúng ta đừng chỉ lo cho mình mà quên đi quyền lợi của người khác. Còn đối với chính mình, chúng ta biết lo nuôi xác thì cũng phải biết nuôi hồn cho tương xứng vì chúng ta là loài có xác và hồn. chúng ta phải sống sao để làm tròn bổn phận và đặt bổn phận vâng phục Chúa ưu tiên trên tất cả.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dạy cho chúng con hiểu đúng bổn phận của mình đối với Chúa và đối với trần thế. Xin cho chúng con biết thi hành bổn phận này trong cuộc sống để mưu cầu hạnh phúc cho chính mình cũng như cho tha nhân trong xã hội mình đang sống.
56. Trả cho Xêda và trả cho Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm. Trần Bình Trọng)
Nhóm người Pharisêu trong Phúc âm hôm nay kết cấu với nhóm Hêrôđê để đưa Chúa vào cuộc tranh chấp chính trị. Nhóm Pharisêu thuộc giáo phái của Do thái giáo. Họ hay phê bình chỉ trích những lời nói và hành động của Chúa, cho rằng Chúa đi ra ngoài tập tục của tiền nhân. Và Chúa cũng thường cảnh giác họ, gọi họ là bọn giả hình vì họ giữ đạo mà thiếu tâm tình bên trong. Nhóm người Pharisêu lại hậm hực vì phải trả thuế cho chính phủ ngoại bang là người La mã. Đây là loại thuế nhân danh, tính theo đầu người: đàn ông từ 14 tới 65 tuổi, cũng như đàn bà từ 12 tới 65. Còn nhóm Hêrôđê là những người phò đế quốc La mã và do đó phò cả chính sách của vua Hêrôđê. Trước khi đưa Chúa vào tròng, họ tỏ ra nịnh bợ trước đã như khen Chúa là người chân thật và không thiên vị (Mt 28:16).
Thế rồi họ đặt câu hỏi với Chúa: Có được phép nộp thuế cho Xêda không? (Mt 22:17). Câu hỏi có vẻ đơn sơ, nhưng ngụ ý của họ lại khác. Nếu Chúa trả lời có, nghĩa là phải nộp thuế cho Xêda thì Người sẽ bị coi là phản động và mất thế giá trước mặt người Do thái thời bấy giờ vì họ muốn thoát khỏi quyền lực của vua ngoại bang. Nếu Chúa trả lời không, nghĩa là không cần nộp thuế cho Xêda, phe Hêrôđê sẽ tố cáo với nhà chức trách La mã là chống chính quyền ngoại bang. Chúa biết rõ thâm ý của họ nên dùng chính đồng tiền nộp thuế có hình Xêda để giải thích cho họ. Chỉ vào hình Xêda trên đồng tiền, Chúa bảo họ: Của Xêda, trả về Xêda, của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa (Mt 22:21).
Ở đây Chúa phân biệt hai phạm vi thế quyền và thần quyền. Thế quyền và thần quyền tách biệt nhau, nhưng có liên hệ với nhau. Chúa muốn họ cũng vâng phục thế quyền để duy trì trật tự và lợi ích công cộng. Thế quyền cũng bắt nguồn bởi Thiên Chúa như lời Thánh kinh dạy là mọi quyền bính trên trời dưới đất đều bởi Thiên Chúa. Trong bài trích sách ngôn sứ Isaia, Chúa đã dùng vua Ba tư ngoại giáo là Kyrô, người được sức dầu, để thống trị đế quốc Babylon, đem dân tộc Chúa chọn trở về khỏi ách lưu đầy (Is 45:1). Công đồng Vaticanô II nói về những liên hệ giữa thế quyền và thần quyền như sau: Tuỳ theo hoàn cảnh và địa phương, nếu cả hai càng duy trì được sự cộng tác lành mạnh, cả hai càng phục vụ lợi ích của con người một cách hữu hiệu hơn (Gaudium et Spes #76). Dựa vào lời Chúa dạy thì Thiên Chúa và Xêda, hay nói cách khác, thần quyền và thế quyền, đều có những đòi hỏi nơi người công dân. Bằng cách bảo nộp thuế cho Xêda, Chúa bảo toàn quyền hợp pháp của Xêda để duy trì trật tự và ích lợi chung cho xã hội loài người. Mặc dầu là chính phủ thuộc địa, nhưng trong giai đoạn thuộc địa đó, chính quyền thuộc địa cũng cung ứng được những tiện ích nào đó cho người dân.
Người công dân trách nhiệm thì tuân hành luật lệ hợp pháp của quốc gia để duy trị trật tự và lợi ích công cộng. Đóng thuế là phương tiện giúp chính phủ bảo toàn an ninh và an sinh xã hội. Chính Chúa Giêsu đã làm gương trong việc nộp thuế đền thờ để người khác khỏi vấp phạm, mặc dù cắt nghĩa theo luật đền thở thì Chúa được miễn. Chúa bảo ông Phêrô: Con hãy ra biển thả câu, con cá nào bắt được trước tiên thì hãy mở miệng nó ra, lấy một đồng bạc về mà nộp xuất thuế của Thày và của con (Mt 17:27). Tuân giữ luật dân sự, Mẹ Maria và thánh Giuse đã làm cuộc hành trình về Bêlem, để khai sổ nhân danh theo lệnh hoàng đế Augúttô (Lc 2:1-7).
Việc tuân giữ luật pháp dân dự giả thiết rằng luật pháp đó dựa theo và phù hợp với luật Thiên Chúa. Còn khi mà luật pháp dân dự đi ngược lại luật Thiên Chúa, thì người công giáo theo tiếng lương tâm ngay thẳng phải bày tỏ lập trường. Người công giáo gồm cả hàng giáo sĩ, có hai quyền công dân: công dân nước trần thế và công dân nước Trời. Là người công dân của nước trần thế, người công giáo cần đóng thuế và tuân hành luật pháp công bình của quốc gia, xã hội. Ngoài ra dựa theo lời Chúa dạy, Giáo hội cũng khuyến khích người công giáo, với tư cách là công dân của một quốc gia, tham gia vào guồng máy chính trị của xã hội. Tuy nhiên tập thể Giáo Hội, cũng như hàng giáo sĩ, thành phần ưu tú của Giáo hội, không chủ trương tham chính, cũng không đem chính trị đảng phái vào Giáo hội bởi vì Giáo hội là một thực thể siêu việt, đứng trên mọi thể chế chính tri. Giáo hội mang tính chất trường tồn, còn đảng phái cầm quyền chỉ có tính chất giai đoạn, nay còn mai mất khi có việc đổi chủ. Công Đồng Vaticanô II khẳng định về Giáo hội và thể chế chính trị như sau: Giáo hội không cách nào bị đồng hoá với một cộng đoàn chính trị và cũng không cấu kết với bất cứ hệ thống chính trị nào vì Giáo hội vừa là dấu chỉ vừa là bảo đảm cho tính cách siêu việt của con người (Gaudium et Spes #76).
Khi Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II viếng thăm Mỹ Châu, Ngài cảnh giác một linh mục là thành viên Hạ viện ở một quốc gia Bắc Mỹ và một linh mục bộ trưởng chính phủ tại một quốc gia ở Trung Mỹ rằng nếu muốn tiếp tục làm linh mục thì phải bỏ việc tham chính. Hai vị đã tuân theo lời Đức Thánh Cha. Lí do là vì tham chính là làm chính trị. Mà làm chính trị đôi khi phải thủ đoạn và ma giáo. Mà ma giáo và thủ đoạn thì không phù hợp với chức vụ linh mục. Ngoài ra để thu hút phiếu của nhóm nọ nhóm kia, linh mục làm chính trị có thể ủng hộ lập trường nào đó, đi ngược lại đường lối của Giáo hội.
Là công dân nước Trời, người công giáo có bổn phận trả cho Thiên Chúa những gì thuộc Thiên Chúa. Ta trả cho Thiên Chúa bằng việc thờ phượng, tin yêu mến Chúa và tuân giữ giới răn Chúa. Ta trả cho Chúa bằng việc góp của xây dựng, sửa sang và dọn dẹp nhà Chúa. Ta trả cho Chúa bằng việc tông đồ để mở mang nước Chúa hầu làm vinh danh Chúa. Ta trả cho Chúa bằng việc bác ái, phục vụ và giúp đỡ tha nhân, hình ảnh của Chúa.
Lời cầu nguyện xin cho biết phân định thần quyền và thế quyền:
Lạy Chúa, con xin tạ ơn Chúa đã đến dạy bảo loài người phân định giữa thần quyền và thế quyền. Xin cho luật pháp các quốc gia được phản ảnh luật Chúa. Còn những nhà làm luật chưa nhận biết Chúa, xin cho luật pháp họ đạo đạt được phản ảnh luật tự nhiên đã được ghi khắc trong lương tâm chính trực của họ. Cũng xin dạy con biết tuân giữ luật pháp công chính hầu cho trật tự và tiện ích công cộng được bảo đảm. Và xin dạy con biết tuân hành luật Chúa để mối liên hệ giữa Chúa và con được tăng triển. Amen.
Bài Phúc âm hôm nay có một câu đặc biệt thường được trưng dẫn, đó là: “Của Xêsa hãy trả cho Xêsa, của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa”. Đó là câu trả lời đầy ý nghĩa sâu xa của Chúa Giêsu cho những người đối nghịch muốn gài bẫy để có cớ bắt bẻ Ngài.
Những người ấy chính là bọn Pharisiêu và những kẻ theo phái Hêrôđê. Trong thực tế, hai nhóm người này có trường phái ngược nhau; nhóm Pharisiêu thì chỉ muốn bênh vực truyền thống sống đạo của cha ông họ mà thôi. Họ coi đó là cách thế duy nhất để làm đẹp lòng Thiên Chúa, và trên phương diện chính trị thì họ không chấp nhận sự hiện diện của chính quyền Rôma đang nắm quyền cai trị vùng đất Palestine lúc đó.
Bấy giờ, vua Hêrôđê được hoàng đế Rôma bổ nhiệm nắm chính quyền, vua Hêrôđê này không phải là người Do Thái, nhưng ông là người dân ngoại không thuộc Do Thái giáo. Còn những người Pharisiêu thì không chấp nhận sự thống trị của chính quyền Rôma trên đất nước Palestine. Theo lẽ thường thì hai nhóm người này không hoà hợp được với nhau. Thế nhưng, trớ trêu thay, để chống lại Chúa Giêsu thì họ liên kết với nhau, những người Pharisiêu liên kết với những người của vua Hêrôđê.
Mặt khác, những người của Hêrôđê thì lại ủng hộ tập trường của vua Hêrôđê, tức của hoàng đế Rôma để chấp nhận sự thống trị của vua. Nhưng hai nhóm người này liên kết với nhau để đặt ra một vấn nạn mà họ cho là phức tạp nhất: “Có nên nộp thuế cho hoàng đế Xêsa hay không?”. Nếu Chúa Giêsu trả lời là không, thì nhóm người Hêrôđê sẽ bắt Chúa vì tội xúi giục dân chúng làm loạn không nộp thuế cho hoàng đế Rôma. Còn nếu Chúa trả lời “có” thì những người phe Pharisiêu sẽ có cớ để tố cáo Chúa với dân chúng làChúa đi với người ngoại bang, không đáng là một vị lãnh đạo tôn giáo.
Đối với họ, theo cái nhìn và suy luận của họ thì Chúa Giêsu chắc chắn sẽ rơi vào bẫy, vì không có câu nào khác để trả lời: Một là phải nộp thuế hai là không nộp thuế. Nhưng câu trả lời của Chúa Giêsu làm cả hai hạng người này không bắt bẻ được Ngài, đồng thời Chúa Giêsu còn xác quyết một chân lý sự thật đầy mới mẻ, đó là: “Những gì của Xêsa hãy trả cho Xêsa và những gì của Thiên Chúa hãy trả lại cho Thiên Chúa. Hãy tìm nước Thiên Chúa trước, rồi mọi sự khác sẽ được ban cho anh em dư đầy”.
Thử hỏi xem có một cái gì hay vật gì trong vũ trụ này mà lại không thuộc về Thiên Chúa? Trái đất và vũ trụ này do Thiên Chúa tạo dựng nên, và chính con người cũng được Ngài tạo dựng. Mỗi người chúng ta đã lãnh nhận sự sống từ Ngài, bởi vì không có gì mà chúng ta đang dùng mà lại không do Ngài ban cho.
Vậy, nếu không trả về cho Thiên Chúa những gì thuộc về Ngài, không hướng về Ngài tất cả những gì trong vũ trụ hay tất cả những gì ta đang hưởng dùng thì đó là thái độ phản loạn của con người. Con người muốn chiếm hữu lấy chỗ của Thiên Chúa và qui mọi sự về chính mình, lấy mình làm chủ, làm tiêu chuẩn cho mọi sự, những thái độ kiêu ngạo sai lầm này chỉ dẫn đưa đón những tranh chấp, hận thù, bạo lực và xa rời Thiên Chúa mà thôi. Vì thế, bao lâu mỗi người chúng ta không nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng chủ tể của mình, không trả lại cho Ngài và không qui hướng về Ngài tất cả những gì thuộc về Ngài, không để cho Thiên Chúa chiếm chỗ nhất trong cuộc sống của mình, thì bấy lâu con người không thể xây dựng một xã hội nhân bản xứng đáng là con người, không thể nào xây dựng một xã hội hoà hợp, trong đó mọi người nhìn nhận nhau như là anh chị em trong đại gia đình có Thiên Chúa là Cha: “Hãy trả cho Xêsa những gì của Xêsa, và hãy trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa”.
Hôm nay Lời Chúa mời gọi mỗi người Kitô hữu chúng ta hãy dấn thân nhiều hơn nữa, đặt Chúa vào chỗ nhất trong cuộc sống của mình, đặt Chúa vào chỗ nhất trong mọi sinh hoạt xã hội của mình. Tất cả mọi biến cố, tất cả những gì chúng ta đang thừa hưởng là đến từ Thiên Chúa và đều do tình yêu thương của Ngài trao ban.
Lạy Chúa, chúng con xin dâng lời cảm lạ và tri ân Ngài mãi mãi, vì tất cả những gì chúng con có đây đều là do Chúa ban cho. Xin Chúa gìn giữ chúng con trong đức tin mà giờ đây chúng con cùng nhau tuyên xưng qua kinh Tin Kính.
(Suy niệm của Jaime L. Waters – Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển)
CHÚA GIÊSU LÀM NGƯỜI TA BIẾT CHÚ TÂM VÀO NHỮNG GÌ QUAN TRỌNG
Trong bài Tin mừng của Chúa nhật XXIX Thường niên hôm nay, chúng ta nghe một đoạn Lời Chúa mà nhiều người dùng để biện minh cho việc đóng thuế hay tán thành việc tách biệt tương quan giữa Giáo hội và nhà nước. Thay vào đó, thánh Matthêu có lẽ chỉ cố gắng chứng minh khả năng lập luận của Chúa Giêsu cũng như cách làm làm nổi bật những vấn đề quan trọng.
Bài Tin mừng bắt đầu với việc những người Pharisêu âm mưu chống lại Chúa Giêsu. Lúc này nơi Tin mừng Matthêu Chúa Giêsu đã có nhiều cuộc trao đổi và đối chất, trong đó Ngài phê phán những người Pharisêu và các nhà lãnh đạo Do Thái khác. Hôm nay chúng ta nghe một phần đáp trả của những người Pharisêu khi họ cố gắng gài bẫy để Chúa Giêsu nói những gì có thể kết án và gây nguy hiểm cho Ngài.
Những người Pharisêu đã sai các môn đệ của họ cùng với những người thuộc phe Hêrôđê là những người ủng hộ Hêrôđê Antipa đến chất vấn Chúa Giêsu. Họ không ngớt khen ngợi sự chân thành, khả năng giảng dạy và sự vô tư không vị nể của Chúa Giêsu. Sau đó, họ đặt câu hỏi là việc nộp thuế cho hoàng đế có hợp pháp hay không. Chúa Giêsu ngay lập tức chỉ ra ý định thâm độc của họ: “Bọn người giả hình, các người gài bẫy Ta làm gì?”
Lý do tại sao đây là một câu hỏi mang tính thách đố đó là câu trả lời của Chúa Giêsu có thể khiến cho những nhóm khác nhau trong dân Do Thái thất vọng và có thể dùng để chống lại Ngài. Nếu Chúa Giêsu nói dân không nên nộp thuế, thì sẽ làm phe theo Hêrôđê tức giận vì quyền lực của Hêrôđê phụ thuộc vào mối quan hệ của ông với hoàng đế Rôma. Nếu Ngài nói rằng dân nên đóng thuế thì những người theo nhóm nhiệt thành vốn chống đối sự chiếm đóng của người Rôma sẽ tức giận về điều này.
Chúa Giêsu cẩn thận tránh cái bẫy họ đặt ra bằng cách hỏi họ về hình ảnh và danh hiệu trên đồng tiền dùng đóng thuế. Họ trả lời rằng đó là hình và danh hiệu của hoàng đế. Đồng tiền mà họ đưa ra có thể mang hình Cêsarê Tiberius, là hoàng đế cai trị khi Chúa Giêsu đã trưởng thành. Sau đó, Chúa Giêsu tuyên bố: “cái gì của Cêsarê thì hãy trả cho Cêsarê, và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa”.
Phần đầu của câu trả lời này thật khôn ngoan. Chúa Giêsu khẳng định rằng tiền do hoàng đế ban hành, vì vậy việc đóng một phần như tiền thuế chỉ là trả lại tiền cho chủ nhân của nó. Câu trả lời có suy nghĩ và an toàn của Chúa Giêsu có thể sẽ không làm tức giận những người ủng hộ hoặc chống đối việc đóng thuế. Nhưng Chúa Giêsu cũng thêm phần sau của câu trả lời có tính thách thức hơn: tầm quan trọng của việc dâng cho Thiên Chúa những gì thuộc về Ngài. Chúa Giêsu không nói rõ đó là những gì; nhưng vì sự sống bắt nguồn Thiên Chúa, và con người được tạo dựng theo hình ảnh và họa ảnh của Ngài, Chúa Giêsu có thể nhắc nhớ những người nghe về lời mời gọi hiến dâng việc làm và cuộc sống của họ cho Thiên Chúa.
Bài Tin mừng hôm nay kết thúc với lời tuyên bố của Chúa Giêsu, nhưng câu tiếp theo cho thấy Chúa Giêsu đã đảo ngược thử thách này một cách hiệu quả : “Khi nghe điều này, họ vô cùng kinh ngạc và bỏ Người đi” (Mt 22,22). Phản ứng sửng sốt của họ cho thấy những người Pharisêu và người thuộc phe Hêrôđê nhận ra ngụ ý trong câu nói đầy thách thức của Chúa Giêsu. Tương tự, cú sốc của họ chứng tỏ khả năng của Chúa Giêsu gợi lên cho người ta biết tập trung vào những vấn đề quan trọng hơn là tìm cách biện minh cho bản thân.
Có lẽ thánh Matthêu không muốn đòi hỏi sự tách rời Hội thánh và nhà nước. Đây không phải là khái niệm quen thuộc trong bối cảnh của thánh Matthêu, và tốt nhất là không nên đưa ý tưởng này trở lại Palestin thời thế kỷ thứ nhất. Thay vào đó, thánh Matthêu mô tả Chúa Giêsu là người thông minh và biết kích thích tư duy, cho thấy khả năng của Ngài biết nhận ra và tránh rơi vào cạm bẫy, đồng thời chuyển trọng tâm sang vấn đề cách thức con người sống và đối xử với nhau.
(Suy niệm của Lm. PX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Tiếp sau phân đoạn 21,23–22,14 về các dụ ngôn là bốn giai thoại tường thuật các thức Đức Giêsu đánh bại các đối thù trong các cuộc tranh luận tại Đền Thờ. Có thể gọi đây là các “truyện về tranh luận”. Nét tiêu biểu của các truyện này là người tường thuật không quan tâm đến lập trường của các đối thủ của Đức Giêsu. Ông thường cho thấy: hoặc các đối thủ giăng một cái bẫy bằng câu hỏi hiểm độc (cc. 15-22), hoặc câu hỏi của họ tạo ra cơ hội cho một câu trả lời (cc. 34-40). Nếu có nói đến lập trường của họ, thì chỉ nói rất ngắn gọn (cc. 23.42), vì cần phải nói ra cho cuộc tranh luận. Các đối thủ của Đức Giêsu được mô tả giống như các diễn viên ranh ma nhưng thừa thãi.
Hình thái của bốn truyện cũng có đặc tính của cuộc tranh luận tại lớp học, trong đó các học trò đặt câu hỏi cho thầy (22,16.24.36). Theo một lược đồ của truyền thống kinh sư Do Thái, các tranh luận nhà trường được bố trí thành bốn bậc với độ mạnh tăng dần và được đặt tên như sau:
1- [K]hokmâh (“sự khôn ngoan”): đây là một tranh luận về quy tắc phải theo khi liên hệ đến những bản văn pháp luật;
2- Haggadâh (“truyện ký”): đây là một lối giải thích các băn văn Kinh Thánh bề ngoài mâu thuẫn với nhau;
3- Bôrut (“sự tầm thường”): đây là một tranh luận nhắm biến niềm tin thành một trò hề;
4- Derek ‘erets (“đường đất”): đây là một tranh luận về những nguyên tắc cơ bản của đời sống luân lý.
Chúng ta có thể cho rằng tác giả Mt đã trình bày các đoạn văn trong chương 22 từ c. 15 đến c. 46 theo lược đồ này, nhưng ngài đảo thứ tự truyền thống, bằng cách đặt haggadâh vào cuối cuộc đối chất, hầu nêu bật tính tiệm tiến của cuộc đối chất cho đến câu hỏi cuối cùng của Đức Giêsu (x. c. 42):
1- [K]hokmâh:22,15-22,
2- Bôrut: 22,23-33;
3- Derek ’erets: 22,34-40,
4- Haggadâh: 22,41-46.
Ba tranh luận đầu được gợi lên bởi ba nhóm đại diện Do Thái giáo chính thức. Họ tìm cách gài bẫy Đức Giêsu bằng chính những lời nói của Người (cc. 15 và 35) về những vấn đề ngày càng thêm quan trọng: nộp thuế cho Xêda, là vấn đề đặt đối lập các nhóm Hêrôđê, Pharisêu và Nhiệt Thành (Quá Khích) với nhau; sự sống lại của kẻ chết, là vấn đề được phái Xađốc đặt ra; điều răn lớn nhất, là mối bận tâm của người Do-thái tuân thủ luật Môsê nghiêm nhặt, tức phái Pharisêu. Các vấn đề ấy được đặt ra cho một vị Rabbi: “Thưa Thầy” (didaskale; x. cc. 15.24.36); đây là danh hiệu cho thấy là họ hiểu Đức Giêsu đứng vào vị trí nào. Nhưng cứ mỗi lần Đức Giêsu lại đưa họ đến một câu hỏi triệt để hơn. Để rồi cuối cùng, Người chủ động đặt rõ ràng cho họ câu hỏi phát sinh do dự hiện diện của Người giữa họ trong Đền thờ, và như thế Người buộc họ phải lấy lập trường dứt khoát.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Toan tính của các đối thủ của Đức Giêsu (22,15);
2) Cuộc gặp gỡ với vấn đề nộp thuế cho Xêda (22,16-17);
3) Câu trả lời của Đức Giêsu (22,18-21):
- a) lật mặt nạ bằng nhận định mở đầu (c. 18),
- b) lật mặt nạ bằng cách dùng đồng tiền nộp thuế (cc. 19-21a),
- c) giáo huấn quan trọng nhất của Đức Kitô: tìm kiếm Thiên Chúa (c. 21b).
Bài đọc phụng vụ bỏ câu kết của cuộc tranh luận (c. 22).
3.- Vài điểm chú giải
– người Pharisêu … người thuộc phe Hêrôđê (1-2): Những người Pharisêu đại diện cho thái độ không khoan nhượng về tôn giáo. Họ nhất định không bỏ mất tự do của Dân Thiên Chúa trước chính quyền Rôma. Còn người thuộc phe Hêrôđê thì ủng hộ Rôma, bởi vì Đế quốc nâng đỡ các tiểu vương xuất thân từ gia đình Hêrôđê Cả.
– người chân thật … chẳng vị nể ai (16): Đây là hai đòi hỏi mà các kinh sư luôn phải nhớ mà đáp ứng: trung thành với Lề Luật và không cả nể, thiên vị.
– được phép … hay không (17): “Được phép” (exestin) [và “không được phép”] là công thức tiêu biểu của TM Mt (12,2.4.10.12; 14,4; 19,3; 20,15; 27,6). Câu hỏi “được phép không?” thường được người tín hữu Do Thái đặt ra cho mình và cho các kinh sư. Tầm mức của câu hỏi có tính quy thần: dưới mắt Thiên Chúa, tức dưới ánh sáng của Lề Luật, có được phép nộp thuế không? Như thế, câu hỏi không được đặt ra trên bình diện Luật dân sự hoặc thời cơ chính trị.
– nộp thuế (17): Ngoài nhiều khoản thu được bổ cho tất cả các công dân trong Đế quốc (thuế cầu đường, thuế quan…), các tỉnh phải đóng một thứ cống (Lt. tributum) cho hoàng đế, để bày tỏ sự thuần phục. Người Do Thái rất ghét thứ cống thuế này, còn Nhóm Quá Khích thì buộc phải coi việc từ chối nộp như một bổn phận tôn giáo.
– đồng tiền nộp thuế (19): Người Do Thái chỉ có quyền đúc tiền đồng, chứ không được đúc tiền bạc. Như vậy các đồng tiền của họ có giá trị nhỏ nên không được phép dùng để đóng thuế. Họ phải dùng đồng quan (dênarion). Chẳng hạn, đồng quan của hoàng đế Tibêriô có một bên là hình cái đầu hoàng đế, bên kia là hình bà Livia, mẹ của hoàng đế, được coi như nữ thần hòa bình.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Toan tính của các đối thủ của Đức Giêsu (15)
Câu 15 mở đầu cho toàn phân đoạn (cc. 15-46). Các đối thủ của Đức Giêsu lần lượt xuất hiện: tại Đền Thờ, các thượng tế và kinh sư đã can thiệp (21,15), kế đó là các thượng tế và kỳ mục trong dân (21,23), rồi đến các thượng tế và người Pharisêu (21,45), bây giờ đến lượt những người Pharisêu và những người thuộc phe Hêrôđê (22,15). Sau này những người thuộc nhóm Xađốc cũng đến (22,23), và cuối cùng lại là những người Pharisêu (22,35.41). Họ vẫn chống nhau, nhưng bây giờ họ liên minh với nhau để chống một kẻ thù “chung”.
Hôm nay nhóm Pharisêu nhắm rút được một tuyên bố (logos) của Đức Giêsu, để lời ấy trở thành một cái bẫy hại Người.
* Cuộc gặp gỡ với vấn đề nộp thuế cho Xêda (16-17)
Ở đây những người Pharisêu sai các môn đệ của họ (thật ra người Pharisêu không có môn đệ, mà là các kinh sư) cùng đi với những người thuộc phe Hêrôđê mà gài bẫy Đức Giêsu. Ở Mc 12,14-15, câu hỏi của họ vừa có tính lý thuyết (“có được phép nộp thuế?”) vừa thực tiễn (“chúng tôi có phải nộp thuế?”); ngược lại trong Mt, câu hỏi chỉ có tính lý thuyết (như ở Lc 20,20-26). Thật ra câu hỏi của họ hết sức nham hiểm. Lời đầu tiên họ nói, rất dài, nhắm ru ngủ các nghi ngờ, là một lời khen hết sức giả hình (c. 16: captatio benevolentiae): họ chào Người là “Thầy” (Rabbi); họ đề cao sự chân thành, khả năng, tính chí công vô tư của Người. Thật ra, Đức Giêsu đúng là như thế, nhưng nơi môi miệng của những sứ giả do người Pharisêu thù nghịch gửi đi, các lời của họ rỗng tuếch và không lương thiện. Từ đó, họ xin Người ban giáo huấn về một vấn đề phức tạp; họ “nhả chất độc ra” (c. 17): một câu hỏi dứt khoát và đột ngột: “có được phép nộp thuế cho Xêda hay không?”. Nếu trả lời “có”, Đức Giêsu sẽ khiến dân chúng nổi giận, vì Người tỏ ra là người nghiêng theo Đế quốc; và người Pharisêu chẳng bỏ lỡ cơ hội mà đánh đổ tất cả uy tín của Người trước mặt dân chúng. Còn nếu trả lời “không”, Người sẽ bị coi là chống chính quyền Rôma; và phe Hêrôđê có lẽ sẽ là những người đầu tiên tố cáo Người là người muốn phá rối trị an. Hơn nữa, câu hỏi còn có tầm mức thần học, bởi vì các nhóm Do Thái cực đoan coi việc sử dụng đồng bạc ngoại quốc như một kiểu thờ ngẫu tượng, mà điều răn thứ hai lên án: không được đưa các hình ảnh hoàng đế hoặc các biểu hiệu tượng trưng quyền bính của ông vào Đền Thờ để khỏi làm giảm thiểu vương quyền của Đức Chúa (Yhwh). Khi các tổng trấn (chẳng hạn Philatô) đã tìm cách làm như thế để hạ nhục người Do Thái, các vị này đã gặp phải phản ứng chống đối gay gắt nhất. Những người thuộc Nhóm Quá Khích (Nhiệt Thành) dứt khoát không nhận quyền Hoàng đế nên cũng không đóng thuế. Họ không đặt vấn đề về lý thuyết hay thực hành. Nhưng người Pharisêu thì chọn một thái độ trung dung; họ đã chấp nhận đóng thuế để đổi lấy tự do tôn giáo. Vậy câu hỏi đặt ra cho Đức Giêsu rất nham hiểm, để Người không có ngõ thoát: “có được nộp thuế hay không?”. Nhưng Đức Giêsu thấy rõ cái bẫy.
* Câu trả lời của Đức Giêsu (18-21)
Trước tiên, Đức Giêsu lật mặt nạ của họ bằng nhận định mở đầu: “Tại sao các người lại thử tôi, hỡi những kẻ đạo đức giả” (c. 18). Người cho thấy Người không phải là kẻ khù khờ. Họ đã mở đầu câu chuyện rất mềm mỏng (c. 16b) không phải vì họ tha thiết tìm kiếm chân lý của Thiên Chúa, nhưng chỉ vì muốn đưa Người vào thế lưỡng nan, để hại Người. Họ đáng bị gọi là “những kẻ đạo đức giả” theo hai nghĩa: trước tiên, bởi vì họ giả bộ rất quan tâm đến một vấn đề thời sự; kế đó, bởi vì khi sử dụng đồng quan để giao dịch buôn bán, họ đã minh nhiên nhìn nhận quyền của Hoàng đế từ lâu rồi.
Kế đó, dù câu hỏi được đặt ở bình diện lý thuyết, Đức Giêsu đã chuyển sang bình diện thực hành để trả lời (“Cho tôi xem đồng tiền nộp thuế”, c. 19). Nếu họ cũng như mọi người Do Thái có trong túi các đồng quan Rôma, mặc dù có các hình ảnh và dòng chữ bất kính, ngẫu tượng, điều đó có nghĩa là họ đã có một giải pháp cho vấn đề. Tại sao khi dùng đồng quan ấy (của Đế quốc) mà giao dịch buôn bán thì họ không áy náy bao nhiêu, mà bây giờ “trả về Xêda” (nộp thuế) thì họ lại áy náy đến thế? Nếu có vấn đề ở đây, thì họ đã giải quyết từ lâu rồi: được phép nộp thuế. Trong lãnh vực tiền bạc, họ đã nhìn nhận họ lệ thuộc Xêda.
Nhưng rồi Đức Giêsu đi quá câu hỏi được đặt ra: chỉ có một điều quan trọng nhất, mà họ hoàn toàn có thể làm ngay khi phải sống dưới ách đô hộ, đó là “trả về Thiên Chúa”, điều thuộc về Người (c. 21b). Đây là điều Đức Giêsu đã không ngừng nói đến kể từ khi ra đi hoạt động: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,33. Xem Bài giảng trên núi). Khi nói như thế, Đức Giêsu không có ý thiết lập hai trật tự khác nhau là Quốc gia và Hội Thánh như hai điểm quy chiếu khác nhau, cũng không biện minh cho việc quy phục Hoàng đế. Người chỉ muốn đặt các vấn đề vào đúng chỗ của chúng. Thật ra các vấn đề liên hệ đến Hoàng đế chẳng là gì so với các vấn đề liên hệ đến Nước Thiên Chúa. Người ta đã hỏi Đức Giêsu về thuế, chứ không hỏi gì về các đòi hỏi của Thiên Chúa cả. Người không tìm cách tránh né, vì không thể được, nhưng khi trả lời, Người cũng chỉ đặt mỗi chuyện vào đúng chỗ của nó. Các đối thủ chẳng còn biết tiếp tục câu chuyện như thế nào nữa. Các quyền của Hoàng đế đã không bị vi phạm, nhưng các quyền của Thiên Chúa thì đã được khẳng định rất mạnh. Người ta hoàn toàn có thể thỏa mãn các đòi hỏi của Thiên Chúa trong khi vẫn đóng thuế cho Hoàng đế.
+ Kết luận
Thật ra, Đức Giêsu không muốn thiết lập hai trật tự khác nhau song song, trong đó Thiên Chúa và Xêda đều là chúa tể; Người cũng không dạy về thái độ tùng phục Hoàng đế. Người chỉ muốn đặt các vấn đề vào đúng vị trí của chúng. Người không phủ nhận rằng cũng có thể có những xung đột, và đôi khi phải chọn lựa (x. Cv 4,18-20). Nhưng Người muốn nói rằng xung đột ấy không có ở chỗ người Pharisêu muốn thấy có. Bởi vì người nào thật sự tùng phục Thiên Chúa và sống trong niềm chờ mong Nước Trời và sự công chính của Thiên Chúa, thì có thể nhìn nhận tính chính đáng cũng như những giới hạn của những quyền của Xêda (x. 1 Pr 2,13-16).
5.- Gợi ý suy niệm
- Chúng ta hoàn toàn có thể lấy lại lời người Pharisêu khen ngợi Đức Giêsu, nhưng gột rửa sạch mọi toan tính giả hình, để thưa với Đức Giêsu. Đức Giêsu đúng là Đấng chân thật: Người không uốn cong các đòi hỏi của chân lý hoặc luật luân lý theo các nhận định về thời cơ hoặc nhằm thành công cho riêng mình. Người chính là Sự Thật (x. Ga 14,6). Đức Giêsu dạy đường lối của Thiên Chúa: đây không phải là Luật Môsê hay sự khôn ngoan loài người của các triết gia và các nhà luân lý; Người là “ánh sáng cho thế gian” dẫn đưa chúng ta (Ga 8,12), để chúng ta khỏi đi trong bóng tối. Người chẳng vị nể ai: Người là Đấng cứu độ mọi người (x. 1 Tm 2,3-6), nên không bận tâm về màu da, chủng tộc, trình độ trí tuệ, hoàn cảnh xã hội của con người (x. Ga 3,28).
- Thiên Chúa vẫn dành chỗ cho Hoàng đế. Nếu hết lòng với Thiên Chúa, con người có thể và phải chu toàn các quy định của Hoàng đế (chính quyền) trên nhiều lãnh vực, nhưng trọn vẹn bản thân thì thuộc về Thiên Chúa và không được từ chối Người bất cứ điều gì của mình. Thiên Chúa đòi hỏi một điều hoàn toàn khác với việc từ chối nộp thuế cho Xêda, Người đòi hỏi một điều to lớn hơn vô cùng. Người đòi hỏi chính bản thân con người, cách tuyệt đối và trọn vẹn (“Yêu mến Thiên Chúa hết lòng…”).
- Quyền dân sự nằm trong bình diện trần thế, là bình diện phải lê thuộc các thực tại của bình diện tôn giáo. Ở trong bình diện trần thế, Đức Giêsu nhìn nhận rằng việc nộp thuế cho chính quyền Rôma chẳng có gì là vô luân hay phạm thánh cả. Thánh Phaolô có viết: “Anh em nợ ai cái gì, thì hãy trả cho người ta cái đó: nộp sưu cho người đòi sưu, trả thuế cho người đòi thuế, sợ người phải sợ, kính người phải kính” (Rm 13,7). Người Kitô hữu không được viện cớ là mình phải chu toàn các bổn phận tôn giáo để miễn chuẩn các bổn phận đối với quốc gia hoặc trong quốc gia. Chúng ta là công dân Nước Trời (x. Pl 3,19-20), nhưng sống tư cách ấy tại một quê hương trần thế.
60. Của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa
CỦA CAESAR TRẢ CHO CAESAR,
CỦA THIÊN CHÚA TRẢ CHO THIÊN CHÚA
** Bối Cảnh Đoạn Tin Mừng:
Đế quốc Rôma thống trị xứ Palestin từ năm 63 trước Chúa giáng sinh và đã đặt nền cai trị rất vững chắc tại đất nước này. Họ cũng đặt vua Hêrôđê là người Do Thái để đại diện Rôma cai trị dân. Nhưng dân Do Thái lại chia ra nhiều phe: Phe Hêrôđê và những người thuộc nhóm Sađucêô thì ủng hộ việc đóng thuế cho Rôma để củng-cố địa vị và tài sản. Phe Pharisêô thì bất đắc dĩ phải nộp thuế, nhưng trong lòng không muốn tuân phục. Còn phe thứ ba, thuộc nhóm những người yêu nước quá khích thì hoàn toàn tẩy chay việc đóng thuế cho đế quốc Rôma mà họ coi là dân ngoại, không có quyền chi trên dân của Chúa!
Dân Do Thái lại gồm 3 loại người:
– Công Dân Rôma là những người có quốc tịch Rôma (như Thánh Phaolô…)
– Người tự do là những người dân thường. Chúa Giêsu thuộc nhóm người tự do.
– Người nô-lệ.
Theo luật Rôma, tất cả mọi người cả nam cũng như nữ từ 14 tới 65 tuổi, hàng năm phải đóng thuế cho Rôma 1 đồng bạc DENARIUS. Đồng bạc. Đồng DENARIUS được đúc bằng bạc, nặng 3,8g. Đồng DENARIUS đã được đế quốc Rôma dùng từ năm 268 trước Chúa Giáng Sinh và mãi tới năm 200 sau Công Nguyên vẫn còn tiếp tục dùng trong đế quốc Rôma. Đồng bạc được khắc hình các hoàng đế Rôma, thời Chúa Giêsu, thì hình và hiệu trên đồng DENARIUS là hình và hiệu của hoàng đế Tibêriô, ông cai trị từ năm 31 trước Chúa giáng sinh và băng hà năm 14 sau Chúa giáng sinh.
Câu hỏi nham hiểm:
Với bối cảnh trên, sau khi 2 nhóm Pharisêô và Sađucêô đã thất-bại trong việc cấu kết lại với nhau để cật-vấn Chúa Giêsu nhiều điều, mục đích để hại Chúa, nhưng Chúa đã khiến bọn họ phải “Câm Họng!”, nên lần này, chúng cấu-kết với nhóm Hêrôđê, nhóm III thiên về chính trị, ủng hộ đế quốc Rôma để gài bẫy hầu có thể kết án tử cho Chúa Giêsu. Chúng đến với Chúa Giêsu với bề ngoài rất cung kính, muốn tìm hiểu con đường Công Chính để noi theo. Họ lễ phép thưa: “Thưa Thầy!” –(RABBI là tiếng học trò thưa với thầy) “Chúng tôi biết Thầy là người Công Chính, không tây vị ai, Xin Thầy nói cho chúng tôi biết Thầy nghĩ thế nào? Có nên nộp thuế cho Caesar hay không?” (Mt 22:17).
Đây là câu hỏi vô cùng nham hiểm, nhưng dưới bề ngoài rất chân thành, vô tội, muốn biết sự thật để sống theo Sự Thật, nhưng với dã tâm của chúng, chúng nghĩ rằng: chắc chắn sẽ đưa Chúa vào gọng kìm, không thể thoát được! Đây là miếng mồi nhìn thoáng qua rất dễ nuốt, nhưng bên trong là lưỡi câu sắc bén, đầy nguy hiểm! Bởi vì: Nếu Chúa trả lời: “NÊN nộp thuế thì những người Do Thái yêu nước sẽ nghĩ rằng Chúa về phe với Rôma hà hiếp dân và do đó sẽ chẳng ai tôn kính, nghe lời dạy của Chúa nữa! Còn nếu Chúa trả lời: “KHÔNG NÊN nộp thuế cho Caesar! Thì nhà cầm quyền sẽ liệt Ngài vào số những người phản loạn và sẽ không tránh được án tử hình!
Đứng trước cạm bẫy vô cùng nguy hiểm mà những người thù ghét Chúa giăng ra, Chúa Giêsu thấu rõ dã tâm quỷ quyệt của chúng, nên, trước khi trả lời, Chúa thẳng tay vạch mặt nạ đáng tởm của chúng. Ngài nghiêm nghị phán: “Hỡi bọn giả hình! Các ngươi gài bẫy Ta làm chi?” (Mt 22: 18) Thật xấu hổ cho bọn người nham hiểm muốn giăng bẫy hại Chúa!
Đoạn Chúa bảo: “Hãy đưa cho Ta đồng tiền!”, đoạn Chúa hỏi họ: “Hình và hiệu này là của ai?”. Chúng trả lời: “Của Caesar”. Chúa trả lời thẳng thắn, không cần úp mở:
“CỦA CAESAR thì trả cho Caesar,
của THIÊN CHÚA thì trả cho Thiên Chúa!” (Mt 22:21)
Câu trả lời của Chúa Giêsu trở thành thời danh và trở thành nguyên-tắc cho Sự Công Bằng cho toàn nhân loại noi theo! Thần quyền và thế quyền là hai phương diện hoàn toàn khác nhau. Con người trần thế, vì có xác, có hồn nên cần chu toàn các luật lệ trần thế cũng như về Thiên-Luật. Tuy nhiên, vì Thiên Chúa là Chủ-Tể Tối Cao, Đấng vượt trên mọi loài trên trời dưới đất, nên Thiên Luật phải được tuyệt đối chấp hành.
CỦA CAESAR:
Các nhân luật: Chẳng hạn như luật của Liên Bang, luật tiểu bang, luật giao thông, luật thuế vụ, luật của thành phố… nói chung: Những luật đem lại công ích cho nhân loại, cho dân tộc, chúng ta phải chấp hành. Tuy nhiên, những luật trái với Đạo Lý, trái Công Bằng, chẳng hạn: những luật cho phép phá thai, hôn nhân đồng tính hay an-tử… là những luật trái với đạo đức thì các công dân không bao giờ được phép làm. Đặc biệt là những luật chống lại Thiên Chúa thì không bao giờ được tuân theo, vì đó là phản loạn với Đấng Tạo Hoá, Đấng đã tạo dựng, gìn giữ và bang trợ hết thảy muôn loài muôn vật!
** Của Caesar: Đó là những gì CỦA NGƯỜI KHÁC như: Tiền bạc, sản nghiệp, tiếng khen, nghề nghiệp… hoàn toàn thuộc quyền sở hữu của cá nhân đó, người khác hoàn toàn không có quyền tiêu dùng, làm hao hụt hay lấy đi trái với ý rõ ràng của chủ của. Phạm quyền sở hữu, bất cứ bằng cách nào đều là tội Lỗi Đức Công Bằng!
** Của Caesar: Cũng nên để ý về VIỆC ĐÓNG THUẾ cho chính phủ. Mọi công dân trong nước đều được hưởng những tiện nghi công cộng như: đường xá, trật tự an ninh, cứu hoả, nhà thương, bưu điện… Tất cả những chi phí đó đều lấy từ tiền đóng thuế của toàn dân. Trong khi những người khác đóng thuế mà ta không đóng, thì đó là tội lỗi Đức Công Bằng!… Có người có gia tài to lớn, có 2, 3 nhà cho thuê, nhưng lại cho người khác đứng tên để được hưởng TRỢ CẤP NGƯỜI GIÀ… thì đó cũng là tội lỗi Đức Công Bằng!
CỦA THIÊN CHÚA
Thiên Chúa là Chủ Tể muôn loài, muôn vật, nhờ Ngài, muôn loài được tạo dựng, bảo trì và nuôi dưỡng. Ngài nắm giữ mọi vận mạng các quốc gia, dân tộc. Do đó chỉ mình Thiên Chúa mới xứng đáng nhân loại tôn thờ và yêu mến. Mình Thiên Chúa vì thế có Quyền Tối Thượng, Quyền Tuyệt Đối, quyền vượt trên mọi quyền trần gian, không ai được hành động trái với Thánh luật của Chúa.
Riêng con người, chúng ta được Thiên Chúa vô vàn trân quý và “Sáng tạo giống hình ảnh của Người” (Sáng Thế Ký 1:27). Vì thế, nhân loại mọi nơi, mọi thời đại, tất cả, dù da trắng, da vàng, da đen, mọi ngôn ngữ chủng tộc đều là CON THƯỢNG ĐẾ, và do đó, chúng ta vô cùng Hạnh Phúc vì được Thiên Chúa yêu thương, bang trợ và dẫn đưa về tới Bến Bờ Phước Hạnh Vô Biên trong vương quốc của Chúa là Gia Nghiệp mà Cha Thiên Thượng đang dành sẵn cho tất cả các con yêu của Ngài.
Đã là con, chúng ta có bổn phận phải hết lòng hiếu thảo, yêu mến và tuân theo Thánh Chỉ của Cha. Hơn nữa, chúng ta cần chân nhận rằng: Tất cả những gì chúng ta có, đều bởi Cha chúng ta: Linh hồn, thân xác, sức khoẻ, tài năng, cơ hội, địa vị, thời giờ… tất cả đều bởi Cha Thiên Thượng mà có. Và do đó, chúng ta hãy trả lại cho Cha chúng ta để tỏ lòng suy tôn, tùng phục Thánh Ý của Cha. Sống như thế mới trọn đạo con thảo đối với Cha!
** Chúng ta hãy lắng đọng tâm tư xem chúng ta có TRẢ LẠI CHO THIÊN CHÚA những gì thuộc về Thiên Chúa, hay chúng ta nghĩ rằng những thứ đó hoàn toàn do chúng ta mà có được!
Sách NHỊ LUẬT dạy “phải dâng Thiên Chúa ít nhất 10% mọi hoa lợi của chúng ta” (Nhị Luật 14:22-27):
Thời giờ: Chúng ta mỗi ngày đã dùng mấy phút để tôn vinh, ca ngợi Chúa?
Về sức khoẻ, tài năng… chúng ta có dùng để làm vinh danh Chúa hay chỉ để lo cho thân xác???
Linh hồn và thân xác… chúng ta có dùng toàn thể con người từ ý tưởng, lời nói, việc làm để tôn vinh Chúa hay chỉ để phục vụ cho thân xác của riêng ta??
Trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa: Chúng ta được phước hạnh và bổn phận phải yêu mến Chúa hết lòng, hết sức, hết linh hồn, hết trí khôn, thì đó mới hoàn thành bổn phận được Thiên Chúa yêu thương và tạo thành và sẽ được chung hưởng Phước Lộc Vô Tận mai sau với Ngài!
** CHÚA GIÊSU CÓ CHẤP HÀNH LUẬT TRẦN THẾ KHÔNG?
Mặc dầu Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa giáng phàm, đáng lẽ Ngài không cần và không buộc phải chấp hành các luật trần thế, bởi vì Ngài vượt trên tất cả các vua chúa trần gian, nhưng Ngài vẫn nêu gương tuân phục:
Cha Mẹ của Chúa Giêsu đã tuân lêựnh hoàng đế để trở về Bethlêhem để khai sổ nhân đinh (Lc 2:4)
Chính Chúa Giêsu đã truyền cho ông Phêrô đi đánh cá để nộp thuế cho Ngài và cho ông Phêrô (Mt 17:26)
Mặc dầu chính Tổng-trấn Philatô- người kết án tử cho Chúa Giêsu- đã xác-nhận Ngài hoàn toàn vô tội… Thế nhưng chính Chúa Giêsu thì hoàn toàn không một lời phản-đối! Ngài chấp nhận chịu chết do bản án bất-công đó! (Lc 23:22)
** GƯƠNG THÁNH THOMAS MORE
Thánh Thomas More bên nước Anh vị thủ lãnh các quan trong triều, rất được Vua Henri VIII kính phục và thương mến. Tuy nhiên, vua muốn xin Toà Thánh để ly-dị bà hoàng-hậu Catherin D’Aragon nhưng Toà Thánh không thể chấp nhận vì trái với luật Chúa. Vua liền cưới bà vợ khác và bắt tất cả quần thần phải ký vào văn bản chấp nhận hành động của vua, ai không tuân thì bị giết chết. Thánh Thômas More nhất định không làm theo mệnh lệnh của nhà vua nên bị xử tử.
Thánh Thomas More đã yêu mến và tuân theo luật Chúa hơn lệnh của Đức Vua. Ngài đã chứng tỏ tình yêu trung kiên với Thiên Chúa xứng đáng triều thiên vinh quang các Thánh Tử Đạo
Bấy giờ những người Pha-ri-sêu đi bàn bạc với nhau, tìm cách làm cho Đức Giêsu phải lỡ lời mà mắc bẫy. Họ sai các môn đệ của họ cùng đi với nhau người phe Hê-rô-đê đến gặp Đức Giêsu…
Chúng ta thường sai lầm mà cho rằng thời đại của chúng ta là thời đại khó sống nhất. Không còn có sự “nhất trí về đạo đức và xã hội” hôm nay. Những quan điểm chống đối nhau có thể được bày tỏ công khai. Người ta không còn biết suy nghĩ gì, và có thái độ thế nào đối diện với một số vấn đề lớn.
Nếu chúng ta thật sự biết đọc Tin Mừng, chúng ta sẽ khám phá ra rằng thời đại của Đức Giêsu cũng khó sống không kém. Đức Giêsu đã sống trong một bối cảnh lịch sử thật sự bùng nổ. Những đạo quân La Mã chiếm đóng miền Pa-lét-tin và cuộc kháng chiến của người Do Thái không ngừng âm ỉ vào những năm 30 ấy, Hoàng Đế Xê-da ngườibắt cả một Đế quốc mênh mông quỳ mọp là Tibêre một ông già cai trị Đế quốc từ hòn đảo Capri của nhà vua. Những người không cộng tác với quân chiếm đóng, nhóm Dê-lốt hô hào từ chối nộp thuế. Nhà Hê-rô-đê, trái lại dựa vào chính quyền La Mã để giữ địa vị của họ. Sau hết, có nhóm Pha-ri-sêu ra sức bảo vệ sự tự do tôn giáo bằng cách chiều theo hoặc ít hoặc nhiều các quyền lực chính trị.
Phái đoàn đến tìm Đức Giêsu để giăng bẫy Người được cố ý bao gồm những con người có quan điểm trái ngược nhau phe Pha-ri-sêu và phe Hê-rô-đê. Dù Đức Giêsu có theo “cánh hữu’ hay “cánh tả”, Đức Giêsu sẽ mắc bẫy và làm hại thanh danh của Người mà thôi!?
Họ đến nói với Đức Giêsu rằng: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật và cứ sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa Thầy cũng chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta.”
Bốn lời khen ngợi nịnh hót là miếng mồi xảo quyệt để che giấu cái bẫy. Tuy nhiên cái bẫy ấy cũng là một lời tôn kính mà các nhân viên gây hấn đó đã khen một thầy Rabbi trẻ tuổi: Họ thừa nhận Đức Giêsu là một con người độc lập sống phục vụ Thiên Chúa và cương quyết. Thực ra, chúng ta biết rằng Đức Gi’êsu thường có thái độ ngược lại với những quan điểm đang thịnh hành: Người đã thán phục đức tin của ông đội trưởng của đạo quân La Mã (Mát-thêu 8,10). Người đã giao du với những người thu thuế và tệ nhất là một trong các người thu thuế ấy có mặt trong số các tông đồ của Người (Mát-thêu 9,9-10). Trước khi đi xa hơn, chúng ta hãy dành thời gian để nguyện ngắm Đức Giêsu, một con người không giống như những người khác. Lạy Chúa, xin cho chúng con biết theo gương Chúa để luôn luôn là người chân thật… để đi theo chính lộ của Thiên Chúa… không để chúng con bị lôi kéo bới những ảnh hưởng định đưa chúng con đến nơi mà chúng con không muốn… để chúng con luôn luôn được tự do hoàn toàn, không cứng nhắc, không thỏa hiệp không đánh giá người ta theo bề ngoài.
Vậy xin Thầy cho biết ý kiến: “Có được phép nộp thuế cho Xê-da hay không?”.
Câu hỏi này khéo léo một cách quỷ quyệt: Nếu Đức Giêsu trả lời “có”, Người sẽ không còn được quần chúng ủng hộ vì họ đang chờ đợi một. Đấng Mê-si-a xua đuổi kẻ xâm lược… Nếu Người trả lời “không”, Người sẽ bị phe Hê-rô-đê tố giác như một kẻ xúi giục nguy hiểm chống lại La Mã.
Như thế, Giáo Hội HÔM NAY, cũng như ở mọi thời, thấy mình đối đầu với cùng một vấn đề: vai trò của Giáo Hội không thể trực tiếp làm chính trị… nhưng Giáo Hội cũng không thể đứng trung lập. Và dầu sao đi nữa, dầu nói “có” hoặc nói “không”, dầu có nói hay không nói, Giáo Hội thấy mình bị kéo vào trong phe này hay phe khác.
Vậy lời đáp lại của Đức Giêsu là gì?
Nhưng Đức Giêsu biết họ có ác ý nên Người nói: “Tại sao các người lại thử tôi hỡi những kẻ giả hình? Đưa đồng tiền nộp thuế cho tôi coi? Họ liền đưa cho Người một đồng bạc.
Trước tiên Đức Giêsu cho họ thấy Người không bị họ lừa! Và Người lột mặt nạ đạo đức giả của họ, bằng cách yêu cầu họ chỉ cho Người thấy một đồng tiền với sự ngây thơ. Không ngần ngại một giây, họ rút tiền ra khỏi túi họ. Như thế, trong khi đóng vai trò của những người đắn đo thận trọng tự vấn mình về việc giữ mình trong sạch trước kẻ ngoại xâm, họ biết sử dụng tốt đồng tiền của kẻ vô đạo để kinh doanh! Dẫu sao, việc đóng thuế không làm cho lương tâm họ ô uế hơn là sử dụng mỗi ngày đồng tiền xấu đó.
Và Người hỏi họ: “Hình và danh hiệu này là của ai đây?”. Họ đáp: “Của Xê-da”.
Những người La Mã giành quyền đúc đồng tiền bằng bạc, dấu ấn vương quyền của họ. Và đồng bạc có mang tính của Hoàng đế với danh hiệu của ông ta. Hình cái đầu của Tibère được coi như dấu chỉ sự lệ thuộc ô nhục vào La-Mã: Hoàng đế tự xưng mình là thần linh? Người ta biết rằng nhóm Dê-lốt (Zélotes) cấm các thành viên của họ nộp thuế. Đức Giêsu với danh tiếng về sự trung tín với chỉ mình Thiên Chúa làm thế nào mà lại không đứng về cánh tả với những người xúi giục nổi loạn nhân danh Kinh Thánh chứ?
Đức Giêsu sẽ trả lời gì.
Bấy giờ, Người bảo họ: ‘Thế thì của Xê-da, trả về Xê da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa”.
Câu trả lời của Đức Giêsu đã trở thành một câu châm ngôn đến độ nó trở thành một câu tục ngữ bình dân có trong các trang hồng của từ điển Larousse. Tuy nhiên người ta thường hiểu câu đó rất sai, như thể Đức Giêsu hoàn toàn theo chủ trương tách rời “Giáo Hội và Nhà Nước” đồng thời chấp nhận một thứ độc lập hoàn toàn của quyền lực chính trị…hoặc, ngược lại như thể Đức Giêsu yêu cầu các môn đệ của Người không được tham gia vào các công việc trần thế…
Vậy phải cố gắng hiểu biết tư tưởng ẩy của Đức Giêsu để áp dụng nó vào thời đại chúng ta. Vì thế chúng ta phải chú trọng đến cả hai phần của câu đó, mà vẫn cho phần thứ hai tất cả giá trị của kết luận có tính quyết định.
- a) Của Xê-da, trả về Xê-da…
Trong viễn cảnh của toàn bộ Cựu ước, mọi quyền bính đều do Thiên Chúa mà có. Và chúng ta cũng đã nghe trong bài đọc đầu tiên của Chúa nhật hôm nay: Một ông vua dân ngoại như Ki-rô đã được Thiên Chúa xức dầu để thực hiện các công việc của Thiên Chúa “dù không biết Thiên Chúa” (I-sai-a 45,1-4-6). Thánh Phaolô áp dụng chính nguyên tắc ấy để yêu cầu các Kitô hữu đầu tiên tuân phục các chính quyền dân sự (Rôma 13,1-7; Titô 3,1-2).
Thật vậy, không ai có thể coi chừng sự liên đới xã hội và dân sự. Và hẳn người ta sẽ giải thích Tin Mừng rất sai khi muốn cắt đời sống con người thành những lát rời nhau như thể các Kitô hữu và Giáo Hội có thể không biết đến chính trị… như thể tôn giáo phải quanh quẩn trong nhà thờ và không được ảnh hưởng trên đường phố, đô thị, các công việc, gia đình, luật pháp, thuế khóa… Quả thật, Đức Giêsu đã thướng từ chối đóng vai trò của “Đấng Mê-si-a” xã hội chính trị mà người ta muốn bắt Người làm: đó là ý nghĩa sâu xa của kinh nghiệm tâm linh của các cám dỗ đến với Người lúc bắt đầu đời sống công khai (Mt 4,8-10); đó là ý nghĩa của việc Người chạy trốn vào sự cầu nguyện khi người ta muốn đưa Người lên làm vua sau khi hóa bánh ra nhiều (Ga 6,14-15); đó là ý nghĩa lời Người quở trách Phêrô khi ông này xuống ngăn cản Người trở thành Đấng Mê-si-a đau khổ (Mt 16,21-23); đó là ý nghĩa rất rõ ràng của lời Người tuyên bố với Philatô: “Tôi là vua, nhưng nước tôi không thuộc về thế gian này” (Ga 18,36).
Tuy nhiên, trong lời đáp lại của Đức Giêsu: “của Xê-da, trả về Xê-da”, khó mà không nhận thấy một lời mời gọi phải tính đến quyền bính đã được thiết lập và tôn trọng các quyền hành của nó. Khi chọn thái độ ấy, Đức Giêsu đưa vào thế giới cổ đại một sự phân biệt cách mạng: Người giản thiêng chính trị bằng việc khẳng định Xê-da là Xê-da… nhưng không phải là Thiên Chúa! Trong khi mà Xê-da vì là Xê-da nên tiếp tục thực hiện chức vụ của ông ta! Đó là một chức năng thuộc về con người phụ thuộc mọi sự cố bất ngờ, và những thực tế xã hội chính trị phức tạp, khống chế độ, những hệ thống, những ý thức hệ. Nhưng vẫn chưa nói hết tất cả.
- b) Của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa…
Chúng ta là những con người hiện đại nên chúng ta biết giờ đây mọi nền chính trị coi thường phần thứ hai này của tư tượng Đức Giêsu rồi sẽ dẫn con người đi về đâu. Những xã hội “không Thiên Chúa” cũng là những xã hội phi nhân. Khi Nhà Nước coi mình là thần linh, nó sẽ đè bẹp con người. Chính Xê-da cũng phải phục tùng Thiên Chúa, và trả cho Thiên Chúa sự gì thuộc về Người. Việc Đức Giêsu đề cao “bổn phận của chúng ta đối với Thiên Chúa” là một việc rất có ý nghĩa, trong khi mà người ta không hỏi Người câu hỏi ấy nhưng chỉ hỏi Người một câu hỏi thế tục: Vì thế mệnh đề này là đỉnh điểm của toàn bộ trang Tin Mừng hôm nay. “Của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa”. Cả cuộc đời của Đức Giêsu không ngừng kêu gọi chúng ta điều đó. Chính trị dù rất quan trọng bởi vì nó là nghệ thuật đem lại công ích, không phải là tất cả con người, không phải là phần chủ yếu nhất của con người. “Con người không chỉ sống bởi bánh”… bởi chỗ ở, bởi thị trường, bởi sự sản xuất. Được tạo dựng theo “hình ảnh của Thiên Chúa” “theo hình và hiệu của Thiên Chúa”, con người có số phận phải chia sẻ chính sự sống của Thiên Chúa. Nếu Xê-da đã có thể in hình của mình lên những đồng tiền và vì thế người ta phải trả lại tiền đó cho Xê-da thì còn hợp lý hơn thế biết bao đối với Con người đã được hình ảnh của Thiên Chúa đóng ấn, con người phải “trả mình” trọn vẹn về cho Thiên Chúa! (St 1,26). Con người đáng được tôn trọng tuyệt đối vì số phận của con người vốn thánh thiêng. Như thế Đức Giêsu không để cho Người bị mắc bẫy mà người ta giăng ra cho Người. Một lần nữa, người đã mạc khải điều kín nhiệm và sứ mạng của Người: Thiết lập Triều đại của Thiên Chúa… và bởi thế mạc khải chiều kích cao cả nhất của con người! Nhưng quả thật, có phải tôi trả cho Xê-da điều thuộc về Xê-da? Có phải tôi coi chiều kích chính trị của đời tôi là điều nghiêm túc? Và có phải tôi cũng trả cho Thiên Chúa điều thuộc về Người. Có phải đời sống tôi được hiến dâng hoàn toàn cho Thiên Chúa.
62. Chú giải của Fiches Dominicales
VẤN ĐỀ NỘP THUẾ CHO CESAR
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
- Kẻ khéo giăng bẫy…
Ba dụ ngôn về xét xử mà chúng ta đã suy gẫm suốt mấy tuần rồi (dụ ngôn hai người con được sai đi làm vườn nho, Chúa nhật 26; dụ ngôn những tá điền sát nhân, Chúa nhật 27; dụ ngôn khách dự tiệc cưới, Chúa nhật 28) vẫn không đủ làm cho các kẻ thù địch Chúa tan rã hàng ngũ. Trái lại họ còn liên minh với nhau và thay phiên nhau trong cố gắng làm cho Chúa phải rơi vào bẫy của họ. Sau khi đã “bàn bạc với nhau, tìm cánh làm cho Đức Giêsu phải lỡ lời mà mắc bẫy” thì một lần nữa những người Pharisiêu, không ngại gì sai các môn đệ của họ cùng đi với những người thuộc phe Hêrôđê. Vấn đề họ đặt ra. cho thấy rất rõ những thái độ khác nhau của họ đối với người Rôma chiếm đóng. Đang khi những người Pharisêu đành phải bằng lòng coi sự có mặt của quân chiếm đóng như một điều xấu không tránh khỏi được, miễn là tự do tôn giáo được bảo đảm – những người phe Hêrôđê là nhóm chính trị ủng hộ gia đình Hêrôđê lại thân với chính quyền Rôma- thì những người thuộc nhóm quá khích” (zéloté) lại chủ trương bày tỏ sự chống đối công khai, nên nhóm này cấm các thành viên của nhóm không được đụng chạm đến tiền bạc của người Rôma. Họ lên tiếng hỏi Đức Giêsu, sau mấy lời mở đầu đầy vẻ phỉnh phờ: vậy xin Thầy cho biết ý kiến có được phép nộp thuế cho Ceasar hay không P. de Surgy đưa ra nhận xét sau: “Vấn đề họ đặt ra này liên can tới sứ vụ thiên sai, điều đó không làm ta ngạc thiên, bởi lẽ họ chỉ muốn nhắm đả kích việc Đức Giêsu cho mình là Đấng Cứu Thế là thôi. Vả lại họ đặt ra vấn đề cũng là thì lòng thì địch ghen ghét muốn cho dân chúng hay chính quyền thù ghét Người” (“Assemblées du seigneur” số 60, trang 10).
Họ nghĩ: Dù Đức Giêsu trả lời đàng nào, thì Người cũng không thể thoát khỏi bẫy. Nếu Người trả lời “không”, nếu Người không nhìn nhận công khai việc phải nộp thuế này, thì đúng là Người chống lại với hoàng đế César – Và nhưng người phe Hêrôđê sẽ vội vã tố cáo Người với nhà chức trách Rôma – Trái lại, nếu Người trả lời “Có”, nếu Người công khai thừa nhận là nên nộp thuế cho César, thì Người hợp thức hoá sự hiện diện vô đạo và bất nhân của người Rôma trên một đất thánh mà Thiên Chúa đã ban cho tổ phụ Abraham và con cháu ngài; vậy thì trước con mắt của một dân tộc đang trông đợi một cuộc giải phóng quốc gia, Người mất hết tín nhiệm và đừng hòng coi mình là Đấng Messia đến thực hiện những ước mơ của họ. Những người Pharisiêu sẽ không bỏ lỡ cơ hội để đánh trống la làng về chuyện này.
- … thì chính họ lại mắc bẫy.
Trước khi trả lời câu hỏi của họ, Đức Giêsu làm cho lộ ra thanh thiên bạch nhật “thói giả hình” của những kẻ đối thoại với Người. Người yêu cầu họ: “Đem đồng tiền nộp thuế cho tôi coi. Lạ thay! Họ có đem theo một đồng. Quả là hồi đó “đồng tiền này”, đồng quan Rôma, đều có mang hình tượng hoàng đế Rôma, đầu đội vòng hoa như một vị thần, cùng với danh hiệu rõ ràng này: César Tibeno con của thần Augusto: Augusto”. Cl. Tassin chú giải: “Rõ ràng là có chuyện coi mình như thần thánh, mặc dầu bản thân Tiberio vẫn coi mình là một người như mọi người”. Nhất là từ thời Caligula, thì các hoàng đế Rôma vẫn hiên ngang đòi cho mình có căn tính thần thánh. Cựu ước đã rò ràng cấm chỉ những hình ảnh phàm trần cùng vì xu hướng thần thánh hoá này. Để tôn trọng cái cảm quan tôn giáo này, các nhà cầm quyền Rôma chỉ đúc những đồng tiền không có hình ảnh để dùng trên lãnh thổ Do thái. Nhưng, đối với việc nộp thuế trong đế quốc, thì người ta không tránh khỏi được đồng bạc bất nhân ấy, mà đồng tiền ấy, theo nét trào phúng của câu chuyện, xem ra lại được móc ra từ túi của những người Pharisiêu vốn dĩ rất trung thành với những điều cấm đoán của Luật Chúa” (Phúc Âm thánh Matthêu, NXB Centurion, trang 233).
Chúa hỏi họ: “Hình và danh hiệu này là của ai đây”. Họ đáp: của César. Và Chúa Giêsu nói lên một câu bất hủ -nhưng lại rất hay bị người ta cắt nghĩa sai- khiến những kẻ đối mặt với Người phải hết sức ngạc nhiên”: “Thế thì của César, trả về César; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa? Người không phải là Đấng Messia mà, để chu toàn công việc của mình, phải nắm lấy quyền chính trị và đảm nhận những trách nhiệm và chức vụ của César. Và bởi vì chính họ đã được tạo dựng giống hình ảnh Chúa, nên Người khuyên nhủ họ hành động sao cho trong mọi sự Thiên Chúa phải được phụng sự trên hết; còn đối với quyền hành chính trị, mặc dầu vẫn hết mực tôn trọng, nhưng khi quyền ấy ngẫu nhiên tự thần thánh hoá mình mà chiếm đoạt luôn cả những quyền chỉ thuộc về Thiên Chúa, thì họ phải lên tiếng phản đối vì: “Của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa”? Không muốn để mình kẹt vào thế lưỡng nan do đối phương bày ra, Đức Giêsu xác định lập trường của Người và xoay chuyển vấn đề. Nước Thiên Chúa không phải là nước cạnh tranh với nước của César; Nước ấy thuộc về một trật tự khác và nằm ở một bình diện khác, Đấng Messia không đến để chiếm chỗ của César và thực hiện một sứ vụ thiên sai có tính tôn giáo – chính trị; Người đến thiết lập Nước Thiên Chúa. P. de Surgy kết luận: khi mời gọi người ta trả về César… cái mà thông thường Người… có thể đòi hỏi theo như trách nhiệm của chính mình và nhất là khi làm cho hiểu rõ bản chất của Nước Chúa cũng như sứ vụ cứu thế của người và khi khẳng định quyển ưu tiên của Thiên Chúa, Đức Giêsu đem vào quan niệm của Người xưa một sự phân biệt rạch ròi và rất cách mạng: nghĩa là Người làm cho chính trị mất đi tính thần tinh và thánh thiêng, chống lại với mọi xu hướng tôn thờ nó như một ngẫu tượng; người trả chính trị cho chính trị, bằng cách nhìn nhận giá trị của nó và quy cho nó một trách nhiệm riêng. Khi trả chính trị về cho chính trị, Đức Giêsu không có ý để cho chính trị ở trong một hoàn cảnh trung lập với Phúc âm. “Của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa.Với những lời dứt khoát này Đức Giêsu kêu gọi ta sống cuộc đời của ta, kể cả đời sống chính trị, trong niềm trung tín với Thiên Chúa, Đấng đã tỏ mình ra nơi người. Người đòi hỏi đời sống chính trị của ta phải trung tín với những ước vọng và tinh thần Phúc Âm. Người cũng lêu gọi Giáo Hội cũng như cộng đồng đức tin phải nắm giữ, không phải là phận vụ thống trị hay luân lý đối với chính trị, nhưng là vai trò tiên tri về Phúc âm hoá là bằng con đường hoán cải các tâm hồn sẽ đem lại hiệu quả thực sự: sống giữa lòng lịch sử nhân loại Giáo Hội phải dùng đời sống và lời nói mà lặp lại cho César, tiếng gọi của Thiên Chúa hằng sống là và lên tiếng “mời gọi, mời gọi chuyên chăm, và mời gọi không ngừng tất cả mọi người tiếp tay thực hiện những gợi hứng tích cực của Phúc âm trong công cuộc xây dựng thành đô của loài người” (O.C. trang 24).
BÀI ĐỌC THÊM
- “Hình tượng này là của ai đây?”
Thánh Augustino bài giảng 24.
Anh em thân mến, Thiên Chúa đòi chúng ta trả lại hình ảnh Người (hình ảnh mà theo đó chúng ta đã được tác tạo) Đó chính là điều Người muốn nói cho những người Do Thái khi họ đưa Người coi một đồng bạc. Trước hết họ muốn thử Người khi hỏi Người rằng: “Xin Thầy cho biết ý kiến: có được phép nộp thuế cho César hay không để, nếu Người trả lời: được phép, thì họ có thể tố cáo Người là nhục mạ dân tộc Israel vì muốn cho dân thần phục bằng việc đóng thuế và trở thành chư hầu dưới ách thống trị của hoàng đế. Còn nếu Người trả lời là không được phép, thì họ sẽ có thể tố cáo Người tội phát ngôn chống lại hoàng đế César, là căn cớ cho dân chúng từ chối nộp thuế mà họ phải nộp, bởi lẽ người ta đang sống dưới ách của hoàng đế. Đức Giêsu nhìn thấy mưu mô của họ, như sự thật tìm ra điều gian dối, vì Người đã làm cho họ phải chịt là chính miệng lưỡi họ gian dối. Người không dùng miệng lưỡi mình mà kết án họ, nhưng bắt chính họ phải tuyên án cho mình, như có lời chép rằng: “Vì nhờ lời nói của anh, mà anh sẽ được trắng án, và cũng tại lời nói của anh mà anh sẽ bị kết án” (Mt 12,37). Người nói với họ: “Tại sao các người lại thử tôi, hỡi những kẻ giả hình! Đưa đồng tiền nộp thuế cho tôi coi!. Họ liền đưa cho Người một đồng bạc. “Hình và danh hiệu này là của ai đây Họ đáp: “Của César”. Bấy giờ Đấng Cứu Thế bảo họ: “Thế thì của César, trả về César; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa” Cũng như César tìm hình ảnh mình trên đồng tiền thế nào, thì Thiên Chúa cũng tìm hình ảnh của Người-trong hình hồn bạn như vậy. Đấng Cứu chuộc phán rằng: “của César, trả về César”. César đòi bạn trả gì? trả hình ảnh của ông. Chúa đòi bạn trả gì? Hình ảnh Người. Nhưng hình ảnh của César thì in trên đồng tiền, hình ảnh của Thiên Chúa ở trong lòng bạn: Nếu mất đồng tiền khiến bạn phải khóc, vì bạn đã đánh mất hình ảnh César. Thì gây xỉ nhục cho hình ảnh Chúa trong lòng bạn, lẽ nào điều đó lại không hề làm cho bạn phải nhỏ lệ sao?”.
- “Hôm nay đến lượt ta làm chứng Tin Mừng”.
(Sổ tay sinh hoạt Ngày thế giới Truyền giáo).
“Năm 180, tại miền đất nay là nước Tunisit có 5 phụ nữ và 7 người đàn ông là nông dân bị bắt vì là những người có đạo Người ta ép họ chối bỏ đức tin và nhìn nhận hoàng đế Rôma là Chúa. Theo án lệnh, một phụ nữ trong đám đáp: “chúng tôi kính trọng César vì là hoàng đế nhưng chúng tôi chỉ tôn thờ Thiên Chúa mà thôi. Tất cả đều bị kết án tử, họ là những vị tử đạo tiên khởi của Bắc Phi.
Họ làm chứng cho lời Chúa mà chúng ta vừa nghe: “Hình và danh hiệu của César, trả về César, vì đồng tiền này là dấu hiệu sự tổ chức xã hội mà con người tham dự nào, tỉ dụ như việc nộp thuế, nhưng con người được tạo dựng theo hình ảnh Chúa (St 1,26-27) và “mang danh hiệu: Con thuộc về Chúa (Is 44,5), nên phải trả về Chúa”… Đây chẳng qua là một thí dụ xưa rồi, nhưng ta có thể tìm ra vô vàn những mẫu tương đương trong tất cả lịch sử Kitô giáo. Cho tới thời hiện đại… Đó chẳng phải là kết quả của việc loan báo Tin Mừng, của Lời Chúa được đón nhận có sức làm biến đổi đời sống con người như đã thể hiện nơi Giáo Hội trẻ trung ở Thessalonica mà thánh Phaolô nói tới đó sao? Chính ngài, ngài biết rõ mình được sai đi rao giảng bí ẩn của Thiên Chúa mà Đức Giêsu đã mạc khải… Nhưng điều làm cho thánh nhân vui mừng là được thấy sống dậy một cộng đồng các người nam nữ mà đời sống của họ được đổi mới nhờ việc họ đón nhận Tin Mừng này. Họ có một lòng tin sống động, một lòng mến tích cực và một lòng cậy trông vững vàng như ta thấy thánh tông đồ nói về họ. Những cộng đồng này, đến lượt mình, trở thành những nhân chứng giúp mở ra những hàng rào xã hội trong đó con người có nguy cơ bị giam hãm. Những cộng đồng này móc nối với cộng đồng kia lần lượt nổi lên như những hoa trái của Lời Đức Giêsu, tạo thành một chuỗi các mắt xích, đã dần dần thể hiện một sự hiệp thông các Giáo Hội địa phương và đó chính là Giáo Hội của Chúa trong thế giới. Các giáo hội ấy cùng nhau thực thi Lời Chúa “Của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa.
(Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt)
CÂU HỎI GỢI Ý
- Phải đặt đoạn này trong toàn bộ các chương 21-23 như thế nào?
- Có lạ lùng không khi hai phe Biệt phái và Hêrôđê hợp tác chặt chẽ với nhau ở đây?
- Phải chăng tiếng kêu “Thầy” có một cách dùng đặc biệt trong Mt?
- “Cạm bẫy” mà các kẻ đối thoại với Chúa Giêsu giăng ra cho Người đúng ra là gì?
- Biệt phái có phải là “giả hình” chỉ vì đã giả vờ khen Chúa Giêsu không? Phải chăng họ cũng không sống giả hình trong chính vấn đề nộp thuế?
- Câu trả lời của Chúa Giêsu vượt quá câu hỏi do địch thủ Người đặt ra ở chỗ nào?
*****
- Trong vụ tranh tụng diễn ra tại Đền thờ giữa Chúa Giêsu và các địch thủ Người: thượng tế và ký lục (20,18; 21, 15), thượng tế và niên trưởng trong dân (21, 23), thượng tế và Biệt phái (21, 45), chúng ta đã thấy điểm tranh chấp dần dần xác định: lai lịch của Con Đavít và nguồn gốc quyền bính của người hay, nói cách tương đương, bản chất của Nước Thiên Chúa. Các dụ ngôn đã cho thấy sự cấp bách phải chọn lựa, đồng thời vẫn còn để cho cơ hội hối cải về sau (21, 32; 21, 45).
Bây giờ đến bốn cuộc tranh luận móc nối nhau theo chiều hướng đi lên. Chúng xem ra được xếp đặt theo một lược đồ thông dụng của các giáo sĩ:
– Hokmâh (sự khôn ngoan): một cuộc tranh luận về phép xử thế nhân cơ hội một vấn đề pháp luật (22,15-22).
– Haggadâh (lời chú giải): một dịp giải thích các đoạn Kinh Thánh có vẻ mâu thuẫn (22,41-46).
– Bôrut (điều thô tục): một cuộc tranh luận nhắm chế nhạo một niềm tin (22, 23-33).
– Dérèk érèts (con đường thế): một tranh luận về các nguyên tắc căn bản của đời sống luân lý (22,34-40).
Tuy nhiên Mt đổi thứ tự cổ truyền bằng cách đặt haggadâh vào phần cuối của cuộc tranh chấp để cho thấy cuộc tranh chấp tiến đần đến câu hỏi sau cùng của Chúa Giêsu.
Ba cuộc tranh luận đầu tiên được khỏi xướng do ba nhóm đại diện cho Do thái giáo chính thức, họ muốn tìm cách gài bẫy Chúa Giêsu bằng chính lời nói của Người (cc.15 và 35) về những vấn đề càng lúc càng quan trọng: việc nộp thuế cho hoàng đế vấn đề chia rẽ phe cánh Hêrôđê, nhóm Biệt phái và đảng Nhiệt thành; kẻ chết sống lại; vấn đề bị phái Sađucêô chối bỏ; điều răn lớn nhất: mốl bận tâm của những người Do thái chăm chú giữ luật là nhóm Biệt phái. Các vấn đề này được đặt ra cho một Rabbi, một “Thầy” (didaskale: cc. 6. 27. 36), tước hiệu cho thấy sự hiểu biết của họ về Chúa Giêsu đến mức độ đâu, nhưng Người, cứ mỗi lần như vậy, lại dẫn họ đến một vấn đề căn để hơn. Và sau cùng Người đi bước trước bằng cách đặt rõ cho họ vấn đề nêu lên do sự có mặt của Người giữa họ trong Đền thờ, khiến họ bị bắt buộc phải chọn lập trường tối hậu.
- Đoạn ngắn này bao gồm âm mưu của địch thủ Chúa Giêsu (c. 15), cuộc toan tính của họ bên Người (16, 17) và câu Người trả lời cho họ (18- 21): trọng tâm của trình thuật nằm trong lời phán quyết sau cùng, cái lời lưu giữ với những hạn từ rành rẽ một giáo huấn quan trọng của Chúa Kitô. Đưa ra nhân một cuộc tranh luận với các tiến sĩ Luật, công thức này quả nổi bật trong khung cảnh đó.
Câu hỏi đặt ra cho Chúa Giêsu là một câu hỏi hóc búa, nhằm mục đích hại Người hoặc trước dân chúng, hoặc trước quyền bính dân sự. Như ta biết, nhóm Biệt phái tượng trưng cho tinh thần bất nhượng bộ về vấn đề tôn giáo và một cách chính thức tượng trưng cho những người quyết tâm bảo vệ sự tự do của dân Chúa tước quyền bính Rôma tại Giuđêa, quyền bính này nằm trong tay một tổng trấn mà đôi lúc, với sự hỗ trợ của binh lính, đã tỏ ra rất hà khắc. Còn nhóm Hêrôđê lại thân với Rôma, vì đế quốc nâng đỡ các quận vương xuất thân từ giòng tộc Hêrôđê Cả đang trị vì ở Galilê và Pêrê (Hêrôđê Antipas) hoặc Auranitide, Gaulanitide, Batanée, Tratronitide và lturée (philíp). Nhóm chủ trương hợp tác với kẻ chiếm đóng vì sự hợp tác này có lợi cho họ.
Các lời nói của những kẻ được sai phái thật sảo quyệt. Câu đầu tiên, rất dài, với dụng ý đánh tan mọi ngờ vực, là một lời khen đầy tôn kính giả vờ đối với Chúa Giêsu (c. 18). Họ chào Người với tước hiệu Rabbi. Họ khen Người thành thật. Có thẩm quyền và bất thiên vị. Họ năn nỉ xin Người phán một lời để giải quyết một vấn đề phức tạp mà họ không thể nào đồng ý với nhau. Sau câu xã giao rườm rà và thơn thớt ấy là đến một liều thuốc độc (c. 17), một câu hỏi sắt như dao và bất ngờ: “Có được phép nộp thuế cho hoàng đế không?”.
Ngoài các loại thuế gián thâu đánh trên mọi công dân của đế quốc (thuế thông lưu, thuế thương chính, thuế kế sản và thuế mại vật), các tỉnh còn phải nộp cống thuế (tributum) cho nhà vua; cùng với việc kiểm tra, cống thuế này là dấu chỉ rõ ràng nhất của việc lệ thuộc; người Do thái ghét thứ thuế đó lắm và đảng Nhiệt thành coi việc từ chối nộp nó là một bổn phận tôn giáo. Tại Giuđêa, nó đã được giòng tộc Séleucos thiết lập từ lâu và được người Rôma duy trì dưới hai hình thức là thuế điền thổ (tributum soli) và thuế thân (tributum capitis) mà nhiều nhân viên có nhiệm vụ thâu dưới sự kiểm soát của các quan chức chuyên môn là các tổng trấn, được đặt đứng đầu mỗi khu vực tài chính.
Thành thử câu hỏi đặt ra cho Chúa Giêsu hàm chứa một lưỡng đao: nếu Người chấp nhận nguyên tắc trả thuế thì dân chúng sẽ xem Người như một tên Do thái gian, một người bạn của Rôma và nhóm Biệt phái sẽ có cơ hội đạp đổ uy tín của Người trên dân chung. Nếu tuyên bố chống nộp thuế, nhóm Hêrôđê sẽ phản ứng tức thì và sẽ có cớ để làm Người bị tổng trấn lên án bằng cách trình bày Người như một tên phá rối trật tự chung. Cổ võ việc chống đối nộp thuế điều mà chính Người sẽ thực sự bị gán ghép trong vụ xử án trước tòa Philatô sau này. (x Lc 23, 2).
Câu trả lời của Chúa Giêsu gồm ba yếu tố:
- Trước tiên Người tuyên bố rằng mình không phải là kẻ dễ bị lừa gạt. Người biết mình bị giăng bẫy và biết các kẻ đối thoại (đều nham hiểm và tà tâm).
- Người trả đũa một cách khéo léo bằng cách hỏi vặn lại. Vì những kẻ nói với Người đều đã trả lời, qua các sự kiện, cho chính câu hỏi họ nêu lên. Chúa Giêsu bắt buộc họ tỏ ra cho thấy là họ đang mang trong mình đồng tiền của đế quốc (người Do-thái không được quyền đúc tiền bằng đồng đỏ hay bằng bạc mà chỉ bằng đồng thau, những thứ ít giá trị này không được dùng để nộp thuế thân hoặc thuế điền thổ). Theo lời Người yêu cầu họ liền đưa ra một đồng quan. Đồng quan chính là thứ tiền dùng nộp thuế. Ngoài ra, đồng này lại còn được khắc hình và tên của hoàng đế tại vị (lúc ấy là Tibêriô). Làm thế, Chúa Giêsu muốn ngầm hỏi họ rằng tại sao họ ngại ngùng khi phải trả lại cho hoàng đế (qua việc nộp thuế) đồng tiền có nguồn gốc Rôma và ngoại giáo ấy hơn là khi nhận nó với cùng thế giá của hoàng đế trong các giao dịch bán buôn của họ? Nếu đã có một vấn đề thì từ lâu họ đã giải quyết bằng cách chấp nhận rồi. Trong lãnh vực tiền tệ, họ đã tự nhận mình lệ thuộc hoàng đế Rôma.
- Bấy giờ Chúa Giêsu mới đi xa hơn câu hỏi được đặt: Nói cho cùng, chỉ có một điều quan trọng mà người ta có thể thực hiện cách hoàn toàn ngay dưới ách thống tn của ngoại bang, đó là trả lại cho Thiên Chúa những gì thuộc về Ngài. Điều này, Người không ngừng nói từ khi bắt đầu hoạt cộng và cả Tin Mừng đầy dấy: hãy tìm kiếm Thiên Chúa trước hết mọi sự hãy tìm Nước Trời và sự công chính của Nước ấy trước tiên… Nếu ta thực sự quan tâm đến điều đó, thì mọi vấn đề khác đầu trở thành phụ thuộc, không quan yếu; cơm ăn, áo mặc và công lý dưới trần gian (x. 5, 39-42). Tuy thế, câu nói này không muốn thiết lập hai trật tự khác biệt mà mỗi thứ sẽ là một điều quy chiếu tối hậu: Giáo Hội và quốc gia, và lại càng không muốn đề cao thái độ tùng phục hoàng đế. Nó chỉ đặt các vấn đề vào đúng chỗ của chúng thôn. Các vấn đề liên quan tài hoàng đế đến sau các vấn đề liên hệ tới Nước Trời. Người ta đã đặt vấn đề nộp thuế cho Chúa Giêsu, nhưng lại không hỏi gì Người về những đòi hỏi của Thiên Chúa. Người đã chẳng tìm cách tránh né vấn đề vì có thể gây nên nguy hiểm cho bản thân. Người chỉ đặt lại mọi sự vào đúng chỗ của chúng khiến các địch thủ không còn cách nào theo đuổi câu chuyện, chẳng còn biết làm sao để đun sôi cuộc tranh luận lên. Quyền lợi của hoàng đế đã không bị động chạm, nhưng nhất là quyền lợi của Thiên Chúa đã được đề cao. Người ta có thể hoàn toàn thỏa mãn các yêu sách của Thiên Chúa mà vẫn nộp thuế cho hoàng đế. Chính Thiên Chúa là Đấng duy nhất mà con người phải yêu mến hết sức lực mình (x. 22, 37)
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Họ sai đến với Người môn đồ của họ”: một câu khó hiểu: trong Tin Mừng (và hầu như trong văn chương Do thái), người ta chỉ đề cập đến “môn đồ của Biệt phái” ở đây và ở Mc 2, 13 thôi; trong “môn đồ” hàm chứa giả thuyết có một tôn sư, thế mà các người Biệt phái không dạy dỗ bao giờ, trừ ra một số trong bọn họ là Ký lục. Phải chăng Biệt phái đã sai môn đồ của những ký lục như thế. Điều đó rất có thể. Một Biệt phái đứng tuổi mà lại đi hỏi về vấn đề nộp thuế thì chắc chắn không phải là chuyện tự nhiên và có thể làm cho Chúa Giêsu nghi ngờ, vì lập trường của họ về vấn đề này đã quá rõ đối với dân chúng Palestine.
“Thầy”: Trong Mt, các môn đồ chẳng bao giờ dùng tiếng Thầy khi nói với Chúa Giêsu, nhưng dùng danh xưng “Ngài” (Kyrie); chỉ có các Ký lục, Biệt phái, phe Saducêô (8, 19; 9, 11; 12, 38; 22, 16. 25. 36) cũng như những người thu thuế (17, 24) và chàng thanh niên giàu có (19, 16) sử dụng thôi. Giuđa, người duy nhất trong đám 12, hai lần dùng danh xưng, “Thầy” (26, 25.49), trong mà Chúa Giêsu yêu cầu tránh trong cộng đoạn huynh đệ (23, 7- 8).
“Chúng tôi biết…”: Lời khen lớn nhất tặng cho một rabbi, nghĩa là một kẻ cắt nghĩa Lề luật cho đời sống hằng ngày, là khen họ trung thành với Lề luật (cách dịch của BJ và Nguyễn Thế Thuấn: “ngay thật” (franc) và “chân thành” (franchise) kể ra quá yếu, cách của Osty hay hơn: “Chúng tôi biết Thầy là người chân thật và Thầy dạy đường lối của Thiên Chúa trong chân lý”) và không thiên vị ai; các giáo sĩ đương thời hay nhắc đi nhắc lại hai yêu sách này. Sau Cựu ước, Tân ước thường tố cáo tội thiên tư, những thói trọng người theo địa vị và giai cấp xã hội (Cv 10, 34; Gc 2, 1.9; Rm 2,11; Ep 6. 9; Cl 3, 25…).
“Có được phép nộp thuế cho hoàng đế không?”: Kiểu nói đặc thù này của Mt (12, 24. 10. 12; 14, 4; 19, 3; 20, 15; 27, 6) là câu hỏi mà người Do thái mộ đạo luôn luôn tự đặt cho mình và là câu mà các giáo sĩ có nhiệm vụ giải đáp trong cả ngàn nố lương tâm nêu lên cho cuộc sống thường nhật; nó có ý nghĩa quy thần: trước mắt Thiên Chúa, nghĩa là dưới ánh sáng của lề luật có được phép nộp thuế không? thành thử câu hỏi không được đặt ra trong phạm vi dân luật hay chính trị, vì trong trường hợp đó, nó sẽ được phát biểu: “Có được phép không nộp thuế chăng?”
“Đồ giả hình”: Các người đối thoại với Chúa Giêsu giả hình trong hai chuyện. trước hết là họ làm bộ như rất quan tâm đến một vấn đề thời sự trong lúc chỉ cốt đặt nó ra để làm cho Chúa Giêsu lúng lúng. Thứ đến là khi sử dụng đồng quan (“đồng tiền của hoàng đế”) trong các giao dịch thương mại của họ, họ đã mặc nhiên thừa nhận quyền bính của hoàng đế từ lâu rồi.
“Hãy trả cho hoàng đế”: câu trả lời này chứa đựng một thẩm định tích cực và tổng quát về vai trò của Nhà nước trong đường hướng của một vài giáo thuyết Do thái đương thời cho rằng những người làm lớn nhận lãnh quyền bính từ nơi Thiên Chúa (Đn 2,21; 2,37-38; Cn 8, 15-16; Ga 19,11; Rm 13,1-7). Triều đại của Thiên Chúa đã được khai mào, tuy nhiên các triều đại của thế gian này vẫn còn hành xử quyền bính cách chính đáng luỵ chỉ tạrn thời. Đối với các quyền bính chính trị, thì Chúa Giêsu, trong toàn bộ Tin Mừng, đã tỏ ra một thái độ chung chung là hoàn toàn không lệ thuộc, nhưng cũng chẳng chống đối. Cách sống của Kitô hữu đầu tiên, như được mô tả trong Công vụ sứ đồ và các thánh thư, cũng nằm trong chiều hướng ấy.
KẾT LUẬN
Qua câu trả lời, Chúa Giêsu không phân định ranh giới giữa hai phạm vi hay hai lãnh vực trong đó Thiên Chúa và hoàng đế sẽ làm chúa tể trong những gì liên quan đến mình. Người chẳng có ý bảo rằng sự vâng phục nhà nước có thể được quan niệm một cách độc lập với sự vâng phục Thiên Chúa. Người không phủ nhận việc có thể xảy ra những tranh chấp giữa Thiên Chúa và hoàng đế và có nhiều trường hợp cần phải chọn lựa giữa việc vâng lời Thiên Chúa và vâng lời người ta (x Cv 4, 18-20). Người chỉ bảo sự xung đột này chẳng có ở nơi mà Biệt phái muốn thấy. Kẻ nào thực sự tùng phục Thiên Chúa và sống trong niềm mong đợi Nước Trời và sự công chính của nó, thì có thể thừa nhận tính cách chính đáng và đồng thời những giới hạn của quyền lợi hoàng đế. Sở dĩ Biệt phái đã đặt câu hỏi, là vì họ không lấy làm quan trọng sự hiện hữu của họ trong thế giới của hoàng đế cũng như sự hiện hữu của Thiên Chúa mà thế giới của hoàng đế cũng lệ thuộc vào. Chính vì Chúa Giêsu đích thực là vua các vua và Chúa các chúa (1Tm 6,15) mà mệnh lệnh của người: hãy trả cho hoàng đế những gì thuộc về hoàng đế…” làm cho việc tùng phục quyền bính thế gian này có một ý nghĩa, một nội.dung ki tô giáo: “Anh em hãy vì Chúa là tùng phục mọi thể chế trong nhân loại hãy hành động như tôi tớ của Thiên Chúa” (1 Pr 2, 13-16).
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
- Chúng ta có thể lấy lại, nhưng phải gột rửa khỏi mọi ý hướng mỉa mai trong đó, lời Biệt phái khen ngợi Chúa Giêsu, một lời thật xứng hợp cho Người Chúa Giêsu là Đấng chân thật: Người không để cho những đòi hỏi của sự thật hay của luân lý tùy thuộc vào những toan lính “xu thời”, chỉ cốt mưu sự thánh công; người nói thẳng thắn trước mặt địch thủ; câu trả lời của Người là có hoặc không (2Cr 1, 18-20), tùy như sự việc đúng hay sai, tốt hay xấu; Người tự xác định chính mình là Sự thật (Ga 14,6). Chúa Giêsu dạy đường lối của Thiên Chúa không phải luật Môisen (Ga 1,17) cũng chẳng phải sự khôn ngoan nhân trần (1Cr 2,1-16) của các triết gia hay nhà luân lý định hướng cuộc đời chúng ta nhưng là giáo huấn Chúa Giêsu; Người là ánh sáng mà chúng ta phải theo để khỏi lạc đường; Người cũng đã xác định mình là “ánh sáng thế gian” (Ga 8, 12) và quả quyết rằng “ai theo Ta, không phải bước đi trong tăm tối” Chúa Giêsu chẳng thiên vị ai: Người là Cứu Chúa của mọi người (x.1Tm 2, 3-6); đối với Người, những khác biệt về chủng tộc phái tính, gốc tích và địa vị xã hội không quan trọng (Gl 3, 28). Với Người, mỗi người là một cá vị độc đáo.
- Mối bận tâm lớn của Chúa Giêsu, trong câu Người trả lời là biểu lộ tính cách siêu việt và tuyệt đối của những quyền lợi Thiên Chúa. Trước đòi hỏi nộp thuế, Người không chối từ, trái lại còn nhìn nhận việc ấy có tính cách chính đáng. Nhưng Người lại nêu lên một đòi hỏi còn sâu xa hơn, triệt để hơn, của một trật tự hoàn toàn khác hẳn: người ta phải trả cho Chúa không phải một vật nào đó, nhưng là chính bản thân của mình.
- Thành thử quyền bính dân sự chỉ chuyên trách trong trật tự trần thế là trật tự lệ thuộc vào những thực tại của trật tự tôn giáo. Trong phạm vi này, mà Chúa Giêsu không muốn xác định rõ hơn, Người đã nhìn nhận rằng việc người Do thái nộp thuế cho chính quyền rôm đương thời không có gì là vô luân và phạm thánh cả. Dù chẳng xác quyết bổn phận nộp thuế xem ra Người vẫn giả thiết nó như một hậu quả của tính cách chính đáng của thuế má; nhưng Người không, đi sâu vào trong các quan điểm này, những quan điểm mà thánh Phaolô sẽ minh giải về sau: “Nợ gì với ai hãy trả cho người ấy: sưu cho kẻ đòi sưu, thuế cho kẻ đòi thuế” (Rm 13, 6-7).
- Kiểu nói: “Hãy trả cho hoàng đế những gì thuộc về hoàng đế” muốn diễn lả những đòi buộc của đời sống cộng đồng trong số những đòi buộc của đời sống luân lý. người Kitô hữu không thể nào tự miễn cho mình những bổn phận đối với quốc gia và trong quốc gia, lấy cớ là chỉ thực hiện những bổn phận thuần túy tôn giáo. Việc vấn tâm của chúng ta do đó phải xét đến các bổn phận của người công dân. Vì dù là công dân của Nước Trời (Pl 3, 19-20), chúng ta cũng là công dân của một quê hương trần thế mà chúng ta mang trách nhiệm về trong mức độ quê hương ấy đòi chúng ta phải dấn thân phục vụ (Cv 21,39: Phaolô, công dân thành Tarsê; Cv 16, 37-39 và 22, 25-29; Phaolô, công dân Rôma).
- Thánh Phaolô nói rõ mọi quyền bính đều từ Thiên Chúa mà ra, và ta phải tùng phục chính quyền trong những gì thuộc địa hạt của nó, không những vì sợ hãi và vì lợi ích, nhưng còn vì bổn phận lương tâm (Rm 13,1-7; Tt 3, 1). Ngài cũng khuyên nhủ cầu nguyện cho các nhà đương quyền, để hòa bình được ngự trị trong thế gian (1Tm 2, 1-4).
64. ”Tốt đời đẹp đạo” – Lm. Đan Vinh
- HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH:
Một số người Pha-ri-sêu liên kết với nhóm Hê-rô-đê tìm cách gài bẫy Đức Giêsu, để có cớ tố cáo chống lại Người. Nhưng cuối cùng Người không bị mắc bẫy của họ, mà còn giúp họ ý thức bổn phận sống “tốt đạo đẹp đời”, vừa tôn trọng thế quyền lại vừa tôn trọng thần quyền bằng nguyên tắc như sau: “Của Xê-da trả về Xê-da, Của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa”.
CHÚ THÍCH:
– C 15: + Bấy giờ những người Pha-ri-sêu đi bàn bạc với nhau, tìm cách làm cho Đức Giêsu phải lỡ lời mắc bẫy: Những người Pha-ri-sêu được dân Do Thái đánh giá là có lòng ái quốc, chống lại đế quốc Rô-ma bấy giờ đang cai trị nước Do Thái. Các người Pha-ri-sêu rất tôn trọng Thiên Chúa, tuân giữ tỉ mỉ từng điều khoản trong bộ luật Mô-sê, nhất là luật về ngày hưu lễ (Sa-bát) và việc thanh tẩy, nhưng họ lại không tin Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai (Mê-si-a). Vì Đức Giêsu nhiều lần quở trách thói giả đạo đức và kiêu căng, nên họ luôn chống đối Người. Ở đây họ bàn mưu tính kế để tố cáo Người về lời nói.
– C 16: + Những người phe Hê-rô-đê: Đây là một đảng phái chính trị, là tay chân ủng hộ vua Hê-rô-đê và thân với chính quyền Rô-ma. Họ theo văn hóa Hy Lạp và không quan tâm đến luật Mô-sê. Có thể nói phe này đối lập với nhóm Pha-ri-sêu cả về chính trị lẫn tôn giáo. Người Pha-ri-sêu cùng với những người phe Hê-rô-đê: Hai nhóm người đối nghịch nhau giờ đây lại liên kết với nhau để đối phó với Đức Giêsu là kẻ thù chung của họ, như Tin Mừng Lu-ca viết: “Họ rình rập và sai một số người giả bộ làm người công chính, đến dò la, mong bắt quả tang Đức Giêsu lỡ lời, để nộp Người cho nhà chức trách có thẩm quyền là tổng trấn” (Lc 20,20). + Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật: Đây là một lời khen giả dối với mục đích tránh bị Đức Giêsu nghi ngờ về ý đồ đen tối của họ. Họ chào hỏi Người như là một ông Thầy (Rab-bi), khen Người là người trung thành với lề luật Thiên Chúa và không bị người đời chi phối. Đây là hai đặc tính tiêu biểu của người công chính được Thánh Kinh nhắc đến (x. Cv 10,34 ; Gc 2,1-9 ; Cl 3,25).
– C 17: + Xin Thầy cho ý kiến: Họ xin Đức Giêsu cho ý kiến để giải quyết một vấn đề phức tạp mà nhóm Pha-ri-sêu và nhóm Hê-rô-đê bất đồng ý kiến với nhau. + Xê-da: Tước hiệu ám chỉ hoàng đế đang trị vì đế quốc Rô-ma. Trong Tân Ước, tước hiệu Xê-da ám chỉ 3 vị hoàng đế Rô-ma: Một là Augustô: cai trị từ năm 29 trước Công nguyên đến năm 14 sau Công Nguyên, vào thời điểm Đức Giêsu giáng sinh tại Bê-lem (x. Lc 2,1). Hai là Tibêriô: Cai trị từ năm 14 đến năm 37 sau CN, trong thời gian Đức Giêsu giảng đạo công khai. Tin Mừng nhắc đến tước hiệu này 3 lần: Khi Đức Giêsu chịu phép rửa (x. Lc 3,1), khi Người bị gài bẫy về việc nộp thuế (x. Mt 22,17) và khi Người bị dân Do Thái đòi kết án tử hình thập giá (x. Ga 19,12). Ba là Nêron: cai trị từ năm 54 đến năm 68 sau CN. Sách Công Vụ dùng tước hiệu này để chỉ hoàng đế Nê-rông, khi ông Phao-lô gặp khó khăn với người Do Thái tại Thê-xa-lô-ni-ca (x. Cv 17,7), và khi ông tự biện hộ rồi kháng án lên hoàng đế Xê-da (x. Cv 25,10 ; 28,19). + Nộp thuế: Người Do Thái hằng năm đều phải nộp hai thứ thuế: Một là thuế tôn giáo hay thuế Đền Thờ (x. Mt 17,24). Hai là thuế nhà nước: Ngoài nhiều loại thuế khác, mỗi năm người Do Thái trong hạn tuổi từ 14 đến 65, đều phải nộp thuế thân cho hoàng đế Rô-ma. Người Do Thái coi việc nộp thuế này là một sự ô nhục, biểu lộ thái độ thần phục hoàng đế Rô-ma. Vì thế Nhóm Quá khích có tinh thần ái quốc đã cấm thành viên của mình đóng thuế cho ngoại bang. + Có được phép nộp thuế cho Xê-da hay không?: Câu này có nghĩa là người Do Thái theo lương tâm có được nộp thuế cho hoàng đế Xê-da vừa là dân ngoại, vừa là vua của đế quốc đang thống trị dân Do Thái hay không? Như vậy vấn đề nộp thuế ở đây được đặt trên bình diện chính trị. Đây chính là một cái bẫy mà theo thâm ý của họ thì Đức Giêsu trả lời đằng nào cũng không ổn: Nếu bảo phải nộp thuế, thì nhóm Pha-ri-sêu sẽ tố cáo Người là kẻ phản quốc và chắc chắn không phải là Đấng Thiên Sai (Mê-si-a) mà dân Do Thái đang chờ mong mau đến, để giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của dân ngoại. Ngược lại, nếu Người bảo không phải nộp thuế, thì phái Hê-rô-đê sẽ dựa vào đó tố cáo với tổng trấn Rô-ma rằng Đức Giêsu là kẻ phản động, đang âm mưu chống lại chính quyền Rô-ma, cụ thể là xúi giục dân không nộp thuế, để tổng trấn ra lệnh bắt bớ giết hại Người.
– C 18: + Đức Giêsu biết họ có ác ý: Những kẻ chất vấn Đức Giêsu đã tỏ ra giả dối trong hai chuyện: Một là họ làm ra vẻ băn khoăn về một vấn đề lương tâm, đang khi thâm ý của họ là muốn gài bẫy làm hại Đức Giêsu. Hai là trong cuộc sống đời thường, họ vẫn phải sử dụng đồng tiền của Xê-da để giao dịch mua bán, tức là họ đã mặc nhiên chấp nhận quyền cai trị của hoàng đế Rô-ma rồi. Thế nhưng họ vẫn làm ra vẻ như không chấp nhận quyền ấy. + Tại sao các người lại thử tôi?: Qua câu này, Đức Giêsu cho thấy người đã biết rõ ý đồ đen tối của bọn người này là muốn giăng bẫy để làm hại Người. + Hỡi những kẻ giả hình: Giả hình là không trung thực, là giả bộ, thái độ và lời nói bên ngoài trái ý với ý nghĩ trong thâm tâm. Họ đặt câu hỏi không phải vì muốn biết điều đúng để theo, nhưng là muốn đưa Người vào thế “tiến thoái lưỡng nan”, để hoặc tố cáo làm mất uy tín của Người trước dân chúng, hoặc tố cáo Người với nhà cầm quyền Rô-ma để mượn tay họ giết hại Người.
– C 19: + Đưa đồng tiền nộp thuế cho tôi coi: Đức Giêsu đòi họ đưa ra đồng tiền nộp thuế là tiền của Rô-ma đang lưu hành ngoài xã hội, trên đó có khắc hình và danh hiệu của Hoàng đế Xê-da. Mười điều răn trong Luật Mô-sê có khoản như sau: “Người không được tạc tượng, vẽ hình bất cứ vật gì ở trên trời cao, cũng như dưới đất thấp, hoặc ở trong nước phía dưới mặt đất, để mà thờ” (Xh 20,4). Trên danh hiệu hoàng đế Rô-ma có chữ thần linh, vì hoàng đế tự coi mình là thần, nên người Do Thái đạo đức không muốn sử dụng đồng tiền này. Dân Do Thái trước khi nộp thuế Đền Thờ hay ủng hộ việc trùng tu Đền Thờ, phải đổi từ tiền Rô-ma dùng ngoài xã hội sang loại tiền riêng dùng trong Đền Thờ tại những bàn đổi tiền (x. Mt 21, 12). + Họ đưa cho Người một đồng bạc: Người Do Thái có lòng yêu nước chân chính sẽ không mang theo đồng tiền của đế quốc Rô-ma. Ở đây khi lấy từ túi áo một đồng tiền để đưa cho Đức Giêsu, tức là những người này đã mặc nhiên thừa nhận quyền cai trị của hoàng đế Xê-da. – C 20-21: Hình và danh hiệu này là của ai đây?: Đức Giêsu đã quá biết hình và danh hiệu khắc trên đồng tiền là của Xê-da. Nhưng Người muốn chính miệng họ phải nói ra điều này, trước khi Người trả lời thắc mắc của họ. + Thế thì của Xê-da, trả về Xê-da: Một khi họ nhận quyền của hoàng đế trên dân tộc mình, thì việc nộp thuế cho hoàng đế Rô-ma cũng là lẽ đương nhiên (x. Rm 13,5-7). Vì mọi quyền hành đều xuất phát từ Thiên Chúa, như lời Đức Giêsu nói với tổng trấn Phi-la-tô: “Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài” (Ga 19,11), hoặc như thánh Phao-lô viết: “Mỗi người phải phục tùng chính quyền, vì không có quyền bính nào mà không bởi Thiên Chúa, và những quyền bính hiện hữu là do Thiên Chúa thiết lập” (Rm 13,1-4). Thánh Phê-rô cũng dạy tương tự (x. 1 Pr 2,13-14). Nói cách khác, khi người ta tùng phục quyền bính chính đáng của thế quyền, thì cũng là làm theo thánh ý của Thiên Chúa. + Của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa: Nhưng khi thế quyền chống lại Thiên Chúa, thì các tín hữu phải chọn đứng về Thiên Chúa, vì Người mới là nguồn gốc mọi quyền bính của loài người, như Tông đồ Phê-rô đã trả lời trước Thượng Hội Đồng Do Thái, khi bị họ ngăn cấm rao giảng danh Đức Giêsu: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người phàm” (Cv 5,29). Tóm lại, qua câu trên, Đức Giêsu muốn dạy rằng: Nộp thuế thì cứ nộp, vì dù muốn dù không thì ta cũng đang sống dưới quyền cai trị của một đế quốc, thể hiện qua việc phải sử dụng đồng tiền của đế quốc. Nhưng chỉ được tôn thờ một Thiên Chúa độc nhất, và ngoài Người ra không còn thần linh nào khác. Như vậy theo lời Đức Giêsu, người ta phải chu toàn cả hai bổn phận: Vừa tôn trọng quyền lợi của hoàng đế, lại vừa tôn trọng quyền lợi của Thiên Chúa.
CÂU HỎI:
1) Tại sao người Pha-ri-sêu chống đối Đức Giêsu? 2) Hai nhóm Pha-ri-sêu va Hê-rô-đê đã làm gì để liên kết với nhau chống lại Đức Giêsu? 3) Trong Tân Ước, Xê-da là tước hiệu ám chỉ ba vị hòang đế nào của đế quốc Rô-ma? 4) Người Do thái mỗi năm phải nộp những lọai thuế nào? Ho thường bất đồng ý kiến với nhau về việc nộp loại thuế nào cho Rô-ma? Tại sao? 5) Những người Pha-ri-sêu va phái Hê-rô-đê đã gài bẫy Đức Giêsu ra sao về việc nộp thuê? 6) Tại sao Đức Giêsu lại gọi bọn người này là những kẻ giả hình? 7) Hãy cho biết hai lọai đồng tiền thời Đức Giêsu khác nhau như thế nào? Đức Giêsu đã làm gì để hóa giải cái bẫy của những kẻ ác ý kia? 8) Qua câu “của Xê-da trả cho Xê-da, Của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa”, Đức Giêsu đã phân định thế nào về bổn phận của các tín hữu đối với thế quyền và với Thiên Chúa?
- SỐNG LỜI CHÚA
- LỜI CHÚA: “Của Xê-da, trả về Xê-da, của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa” (Mt 22,21).
- CÂU CHUYỆN:
1) Sự lựa chọn của Thánh Tử Đạo Tô-Mát Mo-Rơ (Thomas More)
Vua Hăng-Ri Thứ Tám (Henry VIII) Nước Anh, muốn Tòa thánh hủy bỏ cuộc hôn nhân chính thức trước đó để tái hôn với cô En-nơ Bô-lơn (Anna Bolen). Nhưng vì không hội đủ lý do tiêu hôn, nên Tòa Thánh đã từ chối giải quyết yêu cầu của vua. Nghe vậy, Hăng-Ri tức giận và tuyên bố thành lập một giáo hội Anh quốc ly khai khỏi Công Giáo. Sau đó, ông tự huỷ bỏ cuộc hôn nhân trước để tái kết hôn theo ý ông muốn. Ông tự phong là giáo chủ của Anh giáo, và ra lệnh cho các chức sắc tôn giáo như hồng Y, Giám Mục và các Quan chức trong triều, các vị tướng lãnh, quý tộc và các thành viên trong nghị viện Anh phải ký tên vào một văn bản công nhận quyền tái hôn của ông, và gia nhập Anh giáo ly khai. Nhiều người phản đối, nhưng vì sợ bị chém đầu, nên đành ký tên vào bản văn ấy. Bấy giờ Tô-mát Mo-rơ đang là một quan chức cao cấp của nhà vua. Ông đã bị giằng co giữa hai bổn phận: một là của người tín hữu phải trung thành với Thiên Chúa và như thế sẽ bị kết tội phản nghịch và bị tử hình. Hai là bổn phận của một bề tôi phải trung thành với nhà vua và được hứa sẽ cho làm Tổng Giám Mục để hưởng nhiều bổng lộc và vinh hoa phú quý. Nhưng Tô-mát Mo-rơ đã chọn trung thành với Thiên Chúa. Sau đó Ngài đã bị bắt giam trong một nhà ngục ở Luân Đôn. Trong phiên tòa xét xử Ngài, sau khi nghe vị quan tòa tuyên án tử hình về tội phản nghịch dám chống lại nhà vua, Tô-mát Mo-rơ đã phát biểu như sau: “Tôi biết lý do tại sao tôi bị kết án, chỉ vì tôi đã không ủng hộ cuộc hôn nhân bất chính của nhà vua. Tôi chấp nhận từ bỏ cuộc sống đời tạm này, để bước vào một cuộc sống mới trong sự quan phòng của Thiên Chúa. Lạy Chúa, xin đón nhận linh hồn con: Đây vừa là một lời cầu xin mà cũng là niềm hy vọng của tôi. Tôi xin Chúa sớm nhận lời tôi cầu xin cho nhà vua mau sám hối trở về với Chúa”. Sau đó ngài đã anh dũng chết vì đạo vào ngày 06 tháng 07 năm 1525. Cuộc đời của Thánh Tô-mát Mo-rơ đã chấm dứt trong sự đạo đức thánh thiện và vinh quang như thế đó.
Còn bạn, khi gặp hoàn cảnh phải chọn một trong hai: Thiên Chúa hay tiền bạc, địa vị con Thiên Chúa hay chức quyền trần gian. Trong trường hợp đó, bạn sẽ chọn theo điều nào: Chọn theo Chúa và chấp nhận bị coi là kẻ khờ dại và bị loại trừ, hay chọn theo những kẻ gian ác tham nhũng để được an thân và được thăng quan tiến chức?
2) Đồng bạc Rôma thời Đức Giêsu:
Khi đến viện bảo tàng Men-sét-tơ (Manchester) bên nước Anh, và đi thăm khu vực trưng bày các loại đồng tiền cổ từ thời đế quốc Rô-ma, chúng ta có thể tìm thấy loại đồng tiền De-na-ri-ut (Denarius) bằng bạc, trên đó có đúc niên biểu và hình của hoàng đế Rô-ma. Quan tiền này được lưu hành trong nước Do Thái vào thời Đức Giêsu. Trong lúc cầm quan tiền trên tay và lật qua lật lại, chúng ta có thể liên tưởng đến dụ ngôn người Sa-ma-ri ngoại đạo, đã đưa cho chủ quán hai quan tiền như thế, để nhờ chăm sóc một người Do Thái bị bọn cướp trấn lột và đánh trọng thương (x. Lc 10,35). Chúng ta cũng có thể liên tưởng đến dụ ngôn các thợ làm vườn nho trong Tin Mừng Mát-thêu. Ông chủ vườn đã trả lương cho mỗi người thợ làm vườn một quan tiền như đồng bạc đó (x. Mt 20,9-10). Nhất là, chúng ta có thể liên tưởng đến quan tiền mà Đức Giêsu đã dùng để trả lời cho hai nhóm Pha-ri-sêu và Hê-rô-đê liên minh với nhau gài bẫy Người. Trên quan tiền này, chúng ta có thể thấy khuôn mặt của một vị Xê-da là Ti-Be-Ri-Ut (Cesar Tiberius) đang cai trị đế quốc Rô-ma thời Đức Giêsu rao giảng Tin Mừng Nước Trời (x. Lc 3,1). Mặt sau của đồng bạc là hình bà Li-Vi-A, mẹ của vua Ti-Be-Ri-Ut. Bà đang ngồi, cầm một cành cây ô-li-va trên tay, tượng trưng cho hòa bình.
- SUY NIỆM:
1) Hai khuynh hướng chính trị đối lập:
Nước Do Thái thời Đức Giêsu đang bị đế quốc Rô-ma cai trị. Dân Do Thái phải đóng thuế cho đế quốc. Trong nước Do thái lúc đó có hai khuynh hướng chính trị đối lập thù nghịch nhau:
– Đảng Hê-rốt thân chính quyền: Gồm những đảng viên của vua Hê-rô-đê, chủ trương theo đế quốc để bảo vệ ngai vàng nhà vua và để được hưởng các đặc quyền đặc lợi do đế quốc ban cho. Họ buộc dân chúng phải đóng thuế cho ngoại bang Rô-ma. Trong tôn giáo phái Sa-đốc gồm hầu hết các tư tế phục vụ Đền thờ Giê-ru-sa-lem đều có lập trường thân chính quyền để được yên thân lo việc tế tự.
– Đảng Zê-lốt chống chính quyền: Gồm những người yêu nước và bất phục đế quốc Rô-ma. Họ thường tổ chức nổi dậy chống lại quân đội Rô-ma và kêu gọi dân chúng không nộp thuế cho Rô-ma. Trong tôn giáo có phái Pha-ri-sêu cũng gọi là Biệt Phái thuộc phe này.
Xã hội Do thái bị phân hóa thành hai phe: Phe thân chính quyền thì bị dân chúng oán ghét tẩy chay. Còn Phe chống chính quyền thì được dân chúng kính nể, nhưng lại bị chính quyền Rô-ma theo dõi và gây khó dễ. Trong bối cảnh này, chủ trương nộp thuế hay không nộp là một vấn đề nhạy cảm đối với dân chúng Do thái.
2) Cái bẫy được giương ra:
– Thời Đức Giêsu ra giảng đạo: Dân Do thái ngoài bổn phận nộp thuế Đền Thờ, còn phải chịu ba loại thuế khác nộp cho chính quyền Rô-ma là: thuế ruồng đất; thuế lợi tức và thuế thân.
– Luật thuế thân của Rô-ma qui định công dân cả nam lẫn nữ tuổi từ 14 đến 65 đều phải đóng thuế thân hàng năm tương đương với một ngày công nhật của một thợ.
– “Có được phép nộp thuế cho Xê-da hay không?”: Đây là câu hỏi hóc búa do hai đảng đối lập nhau về chính trị nhưng lại đồng quan điểm chống đối Đức Giêsu là đảng Hê-rô-đê và Biệt Phái. Hai nhóm này cùng nhau đến gặp và đặt ra để đưa Đức Giêsu vào thế bí: Người trả lời theo hướng nào cũng đều bất lợi cho Người: Nếu Đức Giêsu trả lời phải nộp thuế cho đế quốc, thì phái Pha-ri-sêu vốn có lòng ái quốc sẽ rêu rao Đức Giêsu chỉ là hạng bán nước cầu vinh, là tay sai của ngoại bang để bóc lột đồng bào. Như vậy dân Do Thái sẽ không còn tin Người là Đấng Thiên Sai mà họ đang trông mong để giải phóng dân Do thái khỏi ách thống trị của ngoại bang Ro-ma. Còn nếu Đức Giêsu trả lời không được nộp thuế cho Xê-da, thì đảng Hê-rô-đê thân chính quyền sẽ chụp mũ cho Người là phản động, xách động quần chúng đừng nộp thuế cho Rô-ma, để quan Tổng trấn Rô-ma sẽ có cớ bắt bớ kết án phản nghich cho Người.
3) Câu trả lời của Đức Giêsu:
Trước hết Đức Giêsu đã vạch trần âm mưu đen tối của họ khi nói: “Tại sao các người lại thử tôi, hỡi những kẻ giả hình!” Rồi Người đòi họ đưa ra đồng tiền nộp thuế là loại tiền nào. Đây là đồng tiền bằng bạc, trên có khắc hình và tên hiệu của Xê-da tức là Hoàng đế Rô-ma. Khi được Đức Giêsu hỏi hình và tên hiệu là của ai, họ thưa: “Của Xê-da”. Dĩ nhiên, Đức Giêsu đã biết rõ hình đó là của Xê-da, nhưng Người muốn chính miệng họ nói ra điều này, để cho thấy: Một khi họ đã chấp nhận sử dụng đồng tiền của Rô-ma, tức là họ đã mặc nhiên công nhận quyền cai trị của ngoại bang và đã coi Xê-da là hoàng đế của mình rồi. Từ đó, Đức Giêsu tuyên bố hai nguyên tắc quan trọng về cách ứng xử trong lãnh vực chính trị nhậy cảm như sau:
– “Của Xê-da trả về cho Xê-da”: nghĩa là phải trả cho Hoàng đế Rô-ma đồng tiền mang hình và danh hiệu của ông ta. Khi đã chấp nhận quyền cai trị của Xê-da, thì đương nhiên cũng phải chu toàn bổn phận đóng thuế cho Xê-da! Đây là đáp án cho câu hỏi “Có được phép nộp thuế cho Xê-da hay không?”.
– “Của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa” (Mt 22,21): Tuy bọn người này không hỏi về bổn phận đối với Thiên Chúa, nhưng Đức Giêsu vẫn đề cập đến điều này: Phải trả lại cho Thiên Chúa những gì mang dấu ấn của Người. Đây là một bổn phận quan trọng mà những ai muốn trở nên con thảo của Thiên Chúa không thể bỏ qua được.
4) Của Xêda, trả về Xêda, Của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa:
– Phục tùng chính quyền: Cần phải xác định rằng: Trước khi được chịu phép rửa tội để trở nên con Thiên Chúa và con Hội thánh, các tín hữu đã là công dân của nước trần thế khi cha mẹ làm giấy khai sinh cho ta. Giữa người công dân trần thế và công dân Nước Trời không có khác biệt mâu thuẫn với nhau, và “Mọi người dân đều bình đẳng trước pháp luật”. Mọi người đều có bổn phận và quyền lợi như nhau trong đất nước của mình đã được Hiến Pháp và luật pháp quy định, như quyền: tự do cư trú, tự do tín ngưỡng, quyền được bảo vệ tài sản tính mạng, quyền ứng cử và bầu cử… Nhưng bên cạnh đó, chúng ta cũng có bổn phận phải thi hành nghĩa vụ công dân như: đóng thuế, bảo vệ an ninh tổ quốc… Như vậy những ai vi phạm các nghĩa vụ công dân vừa có tội với đất nước, lại vừa lỗi giới răn Thiên Chúa, như Tông đồ Phao-lô đã dạy: “Mỗi người phải phục tùng chính quyền, vì không có quyền bính nào mà không bởi Thiên Chúa, và những quyền bính hiện hữu là do Thiên Chúa thiết lập” (Rm 13,1; x. Ga 19,11a).
– Phải vâng lời Thiên Chúa: Trừ phi thế quyền buộc các tín hữu chối bỏ đức tin, thì họ có quyền áp dụng nguyên tắc do Tông đồ Phê-rô nói trước Thượng Hội Đồng Do Thái: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người phàm” (Cv 5,29).
– Sống “Tốt đạo đẹp đời”: Người tín hữu công giáo cần luôn ý thức mình đang sống trong thế gian nhưng không thuộc về trần gian như lời Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho các môn đệ trong đó có các tín hữu chúng ta hôm nay: “Con không còn ở trong thế gian nữa, nhưng họ, họ ở trong thế gian” (Ga 17,11); “Con không xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần. Họ không thuộc về thế gian, cũng như con đây không thuộc về thế gian” (Ga 17,15-16).
– Chu toàn hai bổn phận với Chúa và với đất nước: Là công dân của Nước Trời, chúng ta cũng được hưởng những quyền lợi thiêng liêng tinh thần là chu toàn bổn phận đối với Thiên Chúa, như tôn trọng các công trình do Người sáng tạo, nhất là tôn trọng tha nhân là tạo vật do Chúa dựng nên giống hình ảnh Người (x. St 1,26), và “bảo vệ sự sống”. Bên cạnh đó, chúng ta còn có bổn phận phải giúp mọi người nhận biết Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa, và chu toàn bổn phận như con cái hiếu thảo của Thiên Chúa. Ngoài ra chúng ta cũng phải tôn trọng và bảo về các tài nguyên môi trường do Thiên Chúa sáng tạo như tránh phá rừng, xả khói vào không trung phá hủy tầng Ô-dôn bảo về sự sống trên trái đất. Chu toàn nhiệm vụ đóng thuế cho đất nước mình là thành viên. Nhất là phải làm lợi gấp đôi những nén vàng Chúa trao như: sức khoẻ, thời giờ, tiền bạc, tài năng… để “làm vinh danh cho Thiên Chúa và phục vụ hạnh phúc cho đồng bào”. Đó là trách nhiệm bác ái mà mọi tín hữu đều phải thực hiện để được vào Nước Trời đời sau (x. Mt 25,41-45).
- THẢO LUẬN:
1) Phân biệt quyền của nhà nước với quyền của Hội Thánh khác và giống nhau thế nào? 2) Khi thế quyền vi phạm quyền tự do tín ngưỡng thì bạn cần có thái độ nào?
- NGUYỆN CẦU:
1) Lạy Thiên Chúa là Cha đầy lòng nhân ái. Xin cho chúng con quyết tâm noi gương Đức Giêsu là “Con yêu dấu luôn làm đẹp lòng Cha”. Xin cho chúng con có lòng bao dung nhân hậu để đón nhận tha nhân là anh chị em của mình. Xin cho chúng con biết chia sẻ hạnh phúc được làm con Cha cho những người chưa nhận biết và tôn thờ Cha. Xin cho chúng con luôn biết khiêm hạ tôn trọng phục vụ tha nhân noi gương con Cha là Chúa Giêsu. Xin cho chúng con dám yêu đến cùng và cho đi tất cả để xứng đáng được Cha tha thứ lỗi lầm, và ban thưởng Nước Trời đời đời cho chúng con.
2) Lạy Chúa Giêsu: Trong Tin Mừng hôm nay, khi nói: “Của Xê-da trả về Xê-da”, Chúa đã dạy chúng con phải biết yêu mến và xây dựng tổ quốc trần gian bằng việc chu toàn các nghĩa vụ công dân. Nhưng Chúa cũng nhắc chúng con phải ý thức chu tòan bổn phận đối với Chúa Cha trên trời khi nói thêm: “Của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa”. Xin cho chúng con luôn ý thức rằng: Dù đang sống giữa thế gian, nhưng chúng con không thuộc về trần gian như lời Thánh Phao-lô: “Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Ki-tô từ trời đến cứu chúng ta” (Pl 3,20). Do đó, ngay từ bây giờ, Chúa muốn chúng con phải biết chu toàn bổn phận mến Chúa yêu người theo gương Chúa làm và lời Chúa dạy.
- X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
(Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
- DẪN NHẬP.
Thiên Chúa có thể dùng mọi phương tiện để thực hiện ý định của Ngài. Ngài dùng ngay cả vua ngoại đạo để giải thoát dân Ngài. Mọi sự đều ở trong tay Chúa. Chúa muốn thế nào thì được như vậy, không ai có thể phá bỏ được kế hoạch của Thiên Chúa.
Người Kitô hữu sống trên trần thế có hai nhiệm vụ song song: nhiệm vụ đối với Thiên Chúa và đối với Tổ quốc. Trên nguyên tắc, hai nhiệm vụ này độc lập với nhau, nhưng trong thực tế, khi thi hành những nhiệm vụ này, đôi lúc chúng ta gặp không ít khó khăn, đôi lúc làm cho chúng ta lo lắng. Câu hỏi được đặt ra là làm thế nào vừa phụng sự Thiên Chúa vừa phụng sự Tổ quốc mà không xung đột nhau? Làm sao có thể sống tốt đạo đẹp đời một cách hài hoà trong cuộc sống hằng ngày?
Chúa Giêsu cũng là một công dân của nước Do thái. Ngài cũng có lý lịch rõ ràng và một Tổ quốc để phụng sự. Ngài đã chu tòan nhiệm vụ của một người công dân của một nước bị trị (x. Mt 17,26; Lc 23,22) theo nguyên tắc “Của César thì trả cho César”. Chúng ta cũng phải theo cách sống của Chúa Giêsu: chu tòan nhiệm vụ đối với Thiên Chúa và Tổ quốc. Dĩ nhiên, trong những trường hợp có sự va chạm giữa chính quyền và tôn giáo thì chúng ta hãy theo nguyên tắc này: không luật lệ nào được chống lại luật của Thiên Chúa, vì như thế là cũng phạm đến con người.
Nhiệm vụ của Kitô hữu là phải cầu nguyện và khôn khéo thế nào để tạo ra sự hòa hợp giữa Giáo hội và quốc gia để cả hai cùng phục vụ con người một cách tốt đẹp.
- TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Is 45,1.46.6.
Thiên Chúa có thể dùng bất cứ phương tiện nào để thực hiện ý định của Ngài: bằng chứng là Ngài đã dùng Cyrô, vua ngoại đạo, để giải thoát dân Ngài.
Theo lịch sử, năm 587 trước công nguyên, đế quốc Babylon xâm chiếm Giêrusalem, dân chúng bị bắt đi đầy. Gần 50 năm sau, đế quốc Babylon sụp đổ và đế quốc Ba tư chiếm ngôi bá chủ. Năm 538, vua Ba tư là Cyrô, sau khi chiến thắng Babylon, đã ra sắc chỉ cho dân Do thái được hồi hương.
Mặc dầu vua là người không biết Thiên Chúa nhưng Ngài đã dùng vua để thực hiện chương trình của Ngài. Chính vua Cyrô cũng không ngờ rằng ông là khí cụ của Thiên Chúa: chính Thiên Chúa trao quyền cho ông. Thiên Chúa cho ông thống trị các dân, và Thiên Chúa xúi lòng ông cho dân Chúa được hồi hương. Vì thế tiên tri Isaia đã không ngại gọi ông là “Đấng xức dầu của Thiên Chúa”.
+ Bài đọc 2: Tx 1,1-5b.
Thánh Phaolôâ đã thành lập giáo đoàn Thessalonica vào năm 50 trong chuyến truyền giáo lần thứ hai . Trong khi gặp rất nhiều khó khăn: người Do thái muốn ám hại, nên Ngài phải bỏ trốn trước khi hoàn thành việc đào tạo và tổ chức giáo đoàn. Khi được tin tốt về giáo đoàn non trẻ này, Ngài vô cùng sung sướng vì họ có một đức tin vững vàng, một lòng cậy trông và một đức ái sống động. Ngài viết thư này để khuyến khích họ và cảm tạ Chúa vì tất cả những thành quả mà giáo đoàn này đã thu lượm được:”Chúng tôi không ngừng nhớ đến những việc anh em làm vì lòng tin, những nỗi khó nhọc anh em gánh vác vì lòng mến, và những gì anh em kiên nhẫn chịu đựng vì trông đợi”.
+ Bài Tin mừng: Mt 22, 15-21.
Bình thường nhóm biệt phái và nhóm Hêrôđê không thuận nhau vì, một đàng nhóm biệt phái là người ái quốc chống lại chính quyền Roma đang đặt ách đô hộ trên quê hương họ; đàng khác nhóm Hêrôđê thì ủng hộ chính quyền Roma để trục lợi. Hai khuynh hướng mâu thuẫn nhau nhưng hôm nay cùng liên minh với nhau để gài bẫy Chúa Giêsu.
Họ chất vấn Chúa bằng một cầu rất hóc búa:”Có được phép nộp thuế cho César không”? Nếu trả lời “có” thì nhóm biệt phái cho Ngài là phản quốc vì tiếp tay với ngoại bang ; nếu trả lời “không” thì sẽ bị nhóm Hêrôđê tố cáo là Ngài phản động và chắc chắn Ngài sẽ bị chính quyền bắt giữ.
Nhưng, Chúa Giêsu giội cho họ một gáo nước lạnh khi trả lời:”Của César trả cho César, của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa”. Chúa Giêsu đã thoát khỏi cạm bẫy thâm độc của họ ; đồng thời dạy cho họ một bài học thực hành: có sự khác biệt giữa tôn giáo và chính trị. Tôn giáo không phải là để phục vụ cho chính trị, và chính trị cũng không để phục vụ cho tôn giáo.
- THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Res clamat domino – Của đòi về chủ.
- BỐI CẢNH CÂU CHUYỆN.
Từ trước tới nay chúng ta thấy Chúa Giêsu ở thế công. Ngài đã dùng ba dụ ngôn để chỉ trích những nhà lãnh đạo truyền thống Do thái: dụ ngôn đứa con trai bất hiếu không chịu nghe lời cha, dụ ngôn người làm vườn gian ác đã giết đầy tớ vua, dụ ngôn tiệc cưới của nhà vua vì họ không đến dự.
Bây giờ chúng ta thấy họ đưa ra đòn phản công để đưa Chúa Giêsu vào thế gọng kìm bằng một câu hỏi hóc búa, nhằm hai mục đích: một là bị nhà cầm quyền bắt, hai là mất uy tín với dân chúng vì là người phản quốc.
Cũng nên biết chúng ta đang ở vào năm 30 dưới thời hoàng đế César Tiberius, và quân đội ông đang chiếm xứ Do thái gây nhiều nhiễu nhương cho dân chúng, phong trào chống đối đang âm ỉ lan rộng. Họ có hai tầng lớp người lãnh đạo chống đối nhau: nhóm biệt phái ái quốc chống nhà cầm quyền và nhóm Hêrôđê thân chính quyền đô hộ để trục lợi. Bình thường, hai nhóm này chống đối nhau, nhưng hôm nay cùng nhau tìm phương thế ám hại Chúa Giêsu với một câu hỏi hóc búa về vấn đề nộp thuế.
Dân Do thái phải nộp thuế cho chính quyền Rôma. Có ba thứ thuế:
– thuế điền thổ.
– thuế lợi tức.
– thuế thân.
Luật thuế thân qui định mọi người nam nữ từ 14 đến 65 tuổi đều phải đóng một denier, tương đương với lương công nhật của một người. Thuế ở trong câu hỏi đây là thuế thân.
Người dân các nước bị trị bao giờ cũng phải nộp thuế cho chính quyền bảo hộ. Năm 1920, ông Gandhi hô hào dân chúng Ấn không đóng thuế cho đế quốc Anh để tranh đấu cho nước được độc lập. Đóng thuế là nghĩa vụ của dân đối với chính quyền. Dân Ấn không đóng thuế là không công nhận người Anh là chính quyền của mình, là chống lại đế quốc xâm lăng để giải phóng đất nước thoát cảnh thực dân.
Vậy, Chúa Giêsu có theo đường lối của ông Gandhi không hay phải theo một đường lối nào để giải quyết cho ổn thỏa? Câu trả lời xẩy ra như sau theo Tin mừng của Luca:
“Hôm ấy, nhóm biệt phái và nhóm Hêrôdê sai mấy môn đệ đến hỏi thử Chúa Giêsu:”Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật cứ sựï thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa. Thầy cũng chẳng vị nể ai vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta. Vậy xin Thầy cho biết ý kiến:”Có được phép nộp thuế cho César hay không”?
Hỏi như vậy là họ đã đưa Chúa Giêsu vào thế gọng kìm, mà triết học gọi la cái thế “luỡng đao luận”, nghĩa là con dao hai lưỡi, nói thế nào cũng chết: chối cũng chết mà nhận cũng chết. Nếu Chúa Giêsu bảo nên nộp thuế là lệ thuộc vào ngoại bang, là phản quốc, do đó mất uy tín với dân chúng. Nếu Chúa bảo là không thì bị liệt vào loại phản động, chống chính quyền, thế nào cũng bị bắt.
Nhưng Chúa Giêsu lại có một cách xử lý rất khéo léo, rất tinh vi:”Cho tôi xem đồng tiền nộp thuế”. Họ đưa cho Ngài một quan tiền. Người hỏi họ:”Hình và danh hiệu này là của ai”? Họ đáp:”Của César”. Bấy giờ, Người bảo họ:”Thế thì của César, trả về cho César ; của Thiên Chúa, trả về cho Thiên Chúa”.
- BÀI HỌC CHÚA DẠY TA.
- Chúa Giêsu, một người công dân.
Chúa Giêsu có một lý lịch rõ ràng. Ngài là một công dân Do thái nên Ngài phải thi hành mọi nhiệm vụ đối với một công dân Do thái đang bị người Roma đô hộ. Bản thân Ngài sống như mọi người không có gì khác, cả gia đình Ngài cũng vậy. Kinh thánh cũng cung cấp cho chúng ta một số chi tiết chứùng tỏ gia đình Thánh gia thất đã chu toàn nghĩa vụ công dân:
– Cha mẹ Ngài đã vâng lệnh nhà vua để về Belem khai hộ khẩu {Lc 2,4).
– Chính Ngài đã sai Phêrô đi câu cá để lấy tiền nộp thuế cho mình và cho Phêrô nữa (Mt 17,26).
– Chính quyền ra lệnh bắt và giết Chúa, Ngài vẫn vui lòng tuân lệnh dù Ngài biết lệnh ấy bất công, mà chính Philatô, người lên án giết Chúa cũng phải nhận là Ngài vô tội (Lc 23,22).
Câu nói của Ngài:”Của César thì trả cho César” đã phản ảnh một cách hết sức trung thực những công việc Ngài đã làm, đúng như Thánh kinh đã viết về Ngài:”Chúa làm trước, rồi mới dạy người ta làm sau” (Cv 1,1).
- Kytô hữu, một người công dân.
Một người công dân phải có giấy khai sinh và có một hộ khẩu thường trú. Không ai ở trên trời rơi xuống, không ai sống lơ lửng trên không trung. Mỗi người phải có một quốc tịch, mặc dù có thể thay đổi được quốc tịch ấy. Đã là công dân của một nước nào thì phải chấp hành những luật lệ của nước ấy. Mọi công dân phải góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tránh những hành vi làm tổn thương đến Tổ quốc ấy.
Về điểm này, ta có bằng chứng về cách sống của những cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi. Một tác giả vô danh hồi thế kỷ thứ ba đã viết trong tác phẩm “Thư gửi cho Diognetus” như sau
: “Người Kitô hữu không khác với những người khác về cư trú, về ngôn ngữ hay về lối sống. Bởi vì họ không cư ngụ một thành nào riêng biệt, cũng không dùng ngôn ngữ nào khác thường và nếp sống của họ chẳng có chi khác biệt. Không phải do suy tư hay bận tâm tra cứu mà họ khám phá được các giáo thuyết. Họ không chủ trương một giáo điều nào của loài người như một số người nọ.
Họ ở rải rác trong các thành phố Hy lạp lẫn trong các thành của người Man di, tùy theo số phận dun dủi. Họ sống theo tập tục của kẻ bản xứ trong cách phục sức, ăn uống và cách sống, nhưng bộc lộ một thái độ sống khiến nhiều người cho là lạ lùng. Họ sống trong quê hương của họ mà như những kẻ ở đâu. Họ tuân thủ mọi cái chung như các công dân khác và chịu gánh nặng dường như ngoại kiều. Miền xa lạ cũng là quê hương của họ nhưng mọi quê hương chỉ là đất khách cho họ mà thôi. Họ cũng dựng vợ gả chồng như ai và sinh đẻ con cái, nhưng chẳng hề bỏ con. Họ đồng bàn nhưng chẳng đồng sàng”.
(Cap.V.VI PG 21173 B.117 C , Các Bài đọc 2 Mùa PS, tr 84)
Chúng ta phải khẳng định rằng trước khi là một Kitô hữu ta đã là người của một quốc gia nào đó, ví dụ, trước khi là người Công giáo, tôi đã là người Việt nam. Nhờ phép rửa tội, chúng ta trở thành người Việt nam công giáo. Giữa người công dân Việt nam và người công dân Công giáo Việt nam không có gì khác nhau, không có gì mâu thuẫn nhau. Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Mọi người đều có bổn phận và quyền lợi như nhau đối với đất nước.
- Tương quan giữa tôn giáo và chính trị.
Vấn đề tương quan giữa tôn giáo và chính trị, giữa Giáo hội và quốc gia là một vấn đề tế nhị và đôi khi, thật gai góc, nhiều khi có nhiều lấn cấn. Chúng ta có thể đưa ra đây mấy nguyên tắc cho chúng ta hành xử trong đời sống thực tế không thể tránh được:
- a) Nguyên tắc thứ nhất:
Xã hội dân sự và xã hội tôn giáo, quốc gia và Giáo hội là hai vấn đề độc lập với nhau. Dù là cả hai phục vụ cho ơn gọi cá nhân và xã hội của con người ; nhưng quan điểm và cách hành động của họ vẫn khác nhau.
- b) Nguyên tắc thứ hai:
Với tư cách là công dân, thành viên của một đoàn thể thế gian, người Kitô hữu phải chấp nhận sống theo luật lệ của đoàn thể đó và làm trọn bổn phận như đóng thuế, vâng phục chính quyền hợp pháp trong mọi việc mà chính quyền đòi hỏi. Người Kitô hữu sẽ dùng mọi phương tiện hợp pháp: bỏ phiếu, báo chí, nghiệp đoàn để góp phần xây dựng một xã hội công bằng và nhân đạo hơn.
- c) Nguyên tắc thứ ba:
Người Kitô hữu cố giữ giá trị hướng thượng và tư cách tuyệt đối những quyền của Thiên Chúa, vì biết rằng khi những giá trị này bị xâm phạm thì con người cũng bị xâm phạm, nhất là kẻ hèn yếu. Chúng ta không bao giờ chấp nhận một luật lệ nào chống lại luật của Thiên Chúa. Người Kitô hữu cố gắng làm sao để tạo ra sự hoà hợp giữa Giáo hội và quốc gia, và như thế cả hai sẽ phục vụ tốt biết bao cho con người. (Cf Cử hành Phụng vụ Chúa nhật, tr 215)
III. SỰ CHỌN LỰA CỦA CHÚNG TA.
Người Kitô hữu chúng ta có hai quyên công dân đi đôi với nhau. Chúng ta là công dân của thế giới, tức trần thế này và công dân thiên quốc. Chúng ta phải phụng sự Thiên Chúa và Tổ quốc, hai nhiệm vụ này phải đi sánh đôi. Như thế chúng ta kính trọng và tôn kính đối với những đòi hỏi của hai bên.
Thiên Chúa có thể dùng mọi phương tiện để giúp ích cho con người và cho dân Chúa. Trong bài đọc thứ nhất, ta thấy Thiên Chúa đã dùng vua Cyrô để giải phóng dân Chúa. Như thế, dân Chúa đã phải tùng phục chính quyền trong những công việc về chính trị, mà không thể làm khác vì đó là đường lối của Thiên Chúa.
Thánh Phêrô trong thư thứ nhất đoạn 2 câu 17 đã bảo các Kitô hữu:”Hãy tôn kính Thiên Chúa và hãy kính trọng Hoàng đế”. Và trong thư gửi tín hữu Rôma đoạn 13, câu 1 và 7, thánh Phaolô bảo các Kitô hữu:”Hãy vâng phục các vị cầm quyền. Hãy nộp cho họ những gì các ngươi mắc nợ họ, hãy nộp thuế thân, thuế tài sản và hãy tỏ lòng kính trọng họ”.
Mong ước rằng hai loại quyền công dân này của chúng ta không bao giờ xung đột nhau. Tuy nhiên, lỡ có xẩy ra xung đột, thì người Kitô hữu phải biết cách giải quyết. Các Kitô hữu đã từng phải giải quyết như thế ngay từ thời Chúa Giêsu. Họ đã phải giải quyết như thế suốt thời kỳ đế quốc Rôma bách hại Giáo hội. Họ đã phải giải quyết như thế suốt thời trung cổ. Họ đã phải giải quyết như thế trong thế kỷ 16 và 17 khi hàng chục ngàn Kitô hữu phải chạy trốn sang Mỹ châu để giữ đạo mà không bị nhà nước can thiệp.
Có lẽ chúng ta có thể minh hoạ tất cả những điều trên bằng trường hợp của thánh Thomas More, vị thánh tử đạo người Anh. Robert Bolt đã làm nổi bật cuộc xung đột của More – liên quan đế những gì thuộc César và những gì thuộc về Thiên Chúa – trong cuốn sách nhan đề “A man for all seasons”(Người của mọi mùa).
Truyện: thánh Thomas More
Vua Henry VIII nước Anh đã kết hôn hợp thức với bà Catherine d’Aragon, nhưng ông nại đến tòa thánh Rôma xin hủy bỏ cuộc hôn nhân đó. Toà thánh đã từ chối. Henry liền tự mình giải quyết vấn đề và tái kết hôn. Thế là ông ta ra lệnh cho bạn bè và các chức sắc ký vào một văn bản tuyên bố đồng ý nhìn nhận hành động của ông là đứng đắn. Nhiều bạn bè của More đã ký vào, nhưng More thì từ chối. Henry yêu cầu More ký vào, nếu không sẽ bị bắt giam và xử tội tạo phản theo luật nhà nước. More vẫn khăng khăng từ chối. Ngài bị giằng co giữa hai bổn phận: một đối với Chúa, một đối với Tổ quốc. Khi chúng xung đột nhau, thì More không còn chọn lựa nào ngoài sự trung tín với luật Chúa.
(M. Link, Giảng lễ Chúa nhật, năm A, tr 305)
Như thế, bài Tin mừng hôm nay nhắc chúng ta nhớ đến hai bổn phận đi đôi với nhau của chúng ta. Chúng ta là công dân trần thế, đồng thời cũng là công dân Nước Trời. Chúng ta có bổn phận phải trung tín với cả hai Tổ quốc. Chúng ta hy vọng các bổn phận này không bao giờ xung đột nhau. Nhưng nếu lỡ có xung đột thì chúng ta phải giải quyết chúng giống như thánh Thomas More đã làm, nghĩa là không gây thương tổn cho Thiên Chúa hoặc cho lương tâm ta.
Cuộc sống của Kitô hữu tại thế là như vậy, chúng ta không thể làm khác được. Nhiều lúc chúng ta hay than vãn là chúng ta phải mang hai gánh trên vai: vừa phải chu toàn bổn phận ở đời lại vừa lo tròn nghĩa vụ trong đạo. Đối với những ai có tâm hồn đạo đức thánh thiện thì sự khó khăn đó không đến nỗi quá băn khoăn lo lắng ; trái lại, đối với những ai mang nặng ích kỷ trần tục nếu chẳng may đạo hay đời đòi hỏi phải chịu khó hy sinh làm một điều gì đó, tức khắc họ lên tiếng phàn nàn kêu trách và nại đủ lý do để từ chối. Đây chính là vấn đề mà người biệt phái đã thắc mắc với Chúa và Chúa đã giãi bầy cho họ cũng như cho chúng ta hiểu để biết mà sống cho tốt đạo đẹp đời. Trong mọi trường hợp chúng ta phải đặt quyền lợi của Chúa trên hết, đôi lúc vì thế mà phải bị thiệt thòi. Lời Chúa vẫn còn yên ủi chúng ta khi chúng ta gặp phải những trường hợp éo le như thế:”Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì ích lợi gì”.
Truyện: Mọi sự thuộc về Chúa.
Hoàng đế Frédéric đi tham quan một trường học nhỏ miền quê. Đúng lúc học trò đang học môn địa lý. Vua hỏi một em nhỏ tuổi:
– Làng con ở đâu?
– Tâu hoàng thượng, làng con ở trong nuớc Phổ.
– Nước Phổ ở đâu?
– Tâu hoàng thượng, nước Phổ ở trong đế quốc Đức.
– Đế quốc Đức ở đâu?
– Tâu hoàng thượng, đế quốc Đức ở trong châu Âu.
– Châu Âu ở đâu?
– Tâu hoàng thượng, châu Âu ở trong thế giới.
– Thế giới ở đâu?
Suy nghĩ một lát em bé dõng dạc trả lời:
– Tâu hoàng thượng, thế giới ở trong tay Chúa.
Chúng ta hãy cầu nguyện cho dân tộc mình theo lời của Thomas Jefferson:
Lạy Thiên Chúa tối cao,
Ngài ban cho chúng con mảnh đất tốt tươi này làm gia nghiệp. Xin hãy chúc lành cho mảnh đất chúng con, xin hãy cứu chúng con khỏi bạo lực, và mọi đường lối xấu xa, xin hãy bảo vệ sự tự do của chúng con…
Xin ban thần trí khôn ngoan xuống trên những kẻ mà nhân danh Ngài, chúng con đã ủy thác quyền cai trị… Trong thời thịnh vượng, xin đổ tràn xuống lòng chúng con niềm tri ân, và trong ngày gian truân, xin đừng để niềm tin của chúng con vào Ngài bị suy giảm.
Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.