Các bài suy niệm Chúa Nhật 5 thường niên năm A

04/02/2023

CHÚA NHẬT 5 THƯỜNG NIÊN A

Lời Chúa: Is 58,7-10; 1Cr 2,1-5; Mt 5,13-16

1. Là muối, là ánh sáng

(Suy niệm của Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ)

Suy Niệm

Anh em là muối cho đời: một định nghĩa tuyệt vời về người Kitô hữu.

Kitô hữu gắn liền với cuộc đời, hòa mình với mọi người, như muối thấm vào thức ăn, giữ cho nó khỏi hư và thêm đậm đà.

Vị mặn của muối là yếu tố quan trọng. Mặn thuộc về bản chất của muối.

Muối nhạt chẳng đáng gọi là muối, vì chẳng ướp được gì.

Khi đánh mất bản chất của mình, nó cũng hoàn toàn trở nên vô dụng.

Anh em là ánh sáng cho trần gian: một định nghĩa kinh khủng về người Kitô hữu, bởi lẽ chỉ Thiên Chúa mới là Ánh Sáng (1Ga 1,5). Chỉ Đức Giêsu mới dám nhận mình là Ánh Sáng (Ga 8,12).

Anh em là ánh sáng vì anh em gần Thầy, gần đèn thì sáng.

Thế giới hôm nay tiến bộ về khoa học kỹ thuật, nhưng lại là một thế giới nhạt nhẽo, mất ý nghĩa, một thế giới tối tăm và vẩn đục. Chúng ta hay phàn nàn về sự xuống cấp, suy đồi, nhưng người Kitô hữu ít khi nhìn nhận phần trách nhiệm của mình trước thực trạng đó.

Vì tôi là muối nhạt nên thế giới này vô vị. Vì tôi là đèn hết dầu, nên thế giới còn nhiều bóng tối.

Thế giới sẽ mang bộ mặt mới, nếu chúng tôi sống đúng định nghĩa của Đức Giêsu.

Khi hoà mình với đời, chúng ta có thể trở thành muối nhạt, ngọn đèn chúng ta có thể bị hết dầu. Cần được ướp lại bằng vị mặn của Đức Giêsu, ngọn đèn cần được nuôi bằng dầu của Người.

Phải liên tục trở lại với Đức Giêsu để đừng đánh mất bản sắc Kitô hữu của mình.

Anh em ở trong thế gian, nhưng không thuộc về thế gian.

Vẫn còn nhiều Kitô hữu, có khả năng nhưng lại rụt rè, đặt ngọn đèn đời mình dưới thùng. Họ không dám dấn thân vào đời, vì sợ nguy hiểm, vì thiếu tự tin vào bản lãnh của mình, hay vì hiểu sai thế nào là khiêm tốn thực sự.

Cần có nhiều Kitô hữu làm băng video, viết kịch, quay phim. Cần nhiều người là văn nghệ sĩ, làm nhà nghiên cứu.

Cuộc sống chúng ta phải tỏa sáng, qua bao điều tốt đẹp, để mọi người nhận ra Thiên Chúa là Nguồn ánh sáng và cất tiếng ngợi ca tôn vinh.

Gợi Ý Chia Sẻ

  • Bạn biết gì về cha Đắc Lộ, người có công lớn trong việc sáng tạo chữ quốc ngữ của dân tộc Việt Nam?
  • Nhiều Kitô hữu đã bị biến chất khi dấn thân vào đời. Có cách nào hoà mình mà không đánh mất chính mình?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu, tạ ơn Chúa đã cho chúng con ánh sáng mặt trời, mặt trăng, và ánh sáng từ những nguồn năng lượng trên mặt đất.

Tạ ơn Chúa vì Chúa đã gọi chúng con là ánh sáng. Đó là vinh dự và cũng là một trách nhiệm nặng nề.

Xin cho chúng con có khả năng đẩy lui bóng tối của hận thù và bất công, của buồn phiền và thất vọng.

Xin cho chúng con biết gìn giữ ngọn lửa mà Chúa đã thắp lên trong lòng chúng con, và biết vâng theo những soi sáng của Chúa qua từng phút giây của cuộc sống.

Lạy Chúa Giêsu, cuộc chiến giữa ánh sáng và bóng tối vẫn còn tiếp diễn trên thế giới và trong lòng chúng con. Ước gì chúng con đừng chỉ lo nguyền rủa bóng tối, nhưng can đảm thắp lên những ngọn lửa, để cả trái đất ngập tràn ánh sáng Chúa.

 

2. Suy niệm Chúa Nhật 5 Thường Niên

(Suy niệm của Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ)

Các nhà thần học có thể đưa ra những định nghĩa về kitô hữu

trong tương quan với Chúa Giê su Kitô.

Nhưng trong bài Tin Mừng hôm nay,

Đức Giêsu cho chúng ta hình ảnh tươi tắn và lạc quan

của một kitô hữu trong tương quan với thế giới.

Đây là điều Ngài nghĩ về các môn đệ ngày xưa và về chúng ta ngày nay:

Anh chị em là “muối cho trái đất”, là “ánh sáng cho thế giới”.

Chỉ trong Tin Mừng Mátthêu, hai định nghĩa này mới được đặt gần nhau,

Để các môn đệ của Đức Giêsu biết rõ căn tính của mình.

Muối là điều “cần thiết cho cuộc sống con người” (Hc 39,26).

Muối bảo quản đồ ăn cho khỏi hư và làm cho thức ăn có vị đậm đà.

Nhưng muối cũng được dùng để “bỏ vào mọi lễ phẩm dâng tiến” (Lv 2,13).’

Chính Đức Giêsu cũng ca ngợi: “Muối thì tốt…

Anh em hãy giữ muối trong lòng anh em…” (Mc 9,50).

Thánh Phaolô cũng khuyên lời nói của người tín hữu nên dễ thương

và mặn mà vì “được nêm bằng muối” (Côlôsê 4,6).

Nói chung muối thường được nhìn dưới cái nhìn tích cực.

Nhưng muối lại không đứng một mình.

Muối đi với một vật, thấm nhập, và biến đổi nó tự bên trong.

Cá không ăn muối cá ươn.

Đức Giêsu không chỉ nói chúng ta là muối,

Ngài nói chúng ta là muối cho trái đất này, nơi loài người đang ở.

Những gì muối làm cho đồ ăn, chúng ta cũng phải làm cho nhân loại.

Trái đất hôm nay với hơn 7 tỷ con người,

Vẫn cần đến muối của các kitô hữu để cuộc sống có ý vị hơn.

Ai cũng muốn ra khỏi cái nhạt nhẽo vô vị hàng ngày:

Bữa ăn nhạt, câu chuyện nhạt, cuộc tình trở nên phai nhạt…

Ai cũng muốn thấy mỗi ngày của đời mình đậm đà ý nghĩa.

Rất tiếc vì lý do nào đó mà muối trở nên nhạt.

Muối nhạt thì không còn là muối nữa, và chẳng muối được ai.

Con người hôm nay chờ các kitô hữu là muối còn vị mặn.

Nếu cuộc sống trên trái đất còn nhạt,

thì các kitô hữu phải xét lại phẩm chất muối của mình.

Anh chị em là “ánh sáng cho thế giới” (Mt 5,14).

Tuyên bố này của Đức Giêsu làm chúng ta ngỡ ngàng,

Vì trong Tin Mừng thứ tư,

ba lần Ngài nhận mình là “ánh sáng cho thế giới” (Ga 8,12; 9,5; 12,46).

Vào thời Đức Giêsu, chưa có điện, nên ánh sáng là điều rất cần.

Người ta vẫn dùng một ngọn đèn dầu để soi sáng cho cả nhà.

Ngọn đèn thật quý, vì là nơi mọi người tụ họp, trò chuyện hay làm việc.

Bản chất của ánh sáng là tỏa sáng cho những gì chung quanh.

Như muối, ánh sáng cũng hiện hữu cho người khác.

Không được che giấu ánh sáng, không được lấy thùng mà úp trên đèn.

Đức Giêsu khẳng định chúng ta là “ánh sáng cho thế giới”.

Chúng ta cần đón nhận sứ mạng lớn lao đó với lòng khiêm nhu.

Chẳng ai dám nhận mình là “ánh sáng cho thế giới”

nếu không nhận được ánh sáng từ Nguồn Sáng là Đức Giêsu.

Vì là ánh sáng, nên kitô hữu tỏa sáng là một điều tự nhiên,

như hoa tự nhiên tỏa hương thơm ngát.

Người kitô hữu không phô trương để câu sự chú ý về mình.

Nhưng họ lại không giấu diếm bản chất thật của họ.

Họ mong mình là muối mặn, là ánh sáng tỏa lan.

Họ cố gắng làm những công việc tốt lành cho thế giới,

với ước mơ làm cho Cha trên trời được tôn vinh.

Người kitô hữu chỉ sợ mình là muối nhạt và đèn đã tắt từ lâu.

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu thương mến,

xin ban cho chúng con

tỏa lan hương thơm của Chúa

đến mọi nơi chúng con đi.

Xin Chúa hãy tràn ngập tâm hồn chúng con,

bằng Thần khí và sức sống của Chúa.

Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con,

để chúng con chiếu tỏa sức sống Chúa.

Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con,

để những người chúng con tiếp xúc

cảm nhận được Chúa

đang hiện diện nơi chúng con.

Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa,

không phải bằng lời nói suông,

nhưng bằng cuộc sống chứng tá,

và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa.

Thánh Têrêsa Calcutta

 

3. Niềm vui của chia sẻ

(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)

Trong một xã hội nghèo nàn còn đầy khó khăn về kinh tế và bị ảnh hưởng bởi lối sống ích kỷ như xã hội Việt Nam của chúng ta, khái niệm có nguồn gốc từ Thánh Kinh “cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20,35) bị coi là lý thuyết suông, là ảo tưởng. Quả thật, xung quanh chúng ta, có nhiều người quá giàu, phung phí tiền bạc vào các cuộc ăn chơi, trong khi có nhiều người rất nghèo, ăn bữa nay lo bữa mai cũng chật vật. Lời Chúa hôm nay kêu gọi thực thi tình liên đới giữa con người với nhau. Theo Giáo lý của Giáo Hội Công giáo, tiền bạc tài sản mà chúng ta đang có đều là sở hữu chung, Chúa trao cho chúng ta quản lý và sinh lợi. Vì thế, người giàu mà không biết sử dụng của cải cho hợp lý sẽ mang tội. Nhân ngày môi trường thế giới 5-6-2013, Đức Thánh Cha Phanxicô đã tuyên bố: “Lương thực để lãng phí là lương thực ăn cắp của người nghèo” (La nourriture gaspillée est une nourriture volée aux pauvres). Theo Đức Thánh Cha, mỗi người đều phải trân trọng của cải và sử dụng đúng mức, đồng thời phải biết chia sẻ cho những người kém may mắn đang sống xung quanh. Gần đây, một nhóm từ thiện tổ chức quyên góp đồ đã qua sử dụng để tặng cho người có nhu cầu. Họ đã trương khẩu hiệu: “Mọi sự đều là của chung, khác nhau ở chỗ ai dùng mà thôi”. Quả thực, tất cả những gì chúng ta đang sở hữu là do Chúa trao cho chúng ta quản lý. Chúng ta không được phép lãng phí và phải quan tâm đến những người đang có nhu cần, nhất là những người bất hạnh cơ nhỡ.

Chúng ta hãy trở về với Bài đọc I của Chúa nhật hôm nay. Ngôn sứ Isaia đã ca tụng những nghĩa cử chia sẻ liên đới với người nghèo. Đối với những ai biết chia sẻ cảm thông, Chúa sẽ làm cho đời họ bừng lên như ánh sáng lúc rạng đông. Người nào luôn dấn thân phục vụ người nghèo, cởi trói cho người bị gông cùm, nhường miếng ăn cho người đói khát… khi họ kêu cầu với Chúa, Ngài sẽ mau mắn trả lời. Sau này, Chúa Giêsu khẳng định với chúng ta, khi chúng ta giúp đỡ người nghèo là chúng ta giúp đỡ chính Chúa; khi chúng ta nhắm mắt làm ngơ trước nỗi khổ của anh chị em là chúng nhắm mắt làm ngơ với chính Chúa (x. Mt 25, 1-46).  Lòng rộng rãi chia sẻ là lý do để được Chúa chúc phúc. Ai cho đi cách quảng đại, sẽ được Thiên Chúa cho lại.

Như vậy, với ánh sáng của Lời Chúa chúng ta có thể hiểu ý nghĩa của khái niệm được nhắc tới trên đây: cho thì có phúc hơn là nhận. Chắc chắn nhiều người trong chúng ta đã trải nghiệm được niềm vui này. Khi giúp đỡ chia sẻ, chúng ta hy sinh một chút tiền bạc, thời giờ hay sự kiên nhẫn, đổi lại chúng ta sẽ được niềm vui trong tâm hồn vì chúng ta vừa làm một việc tốt. Đó là niềm vui của chia sẻ. Tuy vậy, chúng ta chỉ có được niềm vui khi hành động chia sẻ được thực hiện cách tự nguyện và được thúc đẩy bởi lòng bác ái, chứ không phải vì miễn cưỡng hay vì vụ lợi hoặc nhằm tiếng khen.

Hai chất liệu được Đức Giêsu sử dụng để so sánh với những đức tính của người môn đệ: muối và ánh sáng. Đây là hai yếu tố quan trọng của đời sống con người. Chúa Giêsu mời gọi những ai theo Chúa hãy cố gắng mỗi ngày để đem cho cuộc đời vị mặn của tình thương và ánh sáng của lòng tốt. Trong nghi thức rửa tội trước đây, vị chủ sự đặt một chút muối vào miệng người được rửa tội với lời nguyện xin cho người tín hữu này được sống như muối cho thế gian. Ngày nay, nghi thức chỉ còn giữa lại phần trao cây nến cháy với lời mời gọi người vừa được rửa tội hãy sống như con cái sự sáng.

Cuộc sống này là một cuộc tranh đấu không ngừng giữa sự thiện và sự ác; giữa ánh sáng và tối tăm. Vì thế mà muối có thể bị mất vị mặn, ánh sáng có thể bị che mờ. Vị mặn làm nên giá trị của muối; chiếu soi là vai trò chính của ánh sáng. Mất vị mặn, muối chắng còn là muối; ánh sáng bị che phủ sẽ trở thành vô nghĩa. Đời sống Kitô hữu mà không còn khả năng ướp mặn cuộc đời hay không còn khả năng chiếu soi nhân loại sẽ trở thành hư vô trống rỗng.

Đức Kitô là ánh sáng trần gian. Người đến để soi chiếu nhân loại. Hôm nay Người vẫn hiện diện để tiếp tục soi sáng cho những người đang đi trong tối tăm trên đường lữ hành trần thế. Giáo huấn của Người vẫn là muối ướp cho đời, đem cho cuộc sống này vẻ đẹp và sức sống thần linh. Chúa Giêsu đã đem lại cho con người niềm vui và hạnh phúc bằng cái chết trên thập giá. Điều đó cho thấy, việc thiện chí đem lại niềm vui cho tha nhân bao giờ cũng đòi hỏi sự hy sinh. Có những hy sinh âm thầm, nhưng cũng có những hy sinh đòi hỏi người tín hữu phải cố gắng đến mức anh hùng. Thánh Phaolô đã trải qua kinh nghiệm quý báu này, và ngài quả quyết với chúng ta: “Quả thật, tôi không muốn biết đến chuyện gì khác ngoài Đức Giêsu Kitô, mà là Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh” (Bài đọc II). Một khi sống tinh thần hy sinh của Đức Giêsu, chắc chắn chúng ta sẽ đạt được niềm vui của chia sẻ”.

Bạn đã bao giờ cảm nghiệm được niềm vui của chia sẻ chưa? Bạn hãy thử đi, chắc chắn Chúa sẽ cho bạn những điều bạn không ngờ tới.

 

4. “Toả sáng giữa đời”

(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)

Toả sáng giữa đời, đó là sứ mạng của mỗi chúng ta. “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian”. Đây vừa là lời mời gọi, vừa là một mệnh lệnh mà Chúa Giêsu đưa ra cho các môn đệ.

Sống trên đời, mỗi người chúng ta giống như một ngôi sao trên bầu trời. Triệu triệu ngôi sao trong dải ngân hà, không có hai ngôi sao giống nhau hoàn toàn. Những ngôi sao khác nhau về kích cỡ, về cường độ ánh sáng và về tốc độ vận chuyển. Thiên Chúa là Đấng “ấn định con số các vì sao, và đặt tên cho từng ngôi một” (Tv 147,4). Thiên Chúa cũng biết mỗi người chúng ta, và Ngài khắc tên chúng ta trong bàn tay của Ngài. “Ta đã gọi con bằng chính tên con. Con là của riêng Ta” (Is 43,1).

Chúa Giêsu mời gọi những ai muốn theo Chúa phải toả sáng như những ngôi sao trên bầu trời. Sống trên đời, mỗi người một tên gọi, một khuôn mặt, một cá tính, một nghề nghiệp và một sở thích. Tuy vậy, lý tưởng chung của tất cả đều là sự hoàn thiện, mặc dù khái niệm “hoàn thiện” được hiểu khác nhau.

Toả sáng giữa đời, đó là sứ mạng của mỗi chúng ta. “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian”. Đây vừa là lời mời gọi, vừa là một mệnh lệnh mà Chúa Giêsu đưa ra cho các môn đệ. Chúa Kitô là ánh sáng thế gian. Những ai đi theo Người cũng phải trở nên ánh sáng, vì tin vào Chúa là cố gắng nỗ lực mỗi ngày để trở nên giống như Người. Lệnh truyền này không phải là lý thuyết, nhưng là những đề nghị thực hành cụ thể. Đó là những việc thiện hảo mà người môn đệ thực hiện đối với những người xung quanh. Những việc tốt lành này sẽ giúp người tín hữu toả sáng giữa đời. Những người chưa tin Chúa sẽ nhận ra Người thông qua những cử chỉ tốt lành mà người môn đệ đang làm.

Một cách cụ thể hơn, ngôn sứ Isaia đã diễn giải những việc làm giúp chúng ta toả sáng giữa đời: đó là cảm thông, chia sẻ và giúp đỡ những người cô thế cô thân, những người đau khổ bần hàn. Vị ngôn sứ viết: “Bấy giờ ánh sáng ngươi sẽ bừng lên như rạng đông, vết thương ngươi sẽ mau lành…”. Những việc làm nhân ái có tác động thật diệu kỳ: khi giúp đỡ ai, thì vết thương nơi mình được chữa lành. Khi thương người nghèo, thì lời cầu nguyện lên Chúa được Ngài nhận lời. Khi cho đi, là khi nhận lãnh. Khi quên mình, thì gặp lại bản thân. Đó là sự kỳ diệu của sẻ chia và phép lạ của lòng nhân ái. “Nếu ngươi nhường miếng ăn cho kẻ đói, làm thoả lòng người bị hạ nhục, thì ánh sáng của người sẽ chiếu toả trong bóng tối, và tối tăm của ngươi chẳng khác nào chính ngọ”. Thiên Chúa là Đấng rộng rãi quảng đại. Ngài sẽ ban lại gấp trăm cho những ai từ tâm chia sẻ với tha nhân.

Tác giả Thánh vịnh cùng chung một cảm nhận: Ánh sáng sẽ bừng lên nơi người từ bi nhân hậu và công chính. Ánh sáng ấy vừa là ánh sáng thần thiêng đến từ Thiên Chúa, vừa là ánh sáng toả lan nơi tâm hồn người thánh thiện. Quả vậy, những ai bao dung quảng đại sẽ cảm nhận được sự an bình và niềm vui đến từ Thiên Chúa.

Nhân loại vừa trải qua thời kỳ khó khăn. Con virus Côrôna nhỏ bé đã làm đảo lộn thế giới. Hệ luỵ của đại dịch Covid-19 sẽ còn tồn tại nhiều năm. Trong những thời khắc của đại dịch, người ta được chứng kiến những nghĩa cử cao đẹp thấm đậm tình người. Cũng trong thời đại dịch, nhiều người lợi dụng để trục lợi trên đau khổ của đồng bào. Họ mượn chức danh của mình để vơ vét không thương tiếc, miễn sao thu lợi thật nhiều. Thế mới thấy, lòng tham của con người là vô đáy, và sự vô cảm của con người thật khủng khiếp. Người ta bất chấp lương tâm, bất chấp sự đau khổ của tha nhân, miễn là thu tích được nhiều tiền cho bản thân và cho gia đình. Những người này, không chỉ bị pháp luật lên án, mà còn bị lương tâm cắn rứt suốt đời vì sự bất công tham lam và ăn chặn của người nghèo.

“Anh em là muối cho đời». Ai trong chúng ta cũng biết tác dụng và ích lợi của muối. Thiếu muối, mọi đồ ăn đều trở nên vô vị. Vào thời Chúa Giêsu, khi chưa có tủ lạnh như hiện nay, muối không chỉ để nêm vào món ăn, mà còn là chất liệu bảo quản thực phẩm. Chúa muốn những ai tin vào Người phải trở nên muối ướp trần gian, tức là làm lan toả xung quanh sự thánh thiện, mặc dù đời còn đầy bóng tối của bất công và ghen ghét hận thù.

Làm sao có thể trở thành muối và ánh sáng giữa một cuộc sống đầy cạnh tranh và mưu mô tính toán. Thánh Phaolô trả lời : nhờ Đức Giêsu Kitô (Bài đọc II). Đối với thánh nhân, Đức Giêsu là lý tưởng duy nhất. Mối bận tâm lớn nhấn của thánh Phaolô là làm sao để trung thành với Đức Giêsu. Trọn cuộc đời của thánh nhân là dành cho Chúa. Dù gông cùm, tù đầy, đòn vọt và sự khi bỉ của người đời, vị Tông đồ dân ngoại vẫn không hề nao núng, vì « chiều cao hay vực thẳm, hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta » (Rm 8,39). Thánh Phaolô khuyên chúng ta hãy cậy dựa vào lẽ khôn ngoan của Thiên Chúa, chứ đừng dựa vào người phàm. Nhờ đó, chúng ta có đức tin chân thật và vững chắc.

Chúng ta đang sống trong những ngày đầu xuân Quý Mão. Nắng ấm của mùa xuân làm cho lòng người ấm áp, cây cối đâm chồi nảy lộc. Xin cho mỗi chúng ta cũng trở nên như nắng xuân, đem sức sống, sự bình yên và niềm vui cho mọi người. Nguyện xin Chúa Xuân chúc phúc cho mỗi chúng ta. Amen.

 

5. Sứ mệnh của Kitô hữu: là muối và ánh sáng

(Suy niệm của Dã Quỳ)

Chủ đề suy niệm từ Lời Chúa hôm nay nói với chúng ta về những thực thể rất đỗi bình thường trong cuộc sống, đó là Muối và Ánh Sáng. Tự bản chất, muối mặn để ướp thức ăn, và ánh sáng để chiếu sáng. Nhưng Chúa Giêsu lại muốn dùng để mời gọi mỗi chúng ta sống trách nhiệm của người Kitô hữu là “Muối cho đời” và là “Ánh sáng cho trần gian.” Lời của Chúa hẳn đã và đang là lời thôi thúc từng người chúng ta sống, thể hiện tinh thần truyền giáo trong mọi nơi, mọi thời và mọi hoàn cảnh cuộc sống. Giữa một xã hội mà người ta chỉ muốn nổi danh về vật chất, sống ích kỷ và sống chủ nghĩa cá nhân, liệu lời gọi mời của Chúa có là điều khó thực hiện và lỗi thời chăng?

“Chính anh em là muối cho đời.” Muối là vật dụng tốt. Không có muối, thức ăn sẽ nhạt nhẽo, không vị ngon. Nhưng với cuộc đời, Chúa muốn chúng ta là muối ngon ướp cho con người đang nhạt niềm tin vào Thiên Chúa. Chính cuộc sống chúng ta hướng trọn về Chúa sẽ như muối tăng thêm hương vị Thiên Chúa vào trung tâm cuộc đời tầm thường này. Muối tình yêu của Chúa đã cho đời vị mặn mà của lòng xót thương. Còn mỗi Kitô hữu, xung quanh chúng ta có được phát triển hơn về lòng nhân hậu, tình yêu, lòng tha thứ…là những vị mặn của Chúa? hay là ta lại trở nên vị đắng đót, tầm thường, nhỏ mọn chẳng mang ích lợi gì cho đời?

Vị mặn là bản chất của muối, thế nên nhạc sĩ Lê Đức Hùng đã tự hỏi: “Muối nếu không mặn nữa, có còn là muối nữa không?” Vậy xin muối mãi là muối mặn nồng nhé! Đời người Kitô hữu cũng vậy, nếu không còn chất mặn của Đức Tin, khi chẳng còn vị nồng của Lòng Mến, hay thiếu vắng thực hành giới răn và các mối phúc, ta sẽ không thể sống chan hòa với anh chị em, ướp mặn cho đời, mang lại niềm vui và thẩm thấu hình ảnh của Thiên Chúa Tình yêu vào cuộc đời của biết bao anh chị em chưa biết Chúa. Vậy, chúng ta cùng cầu xin Thánh Thần Chúa thánh hóa và biến đổi ta nên muối mặn nồng, sống có trách nhiệm như những môn đệ trung tín, đem lại vị mặn tin yêu cho đời, chứ đừng để ta thành vô dụng và bị chà đạp.

“Chính anh em là ánh sáng cho trần gian.” Ánh sáng quan trọng và cần thiết cho cuộc sống. Không ánh sáng, không có vẻ đẹp, chẳng có màu sắc và cũng không thể hoạt động. Chúa Giêsu đã thấy sự lớn lao của ánh sáng và Chúa muốn những ai theo Chúa phải là ánh sáng cho trần gian, có quan điểm rộng lớn và cái nhìn mở rộng. Mỗi chúng ta có được ánh sáng, trở nên ánh sáng và tỏa lan ánh sáng là nhờ chính Chúa Giêsu, Đấng đã tuyên bố “Tôi là ánh sáng thế gian.” Ánh sáng của chúng ta phải phát xuất từ Chúa, đó là nguồn ánh sáng tình yêu, để rồi chúng ta tỏa sáng, thể hiện bằng việc yêu thương tha nhân, chia sẻ tình yêu và cơm áo với anh chị em nghèo đói, khiêm tốn chăm sóc phục vụ và đỡ nâng những ai đau bệnh hay bị bỏ rơi… Vì Chúa mong “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những việc tốt anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em.”

Trần gian ta sống còn đó biết bao tăm tối của lòng ghen tương thù oán, của ích kỷ; sự mù mịt của con người thiếu lương tâm, suy đồi nhân cách và lọc lừa chiếm đoạt…! Vậy người Kitô hữu được Chúa mời gọi hãy là ánh sáng tình yêu, ánh ánh của lòng thánh thiện đạo đức, ánh sáng của sự thật, lòng hy sinh để len lỏi vào mọi ngóc ngách của trần gian, để chiếu giãi vào mọi tâm hồn và cuộc sống, để đẩy lui, xua tan và diệt trừ mọi bóng tối.

Chúa không chỉ mời gọi nhưng Người trao cho chúng ta trọng trách là Muối và Ánh Sáng. Vì nếu ta không còn chất mặn đức tin và sáng lên tình yêu, ta không còn phải là Kitô hữu nữa. Vậy mỗi chúng ta cần ý thức để thực sự trở nên muối mang lại ích lợi cho đời, biết hy sinh, bỏ mình, hòa tan để ướp mặn đời bằng niềm tin trung kiên sắt son vào Chúa; và biết chiếu giãi ánh sáng Tin Mừng, ánh sáng tình yêu Chúa và tình yêu tha nhân trước mặt thiên hạ, để danh Chúa được rạng sáng.

Những gì thế giới chờ đợi chúng ta, những môn đệ của Chúa Giêsu, những Kitô hữu có Chúa và thuộc về Chúa, đó là những hành động chứa đầy sự sống, niềm tin và tình yêu “Những công việc tốt đẹp anh em làm.” Và tất cả những gì ta làm như là thói quen thường ngày trong cuộc sống, ta làm vì Thiên Chúa và Vinh Quang của Ngài. Với từng bậc sống Linh mục,tu sĩ, giáo dân…; từng hoàn cảnh giàu nghèo…; theo từng nghề nghiệp bác sĩ, công nhân, nông dân, tiểu thương… và môi trường sống trong gia đình, nơi công sở hay phố chợ… Uớc mong sao chúng ta hãy biết dấn thân trở nên chứng nhân của Chúa, dẫu cho ta chỉ là hạt muối nhỏ hay ngọn đèn lẻ loi, nhưng hãy giữ chất mặn bền mãi và không bao giờ lịm tắt ánh sáng, để tất cả những ai sống quanh ta đều được sưởi ấm, yêu thương và mặn nồng hương vị Chúa Kitô.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con Thánh Thần Tình Yêu, để Người biến đổi chúng con thực sự trở nên Muối và Ánh Sáng. Nguyện xin Chúa đồng hành và nâng đỡ chúng con qua từng suy nghĩ, lời nói, việc làm trong cuộc sống hằng ngày. Amen.

 

6. Muối và ánh sáng – ViKiNi

(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)

“Chính anh em là muối cho đời”

“Chính anh em là ánh sáng cho trần gian”.

Chúa Giêsu đề cập đến muối và ánh sáng ngay sau Hiến chương Tám Mối Phúc. Phải chăng Người muốn giải thích tám phúc qua hai hình ảnh cụ thể: Muối và ánh sáng.

Ý nghĩa muối và ánh sáng có vẻ tương phản như kiểu nói: nghèo khổ, sầu đau, bị bách hại lại được phúc. Thực ra, kiểu nói đó không có gì là mâu thuẫn nhưng hoàn toàn ăn khớp với nhau, có sức làm nổi cộm những ý nghĩa sâu sắc như những hình ảnh nổi trên màn ảnh không gian ba chiều, muối như nền không gian ba chiều cho những ánh sáng nổi lên rõ nét.

Chắc chắn Chúa Giêsu không muốn nói đến cấu trúc khoa học của muối và ánh sáng, mà chỉ nêu ra những công dụng rất hữu ích và cần thiết của chúng. 

1/ Ai cũng biết công dụng của muối là ướp đồ ăn khỏi hư thối, thêm hương vị đậm đà và dễ tiêu hóa, muối còn được dùng trong nhiều ngành công nghệ để làm chất thanh tẩy trong bột giặt, cho thủy tinh trong suốt, tơ sợi bền dai. Muối rất hữu ích, nhưng tự nó hòa tan dễ dàng. Hòa tan mà vẫn không biến chất: “Hòa nhi bất đồng”. Hòa tan bỏ mình đi để muối có sức thấu nhập tận cốt tủy của đồ ăn, của chất liệu cần dùng nó. Nhờ đó muối bảo tồn, gìn giữ vật khỏi hư thối, nguyên liệu được thanh tẩy, hương vị được thơm ngon đậm đà.

Phải chăng đây là ý nghĩa mà Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh hơn cả, nơi chính mình Người và cho môn đệ Người. Chính Ngài là Thiên Chúa đã từ bỏ địa vị Thiên Chúa vinh quang, hủy mình đi (Semetipsum exinanivit … Phil. 2, 7). Hòa tan vào thân phận nô lệ phàm nhân để thanh tẩy mọi ô uế của phàm nhân, làm cho phàm nhân nên tươi tốt, đậm đà thơm ngát trong tình yêu Thiên Chúa, làm cho phàm nhân nên trong suốt phản chiếu ánh sáng chí thánh của Ngài để tỏa sáng vinh quang Ngài khắp nơi.

Ai tin theo Chúa Kitô cũng phải bỏ mình đi để hòa tan như Thánh Phaolô: “Tôi sống không còn phải là tôi sống, nhưng là chính Chúa Kitô sống trong tôi”.

Tại sao phải hủy mình đi? Bài đọc II cho thấy rõ lý do: “Khi tôi đến với anh em, tôi thấy mình yếu kém, sợ sệt, run rẩy… nhưng tôi chỉ dựa vào Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh vào Thập giá… chỉ dựa vào bằng chứng xác thực của Thánh thần và quyền năng Thiên Chúa”.

Đức Kitô là muối, Phaolô cũng phải là muối để hòa tan biến đi, từ bỏ mình đi, hạ mình xuống làm nền như tảng đá để xây lên những thành phố cao, để làm chân đế của những ngọn đèn sáng chiếu soi cho mọi người trong nhà và trong khắp thế gian. 

2/ “Anh em là ánh sáng cho trần gian”

Ánh sáng soi cho ta thấy mọi vật muôn sắc ngàn màu tươi đẹp. Ánh sáng kích thích cây cối hoa màu sống phát triển mạnh mẽ. Thiếu ánh sáng chúng bị úa, bị chết yểu. Thế kỷ thứ XX mệnh danh là thế kỷ ánh sáng. Biết bao nhiêu phát minh tân kỳ từ đèn điện, bếp điện đến những phát thanh truyền hình, rađa, quang tuyến, siêu âm, vi tính, cáp quang.

Từ những công dụng kỳ diệu của ánh sáng tự nhiên, Chúa Giêsu cho ta thấy một thứ ánh sáng siêu nhiên vô cùng lạ lùng.

Ánh sáng siêu nhiên vô cùng đó phát ra từ chính Thiên Chúa, vì “Thiên Chúa là nguồn sáng” (Tv. 1,1), là Đấng tạo thành ánh sáng mặt trời, mặt trăng và tinh tú (St. 1,16; Tv. 135, 7-9; Ga. 1,17). Cho nên uy linh Ngài như cẩm bào ánh sáng. Ngài hiện xuống núi, đến với dân trong ánh lửa (Xh. 19,12). Làm cho dung nhan Môsê tỏ ánh hào quang (Xh. 34,29). Lời Ngài như tia sấm sét (Xh. 20,18), nhưng thật êm dịu như ánh trăng thanh và dịu ngọt dường bao, hơn mật ong ngậm trong miệng (Tv. 118, 103-105).

Huyền diệu thay! Êm ái ngọt ngào thay! Ánh sáng chính là Ngôi Lời: “Ngôi Lời là Thiên Chúa… là ánh sáng thật đã đến trong thế gian, chiếu soi vào bóng tối cho mọi người… Ngôi Lời đã trở thành người phàm và ở trong chúng ta” (Ga. 1, 1-9).

Ngôi Lời là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta như Người đã xác nhận: “Tôi là ánh sáng thế gian, ai theo Tôi sẽ không mất đi trong tối tăm, nhưng sẽ được ánh sáng ban sự sống” (Ga. 8, 12) và ban cho chúng ta ánh sáng, Người nói: “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian”.

Người đã đến chiếu soi vào bóng tối cho mọi người thế nào?

Thưa Người “loan báo Tin mừng cho kẻ nghèo hèn, công bố ân xá cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được sáng, trả tự do cho người bị áp bức, công bố năm hồng ân của Chúa”, “Tất cả những ai đau yếu mắc đủ thứ bệnh hoạn đều được Người đặt tay trên từng bệnh nhân và chữa họ lành, quỷ cũng xuất khỏi nhiều người” (Lc. 4, 18-19… 40-41). Người làm nhiều hơn thế: cho kẻ chết sống lại, chính Người đã chịu chết trên Thập giá để soi cho mọi người thấy ánh sáng dẫn tới nguồn sống.

Tất cả những ai đi theo ánh sáng đều phải là ánh sáng chiếu vào bóng tối soi cho mọi người như vậy: “Gần đèn thì rạng” “Hữu xạ tự nhiên hương”. Bài đọc I đã đề ra một số việc cụ thể của con cái ánh sáng phải thi hành là cứu người đói nghèo, đau khổ, bệnh tật, biết chia cơm xẻ áo, tiếp giúp kẻ bơ vơ không nhà, đẩy lùi áp bức, gông cùm.

Có ra sức chiếu sáng như thế mới được Người cho quyền trở nên con cái Thiên Chúa và được lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác từ nguồn sung mãn của Người (Ga. 1, 12… 16).

“Hãy cảm tạ Chúa, vì Người nhân từ:

Cho Thái Dương soi sáng ban ngày,

đặt trăng sao hướng dẫn ban đêm” (Tv. 135, 7-9).

“Cho Vầng Đông tự chốn cao vời viếng thăm ta. Soi sáng cho những ai ngồi trong tăm tối và bóng tử thần; dẫn ta bước vào nguồn sáng bình an” (Lc. 1, 78-79).

Vậy chúng ta hãy:

“Chúc tụng Chúa đi, các Thiên sứ của Người; muôn ngàn đời hãy chúc tụng suy tôn.

Chúc tụng Chúa đi, mặt trời với mặt trăng.

Chúc tụng Chúa đi, hỡi tinh tú muôn ngàn.

Chúc tụng Chúa đi, kìa hoa lá cỏ cây.

Chúc tụng Chúa đi, hết mọi loài muông thú.

Chúc tụng Chúa đi, tôi tớ phục vụ Người.

Nào chúc tụng Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.

Muôn ngàn đời cùng ca tụng suy tôn”.

 

7. Làm men làm muối

(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)

Anh em là ánh sáng cho đời. Vì thế, anh em phải sống sao để người ta nhìn thấy việc tốt anh em làm mà ca tụng Cha trên trời.

1. Anh em là muối đất

Đức Yêsu mời mỗi người nghe Ngài là muối đất, là ánh sáng cho đời. Muối là vật giữ cho những điều khác khỏi hư. Chẳng hạn trong một nơi không có tủ lạnh, nếu không được ướp muối thì cá hoặc thịt một con vật không thể để lâu được, nó sẽ bị ươn thối. Kitô hữu là muối đất, hàm chứa ơn gọi Kitô hữu là sống giữa đời, giữa những người khác, nhưng qua đời sống của họ, làm men làm muối cho đời, giúp thế gian này không bị hư đi.

Khi nói đây là ơn gọi, nghĩa là, Chúa muốn và mời gọi Kitô hữu sống như vậy. Ơn gọi giáo dân là ơn gọi sống giữa đời, làm gương sáng cho đời bằng chính cuộc sống của mình chứ không chủ yếu bằng lời nói. Giáo dân là người cùng chia sẻ thân phận với người đời, gặp những khó khăn như họ, có những thao thức như họ, cũng bị gian truân thử thách như họ mọi đàng. Chỉ khác một điều, Kitô hữu là người tin vào Thiên Chúa, tin vào Đức Yêsu Kitô. Niềm tin vào Thiên Chúa và Đức Kitô, đòi buộc và giúp Kitô hữu sống như con cái Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh.

Khó khăn thì giống nhau nhưng Kitô hữu được gọi sống dựa vào Thiên Chúa Tình Yêu. Khi sống như vậy, Kitô hữu sẽ sống an bình hơn. Chính điều này làm Kitô hữu nên men nên muối cho đời. Ở giữa thế gian, nhưng không thuộc về thế gian. Sống hoà với mọi người, nhưng vẫn khác; sống giống như mọi người, nhưng vẫn khác. “Hoà nhi bất đồng, đồng nhi bất hoà”. Ở giữa thế gian, để thành dấu hỏi cho thế gian, để là chứng nhân của bình an và hy vọng.

2. Diễn tả tình yêu cách cụ thể: chia cơm sẻ áo

Lời Chúa trong sách tiên tri Ysaya khuyên người ta hãy chia cơm bánh cho người đói, cho người bị áp bức và không nhà cửa ở nhờ, cho người trần trụi áo mặc. Làm như vậy, khi cầu nguyện Chúa sẽ nghe, khi bị tai hoạ kêu cầu Chúa sẽ cứu.

Chính khi yêu người khác, giúp đỡ người khác trong nhưng cơn cùng quẫn của họ, làm họ bớt khổ, nâng đỡ họ khỏi sa phải cảnh cùng khổ hơn, giúp họ an bình hạnh phúc hơn, thì mình trở nên đẹp hơn, cao thượng hơn, tuyệt hơn và đáng yêu hơn. Chính khi giúp đỡ người khác, thì mình cũng được giúp đỡ hơn. Chính khi giúp người khác hạnh phúc, thì mình được hạnh phúc hơn. Chính khi giúp người khác triển nở, mình sẽ được triển nở hơn và trưởng thành hơn.

Khi yêu, người ta còn hy vọng, còn chờ còn đợi. Tình yêu với niềm hy vọng, có thể biến đổi con người, và có sức biến đổi lòng người. Trong lịch sử Giáo Hội, thánh Augustinô là một thí dụ. Ngài hoang đàng, nhưng người mẹ tốt lành đạo đức luôn cầu nguyện cho Ngài, và Ngài đã trở lại. Ngài đã được rửa tội, làm linh mục, làm giám mục, làm thánh; và mẹ Ngài cũng là thánh Mônica, vì đã là một người mẹ gương mẫu: thương con. Thiên Chúa vẫn yêu và chờ người tội lỗi sám hối trở lại với Ngài; và chúng ta tin rằng tình yêu của Ngài sẽ chiến thắng.

3. Quyền năng Thiên Chúa tỏ lộ qua những gì yếu đuối tầm thường

Thánh Phaolô nói với dân Corintô rằng, khi Ngài tới với họ, Ngài không biết gì hơn họ ngoài Đức Yêsu Kitô, Đấng chịu đóng đinh. Ngài đến với họ như một người ốm yếu, run rẩy sợ sệt, để sức mạnh của Tin Mừng được tỏ hiện.

Một người có thể được ơn trở lại, không phải vì họ nghe một bài giảng hùng hồn hay bài giảng thuyết cao sâu, nhưng có thể đơn sơ được đánh động bởi một hành vi bác ái của ai đó. Đời sống chan chứa tình bác ái của mẹ Têrêxa thành Calcuta có sức thuyết phục hơn những bài giảng hay rất nhiều.

Không nhất thiết phải học thần học và được đào luyện tại trường lớp mới thành người rao giảng Tin Mừng. Nếu mỗi người chúng ta sống yêu thương, chúng ta trở thành người rao giảng Tin Mừng, trở thành chứng nhân tình yêu- người làm chứng tình yêu của Thiên Chúa cho những người sống xung quanh chúng ta. Hãy sống sao, để những người sống với chúng ta thấy rằng Thiên Chúa yêu thương họ qua chúng ta. Có thế, chúng ta là men là muối, là ánh sáng cho đời, là người mang hạnh phúc cho người khác, và chúng ta cũng được hạnh phúc từng ngày. 

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

1. Bạn có bí quyết sống hạnh phúc không? Xin bạn chia sẻ.

2. Bạn có kinh nghiệm hạnh phúc khi giúp người khác bớt khổ hoặc hạnh phúc không?

3. Bạn bị phiền gì bởi người sống xung quanh nhất? Có ai sống với bạn cần bạn sửa đổi điều gì để họ được thoải mái hơn không? Bạn có sẵn sàng làm điều đó không?

 

8. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành

Vào ban tối, cứ mỗi lần bị cúp điện, chúng ta tìm mọi cách để cho có ánh sáng: bấm đèn pin, thắp lên một ngọn nến, thắp lên một ngọn đèn dầu… Những lúc như thế, chúng ta mới thấy sự cần thiết của ánh sáng đối với đời sống con người như thế nào. Đức Giêsu dùng hình ảnh quen thuộc của đời thường này để cho chúng ta biết Ngài chính là ánh sáng và mỗi người chúng ta được mời gọi phản chiếu ánh sáng của Ngài.

1. Đức Giêsu là Ánh Sáng cho thế gian

Thật vậy, Đức Giêsu là ánh sáng thế gian. Chính Ngài đã khẳng định: “Ta là ánh sáng thế gian. Ai theo Ta, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống.” (Ga 8,12). Đức Giêsu chính là ánh sáng chiếu soi tâm hồn, để dẫn bước chúng ta trên con đường tìm gặp Chúa. Khi Ngài bắt đầu cuộc sống công khai, Tin mừng đã áp dụng lời tiên tri Isaia sau đây cho Ngài: “Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng, những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi.” (Mt 4,16).

Ánh sáng đó chính là con người của Ngài: Đó là ánh sáng bao phủ các mục đồng khi sứ thần loan báo tin vui; đó là ánh sáng của ngôi sao lạ chỉ đường cho các nhà đạo sĩ đến gặp Hài Nhi Giêsu; đó là ánh sáng chói lòa bao phủ lấy Ngài trong biến cố biến hình trên núi Taborê; đó là ánh sáng đã quật ngã Phaolô trên đường Đamát, khiến Phaolô từ một người bắt bớ các Kitô hữu đã trở thành người loan báo Tin Mừng.

Ánh sáng đó chính là Lời của Ngài: Lời của Ngài được ghi chép lại trong các sách Tin mừng. Lời đó cũng chính là giáo huấn của Ngài. Thật vậy, Lời của Ngài đã xua trừ ma quỷ. Lời của Ngài đã chữa lành các bệnh hoạn tật nguyền. Lời của Ngài đã cho kẻ chết sống lại. Lời của Ngài đã biến đổi biết bao tâm hồn từ trong tối tăm của sự chết đến ánh sáng huy hoàng. Lời của Ngài là ngọn đèn soi cho con bước là ánh sáng chỉ đường con đi (x. Tv 119,105). Giải thích Lời Ngài là đem lại ánh sáng cho kẻ đơn sơ thông hiểu am tường (x. Tv 119,130).

Ánh sáng đó chính là hiệu quả các Bí tích mà Ngài đã thiết lập: Bí tích Rửa tội xóa tan tội Nguyên tổ và các tội riêng, giúp con người trở nên con Thiên Chúa; Bí tích Giao hòa, trả lại cho con người tội lỗi trở lại tình trạng nguyên thủy ban đầu; Bí tích Thánh Thể, gia tăng ơn thánh hóa và giúp cho người Kitô hữu đón nhận chính Đức Giêsu…Như vậy, các Bí tích nhằm mục đích giúp con người lãnh nhận thêm ánh sáng của Đức Giêsu.

2. Các con là ánh sáng thế gian

Chúng ta được đón nhận ánh sáng của Đức Giêsu ngày lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Ngọn nến được trao cho chúng ta trong ngày hồng phúc đó chính là hình ảnh Đức Giêsu Kitô. Từ đó, chúng ta tiếp tục đón nhận ánh sáng của Đức Giêsu qua việc lãnh nhận các Bí tích, qua việc đọc và suy gẫm Lời Chúa…Đặc biệt, chúng ta lãnh nhận ánh sáng Chúa Kitô qua đời sống cầu nguyện. Khi cầu nguyện là chúng ta được kết hợp mật thiết với Chúa. Nhờ cầu nguyện chúng ta được thêm sức mạnh, nạp thêm năng lượng thiêng liêng từ Thiên Chúa. Chính Mẹ Têrêxa Calculta đã nói: “Cầu nguyện là công việc nạp bình, còn hoạt động là công việc tỏa sáng.”

Khi đã đón nhận ánh sáng từ Chúa, chúng ta có nhiệm vụ chiếu tỏa ánh sáng đó cho những người chung quanh. Đức Giêsu đã nói “Chính anh em là ánh sáng thế gian.” (Mt 5,14); “Người ta không thắp đèn rồi để dưới đáy thùng, nhưng đặt trên giá hầu soi sáng cho mọi người trong nhà. Sự sáng của các con cũng phải chiếu giãi ra trước mặt thiên hạ, để họ xem thấy những việc lành của các con mà ngợi khen Cha các con ở trên trời.” (Mt 5,15-16).

Người kitô hữu cần tỏa ánh sáng của đời sống nội tâm. Khi chúng ta biết sống gắn bó với Chúa qua đời sống cầu nguyện, qua việc đọc và suy gẫm Lời Chúa, qua việc lãnh nhận các Bí tích…thì sự thánh thiện sẽ được lan tỏa ra nơi chúng ta để cho người ta thấy, cả những khi chúng ta không nói gì. Ngày kia, thánh Phanxicô Assidi nói với một thầy dòng: “Nào chúng ta cùng đi phố và giảng đạo.” Hai người ra đi, hết con đường trước mặt, quẹo sang đường khác rồi về nhà. Thầy dòng thắc mắc hỏi: “Con nghe ngài nói là mình đi phố và giảng đạo cơ mà!” Thánh Phanxicô đáp: “Chúng ta đã giảng đạo rồi đó! Khi chúng ta đi đường. Mọi người nhìn ta, thấy phong cách của ta, nghĩ về đời sống của ta và rồi họ sẽ thắc mắc về nguồn sống nơi linh hồn của họ. Như thế chẳng phải là ta đã giảng đạo cho họ rồi sao?” Câu trả lời của thánh Phanxicô Assidi thật là chí lý. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã nói: “Người thời nay tin vào các chứng nhân hơn là thầy dạy, và nếu họ có tin vào thầy dạy là vì các thầy dạy ấy đã là những chứng nhân.”

Người kitô hữu cần tỏa ánh sáng bác ái yêu thương. Bài đọc I, tiên tri Isaia mời gọi chúng ta: “Hãy chia bánh của ngươi cho kẻ đói, hãy tiếp nhận vào nhà ngươi những kẻ bất hạnh không nhà ở; nếu ngươi gặp một người trần truồng, hãy cho họ mặc đồ vào, và đừng khinh bỉ xác thịt của ngươi.” (Is 58,7). Chính Đức Giêsu cũng đã nói: “Người ta cứ dấu này mà nhận ra các con là môn đệ của Thầy là các con yêu thương nhau.”(Ga 13,35).

Ngoài ra, người kitô hữu cần chiếu tỏa nhiều loại ánh sáng khác nhau để hầu có thể xua tan bóng tối. Bởi vì, chúng ta đang sống trong một xã hội mà bóng tối tội lỗi lan tràn. Chúng ta không thể ngồi đó mà than thân trách phận, nhưng hãy chiếu tỏa ánh sáng, dù là một tia sáng nhỏ bé, như ai đó đã nói: “Thà thắp lên một ngọn nến còn hơn ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối.” Nếu mỗi người chúng ta cố gắng thắp lên một ngọn nến của tình thương và lòng tốt, chắc chắn chúng ta sẽ chiến thắng được bóng tối, sự dữ, oán thù. Ánh sáng sẽ bừng lên. Tiên tri Isaia đã khẳng định: “Nếu ngươi loại bỏ khỏi ngươi xiềng xích, cử chỉ hăm dọa, lời nói xấu xa, khi ngươi hy sinh cho người đói rách, và làm cho những người đau khổ được vui thích thì ánh sáng của ngươi sẽ bừng lên trong bóng tối, và bóng tối sẽ trở thành như giữa ban ngày.”(Is 58, 9-10).

Một buổi tối nọ, ông John Keller, một diễn giả nổi tiếng được mời thuyết trình trước khoảng một trăm ngàn người tại sân vận động trường Los Angeles. Đang diễn thuyết, bỗng ông dừng lại và nói: “Xin các bạn đừng sợ. Tôi sắp cho tắt tất cả đèn trong sân vận động này.”

Đèn tắt, sân vận động chìm sâu trong bóng tối dày đặc. Ông John Keller nói tiếp: “Bây giờ tôi đốt lên một que diêm. Những ai nhìn thấy ánh lửa của que diêm tôi đốt thì hãy kêu lớn lên: “Đã thấy!” Một que diêm được bật lên, cả vận động trường vang lên: “Đã thấy!”

Sau khi đèn được bật sáng, ông John Keller giải thích: “Ánh sáng của một hành động nhân ái nhỏ như một que diêm sẽ chiếu sáng trong đêm tăm tối của nhân loại y như vậy.”

Một lần nữa, tất cả đèn trong sân vận động lại tắt. Một giọng nói vang lên ra lệnh: “Tất cả những ai có mang theo hộp quẹt, xin hãy đốt cháy lên!” Bỗng chốc, cả sân vận động trường rực sáng.

Ông John Kener kết luận: “Tất cả chúng ta hợp lực cùng nhau, có thể chiến thắng bóng tối, sự dữ và oán thù bằng những đốm sáng nhỏ của tình thương và lòng tốt của chúng ta.

Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con luôn trở nên ánh sáng soi chiếu cho những người xung quanh, để qua đó họ nhận biết Chúa là ánh sáng thật, là ánh sáng dẫn đến nguồn ơn cứu độ. Amen.

 

9. Muối và ánh sáng

Muối được dùng để ướp đồ ăn cho khỏi ươn thối còn ánh sáng dùng để soi chiếu. Vì thế muối phải mặn và ánh sáng thì cần phải sáng, bằng không chúng sẽ mất mục đích của mình và lúc bấy giờ sẽ không còn có một giá trị gì nữa.

Trước hết Tin Mừng và những chân lý đức tin chính là muối và ánh sáng. Chúng không thể trở nên lạt lẽo và đen tối. Tuy nhiên, Tin Mừng và những chân lý đức tin chỉ trở nên khả giác, khi đi vào trí khôn và cõi lòng con người. Do đó, những người mang Tin Mừng và chân lý đức tin tới cho kẻ khác cũng phải là muối và ánh sáng trần gian.

Hơn bao giờ hết, ngày hôm nay Giáo Hội phải thấm nhập vào các nền văn minh với những giá trị của Tin Mừng, nhờ đó mà làm cho thế gian khỏi tan rã, thoái hoá và ươn thối, với những chủ thuyết như duy vật, duy sắc dục.

Tuy nhiên cũng có những người quảng đại chiến đấu cho một thế giới công bình hơn, nhưng họ lại không biết bên kia cái cùng đích họ theo đuổi, còn có gì nữa không? Bởi đó, người Kitô hữu phải làm chứng về phẩm giá con người hầu góp phần cứu vớt thế gian. Trong tất cả những lãnh vực như gia đình, xã hội, nghề nghiệp, chính trị, kinh tế, họ phải nghĩ tưởng và hành động theo như niềm tin vào Đức Kitô soi sáng và thúc đẩy. Nếu không có can đảm sống như thế, thì họ sẽ trở nên lạt lẽo và chẳng còn giá trị gì nữa, hay như lời Phúc Âm đã diễn tả: đó là bị ném ra ngoài cho người ta chà đạp dưới chân.

Tiếp đến người Kitô hữu phải là ánh sáng soi chiếu cho trần gian. Vấn đề không phải là phô trương mình ra. Cũng như ánh sáng soi chiếu vì nó sáng, thì người Kitô hữu cũng phải tạo ra ánh sáng Tin Mừng bằng cách sống Tin Mừng, bằng cách trở nên Kitô hữu đích thực, bởi vì chúng ta chỉ có thể cho cái mà chúng ta đã có. Chúng ta chỉ có thể chiếu toả, một khi đời sống chúng ta đã là ánh sáng. Chúng ta làm chứng về Đức Kitô không phải bằng cách khua chiêng gióng trống, nhưng âm thầm bằng chính cuộc sống gương mẫu của chúng ta.

Đúng thế, hãy làm cho cuộc đời mình trở nên tốt hơn. Vì cuộc đời tốt chính là một thứ ánh sáng soi chiếu cho người khác nhận biết Đức Kitô, cũng như Tin Mừng cứu độ của Ngài.

 

10. Chính anh em là muối cho đời

Chúng ta đang sống trong một xã hội phát triển không ngừng về kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật. Đời sống con người được nâng cao về mọi mặt. Chủ nghĩa cá nhân thực dụng và hưởng thụ vật chất đã ảnh hưởng đến đời sống của người Kitô hữu chúng ta. Thế giới mất dần ý thức về tội, niềm tin vào Thiên Chúa suy giảm rất nhiều. Là những Kitô hữu trong xã hội hiện đại chúng ta phải làm sao đây? Vâng, Lời Chúa hôm nay là câu trả lời cho những thao thức đó: “Chính anh em là muối cho đời; anh em là ánh sáng trần gian” (Mt 5,13.15). Hình ảnh muối và ánh sáng thật gần gũi với cuộc sống chúng ta. Vì thế, tôi mời gọi quý ông bà anh chị em cùng tôi suy nghĩ về vai trò làm muối men của người Kitô hữu hôm nay.

Trong cuộc sống hạt muối hiện diện thật nhỏ bé khiêm tốn, chẳng ai để ý đến nó. Người ta chỉ giới thiệu những món ăn ngon, hấp dẫn trong các chương trình ẩm thực chứ không ai giới thiệu hạt muối. Người ta chỉ trưng bày những món ăn đắt tiền, cầu kỳ chứ không ai trưng bày muối. Xét về giá trị hạt muối chẳng đáng là bao. Muối có đó nhưng không ai thấy muối. Tuy nhiên, nếu không có muối thức ăn sẽ nhạt nhẽo, thực phẩm sẽ không giữ được lâu. Muối chấp nhận tan biến đi để giữ cho cuộc sống thêm mặn mà. Đó là sự hiện diện quên mình và rất tích cực. Sự hiện diện âm thầm đó tuy không thấy và không nói ra nhưng ai cũng ngầm hiểu đó chính là nhờ hạt muối.

Cũng như hạt muối, người Kitô hữu trong xã hội Việt Nam chiếm con số rất khiêm tốn chỉ khoảng 6-7% dân số. Sự hiện diện thật bình thường nhưng có không ít người đã dấn thân phục vụ những người cùng khổ ở các trại phong, các trung tâm nuôi dưỡng người già, chăm sóc các bệnh nhân nhiễm HIV, AIDS như: Trung tâm Mai Hòa, trung tâm Trọng Điểm (Bình Phước), trại phong Di Linh… Sự hiện diện đó ít ai biết tới nhưng mỗi ngày vẫn làm cho cộc sống thêm hương vị, xoa dịu những đau khổ kiếp người, giúp cho mọi người nhận ra gương mặt hiền hòa của Đức Kitô. Do đó, chỉ có vị mặn từ tình yêu tha nhân trong Đức Kitô mới thúc đẩy những con người như thế hy sinh phục vụ xã hội, phục vụ con người. Điều mà các tổ chức xã hội khó mà làm được. Chắc hẳn những ‘hạt muối’ đó đã múc lấy vị mặn nơi tình yêu Thiên Chúa để đem đến cho cuộc sống; đã học được sự hiến thân quên mình và âm thầm phục vụ nơi Thầy chí Thánh nên đã góp phần bảo vệ các giá trị cuộc sống và cách nào đó dù không muốn chính họ đã trở nên ánh sáng cho trần gian.

Từ bài học ánh sáng và muối mặn Chúa dạy hôm nay chúng ta hãy tự đặt ra cho mình những câu hỏi: Tôi có là ánh sáng và muối ướp cho đời chưa? Tôi phải làm gì để đem vị mặn Phúc âm và ánh sáng Tin mừng cho thế giới hôm nay? Ước mong những trăn trở đó luôn là động lực để chúng ta trở nên những chứng nhân cho thế giới này.

Lạy Chúa, vì yêu thương Chúa muốn chúng con trở nên muối ướp trần gian, là ánh sáng cho đời. Xin cho chúng con biết múc lấy nơi Chúa vị mặn yêu thương để đem đến cho đời hương vị tình yêu. Amen.

 

11. Muối

Ngày nay có những người thích sưu tầm. Họ sưu tầm đủ mọi thứ lỉnh kỉnh: nào tem thư, nào nút áo, nào giấy kẹo, nào sách hiếm, nào tiền cũ, nào xe hơi… Trong một cuộc triển lãm họ, người ta trưng bày hàng trăm chiếc bình đựng muối. Một ông khách viếng thăm phòng triển lãm, trên tay cầm một chiếc đùi gà quay, vừa đi vừa ăn. Tới phòng trưng bày những chiếc bình đựng muối, ông bỗng cảm thấy như món gà quay của mình có phần nhạt nhẽo. Ông đã mở nắp những chiếc bình ấy nhưng chẳng chiếc nào có được tí muối. Vì thế ông đành phải quay lại quầy hàng bán đồ ăn để xin chút muối.

Hàng trăm chiếc bình đựng muối mà chẳng có được một hạt muối nào, phải chăng đó là một hình ảnh sống động, tượng trưng cho cuộc đời của nhiều người trong chúng ta. Thực vậy, rất nhiều người được coi là có muối, nhưng sự thực lại chẳng hề có. Sự kiện này giúp cho chúng ta dễ dàng hiểu được điều Chúa Giêsu xác quyết: Các con là muối cho đời.

Trong cuộc sống hàng ngày, muối được dùng vào nhiều việc khác nhau. Chẳng hạn muối được dùng như một thứ phân bón để hạ phèn, muối được dùng để làm giảm cơn đau. Một người có nhiều kinh nghiệm sống trong tù cho tôi hay: Sau khi bị tra tấn dã man, người ta thường dùng muối để chà xát lên vết thương và người bị tra tấn sẽ không còn bị đau đớn nhức nhối nữa. Muối được dùng làm chất khử trùng. Khi trộn muối vào đồ ăn, nó sẽ giữ cho đồ ăn khỏi ươn thối. Và sau cùng muối sẽ làm cho đồ ăn tăng thêm hương vị đậm đà. Vậy đâu là sứ điệp Chúa Giêsu muốn gởi đến chúng ta khi xác quyết: Các con là muối cho đời?

Tôi xin thưa chúng ta trở nên muối bằng một đức tin sống động để làm cho cuộc đời có một ý nghĩa, có một hương vị đậm đà. Thực vậy, trong cuộc sống chúng ta đã gặp biết bao nhiêu người kéo lê đời mình một cách buồn tẻ và vô nghĩa, không mục đích, cũng giống như món gà quay nhạt nhẽo vì thiếu muối. Chính nhờ thứ muối đức tin của chúng ta mà họ tìm thấy được hương vị cuộc đời.

Tiếp đến chúng ta trở nên muối bằng chính đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương của chúng ta. Như muối ướp trong đồ ăn và làm cho đồ ăn khỏi hư thối, thì nhờ muối gương sáng của mình, người kitô hữu sẽ giúp cho những kẻ mà họ tiếp xúc thoát khỏi những lầm lạc, những suy đồi, những xuống cấp. Đồng thời nhờ thứ muối của gương sáng này, mà người kitô hữu sẽ dần dần cảm hoá được họ, giúp họ sửa chữa những sai lỗi, những khuyết điểm, cũng như giúp họ tìm thấy nẻo đường trở về cùng Thiên Chúa, bởi vì lời nói thì như gió lung lay, còn việc làm thì như tay lôi kéo. Đời sống gương mẫu của chúng ta sẽ là một bài giảng hùng hồn nhất có sức lôi cuốn và hấp dẫn những người chung quanh.

Bởi đó, bằng đức tin và bằng gương sáng, chúng ta trở nên muối cho bản thân chúng ta và cho những người chung quanh khỏi bị ươn thối và cuộc đời của chúng ta cũng như của những người chung quanh tìm thấy được hương vị đậm đà.

 

12.             Muối và đèn sáng

Quan đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ phải trở nên muối ướp và đèn soi. Bằng hai hình ảnh cụ thể này, Ngài phác hoạ một luật sống mà các môn đệ phải tuân theo khi Ngài gởi họ đi vào đời.

Hình ảnh thứ nhất: “Các con là muối ướp thế gian”.

Muối là vật dụng thường thức dùng trong việc nấu nướng. Không có muối, đồ ăn thiếu hương vị và lạt lẽo. Nhưng người Do Thái còn dùng muối làm phân bón. Vì vậy mà Ngài bảo: Các con là muối đất. Trong Kinh Thánh, muối là hình ảnh được nhắc lại nhiều lần. Từ vụ vợ ông Lót nhìn lại đàng sau mà biến thành tượng muối, đến chút muối mà thánh Phaolô căn dặn nên đặt vào trong lời ăn tiếng nói cho có hương vị khi giao tiếp với anh em.

Các con là muối, nghĩa là chúng ta hãy sống đạo dức, thực thi những điều Ngài dạy, để thánh hoá bản thân, nêu gương sáng cho người khác, hâm nóng những cõi lòng đã nguội lạnh. Nếu chúng ta không sống Lời Chúa trọn vẹn, thì chúng ta như muối đã nhạt, không ích lợi gì, chỉ đáng đem đổ ra ngoài đường cho người ta dày đạp. Người Do Thái ngày xưa đổ rác cả ra đường phố cho khách qua lại dẫm lên.

Người ta hỏi ông Ganhdi, nhà ái quốc Ấn Độ, rằng: – Trước thảm hoạ nguyên tử, ông sẽ làm gì?

Ganhdi trả lời:

– Tôi sẽ cầu nguyện.

Và được hỏi thêm:

– Vì sao ông không theo đạo công giáo?

Ông trả lời:

– Phúc Âm của Chúa thì rất tốt lành, nhưng người công giáo đã không sống Phúc Âm, nên không hơn gì chúng tôi.

Câu trả lời này khiến chúng ta nhớ lại lời Chúa: Các con là muối đất, nếu muối đã nhạt đi, thì biết lấy gì mà ướp cho mặn lại. Chỉ còn ném ra ngoài đường cho người ta chà đạp.

Hình ảnh thứ hai là đèn soi.

Có lần Chúa Giêsu đã xác quyết: Ta là ánh sáng thế gian. Ai theo Ta sẽ không đi trong đêm tối, nhưng sẽ có ánh sáng đời đời. Và hôm nay Chúa dạy các môn đệ hãy bắt chước Ngài để trở nên ánh sáng thế gian: Người ta không thắp đèn rồi để dưới đáy thùng, nhưng đặt nó trên giá đèn hầu soi sáng cho mọi người trong nhà.

Chúng ta phải là đèn soi cho kẻ khác bằng lời nói, bằng việc làm và bằng gương sáng. Nếu Phúc Âm không được rao giảng người ta sẽ quên nó. Trái lại, nếu mỗi người chúng ta thắp lên cây đèn nhỏ của mình, thì không những nhà riêng của chúng ta mà cả thế giới sẽ được soi sáng. Sự sáng của các con sẽ chiếu soi trước mặt thiên hạ và mọi người sẽ ngợi khen Thiên Chúa.

Một buổi chiều, Mẹ Têrêsa đi qua một căn nhà ở ngoại ô Calcutta. Căn nhà tối om và có tiếng rên từ bên trong vọng ra. Mẹ đẩy cửa bước vào, sờ soạng đi lại giường một cụ già tiều tuỵ, đau yếu. Mẹ hỏi:

– Nhà của cụ không có đèn đóm gì à?

– Có một chiếc đèn còn tốt nhưng không có dầu.

Mẹ lục lọi tìm chiếc đèn, rồi lau chùi, mua dầu đổ vào và đốt lên. Mặt cụ tươi tỉnh. Ít lâu sau, Mẹ nhận được mấy dòng chữ sau đây: Nụ cười của Mẹ nhu dầu khích lệ, như đèn thắp sáng đời tôi.

Mỗi người chúng ta đều được Chúa kêu mời trở nên muối mặn ướp thế gian, và trở nên đèn thắp sáng cuộc đời mình và cuộc đời người khác.

 

13.             Chúa Nhật 5 Thường Niên

(Suy niệm của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật V Thường Niên năm A nhấn mạnh sức mạnh của lời chứng: sức mạnh này làm cho người tín hữu trở thành con người của ánh sáng (Bài Đọc I và Tin Mừng) và qua sự yếu đuối của phàm nhân, chứng thực quyền năng Thiên Chúa (Bài Đọc II).

Is 58: 7-10

Bài Đọc I được trích từ phần thứ ba của sách I-sai-a, phần này được biên soạn vào thời hậu lưu đày (sau năm 538 trước Công Nguyên). Vị ngôn sứ khuyên bảo hãy thực thi đức ái huynh đệ, quan tâm đến những người không nơi nương tựa, những người túng thiếu, đó là điều kiện để trở thành một con người chiếu giải ánh sáng Thiên Chúa.

1Cr 2: 1-5

Thánh Phao-lô nhắc cho các tín hữu Cô-rin-tô nhớ rằng khi đến với họ, thánh nhân đã cảm thấy yếu đuối và sợ hãi (thánh nhân vừa mới chịu thất bại ở A-thê-na, ở đó sự khôn ngoan của Tin Mừng đã đụng chạm đến sự khôn ngoan phàm nhân). Nhưng sự yếu đuối này bày tỏ sức mạnh của Thần Khí trong sứ mạng gian khó của ngài là làm chứng cho Đức Ki-tô chịu đóng đinh.

Mt 5: 13-16

Trong Tin Mừng Mát-thêu, Chúa Giê-su khuyên các môn đệ Ngài hãy làm chứng niềm tin của họ: như vậy, họ sẽ đem đến một vị mặn thần linh cho những sự vật trần thế và sẽ trở nên ánh sáng cho thiên hạ.

BÀI ĐỌC I (Is 58: 7-10)

Bản văn tuyệt đẹp này xem ra thuộc vào thời kỳ những người lưu đày ở Ba-by-lon trở về Giê-ru-sa-lem (cuộc hồi hương khoảng năm 538 trước Công Nguyên). Tác giả của nó chắc chắn là một môn đệ của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị, ông được gọi dưới biệt danh là ngôn sứ I-sai-a đệ tam.

  1. Cách ăn chay mà Chúa ưa thích là thực hành đức ái

Giáo Hội có chủ ý mời gọi chúng ta suy niệm bản văn này để chuẩn bị bước vào Mùa Chay. Quả thật, lời khuyên bảo được gởi đến những tín hữu thực hành chay tịnh và sám hối trong niềm mong chờ Thiên Chúa thi ân giáng phúc.

Vị ngôn sứ vạch cho thấy những khổ chế này chỉ là công việc đạo đức vô giá trị nếu không đi kèm theo việc thực hành đức ái. Cách ăn chay mà Thiên Chúa ưa thích:

“Chẳng phải là chia cơm cho người đói,

rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ;

thấy ai mình trần thì cho áo che thân,

không ngoảnh mặt làm ngơ trước những anh em cốt nhục?” (Is 58: 7)

  1. “Bấy giờ ánh sáng ngươi sẽ bừng lên như rạng đông”

Vị ngôn sứ sánh ví những thành quả của đức ái với ánh mặt trời vào lúc rạng đông. Trong những xứ sở Cận Đông ánh bình minh là một yếu tố thiết yếu của cuộc sống thường ngày. Ánh bình minh đồng nghĩa với hạnh phúc, niềm vui, thịnh vượng.

“Bấy giờ, ánh sáng ngươi sẽ bừng lên như rạng đông,

vết thương ngươi sẽ mau lành” (58: 8a)

Đây sẽ là một ngày mới, một cuộc tái sinh thực sự không chỉ về phương diện luân lý nhưng còn cả về thể xác nữa vì sức lực sẽ được phục hồi mau chóng.

  1. “Đức Công chính ngươi sẽ mở đường phía trước”

“Đức công chính sẽ mở đường phía trước,

vinh quang Đức Chúa bao bọc phía sau ngươi” (58: 8b)

Trong vế thứ nhất của câu này, từ Híp-ri được dịch “đức công chính”, theo văn mạch cũng có nghĩa “chiến thắng”. Chắc chắn sắc thái ngữ nghĩa này phải được hiểu ở đây. Đức công chính mà người tín hữu thực hành được sánh ví với những chiến lợi phẩm sẽ mở đường phía trước người chiến thắng.

Vế thứ hai được dịch sát chữ: “Vinh Quang Thiên Chúa sẽ là hậu quân của ngươi”. Đây là hình ảnh của đám rước khải hoàn.

  1. Thiên Chúa lắng nghe và đáp trả

Nhịp tăng dần của nhà thơ còn đi xa hơn khi tác giả khẳng định rằng Thiên Chúa lắng nghe và đáp trả người thực hành đức ái. Đây là cách thức diễn tả cuộc đối thoại thường hằng giữa Thiên Chúa và người công chính.

“Bấy giờ, ngươi kêu lên, Đức Chúa sẽ nhận lời,

ngươi cầu cứu, Người liền đáp lại: ‘Có Ta đây!” (58: 9)

Vị ngôn sứ một lần nữa liệt kê những cử chỉ bác ái và một lần nữa sánh ví thành quả của chúng với thành quả của ánh sáng, nhưng lần này với ánh sáng nội tâm. Sự rực sáng của thiện nhân chẳng khác nào sự chiếu sáng vinh quang của Thiên Chúa:

“Nếu ngươi nhường miếng ăn cho kẻ đói,

làm thỏa lòng người bị hạ nhục,

thì ánh sáng ngươi sẽ chiếu tỏa trong bóng tối,

và tối tăm của ngươi chẳng khác nào chính ngọ” (58: 10).

BÀI ĐỌC II (1Cr 2: 1-5)

Trong đoạn trích thư thứ nhất gởi tín hữu Cô-rin-tô này, thánh Phao-lô tiếp tục biện luận về sự khôn ngoan Thiên Chúa và sự khôn ngoan phàm nhân. Thánh nhân giải thích cho các tín hữu Cô-rin-tô hiểu rằng sự khôn ngoan Thiên Chúa được bày tỏ qua những người khiêm hạ, điều này được kiểm chứng bởi muôn ân sủng mà họ nhận được.

  1. Quyền năng Thiên Chúa được bày tỏ ở nơi sự yếu đuối

Bản thân thánh nhân là một trong những ví dụ đó. Khi đến với họ, thánh nhân đã cảm thấy mình yếu kém, sợ sệt và run rẩy, và chẳng có lời lẽ hùng biện. Chẳng phải sự hùng biện phải câm nín khi loan báo một Đức Ki-tô chịu đóng đinh sao? Thánh Phao-lô thích nhấn mạnh sự tương phản giữa sự yếu đuối của ngài, sự bé nhỏ của những phương tiện ngài sử dụng và ảnh hưởng của lời ngài rao giảng. Thánh nhân muốn công bố rằng “quyền năng Thiên Chúa được thực hiện ở nơi sự yếu đuối” (2Cr 12).

Đừng hiểu “sợ sệt và run rẩy” theo nghĩa đen, đây là một thành ngữ. Chúng ta gặp lại thành ngữ này trong thư thứ hai của thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-rin-tô khi thánh nhân gợi lên việc các tín hữu này đã đón tiếp nồng hậu người cộng tác viên của ngài là ông Ti-tô: “Lòng anh ấy càng tha thiết quý mến anh em, khi nhớ lại anh em đã vâng lời, đã kính sợ và run rẩy đón tiếp anh” (2Cr 7: 15). Đây là cách diễn tả thái độ khiêm tốn và kính trọng, dẫu rằng vào lúc đó thánh nhân có nhiều lý do để lo lắng: những vết thương do việc đánh đòn mà thánh nhân đã chịu ở Phi-líp-phê chưa lành hẳn; những quấy nhiễu của người Do thái ở Thê-xa-lô-ni-ca đã buộc thánh nhân phải trốn chạy; mới đây, cách tiếp đón lạnh nhạt của dân thành A-thê-na.

  1. Hậu cảnh: cuộc thất bại ở A-thê-na

Thánh Phao-lô đã đến Cô-rin-tô vào năm 50 từ A-thê-na ở đó thánh nhân đã nếm mùi thất bại. Ở nơi đỉnh cao của sự khôn ngoan và triết học, thánh nhân đã không được hiểu. Sứ điệp của Đức Ki-tô đã không dễ dàng hòa nhập vào giữa những suy luận ngoại giáo, thậm chí bởi những lời lẽ hùng biện. Vì thế, ở Cô-rin-tô, thánh nhân sử dụng một phương pháp khác. Thánh nhân không dùng “lời lẽ khôn ngoan để thuyết phục”, nhưng để cho Thần Khí hoạt động qua những lời đơn sơ giản dị của mình và cách hành xử khiêm hạ của mình.

Đừng nghĩ rằng thánh nhân kết án sự hùng biện, vì lẽ thánh nhân mượn ở nơi nghệ thuật này biết bao điều tốt đẹp, cũng không sự khôn ngoan phàm nhân, vì lẽ thánh nhân ca ngợi đức điều độ của người Hy-lạp. Nhưng thánh nhân kết án sự khôn ngoan khi mà nó tự phụ áp dụng những tiêu chuẩn của mình vào một sứ điệp vượt quá nó. Đây là điều mà những người Hy lạp này với tinh thần tinh tế xem ra cư xử Tin Mừng như một sự chọn lựa khôn ngoan hay lời dạy của nhà hùng biện.

TIN MỪNG (Mt 5: 13-16)

Bản văn này được trích từ Bài Giảng Trên Núi của thánh Mát-thêu và trực tiếp kết nối với các “Mối Phúc” (5: 3-12) qua trung gian của các câu 11-12 với cách xưng hô ở ngôi thứ hai số nhiều: “Anh em”. Bản văn này được gởi đến không phải cho những người môn đệ đặc biệt, nhưng cho tất cả những ai tự nhận mình là môn đệ của Chúa Giê-su. Qua bản văn này, cộng đoàn Ki-tô hữu được nhắc nhớ đến bổn phận truyền giáo. Khi đề cập đến sứ mạng của người môn đệ “trong thế gian”, Đức Giê-su khuyên các môn đệ Ngài hãy làm chứng niềm tin của họ, như vậy họ sẽ đem đến một bản sắc mặn mà thần linh cho những sự vật trần thế và sẽ trở nên ánh sáng chiếu soi thiên hạ.

  1. Muối cho đời (5: 13)

Đây không là một gợi ý hay một lời đề nghị về một lý tưởng nên theo, nhưng là một lời khẳng định về cách sống, một ơn gọi: “Chính anh em là muối cho đời”. Kiểu nói này có mối liên hệ với Xh 19: 6: “Còn các ngươi, các ngươi sẽ là một vương quốc tư tế cho Ta và một dân thánh”. Như Đức Chúa đã chọn dân Ngài giữa chư dân và xác định cách sống của họ, Đức Giê-su cũng chọn các môn đệ giữa loài người và giờ đây xác định sứ mạng của họ phải là “muối cho đời”. Với hình ảnh này, Đức Giê-su muốn nói lên điều gì?

Trước hết, muối là một thứ gia vị đem lại vị mặn mà cho thức ăn, muốn được như thế, muối phải hòa tan vào thức ăn. Như muối chấp nhận hòa tan vào thức ăn để đem lại vị mặn mà cho thức ăn như thế nào, thì người Ki-tô hữu là “muối cho đời” cũng phải chấp nhận hòa tan vào trần gian để đem lại vị mặn nồng cho những người chung quanh như vậy.

Thứ nữa, muối còn có công dụng là bảo tồn thức ăn cho khỏi hư, như ca dao Việt Nam đã nói: “Cá không ăn muối, cá ươn”. Từ đó, muối ám chỉ đặc tính “lâu bền” của một khế ước như Thánh Kinh nói: “giao ước muối”, nghĩa là một Giao Ước bền vững (Ds 18: 19; Lv 2: 13; 2Sb 13: 5). Thánh Mác-cô gợi lên biểu tượng này của muối: “Anh em hãy giữ muối trong lòng mình, và sống hòa thuận với nhau” (Mc 9: 50). Dâng hiến “bánh và muối”, chính là đề nghị tình bạn, ký kết một giao ước. Vì thế, với tư cách là “muối cho đời” người Ki-tô hữu có sứ mạng bảo tồn cho trần gian khỏi hư hỏng.

Ngoài ra, diễn ngữ: “muối cho đời” được dịch sát từ: “muối của đất”, để nói lên công dụng khác nữa của muối là làm phân bón cho đất thêm tốt. Ngày xưa, tại Ai-cập và tại Pa-lét-tin, nhà nông cho muối vào phân để phân tốt, nhờ đó đất sẽ phì nhiêu hơn, như thánh Lu-ca gợi lên công dụng này của muối: muối mà nhạt đi thì “dùng nó để bón ruộng hay trộn phân đều không thích hợp” (Lc 14: 34-35). Vậy khi Đức Giê-su nói: “Anh em là muối của đất”, Ngài muốn nói rằng người Ki-tô hữu phải làm sao cho thiên hạ được tốt, tốt mãi, tốt hơn.

Điều cốt yếu chính là muối vẫn là muối, thì mới giữ được giá trị và tính hữu hiệu của mình. Nếu muối mất đi vị mặn của mình thì trở nên vô ích, cũng vậy nếu cuộc đời của người Ki-tô hữu bị biến chất, mất đi tinh thần Bát Phúc thì chẳng còn có giá trị gì: “Nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn lại?”.

Nói cho cùng, khi khẳng định các môn đệ là “muối cho đời”, Đức Giê-su cho hiểu rằng mỗi người Ki-tô hữu không chỉ nổ lực thánh hóa bản thân, nhưng cũng phải thánh hóa tha nhân. Khi khẳng định sứ mạng của người Ki-tô hữu là “muối cho đời”, Đức Giê-su nghĩ đến khía cạnh tiểu số của những người Ki-tô hữu. Trong đống bột nhân loại bao la, những Ki-tô hữu phải là một nhúm muối đem lại vị mặn mà của Thiên Chúa. Họ là những sứ giả của Tin Mừng, Tin Mừng không xuất phát từ thế giới này.

  1. Ánh Sáng cho trần gian (5: 14-16)

Kiểu sánh ví người môn đệ với ánh sáng là kiểu nói quen thuộc của Kinh Thánh: xưa kia, vua Đa-vít là ánh sáng cho dân Ít-ra-en (2Sm 21: 17), người Tôi Trung của Đức Chúa là ánh sáng cho chư dân (Is 42: 6; 49: 6) và dân Ít-ra-en là ánh sáng cho muôn dân nước để họ biết đường về cùng Thiên Chúa chân thật (Is 60). Kiểu nói này được dịch sát từ: “Ánh sáng của trần gian”, có nghĩa người môn đệ Chúa Ki-tô phải chấp nhận dấn thân vào trần gian như một công dân của trần thế để từ đó mới có thể làm cho thế gian rực sáng các mối Phúc. Khi nói: “Một thành xây trên núi”, Chúa Giê-su chắc chắn ám chỉ thành Giê-ru-sa-lem vào ngày Đấng Cứu Độ đến, như lời loan báo của I-sai-a (Is 2: 2-4). Thế thì, ngày cánh chung, Giê-ru-sa-lem, tức là Giáo Hội, sẽ chiếu tỏa xuống chư dân, vì chính tại Giê-ru-sa-lem, chư dân học biết Luật Chúa (Is 2: 3).

Chúa Giê-su dùng một hình ảnh rất thân quen: “Cũng chẳng có ai thắp đèn rồi lại đặt dưới cái thùng, nhưng đặt trên đế”. Trong mỗi căn nhà của người Do thái, người ta thường gặp thấy một cái đấu có dung tích khoảng mười hai lít ngũ cốc. Nhiều người nghèo dùng cái đấu này làm đế đèn. Công dụng của “đèn thắp sáng” là chiếu sáng cho mọi người trong nhà: “Đèn soi chiếu cho mọi người trong nhà”. Cũng vậy, do ơn gọi, người Ki-tô hữu phải thông chia ánh sáng cho người khác. Chính họ không được để mình thiếu ánh sáng và không được thiếu trách nhiệm vì không tạo được ảnh hưởng cho môi trường sống chung quanh.

Đây không phải là sự phô trương mà Chúa Giê-su đòi hỏi ở nơi các môn đệ Ngài; nhưng họ phải chiếu giải ánh sáng của Thiên Chúa bằng những công việc tốt đẹp họ làm: “Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ”. Lúc đó, những ai nhìn thấy ánh sáng “sẽ tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời”. Những lời này loan báo kinh Lạy Cha, chẳng bao lâu sẽ được Ngài dạy cho các môn đệ Ngài. Bản chất của ánh sáng chính là “những công việc tốt đẹp anh em làm”, hay chính xác hơn, “những việc thiện”. Những việc thiện là hoa trái của đức ái, đó là yêu thương tha nhân như Chúa yêu thương chúng ta (x. Ga 15: 12).

Công Đồng Vatican II nhấn mạnh bổn phận của người Ki-tô hữu là làm tông đồ: “Giáo dân làm tông đồ là thông phần vào chính sứ mệnh cứu độ của Giáo Hội: để lãnh nhận Phép Rửa và Thêm sức, mỗi tín hữu đều được Chúa đề cử làm tông đồ: đàng khác các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể, thông phần và nuôi dưỡng trong họ đức ái đối với Thiên Chúa và đối với loài người, nhân đức này là linh hồn của mọi hoạt động tông đồ. Nhưng giáo dân được đặc biệt kêu mời làm cho Giáo Hội hiện diện và hoạt động nơi và trong những hoàn cảnh mà nếu không có họ, thì Giáo Hội sẽ không là muối của thế gian. Như thế, vì những ân huệ đã lãnh nhận, mọi giáo dân vừa là chứng nhân vừa là dụng cụ sống động cho chính sứ mệnh Giáo Hội, ‘tùy theo độ lượng ân sủng Chúa Ki-tô ban cho’ (Ep 4: 7)… Bởi vậy, nhiệm vụ cao cả của mọi giáo dân là làm cho ý định cứu độ của Thiên Chúa ngày càng lan tới tất cả mọi người ở mọi nơi và mọi thời đại” (Hiến Chế Giáo Hội, 33).

 

14.             Suy niệm Chúa Nhật 5 TN

Bài Phúc Âm (Mt 5, 13- 16) hôm nay, Chúa Giêsu đưa ra hai hình ảnh rất cụ thể để định nghĩa cho đời sống Ki-tô-hữu, sống nên ánh sáng và muối ướp cho đời: “Các con là muối cho đời, là ánh sáng cho trần gian”. Vậy thì muối và ánh sáng có ý nghĩa gì?

 

Trong cuộc sống, muối và ánh sáng rất cần thiết cho nhu cầu sinh hoạt hằng ngày. Muối là một loại vật chất cần thiết cho nhu cầu con người trong nhiều lãnh vực. Thời xưa, Người HyLạp coi muối như thần linh. Trong một câu ngạn ngữ bằng tiếng La-tinh: “Nil utilius sole et sale” (Không có gì hữu ích hơn là mặt trời và muối). Vào thời Chúa Giêsu, muối được nối kết với ba đức tính cao quý của con người: sự thanh khiết, bảo trì, và khẩu vị. Thật thế, Người La Mã nghĩ rằng muối là vật thanh khiết vì nó đến từ sự thanh khiết nhất đó là mặt trời và biển cả. Do đó muối là của lễ đầu tiên được dâng cúng cho các thần, và khi kết thúc một ngày, những lễ vật của người DoThái được dâng lên với muối. Nếu người Kitô hữu là muối, ắt hẳn phải là một gương mẫu của sự thanh khiết.

 

Thời cổ xưa, muối là một phương tiện phổ thông nhất để giữ gìn cho đồ ăn khỏi bị hư thối, muối bảo trì và giữ nó tươi. Muối khi dùng để ướp thực phẩm sẽ giúp cho khỏi bị ung thối, làm tăng thêm hương vị, và tẩy sạch mùi hôi. Nếu người Kitô hữu là muối, ắt phải có một ảnh hưởng chống lại những điều độc hại giống như vi trùng trong cuộc sống. Những đặc tính vĩ đại và hiển nhiên nhất của muối là làm cho món ăn đậm đà và ngon miệng, đồ ăn thiếu muối sẽ trở nên nhạt nhẽo. Giống như muối làm cho lương thực trở nên ngon, người Kitô hữu cũng tạo nên khẩu vị thơm ngon cho cuộc đời.

 

Muối cũng được dùng để đốt lửa cho hiệu quả hơn. Thời đó muối còn dùng để giúp cho sự đốt cháy. Ở vài nơi trên thế giới, các thiếu nữ trộn muối vào phân lừa và phân lạc đà và đóng thành từng bánh tròn, phơi khô và dùng để đun lò. Người ta đun lò đất bằng cách chất những bánh phân khô trên một lớp muối. Khi đốt lò, muối sẽ giúp đốt cháy những bánh phân. Khi muối mất vị mặn sẽ không còn giúp đốt cháy nữa và sẽ bị đổ đi. Hình ảnh của muối đùng để đốt cháy liên kết với hình ảnh của lửa chiếu sáng thế gian… Muối còn được dùng để trị bệnh trong y học dân gian: muối sát trùng, đắp vào chỗ bong gân, ngăn ngừa bệnh tật; muối để giúp tiêu hóa,… Ngoài ra, muối còn có nhiều công dụng khác nữa, kể cả cho các loài động và thực vật.

 

Về ánh sáng. Là một loại vật chất mà nhờ nó, người nhận thấy các sự vật xung quanh mình. Ở những nơi tối, người ta càng cần đến ánh sáng và càng nhận thức rằng ánh sáng rất cần cho cuộc sống. Có thể nói: không có ánh sáng thì không thể có sự sống.

 

Sau khi so sánh các muôn đệ của mình với muối, Chúa Giêsu lại dùng một hình ảnh ánh sáng cụ thể để nói về vai trò của họ: “Các con là ánh sáng cho trần gian” (Mt 5,14). Chúa Giêsu nói về chính mình: “Ta là ánh sáng thế gian” (Ga 8, 12). “Bao lâu Chúa Giêsu còn ở thế gian, Ngài là ánh sáng thế gian” (Ga 9, 5). Bao lâu thân xác Ngài còn đang hiện diện nơi trần thế, chính Ngài là ánh sáng thế gian. Nhưng khi cuộc đời trần thế của Ngài không còn nữa, các môn đệ của Ngài phải đóng vài trò ánh sáng thế gian. Vì họ đã được hấp thụ bởi chính nguồn ánh sáng là Đức Kitô, nên phải phản chiếu lại ánh sáng đó (Ga 13,15). Chúa Giêsu cũng muốn chúng ta, những Ki-tô hữu hãy sống như con cái sự sáng, hãy tỏa ánh sáng Chúa Ki-tô, tỏa hương thơm tốt lành là những việc thiện để người đời nhận biết Chúa Ki-tô, Ánh Sáng của Muôn Dân và Đấng Cứu Độ duy nhất của trần gian.

Ngày chịu phép rửa tội, mỗi người chúngta đã đón nhận cây nến được đốt lên từ ánh sáng Chúa Kitô. Qua lời hứa của cha mẹ đỡ đầu, chúng ta chấp nhậ phản chiếu ánh sáng Đức Kitô đó bằng chính đời sống Kitô hữu của mình. Ánh sáng của cây nến là biểu tượng của Đức Tin trong đời sống Kitô hữu.

 

Sách giáo lý công giáo số 1216 xác định rằng: Trong phép rửa tội, người được rửa tội nhận lầy Ngôi Lời là “ánh sáng đích thực soi sáng mọi người” (Ga 1, 9) và sau khi được soi sáng như thế họ trở nên “con của sự sáng” (1Tx 5, 5) và chính bản thân họ là “ánh sáng” (Ep 5, 8).

 

Công Đồng Vatican II khuyên như sau: “Người giáo dân có rất nhiều cơ hội làm việc tông đồ: rao giảng Phúc Âm và thánh hoá. Chính đời sống Kitô hữu và những việc lành được làm với Thiên Chúa, vì Chúa phán: “Sự sáng của các con phải soi trước mắt người ta, như vậy để họ xem thấy việc lành các con mà ngợi khen Cha các con ở trên trời” (Mt 5, 16) (Apostolicam Actuositatem, đoạn 6).

 

Như vậy, bản chất của muối là mặn. Cũng thế, bản chất của người môn đệ Chúa Ki-tô là rao giảng Tin Mừng, là con cái Thiên Chúa, là giữ gìn cho thế gian khỏi phải hư đi.Tôi là một Ki-tô-hữu, vậy tôi phải có “vị mặn Ki-tô”. Nếu tôi không có “vị mặn Ki-tô” thì tôi không giúp gì cho thế gian cả. Như chúng ta đã biết muối được dùng để bảo quản thức ăn và đem lại hương vị đậm đà. Thế nhưng, nếu một khi muối đã lạt, nó sẽ chẳng còn giá trị nữa. Lúc đó nó sẽ bị vứt ra ngoài đường và bị chà đạp dưới chân. Cũng thế, người Kitô hữu sống giữa lòng cuộc đời phải là như muối mặn, đem lại tình thương, niềm vui mừng và hy vọng cho mọi người. Hơn nữa, người Kitô hữu sống giữa lòng cuộc đời phải là như ánh sáng chiếu trong u tối, soi đường dẫn lối cho người khác tìm gặp Đức Kitô. Để thực hiện được điều này, chúng ta xin ơn Chúa trợ giúp để ta có ý chí mà thi hành. Trong giây phút này, mỗi người hãy nhìn vào cuộc sống để xem mình đã thực sự trở thành muối, cũng như đã trở thành ánh sáng của Đức Kitô hay chưa?

 

Ước gì trong cuộc đời người Kitô hữu, chúng ta ý thức được vai trò làm muối và ánh sáng như lời Chúa dạy trong bài Phúc Âm hôm nay. Để chu toàn trách nhiệm này, xin Chúa cho chúng ta tình yêu của Chúa để chúng ta can đảm làm theo điều Chúa muốn.

 

Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết gìn giữ ngọn lửa mà Chúa đã thắp lên trong lòng chúng con, để chúng con can đảm sống chứng nhân là muối là ánh sáng cho trần gian trong tình yêu và lời mời gọi của Chúa. Amen.

 

15.             Muối và Ánh Sáng

(Suy niệm của Lm Trầm Phúc)

Lời Chúa hôm nay chúng ta đã nghe đi nghe lại nhiều lần. Chúng ta cảm thấy như quen thuộc và không còn chú ý. Hôm nay, chúng ta hãy dừng lại suy nghĩ vì lời Chúa không bao giờ cũ mà luôn luôn mới, chỉ có chúng ta lơ đảng thôi.

Chúa nói: “Anh em là muối đất”. “Anh em là ánh sáng thế gian”. Chúa không nói: Anh em là cái gì có muối, mặn như muối, anh em là mặt trời, sáng như mặt trời mà nói: “Anh em là muối, là ánh sáng” . Từ Là nầy nói cho chúng ta biết bản chất chúng ta là muối, là ánh sáng. Muối được nhiều tác giả giải thích bằng nhiều cách, nhưng chúng ta hãy hiểu theo nghĩa đen là chất để ướp mặn, là chất để giữ cho thức ăn khỏi hư thối, là một chất thiết yếu cho cuộc sống con người. Ánh sáng cũng thế. Không có ánh sáng, chúng ta không thể sống được.

Chúa Giêsu dùng một hình ảnh cụ thể để giúp chúng ta hiểu vai trò thiết yếu của chúng ta trong thế giới nầy. Chúa Giêsu giao cho chúng ta, những kẻ tin, thế giới nầy, giữ cho nó đừng thối rữa, làm cho nó sáng rực lên.Nhưng hình như chúng ta đã để cho thế giới hôm nay thành một bãi tha ma kinh khiếp, và ánh sáng đã bị bóng tối của tội lỗi và gian ác che khuất mất rồi. Hãy nhìn xem thế  giới hôm nay như thế nào! Thật đáng buồn! Một thế giới đã băng hoại gãy đổ, hỗn loạn, không còn gì là tươi sáng mà thê lương ảm đạm. Con người ngày hôm nay mất phẩm chất, đang tiêu diệt lẫn nhau, không thương tiếc. Vậy thì muối ở đâu? Ánh sáng đã chiếu vào đâu?

Chúa Giêsu nói: “Nếu muối lạt đi, thì còn dùng để làm gì?” Thực ra muối không lạt được, vì bản chất của nó không thể mất đi, nhưng nó có thể bị tiêu hao và không còn ảnh hưởng. Muối không thể mất chất, nhưng nó có thể bị loãng đi trong nước. Nếu nước quá nhiều thì muối không còn gì nữa. Lúc ấy muối đã hết công dụng. “Anh em là muối đất”. Chúng ta đã bị pha loãng quá nhiều rồi. Chúng ta bị chìm ngập trong một đại dương vô đạo và vô nhân đạo, thì chúng ta còn ích lợi gì cho ai? Đó là thảm trạng của chúng ta hôm nay.Người Công giáo đã bị tan biến trong thế giới, không còn tác dụng, không còn là muối nữa. Chúng ta bị người đời khinh chê là phải vì chúng ta không còn xứng đáng nữa. Chúa Giêsu không còn hiển hiện trong chúng ta, thì chúng ta còn là gì? Chúng ta có thể làm nhân chứng không?

Chúa nói: “Anh  em là ánh sáng thế gian”, cũng như Chúa là ánh sáng thế gian. Chúng ta trở nên như Chúa, chúng ta phải là hiện thân của Chúa. Điều nầy đã dược nhắc đến nhiều lần và sinh ra nhàm chán, nhưng nó không thể hiện bằng thực tế nữa. Chúng ta không là ánh sáng nữa mà chính sự tối tăm đã che khuất ánh sáng. Tội ác như những núi lửa phun khói bao trùm cả thế giới làm ô nhiễm các linh hồn. Thảm trạng của thế giới hôm nay là do lỗi của chúng ta, những Kitô hữu. Người ta không còn thấy ánh sáng của Chúa nữa, người ta đã tạo nên thứ ánh sáng khác. Ban đêm, các thành phố sáng rực ánh đèn, không phải để soi sáng những gì khả ái tốt đẹp mà để  phơi bày những sự sang trọng trần thế, sự sang trọng của một số người; để soi sáng những nơi ăn chơi nhảy múa; để phơi bày sự ích kỷ dã man của con người. Đang lúc những người nghèo khổ tàn tật chui rút trong bóng tối vô tâm của người giàu có, đang che khuất nỗi khổ của họ.Chúng ta là ánh sáng thế gian ư?

Đức Bênêđictô 16 đã viết trong Tự Sắc CỬA ĐỨC TIN: “Chúng ta không thể để cho muối lạt đi và ánh sáng bị che phủ”. Vậy phải làm gì? Chúng ta ngồi khoanh tay để cho thủy triều tội ác cuốn trôi tất cả hay sao?

Thứ nhất, phải tìm về bản thân chúng ta. Chúng ta đã là ánh sáng chưa, hay chúng ta đã trở thành bóng tối? Muốn là ánh sáng, theo Đức Bênêđictô, phải trở về với Lời Hằng Sống. Phải nuôi dưỡng chính mình bằng của ăn thiết yếu là Lời Chúa và Mình Thánh Chúa. Đức Bênêđictô đã nói: “Chúng ta phải tìm lại sở thích nuôi dưỡng mình bằng Lời Chúa và Bánh Hằng Sống”. Chúng ta đã như dân Do thái trong sa mạc ngày nào đã nói với ông Môsê: “Chúng tôi đã quá nhàm chán thứ của ăn nầy rồi”. Hay chúng ta ăn mà không biết mình ăn gì? Chúng ta không muốn ăn thứ Bánh Hằng Sống mà chỉ muốn lương thực trần gian.

Ăn lấy Ngài chúng ta sẽ là một với Ngài, chúng ta mới có thề là muối và ánh sáng như Ngài. Ngài đã nói rất rõ: “Anh em LÀ muối đất, LÀ ánh sáng trần gian”. Chỉ khi nào chúng ta là một với Ngài, chúng ta mới là muối và là ánh sáng.

Là muối đất?

Chúng ta có chấp nhận tan rã trong cuộc sống như muối tan rã trong đồ ăn không? Có tan ra, muối mới có thể thấm vào đồ ăn. Nơi khác Chúa Giêsu cũng nói với chúng ta: “Hạt lúa mì gieo vào lòng đất mà không thối đi, nó sẽ trơ trọi nằm đó mà không thể nẩy mầm, sinh hạt”. Muối cũng thế, phải tan ra, quên mình để thấm vào cuộc sống tha nhân mới có thể sinh bông hạt, mới giữ được đồ ăn và làm cho nó có vị ngon.

Thân phận chúng ta là muối như Chúa Giêsu. Ngài đã tan nát ra cho chúng ta, chúng ta phải tan ra cho mọi người. Xã hội đang tan rữa vì chúng ta không là muối. Cô Madeleine Delbrel viết: “Một khi chúng ta biết được Lời Chúa, chúng ta không có quyền từ chối không đón nhận. Một khi chúng ta  đã đón nhận, chúng ta không có quyền ngăn không cho nó nhập thể trong chúng ta. Một khi nó đã nhập thể vào trong ta rồi, chúng ta không có quyền giữ nó cho riêng mình; khi ấy, chúng ta thuộc về những người đang mong chờ nó”. Theo Chúa và cho không cuộc đời mới có thể là người Công giáo đích thực.

Là ánh sáng?

Khi xưa, Chúa đã dạy dân Do thái qua miệng tiên tri Isaia: “Ngươi hãy chia cơm  cho người đói…thấy ai mình trần thì cho áo che thân…làm thỏa lòng người bị hạ nhục… thì ánh sáng ngươi sẽ chiếu tỏa trong bóng tối, và tối tăm của ngươi chẳng khác nào chính ngọ”. Ánh sáng đó không le lói như mặt trời, nhưng sẽ đem lại niềm vui và hạnh phúc. Ánh sáng chính là yêu thương, là chia sẻ, là cảm thông.

Chúng ta đang sống trong một xã hội không có tình thương, không có cảm thông. Bóng tối của hận thù, ích kỷ, dã man đang bao trùm thế giới và  che khuất ánh sáng. Ánh sáng của chúng ta ở đâu khi mọi sự chìm ngập trong bóng tối sự chết? “Chúng ta không thể để cho ánh sáng bị che khuất”. Đó là điệp khúc mỗi ngày. Hãy sống như ánh sáng là cho không, là quên mình, không tính toán. Chúng ta đã làm được gì cho người anh em gần bên chúng ta? Chúng ta đừng mơ mộng dù là những mơ mộng lành thánh. Hãy sống hôm nay, trong thực tế hằng ngày, với quyết tâm làm cho mọi sự sáng lên trong yêu thương, trong phục vụ.

Sau khi lãnh nhận Mình Thánh Chúa, Tấm Bánh Tình Yêu, chúng ta sẽ làm gì hôm nay cho ánh sáng bừng lên trong u tối của cuộc sống hôm nay. Chúa Giêsu đã nói rõ ràng: “Anh em hãy làm việc lành để mọi người thấy việc lành của anh em mà ngợi khen Cha trên trời”.

 

16.             Chấn hưng đạo đức

(Suy niệm của Lm. Inhaxiô Trần Ngà)

Vấn đề suy thoái đạo đức nghiêm trọng trên đất nước chúng ta là mối ưu tư, trăn trở lớn nhất của nhiều người tâm huyết trong xã hội.

Nhận định về vấn đề này, Giáo sư Tiến sĩ Lê Thị Quý, Viện trưởng Viện Nghiên cứu giới và phát triển cho rằng: “Đạo đức xuống cấp ở mức đáng báo động! [1]”

Còn Tiến sĩ Khoa học Phan Hồng Giang thì nhận định rằng: “Thực trạng xuống cấp của văn hóa, đạo đức xã hội đã ở mức độ nguy hiểm [2]”

“Đạo đức xã hội xuống cấp còn thể hiện ở những hành vi bạo lực trong nhiều lĩnh vực khác nhau, từ bạo lực gia đình, bạo lực học đường… đến bạo lực nơi công cộng… Thói tham lam, ích kỷ, thói vô cảm lan rộng gây nhiều tác hại cho cộng đồng… Một số người đã tôn sùng đồng tiền một cách mù quáng, coi “tiền là trên hết” và tìm mọi thủ đoạn để có nhiều tiền… Khi đồng tiền lên ngôi cũng chính là lúc đạo đức xuống cấp.[3]”

Trước nguy cơ đáng lo ngại này, nhiều bậc trí giả lên tiếng kêu gọi phải chấn hưng đạo đức như là một ưu tiên hàng đầu.

Tuy nhiên, công cuộc chấn hưng đạo đức không chỉ là trách nhiệm riêng của các nhà lãnh đạo, các nhà giáo dục, các tôn giáo, nhưng trước hết, đó là bổn phận của mỗi người chúng ta.

Muốn giữ cho cá khỏi ươn, người ta cần dùng muối để ướp mặn nó. Vậy muốn cho con người khỏi hỏng, cũng cần một thứ muối khác để bảo toàn. Chúa Giê-su mời gọi chúng ta trở nên thứ muối nầy.

Qua Tin mừng Mát-thêu chương 5, câu 13, Chúa Giê-su mời gọi chúng ta: “Chính anh em là muối cho đời.”

Vậy chúng ta phải thực hiện sứ mạng làm muối ướp mặn đời như thế nào đây?

Bắt đầu với một người

Một ít muối không thể ướp mặn cả thùng cá. Một cá nhân khó có thể cảm hoá được nhiều người. Tuy nhiên, mỗi một người có thể giữ cho một người khác khỏi hư.

Vì thế, để thực hành sứ mạng làm “muối cho đời” mà Chúa truyền dạy, trước tiên, mỗi người chúng ta hãy bắt đầu thực hiện với một người, bằng cách kết thân với một cá nhân trên đà hư hỏng, dành nhiều tình yêu và lòng quý trọng cho người bạn đó – chỉ có tình yêu và lòng quý trọng mới có thể cảm hoá tâm hồn – rồi dần dà giúp cho người đó bỏ đi những thói hư tật xấu.

Rồi sau khi đã thành công với người thứ nhất, ta sẽ “làm muối ướp mặn” thêm một người khác nữa. Cứ thế, hết người nầy đến người khác, dần hồi, chúng ta sẽ giúp cho khá nhiều người khỏi hư hỏng. Đó là một sự nghiệp cao đẹp tuyệt vời, góp phần chấn hưng đạo đức xã hội.

“Ướp mặn” người khác cách nào?

Trước hết là bằng đời sống gương mẫu, nói khác đi, là hãy trở nên đèn sáng. Người ta thường nói: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng.” Hãy nêu cao gương sáng cho người chung quanh như Chúa Giê-su kêu mời: “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian… Chẳng có ai thắp đèn rồi lại để dưới cái thùng, nhưng đặt trên đế và đèn soi chiếu cho mọi người trong nhà. Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5, 15-16).

Tiếp theo là bằng những lời khuyên đượm tình yêu thương.

Chỉ làm gương sáng mà thôi không đủ, cần có những lời khuyên nhủ, động viên, nhắc nhở đượm tình yêu thương kèm theo.

Nhắc nhở khuyên can mà không có tình yêu thương sẽ làm người khác xa lánh ta nên không đem lại hiệu quả. Khuyên lơn, động viên trong tình yêu thương và lòng tôn trọng sẽ cảm hóa được lòng người và giúp người khác khỏi sa vào đường hư vong.

Lạy Chúa Giê-su,

Chúa yêu thương trân trọng từng người và Chúa không muốn bất cứ một ai phải hư mất. “Chúa không bẻ gãy cây sậy đã giập, không dập tắt tim đèn còn khói…” (Mt 12, 20).

Xin cho chúng con biết trân trọng yêu quý những anh chị em đang vướng mắc những thói hư tật xấu và cố gắng giúp cho những người nầy đứng vững trước những thử thách, cám dỗ trong cuộc đời.

Có như thế, chúng con mới có thể chu toàn trách nhiệm làm muối và ánh sáng mà Chúa đã trao phó cho chúng con.

—————–

[1] GS. TS. Lê Thị Quý (Viện trưởng Viện Nghiên cứu giới và phát triển), trả lời phỏng vấn báo Quân đội Nhân dân Cuối tuần, số ra ngày 14-7-2019.

[2] Ý kiến của TSKH. Phan Hồng Giang, báo Quân đội Nhân dân Cuối tuần, số ra ngày 14-7-2019.

[3] Nguồn: Trương Nguyên Tuệ, http://tuyengiao.vn/van-hoa-xa-hoi/van-hoa/suy-nghi-ve-thuc-trang-dao-duc-xa-hoi-hien-nay-124824)

 

17.             Thắp sáng cuộc đời – R. Veritas

(Trích từ ‘Sống Tin Mừng’)

Khi tìm một bài hát về thánh Phêrô và Chúa Giêsu, tôi đã gặp được một bài rất ý nghĩa mà trước đó không hề biết đến. Đó là bài hát có tựa đề: “Con Là Đá”. Người quen thuộc bài hát “Con Là Đá” này cũng nên tìm đọc qua một bài hát tương tự khác có tựa đề “Con Không Là Đá”. Bởi một sự tình cờ và với sự tò mò thôi thúc, tôi có dịp nghe qua bài hát này và kể từ đó tôi cảm thấy rất thích bài hát nói về Phêrô: “Con Không Là Đá” đó, tác giả đã diễn tả ý nghĩa sâu xa của Lời Chúa Giêsu nói cho Phêrô: “Con là Đá”.

Qua lời ca của bài hát, “Con Không Là Đá”, Chúa Giêsu nói với Phêrô, theo ý của tác giả, thì “con chỉ là Đá khi con nương tựa vào Chúa, sống kết hiệp với Thiên Chúa. Trước mặt Thiên Chúa, thật sự con chỉ là cát bụi; con chỉ có thể là Đá trên Thiên Chúa là Viên Đá Thật”.

Kể từ đó, bài hát nói về Phêrô “Con Không Là Đá” đã thấm nhập vào tâm hồn tôi, và hôm nay, khi đọc lại bài Phúc Âm thánh Mátthêu (Mt 5,13-19), nhắc lại lời Chúa Giêsu: “Chúng con là ánh sáng thế gian”, tôi lại nhớ đến bài hát nói về Phêrô “Con Không Là Đá”. Tôi có thể chia sẻ với anh chị em rằng, tất cả chúng ta phải là ánh sáng mà Chúa Giêsu Kitô nói, Ngài là ánh sáng thật đã đến trần gian, đã soi chiếu cho mọi người và chúng ta chỉ là ánh sáng trong Chúa Kitô là ánh sáng thật.

Chúng ta chỉ là ánh sáng thế gian trong mức độ khi chúng ta để Chúa Kitô biến đổi cuộc sống mình, để cho ánh sáng của Chúa biến đổi cuộc đời chúng ta trở thành cuộc đời của Chúa. Lời Chúa phán: “Chúng con là ánh sáng”, không là một lời khoe khoang để chúng ta hãnh diện, tự kiêu, nhưng là một mệnh lệnh, một đòi hỏi, mỗi người phải là một Chúa Kitô khác, hãy sống sự sống của Chúa, hành động như Chúa để trở thành một Chúa Kitô khác.

Nhân dịp này, chúng ta tự suy nghĩ lại câu nói chúng ta thường nghe qua: “Tốt đời đẹp đạo”. Người ta đến với đạo qua hành động, việc làm đời thường của chúng ta, họ muốn nhìn thấy việc làm tốt của chúng ta để đến với Đạo, để sống theo như lời Chúa nói: “Để ngợi khen Cha chúng con Đấng ngự trên trời”. Đó là cái nhìn của người ngoài từ đời đến đạo, và cái nhìn này có thể hiểu lệch lạc đến độ lấy đời làm méo mó đạo để thỏa mãn yêu cầu không đạo đức của đời. Là người Kitô, chúng ta hãy nhìn từ một quan niệm mới không phải từ đời đến đạo mà phải bắt đầu từ đạo đến đời. Tôi muốn nói từ đời sống đạo của mỗi người chúng ta, đời sống như Chúa Kitô đã sống để rồi chúng ta lan tỏa cho đời. Chúng ta phải là người đồ đệ đích thực của Chúa, sống đức tin chân chính, sống đức bác ái của Chúa, sống như Chúa sống, sống sức mạnh của Chúa Thánh Thần và như thánh Phaolô Tông đồ diễn tả trong bài đọc hai: “Tôi sống nhưng không phải là tôi mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi”.

Thánh Phaolô đã để cho ánh sáng của Chúa được hiện diện trong cuộc đời của ngài, biến cuộc đời của ngài trở thành ánh sáng cho muôn dân. Chúng ta cần sống trọn vẹn Tin Mừng của Chúa, sống như Chúa đã sống, sống sức sống của Chúa, lãnh nhận ánh sáng của Chúa. Để làm tốt cho đời, chúng ta cần lấy Đạo Chúa mà chúng ta có để làm cho đời được tươi đẹp, như thế tốt đời mới đẹp đạo của Người, đó là đối với chúng ta phải tốt đạo để đẹp đời, chúng ta phải sống trọn vẹn đức tin của mình, phải thực hiện đức bác ái của mình cách hoàn hảo.

Bài đọc thứ nhất từ sách tiên tri Isaia hôm nay, là một bản kê khai những việc làm tốt mà chúng ta, những đồ đệ của Chúa cần phải biến đổi để trở thành ánh sáng, để mang ánh sáng của Chúa đến cho anh chị em. Chúng ta không phải là Ánh Sáng; chúng ta là ánh sáng thế gian khi nào chúng ta sống kết hợp với Chúa là Ánh Sáng Thật.

Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta được lớn lên, được trưởng thành trong đức tin, được vững mạnh trong đức ái, để chúng ta sống trọn vẹn đức tin của chúng ta, sống tốt đạo của chúng ta để chúng ta làm đẹp cho đời.

 

18.             Sống có ích cho tha nhân – Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

(Trích từ ‘Cùng Nhau Suy Niệm’)

Người ta kể đoạn kết của bộ phim Tôn Ngộ Không như sau: Vào đêm trước khi thầy trò Tam Tạng bước vào cửa Phật. Thầy trò ngủ chung với nhau, nhưng lòng bồi hồi xao xuyến không sao ngủ được. Ngộ Không thấy Thầy mình nằm trăn trở hết nghiêng bên này, lại nghiêng bên kia. Bèn quay sang nói với Thầy: “Ngày mai chúng ta vào cõi Phật rồi, sao Thầy không vui?”. Thầy Tam Tạng thở dài nói rằng: “Ngộ Không con ơi, con là khỉ, cả đời con theo Thầy chỉ mong thành người. Còn Thầy đã là Người, lại bỏ kiếp người vào cõi Phật. Biết có hay không! Làm người mà chưa giúp gì cho đời, liệu thành Phật, Thầy còn có cơ hội cứu đời cứu người nữa hay không?”.

Thực vậy Tôn Ngộ Không, khi theo thầy đi Thỉnh kinh đã mang hoài bão trở thành một con người nhưng Ngộ Không đã không có cơ hội thay đổi bản chất của mình, vì khỉ vẫn là khỉ, cho dù có 72 phép thần thông cũng không thay đổi phận số của mình. Còn chúng ta là người, nhưng sống cho trọn kiếp người, cho xứng với bản chất và phẩm giá làm người đôi khi chúng ta vẫn chưa thực sự nên người. Có một nhà tu đức nói rằng: Bạn muốn là một người kytô hữu tốt trước hết bạn hãy là một con người tốt. Bạn muốn là một vị thánh, thì bạn phải là một người kytô hữu tốt. Dù chúng ta có muốn làm thánh làm phật, dù chúng ta có muốn trở thành những con người siêu phàm làm được nhiều chuyện lớn lao, phi thường nhưng trước hết và trên hết chúng ta phải là một con người hoàn hảo, một con người biết sống đúng bổn phận của mình. “Tu thân tích đức – tề gia – trị quốc – bình thiên hạ”. Một em học sinh muốn trở thành những nhà bác học lừng danh, thì trước hết, tuổi thơ của em phải là những học sinh gương mẫu, em phải biết chu toàn tốt bổn phận học trò của mình mới mong lập được công trạng cho gia đình và xã hội. Hơn nữa, người có tài nhưng không sống đúng bản chất con người là “nhân chi sơ tính bản thiện” thì cũng chỉ là kẻ gieo vãi sự chết chóc nơi nhân thế thay vì dùng tài năng để phục vụ cho đời.

Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy bản chất của người kytô hữu không phải là những gì cao xa nhưng chỉ là những hạt muối bé nhỏ hay chỉ là một chút ánh sáng lẻ loi. Thật bình thường và cũng thật tầm thường nhưng lại thật hữu ích cho đời sống con người. Không có muối làm sao có những bữa tiệc thơm ngon mặn mà. Không có ánh sáng làm sao con người có thể nhìn ngắm những vẻ đẹp muôn màu của vũ trụ mà Thiên Chúa đã dựng nên.

Các con là muối cho đời – là ánh sáng cho trần gian. Muối thì thấp hèn, âm thầm và khiêm tốn. Nhưng muối làm cho người phụ nữ nội trợ thêm rạng rỡ niềm vui, cho bữa cơm gia đình thơm ngon đậm đà.

– Ánh sáng thì rực rỡ, huy hoàng. Ánh sáng soi cho người ta thấy rõ đường đi, cho con người nhận ra nhau, cho quan hệ giữa người với người thêm trong sáng chân thành. Mọi mối quan hệ còn ở trong bóng tối, thì đó chỉ là những mối quan hệ bất chính và tội lỗi.

Nhưng thân phận cả hai đều phải chịu hao mòn hy sinh thì mới thực sự có ích cho đời: muối tan dần đi, ngọn đèn ngày càng lụn xuống. Lý do tồn tại của cả hai là để gây tác động tốt: nếu muối không mặn và đèn không sáng thì không có ích gì nữa, chỉ nên vất ra đường phố cho người ta chà đạp và khinh bỉ.

Thân phận và hoàn cảnh của mỗi kitô hữu khác nhau: có người âm thầm hèn mọn như hạt muối, có người rực rỡ huy hoàng như ánh sáng. Nhưng mọi người đều có sứ mạng phải tác động tốt lên môi trường mình sống. Không tác động tốt thì không còn là kitô hữu nữa.

Là muối đất, là ánh sáng thế gian, hơn ai hết, kitô hữu chúng ta cần phải thắp sáng lên niềm hy vọng bằng cuộc sống tỏa lan tình người. Dù chỉ là một ngọn đèn mù mờ giữa biển khơi, cho dù phải đương đầu với biết bao sống gió nhưng vẫn phải giữ cho ngọn đèn đó cháy sáng, vì biết đâu xa xa ngoài khơi vẫn còn có ai đó đang cần một chút ánh sáng để định hướng vào bờ.

Ngược dòng lịch sử 600 năm trước Chúa Giáng Sinh, tiên tri Isaia đã dạy chúng ta phương thế để trở thành ánh sáng cho đời:

Về mặt tiêu cực: đừng bao giờ khinh bỉ người khác, phải loại bỏ những tranh chấp, hăm dọa, nói xấu anh chị em mình; Về mặt tích cực là chia cơm cho kẻ đói, chia áo cho người nghèo, làm cho người đau khổ được hạnh phúc…

Và “Như thế, sự sáng của ngươi sẽ tỏa rạng như hừng đông, ánh sáng của ngươi sẽ bừng lên trong đêm tối và bóng tối sẽ trở thành như giữa ban ngày”.

Một buổi chiều, Mẹ Têrêsa đi qua một căn nhà ngoại ô ở Calcutta. Nhà tối om và có tiếng rên từ bên trong vọng ra. Mẹ đẩy cửa bước vào, sờ soạng, đi lại giường một cụ già tiều tụy đau yếu, Mẹ hỏi: Nhà cụ không có đèn đóm gì ư?-Có một chiếc đèn còn tốt, nhưng không có dầu. Vả lại có ai đến thăm tôi đâu mà phải đèn với đóm! Mẹ lục lọi tìm ra chiếc đèn, lau chùi, mua dầu cho vào và đốt lên. Mặt cụ tươi tỉnh lên. Ít lâu sau Mẹ nhận được một lá thơ với mấy dòng chữ: “Nụ cười vui tươi của Mẹ, như dầu khích lệ, như đèn đốt sáng đời tôi, mỗi khi chiều về”.

Mỗi người chúng ta cũng được Chúa mời gọi để thắp sáng cuộc đời kẻ khác. Mỗi người đều có một khả năng cá biệt để thắp sáng niềm tin cho anh chị em chúng ta và ướp mặn trần gian bằng tình yêu thương bác ái và cảm thông. Vì:

“Làm thân cây nến vào đời

Càng tiêu hao cháy, càng ngời vinh quang”

Nhưng tiếc thay, vì lười, vì ích kỷ, vì hèn nhát, ngọn đèn của chúng ta lu mờ dần đi và có khi tắt ngấm. Vì thiếu bác ái, thiếu lòng nhân từ nên những ai tiếp xúc với chúng ta đều cảm thấy mặn chát, khô cằn thiếu sức sống vui tươi. Xin Chúa giúp chúng ta dám hy sinh và từ bỏ mình mỗi ngày để trở nên ánh sáng và muối men cho đời. Amen.

 

19.             Dụ ngôn hạt muối – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền

Hạt muối Bé nói với hạt muối To: “Em đến chia tay chị, em sắp được hòa trong đại dương”. Muối To trố mắt: “Em dại quá, sao lại để đánh mất mình như thế. Em muốn thì em cứ làm, chị không điên!“.

Muối To thu mình co quắp lại, nhất định không để biển hòa tan. Muối To lên bờ, sống trong vuông muối. Nó vẫn ngạo nghễ, to cứng và nhìn chúng bạn bé tí ti đầy khinh khỉnh. Thu hoạch, nông dân gạt nó ra ngoài, xếp vào loại phế phẩm, còn những hạt muối tinh trắng kia được đội lên đầu, hay bê bên lưng rồi đóng vào bao sạch đẹp… Lần đầu tiên nó thấy mình bị xúc phạm!

Sau một thời gian lăn lóc hết xó chợ này đến xó chợ khác, cuối cùng người ta cho nó vào nồi cám heo. Phải hóa thân phục vụ cho lũ heo dơ bẩn này ư? Nó tủi nhục ê chề! Lòng kiêu hãnh không cho phép nó “tế thân” cho lũ heo hạ tiện. Nó thu mình co cứng hơn mặc cho nước sôi trăm độ cũng không lấy được, dù là cái vảy da của nó.

Khi rửa máng heo, người ta phát hiện nó, và chẳng cần nghĩ suy, ném nó ra đường lộ. Người người qua lại đạp lên nó!

Hạt muối là để hòa tan. Hạt Muối phải chịu tan biến chính mình mới thể hiện giá trị đích thực của hạt muối. Muối đã lạt và không còn khả năng hòa tan thì cũng bị quên lãng hay vứt bỏ ta đường cho người qua lại dẫm đạp mà thôi!

Con người không được sống cho chính mình. Con người phải biết dấn thân, hòa nhập với xã hội mới thể hiện vai trò giá trị của mình trong cộng đồng. Nhân loại cũng bỏ rơi những con người lười biếng, vô dụng, thiếu trách nhiệm với gia đình và xã hội. Muối đã lạt thì vứt đi. Con người lạt tình người, lạt trách nhiệm sẽ trở nên vô dụng và bị bị lãng quên.

Chúa Giêsu mời gọi người tín hữu phải biết hòa tan trong cuộc đời. Như hạt muối hòa tan trong môi trường để ướp mặn cuộc đời. Như ánh sáng hòa tan trong không gian để xua tan bóng tối. Muối và ánh sáng đều phải chịu tan biến mới sinh ích cho con người. Là người ky-tô hữu cũng phải hòa tan cuộc đời mình trong dòng chảy tình yêu để mang lại sức sống cho con người.

Chính Chúa Giêsu đã chấp nhận hòa tan chính mình trong dòng chảy của cuộc đời. Ngài đã trở nên mọi sự cho mọi người. Ngài đã sống để dâng hiến và phục vụ con người trong yêu thương hết mình như thánh Gioan đã nói: “Ngài đã yêu thì yêu cho đến cùng”. Đỉnh cao của hòa tan là chấp nhận tiêu hao chính mình “như hạt lúa chịu mục nát để sinh nhiều bông trái”.

Năm nay Giáo hội mời gọi chúng ta “Phúc âm hóa” là dịp nhắc lại vai trò của người tín hữu giữa dòng đời. Là người tín hữu phải đem muối Phúc âm thẩm thấu vào trong thế gian. Là người tín hữu phải đem ánh sáng của Phúc âm dẫn dắt con người hôm nay đi trong chân lý. Thế nhưng, ở đâu dó vẫn có những tín hữu thiếu gia vị của tình yêu, thiếu cả gương sáng gây ô uế môi trường và gây gương xấu cho tha nhân. Ở đâu đó vẫn có những nhóm giáo dân thường co cụm chính mình mà ít cởi mở, thân thiện với tha nhân. Đó là lý do mà Giáo hội không thực sự có gía trị trong cộng đồng nhân loại. Làm sao Giáo hội có thể phúc âm hóa môi trường khi mà người tín hữu để muối đã lạt qua cách sống đạo hời hợt, đôi khi còn thiếu gia vị của tình yêu? Làm sao mà Giáo hội có thể Phúc âm hóa khi mà chính người ky-tô hữu vẫn còn làm gương xấu của gian dâm, của cờ bạc, rượu chè . . .

Ước gì đời sống của chúng ta luôn là lời ngợi ca và tôn vinh Chúa. Một đời sống thấm nhuần lời Chúa để đem tin mừng thẩm thấu vào trong thế gian. Một đời sống công bình bác ái như những ngọn đèn hải đăng thắp sáng trong bóng đêm của xã hội đầy bất công và hận thù. Một cuộc sống đi vào lòng nhân thế để phủ đầy ánh sáng của Phúc âm và hơi ấm của Tin mừng.

Xin Chúa giúp chúng ta luôn hoàn thành đời mình như muối mặn, như ánh sáng hòa tan cho thế gian sức nóng và tràn ngập ánh sáng của Tin mừng. Amen.

 

20.             Chúng con là ánh sáng trần gian

(Suy niệm của Lm Giuse Đỗ Văn Thụy)

Tin mừng Mt 5: 13-16: Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói: Các con là ánh sáng trần gian…Sự sáng của các con phải chiếu giãi ra trước mặt thiên hạ…

Lobsang Rampa là một thiền sư Tây Tạng nổi tiếng trên thế giới với tác phẩm “Con mắt thứ ba” (Le troisème oeil). Viện văn hóa nghệ thuật Việt nam đã dịch nó thành “Các Lạt Ma hóa thân”. Ở trang 11-12 (Bản Việt ngữ) viết rằng:

“Theo khoa học huyền môn, thể xác con người chỉ là một lớp vỏ, một áo khoác bên ngoài của một linh hồn hay “Chân ngã”… Quanh con người có một vầng hào quang thô thiển phản ánh nguồn sinh lực bên trong. Một người thánh thiện hay khỏe mạnh thì hào quang sáng rõ, vươn ra cách thể xác vài phân. Một người tội lỗi hay yếu đuối thì hào quang mờ tối, thu sát vào thân xác.

Khai mở Thần Nhãn để quan sát vầng hào quang này, ta có thể biết được chân tướng mọi người mọi vật hay tình trạng sức khỏe của một người để chữa bệnh.

Lobsang Rampa kể tiếp:

Đúng thời kỳ sinh nhật thứ 9 của ông, ông được đưa vào một căn phòng đặc biệt. Bốn vị Lạt ma Trưởng Lão trong đó có sư phụ ông cũng đến đó truyền dạy cho ông những phép bí truyền để khai mở Thần Nhãn…Sau 9 tháng công phu luyện tập, ông đã thành công… Lần đầu tiên ông mở mắt ra quan sát chung quanh, một kinh nghiệm lạ lùng xẩy ra khiến ông xúc động.

Ông thấy có 4 vị Lạt Ma Trưởng Lão đều được bao phủ quanh mình bởi một hào quang chói lọi như ánh lửa.

Về sau ông hiểu rằng các vị Trưởng Lão có một đời sống rất tinh khiết mới có được hào quang như vậy. Khi ông khai mở Thần Nhãn, ông phát hiện những rung động khác nữa, xuất phát từ cái trung tâm hào quang đó.  Nhờ đó ông có thể đoán biết tình trạng sức khỏe của một người ra sao. Cũng như thế, bằng cách xem sự thay đổi mầu sắc của hào quang, ông có thể đoán biết kẻ đó nói dối hay nói thật.[1]

Trong bài  Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói: Các con là ánh sáng trần gian…Sự sáng của các con phải chiếu giãi ra trước mặt thiên hạ, để họ xem thấy những việc lành của các con mà ngợi khen Cha các con ở trên trời.

Các con là ánh sáng trần gian.

“Theo khoa học huyền môn, thể xác con người chỉ là một lớp vỏ, một áo khoác bên ngoài của một linh hồn.Quanh con người có một vầng hào quang phản ánh nguồn sinh lực bên trong. Một người thánh thiện thì hào quang sáng rõ, vươn ra cách thể xác vài phân.

Sau 9 tháng luyện tập, Lobsang Rampa thấy có 4 vị Lạt Ma Trưởng Lão đều được bao phủ quanh mình bởi một hào quang chói lọi như ánh lửa. Và ông nói rằng các vị Trưởng Lão có một đời sống rất tinh khiết nên mới có được hào quang tỏa sáng như vậy. Điều này cho thấy, nếu chúng ta sống thánh thiện, thì chính con người chúng ta sẽ tỏa sáng. Có lẽ chính vì thế mà chúng ta thấy trong hình các thánh nhân thường có hào quang tỏa sáng trên đầu.Tuy nhiên, nếu chúng ta chưa tu luyện được như các thiền sư hay các thánh, thì chúng ta có thể tỏa sáng bằng chính những công việc tốt lành của chúng ta.

Một hôm thánh Phanxicô Assisi gọi một thầy dòng lên dặn:

– Con lo sửa soạn chiều nay chúng ta phải đi giảng.

Đến giờ phải đi, hai cha con ra khỏi nhà đi một vòng quanh thành phố rồi trở về nhà.  Thầy dòng lấy làm lạ hỏi:

– Cha bảo cha đi giảng, sao chưa giảng mà cha đã về?

Thánh Phanxicô nghiêm trang đáp:

– Như vậy đã là giảng rồi đó.

Thánh Phanxicô có ý nói: đi một vòng nghiêm trang nết na cho người ta thấy, đó cũng là một bài giảng, bài giảng bằng gương sáng.

Gương sáng là một cách thuyết phục và thánh hóa người khác mau lẹ nhất

Chính vì vậy Chúa bảo chúng ta: Các con là ánh sáng trần gian. Các con hãy là chứng nhân của Thầy.

Là ánh sáng tức là làm chứng nhân của Chúa.Làm chứng bằng chính cuộc sống của mình, nhưng nhiều khi chúng ta vô tình hay hữu ý đã trở thành phản chứng, làm méo mó khuôn mặt của Đức Kitô, khiến người ta không nhận ra Chúa,khiến người ta không muốn theo Chúa.   

Ta hãy nghe Mahatma Gandhi – được Ấn độ xem như là một vị thánh  trong Ấn Độ Giáo – nói về cách sống đạo của những Kitô hữu trong xã hội của ông.Ông đã lên tiếng, có vẻ như thách thức người Kitô hữu: Nếu những người Kitô hữu ở Ấn Độ thật sự sống đúng tinh thần của Đức Kitô, thì họ chẳng cần mất công rao giảng, toàn Ấn  Độ sẽ trở thành Kitô hữu hết.

Lạy Chúa xin cho chúng con suy gẫm Lời Chúa và thực hành Lời Chúa dạy trong bài Tin Mừng hôm nay: Các con là ánh sáng trần gian…Sự sáng của các con phải chiếu giãi ra trước mặt thiên hạ, để họ xem thấy những việc lành của các con mà ngợi khen Cha các con ở trên trời. Amen.

——————–

[1] Giuse Đinh Lập Liễm, CN 5A TN

 

21.             Giác ngộ – Lm. Giuse Trần Việt Hùng

  1. Sự giác ngộ

Nghe từ Giác Ngộ xem ra có vẻ nhuốn chút suy tư đạo lý của Phật Giáo. Tôi thích từ Giác Ngộ, đồng nghĩa với từ Thức Tỉnh (to awake, awaken). Mấy năm trước đây, tôi vẫn thường gặp và thăm hỏi thầy Thích Thiện Chí. Có một lần, thầy tâm sự rằng thầy mới được giác ngộ. Thầy kể rằng một ngày kia khi đang tụng kinh, thầy cảm thấy như có một lóe sáng trong đầu và từ giây phút đó thầy bắt đầu thao thao giảng dạy và chia sẻ những gì mà trước đây thầy không thể làm được. Thầy Thích Thiện Chí rất khiêm nhu và hiền lành. Thời gian trước thầy trụ trì tại Chùa Thập Phương nay đổi sang phục vụ tại Chùa Chiếu Kiến ở vùng Bronx, Nữu Ước.

Giác ngộ chính là được thức tỉnh. Mỗi người đều có những khoảnh khắc tự giác và nhận thức. Trước đó không bao giờ nhận ra dù có kinh qua bao nhiêu ngày sống. Giây phút giác ngộ hay thức tỉnh là một khởi đầu rất qúy báu. Có những vị thánh đã được thức tỉnh qua lời Chúa trong Kinh Thánh như thánh Antôn, Tu Viện Trưởng. Một ngày kia, Antôn ghé vào nhà thờ vừa khi bài Phúc âm đang đọc nói về người giầu có: Đức Giêsu đáp: “Nếu anh muốn nên hoàn thiện, thì hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi.”(Mt. 19, 21). Ngay lập tức, Antôn rời nhà thờ và về làng quê bán hết của hồi môn và 200 mẫu đất, rồi đem phân phát cho người nghèo. Lần kế tiếp, ngài vào nhà thờ nghe bài phúc âm khác: Vậy, anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy (Mt. 6,34). Không do dự, ngài dâng biếu tất cả những của cải còn lại cho người nghèo. Sau đó, Antôn vào ẩn tu và tự tay lao động nuôi thân cùng giúp đỡ người khác. Đây chính là sự giác ngộ thực sự. Giác ngộ và tiếp tục sống ơn soi sáng thúc đẩy để thánh hóa cuộc đời.

 

 

  1. Sống thức tỉnh

Giây phút ánh sáng chói lòa biến đổi cuộc đời. Saulô đang trên đường đi ruồng bách những tín hữu của Chúa Kitô, đã bị luồng ánh sáng đánh ngã ngựa và làm lòa mắt. Saulô không còn thấy đường đi mà phải nhờ người dẫn dắt. Saulô được chính Chúa Giêsu, nguồn ánh sáng chọn, gọi và cải đổi đời sống. Chúa Kitô đã biến đổi một Saulô đang ruồng rẫy bách hại các Kitô hữu trở thành Phaolô nhiệt thành rao giảng tin mừng Nước Chúa. Phaolô đã trở nên muối, nên men và ánh sáng cho mọi người, nhất là các dân ngoại. Thánh Phaolô đã mang ánh sáng tin mừng của Chúa đi cùng khắp. Ngài đã là chứng nhân đích thực và là đèn sáng để trên giá cao soi cho mọi người ở mọi thời, mọi nơi.

Giác ngộ như Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô Đệ Nhị trong lễ đăng quang nhận chức vị chủ chăn của Giáo Hội ngày 22 tháng 10 năm 1978. Câu đầu tiên trong bài giảng khai mạc là: Anh chị em đừng sợ. Ngài được linh hứng qua lời Chúa, trong Thánh Kinh đã có trên 100 lần nhắc đến từ “Đừng Sợ”. Đừng sợ khi phải đối diện với những nghi nan, khó khăn hay thách thức. Đức Giáo Hoàng đã nỗ lực vượt ra ngoài tiền lệ đã gặp gỡ nhiều người, đi tới nhiều nơi và nhiều nước. Ngài đã hòa giải và xin lỗi toàn nhân loại vì những lỗi lầm của Giáo Hội trong quá khứ. Ngài chính là muối ướp mặn và là ánh sáng thế gian. Ngài đã đến với giới trẻ để ướp thêm vị mặn cho khỏi bị nhiễm mùi thế tục. Ngài đã sống chứng nhân đích thực của Chúa Kitô cho đến hơi thở cuối cùng.

Thức tỉnh như Đức Cố Hồng Y Phanxicô Nguyễn văn Thuận trong những ngày lao tù đầy khổ sở tại Vĩnh Phú. Nơi đây đa số tù nhân là những người không thuộc Đạo Công Giáo. Trong lúc cô đơn, buồn chán, thất vọng và nhớ nhung những sinh hoạt của giáo phận. Ngài kiên tâm cầu nguyện và được ơn soi sáng từ đáy tâm hồn mời gọi và đã thức tỉnh ngài là “Hãy chọn Chúa, chứ không phải là công việc của Chúa”(Escoge a Dios y no las obras de Dios). Nhận thức Chọn Chúa, ngài đã mở ra Con Đường Hy Vọng. Đức Cố Hồng Y Phanxicô là đèn sáng soi rọi gian trần. Ánh sáng cuộc sống của ngài đã lan tỏa từ trong ngục tù tối tăm, lạnh vắng đến kinh thành Rôma ánh sáng, trung tâm của Giáo Hội. Đèn vẫn cứ cháy sáng cho dù với chỉ một người lính canh hay cả ngàn ngàn người tụ họp bên ngài. Nơi ngài tỏa sáng niềm tin hy vọng vào Chúa Kitô. Ánh sáng của Chúa Kitô được phản ảnh qua đời sống đạo hạnh của ngài. Ngài là ánh sáng cho trần gian.

 

  1. Nhận thức

Trong cuộc đời, ai trong chúng ta cũng có những giây phút hay khoảnh khắc thức tỉnh, giác ngộ hay lóe sáng tâm linh. Có nhiều khía cạnh và nhiều thể loại thức tỉnh khác nhau tùy theo mức độ nhận thức. Nhận thức từ những vật thể tới cảm xúc và tinh thần. Có những vật quý giá bao năm bị bỏ quên lãng, đột nhiên một ngày chúng ta nhận ra giá trị và sự tuyệt đẹp của nó. Có khi bao năm chúng ta bị nghiện ngập sống trong trụy lạc, bài bạc, rượu chè và khói thuốc, vào một ngày tự nhiên chúng ta phát hiện sự nguy hại và rồi chúng ta dứt bỏ nó. Có khi người bạn hiện diện ngay bên mà không nhận ra, cho đến lúc được thức tỉnh trong tình yêu, người ta gọi là tiếng sét ái tình. Hoặc khi trải qua những tại họa thương đau mất mát, chúng ta mới chợt tỉnh thức tiếc nuối những gì đã qua và bắt đầu lại. Có những thức tỉnh trong tâm hồn nhờ một biến cố, một lời linh ứng, một phát hiện hay một thúc đẩy từ đáy tâm hồn. Sự giác ngộ hay thức tỉnh đây mới chỉ là một khởi đầu trong cảm xúc, chúng ta phải phấn đấu và sống với tia sáng soi dọi đó bằng ý chí và cả cuộc đời. Sự giác ngộ mới có ý nghĩa và mang lại hoa qủa đích thực.

Không khi nào trễ, nếu chúng ta biết bắt lại từ đầu. Chúng ta biết rằng vạn sự khởi đầu nan. Giây phút khởi đầu bất cứ một việc gì cũng rất quan trọng. Người ta nói: Xảy một li, đi một dặm. Trong kinh nghiệm cuộc sống, chúng ta có nhiều cơ hội may mắn xảy đến trong đời. Nếu ai biết chộp bắt cơ hội, họ có thể làm giầu, thành công và đạt thắng lợi. Về đời sống tinh thần cũng thế, đến một lúc nào đó, chúng ta cảm nhận được sự an vui khi lòng mình ở ra và con tim thắp sáng lên niềm tin yêu hy vọng. Chúng ta hãy kiên tâm học hỏi, tìm hiểu và cầu nguyện, chúng ta sẽ không bị thất vọng. Chúa Giêsu đã hứa: “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở ra cho (Mt. 7,7).

 

  1. Muối và Ánh Sáng

Lời Chúa Giêsu xác tín rằng anh em là muối và là ánh sáng. Muối mặn để ướp đời. Ánh sáng trên giá soi sáng cho mọi người. Mỗi người chúng ta được chịu phép rửa trong Chúa Kitô và được trao nến sáng. Chúng ta đều mang danh là Kitô hữu, có nghĩa là chúng ta thuộc về Chúa Kitô. Thuộc về Chúa Kitô thì đương nhiên chúng ta phải là muối và ánh sáng. Mỗi lời nói, cử chỉ và việc hành xử của chúng ta đều mang danh là Kitô hữu. Mọi việc chúng ta thực hiện tốt hay xấu cũng đều mang danh là người công giáo. Người công giáo phải là muối, là men và là ánh sáng. Muối thì phải có chất mặn. Chất mặn sẽ ướp đời khỏi ôi rữa hay hôi thối. Người Kitô hữu có sứ mệnh nên gương cho mọi người trong môi trường sinh sống của mình. Chúa Giêsu đã phán: “Chính anh em là muối cho đời. Nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn lại? Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi (Mt. 5, 13).

Cây tốt thì sẽ sinh trái tốt. Con người tốt sẽ phát huy những việc tốt.Trong thực tế lại không luôn là thế, người tốt vẫn có thể sai lầm, sa ngã và phạm tội. Thánh Phaolô khuyên dạy: Bởi vậy, ai tưởng mình đang đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã (1Tm.10,12). Cây cối sinh chồi nẩy lộc và hoa trái theo mùa tự nhiên, nhưng con người có ý chí tự do và chọn lựa cách sống. Sinh hoa trái tốt lành đạo đức là một ân huệ và sự cố gắng. Muốn được giác ngộ trong ơn gọi của mình, chúng ta cần sự kiên nhẫn cầu nguyện và ý thức về việc làm của mình. Chúa Giêsu tin tưởng truyền dạy rằng:”Chính anh em là ánh sáng cho trần gian. Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được (Mt. 5,14). Chúng ta phải là ánh sáng soi cho mình trước khi dọi sáng cho người khác. Thường thì chúng ta thích soi mói và nghe truyện người, hơn là nhớ truyện mình. Đèn của mình đã tắt mà lại muốn soi lối chỉ đường cho người khác. Mỗi người chúng ta cần tự giác và tỉnh thức luôn, đừng để mình bị rơi vào sự mù lòa trong tăm tối. Chúng ta nhớ lời Chúa Giêsu: “Mù mà lại dắt mù được sao? Lẽ nào cả hai lại không sa xuống hố? (Lc. 6,39).

 

  1. Nhân chứng

Chúa Kitô chính là nguồn và là ánh sáng đến trong trần gian. Ánh sáng của Chúa được tiếp nối qua đời sống của người tín hữu. Chúng ta không thể chối từ trách nhiệm là đèn sáng soi vào bóng tối. Cuộc sống con người đang dần bị tục hóa qua các trào lưu hưởng thụ và chạy đua với các nhu cầu đòi hỏi. Thế giới đang cần các ngọn hải đăng chiếu sáng. Mỗi Kitô hữu hãy khơi dậy ngọn đèn cháy sáng để đẩy lùi bóng tối. Chúng ta hãy thắp đèn và đặt trên giá để soi cho mọi người chung quanh. Nhân loại đang cần vị mặn của muối để thanh tẩy, cần ngọn lửa để sưởi ấm và cần những gương sáng để soi đường.

Mỗi người đều được mời ra đi làm nhân chứng tùy theo ơn gọi của mình. Có người sống trong bậc gia đình, người sống độc thân và người sống đời dâng hiến trong chức vụ linh mục, tu sĩ … ai ai cũng có thể trở thành ánh sáng soi lối cho tha nhân. Giáo sư, thầy cô giáo, sinh viên, học sinh hãy nên muối, nên men giữa môi trường lớp học. Các kỹ sư, công nhân, chuyên viên, thợ máy hãy nên ánh sáng tại các công xưởng. Các thương gia, người buôn kẻ bán, các chủ tiệm, người làm công đều được mời gọi nên gương mẫu của sự công bằng và bác ái. Các bác sĩ, y sĩ, y tá, nhân viên nên gương tận tâm phục vụ như đèn sáng nơi nhà thương bệnh xá. Các chính khách, quân nhân, cảnh sát, công chức và các nhân viên phục vụ công quyền phải nên gương sáng trong khi thi hành chức vụ. Các nhà truyền thông, báo chí, văn nhân thi sĩ, kịch sĩ, ca sĩ, nghệ sĩ… cần dùng khả năng chuyên nghiệp của mình truyền rao chân, thiện, mỹ cho cuộc sống. Các tu sĩ, thiện nguyện viên, linh mục, phụ huynh hãy nên muối men phục vụ tại gia đình, cộng đoàn và giáo xứ. Chúng ta đừng dấu đèn sáng sau lưng, đừng bưng bít hoặc tắt đèn để được tự do hòa chung vào những cách sống không xứng danh là Kitô hữu. Là Kitô hữu, đừng sợ, chúng ta hãy tiên phong sống gương mẫu và là chứng nhân cho sự sáng và sự sống giữa dòng đời. Chúa Giêsu đã khuyến khích:”Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, đừng sợ, vì Cha anh em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em”(Lc. 12,32).

Tóm lại, ước chi ánh sáng của ngọn nến mà chúng ta đã lãnh nhận trong ngày lãnh Bí Tích Rửa Tội được cháy sáng mãi. Ngọn nến của niềm tin và niềm hy vọng vào Chúa Kitô phục sinh. Mỗi người tự vấn lương tâm, chúng ta đã góp được gì để xây dựng đời sống của Giáo Hội. Chúng ta đã làm được những lợi ích gì qua những ân huệ, khả năng và thời gian Chúa ban cho chúng ta trong cuộc sống? Chúng ta đừng cất giữ muối và ánh sáng cho riêng mình, hãy để muối ướp mặn đời và ánh sáng dọi chiếu muôn nơi. Xin Chúa là nguồn ánh sáng vĩnh cửu sưởi ấm và đốt lửa mến yêu trong tâm hồn chúng con, để chúng con tiếp tục truyền rao lời chân lý của Chúa.

 

22.             Sự sáng – Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Ngày kia trong lớp giáo lý, cô giáo lý viên nói với các em học sinh về đề tài ‘Chúa Giêsu’. Hôm nay, cô muốn nói với các em về một người mà các em sẽ gặp. Người đó yêu thương và chăm sóc các em hơn cả chính gia đình, cha mẹ, anh chị em và bạn bè của các em. Người đó hảo tâm hơn bất cứ người hảo tâm nào mà các em biết. Người đó tha thứ tội lỗi cho các em bất kể các em đã làm sai lỗi, nếu biết sám hối. Cô giáo để ý có một em nhỏ trai rất chú ý lắng nghe khi cô giảng. Đột nhiên, em không thể giữ im lặng được nữa. Em giơ tay phát biểu: Em biết người mà cô đang nói tới. Người đó sống ngay bên góc đường. Kitô hữu là người tỏ bày cho người khác những điều mà Chúa Giêsu yêu thích.

Từ thời rất xa xưa, trong cuộc sống xã hội đã luôn xuất hiện kẻ nghèo, người giầu. Thiên Chúa an bài trao ban cho mỗi cá nhân những khả năng chuyên môn tiềm ẩn và số mệnh riêng. Sự sống là một mầu nhiệm vô biên, mỗi người được chia sẻ một tí chút khả năng. Hiện hữu trên trần gian, không ai giống ai hoàn toàn và cũng không có sự đồng đều giữa mọi người. Có người được sinh ra trong nhung lụa ấm êm, có người vào đời có đủ ăn đủ mặc và có kẻ được sinh ra trong đói nghèo khổ sở. Giầu có hay nghèo đói mời gọi sự hỗ tương chia sẻ để đạt hạnh phúc đời này và đời sau. Người nghèo nương tựa người giầu và người giầu chia sẻ cho người nghèo. Mọi khả năng tiềm ẩn có được đều là món qùa nhưng không của Thượng Đế ban. Chẳng có điều gì chúng ta có, mà không bởi trên ban cho. Chúng ta nhận lãnh nhưng không thì cũng hãy chia sẻ nhưng không. Tiên tri Isaia mời gọi: Hãy chia sẻ của ngươi cho kẻ đói, hãy tiếp nhận vào nhà ngươi những kẻ bất hạnh không nhà ở; nếu ngươi gặp một người trần truồng, hãy cho họ mặc đồ vào và đừng khinh bỉ xác thịt của ngươi (Is 58, 7).

Giống như thời tiên tri Isaia của hơn 2,500 năm trước, thế giới hiện nay cũng thế, có biết bao nhiêu người nghèo, đói ăn và cùng khổ. Xã hội thời nào cũng có người giầu kẻ nghèo. Nghèo không phải là cái tội. Đôi khi họ nghèo tiền bạc, nhưng giầu lòng nhân ái. Chúa đã dựng nên mỗi người một cách đặc biệt không ai giống ai. Chúa dựng nên con người và chúc phúc cho loài người được sinh xôi nẩy nở đầy mặt đất. Con người có gia đình, xã hội và cộng đồng để cùng nâng đỡ chia sẻ với nhau trong tất cả mọi khía cạnh của cuộc sống. Mỗi người đóng góp chút khả năng đặc biệt để cùng vun đắp và xây dựng một thế giới văn minh và tiến bộ. Hãy ngắm nhìn thế giới đa dạng chung quanh có muôn mầu, muôn sắc tuyệt vời.

Mỗi loài thụ tạo hay mỗi con người đều là một kỳ công của tạo hóa. Tạo hóa đã đặt để trong mỗi sinh vật một sứ mệnh riêng biệt. Các loài thụ tạo liên đới hài hòa để tiếp tục sinh tồn. Con người là thụ tạo cao quý được Thiên Chúa yêu thương ban cho nhiều khả năng. Tuy con người hiện hữu trong trần gian giới hạn, nhưng có ước vọng cao vời và vượt trên các loài. Con người được sinh ra trong thời gian hữu hạn, nhưng lại ngưỡng vọng cuộc sống vĩnh cửu. Bởi thế, loài người có sứ mệnh cao cả là phải luôn học hỏi, nghiên cứu và suy tìm để nhận biết, chúc tụng, cảm tạ và tôn vinh Đấng Tạo Hóa.

Truyện kể: Vào một ngày nọ, khi thầy dòng ẩn tu đang cầu nguyện thì chợt trông thấy một người ăn xin tật nguyền, đó là người mẹ nghèo đang đi xin thức ăn cho con nhỏ bệnh hoạn. Nhìn thấy thế, vị ẩn tu thân thưa với Thiên Chúa rằng: Lạy Thiên Chúa tốt lành, làm sao Chúa lại để sự khổ đau xảy ra mà Chúa không can thiệp chi? Trong tận đáy lòng, vị ẩn sĩ nghe Chúa đáp lời: Ta đã thực hiện một số việc. Ta đã dựng nên con. Chúng ta là tác phẩm tuyệt với của Thiên Chúa. Chúa Giêsu phán: Chính anh em là ánh sáng cho trần gian. Một thành xây trên núi không tài nào che dấu được (Mt 5, 14). Anh em là ánh sáng soi dọi cho trần gian. Ánh sáng của cuộc sống tỏa chiếu qua nhiều cách thế cả tinh thần lẫn thể chất. Có thể chiếu tỏa qua gương sáng đạo đức, qua lòng bác ái vị tha, qua trái tim từ bi hỉ xả và qua các nhân đức tin, cậy và mến. Ánh sáng có thể diễn tả qua lời nói dịu dàng, cử chỉ thân mật, khuôn mặt tươi vui, hy sinh phục vụ và sự ân cần giúp đỡ.

Chúa Giêsu ước muốn mỗi người chúng ta hãy góp phần làm vinh danh Chúa Cha: Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời (Mt 5, 16). Kitô hữu là muối ướp mặn đời và ánh sáng dọi chiếu muôn nơi để mọi người, mọi nơi được ánh lên vinh quang Thiên Chúa. Thực hành các nhân đức sống động trong môi trường chung quanh bằng việc tốt lành. Gieo nhân tốt thì sẽ phát sinh hoa trái tốt. Một suy nghĩ tốt, một lời nói tốt, một cử chỉ tốt và một hành động tốt sẽ sinh muôn vàn hương hoa tốt lành. Người tốt và việc tốt sẽ chiếu dãi tấm guơng tốt. Hữu xạ tự nhiên hương. Thiên Chúa tạo dựng mong muốn mọi loài chia phần vinh phúc và chiếu tỏa vinh quang Chúa khắp nơi hoàn cầu.

Sau khi trở thành tông đồ của Chúa Kitô, Phaolô đã dành cả cuộc đời còn lại để rao truyền danh thánh Chúa, bất chấp mọi khó khăn cản trở. Phaolô lên tiếng: Phần tôi, khi tôi đến với anh em, tôi không đến với uy thế của tài hùng biện hoặc của sự khôn ngoan, tôi đến công bố bằng chứng của Thiên Chúa (1Cor 2,1). Không dựa vào sự khôn ngoan hiểu biết của thế trần, Phaolô được chính Chúa Giêsu soi sáng thúc đẩy từ nội tâm. Ngài đã cố gắng rao giảng chân lý với lòng nhiệt thành nóng bỏng. Ngài thuyết phục mọi người hãy đặt niềm tin vào Chúa Kitô phục sinh, nguồn ơn cứu độ. Chân lý cứu độ hoàn toàn không do sự nhận biết suy nghĩ khôn ngoan của người phàm mà do chính Chúa Giêsu mạc khải: Có vậy, đức tin của anh em mới không dựa vào lẽ khôn ngoan của người phàm, nhưng dựa vào quyền năng Thiên Chúa (1Cor 2, 5). Chúa Kitô là nguồn sáng thật đã chiếu sáng vào tâm trí chúng ta sự sáng thật. Sự sáng tinh tuyền của ơn cứu độ giải thoát.

Ánh sáng có thể len lỏi vào mọi nơi, mọi chỗ để đẩy lùi bóng đêm. Đêm tối là do thiếu ánh sáng. Khi mặt trời khuất bóng, màn đêm buông xuống. Con người khuất phục bóng đêm bằng các nguồn sáng hạt nhân, điện lực, động cơ và các nhu liệu. Ánh sáng mặt trời giúp mọi loài phát triển không ngừng trong thiên nhiên. Con người đã biết lợi dụng nguồn năng lượng để đưa vào cuộc sống. Ánh sáng văn minh mở rộng biên cương và kéo dài thời khắc làm việc và vui sống. Nhưng xã hội rất cần những ánh sáng thật chiếu dãi vào trong tâm hồn con người. Con người cần sự ấm áp của tình yêu thương, sự cảm thông, lòng thương xót và liên kết tình người. Một trái tim cô đơn có thể được sưởi ấm giữa mùa sương tuyết lạnh. Ánh sáng của những việc từ thiện và quan tâm cần thiết soi dọi vào giữa cuộc sống đầy vô cảm này.

Thánh Phaolô đã tâm sự: Vì thế, khi đến với anh em, tôi thấy mình yếu kém, sợ sệt và run rẩy (1Cor 2, 3). Biết mình yếu kém vì đã từng đi bách hại các Kitô hữu thuở ban đầu, khi luồng sáng đánh ngã ngựa, Saul bị mù lòa bước đi trong đêm tối của sự sợ hãi cho tới khi nhận được ánh sáng của Chúa Kitô. Phaolô can đảm nói lên sự thật về Chúa Kitô phục sinh. Ông đã bước đi trong sự sáng và chiếu dãi ánh sáng đó cho nhiều người và nhiều cộng đoàn tiên khởi. Khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội, mỗi người chúng ta cũng đón nhận ánh nến đức tin được đốt từ cây Nến Phục Sinh, chúng ta trở nên ánh sáng Chúa Kitô. Chúng ta hãy sống như con cái sự sáng luôn sẵn sàng đèn nến thắp sáng để ra đón Chúa Kitô.

Lạy Chúa, Chúa là ánh sáng và là sự sống. Xin ánh sáng của Chúa dẫn dắt chúng con ra khỏi bóng tối của sự dữ và sự dối trá. Xưa Chúa đã đem lửa xuống thế gian và mong cho lửa ấy cháy lên sưởi ấm mọi tâm hồn. Xin cho chúng con biết khơi dậy ngọn lửa yêu mến để nhiệt tâm sống chứng nhân cho tình yêu.

 

23.             Muối và ánh sáng

(Tổng hợp từ R.Veritas)

Sau một thời gian dài học hỏi và tu luyện, người học trò mới cất tiếng hỏi thầy mình:

– Thưa thầy, đâu là sự khác biệt giữa kiến thức và giác ngộ?

Thầy mỉm cười và ôn tồn giải thích:

– Khi có kiến thức, giống như con có “ánh sáng” soi đường con đi. Nhưng khi con giác ngộ, chính con sẽ trở thành “ánh sáng” soi đường cho người khác.

Bạn thân mến!

Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay cũng mời gọi ta trở nên “Ánh Sáng và Muối Đất”. Đó cũng là lệnh truyền cấp bách mà Chúa Giêsu gởi đến mỗi người chúng ta hôm nay.

“Chính anh em là muối cho đời”. (Mt. 5,13) Muối là một sản phẩm không thể thiếu trong đời sống con người. Muối vừa làm phân bón cho đất đai màu mỡ; vừa làm gia vị cho các món ăn thêm thơm ngon đậm đà; vừa bảo quản thực phẩm cho khỏi hư thối. Khi muối muốn ướp cho “mặn đời”, muối phải biết chấp nhận hòa tan, phải biết “mất đi” cho chính mình để hoá thân trong chất mặn, để hiến dâng cho đời hương vị thơm ngon, mặn nồng của quảng đại, của yêu thương và tha thứ …

“Chính anh em là ánh sáng cho trần gian”(Mt.5:13). Đây là lời mời gọi tuyệt vời dành cho người Kitô, bởi lẽ chỉ Thiên Chúa mới là Ánh Sáng (1Ga.1:5). Chỉ Đức Giêsu mới dám nhận mình là Ánh Sáng (Ga.8:12). Vậy ta muốn trở thành ánh sáng như Đức Giêsu, ta phải ở gần Ngài: gần đèn thì ta được toả sáng.

Ánh sáng không thiên vị một ai, không thích người này và cũng không chê người kia. Ánh sáng của mặt trời lan tỏa khắp nơi, chiếu sáng mọi người và mọi nhà. Ánh sáng của người Kitô cũng vậy,“ánh sáng của anh em phải ở trên cao, vượt trên mọi danh vọng, tiền tài, lạc thú. Không phải để khoe khoang, tự kiêu, nhưng là để tôn vinh Cha, Đấng ngự trên trời” (Mt.5:16).

Ánh sáng của cây nến tuy nhỏ bé nhưng cũng đủ toả sáng cả một căn phòng, làm cho bóng tối phải lùi bước. Một khi ánh sáng của ngọn nến bừng lên, đó cũng là lúc ngọn nến bị đốt cháy, bị tan biến đi. Người Kitô cũng vậy, phải mất đi cho chính mình, phải tan biến đi để “Ánh Sáng Chúa Kitô“ được loan toả khắp nơi, khắp mọi nhà, khắp mọi tâm hồn.

Khi bị đốt cháy, ngọn nến nhận sức nóng từ ngọn lửa và cho đi ánh sáng. Người Kitô trong thế giới hôm nay cũng phải giống như vậy. Nhưng trong suy tư thinh lặng, tôi tự hỏi lòng mình: “Tôi đang nhận điều gì trong cuộc sống hôm nay? Và tôi sẽ cho đi những gì cho người anh em xung quanh tôi?”

***

Vì tôi là muối nhạt nên thế giới này vô vị.

Vì tôi là đèn hết dầu, nên thế giới còn nhiều bóng tối.

Thế giới này sẽ mang bộ mặt mới nếu tôi thực thi lời mời gọi của Chúa Giêsu trong Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay: “Anh em là muối cho đời …Anh em là ánh sáng cho trần gian ”.

Lạy Chúa Giêsu!

Xin giúp con lắng nghe tiếng Chúa

và nỗ lực thực thi Lời Ngài trong cuộc sống của con hôm nay. Amen!

 

24.             Ánh sáng và muối men cho đời

(Suy niệm của Lm JB. Lê Ngọc Dũng)

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy chúng ta, các môn đệ của ngài: Các con là ánh sáng cho trần gian, là muối men cho đời.

Chúa Giêsu trao cho chúng ta một sứ vụ cao cả: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giải trước mặt thiên hạ để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên Trời” (Mt 5,16).

Sứ vụ đó thật cao cả vì nâng phẩm giá con người chúng ta lên mức con cái Thiên Chúa, vì Chúa Giêsu nói Thiên Chúa là “Cha của anh em”.

Chúng ta hãy thử suy nghĩ, làm sao có thể thực hiện được lời mời gọi đón nhận sứ vụ cao cả này, vì chúng ta thấy mình còn yếu đuối, tội lỗi; thấy mình đâu có hơn gì người khác! Nhưng đồng thời, chúng ta cũng phải nhận ra mình là con cái của Cha trên trời.

Các nhà tu đức khuyên rằng “Thà thắp lên một ngọn nến nhỏ còn hơn là ngồi nguyền rủa bóng tối”.

Vậy thì, giữa bóng tối của thế gian, chúng ta hãy thôi lên án tố cáo; thôi tố cáo rằng họ lừa dối, gian tham, giết người cướp của; thôi tố cáo những vụ hối lộ, lường gạt với những con số hàng trăm, hàng ngàn tỷ đồng; thôi tố cáo người làm những miếng thịt ôi thối thành miếng thịt tươi bằng tẩm ướp hóa chất; thôi tố cáo hàng giả, hàng độc hại…

Thà thắp lên một ngọn nến nhỏ, chứ đừng ngồi đó mà tố cáo thế gian! Hãy như những hạt muối nhỏ, giúp thực phẩm khỏi ôi thối, hay thành một tý muối nhỏ để cho thức ăn được có hương vị ngọt ngào, để thực hiện Lời Chúa Giêsu dạy: Các con là muối men cho đời.

Trên tuần báo Tuổi Trẻ Chủ Nhật (số tháng 9/1997), tác giả Đăng Quang có ghi lại một cảnh đời như sau:

Ghé vào một tiệm bên đường Trần Huy Liệu để sửa chữa chiếc đồng hồ đeo tay, trong khi đứng chờ, tôi thấy có một người đàn ông trạc 50 tuổi, mình trần, bước vào hỏi mượn người thợ sửa đồng hồ chiếc kềm. Trên tay ông cầm một thanh sắt nhỏ bằng hai ngón tay, cổ đeo một dây to, để thòng xuống ngực một Thánh Giá. Khi thấy ông ta cầm chiếc kềm cố bẻ thanh sắt ra ba hướng, tôi tò mò hỏi người thợ sửa đồng hồ: …để làm gì vậy? Người thợ sửa đồng hồ lắc đầu nói: “Để vứt xuống đường cho xe đạp cán, ông ta vá ép mà”. Nhìn thanh sắt trên tay ông, tôi bổng thấy hơi sờ sợ. Bẻ xong thanh sắt, ông bước ra sát lề đường, đi tới một đoạn rồi vứt thanh sắt xuống lòng đường, và điềm nhiên quay trở lại nơi có chiếc thùng sắt, có chiếc bơm hơi, ngồi trên chiếc ghế gỗ ung dung chờ đợi.

Tôi định đến nói với ông ta một điều gì đó, nhưng chưa kịp thì đã nghe tiếng bánh xe xì. Nhìn ra tôi thấy một chiếc xe xích lô đang chở một bà mẹ và hai đứa con nhỏ. Người đạp xích lô xuống xe nhìn vào chiếc bánh xe xẹp lép, những giọt mồ hôi từ mặt nhỏ xuống, anh ta đưa tay gạt lia lịa, lưng áo ướt đẵm, anh tìm quanh bánh xe và phát hiện ra thanh sắt găm vào vỏ xe, anh cố rút thanh sắt ra, anh chưởi lầm bầm trong miệng và rồi vứt thanh sắt ra bên lề đường. Người đàn ông ở trần, ngực đeo Thánh giá vẫn ngồi yên chờ đợi, ông chắc thế nào người đạp xích lô cũng đưa xe vào vá. Nhưng không, anh xích lô vô tình đẩy chiếc xe nặng nhọc đó đi. Khi chiếc xích lô đi khỏi, người đàn ông ở trần đánh tiếng chưởi thề, đưa mắt nhìn thanh sắt chĩa nhọn, có lẽ ông ta muốn nhặt lại và làm lại từ đầu. Nhưng ngay lúc đó tôi thấy một bà cụ chậm rãi đi qua đường, thấy thanh sắt, bà cúi xuống nhặt lấy bỏ vào chiếc túi ni lông bà đang xách trên tay.

Cảnh đời trên không chỉ có người đàn ông vá ép uốn thanh sắt chĩa ba của mình và đặt trên lòng được, gây hại cho người ta để mình được lợi lộc, gây ra cái ác cho cuộc sống. Cảnh đời còn có một bà cụ già với chiếc túi ni lông để nhặt thanh sắt chĩa ba hầu cất đi những cái ác nho nhỏ trong cuộc đời. Chỉ cần một cử chỉ nhỏ ấy của bà cụ cũng đủ để làm cho cảnh đời thấy như đen tối, được sáng đẹp hẳn lên.

Niềm hy vọng của người Kitô giáo không cho phép chúng ta thua cuộc trong việc đem lại ánh sáng cho thế gian, làm muối men cho đời. Dù chỉ là những việc nho nhỏ, như nhường nhịn người hàng xóm một câu khích bác; như người chồng thay vì chê nấu canh mặn thì khen vợ nấu món cá ngon; như người vợ âm thầm hy sinh phục vụ chồng con… Cuộc sống gia đình sẽ trở nên tươi sáng với những cử chỉ nho nhỏ yêu thương. Cuộc đời sẽ đen tối dường nào nếu không có những việc thiện nhỏ, bác ái, âm thầm từng ngày ấy.

Lệnh truyền phải trở nên ánh sáng và muối men cho đời của Chúa Giêsu làm cho chúng ta tin tưởng vào giá trị của từng công việc tốt nho nhỏ, chứ chưa cần đến những việc lớn lao. Những việc tốt nho nhỏ đó sẽ tháp nhập vào hy sinh thập giá của Đức Kitô.

Bóng tối của thế gian tưởng như đã thắng, nhưng Ngài đã thắng bóng tối thế gian, bằng hy sinh thập giá của Ngài. Ngày nay, đôi khi ta tưởng như cái ác của thế gian đang thắng thế, nhưng Thập giá hy sinh của Chúa Giêsu vẫn tiếp tục hằng ngày để chiến thắng.

Ngài mời gọi chúng ta đóng góp vào cuộc chiến của thập giá đó, bằng những hy sinh phục vụ nho nhỏ, bằng những việc tốt nho nhỏ, như những ngọn đèn nho nhỏ, những hạt muối nho nhỏ, của từng ngày trong cuộc sống. Qua những ngọn đèn, những hạt muối nho nhỏ đó, như Chúa Giêsu dạy: “Thế gian sẽ tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên Trời” (Mt 5,16).

 

25.             Vì đời và cho đời – Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng

 

Muối

Muối rất cần để bảo vệ thực phẩm. Và hình ảnh ấy cũng nói đến những con người đóng vai trò giáo dục, có bổn phận và trách nhiệm “bảo vệ và gìn giữ” những vẻ đẹp cao quý, thiêng liêng, những giá trị đạo đức nhân phẩm để con người sống “nên người”, sống “cho ra người” hơn. Ca dao Việt Nam có câu: “Cá không ăn muối cá ươn. Con cãi cha mẹ trăm đường con hư”.

Muối là gia vị làm cho thức ăn được ngon miệng, mặn mà. Từ đó nó gợi cho con người hình ảnh tình nghĩa đậm đà mà con người cần phải có để cuộc đời thêm đẹp, thêm ấm áp. Nếu không tình đời sẽ “lạt như nước ốc, bạc nhơ vôi”.

 

Ánh Sáng

Ánh sáng chiếu soi vạn vật, nhờ ánh sáng con người chiêm ngưỡng được vẻ đẹp cảnh vật quanh ta.

Nhờ ánh sáng, con người định hướng được hướng đi của đời mình. Nhờ ánh sáng con người vượt qua được nguy hiểm, tiếp tục cuộc hành trình an toàn, và đến bến bờ hạnh phúc. Như ánh sáng Hải Đăng cần thiết cho những cuộc hành trình ở Đại Dương bao la.

Ánh sáng thiên nhiên gợi cho ta hiểu ánh sáng tâm hồn. Đôi mắt mùa lòa làm cho con người đau khổ vì sống trong tăm tối, nhưng đôi mắt tâm hồn “mùa lòa” sẽ dẫn con người đến sự sụp đổ hoàn toàn. Mùa Xuân thiên nhiên có thể không đến với những con người mà đôi mắt đã bị cướp đi ánh sáng, nhưng nếu tâm hồn họ đã vươn lên được niềm hạnh phúc cao cả, nếu đôi mắt tâm hồn của họ đã nhìn xuyên thấu những giá trị cao quý của đời người, dù sống trong tăm tối, tâm hồn họ vẫn rực sáng với muôn điều hạnh phúc kỳ diệu sẽ đến trong thế giới nhiệm mầu của riêng họ.

 

 

Điểm chung của muối và ánh sáng

Muối và ánh sáng đều đem lại sự an bình. Không hư hao, và tránh những điều xấu có thể đến.

Muối và ánh sáng đem lại cho đời những điều tốt đẹp hơn. Mặn mà và tươi sáng.

Muối và ánh sáng đều chịu hao mòn. Tan biến và dần dần tự hủy đi tạo ra muôn thứ tốt đẹp và hữu ích. Những hạt muối hòa tan và mất đi để có những bữa ăn ngon. Những cây nến hao mòn và mất đi để cho đời ánh sáng. Mặt trời một ngày nào đó cũng tắt khi nguồn năng lượng cạn kiệt.

Muối và ánh sáng đều thầm lặng hy sinh. Khi dùng những món ăn ngon, người ta khen thịt, cá, rau, quả…không ai khen muối. Khi ngắm cảnh đẹp, người ta khen núi, sông, hoa, lá, mây trời… không ai khen ánh sáng.

 

Vì đời và cho đời

Muối thì phải mặn. Nếu muối mà không mặn thì có còn là muối không?

Ánh sáng thì phải chiếu sáng. Nếu ánh sáng mà không chiếu sáng, thì có còn là ánh sáng không?

Môn đệ thì phải theo gương thầy. Môn đệ mà không giống thầy, thì có còn là môn đệ thầy không?

Chúa Giêsu, Thiên-Chúa-làm-người. Ngài dành cả cuộc đời ở trần thế nầy để “vì đời và cho đời”.

Vì đời và cho đời như “muối và ánh sáng”.

Hãy nhìn vào cuộc đời của Đức Ki-tô, Đấng Cứu Thế, từ Bê-lem đến đỉnh Can-vê! Còn ai “vì đời và cho đời” hơn như thế không?

Nên môn đệ Chúa Giêsu phải là “muối” và “ánh sáng” theo gương của Thầy Chí Thánh của mình là Chúa Giêsu.

Chính anh em là muối cho đời (Mt.5,13).

Chính anh em là ánh sáng cho trần gian (Mt.5,14).

“Muối và ánh sáng vì đời và cho đời”.

Và tất cả múc nguồn từ Chúa Giêsu Ki-tô.

Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. (Ga.1,14).

Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi. (Tv 119,105).

“Muối và ánh sáng vì đời và cho đời”, để đời có Niềm Tin, Hy Vọng và Vui Sống. Để đời biết sống đúng ý nghĩa kiếp người và tìm về bến bờ hạnh phúc vĩnh cửu trong Tình Yêu Thiên Chúa.

“Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga.14,6).

Lạy Chúa,

Xin dạy cho con,

và soi sáng cho con,

biết suy nghĩ và hành động,

theo thánh ý Chúa. Amen.

 

26.             Muối cho đời – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

Trong những dịp cuối năm, các bản tổng kết tình hình đều đánh giá cao những đóng góp của Giáo hội đặc biệt trong lãnh vực giữ gìn đạo đức xã hội. Nơi nào có đồng bào Công giáo sinh sống, tệ nạn xã hội không có hoặc có rất ít. Nghe những nhận định trên, tôi rất vui vì thấy anh chị em tín hữu đang sống đúng tinh thần trở thành muối cho đời như lời Chúa dạy trong bài Tin Mừng hôm nay.

Khi nói đến muối Chúa Giêsu có ý dạy các môn đệ về cách thế hiện diện trong xã hội.

Đó là một hiẹn diện khiêm nhường

Hạt muối thật bé nhỏ. Chẳng ai chú ý tới sự hiện diện của nó. Bên cạnh thịt, cá, rau cỏ, muối chỉ đóng vai phụ. Người ta trưng bày những món ăn đắt tiền. Người ta giới thiệu những món ăn cầu kỳ. Không thấy ai trưng bày muối. Chẳng có ai giới thiệu muối trong bữa tiệc lớn. Xét về giá trị kinh tế, muối chẳng đáng giá bao nhiêu. Đó là một hiện diện quên mình.

Muối có đó nhưng không ai thấy muối. Không chỉ vì muối bé nhỏ khiêm nhường mà vì muối phải tan biến đi. Phải tan biến đi muối mới có tác dụng. Muối ướp vào thịt cá mà không tan đi thì không thấm được vào thớ thịt, thớ cá, không giữ cho thịt tươi cá tốt được. Muối gia giảm vào cá kho, thịt rim, nước canh mà không tan đi thì khi ăn phải, người ta sẽ nhăn mặt bỏ đi. Chỉ khi tan biến đi, hoà tan vào thịt, cá, rau cỏ, muối mới có ích lợi. Muối phải hiện diện nhưng lại phải tiêu huỷ đi thì mới có ích.

Đó là một hiện diện tích cực.

Tuy bé nhỏ khiêm nhường và vắng mặt, nhưng hiện diện của muối là một hiện diện tích cực. Tích cực vì góp phần bảo trì thực phẩm khỏi hư thối, vì nâng phẩm chất món ăn. Tích cực vì là một thành phần hầu như không thể thiếu trong các món ăn. Tuy không thấy và không nói ra, nhưng ai cũng ngầm hiểu trong mỗi món ăn đều có muối.

Khi dùng muối làm hình ảnh minh hoạ, chắc chắn Chúa Giêsu cũng muốn cho các môn đệ của Người có những đặc tính của muối.

Người muốn các môn đệ của Người sống giữa nhân loại như muối ở trong thức ăn. Người muốn các môn đệ của Người hiện diện thật kiêm nhường như những hạt muối bé nhỏ. Người muốn các môn đệ của Người hiến thân mình cho nhân loại như những hạt muối hòa tan trong thực phẩm.

Nhưng để sự hiện diện bé nhỏ khiêm nhường mang yếu tố tích cực, các môn đệ phải giữ được vị mặn của muối.

Vị mặn, đó là lòng yêu mến Chúa mặn nồng, là tình yêu tha nhân mặn mà, là sống tinh thần Tám Mối Phúc như Chúa dạy trong bài Tin Mừng tuần trước.

Giữ được vị mặn của Phúc Âm và hiện diện âm thầm trong phục vụ quên mình, người môn đệ Chúa sẽ thực sự góp phần bảo vệ nền đạo đức của xã hội. Dù không muốn, họ vẫn trở thành ánh sáng soi trần gian.

Lạy Chúa, Chúa tin tưởng con, nên đã gọi con là muối trần gian. Xin cho lòng con yêu mến Chúa tha thiết, để đem cho đời hương vị tình yêu. Amen.

 

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

  1. Bạn nghĩ gì về hình ảnh hạt muối?
  2. Làm muối, dễ hay khó?
  3. Bạn đã bao giờ cảm thấy niềm vui được chìm đi để anh em được nổi nang chưa?

 

27.             Có can đảm sống trung thực theo con người mình

(Trích từ ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)

Chân lý, nhất là chân lý do đức tin mang tới, là muối và ánh sáng. Chân lý, tự nó, không thể nên lạt lẽo và tối mờ. Nhưng thực tế thì chân lý trở nên “khả giác” khi đi vào trí khôn và cõi lòng con người. Chính những con người mang chân lý và đức tin, là muối và ánh sáng gian trần. Bởi vì nhà ở của chân lý và đức tin là con người với tất cả sự phức tạp của nó, bản năng, sở thích của nó, cho nên sự biến chất lạt lẽo và tình cảnh bị bóp nghẹt vẫn là những mối đe doạ thường xuyên. Chúa nói với môn đệ rằng họ là muối và ánh sáng mà không để cho bị lạt lẽo và che mờ đi.

Muối được dùng nhiều trong các nghi thức tôn giáo, hẳn là vì nó chữa lành, không bị hư thối, vì nó cho hương vị. Sách Lêvi (2,13) nói đến muối của Giao Ước để chỉ rằng Giao Ước phải bền vững, không thể hư hỏng. Tiên tri Êlisê “tẩy sạch” một giòng suối bằng cách bỏ vào muối vào. (2V 2,21). Ánh sáng là để soi chiếu. Để rọi chiếu, ánh sáng chỉ cần là ánh sáng. Bài Phúc Âm nói tới cái thùng, có lẽ gợi lại tục lệ của mấy người nghèo thường đặt đèn trên một cái thúng lật ngược. Nếu lấy thùng chụp đèn lại, người ta giam hãm ánh sáng và làm nó phải tắt.

– Để suy niệm, chúng ta sẽ hiểu muối và ánh sáng như những biểu tượng của người Kitô hữu.

 

1) Người Kitô hữu phải là muối thế gian. Ngày nay hơn bao giờ Giáo Hội phải thâm nhập vào nền văn minh với những giá trị của đức tin, hầu cho thế gian khỏi tan rã và thoái hoá trong bạo lực. Người ta nói nhiều đến thuyết duy vật, thuyết duy sắc dục… Lắm người quảng đại chiến đấu cho một thế giới công bình hơn, nhưng không biết bên kia cái cùng đích họ theo đuổi còn có gì… Nếu bị bỏ mặc cho mình, thì thế giới sẽ nên hủ bại. Người Kitô hữu phải làm chứng về phẩm giá, và số mệnh con người, để góp phần cứu vớt thế gian. Trong tất cả đời sống xã hội, gia đình, nghề nghiệp, chính trị kinh tế, họ phải nghĩ tưởng và hành động theo như lòng tin nơi Đức Giêsu Kitô soi sáng thúc đẩy họ. Nếu không có can đảm làm như thế, nếu trở nên lạt lẽo, thì nó sẽ không chu toàn sứ mệnh và thế gian có thể lôi kéo họ vào sự ghê tởm. Bị ném ra ngoài cho người ta dày đạp dưới chân. Phúc Âm nói thế.

 

2) Người Kitô hữu phải là ánh sáng gian trần. Vấn đề không phải là phô trương mình ra. Những cũng là ánh sáng soi chiêu vì nó là nó, thì người Kitô hữu cũng phải toả ánh sáng Tin Mừng bằng cách là người Kitô hữu đích thực, thế thôi. Một điểm đáng cho ta lưu ý. Khi hoạt động với tư cách Kitô hữu, có nên che dấu “sự quy chiếu” của mình về Chúa Kitô và đặc nó dưới thùng hay không? Nói cách khác, ánh sáng mà người tin Chúa mang trong mình không phải loan báo Đức Giêsu Kitô hay sao? Trả lời thực tế cho câu hỏi này không đơn giản đâu. Dù sao, theo Phúc Âm dạy thì hành động được thực hiện trong ánh sáng, phải dẫn đưa con người tới chỗ ngợi khen Cha trên trời.

 

28.             Suy niệm của Lm Stêphanô Bùi Thượng Lưu

 

Bài Tin Mừng Chúa nhật thứ 5 mùa thường niên theo thánh sử Matthêu gồm hai ý tưởng chính yếu: môn đệ Chúa Kitô là “Muối cho đời” và “Ánh sáng cho trần gian”. Trong bài suy niệm này, chỉ xin được ngẫm suy về muối.

 

Ngay từ tấm bé, ai trong chúng ta cũng thuộc nằm lòng câu tục ngữ Việt Nam:

“Cá không ăn muối cá ươn.

Con cưỡng cha mẹ trăm đường con hư”.

 

Ông bà tổ tiên mình đã dùng kiểu nói ví von dễ hiểu để dậy con cháu những bài học đạo đức luân lý cụ thể. Qua câu tục ngữ đó, ai trong chúng ta cũng hiểu rằng chất mặn của muối ướp cá cho khỏi ươn khỏi thối. Muối ở đây là lòng kính thảo cha mẹ, biết vâng lời, biết nghe và sống theo những lời dậy bảo của các bậc sinh thành. Những lời dạy bảo của cha của mẹ là khuôn vàng thước ngọc, giúp cho con cái trưởng thành khôn lớn, để trở thành người có ích cho gia đình xã hội mai sau. Đứa con nào bỏ ngoài tai lời cha mẹ khuyên răn, chắc sẽ khó tránh khỏi tính hư tật xấu.

 

Muối còn là gia vị cần thiết cho sự sống: muối mang lại dinh dưỡng cơ thể và bảo vệ sức khoẻ. Nấu nướng mà không có “mắm muối”, đồ ăn sẽ nhạt nhẽo, không mặn mà. Trong đời sống vợ chồng, muối là tượng trưng cho những gì thắm thiết “mặn nồng”, nhờ đó đôi vợ chồng gắn bó chung thủy với nhau đến “đầu bạc răng long”:

“Tay bưng đĩa muối chấm gừng,

Gừng cay muối mặn xin đừng bỏ nhau.”

 

Chúa Giêsu cũng dùng hình ảnh cụ thể của muối để giáo huấn các môn đệ. Đa số các Ông là dân thuyền chài, sinh sống bằng kéo chài thả lưới, trước khi bỏ “mọi sự” mà theo Chúa, để trở thành “những kẻ chài người”. Hơn ai hết, các Ông hiểu ngay Chúa Giêsu muốn dậy các ông gì khi Ngài nói: “Chính anh em là muối cho đời. Nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn lại? Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi.”

 

Qua lời của Chúa Giêsu, các môn đệ hiểu rất rõ rằng: họ được mời gọi là “muối” cho đời. Bản chất của muối là mặn. Giá trị của muối cũng là chất mặn. Bên bờ hồ Galilê hay bên hồ Giênêgiarét xưa, đã nhiều lần chính các ông đã dùng muối để ướp cá trên thuyền. Nay giữa cuộc đời bon chen, đầy sa đọa, môn đệ Chúa Giêsu phải là “muối” ướp mặn thế gian, làm cho đời khỏi ươn, khỏi thối. Theo lối giải thích của thánh sử Matthêu, các môn đệ phải là “muối cho đời” (Mt 5:13), nghĩa là phải gìn giữ và làm cho thế gian thêm mặn nồng trong giao ước với Thiên Chúa. Nếu không “nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi” (Lc 14:35).

 

Bản chất của muối là mặn. Bản chất của người môn đệ Chúa là được Chúa kêu gọi lên thánh, để “thánh hoá” bản thân, gia đình và xã hội. Trong Bí tích Thánh tẩy xưa kia, có nghi thức linh mục cho em bé hoặc người tân tòng nếm chút muối. Vì muối được ghi nhận trong Cựu Ước như “muối giao ước của Thiên Chúa” và Muối có công dụng thanh tẩy, cũng như ngôn sứ Êlisê đã dùng muối để tẩy rửa “nước độc” (2 V 2:19-22), vì thế, xát muối vào trẻ con (Ez 16:4), là dấu chỉ người Kitô hữu được kêu gọi nên thánh, để “thánh hóa” đời.

 

Trong Tân Ước, muối còn là hình ảnh của sự khôn ngoan và sự tinh ròng về luân lý. Đó là điều Đức Giêsu chờ đợi nơi người môn đệ (c.13). Nếu muốn “muối” đời khỏi ươn khỏi thối, người Kitô hữu phải nhất quyết từ bỏ “tội lỗi”, cải chừa tính mê, để mặc lấy sự công chính, tức là mặc lấy chính Chúa Kitô, Đấng là “Đường, Sự Thật và Sự Sống”. Làm sao có thể “ướp cho đời khỏi hư thối” khi chính mình không phải là “muối mặn”. Cha mẹ làm sao dạy bảo được con cái: “Cá không ăn muối cá ươn, Con cưỡng cha mẹ trăm đường con hư”, khi chính đời sống của cha của mẹ chẳng gương mẫu gì! Vợ chồng công giáo mà “chồng ăn chả, vợ ăn nem”, tối ngày chỉ lo làm giầu, cãi vã nhau như cơm bữa, thì làm sao ướp cho tình yêu lứa đôi khỏi hư thối. Trong Tin mừng theo thánh sử Marcô (Mc 9:50), Đức Giêsu cũng dạy: “Muối là cái gì tốt. Nhưng muối mà hết mặn, thì anh em sẽ lấy gì ướp cho mặn lại? Anh em hãy giữ muối trong lòng anh em và sống hòa thuận với nhau.” Ở đây muối chính là những giọt mồ hôi và lao công xây đắp cuộc sống, những hy sinh và từ bỏ mình để duy trì mối hòa thuận thương yêu (x Lc 14:34tt). Thánh Phaolô mời gọi các tín hữu “lời nói phải đi đôi với việc làm”: “Chớ gì ngôn ngữ anh em luôn dịu dàng, ướp đầy muối mặn để biết trả lời hợp với mọi người”.

 

Câu chuyện “Những Lọ Đựng Muối Tiêu” sau đây, trích từ “những câu chuyện tu đức hằng ngày” của chương trình phát thanh Việt ngữ đài Chân lý phải làm mỗi tín hữu Chúa Kitô phải bóp trán suy nghĩ:

 

Sưu tầm là một giải trí rất phổ thông hiện nay. Người ta sưu tầm tem, nhãn hiệu, lon bia, chai lọ, sách quý… và lâu lâu đem triển lãm.

 

Tại một nhà thờ nọ tại Chicago bên Hoa Kỳ, trong một cuộc triển lãm các vật sưu tầm, người ta thấy có cả một khu dùng để triển lãm các lọ đựng muối tiêu. Một ông khách nọ vừa bước vào, sau khi mua một cái bánh Hamburger ở của vào, đã vội vã đi một vòng quan sát. Khi tới khu triển lãm các lọ đựng muối tiêu, ông mới sực nhớ ra cái Hamburger của mình nhạt quá. Thế là ông đã cầm lấy một lọ muối và xốc nhiều lần. Nhưng xốc đến lọ thứ mười hai mà ông vẫn chưa thấy muối. Ông đành phải trở lại cửa xin người bán hàng cho ít muối và phàn nàn: “Gần hai trăm cái lọ muối thế kia mà không có lấy một hột muối”.

 

Đó là hình ảnh của cuộc đời Kitô chúng ta. Mang lấy danh hiệu là muối đất, nhưng lắn lúc chúng ta chỉ là những lọ trống không. Muối dùng để ướp đồ ăn cho khỏi ươn thối. Muối dùng để sát trùng, chữa những vết thương. Muối dùng để nêm cho thức ăn được thêm đậm đà…

 

Trong một xã hội đang thối rữa vì những tệ đoan, người Kitô cần phải là muối để thanh tẩy và đem lại cho cuộc sống thêm đậm đà hương vị. Một lời nói, một hành động của chúng ta, nếu có chút muối của Đức Tin, Đức Ái sẽ mang lại cho những người xung quanh niềm vui và sức sống.

 

29.             Chiếu ánh sáng của chúng ta khi cần.

(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ – Charles E. Miller)

 

Trong một cuộc phỏng vấn Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, một phóng viên đã hỏi ngài: “Đức Thánh Cha cầu nguyện cho những ai và cho điều gì?” Đức Thánh Cha trả lời bằng việc trích dẫn đoạn văn mở đầu trong Hiến Chế về Giáo Hội trong thế giới ngày nay của Công đồng Vatican II. Đoạn văn ấy như sau: “Sự vui mừng và hy vọng, đau buồn và lo âu của con người thời đại này, đặc biệt là những người nghèo hay những người bị bách hại, cách nào đó là niềm vui và hy vọng, đau buồn và lo âu của những người theo Chúa Kitô” (Bước qua ngưỡng cửa hy vọng, số 20).

 

Thật ra Đức Thánh Cha đã trả lời câu hỏi không chỉ như ngài là một Giáo Hoàng mà với tư cách là một người Công giáo, một người theo Chúa Kitô, giống như mọi người chúng ta. Chắc chắn những lời cầu nguyện của Đức Thánh Cha cũng sẽ là của chúng ta nữa. Dĩ nhiên cầu nguyện phải dẫn tới hành động và hành động tương quan với tha nhân nữa.

 

Biến lời cầu nguyện thành hành động là giáo huấn của tiên tri Isaia trong Thánh Lễ hôm nay: “Hãy chia bánh với người đói, cung cấp chỗ cư trú cho kẻ bị áp bức và không nhà. Mặc quần áo cho kẻ mình trần khi thấy họ, đừng xoay lưng lại với những khốn khổ đang xảy ra”. Những lời cảm động này muốn nói tới những người Do Thái bị lưu đày, họ trở về sau khi thoát ách nô lệ ở Babylon. Họ tìm thấy quê hương họ đã bị xâm chiếm bởi một dân tộc khác, một dân không chia sẻ cùng một tôn giáo hay nền luân lý của họ. Họ cảm thấy mình như là một dân tộc thiểu số trong một khu vực thù địch.

 

Chúng ta không giống như họ nơi xã hội của chúng ta, những người Công Giáo không phải là một nhóm người thiểu số, nhưng một số người đang lớn dần lên chung quanh chúng ta có vẻ như trái tim họ bị xơ cứng trước những nhu cầu của người anh em, ví dụ như những người đói khát, những dân nhập cư, những người không nhà, những người nhận trợ cấp xã hội. Các nhu cầu giúp đỡ sẵn sàng bị loại bỏ như là việc vô giá trị và không đáng được phục vụ. Ở một số nơi, tinh thần này đã thay thế cho sự thương xót. Những người Công Giáo chúng ta không thoát khỏi ảnh hưởng của những biến chứng này. Đôi khi những hiệu quả thì rất tinh tế mà chúng ta không hề ý thức đên chúng.

 

Ngày nay, một số người nghèo khổ và thích cuộn mình nằm nơi góc tối, nơi đó họ không bị nhìn thấy. Nhưng Chúa Giêsu đã dạy chúng ta rằng chúng ta phải chiếu sáng sự tốt lành của chúng ta trên những người có nhu cầu để họ không bị quên lãng, tiên tri Isaia đã giúp chúng ta hiểu những gì Chúa Giêsu muốn nói bằng việc nói với chúng ta: “Nếu các người rời khỏi nơi áp bức, sự kết án gian dối và những bài giảng ác tâm, nếu các ngươi cho những kẻ đó bánh ăn, an ủi những kẻ ưu phiền, thì ánh sáng sẽ bùng lên ngay giữa nơi tối tăm của các ngươi”.

 

Chúng ta có thể cần tự nhủ phải trở lại với lối suy nghĩ của người Công Giáo và hành động theo Đức Kitô, những người mà niềm vui hay những đau thương, nhu cầu và những lo âu của họ trong thời đại này, đặc biệt là của những người nghèo khó hoặc những người đau khổ là những người có liên quan đến chúng ta.

 

Thật ra, tất cả chúng ta đều có những nhu cầu lớn lao, không có mức độ tài chánh nào có thể đáp ứng cho đủ cả. Chúng ta cần Thiên Chúa và ân sủng của Người. Thiên Chúa không hề quay mặt đi khỏi chúng ta. Người hằng nhìn xem chúng ta và đáp trả những lời cầu xin của chúng ta cách quảng đại, đặc biệt là lời cầu trong Thánh Lễ. Người gọi chúng ta ra khỏi tình trạng không nhà của thế giới trần tục để vào trong nhà của Người là Giáo Hội. Ở đây, Người tiếp đón chúng ta bằng những lời êm dịu và yêu thương trong Thánh Kinh, nuôi dưỡng chúng ta bằng Thịt và Máu Con của Người. Có phải chúng ta xứng đáng với tất cả chuyện đó chứ? Chúng ta làm gì để xứng đáng với điều đó? Chắc chắn những hồng ân quảng đại của Thiên Chúa hằng ban xuống trên chúng ta, sẽ khiến chúng ta đi theo sự hướng dẫn của Đức Thánh Cha và làm cho những nhu cầu của tha nhân thật sự trở nên của chính mình.

 

30.             Ánh sáng và bóng tối

Ngày kia, các môn đệ của thầy Haxiđich bên Ấn Độ đến than phiền với thầy về ảnh hưởng xấu của ma quỷ trên thế gian. Họ hỏi thầy phải làm thế nào để có thể xua đuổi ma quỷ?

Thầy Haxiđich đề nghị trước hết hãy lấy chổi bắt đầu quét bóng tối khỏi căn phòng nhỏ dưới hầm. Các môn sinh ngạc nhiên trước lời dạy bảo đó. Nhưng họ cũng đành lòng vâng theo.

Sau nhiều giờ mệt nhoài, mồ hôi nhễ nhãi, nhưng họ vẫn không đuổi được bóng tối ra khỏi căn phòng nhỏ.

Thầy Haxiđich bảo các môn sinh lấy gậy đập bóng tối để đuổi ma quỷ ra khỏi phòng. Nhưng vẫn uổng công vô ích. Lần thứ ba, thầy bảo các môn sinh hãy xuống hầm gào thét nguyền rủa bóng tối. Họ đã khan cổ, mất tiếng mà vẫn không sáng thêm được chút nào.

Sau cùng thầy bảo các môn sinh:

– Hỡi các con, mỗi người trong các con hãy đương đầu với thách đố của bóng tối bằng cách đốt lên một cây nến.

Họ thi hành theo lời thầy. Và kìa, lập tức bóng tối đã bị đuổi đi. căn hầm tối tăm lạnh lẽo bỗng trở nên sáng rực và ấm cúng.

Anh chị em thân mến,

Văn sĩ Locke, người Anh, cũng nói: “Thà bật lên một que diêm còn hơn ngồi nguyền rủa bóng tối”. Và trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã khẳng định: “Chính anh em là muối cho đời, là ánh sáng cho người”.

Bóng tối của tà thần vây phủ khắp nơi bằng nhiều hình thức: gian dối, hận thù, chiến tranh, bất công, bóc lột, tệ nạn xã hội, sách báo tranh ảnh đồi truỵ… Người ta đã tốn biết bao công sức, đổ biết bao mồ hôi, đã quá mệt mỏi. Tất cả hầu như đã không được gì. Bóng tối vẫn là bóng tối vây phủ con người. Ngoài ánh sáng ra, có gì xua đuổi được bóng tối? Nỗ lực trong bóng tối thì bóng tối vẫn cứ tối mãi. Cần phải khơi dậy nguồn sáng. Mỗi con người là một cây đèn, cần phải được thắp sáng lên. Mỗi người cần phải tự mình thắp sáng lên cây đèn của mình. Một ngọn đèn cháy sáng, rồi hai, rồi ba, rồi hàng trăm, hàng ngàn ngọn đèn cháy sáng, thế giới tối tăm này sẽ bớt tối đi. Tất cả mọi người đều thắp sáng ngọn đèn của mình, cuộc đời này sẽ sáng rực lên nguồn sống mới, vui tươi và ấm cúng biết chừng nào?

Tuy nhiên, thưa anh chị em, có người đã tự hỏi: “Tại sao tôi lại phải là muối cho đời và ánh sáng cho người?”. Tôi chỉ muốn sống bình thường như mọi người, muốn đi lẫn vào đám đông chứ không muốn đi đầu như một người lãnh đạo. Tôi không muốn chơi nổi, không muốn chường mặt ra cho mọi người nhìn vào như ngọn đèn trên giá hay ngọn đèn đường trên cao nơi góc phố. Trở thành muối, thành ánh sáng có lẽ là nhiệm vụ của linh mục, tu sĩ hãy một số người đặc biệt nào đó chứ không phải là tôi.

Chúng ta được quyền tự hỏi như thế khi ý thức mình chỉ là con người tội lỗi, yếu đuối như mọi người. Nhưng Chúa Giêsu hôm nay không muốn chúng ta từ chối nhiệm vụ này, khi Ngài nói: “Chính anh em là muối cho đời, là ánh sáng cho người”. Người Kitô hữu là muối cho đời, là ánh sáng cho trần gian, không có nghĩa là phải có thái độ cha chú, lên mặt dạy đời, tự phụ phô trương quảng cáo như kiểu bọn Biệt phái Pharisêu giả hình. Trái lại, là muối, là ánh sáng, người Kitô hữu phải có cung cách khiêm tốn, tan biến, lắng chìm giữa lòng đời, như hạt muối thấm vào thức ăn, như ánh sáng chan hoà trong không khí, và có như thế thì món ăn mới thêm đậm đà, không gian mới xinh đẹp, tươi vui.

Lẽ tất nhiên, muối phải luôn mặn từ bên trong, và đèn phải chiếu sáng từ trên cao. Bằng không, chúng sẽ trở thành đồ vô dụng, đồ phế thải, bỏ đi… Vậy, người Kitô hữu phải luôn sống đức tin của mình, phải thực thi Tin Mừng của Chúa Kitô ngay giữa các môi trường mình đang sinh sống hằng ngày. Trái lại, nếu sống bê tha, bất công, gian ác, thì sẽ trở thành bóng tối, sẽ bôi nhọ khuôn mặt của Chúa Kitô, của Giáo Hội: Muối đã biến chất, nhạt nhẽo, vô vị. Đèn đã cạn dầu, tắt ngúm, đứt bóng, còn ích gì?

Ngôn sứ Isaia trong Bài đọc 1 hôm nay đã kê khai cách tỉ mỉ những việc cần làm để cho “ánh sáng chúng ta bừng lên trong bóng tối và bóng tối sẽ trở thành như giữa ban ngày”, đó là hãy chia cơm, sẻ áo cho người đói rách, tiếp nhận người không cửa không nhà. Đó là loại bỏ những xiềng xích bất công, cử chỉ hăm doạ, lời nói xấu (x. Bài đọc 1). Chúa đã ban cho chúng ta thời giờ, sức lực và phương tiện đủ để chúng ta ướp mặn và soi sáng, nhưng nhiều người chúng ta bỏ quên, không sử dụng những ân huệ này.

Anh chị em thân mến, hơn ai hết, Kitô hữu chúng ta phải là những cây đèn đặt trên giá đèn để xua tan bóng tối và chiếu sáng cả nhà. Căn nhà thế giới, căn nhà Giáo Hội, căn nhà của mỗi gia đình chúng ta cần thứ ánh sáng ấy biết bao!

Là môn đệ chân chính của Chúa Kitô, chúng ta không thể quên lời Ngài đã quả quyết: “Chính anh em là muối cho đời, là ánh sáng cho người”. Xác tín vào Lời Chúa, chúng ta sẽ gắng công dùng mọi khả năng tự nhiên và siêu nhiên Chúa ban để ướp mặn đời, để toả sáng cho mọi người bằng một cuộc sống thánh thiện xứng đáng với tư cách là những người con của Cha trên trời.

Nếu mỗi người chúng ta đều thấm nhập chất mặn của Tin Mừng và phản chiếu ánh sáng của Chúa Kitô, thì thế giới này làm sao còn bóng tối, cuộc đời này làm sao không rực sáng lên hy vọng và nguồn vui sống? Được Lời Chúa soi sáng, được Thánh Thể bồi dưỡng, chúng ta hãy sống gắn bó với Chúa, thấm nhập tinh thần của Ngài để rồi hoàn thành sứ mạng Chúa đã trao phó cho chúng ta hôm nay, đó là làm muối cho đời, làm ánh sáng cho người.

 

31.             Suy niệm của Lm. Phaolô Trịnh Duy Ri

Khi người ta hỏi ông Gandhi, một người rất nổi tiếng đấu tranh dành độc lập cho dân tộc Ấn-độ, về việc phải làm thế nào để cho ngày càng có nhiều người biết chấp nhận và tuân giữ giáo lý khôn ngoan của Chúa, ông đã trả lời: “Các bạn hãy nghĩ về bí quyết của những bông hồng. Mọi người đều thích chúng vì ngoài vẻ đẹp và màu sắc sặc sỡ, hoa còn tỏa một mùi thơm kỳ diệu. Vậy, các bạn hãy “tỏa hương thơm”. Không chỉ tỏa hương thơm mà thôi, Lời Chúa hôm nay nhắn nhủ chúng ta hãy là muối đất và ánh sáng cho thế gian.

Là muối đất, vì muối mang lại hương vị cho thức ăn, giữ cho thực phẩm khỏi hư thối hoặc sát trùng chữa lành những gì hư hại… thì cách sống của chúng ta cũng phải có tác dụng tương tự với xã hội, nghĩa là phải nói năng, cư xử, hành động thế nào để cứu chữa thế gian này khỏi những gì xấu xa, khỏi hư thối vì tội lỗi và ngày càng trở nên tốt đẹp hơn.

Là ánh sáng cho đời vì nhiệm vụ của ánh sáng là soi chiếu đêm đen. Cũng giống như Chúa Kitô là Ánh sáng thế gian, chũng ta phải trở nên đèn sáng, những hướng đạo soi đường chỉ lối cho mọi người khỏi tối tăm lầm lạc để biết tìm đến quê trời, tìm đến với Chúa là nguồn sống muôn đời.

Khi dạy chúng ta phải trở nên muối ướp thế gian, Chúa Giêsu đã muốn chỉ vẽ cho chúng ta một thái độ sống cụ thể nhằm áp dụng tinh thần 8 mối phúc thật vào cuộc đời chúng ta. Như vậy, chúng ta có sứ mệnh cứu vớt loài người khỏi cảnh sa đọa tối tăm và có bổn phận luôn là muối mặn và là ánh sáng cho đời.

Nói một cách khác, để giữ mãi vị mặn của muối và ánh sáng của đèn, chúng ta phải từ bỏ những gì là tội lỗi xấu xa và thực hành các nhân đức như thương xót, từ bi, nhân hậu, công bình, quảng đại và bác ái với mọi người như được mô tả trong bài đọc I mà chúng ta vừa nghe.

Khi biết sống đạo giữa đời như thế, chứ không phải chỉ trong 4 bức tường của nhà thờ, chúng ta trở thành muối đất đèn đời và phản ảnh được tấm lòng đầy yêu thương nhân hậu của Chúa chúng ta. Được như thế, sự sáng của chúng ta mới “bừng lên trong bóng tối và tỏ rạng như hừng đông”. Khi nhìn vào những việc lành công bình bác ái chúng ta làm, người khác sẽ có cảm tình với đạo Chúa và sẽ tin thờ Chúa với chúng ta.

Người ta kể rằng thời xưa mỗi lần ra khỏi nhà trong đêm tối, người Nhật thường dùng những chiếc lồng đèn. Có một người mù nhớ đường rất giỏi, anh ta có thể đi trong đêm tối chỉ với cây gậy mà không cần dùng đến đèn. Đêm kia, anh ta đến thăm nhà một người bạn. Khi trở về, thấy anh đi tay không, người bạn mới lấy một chiếc lồng đèn trao cho anh, nhưng người mù từ chối và nói: “Đối với tôi thì cầm chiếc lồng đèn để làm gì vì bóng đêm hay ánh sáng đều như nhau”.

Người bạn trả lời: “Tôi vẫn biết như thế, nhưng nếu anh không cầm đèn trong tay, kẻ khác sẽ không thấy anh và như vậy họ có thể đụng vào anh”.

Nghe thế, người mù đành cầm lấy lồng đèn ra về, nhưng đi được một đoạn đường, bất ngờ anh bị một người khác tông vào. Tức giận quá đỗi, anh quát tháo inh ỏi: “Bộ đui hay sao? Không thấy chiếc đèn tôi đang cầm hay sao?”.

Người kia mới xin lỗi và phân trần: “Ông ơi, đúng là ông đang cầm chiếc lồng đèn, nhưng ngọn nến bên trong đã tắt từ lúc nào rồi!”.

Vì thế, nếu cuộc sống đạo của chúng ta không chiếu sáng bằng một đức tin vững mạnh và bằng những việc lành cụ thể là bác ái yêu thương thì chằng khác nào một ngọn nến đã tắt ngúm trong chiếc lồng đèn và có thể sẽ gặp tai họa. Tai họa cho tha nhân, cho đạo Chúa và còn là tai họa cho chính bản thân chúng ta. Tha nhân mất đi một điểm tựa cho cuộc sống, Giáo hội Chúa mất đi những vẻ đẹp sáng ngời, mà chính chúng ta cũng tự đày đọa mình vào trong bóng tối tội lỗi.

Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con biết trờ nên muối đất đèn đời để thiên hạ xem thấy những việc lành chúng con làm mà nhận biết và ngợi khen Chúa muôn đời. Amen.

 

32.             Ánh sáng rạng tỏ cho mọi quốc gia

Thiên Chúa đã kêu gọi dân tộc Isarel làm “Dân Riêng của Ngài”, đây không có nghĩa là họ hơn những người khác nhưng là họ mang một trách nhiệm. Thực tế, họ đã tự cho mình là tâm điểm, tự hào là Dân Tuyển Chọn. Sau khi Chúa đưa họ qua Biển Đỏ sau cơn tù đầy, thì niềm hân hoan tự hào đó lại càng dâng cao: “Này hãy nhìn xem Thiên Chúa đã làm gì cho chúng ta là dân Ngài tuyển chọn. Chúng ta hãy mở hội ăn mừng!” Thế rồi cái lòng hân hoan đó cứ thế truyền từ đời này đến đời kia trong lòng dân tộc Israel, để sau cùng họ không còn nhớ gì đến trách nhiệm của Dân được Tuyển chọn nữa.

Có hai học sinh trung học nói với nhau về chuyện phiếu điểm của họ. Người kia hỏi: “Điểm của mày toàn là F, vậy mày có bị ba má mày la rầy gì không?” Người kia trả lời: “Ba má tao có nói gì đâu. Họ chỉ lo cãi nhau xem tao thuộc về bên nào của họ”. Điều này cũng tương tợ như dân Israel vậy. Bất cứ điều gì xảy ra, tốt hay xấu, họ đều đoán xét theo lòng tự kiêu và điều cần thiết của riêng họ. Họ quên mất rằng Thiên Chúa trào ban ơn lành trên họ là để họ chia sẻ với người khác nữa. Đó là lý do 600 năm trước Chúa giáng sinh, Thánh Kinh đã ghi lại là họ đã bị quở trách vì sự tự cao tự đại của họ. Có vị tiên tri nói với họ rằng Thiên Chúa không thích lối trưng bày lòng sùng đạo ra bên ngoài của họ, Ngài chẳng ưng nhận lối ăn chay, cúi đầu, mặc áo nhặm, và rắc tro trên mình; nhưng điều Ngài muốn họ làm là:

“Chia của ăn uống với người đói khát, cho người bị áp bức và vô gia cư trọ nhờ. Cho người trần trụi áo mặc… Thời sự sáng của ngươi sẽ rạng tỏ… khi ngươi kêu cầu Thiên Chúa sẽ trả lời ngươi… khi ngươi kêu cứu Ngài sẽ trả lời: Này Ta đây!” (Is 58:7-9).

Chúng ta thấy vấn đề này đã chạm đến chót điểm cho dân Tuyển Chọn khi Đấng Thiên Sai đến và kêu gọi họ theo Ngài vô điều kiện trong việc rao truyền tình yêu, nhưng Hội Đồng Do Thái Giáo đã giết Ngài.

Nếu đời sống bạn bị sa lầy, mọi điều xem như thất bại, tinh thần như đen tối, và bản thân bạn như ngừng lại thì đó không phải tại Thiên Chúa không ban ánh sáng cho bạn, mà do bạn đã giấu nó dưới đáy thùng như Chúa Giêsu đã nói.

Trong vở kịch của Tennessee Williams đóng nhan đề “Chiếc Xe Tên Ước Muốn”, Blanche là người mang tâm trạng tan nát sầu thương. Cô ta đang tìm kiếm một chỗ đứng chắc chắn, một điểm tựa cho tâm hồn cô. Cô ta đang thèm khát được yêu. Song khổ nỗi, cô ta thuộc loại người chuyên dối quanh những điều mình ước muốn, những điều làm người khác hiểu và yêu cô ta. Cứ thế bóng tối cứ bao phủ đời Blanche cho tới khi cô ta gặp Mitch. Anh ta cũng là người đang gặp khó khăn đối với xã hội. Anh ta bị bịnh mập phì và luôn luôn bị đổ mồ hôi theo như anh ta nói với Blanche. Mitch rất cô đơn và hằng ao ước có người thương anh. Thế rồi vở kịch diễn tới hồi Blanche có thể tâm sự và tự chia sẻ với Mitch về những nỗi sầu muộn của đời cô đang phải đối đầu trong cuộc sống. Khi cô tâm sự xong, Mitch nắm lấy tay cô rồi nói: “Cả hai chúng ta đang cần đến một người nào đó hiện diện trong đời sống chúng ta. Blanche, có thể là hai chúng ta hiện diện trên cõi nhân sinh này là để cho nhau không?” Nhìn thẳng vào đôi mắt của Mitch và những giọt lệ từ từ lăn trên má, thế rồi Blanche tự ngả mình vào vòng tay của Mitch. Trong những tiếng nức nở nghẹn ngào ngọt lịm, Blanche nói một câu tuyệt vời: “Đôi lúc Thiên Chúa xuất hiện thật quá mau”, và sân khấu hạ màn.

Đó cũng là điều không phải ít trong chúng ta đã từng cảm nghiệm. Đôi khi trong cuộc sống, lúc mà chúng ta cần nhất, khi mà nỗi kinh hoàng của bóng tối bao phủ thì Thiên Chúa xuất hiện thật mau lẹ, rõ ràng, và chữa lành mọi nỗi. Nhưng có điều buồn là sự ấy thường tiêu tan, biến mất, ra đi, không gốc rễ! Nó không có tiếp tục, hay có thể nối dài sự cứu giúp. Lý do không phải tại Chúa lấy ánh sáng khỏi chúng ta mà do chúng ta để nó lu mờ trong chúng ta. Cũng tựa như vấn đề Blanche phải đương đầu trong vở kịch kể trên thì nó cũng xảy ra thường xuyên cho chúng ta. Đời sống chúng ta không thể sinh động lớn mạnh có thể là do ta không chia sẻ, cởi mở với người khác. Chúa ban cho chúng ta ánh sáng không riêng cho chúng ta mà Ngài còn muốn chúng ta chia sẻ ánh sáng đó cho mọi người khác nữa; bởi Thiên Chúa yêu chúng ta và hết mọi người!

Trong ánh sáng chúng ta thấy rõ những ung nhọt, phản đối xảy ra trong Giáo Hội qua những năm vừa qua. Không ít người đã từ bỏ Hội Thánh, và nếu chúng ta nhìn lại, chúng ta sẽ thấy rằng chúng ta đã và đang là những người được Tuyển Chọn. Tân Ước đã nói rõ ràng về điều ấy! Thiên Chúa hành động trong cộng đoàn Dân Chúa cách triệt để và đầy ý nghĩa. Trong lòng Giáo Hội, Thiên Chúa dùng để bày tỏ chính Mình Ngài, Sự Sống Ngài, Sức Mạnh Ngài, và Ánh Sáng Ngài. Song khổ nỗi chúng ta đã tự xây tường bao quanh chúng ta và không chia sẻ sự sống Thiên Chúa cho thế nhân. Chúng ta “chưa là ánh sáng và chưa là muối ướp trần gian” (Mt 5:13-14).

Chúng ta là Dân Tuyển Chọn, chúng ta cùng làm việc thờ phượng không những để nhận được một điều gì đó (điều này đương nhiên rất quan trọng), nhưng còn phải sửa soạn cho chúng ta những điều cần thiết cho công cuộc truyền rao sự sống và ánh sáng. Chúng ta sẽ không trở nên những phần tử đích thực của Giáo Hội bao lâu những đòi hỏi lớn lao này của Tin Mừng chưa thật sự bao trùm chúng ta. “Các con là muối đất… các con là ánh sáng thế gian… ánh sáng của các con phải rạng soi trước mọi dân tộc” (Mt 5:14-16). Đấy chính là trách nhiệm của Dân Chúa Tuyển Chọn, và đó cũng là lý do chúng ta được Tuyển Chọn.

 

33.             Suy niệm của Lm Phạm Quốc Hưng

“Các ngươi là muối cho đời… là ánh sáng cho thế gian”.

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng ba hình ảnh rất gần gũi để gọi các môn đệ của Người: muối cho đời, ánh sáng cho thế gian, và cái thành tọa lạc đầu non.

Muối được dùng để khử trùng, để gìn giữ thức ăn cho khỏi hư thối, và để nêm vào các món ăn cho thêm hương vị đậm đà.

Ánh sáng giúp người ta nhận biết, phân biệt và chiêm ngắm sự vật.

Thành phố trên núi thường được dùng làm điểm qui chiếu để người ta định hướng.

Theo đó, cả ba hình ảnh này đều giống nhau ở điểm là chúng không hiện hữu cho riêng mình, nhưng hiện hữu để góp phần gìn giữ, tô bồi hay xây dựng cho một đối tượng khác.

Đó chính là bản chất cuộc sống của Chúa Kitô như chính Người đã tự xưng: “Sự sáng thế gian chính là Ta” (Jn 8:12).

Thực vậy, Chúa Giêsu đã đến trong thế gian để cứu chuộc nhân loại, để làm cho cuộc sống con người thêm sung mãn tràn đầy, để dẫn con người hướng về Thiên Chúa là Nguồn Chân-Thiện-Mỹ và đạt được hạnh phúc đời đời.

Khi gọi các môn đệ là “muối cho đời”, là “ánh sáng cho thế gian”, là “cái thành tọa lạc đầu non”, Chúa Giêsu muốn nói họ phải trở nên giống Người, nên những “Chúa Kitô khác”, những con người biết hy sinh quên mình để sống cho người khác và góp phần làm đẹp cuộc sống cho người và cho đời.

Như Chúa Giêsu đã cứu chuộc nhân loại bằng việc sống trung thực với địa vị của Người là Con Thiên Chúa, người môn đệ của Chúa cũng chỉ có thể trở thành men nồng, muối mặn, và ánh sáng của trần gian để góp phần làm đẹp cuộc sống của tha nhân khi họ trung thành sống đúng bản chất và ơn gọi Kitô hữu của mình.

Một khi đánh mất “tính chất Kitô” của mình, nghĩa là không sống xả kỷ vị tha như Chúa Giêsu đã sống, nguời tín hữu sẽ giống như muốn đã đánh mất vị mặn và trở nên vô dụng chỉ đáng vất bỏ. Chúa Giêsu đã cảnh cáo các môn đệ về điều này như sau: “Nếu muối ra dại, thì lấy gì muối nó lại? Không còn ích gì, chỉ có việc đổ ra ngoài cho người ta dẫm đạp đi thôi” (Mt 5:13)

Sự sa đọa đồi bại về luân lý của xã hội Âu Mỹ ngày nay phải chăng là hậu quả tất yếu của việc rất nhiều người mang danh là tín hữu Chúa Kitô nhưng lại sống phản nghịch với các đòi hỏi của Phúc âm và giáo huấn chân thực của Hội thánh?

Chúng ta phải sống thế nào để nên “muối cho đời” và “ánh sáng cho thế gian” như lời Chúa truyền dạy?

Những lời trích sách tiên tri Isaia trong bài đọc thứ nhất của Phụng vụ hôm nay đã vạch ra một cách cụ thể lối sống của những người thực sự đặt niềm tin vào Chúa và phần phước của họ như sau: “Há lại không phải là bẻ bánh với người đói, dẫn trọ nhà kẻ vô gia cư?

Thấy ai mình trần, ngươi cho áo che thân, ngươi sẽ không tránh né một người cũng là cốt nhục của ngươi.

Bấy giờ ánh sáng của ngươi tung tóe như rạng đông, da non thương tích ngươi sẽ mau líp lại, phúc đức của ngươi sẽ cầm đầu đi trước, và binh bọc hậu là vinh quang của Đức Yavê.

Bấy giờ ngươi khẩn cầu và Yavê sẽ đáp lại, ngươi kêu cứu và Người sẽ phán: Này Ta đây!

Nếu ngươi loại khỏi nơi ngươi cùm ách, việc trỏ tay và lời rủa độc, và điều ngươi sở nguyện, ngươi cấp cho kẻ đói, và cho người đói khó no lòng ấm cật, ánh sáng của ngươi sẽ rạng giữa tối tăm, và mù tối của ngươi cũng như chính ngọ”

(Is 58:7-10)

Đó chính là lối sống yêu thương, tha thứ, chia sẻ và phục vụ như đã được gặp thấy nơi cuộc sống của chính Chúa Giêsu.

Và đó là cũng là lối sống mà các thánh – những người môn đệ thập toàn của Chúa Giêsu – đã, đang và sẽ thực hiện trong lịch sử Giáo hội qua mọi thời đại. Thực vậy, người ta đã thấy một Gioan Bosco tận tâm chăm sóc giáo dục giới trẻ bị bỏ rơi; một Damien dấn thân phục vụ những người bị phong hủi tại đảo Molokai; một Maximilian Kolbe thí mạng cho người bạn tù được sống; một Têrêsa Calcutta tìm đến với những người cùng khổ để phục vụ họ, để chia sẻ chính sự cùng khổ của họ. Các ngài là những người đã nỗ lực sống như những hạt muối mặn ướp đời, những luồng ánh sáng soi tỏ và sưởi ấm thế gian theo gương Chúa Giêsu.

Với bản tính tự nhiên vốn ích kỷ hẹp hòi, sợ khổ sợ khó, cũng như với những cảm nghĩ và tính toán theo sự khôn ngoan thế gian, chúng ta thường cảm thấy khó khăn e ngại khi phải sống theo các đòi hỏi của Tin mừng Chúa Kitô.

Vì thế, như lời thánh Phaolô trong bài đọc 2 của Phụng vụ hôm nay, chúng ta cần được củng cố bằng sức mạnh của “Thần khí và quyền phép của Thiên Chúa” và phải quyết định “không muốn biết gì ngoài Đức Kitô Giêsu, và là (Đức Kitô Giêsu) bị đóng đinh Thập giá” (1 Cor 2:5).

Nhờ năng cầu nguyện, gắng hy sinh, chuyên cần suy gẫm Lời Chúa và cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, nhất là biết luôn kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu Thánh Thể là Nguồn Ánh Sáng và Năng Lực của người Kitô hữu, noi gương xả kỷ vị tha của Mẹ Maria và các thánh cũng như trông cậy ở lời chuyển cầu của các ngài, chắc chắn chúng ta sẽ được ướp bằng vị mặn của Chúa Kitô và được sưởi ấm và soi sáng bằng ánh sáng của chính Người. Và nhờ vậy, chính chúng ta sẽ được Chúa Kitô biến đổi để được trở thành “muối cho đời” và “ánh sáng cho thế gian” đúng như ơn gọi Kitô hữu của mình, ơn gọi sống cho người và cho đời như Chúa Kitô đã sống.

 

34.             Ướp mặn đời và toả sáng trần gian

Chúa Giêsu đưa ra hai hình ảnh để định nghĩa cho Đời Sống Tông Đồ, đời sống Kitô-hữu. Là một Kitô-hữu, tôi phải sống thế nào? Chúa Giêsu dạy tôi: “Chính con là muối cho đời, là ánh sáng cho trần gian”.

Muối là một loại vật chất khá cần thiết cho mọi người trong nhiều lãnh vực. Muối bảo quản thức ăn, cũng là gia vị cho thức ăn – thức uống. Muối còn được dùng để trị bệnh: đắp vào chỗ trặc gân, bong gân; muối sát trùng, để giúp tiêu hóa, để lưu giữ và chuyển tải I-ốt, ngăn ngừa bệnh tật… Muối cũng có nhiều công dụng khác nữa, kể cả cho các loài động và thực vật.

Nhờ vào tính chất nào của muối mà nó hữu ích cho cuộc sống chúng ta như vậy? Chắc chắn câu trả lời – ai cũng biết – là vị mặn của muối. Nhưng giả như muối mà không mặn, thì chắc là không còn hữu dụng nữa. Những viên muối không mặn, người ta không đem ướp cá mắm gì được, không sát trùng được, không làm phân được,… và có thể nói: người ta cũng không muốn trải trên đường đi? vì giẫm lên làm đau chân.

Như vậy, bản chất của muối là mặn. Cũng thế, bản chất của người môn đệ Chúa Kitô là rao giảng Tin Mừng, là con cái Thiên Chúa, là giữ gìn cho thế gian khỏi phải hư đi.

“Cá không ăn muối – cá ươn” “Con cãi cha mẹ – trăm đường con hư”

Thế gian không sống Tông Đồ, không sống đời Kitô hữu, thế gian phải chết!

Tôi là một Kitô hữu, vậy tôi phải có “vị mặn Kitô”. Nếu tôi không có “vị mặn Kitô” thì tôi không giúp gì cho thế gian cả. Lạy Chúa, xin Chúa hãy “ướp” con bằng chính cái bản chất Kitô của Chúa, xin cho con luôn được kết hiệp mật thiết với Chúa Kitô trong tư tưởng, lời nói, việc làm – để con thực sự là môn đệ của Chúa, là muối cho đời.

Ánh sáng. Là một loại vật chất mà nhờ nó, người nhận thấy các sự vật xung quanh mình. Ở những nơi tối, người ta càng cần đến ánh sáng và càng nhận thức rằng ánh sáng rất cần cho cuộc sống. Có thể nói: không có ánh sáng – không thể có sự sống. Ngày thứ nhất trong công trình sáng tạo, Thiên Chúa đã dựng nên ánh sáng trước hết.

Khi có ánh sáng, người ta không thể che giấu được vật gì, tốt cũng như xấu. Để diễn tả điều này, Chúa Giêsu nói: “Một thành phố xây dựng trên núi, không tài nào che giấu được”. Một sự kiện lớn khi được ánh sáng chiếu vào, thì không ai là không thấy. Ơn Cứu Độ của Chúa phổ quát, sức sống của Hội Thánh mãnh liệt như vậy, không thể không được mọi người biết đến.

Chúa Giêsu chính là ánh sáng cho muôn dân (Lễ Nến vừa qua, ngày 2.2) đã tác động vào Hội Thánh, làm cho Hội Thánh cũng trở nên ánh sáng cho muôn dân; Chúa nói: “Chính các con là ánh sáng cho trần gian”. Cũng như “hữu xạ tự nhiên hương”, Chúa đã thắp sáng trần gian bằng chiếc đèn Hội Thánh, thì lẽ đương nhiên trần gian nhờ Hội Thánh mà thấy được Ơn Cứu Độ cho mình, nhờ Hội Thánh mà phân biệt tốt xấu, mà nhận biết việc phải làm, nhận biết con đường dẫn tới hạnh phúc viên mãn.

Chúa Giêsu dùng sự kiện thắp đèn để khẳng định điều này: “Không ai thắp đèn rồi lấy thúng úp lại”. Chúa muốn chúng ta, những Kitô hữu hãy sống như con cái sự sáng, hãy tỏa ánh sáng Chúa Kitô, tỏa hương thơm tốt lành là những việc thiện để người đời nhận biết Chúa Kitô, Ánh Sáng của Muôn Dân và Đấng Cứu Độ duy nhất của trần gian.

Cuối cùng, với câu nói định nghĩa của Chúa Giêsu: “Chính anh em là muối cho đời, chính anh em là ánh sáng cho trần gian”, chúng ta đã biết Chúa muốn nói với chúng ta rằng: Hãy dùng đời sống mình mà sinh lợi Nước Trời cho trần gian. Mỗi người chúng ta có một hoàn cảnh sinh sống khác nhau, hãy dùng nó để phục vụ anh em đón nhận Tin Mừng. Xin được mượn lời bài hát “Tâm tình hiến dâng” của cha Oanh Sông Lam để cảm tạ Chúa và quyết tâm sống như người môn đệ Chúa Kitô.

“Biết lấy gì cảm mến, biết lấy chi báo đền, hồng ân Chúa cao vời Chúa đã làm cho con.

Thương con tự ngàn xưa, một tình yêu chan chứa, và chọn con đi làm đuốc sáng chiếu soi trần gian. Cho con say tình mến, và này con xin đến: một đời trung trinh làm muối đất ướp cho mặn đời.

Trao cho con Lời Chúa, dù đời con hoen úa, nguyện đời con đem Lời Chân lý đền cho mọi nơi. Ra đi đầy nguyện ước, và này con gieo bước, nguyện đời con đem nguồn yêu mến đến cho mọi người…”

 

35.             Ánh sáng trần gian

Qua bài đọc thứ nhất, tiên tri Isaia đã xác quyết với dân chúng:

– Việc chay tịnh làm đẹp lòng Thiên Chúa hơn cả hệ tại sự siêu thoát đối với tiền bạc vật chất: cho kẻ đói được ăn, cho kẻ trần trụi được mặc và cho kẻ bơ vơ vất vưởng được có nơi nương tựa.

Tất cả những hành động kể trên là như một thứ ánh sáng bừng lên trong đêm tối, khiến cho đêm tối trở nên chói lọi như ban ngày.

Cũng trong chiều hướng ấy, Chúa Giêsu muốn nhắn gửi cho các môn đệ của Ngài, cũng như cho tất cả những ai muốn bước theo Ngài:

– Các con là muối, các con là ánh sáng trần gian.

Ai trong chúng ta cũng đã biết muối được dùng để ướp thức ăn cho khỏi ươn thối và đem lại một hương vị đậm đà. Thế nhưng, một khi muối đã ra nhạt, nó sẽ chẳng còn được dùng vào việc chi nữa. Lúc đó người ta sẽ vứt nó ra ngoài đường và chà đạp nó dưới chân.

Cũng thế, người Kitô hữu sống giữa lòng cuộc đời phải là như muối mặn, đem lại tình thương, niềm vui mừng và hy vọng cho mọi người, bằng không, họ sẽ chẳng được dùng vào việc gì, mà hơn thế nữa còn tác hại đến những người chung quanh bằng chính gương mù gương xấu của họ.

Người Kitô hữu sống giữa lòng cuộc đời phải là như ánh sáng chiếu trong u tối, soi đường dẫn lối cho người khác tìm gặp Đức Kitô, bằng không đêm đen sẽ bao phủ trái đất này.

Tuy nhiên, một câu hỏi được đặt ra, đó là trong thời buổi hiện nay liệu có còn tìm thấy những Kitô hữu đích thật nữa không? Những Kitô hữu nắm giữ vai trò là muốn mặn ướp cho đời, là ánh sáng chiếu soi trần gian. Một mẫu người như thế, phải chăng chỉ là một giấc mơ, một huyền thoại, một câu chuyện hoang đường cổ tích?

Câu hỏi này đã được Đức thánh cha Phaolô VI trả lời vào ngày thứ tư tuần thánh năm 1971 như sau:

– Trong thời buổi hiện nay, chúng ta vẫn có thể và phải trở nên những Kitô hữu đích thực, những Kitô hữu can đảm, những Kitô tốt lành, những Kitô hữu trung thành, hay nói cách khác, những Kitô hữu thánh thiện. Tôi xin nhắc lại một lần nữa, đó không phải chỉ là một việc có thể, mà còn là một việc tương đối dễ dàng.

Vậy chúng ta sẽ thực hiện lý tưởng ấy như thế nào?

Để thực hiện được lý tưởng ấy, chúng ta cần đến hai nguồn nghị lực trợ giúp.

Nguồn nghị lực thứ nhát đó là ơn Chúa. Thực vậy, nếu biết cậy nhờ vào ơn Chúa, chúng ta sẽ cản thấy việc nên thánh không phải là một gánh nặng vượt ngoài khả năng của chúng ta, như lời Chúa đã phán:

– Ách của Ta thì êm ái và gánh của Ta thì nhẹ nhàng.

Nguồn nghị lực thứ hai đó là ý chí của mỗi người chúng ta. Thực vậy, ý chí của mỗi người chúng ta phải có đủ can đảm và cương quyết. Muốn được như vậy, chúng ta phải có lòng yêu mến, bởi vì lòng yêu mến chất khích thích làm cho tất cả được trở nên dễ dàng.

Hãy nhìn vào đời sống của các thánh và chúng ta sẽ biết được thế nào là một người Kitô hữu đích thật.

Chẳng hạn thánh nữ Catarina luôn sống và thực hiện khẩu hiệu sau đây:

– Làm tất cả để vinh danh Chúa, cứu rỗi các linh hồn, chăm sóc kẻ bất hạnh và đem lại cho Giáo hội sự tự do và niềm vinh hạnh.

Trong giây phút này, mỗi người hãy nhìn vào cuộc sống để xem mình đã thực sự trở thành muối, cũng như đã trở thành ánh sáng của Đức Kitô hay chưa?

 

36.             Ướp đời – Lm Vũ Đình Tường

Muối và lửa có bà con, họ hàng thân thiết với nhau từ trong bếp lên đến nhà và có mặt cạnh mâm cơm. Bữa cơm tối nơi đồng quê thường có ánh đèn dầu dù lu mờ vẫn soi đủ sáng cho bữa ăn thanh đạm. Nơi phố thị đôi khi ánh đèn cầy lấp lánh thay thế ánh đèn điện tạo nên khung cảnh tình tứ, thơ mộng. Muối và lửa ưa sống gần nhau, cả hai cần cho việc bếp núc, hỗ trợ nhau về phương diện thực phẩm. Muối có khả năng cầm giữ cho thực phẩm lâu hư. Lửa cũng có tác dụng không kém.Thực phẩm nấu chín giữ được lâu hơn là để sống. Kết hợp giữa muối và lửa là cách giữ thực phẩm an toàn và lâu nhất. Có loại thực phẩm nấu gần chín trước khi bỏ muối. Lại cũng có loại thực phẩm cần ướp muối cho thấm trước khi nấu. Biết gia giảm hài hoà giữa muối và lửa là tài nghệ riêng của đầu bếp trứ danh. Họ biết khi nào phải bỏ muối, khi nào phải tăng giảm lửa. ‘Cơm sôi bé lửa chẳng khê khắm gì’ là lời khuyên căn bản trong việc bếp núc.

Công dụng của muối

Muối cần thiết cho cơ thể. Thiếu muối cơ thể sinh hoạt bất thường. Quá nhiều muối làm cao máu. Nước biển có muối mặn, vì thế có thể tắm lâu trong nước biển; trong khi tắm lâu trong sông, rạch, hồ, ao, da bị nhăn, gọi là thiu tay chân. Muối và ánh sáng ngoài công dụng cầm giữ thực phẩm lâu hư còn có khả năng khử trùng. Muối làm tăng vị, giúp ăn ngon miệng. Lạt quá mất ngon, mặn quá không thưởng thức được. Ánh sáng cũng tác dụng không kém, nhờ ánh sáng kích thích tâm lí khiến cho tâm hồn thoải mái, khung cảnh hài hoà làm cho thực phẩm thú vị hơn. Xem thế muối lợi về phương diện thể lí; ánh sáng lợi về phương diện tâm lí.

Bản chất của muối là mặn, không mất vị mặn ngay cả khi để trong kho lâu ngày, muối vẫn giữ vị mặn nguyên chất. Cách duy nhất có thể làm nhạt muối khi trộn muối chung với thứ khác như pha trong nước, trong bột hoặc dùng lửa đốt muối cháy thành than. Sức nóng không tiêu huỷ hết chất mặn trong muối mà chỉ làm thay đổi vị mặn của muối. Muối và lửa, tuỳ vào công dụng mà được phân chia thành nhiều loại khác nhau. Phúc âm xác định rõ ràng khi đề cập đến muối và ánh sáng: Chính anh em là muối cho đời…. là ánh sáng cho trần gian.

Muối ướp đời

Đức Kitô nói rõ chính anh em là muối cho đời. Ánh sáng cho trần gian. Ngài không nói là nên như muối hay học từ muối mà nói: chính anh em là muối cho đời. Như thế nhiệm vụ chính của người Kitô hữu là sống mang lại lợi ích cho đời. Cuộc sống chứng nhân cho Chúa giữa trần gian. Sống để làm sáng danh Chúa và mang lại niềm vui, hy vọng cho mình và cho xã hội loài người. Kitô hữu cần mang sức sống an lành vào nơi bất an. Mang tin yêu, hy vọng vào nơi thất vọng. Sống tinh thần Kinh Hoà Bình của thánh Phanxicô. Cho đời lên hương. Nhiệm vụ của Kitô hữu là muối cho mọi người, giúp họ trở thành người tốt bằng cách chính mình sống đời sống tốt, để lời nói, hành động của mình trở thành muối cho đời.

Là ánh sáng chiếu dọi khắp gian trần, không phải chỉ chiếu sáng một vùng trời mà cho cả gian trần. Ý tưởng trên có tham lam quá chăng? Thưa không bởi vì Kitô hữu không làm việc tuỳ hứng, cá nhân, đơn độc nhưng làm việc theo tinh thần chung. Tinh thần Kitô hữu là tinh thần cộng đoàn, tập thể, đại gia đình Chúa. Mọi người là anh chị em, cùng chung một Cha. Tinh thần cùng làm lợi cho nước trời, không phải cho cá nhân mình mà cho Nước Cha trị đến. Cho í Cha được thể hiện dưới đất cũng như trên trời theo tinh thần Kinh Lậy Cha.

Phản ứng

Là ánh sáng chiếu soi gian trần, là muối ướp đời nên cuộc sống người Kitô hữu luôn phấn đấu giữa tích cực và tiêu cực. Xã hội đời có phản ứng tích cực bằng cách chấp nhận chào đón, để cho lối sống của người Kitô hữu ảnh hưởng trên xã hội, thay đổi lối sống xã hội. Phản ứng tiêu cực là chống lại, từ chối hay loại trừ những gì trái với bản chất, khuynh hướng xã hội ưa thích. Đời sống Kitô hữu chắc chắn sẽ gặp đối kháng, phê bình, chỉ trích và ngay cả bị bách hại, tù đầy là điều không thể tránh. Ánh sáng và muối Kitô hữu ướp đời không khéo sẽ bị muối đời, bóng tối xã hội bao phủ, tấn công và lui vào thế mất phẩm chất.

Người Kitô hữu tốt không để cho văn hoá hưởng thụ, văn hoá sự chết, văn hoá khoái lạc, pha trộn làm giảm giá trị hay mất phẩm chất muối đời mình. Muối Kitô hữu mất phẩm chất khi nó tự tin vào khả năng riêng của nó, khi thiếu khiêm nhường, khi một mình xông pha vào cuộc sống mà thiếu sự cộng tác thành tâm, với lòng mến của các Kitô hữu khác. Nhất là thiếu niềm tin vào Thiên Chúa. Lúc đó muối người Kitô bị pha trộn quá nhiều loại văn hoá sự chết, sa đoạ. Ánh sáng Phúc âm không toả sáng giúp đời mà trái lại bị bóng tối gian trần bao phủ, làm giảm hiệu năng. Muối bị hoá chất. Muối bị đời thoái hoá không thể ướp được đời. Loại muối khác là giữ kín trong kho, lợi ích của muối bị giam kín trong bao, bị, ích chi cho đời, ngoại trừ chủ nó cất kĩ làm của hồi môn. Loại ánh sáng bị che phủ làm giảm mức sáng. Phúc Âm giải thích loại muối và ánh sáng trên có cũng như không, khác chi vô dụng.

Ánh sáng

Ánh sáng và bóng tối luôn đố kị nhau. Ánh sáng mạnh sẽ phá tan bóng tối. Bóng tối dầy đặc sẽ ngăn cản ánh sáng. Nhờ bước đi trong ánh sáng mà ánh sáng soi đường đi. Đi trong ánh sáng ít bị vấp té. Nếu bóng tối là dấu chỉ của thất vọng, tuyệt vọng thì ánh sáng trái lại là dấu chỉ của hy vọng, dấu chỉ của sự sống. Bởi vì nơi đâu có hy vọng nơi đó có sự sống, có mầm sống mới.

Hãy đặt trọn niềm tin vào ánh sáng Đức Kitô là ánh sáng không bao giờ tàn lụi, không bóng tối nào che khuất được.

 

37.             Bảo vệ căn tính – Lm Vũ Đình Tường

 

Khi lẩn vào đám đông chúng ta bị mất hút trong đám đông. Càng đông người thì việc nhận diện người thân quen càng khó, ngoại trừ người đó có đặc điểm. Khó nhận bởi vỉ người giống người. Khó nhận bởi tầm nhìn bị hạn chế. Khó nhìn xa vì vật gần bắt mắt.

 

Để tránh bị đám đông thu hút Đức Kitô khuyên chúng ta cần phải bảo vệ căn tính. Một khi bị đám đông thu hút căn tính là bị lạc vào rừng người, rừng tư tưởng. Sức quyến rũ của đám đông thường mạnh hơn sức đối kháng cá nhân nên chiều theo số đông là bị cuốn theo chiều gió. Bị đám đông quyến hút căn tính bị lung lay, trật gốc thế là bị đám đông đồng hoá. Đồng hoá trong lòng đám đông và đồng hoá xảy ra trong cõi lòng mình. Bị đám đông đồng hoá cách suy nghĩ, lối sống thì căn tính Kitô hữu bị thay đổi. Đức Kitô dùng hai hình ảnh quen thuộc giúp ta bảo vệ căn tính Kitô hữu. Muối giúp thực phẩm lâu hư nát. Muối có tác dụng diệt trùng, bảo vệ và thẩm thấu. Đây là những đức tính người Kitô hữu cần có để thanh tẩy và triệt tiêu tư tưởng sai lầm để bảo vệ chính mình và bảo vệ người. Đồng thời giúp tình yêu Chúa thấm nhập vào lòng mình và lòng người. Bởi vì căn tính đó mà tình yêu Kitô hữu đi đến bất cứ đâu cũng luôn gặp hai trường hợp. Sẽ có những người vui mừng hoan hỉ đón nhận tình yêu Đức Kitô; lại cũng có nhóm người chống báng, ra mặt đối nghịch tình yêu Đức Kitô do các sứ giả Tin Mừng mang lại. Họ không chỉ chống lại tình yêu Chúa mà còn chống lại mọi biểu hiệu diễn tả tình yêu Chúa. Vì thế cầm giữ bảo vệ căn tính Kitô hữu và làm cho căn tính đó sống động là điều tối quan trọng trong việc làm nhân chứng Tin Mừng cho muôn dân. Nếu không là chứng nhân đích thực sẽ trở thành chứng nhân giả tạo. Giả tạo bởi vì thay vì là muối ướp đời lại bị muối đời hoà tan mất trong lòng đời. Vì thế chúng ta thấy rất nhiều Kitô hữu có danh mà không có thực chất căn tính, không thể hiện tình yêu Chúa trong cuộc sống, trong cách giao tế hàng ngày. Họ là Kitô hữu biến thể, Kitô hữu lí thuyết còn thực hành tình yêu Chúa thì không, trái lại họ sống theo đường lối trần thế. Nói cách khác chứng nhân bị mất căn tính thì lời chứng thiếu yếu tố tín trung.

 

Một hình ảnh quen thuộc khác là ánh sáng. Thiếu ánh sáng mắt sẽ bị quáng gà nên chúng ta thường nghe ví ‘nhìn gà hoá quốc’. Thực ra việc chủ trương làm trong bóng tối thường có kết quả xấu. Vì thế tội phạm thường mượn bóng tối để thi hành điều ám muội.

 

Ánh sáng soi sáng sự vật làm cho sự vật trở nên tốt lành, sáng láng hơn. Nhìn cầu vồng vắt ngang trời ta thấy bầu trời đẹp hơn. Ánh sáng chiếu trên sóng biển óng ánh giúp tâm hồn trải rộng, thảnh thơi, thoải mái. Ánh sáng chiếu trên giọt sương mai làm cho buổi sáng tươi mát, mang hy vọng một ngày vui. Xem thế ánh sáng không phải chỉ chiếu dọi vẻ đẹp bề ngoài mà còn khơi dậy, làm sống lại cái đẹp trong tâm hồn. Thánh vịnh 36,9 diễn tả ánh sáng Chúa dẫn ta nhận ra sự tốt lành của Thiên Chúa và thánh vịnh 119,105 nhắc đến ánh sáng Chúa soi đường cho con bước đi.

 

Ân sủng Chúa đong đầy lòng ta làm cho tâm hồn vui trong an bình, nội tâm thanh thản và nơi nào có tình yêu Chúa tràn đầy bóng tối sẽ bị đẩy lui, tiêu diệt. Ánh sáng Chúa chiếu dọi tâm hồn các tín hữu và giúp họ cảm nhận tình yêu tuyệt vời trong nước Chúa. Đức Kitô từng tuyên bố không có gì che dấu mãi mà không bị lộ ra ngoài. Chúng ta thường hiểu là điều xấu chúng ta muốn che dấu nhưng không thể dối mình mãi và dối Thiên Chúa. Hơn nữa những điều tốt lành cũng bị che dấu khỏi tầm nhìn của những tâm hồn hững hờ, dửng dưng với tình yêu Chúa. Họ nhìn mà không thấy nhưng tâm hồn công chính, ước ao tìm kiếm sự thật sẽ nhận ra sự tốt lành, trọn hảo của tình yêu Chúa.

Tâm hồn khiêm nhượng vui mừng đón nhận muối và ánh sáng Đức Kitô ban cho sẽ được Ngài ban cho muối công chính ướp đời tươi sáng và ánh sáng Ngài soi đường cho ta bước vì thế sẽ không sợ vấp ngã vì có ánh sáng Chúa soi đường và tình yêu Chúa đồng hành trong cuộc sống. Những tâm hồn đó cầm giữ được căn tính Kitô hữu bởi tình yêu Chúa luôn đồng hành với họ.

 

38.             Muối cho đời và ánh sáng cho trần gian

(Suy niệm của Lm. Munachi E. Ezeogu, CSSP – Thanh Tuyền OP, chuyển ngữ từ http://www.munachi.com)

Tại đất nước chúng ta, chướng ngại nào là lớn nhất cho Kitô giáo? Đây là câu hỏi mà chắc chắn sẽ có rất nhiều câu trả lời khác nhau, tùy vào đối tượng chúng ta hỏi. Câu trả lời có thể là: truyền thông đại chúng, văn hóa toàn cầu, chủ nghĩa vật chất, chính sách nhà nước tồi bại, những tôn giáo khác… Nhân dịp gặp cố lãnh tụ vĩ đại Mahatma Gandi, một nhà truyền giáo đã đặt câu hỏi: “Chướng ngại lớn nhất cho Kitô giáo tại Ấn Độ là gì vậy, thưa ngài?” Nhanh nhẩu và dứt khoát, vị lãnh tụ đáp: “là những Kitô hữu.”

Người ta cho rằng, thế giới ngày hôm nay sẽ là nơi đượm chất Kitô giáo hơn nhiều nếu Kitô giáo không chỉ dành riêng cho các Kitô hữu. Như vậy, tự các Kitô hữu đang tạo nên chướng ngại cho chính tôn giáo mà mình đang theo, vì thế đây là những tín hữu không đúng nghĩa và không biết dấn thân. Dĩ nhiên, họ có mang danh Kitô hữu đó, thế mà qua cung cách nói chuyện hay thái độ hành xử nơi họ, ai ai cũng thấy rõ một điều, rằng họ chẳng có dính dáng gì với con người Đức Kitô cả.

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói với các môn đệ mình: “Anh em là ánh sáng thế gian” (Mt 5,14). Nhưng ở đoạn khác trong Ga 8,12, Chúa Giêsu lại nói về chính mình, “Thầy là ánh sáng thế gian.” Vậy thì, ai là ánh sáng thế gian? Chúa Giêsu hay các môn đệ? Thật là mâu thuẫn! nhưng mâu thuẫn này sẽ được giải đáp trong Ga 9,5, Chúa Giêsu đã tuyên bố nhẹ hơn về chính mình, đó là: ” Bao lâu Thầy còn ở trong thế gian, Thầy là ánh sáng của thế gian.” Câu này cho thấy Chúa Giêsu đang nói về ánh sáng được cụ thể hóa qua thịt và máu Ngài. Bao lâu Ngài còn tồn tại về mặt thể lý trong thế gian, thì bấy lâu Ngài là ánh sáng của thế gian, thế nhưng khi Ngài không hiện hữu về mặt thể lý nữa, thì chính là lúc mà các môn đệ theo Ngài sẽ gánh vác vai trò làm ánh sáng cho thế gian.

Vai trò của Kitô hữu trong thế gian này sẽ được định nghĩa qua hai từ mà Tin Mừng hôm nay đã đề cập: muối và ánh sáng (salt and light). Thế thì ngày hôm nay, hai từ này sẽ mang nghĩa gì? Bạn có biết rằng “đường” (sugar) không bao giờ thấy xuất hiện trong Kinh Thánh không? Vào thời cổ đại, muối chính là gia vị duy nhất quyết định cho thức ăn thêm đậm đà. Không muối, có nghĩa là thức ăn sẽ ra nhạt nhẽo. Chúa Giêsu đã nói muối (hoặc đường nếu bạn muốn) dùng để ướp thức ăn, vì vậy, Kitô hữu cũng phải là tác nhân làm đậm đà thế gian. Kitô hữu hiện diện trong thế gian để làm cho thế gian trở thành chốn thêm dịu ngọt hơn. Vậy thì chúng ta sẽ làm thế nào để cho thế gian này thêm dịu ngọt? Chúng ta sẽ tìm thấy câu giải đáp trong đoạn Tin Mừng tương tự theo Mác-cô: ” Anh em hãy giữ muối trong lòng anh em và sống hoà thuận với nhau.”

Cũng như muối, chúng ta đều được mời gọi trở thành những môn đệ ngọt ngào, thân thiện và tử tế, sống thuận hòa với mọi người. Cũng như ánh sáng, chúng ta được mời gọi để chỉ đường. Không có ánh sáng, chúng ta sẽ đâm vào nhau và té nhào xuống hố. Nhưng ánh sáng sẽ bảo cho biết: “Con đường đi đây này, hãy đi đi; Còn kia là con đường nguy đấy, hãy tránh ra.” Không ánh sáng, không muối, hình dáng thế gian này sẽ rất ghê tởm, nó sẽ trở thành nơi thật nhàm chán và chẳng ai có thể sống được. Thế nhưng, có ánh sáng, có muối, thế gian này sẽ trở thành một nơi an toàn hơn và đẹp hơn. Đây chính là bổn phận của Kitô hữu chúng ta, là làm cho thế giới này trở thành một nơi tốt đẹp hơn.

Nhưng làm bằng cách nào? Cũng như muối và ánh sáng, chúng đã làm bổn phận của mình.

Trước hết, muối phải là chất khác hẳn với thức ăn trước khi nó được mang vào sử dụng. Một khi muối đã mất vị mặn của nó, nó trở nên nhạt, vì thế nó chẳng còn thực hiện sự khác biệt gì nữa. Ánh sáng phải khác biệt với bóng tối thì ánh sáng mới hữu ích. Một đèn pin mà hết pin thì đèn pin ấy cũng là vô ích vì nó chẳng soi gì được cho người đang ở trong bóng tối. Vì thế, trở nên muối và ánh sáng của thế gian nghĩa là phải trở nên khác với thế gian. Một khi người-tin chẳng khác gì với kẻ không-tin, cũng giống như muối đã mất vị mặn nơi chính nó, nên nó cũng chẳng làm nên cái khác biệt nào cả. Vậy, điều để làm chúng ta khác với người không-tin (hay chưa-tin) chẳng phải nơi lời ăn tiếng nói, nơi những huy hiệu, hoặc những đèn pin mà chúng ta đang mang, nhưng chính là cuộc sống mà chúng ta sống. Như Chúa Giêsu nói trong đoạn Ga 13,35, “Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau.” Lòng yêu thương chính là dấu đặc biệt mà qua đó bạn có thể biết được đâu là Kitô hữu thật và đâu là Kitô hữu giả.

Thứ hai, cả muối và ánh sáng đều hoạt động bằng cách kết hợp vào cái mà chúng muốn thay đổi. Muối chẳng thể nào làm đậm đà thức ăn nếu mà nó không thẩm thấu và làm thay đổi tận bên trong thức ăn. Ánh sáng chẳng thể nào chỉ ra con đường đi nếu ánh sáng ấy không tiếp cận với chính đêm tối. Đôi khi một số Kitô hữu nghĩ rằng, con đường mình đi phải là con đường tránh khỏi mọi dính dáng đến xã hội và văn hóa toàn cầu. Nhưng một khi chúng ta xa lánh mọi thực tại của xã hội và thế gian, có nghĩa là chúng ta đang thực sự lấy hũ đậy lên đèn của mình. Để thực hiện sự khác biệt, chúng ta cần đứng lên và dấn thân vào cuộc đời.

Đoạn Tin Mừng hôm nay làm chúng ta hoảng. Vâng! qua đoạn Tin Mừng, cho biết rằng, nếu trong thế giới ngày nay đang còn quá nhiều đêm tối và đắng cay, đó là do những Kitô hữu chúng ta đã thất bại trong công việc của mình, là không trở nên muối và ánh sáng trong thế gian. Nhưng không sao, từ bây giờ, chúng ta có thể quyết định để thực hiện sự khác biệt. Chúng ta có thể quyết định thắp lên một ngọn nến, còn hơn là ngồi mà cứ mãi nguyền rủa bóng đêm. Hãy cứ thắp, cho dù với một cây nến nhỏ bé nhất, vẫn là hữu ích, trong một thế giới đang ngập tràn tăm tối.

 

39.             Muối

Mahatma Gandhi (1869-1948), vị thánh của những người Ấn giáo, đã đấu tranh giành lại độc lập và tự do cho Ấn Độ bằng đường lối ôn hòa bất bạo động, đã nói: “Nếu tôi đã hân hạnh gặp được một người nào là Kitô hữu chân thực, có lẽ tôi đã trở nên một người Kitô hữu ngay lập tức”. Nếu mẹ Têrêsa đã sống vào thời Gandhi, ông đã trông thấy mẹ ở thành phố Calcutta, và có lẽ ông đã trở thành một người Công giáo. Một vị thánh giống như Mẹ Têrêsa là một người có đời sống làm cho người khác phải tin vào Thiên Chúa. Chính mẹ Têrêsa đã sống và đã định nghĩa: “Kitô hữu là người trao ban chính bản thân mình”.

Hôm nay trong bài Phúc âm, vai trò của người Kitô hữu trên trần thế được Chúa Giêsu định nghĩa bởi hai tiếng: Muối và Ánh sáng. “Các con là muối đất cho đời. Nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn lại?… Các con là ánh sáng cho trần gian, một thành xây trên núi không tài nào giấu được”.

Theo William Barclay, khi Chúa Giêsu nói: “Các con là muối cho đời”, Ngài đã sử dụng một lối diễn tả đặc biệt bằng cách ca ngợi sự vĩ đại nhất dành cho một con người. Đó là nhấn mạnh đến sự hữu ích và phẩm giá của một người. Thời xưa muối rất có giá trị. Người Hy Lạp coi muối như thần linh. Trong một câu ngạn ngữ bằng tiếng Latinh, người Lamã đã nói: “Nil utilius sole et sale” – “Không có gì hữu ích hơn là mặt trời và muối”. Trong thời Chúa Giêsu, muối được nối kết với ba đức tính cao quí của con người: sự thanh khiết, bảo trì, và khẩu vị.

Người Lamã nghĩ rằng muối là vật thanh khiết vì nó đến từ sự thanh khiết nhất đó là mặt trời và biển cả. Do đó muối là của lễ đầu tiên được dâng cúng cho các thần, và khi kết thúc một ngày, những lễ vật của người Do Thái được dâng lên với muối. Nếu người Kitô hữu là muối, ắt hẳn phải là một gương mẫu của sự thanh khiết.

Thời cổ xưa, muối là một phương tiện phổ thông nhất để giữ cho đồ ăn khỏi bị hư thối. Plutarch đã dùng một lối diễn tả lạ lùng khi nói rằng thịt là một xác chết. Xác chết đó sẽ thối, nếu để nó y như vậy. Nhưng muối bảo trì và giữ nó tươi. Do đó muối giống như một linh hồn mới được đưa vào trong một thân xác đã chết. Muối giữ cho thịt khỏi bị mục rữa. Nếu người Kitô hữu là muối, ắt hẳn phải có một ảnh hưởng chống lại những điều độc hại giống như vi trùng trong cuộc sống.

Nhưng đặc tính vĩ đại và hiển nhiên nhất của muối là làm cho món ăn đậm đà và ngon miệng. Đồ ăn thiếu muối sẽ trở nên nhạt nhẽo. Giống như muối làm cho lương thực trở nên ngon, người Kitô hữu cũng tạo nên khẩu vị thơm ngon cho cuộc đời.

Thế nhưng điều trái ngược đã xảy ra trong lịch sử. Người ta đã đổ lỗi cho Kitô giáo đã làm mất hương vị của cuộc sống. Ngay sau khi hoàng đế Constantine trở lại đạo và biến Kitô giáo thành tôn giáo của đế quốc Lamã, đến thời hoàng đế Julian lên ngôi, ông lại muốn đưa các thần linh xưa kia trở lại, và phàn nàn rằng: “Các bạn có nhìn kỹ vào những người Kitô hữu này chưa? Con mắt lõm sâu, đôi má tái mét nhợt nhạt, bộ ngực xẹp lép; chúng ủ ê một cuộc sống vô hồn, chẳng ồn ào tham vọng: mặt trời chiếu rọi cho họ, nhưng họ không nhìn thấy; trái đất cống hiến đầy đủ cho họ, nhưng họ chẳng ước muốn gì; tất cả những điều mong muốn của họ là từ bỏ mọi sự và chấp nhận đau khổ cho đến chết”.

Thực ra không phải vì Kitô giáo đã trở nên bi quan yếm thế, làm mất đi sự sinh động của cuộc đời, nhưng bởi hoàng đế Julian quá dính bén với cuộc sống trần thế vật chất này và đã trở nên sa đọa!

Theo các nhà chú giải Thánh Kinh, người Do Thái dùng muối được lấy ra từ hai nguồn cung cấp. Một là từ các bờ biển sản xuất muối có chất lượng cao cho việc nấu nướng đồ ăn, gọi là muối biển. Người đầu bếp chỉ việc ném cục muối to vào nồi đồ ăn, rồi nếm thử, nếu đã vừa miệng thì lấy cục muối ra. Nó có thể được sử dụng vài lần, từ từ sẽ trở nên lạt, và giảm dần sự mặn mà.

Nguồn cung cấp muối thứ hai đến từ Biển Chết – biển mặn nhất trên trái đất. Nhưng muối lấy từ Biển Chết có pha trộn nhiều khoáng chất hỗn hợp khác. Khi phần muối đã tan ra, nó không còn là cục muối nữa, mà chỉ là một cục khoáng chất vô dụng. Sau cùng chỉ ném ra ngoài đường “cho người ta chà đạp dưới chân”.

 

40.             Ánh sáng

Chúa Giêsu dùng một hình ảnh cụ thể khác để nói về vai trò của các môn đệ: “Các con là ánh sáng cho trần gian”. Ở một chỗ khác, Chúa Giêsu nói về chính Ngài rằng: “Ta là ánh sáng thế gian”. Vậy ai là ánh sáng thế gian, Chúa Giêsu hay các môn đệ?

Điều có vẻ mâu thuẫn này được giải quyết khi Chúa Giêsu nói về chính mình như sau: “Bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian”. Bao lâu thân xác Ngài còn đang hiện diện nơi trần thế, chính Ngài là ánh sáng thế gian. Nhưng khi cuộc đời trần thế của Ngài không còn nữa, các môn đệ của Ngài phải đóng vai trò ánh sáng thế gian. Vì họ đã được hấp thụ bởi chính nguồn ánh sáng là Đức Kitô, nên phải phản ảnh lại ánh sáng đó.

Xưa kia, có một người đàn ông mua được một hộp nữ trang mà người bán hàng hứa rằng nó sẽ chiếu sáng lóng lánh trong đêm tối. Đêm đó ông đặt hộp nữ trang trên bàn và bật đèn sáng lên xem. Nhưng quá thất vọng vì hộp nữ trang đã không chiếu tỏa ra ánh sáng trong đêm tối như người bán hàng đã hứa. Tình cờ vợ của ông nghe biết được câu chuyện. Ngày hôm sau, bà đặt hộp nữ trang dưới ánh sáng mặt trời, đến tối nó tỏa ra ánh sáng lung linh rực rỡ. Thấy thế bà vợ mới cắt nghĩa cho chồng như sau: “Anh đã quên làm theo những lời hướng dẫn trong cái hộp này: “Hãy đặt tôi dưới ánh mặt trời ban ngày, và ban đêm tôi sẽ chiếu ánh sáng cho bạn”. Hộp nữ trang đó đã không tỏa ra ánh sáng vì nó đã không hấp thụ được ánh mặt trời ban ngày. Nó phải nhận được ánh sáng thì mới phát ra ánh sáng được.

Trong bài đọc thứ 2, thánh Phaolô chỉ cho chúng ta nơi chốn để lấy được năng lực và sản xuất ánh sáng. Đó là từ thập giá của Đức Kitô. Thánh Phaolô nói rõ ràng là nhiều vị giảng thuyết tài ba đã đến với dân thành Côrintô, kẻ thì dựa trên học vấn lỗi lạc, người thì dựa vào tài hùng biện, ăn nói khéo léo, kẻ khác dựa trên các đức tính cá nhân của họ. Còn ngài, thánh Phaolô đã dựa trên: “Tôi xác định rằng hồi còn ở với anh em, tôi đã không rao giảng điều gì khác ngoài Đức Giêsu Kitô, mà chính Ngài đã chịu đóng đinh vào thập giá”.

Ngày chịu phép rửa tội, mỗi người chúng ta đã đón nhận cây nến được đốt lên từ ánh sáng Chúa Kitô. Qua lời hứa của cha mẹ đỡ đầu, chúng ta chấp nhận phản chiếu ánh sáng Chúa Kitô đó bằng chính đời sống Kitô hữu của mình. Ánh sáng của cây nến là biểu tượng của đức tin trong đời sống Kitô hữu.

Sách Giáo lý Công giáo số 1216 xác định rằng: “Trong phép Rửa tội, người được rửa tội nhận lấy Ngôi Lời là “ánh sáng đích thực soi sáng mọi người”, và “sau khi được soi sáng như thế”, họ trở nên “con của sự sáng” và chính bãn thân họ là “ánh sáng”.

Công đồng Vatican II khuyên như sau: “Người giáo dân có rất nhiều cơ hội làm việc tông đồ: rao giảng Phúc âm và thánh hóa. Chính chứng tá của đời sống Kitô và những việc lành được làm với tinh thần siêu nhiên có sức lôi kéo người ta đến đức tin và đến với Thiên Chúa, vì Chúa phán: “Sự sáng của các con phải soi trước mắt người ta, như vậy để họ xem thấy việc lành các con mà ngợi khen Cha các con ở trên trời”.

Ước gì trong cuộc đời Kitô hữu, chúng ta ý thức được vai trò làm muối và ánh sáng như lời Chúa dạy trong bài Phúc âm hôm nay. Để chu toàn trách nhiệm này, xin Chúa “thắp sáng lên trong con tình yêu của Chúa”. Nếu không có tình yêu và ân sủng của Chúa, chúng ta chẳng là gì cả.

 

41.             Anh em là muối ướp đời

(Trích trong ‘Tin Vui Xuân Lộc’)

 

Kính thưa quý OBACE,

Một vấn đề gây đau đầu cho các nhà quản lý ở Việt nam trong lãnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm, đó là thực phẩm ngày hôm nay được tẩm ướp bằng những hóa chất độc hại gây ung thư cho người tiêu dùng. Nhiều loại thực phẩm trong nước được chế biến vô cùng bẩn, mất vệ sinh, nào là dùng hóa chất để biến thịt thối thành đặc sản, thịt rừng tẩm ướp bằng phân ure, gà vịt chim cút chết biến thành bồ câu và chim sẻ quay. Còn trái cây và các thực phẩm nhập từ biên giới về: nho lê cam táo, chân gà, đuôi bò… đều được ngâm tẩm bằng hóa chất bảo quản, tẩy trắng, để vài tháng không hư. Trong khi đó vì nghèo, vì ham của rẻ ngưởi dân vẫn cứ đổ xô để mua, để bán, các quán nhậu thịt tẩm ướp vẫn đông khách, mặc kệ cho sức khỏe của mình. Không lạ gì ngày nay xuất hiện nhiều thứ bệnh lạ và rất nhiều người ung thư.

 

Trong những Chúa nhật vừa qua, Chúa nói với mỗi chúng ta qua miệng tiên tri Isai: Ta đã đặt người làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ của ta đến tân cùng trái đất, hôm nay Chúa lại dùng một hình ảnh khác để mời gọi chúng ta sống và loan báo Đức Kitô và Tin Mừng của Ngài cho mọi người và dùng đời sống Kitô hữu để làm cho thế giới nên tốt đẹp hơn, đó là hình ảnh muối: Các con là muối cho đời.

 

Muối là một loại gia vị tự nhiên rất tốt và rất cần cho cuộc sống và có nhiều công dụng trong nhiều lãnh vực. Thiếu muối trong cơ thể, sẽ dẫn đến tình trạng co giật và bị choáng váng, ngất xỉu. Trong y khoa, từ rất lâu và cho đến hôm nay, nước muối vẫn là chất sát trùng và rửa đồ ăn, rửa vết thương. Trong cuộc sống, muối dùng để làm cho bữa ăn thêm đậm đà ngon miệng hơn, dù có phải kiêng ăn mặn, nhưng vẫn không thể thiếu muối trong các đồ ăn, đặc biệt để giữ cho thực phẩm khỏi hư thối, cá thịt để được lâu, người ta phải dùng đến muối.

 

Với tính đa dụng và cần thiết của muối trong cuộc sống, mà hôm nay Chúa Giêsu đã mời gọi chúng ta: Chính anh em là muối cho đời. Nhưng muối mà lạt đi thì lấy gì mà ướp cho mặn lại, Nó đã thành vô dụng, chỉ còn quăng ra ngoaì cho người ta chà đạp lên thôi. Như thế Chúa cũng muốn mỗi chúng ta phải có những đặc tính và mang sự hữu dụng của muối đối với thế giới. Là môn đệ của Đức Kitô, trước hết mỗi chúng ta phải để cho vị mặn của Tin Mừng biến chúng ta thành những thứ muối tốt, muối nguyên chất, muối đủ mặn để ướp giữ bản thân mình, không bị biến chất, không bị thoái hóa, và không bị ôi thối giữa trần gian này. Một khi mang trong mình sự mặn mà yêu thương của Tin Mừng, chúng ta sẽ trở thành người gìn giữ và bảo vệ thế giới này khỏi sự tấn công của các thứ vi trùng vi khuẩn nguy hiểm đó là tội lỗi, là sự ích kỷ và chết chóc.

 

Là muối cho đời, người Kitô hữu được mời gọi làm cho cuộc sống lạt lẽo tại trần gian này thêm đậm đà yêu thương, thêm hương vị cho đời, để mọi người có thể nhờ sự cống hiến của chúng ta, cuộc sống của họ thêm tốt đẹp hơn, nhờ sự phục vụ vô vị lợi của chúng ta, cuộc sống xã hội thêm hạnh phúc hơn, và nhờ đời sống khiêm nhường và bác ái, quảng đại và thứ tha, cuộc sống của các gia đình sẽ gắn bó với nhau hơn. Nhất là thế giới và con người ngày nay đang bị hủy hoại từ trong tâm hồn bời những tư tưởng trào lưu sai lạc, những phim ảnh xấu, đến sự hủy hoại bên ngoài qua những lối sống buông thả, tự do thác loạn, lối sống cạnh tranh ích kỷ, lối sống duy lợi nhuận… nó đang làm cho con người giảm bớt “phần người” và gia tăng “phần con” và quên phẩm giá của mình là con Thiên Chúa, cao quý hơn mọi loài mọi vật. Vì thế người tín hữu sẽ phải là muối, phải đem vị mặn của Tin Mừng để gìn giữ thế giới này khỏi bị sự phân hủy bới những lối sống đó.

 

Chúng ta sẽ phải sống và làm thế nào để có thể là thứ muối tốt của Tin Mừng? Thánh Phaolô đã chia sẻ kinh nghiệm đem vị mặn Kitô cho thế giới và ngài căn dặn chúng ta: Khi tôi đến với anh em, tôi không dùng lời lẽ hùng hồn hoặc triết lý cao siêu mà loan báo Thiên Chúa…ở giữa anh em, tôi đã không muốn biết (và không nói điều gì khác) ngoài Đức Giêsu chịu đóng đinh. Như thế trong nhiệm vụ làm muối cho đời, chúng ta cũng không thể cậy dựa vào sự tài khéo của bản thân hay tài hùng biện cá nhân, nhưng phải dựa vào Thánh Thần và quyền năng của Thiên Chúa và để cho quyền năng của Thiên Chúa thực hiện nơi những người nghe. Điều đó có nghĩa là chúng ta đem vị mặn là chính Đức Kitô và Tin Mừng của Ngài để Ngài biến đổi và ướp mặn thế giới, chứ chúng ta không ướp thế giới bằng khả năng hay bằng tài khéo của bản thân mình.

 

Muối đã ra lạt túc là đánh mất bản chất mặn của mình, thì nó thành vô dụng, cũng vậy, người Kitô hữu mà không còn Chúa Kitô, không có Tin Mừng của Ngài trong cuộc đời thì cũng cũng chỉ là những thứ vô dụng, biến chất, chỉ đáng đổ ra ngoài đường cho người khác chà đạp lên mà thôi. Với lời cảnh báo: muối mà không còn vị mặn nữa thì nó thành vô dụng, là lời nhắc cho chúng ta rà soát và đánh giá lại bản thân mình xem trong cuộc sống là người Kitô hữu, trong mọi lãnh vực của cuộc sống xả hội, độ mặn của Tin Mừng trong chúng ta còn bào nhiêu phần trăm? Chúng ta đang là muối ướp cho đời khỏi hư thối, hay mình đã để cho đời ướp lại chúng ta và làm mất vị mặn Kitô trong chúng ta?

 

Với vai trò là muối, các Ktô hữu sẽ phải là những người chung tay góp sức làm cho Tin Mừng thấm nhập vào trong xã hội và thế giới, trong mọi lãnh vực của cuộc sống, bất cứ nơi nào người tín hữu hiện diện, nơi đó vị mặn của Tin Mừng phải được lan tỏa. Là muối cho đời, chúng ta sẽ phải là những người không chỉ nhắm tới nước trời mai sau, mà còn phải làm cho Nưới Trời hiện diện và biến đổi thế gian này, làm cho chính Chúa Giêsu Kitô được hiện diện trong xã hội và trong tâm hồn của mọi người. Là Kitô hữu, chúng ta không thể giữ riêng Chúa cho mình, mà chúng ta còn phải cảm thấy bị thôi thúc, và thao thức ướp thế giới này bằng giới răn lề luật của Chúa, bằng Tin Mừng yêu thương của Chúa.

 

Trong thế giới đã có những người từng mơ “bao phủ thế giới này bằng một màu đỏ” hoặc sẽ “quét cà thế giới này bằng một màu sơn”. Tại sao người Kitô hữu lại không dám mơ và cố gắng bao phủ thế giới này bằng Tin Mừng của Đức Kitô?

 

Chúng ta không dám mơ bao phủ thế giới bằng Tin Mừng, vì phải chăng chúng ta không còn đủ mặn, không còn Tin Mừng của Đức Kitô trong cuộc sống, chúng ta đang bị biến chất, bị nhạt nhòa, bị “đời hóa”. Mang danh là Kitô hữu nhưng nhiều người lại không biết gì nhiều về Đức Giêsu, không thể nói về Tin Mừng của Ngài cho người khác, và vì thế nhiều Kitô hữu bị xô đây, bị hòa tan trong dòng chảy của xã hội, trong các nhóm, các phòng trào tôn giáo khác. Khi gặp những vấn đề trong cuộc sống hoặc khi đối diện với những lý thuyết và tranh luận của xã hội cũng như của các giáo phái, vì không học Tin Mừng, không biết giáo lý, nhiều người đã không thể nói chuyện được với họ, và đành xuôi tay, chấp nhận theo họ.

 

Các bậc cha mẹ, và các bạn trẻ hãy dùng tình yêu thương trong sáng và tinh thần phục vụ để ướp cho gia đình, cho cuộc đời mình thêm mặn mà, khỏi hư thối bất hạnh đổ vỡ. Nhất là hãy làm cho gia đình, cho cuộc sống của mình luôn có vị mặn của Tin Mừng, hãy đem Chúa Giêsu vào trong mọi sinh hoạt của gia đình, của bạn bè, từ việc làm ăn sinh sống đến những bữa cơm gia đình, đến giờ kinh sánh tối và kể cả những việc riêng tư của mỗi thành viên, hãy mang Chúa theo cùng. Đừng bao giờ ướp gia đình mình và con cái, bạn bè bằng những thứ hóa chất độc hại, đó là chất lười biếng, chất ích kỷ. Đừng bào giờ mang về cho gia đình mình những thứ nhiễm hóa chất độc hại là sự nóng nảy cãi vã, phim ảnh sách báo xấu, sự thù hằn bạo lực, những của làm ăn gian dối mà có… nó là những hóa chất gây ung thư trong tâm hồn các thành viên gia đình.

 

Xin Chúa giúp chúng ta biết giữ cho cuộc đời mình luôn có vị mặn bằng gắn bó với Chúa, bằng siêng năng học hỏi giáo lý và Tin Mừng, để chúng ta có thể trờ nên muối tốt cho gia đình, xã hội và thế giới hôm nay. Amen.

 

42.             Suy niệm của Lm Gioan M. Cao Vũ Nghi.

Toyohiko Kagawa từ tuổi ấu thơ đã mồ côi cha mẹ. Gia đình một người họ hàng đã nhận bé về nuôi, nhưng đã bị họ đối xử cách tàn tệ. Dầu vậy, Kagawa vẫn nhẫn nhục chịu đựng và đã trở nên một người thành công trong xã hội. Nhưng rồi đau thương một lần nữa lại đến viếng thăm: Ông Kagawa đã mắc phải bệnh phổi, và chỉ còn chờ chết. Một hôm, ông thấy một luồng sáng bao bọc ông và ông cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa. Liền sau đó, ông đã được chữa lành, không những về phần xác, mà tâm hồn ông cũng được biến đổi. Từ ngày đó, ông đã hiến thân phục vụ những người bần cùng nghèo khó nhất trong xã hội. Ông đã hoàn toàn quên mình phục vụ những con người xấu số này: an ủi, thông cảm, lắng nghe họ; cung cấp đồ ăn áo mặc cho họ. Một thời gian sau, ông bị nhiễm trùng mắt, và vì đó đã bị mù một mắt, nhưng ông vẫn tiếp tục phục vụ cho tới ngày ông từ biệt cõi đời.

Toyohiko Kagawa đã được lãnh nhận ơn Chúa, và ông đã cảm thấy bị thúc bách phải đáp trả bằng cách phục vụ anh chị em đồng loại của mình. Qua tấm gương phục vụ của ông, nhiều người đã tìm được ánh sáng cứu độ và nhận ra tình thương của Thiên Chúa. Toyohiko Kagawa đã là một ngọn đèn sáng Chúa Giêsu nói đến trong bài Phúc Âm hôm nay.

Hai ngàn năm trước đây, Ngôi Hai Thiên Chúa đã nhập thể làm người, và Ngài là đã là ngọn đèn chiếu giải ánh sáng cứu độ cho những người sống trong tội lỗi, ánh sáng bình an hy vọng cho những người bệnh tật và những người bị xã hội ruồng bỏ, và ánh sáng đức tin cho những người chưa nhận biết Thiên Chúa chân thật. Để ánh sáng cứu độ, bình an và hy vọng của Chúa được tiếp tục chiếu sáng và lan rộng mãi trong trần gian, Chúa đã mời gọi những người đã được ơn Chúa thánh hóa tiếp tay với Chúa. Với các môn đệ, Chúa đã sai họ đi rao giảng tin mừng, chữa lành những người bệnh tật, và giải thoát những người bị quỉ ám (xem Matthêu 10:8); với người Chúa mới chữa khỏi quỉ ám, Chúa dạy”Con hãy về nhà với thân quyến, và loan truyền cho họ biết những gì Thiên Chúa đã làm cho con và đã thương con” (Marcô 5:19); hay ít nữa là như người đàn bà ngoại tình, Chúa đã khuyên bà: “Hãy đi và từ nay đừng phạm tội nữa” (Gioan 8:11). Nhưng cả khi Chúa chưa mời gọi, cũng có người khi được chữa lành, đã cảm thấy bị thúc bách để cao rao danh Chúa, như người được chữa khỏi bệnh cùi (xem Lk 17:15)

Ngày nay, tùy hoàn cảnh và tùy bậc sống của mỗi người, Chúa còn tiếp tục kêu mời mọi Kitô hữu, những người đã được cứu độ nhờ nước Rửa tội, được nuôi dưỡng bằng Mình và Máu Thánh Chúa, và được chữa lành nhờ phép Giải Tội và Xức Dầu, hãy là ánh sáng cho trần gian. Có thể chúng ta được Chúa mời gọi theo gương các vị tử đạo để làm chứng cho Đức Tin trong những nơi Kitô giáo còn đang bị bắt bớ, có thể chúng ta được kêu gọi để như ông Kagawa làm rạng sáng đức Bác Ái Kitô giáo cho thế giới, hay có thể được kêu gọi để đem ánh sáng bình an hy vọng cho những tâm hồn cô đơn trong những viện dưỡng lão, hay những tâm hồn sầu khổ và bệnh tật trong các bệnh viện, và cũng có thể chúng ta được mời gọi để nói về tình thương của Chúa cho những người đang bị đè nặng bởi những khổ đau trong cuộc đời. Lẽ dĩ nhiên, để đáp lại lời mời gọi của Chúa, đòi chúng ta phải có sự cố gắng và phải chấp nhận những khó khăn. Chúng ta có thể như ngọn đèn ẩn náu dưới đáy thùng, sống an phận cho xong kiếp làm người, nhưng vì là những người đã được lãnh nhận, chúng ta có bổn phận để chia sẻ hồng ân Chúa cho anh chị em của chúng ta.

Ước chi mỗi người chúng ta hãy quảng đại đáp lại lời mời gọi của Chúa, để cùng nhau chúng ta hãy là ngọn đèn dập tắt bóng tối của hận thù, ghen ghét, và bất công trong thế giới, và thay vào đó là ánh sáng bình an và hy vọng của Chúa Kitô.

 

43.             Suy niệm của Nhóm Đồng Hành

Chi Tiết Hay

Muối khi dùng để ướp thực phẩm sẽ giúp cho khỏi bị ung thối, làm tăng thêm hương vị, và tẩy sạch mùi hôi.

 

Muối cũng được dùng để đốt lửa cho hiệu quả hơn. Thời đó muối còn dùng để giúp cho sự đốt cháy. Ở vài nơi trên thế giới, các thiếu nữ trộn muối vào phân lừa và phân lạc đà và đóng thành từng bánh tròn, phơi khô và dùng để đun lò. Người ta đun lò đất bằng cách chất những bánh phân khô trên một lớp muối. Khi đốt lò, muối sẽ giúp đốt cháy những bánh phân. Khi muối mất vị mặn sẽ không còn giúp đốt cháy nữa và sẽ bị đổ đi. Chúa Giêsu đùng “lò đất” hoặc “đất” để khi mô tả lò đất. Hình ảnh của muối đùng để đốt cháy liên kết với hình ảnh của lửa chiếu sáng thế gian.

 

Cây đèn trên giá hoặc thành xây trên đồi ám chỉ Jerusalem (và dân cư ngụ trong thành) ở trên núi Sion. Jerusalem được coi là “ngọn đèn của thế gian” (Is 2:2-5, 42:6, 49:6).

 

Nhiều nhà ở Palestine chỉ có một phòng, cho nên một ngọn đèn có thể làm sáng cả nhà.

 

Chúa Giêsu nói với tất cả mọi người khi Ngài dùng những chữ như “đời”, “trần gian”, hoặc “mọi người trong nhà.”

 

Một Điểm Chính

Chúa Giêsu dùng hình ảnh muối và ánh sáng để dạy người Kitô hữu về vai trò của họ giữa thế gian, tức là làm cho những điều tốt lành nhất được xảy đến trong thế gian. Đoạn phúc âm này được ghi chép lại trong thời kỳ các môn đệ đang bị bắt bớ. Tuy nhiên, các ngài vẫn một lòng theo chân Chúa Giêsu mà tham gia vào công cuộc cứu rỗi nhân loại.

 

Suy Niệm

Những biến cố nào trong đời sống đã cho tôi thấy rằng tôi là muối, là ánh sáng cho thế gian?

 

Muối và lửa tự nó không có gì đặc sắc cả. Tuy nhiên, khi dùng chung với các thứ khác sẽ làm nổi bật hương vị cũng như đặc tính của các thứ đó. Tôi có những hiệu năng gì như muối và lửa?

 

Khi làm việc tông đồ, tôi làm để “sáng danh Thiên Chúa” hay để “sáng danh tôi”?

 

Nếu người ta nhìn vào tôi như ngọn đèn đặt trên giá hay thành xây trên đồi thì tôi phải làm gì để đáp ứng nhu cầu?

 

44.             Suy niệm của Lm Giuse Vũ Thái Hòa

Tất cả chúng ta đều đã có lần nếm một món ăn nhạt nhẽo. Nhưng chỉ cần thêm vài hạt muối, món ăn trở nên đậm đà và dễ ăn. Người Việt chúng ta thường dùng nước mắm để nêm các món ăn. Tuy thế vẫn phải thêm muối, món ăn mới thêm hương vị và mặn mà! Vào thời Chúa Giêsu, muối tượng trưng cho tính hiếu khách. Khách đến nhà thường được tặng bánh mì và muối, biểu hiệu sự tiếp đón nồng hậu.

“Muối đất”: ngày xưa, khi khám phá ra phân bón, người ta dùng muối để làm đất trồng thêm phì phiêu. Khi chưa có tủ lạnh, muối còn được dùng để ướp cá, thịt và đồ ăn để giữ được lâu.

Một hình ảnh rất quen thuộc với người Việt Nam chúng ta, đó là đèn dầu. Một căn nhà có đèn sáng báo rằng nhà có người ở, có sự sống. Một người đi lạc trong đêm tối hẳn sẽ rất sung sướng khi thấy có ánh đèn. Ánh đèn này đem lại niềm vui và thu hút mọi người.

Chúa Giêsu sai các môn đệ đến trong thế gian như người ta nêm muối vào thức ăn để thêm hương vị và giữ được lâu. “Các con là sự sáng thế gian”. Đây không phải là lời xác nhận sự ưu thế của các môn đệ, nhưng là một công tác truyền giáo: qua đời sống của mình, qua lời nói và hành động, người Kitô hữu được mời gọi làm ánh sáng hy vọng cho những ai đang lần mò trong bóng tối tuyệt vọng, dẫn dắt họ đến với Chúa là Cha của họ và là Cha chung của mọi người. Trong bóng đêm mịt mùng, một ánh lửa nhỏ cũng có thể được nhìn thấy từ xa.

Chúng ta nhận xét thấy Chúa Giêsu không nói: các con hãy cố gắng làm muối đất và trở nên ánh sáng cho thế gian. Nhưng Ngài nói: các con là muối và là ánh sáng bởi vì các con là môn để của ta, vì các con đã lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy.

“Các con là sự sáng thế gian”. Sự sáng này không phải do chúng ta tạo nên, nhưng phát xuất từ Chúa Kitô: “Ta là sự sáng thế gian” (Ga 8:12). Ngài muốn chúng ta như tấm gương phản chiếu ánh sáng của Ngài cho mọi người và cho mọi nơi. Do đó ánh sáng được chiếu tỏa không phải cho chúng ta được vinh danh, nhưng cho vinh quang của Chúa: “Sự sáng của các con phải chiếu giãi ra trước mặt thiên hạ, để họ xem thấy những việc lành của các con mà ngợi khen Cha các con trên trời”.

Muối đất, sự sáng thế gian: hai hình ảnh nhưng cùng diễn tả một lời mời gọi. Tiên tri Isaia, trong bài đọc 1, đưa ra những phương cách để giữ muối khỏi “lạt” và ngọn đèn luôn chiếu sáng: đó là sống bác ái: chia cơm sẻ bánh cho người nghèo đói, tiếp đón những kẻ bất hạnh vô gia cư, cho quần áo những người không đủ mặc… Khi ấy, “ánh sáng của ngươi sẽ bừng lên trong bóng tối và bóng tối sẽ trở thành như giữa ban ngày”.

Có lẽ nhiều người sẽ tự nhủ: làm sao mình có khả năng và xứng đáng làm muối đất và sự sáng cho mọi người? Nắm muối gồm những hạt muối nhỏ dồn lại: đèn sáng được nhờ những giọt dầu góp lại. Những hạt muối nhỏ đó, những giọt dầu đó là những việc nho nhỏ mà chúng ta thực hiện trong đời sống hằng ngày: những nụ cười, lời nói nhã nhặn, lịch thiệp, những cử chỉ bác ái, khiêm nhường, kiên nhẫn, biết lắng nghe, tha thứ, biết nghĩ đến người khác v…v…

Bài Phúc âm hôm nay nhấn mạnh đến chứng từ của tất cả chúng ta. Nếu chúng ta thương yêu nhau như Chúa đã yêu thương chúng ta, có lẽ chúng ta không cần giảng đạo nhiều, vì chính đời sống, việc làm, việc bác ái của chúng ta sẽ mang lại hương vị cuộc đời cho mọi người và chiếu tỏa trong bóng đêm như ánh sáng ban ngày, giúp đỡ họ, đồng hành với hot đến với Chúa là “nguồn ánh sáng và ơn cứu độ” (Tv 26:1)

 

45.             Nhiệm vụ của người môn đệ

(Chú giải của Lm. FX. Vũ Phan Long)

1.- Ngữ cảnh

Bản văn đọc hôm nay nằm trong Bài Giảng trên núi (ch. 5–7) và nói đến sứ mạng của người môn đệ “trong thế gian”. Bản văn được trực tiếp kết nối với các “Mối Phúc” (5,3-12). Các câu 11-12 nói về bách hại chỉ là những câu nhắc lại c. 10 và chuyển tiếp. Nhưng cụm từ “phúc thay anh em” cho phép ta móc với từ “anh em” ở c. 13. Những người nhận bản văn này không phải là mộthạng tín hữu đặc biệt, nhưng là các môn đệ đã được nói đến ở đầu chương (5,1) và được ngỏ lời trực tiếp ở cc. 11-12. Cộng đoàn Kitô hữu được nhắc nhớ đến bổn phận truyền giáo.

2.- Bố cục

Bản văn có thể chia làm hai phần:

1) Môn đệ Đức Giêsu là “muối cho đời” (5,13);

2) Môn đệ Đức Giêsu là “ánh sáng cho trần gian” (5,14-16).

3.- Vài điểm chú giải

– anh em là (13): Đức Giêsu nói trực tiếp với các môn đệ Người, để xác định sứ mạng của họ. Đây không phải là mộtgợi ý về mộtchiều hướng nên theo, nhưng là một khẳng định về tư cách, ơn gọi. Cũng có thể thấy cụm từ này có liên với Xh 19,6 (“Còn các ngươi, các ngươi sẽ là mộtvương quốc tư tế cho Ta và mộtdân tộc thánh”). Như Đức Chúa (Yhwh) đã chọn dân Ngài giữa các dân nước và xác định tư cách của họ, Đức Giêsu cũng đã chọn các môn đệ trong loài người và bây giờ xác định sứ mạng cho họ.

muối cho đời… ánh sáng cho trần gian (13.14): dịch sát là “muối của đất (gê)” và “ánh sáng của thế gian/ trần gian (kosmos)”. Vì “đất” được dùng song song với “trần gian”, nó không có nghĩa là đất bùn, đất bột, đất thịt, nhưng là “trái đất”, tương tự với “trần gian”, “thế gian”. Cả hai từ “đất” và “trần gian” ở đây đều có nghĩa là “toàn thể nhân loại”, tức có mộttầm mức phổ quát.

để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm (16): Dường như câu này mâu thuẫn với Mt 6,1-18 (nhất là với cc.1-2.5.16)? Thật ra, các bản văn nêu ra hai lý do khác nhau: ở đây lý do là vinh quang của Cha trên trời; trong 6,1-18, lý do là việc chúc tụng ngợi khen cá nhân mà đương sự đi tìm để thỏa mãn tính khoe khoang của mình (x. 6,2-5). Hai bản văn cũng nói đến hai cách thức xử sự khác nhau: ở đây, người môn đệ chỉ đơn giản tỏ mình ra là môn đệ của Đức Kitô, là Kitô hữu; còn ở 6,1-18, Đức Giêsu kết án sự khoe khoang người ta tỏ ra để lôi kéo sự chú ý của người khác.

4.- Ý nghĩa của bản văn

Mối Phúc cuối cùng liên hệ đến những người bị bách hại vì sống công chính (5,10). Chính Mối Phúc này được Đức Giêsu lấy lại mà ngỏ trực tiếp với các môn đệ, là những người đang ở ngay bên Người, và với đám đông đang nghe Người (5,1): “Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa” (5,11). Đức Giêsu đã loan báo cho các môn đệ biết ngay từ đầu phản ứng tiêu cực của môi trường, nếu họ sống trung thành với Người, nếu họ tìm sự công chính và quy hướng lối sống của họ theo chương trình của Người. Họ phải trả lời thế nào? Ai cũng coi trọng việc mình được chấp nhận và nhìn nhận. Phải chăng các môn đệ phải thích nghi với môi trường của họ, để được môi trường chấp nhận? Phải chăng họ phải giới hạn quan hệ với mộtvòng những người có cùng những ý tưởng như nhau, để khỏi gây mâu thuẫn? Cho họ cũng như cho tất cả các Kitô hữu, hôm nay còn đang thường xuyên bị cám dỗ từ chối chân tính của mình và tìm thích nghi, hoặc bị cám dỗ rút lui vào đàng sau cánh cửa, Đức Giêsu giao cho nhiệm vụ làm muối cho đời và ánh sáng cho trần gian. Nhờ đó, cho dù họ có bị sỉ nhục (5,11), họ vẫn đưa được người ta đến chỗ tôn vinh Chúa Cha trên trời (5,16).

* Môn đệ Đức Giêsu là “muối cho đời” (13)

Khi khẳng định rằng các môn đệ là “muối cho đời”, Đức Giêsu cho hiểu các môn đệ có sứ mạng truyền giáo. Do ơn gọi, họ phải đóng mộtchức năng đối với những người khác tương tự muối đối với các thức ăn (giữ cho khỏi hư thối, làm cho thêm hương vị). Không có muối, thức ăn bị hư thối; không có người Kitô hữu, xã hội thiếu mất mộtsức mạnh thiêng liêng và luân lý có khả năng gìn giữ xã hội khỏi những sự dữ đang muốn xâm nhập vào. Do đó, sự hiện diện của người Kitô hữu không phải là không đáng kể hoặc có hay không cũng vậy. Giống như muối, sự hiện diện của Kitô hữu không thể thay thế. Không ai có thể đứng vào vị trí của họ nếu họ bị suy yếu đi. Tác giả lưu ý và răn đe các Kitô hữu coi chừng kẻo mình trở nên nhạt nhẽo đi. Họ cũng sẽ như muối, khi đã nhạt thì chỉ còn đáng loại bỏ (x. 5,22.29).

* Môn đệ Đức Giêsu là “ánh sáng cho trần gian” (14-16)

Hình ảnh ánh sáng (cc. 14-15) là hình ảnh của Kinh Thánh (x. Xh 3,2; Is 60,19; Is 42,6). Tác giả Gioan gán cho Đức Giêsu chức năng mà ở đây Mt gán cho các môn đệ. Bóng tối, đêm tối, trong Cựu Ước cũng như Tân Ước, là biểu tượng của các thế lực sự ác (x. Mt 8,12; Lc 22,53). Môn đệ Đức Kitô được thông dự vào sự sáng của Thiên Chúa, như Môsê khi xuống núi có mang trên mặt phản ánh vẻ uy hùng của Thiên Chúa (Xh 34,35). Không thể có chuyện Kitô hữu đi qua mà không ai biết; không ai có thể dửng dưng trước ánh huy hoàng thiêng liêng mà Kitô hữu đang tỏa ra. Giống như ánh sáng, Kitô hữu đi vào những nơi sâu thẳm nhất và kín ẩn nhất của trái tim con người và đưa ra ánh sáng những lỗ hổng mà ta gặp trong đó.

Lời khẳng định được minh giải bằng hai hình ảnh (c. 15). “Thành xây trên núi” có thể gợi ý đến Giêrusalem thiên sai, là điểm thu hút tất cả các dân tộc (x. Is 2,2-5; 60,1-2.19-20). Các Kitô hữu tháp vào trong thế gian như mộtnguồn ánh sáng từ đó mọi người có thể nhận được sự nâng đỡ và định hướng. “Thành xây trên núi” nêu bật tính khả thị (thấy được), điểm quy chiếu là chính tư cách của Họi Thánh Đức Kitô cho tất cả mọi người. Hình ảnh này được nhắc lại bằng hình ảnh cái đèn đặt trên đế. Căn phòng trong đó gia đình và bạn bè quy tụ lại trở nên sinh động nhờ ánh sáng của đèn. Hai hình ảnh này cũng có thể được áp dụng cho từng người môn đệ. Do ơn gọi, người môn đệ phải thông chia ánh sáng cho người khác. Họ không được thiếu ánh sáng, và càng không được thiếu trách nhiệm vì không tạo được mộtảnh hưởng tốt nào trong cộng đoàn. Ánh sáng đây không phải là ánh sáng của các lời nói, cũng chẳng phải là ánh sáng của chân lý lý thuyết, nhưng là ánh sáng của “các việc tốt”, như Đức Giêsu đã đề cập đến (4,23-25) và đã làm (5,3-11) và sẽ còn nhắc đến (7,23; 25,31-46) trong các diễn từ của Người.

Khi đó người ta nhận ra rằng những ân huệ người môn đệ đang có phát xuất từ Thiên Chúa; họ sẽ chúc tụng ngợi khen Ngài. Điều này không có nghĩa là Thiên Chúa đòi hỏi con người hành động để tán dương Ngài, khi mà ta thấy là hoạt động cứu độ của Đức Kitô chứng tỏ rằng mọi sự là nhắm mưu ích cho những con cái Thiên Chúa “tuyển chọn” (x. Mt 5,44-48).

+ Kết luận

Từ bản chất của nhiệm vụ được ký thác cho họ, các môn đệ phải là như ánh sáng và muối cho người khác. Bởi vì nhiệm vụ của họ là thúc bách và lôi cuốn, họ phải ở trước mặt người ta, chứ không tránh né. Bởi vì bổn phận của họ là đưa đến mộtcái hoàn toàn mới, họ phải duy trì chân tính của họ, chứ không được tự đồng hóa với môi trường của họ. Chính các “việc tốt” giúp cho môn đệ sống đúng tư cách muối và ánh sáng.

Đời sống của các môn đệ đi theo các huấn thị của Đức Giêsu được coi như là mộtnhiệm vụ lớn. Không ai có thể thay thế họ được; họ phải chịu trách nhiệm về sự kiện trần gian nhận được hương vị và trở thành chan hòa ánh sáng. Xuyên qua đời sống họ, họ phải bày tỏ cách thức hiện hữu của Thiên Chúa, họ phải truyền thông niềm vui của các đứa con với Chúa Cha và chinh phục loài người về cho gia đình Ngài.

5.- Gợi ý suy niệm

  1. Muối tăng thêm hương vị; muối thấm vào thực phẩm để giữ cho khỏi hư thối. Muối hòa tan ra, và được phân phối trong tất cả khối lương thực. Muối có mặt khắp nơi trong khối lượng thực, nhưng muối vẫn là muối, thì mới giữ được giá trị và tính hữu hiệu của mình. Giống như muối, các môn đệ Đức Giêsu phải hiện diện trong môi trường và liên kết với môi trường. Nhưng họ phải cứ là muối, phải bảo toàn được cách cách thức sống của Cha họ (5,48). Muối không phải là mộtviên ngọc, mộtnén bạc phải được cất giữ hoặc đưa ra mà làm cho sinh lãi, nhưng là mộtchất gia vị. Nó sinh tác dụng khi nó chấp nhận “tự hủy” đi, hòa tan vào thực phẩm. Kitô hữu là muối cho đời, bởi vì người ấy không được kêu gọi đi vào mộtcuộc sống tách biệt, xa rời những người khác, nhưng bởi vì người ấy biết tan biến mình đi trong đại gia đình nhân loại để hỗ trợ bất cứ ai cần. Hình ảnh muối chống lại mọi thứ tinh thần phân lập (separatism) kiểu Pharisêu và gợi đến dụ ngôn men vui trong bột (13,23). Kitô hữu không những là người của những người khác, mà còn được gọi sống với những người khác, theo chiều hướng của Đức Kitô (bạn của người tội lỗi và thu thuế: 11,19).
  2. Hình ảnh của ánh sáng đi song song với hình ảnh muối, vì ánh sáng cũng ảnh hưởng trên cuộc sống của con người. Không có ánh sáng, thì không thể có sự sống; mọi sự chìm vào trong bóng tối và trở nên hỗn độn (x. St 1,1). Như thế, trách nhiệm của người Kitô hữu là không thể lường được. Nếu sự dữ không lui đi, là vì ánh sáng phải đánh đuổi sự dữ đi lại quá yếu hoặc tệ hại hơn nữa, lại tắt mất rồi!
  3. Các môn đệ của Đức Giêsu phải đói khát sự công chính, đói khát lối xử sự công chính (5,6), và đó là mối quan tâm đầu tiên của họ. Cách xử sự này là hình thức căn bản qua đó họ làm chứng về Thiên Chúa Cha. Xuyên qua lối xử sự của họ, các môn đệ phải đưa loài người đến chỗ quan tâm, suy nghĩ và tự hỏi, sao cho cuối cùng loài người cũng hòa với họ trong việc ca ngợi Thiên Chúa. Vậy các môn đệ phải bắt chước cách xử sự của Chúa Cha. Chỉ như thế thì qua lối sống của họ, bản chất của Chúa Cha mới được mạc khải ra và nhận biết. Nhờ những người sống như là con của Ngài, Thiên Chúa muốn được nhìn nhận như là Cha nhân lành và lôi kéo càng ngày càng nhiều người đến với Ngài.
  4. Các môn đệ Đức Giêsu phải là mộtđiểm quy chiếu và là ánh sáng, làm cho mỗi sự vật xuất hiện ra trong bộ mặt thật của nó và trong giá trị thật của nó. Do đó, họ phải ở vào mộtvị trí dễ thấy. Kitô hữu không được quên và càng không được cắt đứt sự thông truyền các ân ban mình đang có cho kẻ khác. Họ không được chạy lung tung để tìm người theo phe mình. Họ cũng không được rút lui vào tình trạng vô danh hoặc náu mình vào trong đám đông. Chỉ khi họ có thể thấy được, chứ không đi trốn hoặc đi ngụy trang, thì nhờ họ, Thiên Chúa mới có thể được nhận biết như là Cha nhân lành. Chỉ có lòng nhân ái, lòng tốt, tình yêu, tinh thần phục vụ mới có thể trở thành ánh sáng cho người khác.
  5. Môn đệ Đức Kitô phải là mộtngọn đèn đặt trên đế để soi chiếu cho mọi người trong nhà. Ở vào vị trí sao cho người ta thấy được mình thì hoàn toàn khác với việc tìm cách khoe mình (x. 6,1-18) vì những động lực khác. Chúng ta phải cho thấy các việc tốt đã làm không phải để được người ta khen ngợi (6,2), nhưng để cho nhờ ta trung thành sống bản tính con Thiên Chúa trước mắt người khác, Thiên Chúa được khen ngợi (5,16).

 

46.             Chú giải của Noel Quession

Bài giảng trên Núi đã bắt đầu từ Chúa nhật vừa qua bởi các mối Phúc thật sẽ được tiếp tục trong năm Chúa nhật. Matthêu đã tập họp ở đây những lời dạy của Đức Giêsu mà Maccô và Luca đã đặt vào những bối cảnh khác. Đó là dấu chỉ người ta có thể đưa ra những lời giải thích khác nhau. Những lời dạy của Đức Giêsu thường khá mở rộng để đón nhận nhiều ý nghĩa khác nhau.

“Chính anh em là muối cho đời”

Đức Giêsu nói với những người sống theo các mối phúc Người nghèo khó, người hiền lành, người xây dựng Hoà bình, người bị bách hại.. “chính anh em là muối cho Đời. Hình ảnh này gợi cảm và rất cởi mở, có thể đón nhận nhiều ý nghĩa bổ sung. Vào thời của Đức Giêsu, muối dùng để làm cho đất màu mỡ, dĩ nhiên có trộn với phân bón… Như một loại phân bón để mùa màng được tươi tốt. Ngày hôm nay, muối luôn luôn dùng để bảo quản thực phẩm… nó ngăn cản hoặc làm chậm lại sự phân hủy. Nhưng vai trò thông thường nhất của muối là đem lại hương vị: có muối, ngon đấy… không có muối, tất cả thành nhạt nhẽo.

Đức tin dùng để làm gì? Liệu tin vào Đức Giêsu và sống các mối Phúc thật có thay đổi gì không? Đức Giêsu trả lời: “Đem lại hương vị cho đời?”

Con người hiện đại, còn hơn cả con người của các thời đại trước đây bị chìm ngập trong sự tầm thường và buồn chán mỗi ngày: những cử chỉ máy móc và vô vị của công nhân làm việc theo dây chuyền… những khuôn mặt nhợt nhạt dưới ánh sáng đèn những… những đồ vật được tiêu chuẩn hóa ‘bằng nhựa dẻo…” sự nhạt nhẽo trong rất nhiều câu chuyện trao đổi thường ngày… sự cào bằng trước những ý thức hệ… Đời sống có còn thú vị gì không? Nếu người ta nói nhiều về “chất lượng đời sống” thì một cách chính xác chẳng phải người ta đã đánh mất chất lượng ấy hay sao?

Chính trong bối cảnh hiện tại này mà NGÀY HÔM NAY Đức Giêsu lại nói với chúng ta: chính anh em là muối cho đời! Anh em hãy đem niềm vui, sự táo bạo, nhiệt tình vào cái tầm thường mỗi ngày. Anh em hãy đem ý nghĩa đến cho những thực tế, thông thường có nguy cơ trở thành nhạt nhẽo. Anh em hãy đặt Nước Thiên Chúa vào trong các thực tế ấy. Anh em hãy thách đố mọi chủ nghĩa vô thần hiện đại đã bắt đầu loại bỏ đi “khả đăng siêu việt”, tức là muối, của nhân loại… để rồi sau đó không ngừng tuyên bố rằng đời sống là “phi lý” và không có ý nghĩa. Với Đức Giêsu mọi sự đâu có thể mang một ý nghĩa, một “hương vị”; dù là sự đau khổ, sự bách hại, cả cái già và cái chết, sự thất bại cũng xây dựng. Một nhà hiền triết đã viết như thế. Rên rỉ để làm gì? Ai sẽ nói giá trị mầu nhiệm và huyền diệu của thử thách đời sống trong sự hiệp thông với Đức Giêsu?

“Nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy cái gì muối cho nó mặn lại? nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi”.

Đức Giêsu đòi hỏi các môn đệ của Người phải “chính thống” không trở thành nhạt nhẽo. Một Kitô hữu đã đánh mất “mùi vị Thiên Chúa”, mùi vị đích thực duy nhất sẽ trở thành vô dụng “Tin Mừng chính là muối, và các bạn sẽ làm ra đường từ muối đó”. Paul Claudel đã cao rao như thế.

Đức Giêsu mạnh mẽ cảnh báo chúng ta: sau một thời gian sống quảng đại và ác liệt, đức tin của chúng ta có thể bị biến chất. Động từ mà chúng ta dịch là “nhạt đi” hay biến chất cũng có nghĩa “trở nên mất trí”… đánh mất lương tri trở thành điên đại! Theo nghĩa của Kinh Thánh…nghĩa là đánh mất. sự khôn ngoan mà đức tin vào Thiên Chúa ban cho (Is 19,11). Thánh Phaolô cũng đồng hóa “muối” với “sự khôn ngoan”: “Anh em hãy ăn ở khôn ngoan. Lời nói của anh em phải luôn luôn mặn mà dễ thương” (Cl 4, 5-6).

Nếu chúng ta trở nên quá vô vị, đó là vì chúng ta đã để cho sức mạnh ăn mòn của muối trong Tin Mừng yếu đi trong đời sống chúng ta. Nếu muối nhạt đi.. Tôi phải đối với giả thiết ấy cho tôi và đời sống của riêng tôi. Nếu mọi Kitô hữu không còn là muối nữa thì người ấy trở nên vô dụng, Người Kitô hữu “con tắc kè” chấp nhận mọi phương thức và mọi tâm thức của thế gian, mặc lấy màu sắc của môi trường người ấy sống, và trở nên vô dụng. “Tôi làm như vậy, bởi vì mọi người đều nghĩ như thế… bởi vì khắp mọi nơi, người ta làm như thế”; chúng ta có đánh mất tất cả nhân cách để theo lối sống tiêu thụ và duy vật không kìm chế không? Chúng ta có thủ lợi từ những bất công xã hội không? chúng ta có để cho mình rơi vào thái độ không hành đạo hoặc chủ nghĩa vô thần viện cớ rằng nhiều người làm như thế xung quanh chúng ta?

Đối với những người trở nên vô vị, với những Kitô hữu đang trở thành một chất thải màu sắc, không mùi vị, Đức Giêsu nói: “Anh em phải khác với thế gian, nếu anh em muốn là muối cho thế gian”..

Một yêu sách, đúng vậy. Nhưng trong một sự khiêm nhường cao cả. Không phải vì người ta là Kitô hữu mà người ta tự động là một con người cao siêu. Mỗi người chúng ta điều biết những giới hạn và những tội lỗi của mình. Nhưng thứ muối mà chúng ta phải đem lại cho thế gian không phải là lòng kiêu ngạo của các nhân đức cũng không phải sự cao siêu của chúng ta mà chính là “điều ‘ Thiên Chúa đã làm trong chúng ta”.

Chính anh em là ánh sáng cho trần gian.

Cách nói bóng bẩy thứ hai này có cùng một hình thức và ý nghĩa như cách nói đầu, nhưng còn cao cả hơn nữa! Phải là “mặt trời” cho thế gian! Không có ánh sáng, sẽ không có màu sắc, vẻ đẹp và sự sống nào cả. Đức Giêsu đã sống trong một xã hội tiền khoa học không biết được nhiều điều, nhưng xã hội ấy gần gũi thiên nhiên hơn chúng ta và cũng hiểu được nhiều điều hơn chúng ta về các thực tại sống. Giờ đây chúng ta, nhờ khoa học mà biết rằng không có ánh sáng, không thể có sự sống. Thật vậy; mặt trời là nguồn gốc duy nhất và cần thiết cho mọi năng lượng tồn tại trên hành tinh chúng ta.

Không có sự quang hợp các chất diệp lục trong cây cỏ thì cũng không thể có bất cứ đời sống sinh vật hoặc con người nào. Không có mặt trời, sẽ không có than đá, dầu hỏa và điện năng… bởi vì không có rừng và thủy triều, mặt trời là một hình ảnh đẹp nhất về Thiên Chúa: suối nguồn của mọi sự sống! Từ khi thế giới được tạo dựng, một ánh sángtràn trề chiếu soi mọi vật. “Hãy có ánh sáng!” (St 1,2)

Đức Chúa là ánh sáng và là sự cứu chuộc của tôi” (Tv 27,1) “Tôi là ánh sáng của thế gian, Đức Giêsu đã nói: “Anh em phải chiếu sáng, như những vì sao trên vòm trời” (Pl 2,15). Trở thành ánh sáng của thế gian quả là một trách nhiệm to lớn.

Bản thân chúng ta rất ít tỏa sáng. Chớ lấy đó mà sinh lòng kiêu ngạo.

Lạy Chúa, xin ban cho chúng con ánh sáng của Chúa. Trong đạo Do Thái, chỉ có Luật của Môsê và Đền Giê-ru-sa-lem mới được gọi là “ánh sáng”. Chúng ta nhận thấy cuộc cách mạng phi thường mà Đức Giêsu định thực hiện? Trước mặt Người là những con người hèn mọn, tật nguyền, bệnh hoạn, những con người đau khổ bởi mọi thứ giày vò (Mt 4,23). Đó không phải là những người đàn ông và đàn bà xuất chúng, nhưng là những, người nghèo khổ, không có văn hóa và cũng không có ảnh hưởng. Những con người không sùng đạo hơn những người khác, với đám đông đó, Đức Giêsu nói: “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian!”. Chính họ không phải là “ánh sáng” nhưng họ chỉ để ánh sáng xuyên qua và tỏa sáng qua họ đức tin mà họ có trong Đức Giêsu. Đức Giêsu tạo ra cho Người ý tưởng kỳ diệu về nhân phẩm con người khi người để cho Thiên Chúa phong chức cho mình!

Một thành xây trên núi khống tài nào che giấu được. Cũng chẳng có ai thắp đèn lên rồi lại đặt bên dưới cái thùng, nhưng đặt trên đế và nó soi sáng cho mọi người trong nhà. Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ”

Từ bờ Hồ Ti-bê-ri-a, người ta thấy thành Safed, ở trên cao với cao độ hơn một ngàn mét, thành được xây trên những núi nằm ngang của dãy núi Ga-li-lê, chiếu ánh sáng của nó ra xung quanh. Đức Giêsu đã thoáng thấy những căn nhà màu trắng của thành được mặt trời chiếu sáng. Trong căn nhà nhỏ của gia đình, Đức Giêsu cũng thường nhìn thấy Mẹ Người. Đức Maria đốt đèn trong ngày Sa-bát. Một cái đèn khiêm tốn bằng đất nung nhưng đủ để soi sáng “cả nhà” trong gian nhà duy nhất của những nhà người nghèo ở Phương Đông. Hãy soi Sáng Đức Giêsu nói chúng ta hãy soi sáng.

Vấn đề ở đây không phải là sự phô trương của chủ nghĩa đắc thắng, như ngày nay người ta nói. Vì sau đó, Đức Giêsu sẽ khuyên chúng ta: “Khi làm việc lành phúc đức anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy” (Mt 6,1). Không phải chính chúng ta tự tôn giá trị của mình như những cách phô trương của những người Pha-ri-sêu mà Đức Giêsu từng đả kích (Mt 6, 1.6). Chỉ ánh sáng của Thiên Chúa mới có thể soi sáng anh em chúng ta. Nhưng ánh sáng ấy muốn soi sáng thông qua chúng ta. “Quả thật, xưa Thiên Chúa đã phán: ánh sáng hãy bừng lên từ nơi tối tăm! Người cũng làm cho ánh sáng chiếu soi lòng trí chúng tôi, để tỏ bày cho thiên hạ được biết vinh quang của Thiên Chúa sáng ngời trên gương mặt Đức Kitô. Nhưng kho tàng ấy, chúng tôi lại chứa đựng trong những bình sành, để chứng tỏ quyền năng phi thường phát xuất từ Thiên Chúa, chứ không phải từ chúng tôi”. (2 Cr 4, 6-7).

“Ánh sáng của anh em phải chiếu giải trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời”.

Đây là lần đầu tiên trong Tin Mừng của Matthêu. Chúng ta nghe Đức Giêsu nói về “Cha của anh em, Đấng ngự trên trời”. Đức Giêsu ở đây mạc khải một định hướng và trách nhiệm to lớn của các Kitô hữu trong thế gian là phải trở thành “muối cho thế gian, mặt trời của hoàn vũ… không không phải vì vinh quang của riêng mình. Vinh quang ấy dùng để tôn vinh Thiên Chúa.

Đức Giêsu đã là một người hoàn toàn tách ra khỏi trung tâm của bản thân mình và hoàn toàn hướng về Chúa Cha. “Tôi không cần người đời tôn vinh”, Đức Giêsu đã nói như thế (Ga 5,41)

Về phần chúng ta là những người tội lỗi, rõ ràng nếu chúng ta có chút gì là “muối” và “ánh sáng”, điều đó chỉ do Chúa Cha mà đến. Nếu bạn mạnh khỏe, vui vẻ, quảng đại và tự nhiên thanh khiết, đó là vinh quang của bạn và càng tốt cho bạn. Nhưng nếu bạn là một người yếu đuối mà Thiên Chúa làm cho mạnh mẽ, một kẻ tội lỗi mà Thiên Chúa cứu độ, một người. Ô uế mà Thiên Chúa không ngừng thanh huyện, một người hay thù oán mà Chúa Cha đã dạy sự tha thứ, một người quan tật sâu xa đến tiền bạc mà Thiên Chúa đã giải thoát khỏi mọi thứ của “cải của mình. Nếu bạn là một trong số những người nghèo, khó ấy, đã thất bại nhiều trong mọi thứ công việc mà vẫn hạnh phúc” bởi niềm vui của các mối phúc thật… lúc đó, trường hợp của bạn có thể làm anh em của bạn quan tâm, bởi vì sự khốn khổ của bạn cũng là của anh em bạn và chính họ, họ cũng có thể hy vọng được cứu chữa. Khi nhìn thấy điều tốt lành mà bạn, một người rất yếu đuối đã làm, họ có thể tôn vinh Cha của bạn, Đấng ngự trên trời.

 

47.             Chú giải của Fiches Dominicales

SỨ MẠNG CỦA CÁC MÔN ĐỆ: ANH EM LÀ MUỐI CHO ĐỜI ANH EM LÀ ÁNH SÁNG THẾ GIAN

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI

  1. Sứ mạng của các môn đệ.

Trong các mối phúc Đức Giêsu đã công bố hạnh phúc cho những người đáp lại lời mời gọi của Ngài và bắt đầu theo Ngài: đó là các môn đệ. Hạnh phúc được ban cho họ từ bây giờ như một quà tặng, ngay trong những hoàn cảnh cụ thể và đôi khi ngay trong những hoàn canh đau khổ tột cùng của đời sống “Nước Trời và của họ”; một ngày kia hạnh phúc ấy sẽ triển nở trong ánh sáng của đời sau: “Phần thưởng của anh em sẽ lớn lao trên trời”.

Tiếp theo lời mở đầu của bài giảng trên núi, Đức Giêsu xác định sứ mạng của các môn đệ Ngài: anh em là muối cho đời… anh em là ánh sáng thế gian. Chúng ta đã bao giờ có một định nghĩa hay hơn định nghĩa này về Giáo hội không? giáo Hội không phải là một cái bình xoay trong đó là những người được cứu độ (ngoài Giáo Hội không có sự cứu độ), nhưng vì ánh sáng trên núi cao chiếu tỏ ý nghĩa cuộc sống và cắm nọc tiêu chỉ đường cho những ai sống trong bóng tối (Is 60), ánh sáng này qui chiếu về nguồn mà nhờ đó nó tỏa sáng! (Cahier Evangile, số 9, tr. 11) trong thế giới sê-mít nơi Đức Giêsu công bố giáo huấn này và nơi Thánh Mátthêu viết Tin Mừng của ngài, muối là một thực tại hằng ngày chứa rất nhiều ý nghĩa biểu tượng. Được dùng trong việc chuẩn bị bữa ăn để cho các món ăn thêm hương vị, muối đã trở nên biểu tượng của tất cả những gì làm cho hiện hữu có hương vị và ý nghĩa, đàng khác một điều đáng chú ý là trong tiếng Latinh, “nếm” (sapere) và “khôn ngoan” (sapientia) có cùng một gốc và trong tiếng Hy lạp và tiếng Do thái, có cùng một động từ vừa có nghĩa “lạt đi” “trở nên lạt lẽo” vừa có nghĩa trở nên vô nghĩa”.

Được dùng trong việc bảo quản thức ăn, muối đã trở nên biểu tượng của sự vĩnh hằng và được sử dụng trong những nghi lễ giao ước – người ta nói Giao ước của muối” (2 Sb 13, 5 và Lv 2, 13) và trong những nghi lễ đón tiếp và cho khách ở trọ. Muối không được lạt đi! Cl. Tassin chú giải: các môn đệ đem hương vị cho đời và bảo đảm sự sống còn của thế gian trước mặt Thiên Chúa. Nhưng nếu họ không đảm đương được công việc này và đánh mất tinh thần các mối phúc, họ sẽ chẳng còn giá trị gì và Thiên Chúa sẽ từ bỏ họ”. (Tin Mừng thánh Mátthêu, Centurion, 1991, tr.62).

  1. và “ánh sáng thế gian”.

Để giúp các môn đệ hiểu rõ hơn sự lớn lao và những đòi hỏi của sứ mạng Ngài trao, Đức Giêsu dùng hai hình ảnh.

Trước hết, Ngài nói đến một “thành xây trên núi” có lẽ cảnh trí của thành Safed đã gợi ý cho Ngài. Thành này nằm trên mũi đá phía đông-bắc rặng Haute-Galiê nên ban ngày, những ngôi nhà mầu trắng phản chiếu ánh sáng mặt trời và ban đêm nó tỏa sáng. “Trở nên ánh sáng thế gian”, đó là lời các ngôn sứ loan báo về tương lai của Giêrusalem vào thời Đấng Thiên sai: thành này sẽ là thành phố ánh sáng trên núi mà mọi dân tộc sẽ đi về đó. Là ánh sáng cho thế gian” là sứ mạng được trao cho cộng đoàn các môn đệ. Rồi Ngài nói với các môn đệ người ta đốt đèn không phải để giấu nó “dưới đáy thùng” -dùng để xếp đồ trong những ngôi nhà xứ Palestine- nhưng là để trên “giá đèn” hầu soi cho tất cả mọi người trong nhà. Cộng đoàn các môn đệ mà Ngài sai đến trong thế gian cũng phải như vậy.

Cl.Tassin kết luận: Giáo Hội sẽ thi hành sứ mạng là muối cho đời và là ánh sáng thế gian, bởi sự chôn vùi và sự tỏa sáng chứ không phải là tham vọng chinh phục về địa dư (Sách đã dẫn)

BÀI ĐỌC THÊM

  1. Muối và ánh sáng: (Đức cha L. Daloz, trong “Nước Trời đến gần” Desclée de Brouwer, 1 994, tr.48-49)

“Anh em là muối cho đời”. Để có ích, muối không được mất vị của nó: nó chỉ là gia vị! Chính nó không phải là thức ăn, ít ra thường là như vậy: nó giúp cho thúc ăn có hương vị. Trở nên nguồn hương vị thơm ngon, đó là nét độc đáo của chúng ta, những người theo Đúc Kitô, trong thế giới chúng ta đang sống. Nét độc đáo này giúp chúng ta trở nên hữu ích cho đời nhờ sự khác biệt của nó. Chúng ta không được đánh mắt sự khác biệt này: Nếu muối: lạt đi thì lấy gì ướp nó mặn lại được? Sự khác biệt của chúng ta không ở nơi bản chất riêng của mình hay nơi những tính tốt chúng ta có, chúng ta không tự hào là những người tốt nhất hoặc muốn dạy người khác. Chúng ta cũng được nhào nặn bởi cùng một-thứ bột như tắt cả mọi người. Chúng ta cũng gặp những thuận lợi và những chướng ngại trong chúng ta và chung quanh chúng ta như mọi người. Nhưng chúng ta ra lạt khi không còn liên kết với Đức Kitô, khi không còn qui chiếu về Ngài, khi Ngài không còn là men cho đời sống chúng ta. Lúc đó cuộc sống chúng ta và thế giới chúng ta sống sẽ thiếu hương vị, bởi vì sứ mạng của chúng ta là làm cho thế giới này biết thưởng thức Đức Kitô và Tin Mừng của Ngài! Hình ảnh ánh sáng nối tiếp và làm rõ hình ảnh về muốí: Anh em là ánh sáng thế gian ánh sáng là để nhìn, chúng tự nó không đủ. Nó vô dụng nếu nó không soi cho thấy gì hết. Đức Giêsu đặt các môn đệ của Ngài trong thế gian ta qui chiếu với thế gian. Ngài không kêu gọi họ đóng khép kín, tách rời người khác. Thánh Gioan cũng nói như vậy nhưng diễn tả cách khác: Con sai họ đến trong thế gian (Ga17, 18). Chính vì vậy, các Kitô hữu sống trong thế gian và trong những hoàn cảnh như mọi người không những là điều bình thường mà còn cần thiết nữa…không sống trong một thế giới khác! Chúng ta phải thực hiện những công việc của ánh sáng, nghĩa là những hành vi tốt hay những việc làm tốt được ánh sáng Thiên Chúa soi chiếu để trở thành những việc làm của chính Thiên Chúa. Nói vậy không có nghĩa là Thiên Chúa mời gọi chúng ta tin rằng mình là người tốt hơn người khác hoặc tự mình, mình có thể hành dộng tốt hơn họ, bởi vì mọi công việc chúng ta làm đều qui về vinh quang Thiên Chúa là nguồn ánh sáng: ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha anh em, Đấng ngự trên trời. Nơi Đức Giêsu, ánh sáng đã tỏa chiếu trong thế gian. Chúng ta chỉ phản chiếu lại ánh sáng này. Đời sống, hành vi của chúng ta trở nên tấm gương phản chiếu vinh quang Thiên Chúa, trở nên nơi gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người”.

  1. “Thấm nhập vào nơi thâm sâu của thế giới bằng sức mạnh linh hoạt của muối và sự chiếu toả của ánh sáng” (J. Guiuet. Trong Giêsu trong niềm tin của các môn đệ đầu tiên, Desclée de Brouwer, 1995, tr.110-111).

“Matthêu đã xen kẽ hai đoạn ngắn với hình thức dụ ngôn về muối và ánh sáng vào giữa các Mối Phúc và những điều Đức Giêsu công bố về Luật (Do Thái). Cả hai đoạn này đều nhắm một nhóm riêng, phân biệt rõ ràng với những người đi theo nghe Ngài giảng, bởi vì nhóm này phải hành động theo lời Ngài dạy: “Anh em là muối cho đời”, “Anh em là ánh sáng thế gian” (Mt 5,16). Trong bối cảnh Bài giảng trên núi, rõ ràng Đức Giêsu nói với các môn đệ theo Ngài. Và nếu không loại bỏ đám đông náo nức theo Ngài, chúng ta có thể tin rằng sứ điệp của Đức Giêsu đã gây một tiếng vang nào đó trong đám đông và có thể một hạt nhân các môn đệ thành hình, gồm phụ nữ và đàn ông muốn theo Chú, tuy nhiên họ không làm thành một dân tộc mới, họ vẫn luôn thuộc về dân của Abraham, của Môi-sen: họ là những người mang sứ điệp mới trong dân tộc họ. Điều này không có gì là lạ bởi vì người Israel đã có thói quen nghe các ngôn sứ nói đến tương lai mà Thiên Chúa đang chuẩn bị, tương lai đó có lúc đen tối, có lúc lại rực rỡ. Tuy nhiên, tương lai Đức Giêsu phác họa hoàn toàn khác trước.

Ở đây sự song hành với biến cố Sinai giúp làm sáng tỏ hơn. Một nhóm nhỏ những người dân giã tương ứng với dân chúng đông đảo tụ tập dưới chân núi của Thiên Chúa. Nhưng trong khi ơn gọi của dân Israel là làm chứng cho Thiên Chúa và là dấu chl sự chúc phúc của Thiên Chúa ở giữa các dân tộc, thì sứ mạng của nhóm hạt nhân nhỏ này là thẩm nhập vào nơi thâm sâu của thế giới bằng bức mành linh hoạt của muối vô sự chiếu tỏa của ánh sáng. Abraham là người được Thiên Chúa chúc phúc và mọi dân tộc trên mặt đất đều được chúc phúc qua ông (St 12,1). Dân lsrael của Môisen phải trở nên một dân lớn và mọi dân tộc khác đều thán phục cách ăn ở và tinh thần của họ: Khi biết đến các lề luật này, họ sẽ thốt nên: Chỉ có một dân tộc khôn ngoan và minh mẫn, đó là dân tộc lớn này. Thật vậy, có dân tộc nào lớn đến nỗi các thần linh của họ gần gũi họ như Giavê, Thiên Chúa của chúng ta ở gần chúng ta mỗi khi chúng ta kêu cầu Ngài”. (Dnl 4,6) Theo Đức Giêsu chỉ có một số môn đệ. Tuy sống trong lòng một thế giới còn chưa biết đến mình, nhưng họ lại mang theo mình một sức mạnh khả dĩ biến đổi thế giới. Bởi vậy, sự tỏa chiếu của các mối phúc trở nên động lực cuộc sống.

  1. “Xin hãy trao ban chính bạn làm muối ướp đời tôi”. (H. Denis, trong ‘100 từ để nói về niềm tin’, Desclie de Brouwer, 993, 95-96).

“Muối! Tại sao lại chọn vật nhỏ bé chẳng là chi hết ngoài công dụng như một thứ gia vị? Một số Kitô không còn quen dùng nữa. Giáo Hội đôi khi còn nuối tiếc việc bỏ không dùng muối trong bí tích rửa tội. Một sự tiếc nuối vô ích khi mà nó không thúc đẩy người ta dấn thân.

Muối Tin Mừng còn quan trọng hơn một nghi lễ rất nhiều Bạn hãy mường tượng và chúng ta còn sửng sốt về điệu này muối là chính bạn là chính tôi, là tất cả môn đệ Đức Giêsu. Môn đệ Đức Giêsu là phải là muối cho đời. Chỉ vậy thôi! Một tham vọng ghê gớm, nếu chứng tá tự cho mình là những người tốt nhất, là giả vị duy nhất trong đám đông nhạt thếch, không có vị mặn. Nhưng đó sẽ là một trách nhiệm lớn lao nếu Đức Giêsu trao cho chúng ta một sứ mạng như vậy và cách thế để thực hiện nó. Vâng, trước hết chúng ta có trách nhiệm của một loại giao ước giữa cái là muối và cái chưa phải là muối. Môt thế giới không có muối thì chẳng có một chút hương vị nào, nhưng nếu ở ngoài thế giới này thì muối cũng vô dụn, Kitô hữu và thế gian là hai thành phần liên kết với nhau. Cả hai được tạo dựng để trộn lẫn với nhau. Hơn nữa, người trước tiên được lợi chính là người Kitô hữu, vì họ phải ướp mặn nơi họ tất cả những gì chưa là Kitô hữu. Một trách nhiệm khác mầ bạn biết rất rõ, đó là đừng la nhạt. Bạn đừng nghĩ rằng để tránh điều này bạn phải trốn khỏi thế gian ắt hẳn sẽ có nguy cơ bị tan rã ở đó cách đơn thuần và dễ dàng. Nhưng muối mà chất đống và để nguyên một chỗ cũng có nguy cơ bị phân hủy đi. Vậy bạn hãy nói cho tôi biết, nếu giữa người với người, giữa những Kitô hữu với nhau, chúng ta cố gắng duy trì vị hương cho thế giới của chúng ta thì phải làm thế nào? Không thể chỉ cậy vào mình. Phải có thể nói: Xin đưa cho tôi chút muối? như là trong bữa ăn của đôi vợ chồng, của cha mẹ và con cái. Vâng, nếu có bao giờ Tin Mừng nơi bạn nhạt nhẽo đi thì luôn có một người anh, một người chị để bạn hoàn toàn tin tưởng nói với họ: “xin hãy trao ban chính bạn làm muối ướp đời tôi!”.

 

48.             Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt

MUỐI CHO ĐỜI VÀ ÁNH SÁNG THẾ GIAN

CÂU HỎI GỢI Ý

  1. Có lẽ các câu này là lời đả kích đường lối bí truyền hoặc việc xa lánh thái quá thế gian (do ảnh hường của nhóm Essêni). Các khuynh hướng ấy có phải là những cám dỗ thường xuyên của Kitô giáo không? Ngày nay chúng đội hình thức nào?
  2. Đâu là tầm quan trọng của muối trong thế giới cổ xưa.. phải chăng nó có một ý nghĩa biểu trưng đặc biệt? Một công dụng đặc biệt?
  3. Vì sao một thành phải được ưu tiên tọa lạc trên ngọn núi?
  4. Đâu là ý nghĩa của chữ “ánh sáng các con “ trong thành ngữ “ánh sáng các con phải chói lọi trước mặt mọi người?
  5. Các câu này có tạo nên mối liên hệ giữa người Kitô hữu và trách vụ truyền giáo của họ không? Mối liên hệ nào?
  6. Người Kitô hữu là muối cho đời theo nghĩa nào? (Xem Lv 2, 13).
  7. Làm sao dung hòa các câu 14- 16 với Mt 6, 1-18?

***

  1. Trong thế giới cổ xưa, muối và ánh sáng được xem như là hai thực tại chẳng ai có thể bỏ qua: không gì ích lợi hơn muối và mặt trời (Pline trưởng lão, Htst. nst. 31, 102). Cả hai cũng thường được nhắc đến trong Cựu ước.Muối là một sản phẩm cần thiết bậc nhất của dân Bedouin (Ả Rập phiêu cư) (Hc 39, 26); nó tiêu hủy những cái gì xấu (2V 2, 19- 21; Đnl 29, 22; Tl 9, 45; Gr 17, 6; Xp 2, 9; G 39, 6) Nó nên thực phẩm (G 6, 6; Cl 4, 6) và, vì là thứ gia vị chủ yếu của mọi bữa ăn và mọi hy tế (Xh 30, 35; Lv 2, 13; Ed 43, 24), nên muối trở thành biểu hiệu của sự hiếu khách, của minh ước và giao ước Lv 2, 3; Đnl 28, 69; Ed 4, 14). Sau hết nó là biểu tượng của sự khôn ngoan (xem Phụng vụ Bí tích rửa tội – liên hệ với Ed 16,4) mà thỉnh thoảng nó được nối kết với, trong lời giảng huấn của các giáo sĩ; bấy giờ nó chỉ sự khôn ngoan hoàn hảo mà người hiền triết sẽ thủ đắc trong thời thiên sai.
  2. Ánh sáng cũng năng được sử dụng như là một biểu tượng trong Thánh kinh, nơi nó thường chỉ sự mặc khải cứu độ của Thiên Chúa. Trong Isaia Đệ nhị, người Tôi tớ Giavê được công bố là” ánh sáng muôn dân (49, 6); Israel cũng phải là ánh sáng cho dân ngoại (42, 6). Trong sách các giáo sĩ, tước hiệu, “ánh sáng thế gian” được gán cho Thiên Chúa, cho Ađam, cho Israel, cho lề luật, cho Đền thờ và cho Giêrusalem. Trong Tân ước người ta xác quyết Chúa Giêsu là ánh sáng thế gian” (Lc 2, 32; Ga 8, 12; 12, 35). Và theo gương Người, các môn đồ phải trở nên ánh sáng của nhân loại (P 12, 15; so sánh với Ep 5, 8-14).

Kiểu nói trực tiếp trong Mt “Các con là muối… là ánh sáng, được giải thích qua sự kiện dụ ngôn đi tiếp theo Tám mối phúc thật. Nếu các môn đồ biết từ bỏ của cải, biết sống hiền lành khiêm nhượng, nhân ái từ bi, can đảm trong thử thách, kiên quyết theo đuổi sự hoàn thiện Kitô giáo, thì bấy giờ người ta mới có thể nói thực với họ: “Các vị là muối cho đời và là ánh sáng cho thế gian”. Phần tiếp của Diễn từ sẽ cụ thể cho thấy cách thức của người môn đồ tự tỏ mình là muối, là ánh sáng.

CHÚ GIẢI CHI TIẾT

“Các con là”: Thành ngữ có lẽ mượn ở Xh 19, 6: “Các ngươi sẽ là một vương quốc tư tế và là một dân thánh cho Ta”. Giavê đã nói với dân Ngài đã chọn giữa muôn dân. Chúa Giêsu ở đây nói với môn đồ Người đã chọn giữa loài người. Như Giavê đã xác định ơn gọi của tuyển dân, Chúa Giêsu cũng minh định sứ mệnh của các môn đồ Người.

“Muối cho đời “: “Đời”, ám chỉ loài người, là một từ ngữ quen thuộc với Cựu ước. Ở đây “đời” song song với “thế gian” của câu 14. Người môn đồ chẳng phải là muối của đất, vì không bao giờ muối được dùng như phân bón, nhưng là muối cho đời cho thế gian. Ở đây Mt nhấn mạnh cốt để nói rằng “muối” không chỉ cần thiết cho bản thân người môn đồ, như là một phẩm chất nội tại, song còn cần thiết để chu toàn sứ mệnh của mình đối với nhân loại. Do đó phẩm chất cấu thành môn đồ không thể tách rời khỏi chức vụ truyền giáo của kẻ ấy. Đây là một nét nói lên chiều hướng phổ quát và truyền giáo mà Mt thích dùng.

“Nếu muối ra lạt”: Có thể giải thích hai cách:

  1. Hình ảnh dựa vào thứ muối dơ bẩn lấy ở phía Tây-Nam Biển Chết thời Chúa Giêsu (trên bờ dốc Djebel-ousdeum). Loại muối màu xanh lạt này, có pha trộn thạch cao và vôi, dễ biến thành bùn vô đụng dưới tác dụng của ẩm ướt. Ta vần có thể gọi nó là muối, nhưng thực ra không phải là muối nữa.
  2. Đúng hơn, có lẽ Chúa Giêsu đã muốn gợi lên một hình ảnh không thể có, để làm ta lưu tâm hơn đến tính cách nghịch lý của một môn đồ đã đánh mất cái tạo nên chính bản chất môn đồ.

“Thì lấy gì muối nó lại”: Phàm kẻ phải trở nên nguyên nhân hoàn thiện cho bao người khác thì không thể nhận lãnh từ họ cái mà y phải trao hiến cho họ. Nếu y đánh mất nhân đức, người khác không thệ hoàn lại cho y.

“Nó không còn ích gì”: Muối nhạt chẳng lợi ích gì nữa, ngay cả làm phân bón. Người môn đồ cũng vậy. Đánh mất sự cao quý của mình, kế đó trở nên đối tượng khinh khi, như thế mảng trong mình một sự thối nát đặc biệt; tình yêu ngày trước của y đi dần tới chỗ tiêu tán. Câu “Chỉ có việc đổ ra ngoài cho người ta dẫm đạp đi thôi “ gợi lên cảnh đường sá vương vãi rác rền cặn bã ở phương Đông ngay xứ. Đây là hình ảnh nói lên việc kết án người môn đồ đã mất tinh thần của ơn gọi mình.

“Ánh sáng của thế gian”: ánh sáng của thế gian có nghĩa là cho thế gian, chứ không phải thuộc về thế gian hay là bản chất của thế gian. “Một thành tọa lạc trên núi”: đây là hình ảnh của một xứ mà các thị trấn thôn làng thường được xây trên các cao điểm (để có vị thế chiến lược đề phòng mọi cuộc tấn công từ bên ngoài vào). Điều đó đặc biệt đúng đối với Giêrusalem, thành mà ta có thể thấy từ rất xa. Trong trường hợp này, tuyệt đối không thể che dấu thành được. “Ánh sáng của các con”: Lời Thiên Chúa được Chúa Kitô đem đến thì sống trong môn đồ và đơm hoa kết trái trong cách ăn nết ở của họ. Ánh sáng, chính là Chúa Kitô, Đấng đóng ấn người trên các môn đồ. Đức tin chân thành và ngay thật của họ phải tỏ hiện ra trong các việc họ làm. Các hành động này phải có một phẩm chất, một tính cách hoàn thiện thế nào đó khả dĩ khơi dậy được, lời những kẻ chứng kiến, lời ngợi ca Thiên Chúa.

“Ngõ hầu họ thấy việc lành các con làm”: Làm sao dung hòa câu này với 6, 1-18 (nhất là các câu 1-2. 5. 16)? Thưa động lực khác nhau trong hai bản văn: ở đây động lực là vinh quang Chúa Cha trên trời; còn trong 6, 1- 8 động lực là sự tìm kiếm lời khen ngợi bản thân để thỏa mãn lòng khoe khoang tự phụ (x. 6, 2-5: “hầu được vinh vang nơi người đời… hầu được bày ra cho người ta thấy…”). Cách hành động cũng khác nhau: ở đây, người môn đồ phải tỏ ra như là Kitô hữu: trong 6, 1-18 Chúa Giêsu kết án việc phô trương nhắm mục đích làm người ta chú ý.

KẾT LUẬN

Môn đồ Chúa Kitô nhất thiết phải ảnh hưởng trên nhân loại. Nếu chấp nhận hạnh phúc theo quan điểm của Chúa Kitô, thứ hạnh phúc của Bát phúc, thì người môn đồ mới có thể tỏa chiếu trong thế gian và ướp mặn môi trường sống của mình.

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

  1. Người Kitô hữu toan thất vọng trước kết quả nghèo nàn của nỗ lực mình, phải can đảm lên bằng cách nhớ rằng mình thực sự quan trọng đối với thế giới hôm nay, mặc dầu bề ngoài có vẻ trái ngược, nhớ trong mình là muối và ánh sáng của trần gian. Nhân loại sẽ mất hết ý nghĩa nếu không có sự hiện diện là hành động của người Kitô hữu trong thế giới.
  2. Người Kitô hữu toan nhụt chí và bằng lòng với một cuộc sống tầm thường, cũng phải nhớ lại rằng, vì là muối và ánh sáng của vũ trụ, mình không thể chấp nhận đào ngũ hay buông thả mà không phản lại với bản tính sâu xa và lý do hiện hữu của mình.
  3. Chính việc can đảm thực hiện Bát phúc giúp người môn đồ Chúa ki tô trở nên muối và ánh sáng của vũ trụ. Còn tất cả mọi đường lối hoạt động khác chỉ đưa đến sự lạt lẽo vô vị hay tăm tối u minh.
  4. Lương dân sẽ trở lại trong mức độ thấy chung quanh họ có nhiều Kitô hữu xác tín sống không phô trương cũng chẳng khiếp nhược cuộc sống môn đồ Chúa Kitô trong nếp sinh hoạt đều đặn khiêm tốn thường ngày. Đó là “chứng tá của Kitô hữu, là hành động truyền giáo duy nhất có hiệu quả trong một thế giới tin vào việc làm nhiều hơn vào lời nói.

 

49.             Là muối đất và là sự sáng thế gian

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

Sau khi công bố Tám Mối Phúc, Chúa Giêsu phán tiếp những lời hằng sống, mở ra cho chúng ta chân trời hạnh phúc dẫn đến sự sống đời đời. Như thế, cách nào đó, Người mời gọi chúng chọn lựa cách sống, nói “vâng” theo Người.

Chúa Giêsu bảo chúng ta: “Là muối đất… là sự sáng thế gian” (x. Mt 5, 13-14). Lời trên chứa đựng căn tính Kitô giáo của chúng ta. Điều đáng nói ở đây là Chúa Giêsu không chỉ nói các môn đệ đơn giản là “ muối”, là “ánh sáng” nhưng là “muối đất” và là “sự sáng thế gian”.

Tại sao lại là muối đất?

Muối theo nền văn hóa Trung Đông gợi lên nhiều giá trị như giao ước, tình liên đới, sự sống và sự khôn ngoan. Trong Cựu ước, muối tượng trưng cho sự trung thành của Thiên Chúa. Bởi Thiên Chúa đã ký kết với dân người một khế ước bằng muối: “Ðó là giao ước muối muôn đời tồn tại trước nhan Ðức Chúa, cho ngươi và dòng dõi ngươi” (Ds 18,19). Trong Tân ước, Chúa Giêsu nói: “Các con là muối đất ” (Mt 5, 13).

Muối là một trong những vị cần thiết nhất cho con người. Muối còn có nhiều công dụng như dùng để tra vào đồ ăn để món ăn thêm hương vị mặn mà, ướp đồ ăn tránh khỏi hư.

Qua các hình ảnh giầu ý nghĩa này, Chúa Giêsu muốn thông truyền cho các môn đệ mình và cả chúng ta ngày hôm nay nữa ý nghĩa sứ mệnh và chứng tá của Tin Mừng. Thêm hương vị là thêm sức sống ơn thánh. Ướp đồ ăn cho khỏi hư, nghĩa là bảo vệ chân lý hằng sống.

Sao lại là sự sáng thế gian?

Khi Chúa Giêsu nói: “Các con là sự sáng thế gian” (Mt 5,14). Chúng ta biết rằng ánh sáng là công trình đầu tiên của Thiên Chúa Sáng Tạo và là nguồn mạch sự sống. Chính Lời Chúa cũng được tác giả Thánh Vịnh ví: “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường cho đi” (Tv 119.105). Isaia cũng nói: “Hãy chia bánh của ngươi cho kẻ đói, hãy tiếp nhận vào nhà ngươi những kẻ bất hạnh không nhà ở; nếu ngươi gặp một người trần truồng, hãy cho họ mặc đồ vào, và đừng khinh bỉ xác thịt của ngươi. Như thế, sự sáng của ngươi tỏ rạng như hừng đông” (Is 58,10).

Sự khôn ngoan tóm gọn nơi mình các hiệu quả ích lợi của muối và ánh sáng: thật thế, các môn đệ Chúa được mời gọi trao ban hương vị mới cho thế giới và giữ gìn nó khỏi hư thối, với sự khôn ngoan của Thiên Chúa tỏa sáng rạng ngời trên gương mặt Chúa Con, vì “Ngài là ánh sáng thật chiếu soi mọi người” (Ga 1,9).

Là muối đất và là sự sáng thế gian

“Các con là sự sáng thế gian”, lời này chứa đựng sứ mạng được sai đi. Hành động và con người của các kitô hữu liên kết chặt chẽ với nhau, chứng tỏ rằng nhiệm vụ của “muối” và “ánh sáng”cho trần gian là của riêng chúng ta và không ai làm thay chúng ta. Vì thế, chúng ta phải chịu trách nhiệm về những gì chúng ta là Kitô hữu.

Trở lại với hình ảnh của muối. Hỏi, có thức ăn nào của con người mà không có sự hiện diện của Chúa Kitô trong các bí tích, hay Lời Người và hành động yêu thương nhân hậu của Chúa Thánh Thần? Nên chúng ta phải duy trì nhận thức về sự hiện diện của Chúa Cứu Thế ở giữa loài người, nhất là trong Bí Tích Thánh Thể, tưởng niệm cái chết và sự phục sinh vinh quang, loan báo quyền năng cứu độ tiềm ẩn trong Tin Mừng của Chúa. Hiệp nhất với Người, các kitô hữu có thể chiếu sáng giữa các bóng tối của sự thờ ơ và ích kỷ ánh sáng tình yêu của Thiên Chúa.

Muối là hương vị giữ thức ăn. Người kitô hữu được kêu gọi cải thiện cái “hương vị” lịch sử loài người. Đó là thực hành trong cuộc sống ba nhân đức đối thần đã lãnh nhận ngày chịu phép Rửa tội. Điều đến từ Thiên Chúa luôn làm cho con người trở nên người hơn, hơn bao giờ hết là hình ảnh Chúa và giống Thiên Chúa. Nhờ đức tin, đức cậy và đức mến, chúng ta được mời gọi chiếu sáng và thể hiện lòng nhân giữa một thế giới sống trong đêm đen của thử thách, của tuyệt vọng và thờ ơ. Bài đọc I nhắc nhở chúng ta rằng: “Nếu ngươi loại bỏ khỏi ngươi xiềng xích, cử chỉ hăm doạ, lời nói xấu xa, khi ngươi hy sinh cho người đói rách, và làm cho những người đau khổ được vui thích, thì ánh sáng của ngươi sẽ bừng lên trong bóng tối, và bóng tối sẽ trở thành như giữa ban ngày” (x. Is 58,7-10).

Do đó, mối liên kết giữa “muối” và “ánh sáng” được thể hiện. Lời Chúa Giêsu gửi đến mỗi chúng ta là hãy chiếu tỏa “ánh sáng” trước mặt mọi người, nghĩa là toàn bộ đời sống ta phải phản ánh ngọn lửa của Chúa Thánh Thần, chúng ta đã lãnh nhận ngày chịu phép Rửa tội: “Chính Người cũng đã đóng ấn tín trên chúng ta và đổ Thần Khí vào lòng chúng ta làm bảo chứng” ( x. 2 Cor 1, 22). Ngọn lửa này tỏa sáng qua việc loan báo Tin Mừng với lòng từ tâm, Tin Mừng cứu độ cho hết mọi người trong Đức Giêsu Kitô đã chết và sống lại.

Đức nguyên Giáo hoàng Bênêdictô XVI nhắc lại rằng “Quả thật, lời rao giảng và chứng tá cho Tin Mừng là công việc phục vụ đầu tiên mà những người kitô có thể cống hiến cho mọi người cũng như cho toàn thể nhân loại, xét vì những người kitô là những kẻ được mời gọi thông truyền cho tất cả mọi người tình yêu của Thiên Chúa Cha, được biểu lộ tròn đầy nơi Chúa Giêsu Kitô, Ðấng Cứu Thế Duy Nhất của thế giới”. (Diễn văn tại Ðại Học Truyền Giáo Roma 11/3/ 2006 nhân dịp kỷ niệm bốn mươi của Nghị định “Ad gentes” của Công Đồng Vatican II).

Việc phục vụ loan báo Tin Mừng được thực hiện trong “Đức ái”, không dựa vào những lời quyến rũ khôn ngoan của loài người, nhưng dựa vào sự giãi bày của thần trí và “quyền năng Chúa Thánh Thần” (x. Bài đọc II).

Lạy Chúa Thánh Thần, xin biến chúng con trở nên những người của Tám Mối Phúc Thật là muối đất và ánh sáng thế gian.

 

50.             Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Các con là muối đất… Các con là sự sáng thế gian

Lời mời gọi của Chúa Giêsu trong đoạn Tin Mừng hôm nay vang lên thật khẩn thiết, gửi đến trước hết là các môn đệ, sau là chúng ta những người tín hữu đang sống ở mọi nơi và mọi thời đại. Sau khi Đức Giêsu công bố Tám Mối Phúc, Ngài phán tiếp những lời hằng sống, mở ra cho chúng ta chân trời hạnh phúc dẫn đến sự sống đời đời. Như thế, cách nào đó, Ngài mời gọi chúng chọn lựa cách sống, nói “vâng” sống theo Ngài.

 

Quả thật, những lời Chúa Giêsu chứa đựng căn tính kitô giáo của chúng ta: “Các con là muối đất… Các con là sự sáng thế gian”. Điều đáng nói ở đây là Chúa Giêsu không chỉ nói các môn đệ đơn giản là “ muối” và là “ánh sáng” nhưng là “muối” “ đất” và là “sự sáng” “thế gian”.

 

Tại sao lại là muối đất?

Muối theo nền văn hóa Trung Đông gợi lên nhiều giá trị như giao ước, tình liên đới, sự sống và sự khôn ngoan. Trong Cựu ước, muối tượng trưng cho sự trung thành của Thiên Chúa. Bởi Thiên Chúa đã ký kết với dân người một khế ước bằng muối: “Đó là giao ước muối muôn đời tồn tại trước nhan Đức Chúa, cho ngươi và dòng dõi ngươi” (Ds 18,19). Trong Tân ước, Chúa Giêsu nói: “Các con là muối đất” (Mt 5, 13).

 

Muối là một trong những vị cần thiết nhất cho con người. Muối còn có nhiều công dụng như dùng để tra vào đồ ăn để món ăn thêm hương vị mặn mà, ướp đồ ăn tránh khỏi hư.

 

Qua các hình ảnh giầu ý nghĩa này, Chúa Giêsu muốn thông truyền cho các môn đệ mình và cả chúng ta ngày hôm nay nữa ý nghĩa sứ mệnh và chứng tá của Tin Mừng. Thêm hương vị, là thêm sức sống ơn thánh. Ướp đồ ăn cho khỏi hư, nghĩa là bảo vệ chân lý hằng sống.

Sao lại là sự sáng thế gian?

Khi Chúa Giêsu nói: “Các con là sự sáng thế gian”, chúng ta biết rằng ánh sáng là công trình đầu tiên của Thiên Chúa Sáng Tạo và là nguồn mạch sự sống. Chính Lời của Thiên Chúa cũng được so sánh với ánh sáng, như tác giả Thánh Vịnh công bố: “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường cho đi” (Tv 119.105). Cũng trong phụng vụ hôm nay ngôn sứ Isaia nói: “Hãy chia bánh của ngươi cho kẻ đói, hãy tiếp nhận vào nhà ngươi những kẻ bất hạnh không nhà ở; nếu ngươi gặp một người trần truồng, hãy cho họ mặc đồ vào, và đừng khinh bỉ xác thịt của ngươi. Như thế, sự sáng của ngươi tỏ rạng như hừng đông” (Is 58,10).

 

Sự khôn ngoan tóm gọn nơi mình các hiệu quả ích lợi của muối và ánh sáng: thật thế, các môn đệ Chúa được mời gọi trao ban hương vị mới cho thế giới và giữ gìn nó khỏi hư thối, với sự khôn ngoan của Thiên Chúa tỏa sáng rạng ngời trên gương mặt Chúa Con, vì “Ngài là ánh sáng thật chiếu soi mọi người” (Ga 1,9).

 

Là muối đất và là sự sáng thế gian

“Các con là sự sáng thế gian”, những lời này chứa đựng sứ mạng được sai đi. Hành động và con người của các kitô hữu liên kết chặt chẽ với nhau, chứng tỏ rằng nhiệm vụ của “muối” và “ánh sáng”cho trần gian là của riêng chúng ta và không ai làm thay chúng ta. Vì thế, chúng ta phải chịu trách nhiệm và những gì chúng ta là Kitô hữu.

 

Trở lại với hình ảnh của muối. Hỏi rằng, có thức ăn nào của con người mà không có sự hiện diện của Đức Kitô trong các bí tích, Lời của Ngài và hành động yêu thương nhân hậu của Chúa Thánh Thần? Nên chúng ta phải duy trì nhận thức về sự hiện diện của Chúa Kitô Cứu Thế ở giữa loài người, nhất là trong Bí Tích Thánh Thể, tưởng niệm cái chết và sự phục sinh vinh quang, loan báo quyền năng cứu độ tiềm ẩn trong Tin Mừng của Ngài. Hiệp nhất với Ngài, các kitô hữu có thể chiếu sáng giữa các bóng tối của sự thờ ơ và ích kỷ ánh sáng tình yêu của Thiên Chúa, sự khôn ngoan thật trao ban ý nghĩa cho cuộc sống và hành động của con người.

 

Muối là hương vị giữ thức ăn. Người kitô hữu được kêu gọi cải thiện cái “hương vị” lịch sử loài người. Đó là thực hành trong cuộc sống ba nhân đức đối thần đã lãnh nhận ngày chịu phép Rửa tội. Điều đến từ Thiên Chúa luôn làm cho con người trở nên người hơn, hơn bao giờ hết là hình ảnh Chúa và giống Thiên Chúa. Nhờ đức tin, đức cậy và đức mến, chúng ta được mời gọi chiếu sáng và thể hiện lòng nhân giữa một thế giới sống trong đêm đen của thử thách, của tuyệt vọng và thờ ơ . Bài đọc I nhắc nhở chúng ta rằng: “Nếu ngươi loại bỏ khỏi ngươi xiềng xích, cử chỉ hăm doạ, lời nói xấu xa, khi ngươi hy sinh cho người đói rách, và làm cho những người đau khổ được vui thích, thì ánh sáng của ngươi sẽ bừng lên trong bóng tối, và bóng tối sẽ trở thành như giữa ban ngày”.

 

Do đó mối liên kết giữa “muối” và “ánh sáng” được thể hiện. Lời Đức Kitô gửi đến mỗi chúng ta là hãy tỏa sáng “ánh sáng” trước mặt mọi người, nghĩa là toàn bộ đời sống ta phải phản ánh ngọn lửa của Chúa Thánh Thần, chúng ta đã lãnh nhận ngày chịu phép Rửa tội: “Chính Người cũng đã đóng ấn tín trên chúng ta và đổ Thần Khí vào lòng chúng ta làm bảo chứng” ( x. 2 Cor 1, 22). Ngọn lửa này tỏa sáng qua việc loan báo Tin Mừng với lòng từ tâm, Tin Mừng cứu độ cho hết mọi người trong Đức Giêsu Kitô đã chết và sống lại.

 

Đức nguyên Giáo hoàng Bênêdictô XVI nhắc lại rằng “Quả thật, lời rao giảng và chứng tá cho Tin Mừng là công việc phục vụ đầu tiên mà những người kitô có thể cống hiến cho mọi người cũng như cho toàn thể nhân loại, xét vì những người kitô là những kẻ được mời gọi thông truyền cho tất cả mọi người tình yêu của Thiên Chúa Cha, được biểu lộ trọn đầy nơi Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế Duy Nhất của thế giới”. (Diễn văn tại Đại Học Truyền Giáo Roma 11/3/ 2006 nhân dịp kỷ niệm bốn mươi của Nghị định “Ad gentes” của Công Đồng Vatican II).

 

Việc phục vụ loan báo Tin Mừng được thực hiện trong “Đức ái”, không dựa vào những lời quyến rũ khôn ngoan của loài người, nhưng dựa vào sự giãi bày của thần trí và “quyền năng Chúa Thánh Thần” (x. Bài đọc II).

 

Lạy Chúa Thánh Thần, xin dạy chúng con làm thế nào để tuyên xưng đức tin của chúng con, xin biến chúng con trở nên những người của Tám Mối Phúc Thật là muối đất và ánh sáng thế gian.

 

51.             Tôn vinh Cha các con

(Giải thích bản văn Tin Mừng của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)

Đoạn 5,13-16 nằm trong văn mạch diễn từ trên núi của Chúa Giêsu (4,23-7,29). Sau khi nói đến các mối phúc, hướng về tương lai (5,3-12), Chúa Giêsu chuyển sang nói đến bổn phận của người môn đệ trong hiện tại. Đoạn 5,13-16 liên kết với đoạn trên bởi đại từ “anh em” (ngôi thứ hai số nhiều) được dùng trong mối phúc cuối cùng “Phúc cho anh em khi người ta sỉ nhục anh em và bắt bớ, nói xấu anh em đủ điều vì danh Thầy…” (5,11-12). Từ câu 11 Matthêô không nói một cách tổng quát nữa về các mối phúc “Phúc cho ai…”, mà chỉ rõ đối tượng của mối phúc “Phúc cho anh em…”. Đại danh từ nầy được dùng hoặc ở dạng bổ ngữ “…người ta sỉ nhục anh em”, hoặc ở dạng sở hữu cách “phần thưởng của anh em”. Sang đoạn 13-16, đại danh từ nầy được dùng ở dạng chủ ngữ để chỉ căn tính “Anh em là…” và qua đó nói đến bổn phận. Đại danh từ còn xuất hiện hai lần ở phần kết luận, nhằm xác định tương quan giữa “điều tốt anh em làm” và “vinh danh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời”. Như thế, ý nghĩa của đoạn 5,13-16 sẽ được soi sáng bởi văn mạch của nó trong liên hệ với đoạn trên.

Bố cục của đoạn 5,13-16 được phân chia cách rõ ràng theo sự phân bố của đại từ “anh em” (cc. 13.14.16 [3x]): – “Anh em là muối đất” (c. 13), – “Anh em là ánh sáng thế gian” (14-16a), – Kết luận (c. 16b). Muối nói về căn tính người môn đệ, và ánh sáng nói đến sứ mạng của họ. Cả căn tính lẫn sứ mạng đều phải được làm đúng theo bản chất của chúng. Hai phần nầy tượng tự nhau về cấu trúc và lý luận. Về mặt văn chương, hai phần dài ngắn khác nhau và dạng câu văn không hoàn toàn giống nhau. Tuy thế, chúng có điểm tương đồng: một khẳng định với cấu trúc giống nhau “Anh em là”, tiếp đến một trình bày dưới dạng phủ định: “Nếu muối ra dại/lạt…không làm gì được”, “Cái thành trên núi không thể che khuất được”, và “Không ai thắp đèn đặt dưới đáy thùng”, và một kết luận cho từng phần: tiêu cực “đổ ra ngoài cho người ta chà đạp”, tích cực “chiếu soi mọi người”. Sau cùng là kết luận chung cho cả đoạn (c. 16b). Chủ đề chính của đoạn là nói đến căn tính của người môn đệ và sứ mạng của họ trong tương quan với Thiên Chúa và người đời. Các từ vựng đáng chú ý: “anh em” (cc. 13.14.16 [3x] và các từ vựng liên hệ đến đại danh từ “anh em”; “người ta”, anthropos, (cc. 13.16). Từ “anh em” đóng khung đoạn nầy (cc. 13.16).

 

“Anh em là muối đất” (c. 13a)

“Anh em là muối đất”: đại danh từ “anh em” đặt đầu câu có tính cách nhấn mạnh. Cụm từ gồm đại danh từ + động từ eimi rất ít dùng cho ai khác ngoài Thiên Chúa và Chúa Giêsu (.x 16,15; 22,32, 24,5, đặc biệt trong tin mừng thánh Gioan).  Cấu trúc nầy dùng để chỉ căn tính. “Anh em” ở đâu chỉ những người đến nghe Chúa Giêsu: dân chúng và các môn đệ (c. 5,1), nghĩa là cộng đoàn của Matthêô. Từ “muối”, halas, chỉ được dùng trong câu nầy của tin mừng Matthêô. Xét theo mạch văn có thể thấy rằng Matthêô đưa ra khẳng định các môn đệ là “muối đất”, và thánh sử khuyến cáo ngay là đừng để muối bị biến chất và ra dại đi, hơn là định nghĩa về muối. Đây là hướng giải thích bản văn.

Động từ mōrainō, ở  thể  thụ  động có  hai nghĩa: “nên dại, nên khùng” (Rm 1,22; ở thể chủ động 1 Cor 1,20) và “nên nhạt, mất mùi vị”. Động từ nầy trong bản văn thánh Phaolô được dùng chung với từ sophos, “khôn ngoan” (Rm 1,22; 1 Cor 1,20) và hiểu theo cách đối nghịch với nhau: “Tự xưng mình là khôn ngoan, họ trở nên điên dại” (Rm 1,22). Cách đặt vấn đề “nếu muối đã nên dại”, mōranthē, rất có thể hàm ý muối ấy phải là “muối khôn ngoan”. Dĩ nhiên đây không phải là sự khôn ngoan theo kiểu thế gian, mà là sự khôn ngoan của các mối phúc thật, trái nghịch với sự suy nghĩ và tìm kiếm của người đời.

 

“Muối của đất”: Luca và Marcô nói đến “muối tốt”, kalos (Mc 9,50; Lc 14,34), trong khi Matthêô không có một tính từ nào chỉ phẩm chất của muối. “Đất”, gē, là không gian nơi con người sinh sống (5,18.35; 6,10…) và người sống trên đất nầy (x. 9,26.31; 10,34). Muối không hiện hữu cho chính mình, mà trở nên công dụng tốt cho vật khác, bởi đó “muối của đất” có nghĩa là “muối cho đất”. Matthêô thường dùng cụm từ “đất và trời” để chỉ một toàn thể (5,18; 6,10; 11,25), sự liên hệ chặt giữa trời và đất (16,19; 18,18.19). Sự liên hệ trong đoạn nầy là người môn đệ là muối cho đất để người ta có thể nhận biết Cha của họ ở trên trời (c. 16).

 

“Nếu muối ra dại”: Matthêô và Luca đều dùng mōranthē, “nên dại”, trong khi Marcô analon genētai, “trở nên nhạt đi”. Trong tiếng Hipri và Aram từ tpl mang cả hai nghĩa “nên điên dại” (Gióp 1,22; 24,12; Giêr 23,13) và “nên nhạt đi” (Gióp 6,6; x. Êzek 13,10). Câu điều kiện ”Nếu muối ra nhạt/dại thì lấy gì muối nói lại?” có thể là cách nói thái quá, như câu trong phần hai “Không ai thắp đèn rồi đặt nó dưới đấu” (c. 14) để chỉ một sự việc khó, thậm chí không thể xảy ra. Muối xét theo phương diện hoá học không thể mất phẩm chất được Trong 6,23 Matthêô cũng có câu nói tương tự: “Nếu ánh sáng của con ra tối tăm, thì sẽ tối tăm chừng nào”. Sự vô ích của “muối đã nhạt” và việc người ta dẵm lên nó chỉ sự vô dụng của nó trong tương quan với con người, tương tự như nếu “đèn đặt dưới đấu” sẽ không soi tỏ cho ai được cả. Vậy đối với Chúa Giêsu, người môn đệ khi đã là muối, phải mãi là muối và là muối tốt.

 

“Anh em là ánh sáng thế gian”

Sau khi nói về căn tính của người môn đệ, Matthêô nói đến chứng tá của họ. Các từ vựng liên quan đến chủ đề ánh sáng: “ánh sáng”, phos (cc. 14.16), “thắp, đốt”, kaiō,  đèn, lychnos, chiếu soi, lampō (cc. 15.16). Từ “ánh sáng” (cc. 14.16a) đóng khung đoạn nầy. Cụm từ “Các con là ánh sáng thế gian” (c. 14a) khởi đầu được diễn tả cách khác ở phần kết luận “ánh sáng của các con trước mặt người ta” (c. 16a).

 

“Ánh sáng thế gian”, có nghĩa là ánh sáng cho thế gian. “Thế gian”, kosmos, chỉ mặt đất Thiên Chúa tạo dựng cho con người (Mt 13,35.38; 25,34; 26,13; Cv 17,21; Kh 13,8). Từ “ánh sáng”, phos, xuất hiện bảy lần trong Matthêô, trong đó ba lần mô tả ánh sáng nơi của Chúa Giêsu (4,16[2x], 17,2), và 4 lần còn lại dành cho các môn đệ: mắt người môn đệ phải sáng vì đó cũng là sự sáng của toàn thân (6,22-23), và họ phải nói ra ánh sáng điều họ nghe từ Chúa Giêsu trong bóng tối (10,27). Như thế vì là ánh sáng, người môn đệ không được che dấu mình trong bóng tối (5,13.16).

Về việc nầy Matthêô trước tiên dùng hình ảnh so sánh “Cái thành xây trên núi” (c. 14.b). Hình ảnh nầy không mang ý nghĩa ẩn dụ hay tượng trưng nào cả, mà chỉ muốn nói sự hữu hình của nó. Cái thành ở trên núi cao thì ai cũng thấy. Cái thành trở nên điểm qui chiếu và định hướng cho vùng chung quanh. Tiếp đến, Matthêô dùng hình ảnh về cái đèn được thắp sáng. Như cái thành trên núi “không bị che khuất”, thì cái đèn thắp sáng “không thể đặt dưới đấu” được. Như cái thành nằm “trên núi”, cái đèn nầy phải được đặt trên giá. Mục đích của cái đèn thắp sáng khác với cái thành trên núi: nó tỏa ánh sáng ra và chiếu soi mọi người và mọi sự trong nhà (c. 15b); trong khi ở tin mừng Luca là “để ai vào nhà thấy được ánh sáng” (Lc 8,16). Điều nầy phù hợp với bản chất của” ánh sáng” trong Matthêô: ánh sáng là để chiếu soi và đưa ra ánh sáng tất cả những ai hoặc những gì nằm trong bóng tối (5,16; 6,22.23; 10,27).

Để kết luận phần nầy, Matthêô mở rộng sự áp dụng trong một mệnh lệnh: “Hãy chiếu toả ánh sáng các con trước mặt người đời”, hoàn thành cho khẳng định đầu tiên “Các con là ánh sáng trần gian”. Về “trước mặt người đời”, trong khi đó ở câu 6,1, cũng bằng một mệnh lệnh, Chúa Giêsu lại bảo các môn đệ của Ngài “Coi chừng đừng làm việc công đức trước mặt người ta để làm cho họ chú ý”. “Người đời”, anthropos, là người thuộc về trần gian nầy. Động từ theaomai, trong câu 6,1 nầy ở dạng thụ động và có nghĩa là “được thấy”, “kéo sự chú ý”. Ở câu 16a, người môn đệ phải “chiếu ánh sáng mình trước mặt người đời” không phải để kéo sự chú ý của người đời về phía mình, mà để làm vinh danh Cha trên trời (c. 16b). Điều nầy sẽ giải thích thêm trong phần tiếp theo.

 

“Họ thấy việc lành của các con mà tôn vinh Cha các con…” (c. 16b)

Mệnh lệnh kết thúc phần hai dùng làm áp dụng cho kết luận cả đoạn, đánh dấu bằng hopōs, “vậy” (c. 16b). Phần đầu của kết luận lập lại ý tưởng của câu kết luận trên bằng từ ngữ khác và theo cấu trúc đối đảo: câu 16 a: A. Ánh sáng các con – B. Chiếu soi trước mặt người ta – và câu 16 b: B’. Người ta thấy – A’ Việc lành các con, và phần mở rộng của kết luận: “Họ sẽ tôn vinh Cha các con, Đấng ngự trên trời” (c. 16c). Vậy, “ánh sáng của các con” được hiểu là “việc lành các con”, và việc lành ấy phải “chiếu soi trước mặt người ta” để “người ta thấy” mà “tôn vinh Cha các con, Đấng ngự trên trời”.

 

Việc người môn đệ là phải làm “việc tốt”, kata erga. “Việc tốt” là việc liên quan đến Chúa Giêsu (26,10) và Thiên Chúa (c. 16b). Việc tốt nầy phải được thấy trước mặt mọi người. Ở đây, Matthêô dùng động từ horaō, “thấy” thay vì theaomai, “kéo sự chú ý”. Người Pharisêô làm các việc để được người khác thấy/chú ý, theaomai; do đó người môn đệ không làm theo việc, erga, của họ (23,3; 6,1). Động từ horaō là động từ được ưa thích của Matthêô, 76 lần. “Thấy” là nhận thức thiêng liêng và thúc đẩy tìm kiếm Thiên Chúa, như trường hợp các đạo sĩ (2,2.9.10. 11), là kinh nghiệm nhìn thấy Thiên Chúa (4,16; 5,8). Vậy, ánh sáng của người môn đệ chiếu soi trước mặt người đời là để người đời nhìn thấy Thiên Chúa qua việc lành của họ. Người ta không dừng lại nơi người môn đệ mà đến với Thiên Chúa và tôn vinh Ngài. Chúa Giêsu ngăn ngừa các môn đệ của Ngài tìm vinh danh người đời cho bản thân mình (6,2). Trong mọi việc làm, erga, họ phải hành động như Chúa Giêsu là làm để người ta tôn vinh Thiên Chúa, Đấng ngự trên trời (9,8; 11,2-5,15,31).

Ơn gọi của người môn đệ đòi hỏi họ hai điều: là muối, họ không thể để mất căn tính của mình, mà phải sống tốt lành như Chúa Giêsu, như Cha trên trời, và là ánh sáng, họ không được lẩn trốn, mà phải đứng ở vị trí ai cũng có thể thấy để qua việc họ làm, người ta tôn vinh Cha trên trời.

 

52.             Chiếu sáng đức tin bằng cầu nguyện và bác ái

(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)

Trong vòng 3 tuần vừa qua, đại dịch viêm phổi Virus Corana nguy hiểm chết người bùng phát dữ dội và sự lây truyền của nó rất nhanh khắp cả thế giới, theo Tổ chức y tế thế giới (WHO) cho biết tính đến ngày 4-2-2020, có 20.664 ca nhiễm virus corona trên toàn thế giới, trong đó 427 ca tử vong và 664 ca được chữa khỏi. Chính quyền các địa phương khắp các nước đã kích hoạt chế độ phản ứng khẩn cấp về y tế công cộng ở mức độ cao nhất. Nỗi sợ hãi về tình trạng virus lây lan làm gia tăng tư tưởng phẫn nộ và phân biệt đối xử với những người mắc bệnh này. Một số người bị ruồng bỏ trên chính đất nước mình, bị các khách sạn, nhà trọ nhà nghĩ… từ chối, họ hoàn toàn tuyệt vọng không một sự giúp đỡ. Còn chúng ta những người không mắc bệnh này, chúng ta không nên định kiến với họ hoặc đối xử với họ bằng trái tim lạnh… Đối mặt với dịch bệnh, họ đều là nạn nhân và chính họ mong mỏi hơn bất kỳ ai dịch bệnh sớm kết thúc. Họ khao khát an toàn, sự bảo vệ, chăm sóc và cầu nguyện. Vào thời điểm này, điều họ cần là sự thấu hiểu cảm thông chứ không phải ngồi đó mà quyền rủ bóng đêm hay kỵ thị.

Trong một cuộc phỏng vấn Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, một phóng viên đã hỏi Ngài: “Đức Thánh Cha cầu nguyện cho những ai và cho điều gì?” Đức Thánh Cha trả lời bằng việc trích dẫn đoạn văn mở đầu trong Hiến Chế về Giáo Hội trong thế giới ngày nay của Công đồng Vatican II: “Sự vui mừng và hy vọng, đau buồn và lo âu của con người thời đại này, đặc biệt là những người nghèo ốm đau bệnh tật hay những người bị bách hại, cách nào đó là niềm vui và hy vọng, đau buồn và lo âu của những người theo Chúa Kitô” (Bước qua ngưỡng cửa hy vọng, số 20). Thật ra Đức Thánh Cha đã trả lời câu hỏi không chỉ như Ngài là một Giáo Hoàng mà với tư cách là một người Công giáo, một người theo Chúa Kitô, giống như mọi người chúng ta. Chắc chắn những lời cầu nguyện của Đức Thánh Cha cũng sẽ là của chúng ta nữa. Dĩ nhiên, cầu nguyện phải dẫn tới hành động và hành động tương quan với tha nhân nữa để biến lời cầu nguyện thành hành động là giáo huấn của Lời Chúa trong sách tiên tri Isaia vừa nghe: “hãy chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ; thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục? Nếu ngươi nhường miếng ăn cho kẻ đói, làm thoả lòng người bị hạ nhục, thì ánh sáng ngươi sẽ chiếu toả trong bóng tối, và tối tăm của ngươi chẳng khác nào chính ngọ”.

Chúng ta là những người Công Giáo đang đứng trước những nhu cầu của người anh chị em đau khổ, ví dụ như những người đói khát, những dân nhập cư, những người không nhà, những người nhận trợ cấp xã hội hay những người đang mắc bệnh hoạn… Chúng ta không vô cảm mà phải có tinh thần thương xót thay cho vô cảm bằng việc cầu nguyện và sẵn sàng ra đi để chăm sóc chữa trị nếu có khả năng vì chưng, Chúa Giêsu dạy: “Chính anh em là muối cho đời. Nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn lại? Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi. “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian. Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời”. Vì thế, Thánh Rôcô là thánh giáo dân, năm 20 tuổi, khi song thân qua đời, anh Rôcô bán hết tài sản thừa kế và đem phân phát cho người nghèo rồi lên đường hành hương đến Rôma để viếng mộ các Thánh Tông Đồ. Khi đến vùng bắc nước Ý, biết nơi đây đang có ôn dịch hoành hành, anh tạm dừng chân và noi gương Chúa Giêsu dấn thân ngày đêm chăm sóc các bệnh nhân. Chúa ban thưởng cho lòng bác ái của anh bằng cách cho nhiều người bình phục sau khi được anh ghi dấu thánh giá. Khi đại dịch lui, anh tiếp tục hành trình đi Rôma. Tại Rôma, ôn dịch cũng bùng phát. Anh lại lao mình vào những ngày đêm chăm sóc bệnh nhân và chữa khỏi cho nhiều người cách kỳ diệu, nhưng rồi chính anh cũng bị lây bệnh. Để không trở thành gánh nặng cho người khác, anh chống gậy vào sống sẩn trong rừng. Chúa sai một con chó đem thức ăn đến cho anh. Anh dần dẩn bình phục và trở về quê hương.

Ngày nay, một số người sầu khổ bị nằm nơi góc tối, nơi đó họ bị lãnh quên và không nhìn thấy. Nhưng Chúa Giêsu đã dạy chúng ta rằng chúng ta phải chiếu sáng sự tốt lành của chúng ta trên những người có nhu cầu để họ không bị quên lãng. Chúng ta phải có lối sống và hành động theo Đức Kitô, phải quan tâm, cầu nguyện cho những nhu cầu, những lo âu của những người đau thương trong thời đại này. Chúng ta cần Thiên Chúa và ân sủng của Người. Thiên Chúa không hề quay mặt đi khỏi chúng ta. Người hằng nhìn xem chúng ta và đáp trả những lời cầu xin của chúng ta cách quảng đại, đặc biệt là lời cầu nguyện trong Thánh Lễ hay bằng việc đọc Kinh Mân Côi, chầu Thánh Thể hay đọc Kinh Lòng Chúa thương xót… Vậy thế, tại buổi đọc kinh Truyền Tin vào ngày 26 tháng 1, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã đề cập đến dịch bệnh Trung Quốc, và mời các tín hữu từ khắp nơi trên thế giới cầu nguyện cho Trung Quốc. Con người có thể sai lầm và phạm lỗi, nhưng Chúa thì vĩ đại và nhân hậu. Thiên Chúa không bao giờ bỏ qua một trái tim hối cải và khiêm tốn. Ngày nay, các Kitô hữu phải cầu nguyện chân thành, vì đất nước chúng ta thực sự cần sự giúp đỡ của Chúa. Vậy, là người Công Giáo, chúng ta cầu xin Thiên Chúa ban cho:

– Những nhà hữu trách có biện pháp kịp thời và hữu hiệu để bảo vệ người dân trước sức công phá của đại dịch viêm phổi Corana này.

– Cầu nguyện cho những bệnh nhân, những người có dấu hiệu mắc bệnh. Xin Chúa ban cho họ và gia đình được nhiều bình an để vượt qua thời khắc mong manh này.

– Chúng ta cầu nguyện cho những y tá, bác sĩ và những người trực tiếp chữa trị căn bệnh này. Xin Chúa ban cho họ lòng can đảm, sức khỏe và sáng suốt để đón nhận những bệnh nhân.

– Nhất là chúng ta cầu nguyện cho những người đang tìm kiếm phương thuốc chữa trị. Xin Chúa Thánh Thần soi sáng cho họ sớm tìm ra câu trả lời cho bài thuốc chữa trị và vác-xin chống lại con virus Corona này.

– Đặc biệt, chúng ta cầu xin Chúa ban cho người hữu trách có tâm hồn cộng tác để cùng với thế giới, đặc biệt là với tổ chức Y Tế Thế Giới, cùng nhau đối phó với căn bệnh này.

– Chúng ta không quên cầu nguyện cho những người đã chết vì căn bệnh này. Xin Chúa đoái thương linh hồn của họ.

– Sau cùng, chúng ta tha thiết cầu xin Chúa ban cho nhân loại được bình an trong năm này. Hy vọng nhờ hồng ân Chúa, virus Corona không trở nên nỗi kinh hoàng cho Trung Quốc và thế giới.

Ước mong những lời cầu xin của chúng ta được Chúa thương đón nhận. Amen.

 

53.             Muối ướp mặn đời và ánh sáng cho trần gian

(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)

 

Có một nhà tu đức nói rằng: Bạn muốn là một người Kitô  hữu tốt trước hết bạn hãy là một con người tốt. Bạn muốn là một vị thánh, thì bạn phải là một người Kitô hữu tốt. Nhưng trước khi là Kitô hữu tốt thì phải là một con người biết sống đúng bổn phận của mình. Cho nên, một học sinh muốn trở thành người có tài và trí thức, thì trước hết, em phải là học sinh hiền lành và chăm học. Còn người có tài nhưng không sống đúng bản chất con người là “nhân chi sơ tính bản thiện” thì cũng chỉ là kẻ gieo vãi sự chết chóc nơi nhân thế thay vì dùng tài năng để phục vụ cho đời. Cho nên ông bà ta nói có tài mà không có đức là người vô dụng.

 

Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy bản chất của người Kitô hữu không phải là những gì cao xa nhưng chỉ là muối hay ánh sáng. Muối và ánh là những thứ trông vẻ rất bình thường nhưng lại thật hữu ích cho đời sống con người. Muối thì thấp hèn, âm thầm và khiêm tốn nhưng muối làm thức ăn thêm thơm ngon và đậm đà. Ánh sáng soi cho người ta thấy rõ đường đi, cho con người nhận ra nhau để quan hệ giữa người với người thêm trong sáng chân thành. Nhưng thân phận của muối và ánh sáng cả hai đều phải chịu hao mòn hy sinh thì mới thực sự có ích cho đời: muối tan dần đi, ngọn đèn ngày càng tàn lụi. Lý do tồn tại của cả hai là có ích cho con người: nếu muối không mặn và đèn không sáng thì không có ích gì nữa, chỉ có vất đi mà thôi.

 

Thân phận và hoàn cảnh của mỗi kitô hữu khác nhau nhưng có chung một chức năng ánh sáng hay muối, tức là sống tốt, sống hiền và sống thánh nơi môi trường mình sống. Chức năng này chính Thiên Chúa đã phú bẩm ngay từ khi tạo dựng nên ta. Cụ thể, ngược dòng lịch sử 600 năm trước Chúa Giêsu Giáng Sinh, Lời Chúa trong bài đọc một, Ngôn sứ Isaia đã dạy chúng ta chức năng ánh sáng cho đời: chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ; thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục? Đừng bao giờ khinh bỉ người khác, phải loại bỏ những tranh chấp, hăm dọa, đừng nói xấu anh chị em mình đồng thời làm cho người đau khổ được hạnh phúc… Và “Như thế, sự sáng của ngươi sẽ tỏa rạng như hừng đông, ánh sáng của ngươi sẽ bừng lên trong đêm tối và bóng tối sẽ trở thành như giữa ban ngày”. Đó là chức năng của ánh sáng, còn vị mặn của muối Tin Mừng, đó là lòng yêu mến Chúa mặn nồng, là tình yêu tha nhân mặn mà, bằng cách sống Tám Mối Phúc Chúa Giêsu dạy: khó nghèo, hiền lành, công chính, thương người, tâm hồn trong sạch, xây dựng hòa bình…

 

Chúa Giêsu xác định chúng ta những người Kitô hữu là muối cho đời, là ánh sáng cho thế gian. Muối và ánh sáng không bao giờ là muối và ánh sáng cho mình mà có liên hệ với người khác, với cuộc đời và môi trường mà mình sống. Vì vậy hiện diện của người kitô hữu không bao giờ hiện diện cho mình mà luôn hiện diện với người khác, với cuộc đời và cho cuộc đời. Hiện diện đó mang giá trị tích cực vì đây là hiện diện của muối và của ánh sáng. Nhiều khi mình liên hệ với người khác bằng cách gây đau khổ cho người ta, mình gieo tăm tối trong cuộc đời bằng sự độc ác và hận thù, đó là sự hiện diện tội lỗi, tiêu cực. Còn hiện diện tích cực đó là có khả năng ướp mặn đời và chiếu sáng vào cuộc đời bằng sự thánh thiện, hiền lành, hy sinh, tha thứ và yêu người. Hiện diện khả năng ướp mặn đời và chiếu sáng này không phải là một đòi hỏi phụ thuộc, thích thì làm không thích thì thôi, nhưng nó nằm trong bản chất của người Kitô hữu chúng ta. Nếu muối là mặn mà mất bản chất mặn không phải là muối, bản chất của ánh sáng là chiếu tỏa, mà mất sáng thì không phải là ánh sáng, vậy thì bản chất Kitô hữu chúng ta cũng vậy. Nếu mình không yêu thương, không tha thứ, không hy sinh hay không hiền lành thì vẫn chưa phải là Kitô hữu thực sự, vẫn còn đi trong bóng tối vì chưng, Thánh Gioan tông đồ khẳng định rằng: “Ai nói rằng mình biết Thiên Chúa mà không tuân giữ các điều răn của Người, đó là kẻ nói dối, và sự thật không ở nơi người ấy. Còn Ai nói rằng mình ở trong ánh sáng mà lại ghét anh em mình, thì vẫn còn ở trong bóng tối” (1Ga 1,4.9).

 

Ngọn nến trong nhà thờ cháy hoài không tắt vì 4 bức tường kín. Nhưng đem nó ra ngoài đường nhất là lúc trời nỗi gió to thì liệu ánh lửa của ngọn nến còn cháy không. Cũng vậy, khi chúng ta tôn thờ Chúa trong nhà thờ, chúng ta cảm thấy rất đỗi thánh thiện, không phạm tội trong lúc này. Nhưng đến lúc lễ xong trở về với đời với những cơn gió to của cuộc đời: đau khổ, thử thách, cám dỗ cuốn hút dục vọng trần thế… làm cho chúng ta phạm tội: những lọc lừa, phỉnh gạt, cũng ăn gian nói dối, chửa tục, ngoại tình, rượu chè, cờ bạc, gái gú… thay vì thánh hóa cuộc đời nhưng chúng ta để cuộc đời tục hóa mình. Vì vậy, chúng ta phải quay về với tiếng gọi của Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy là ánh sáng cho đời ngay khi chúng ta chịu Phép Rửa Tội. Chính biểu tượng ngọn nến cháy chúng ta cầm trong ngày chịu Phép Rửa dạy ta chân lý: tự thân chúng ta không phải là ánh sáng mà lấy lửa từ nến Phục sinh, từ Chúa Kitô. Tự thân mình không phải là muối mặn mà chất mặn ấy phải lấy từ Tám Mối phúc của Chúa dạy! Vì thế để giữ được chất muối và ánh sáng, chúng ta đến với Chúa Kitô và thi hành Lời của Ngài. Thánh Phaolô trong bài đọc 2 nói: “Tôi giảng mà chẳng có dùng lời lẽ khôn khéo hấp dẫn, nhưng chỉ dựa vào bằng chứng xác thực của Thần Khí và quyền năng Thiên Chúa”. Sức mạnh của thánh Phaolô là tiếp cận Chúa Kitô và từ đó Ngài có khả năng loan báo và làm ánh sáng soi chiếu cho người khác. Làm sao để tiếp cận Chúc Kitô chỉ có cách đọc kinh cầu nguyện, đọc và suy niệm Lời Chúa, tham dự thánh lễ, đặc biệt sống niềm vui Phúc âm trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống.

Mỗi người chúng ta có một hoàn cảnh sinh sống khác nhau nhưng ước gì qua Lời Chúa hôm nay, xin hãy dùng chính nó để làm chứng cho ánh sáng Tin Mừng cứu độ của Chúa giữa xã hội hôm nay. Xin Chúa hãy cho chúng con tình yêu say mến Chúa và tha nhân để chúng con yêu thương, hy sinh và phục vụ anh chị em như hạt muối đất ướp cho mặn đời và như ánh sáng cho trần gian. Amen.

 

54.             Men muối và ánh sáng cho đời

(Suy niệm của Lm. Giuse Vũ Tiến Tặng)

 

Lời Chúa trong Tin Mừng theo thánh Matthêu của Chúa Nhật thứ năm mùa Thường Niên năm A nhắc đến lời mời gọi của Đức Giêsu. Ngài kêu mời mỗi người trong chúng ta hãy trở nên muối ướp trái đất và ánh sáng chiếu soi trần gian. Đức Giêsu đã dùng hai hình ảnh rất thực tiễn trong cuộc sống, vì muối đem lại vị mặn cho món ăn, và ánh sáng có tác dụng đẩy lui bóng tối. Muối và ánh sáng là những thứ không thể thiếu đối với nhân loại. Vai trò tham gia biến đổi môi trường xung quanh của chúng hết sức tích cực: muối có thể hòa tan vào toàn bộ món ăn để ướp mặn cho món ăn, còn ánh sáng lại có thể chiếu giãi hết mọi ngóc ngách của khoảng không gian xung quanh mình.

 

Với tư cách là Kitô hữu, chúng ta có thể thực hiện vai trò men muối và ánh sáng mà Đức Giêsu đề cập đến trong Tin Mừng của Chúa Nhật hôm nay như thế nào? Có thể nói Ngài nhấn mạnh ở đây vai trò làm chứng được thể hiện qua việc làm cụ thể của chúng ta. Điều cần thiết là chúng ta giữ được nơi mình nhiệt huyết đối với sứ mạng này giống như bản chất của muối, hay như một chiếc đèn vốn luôn được thắp sáng: “Sự sáng của các con cũng phải chiếu giãi ra trước mặt thiên hạ, để họ xem thấy những việc lành của các con mà ngợi khen Cha các con trên trời”.

 

Quả thật, nguồn ánh sáng đích thực đến từ Thiên Chúa. Ngày lãnh nhận bí tích Rửa Tội, chúng ta tiếp nhận từ nơi Thiên Chúa nguồn ánh sáng giúp soi đường chỉ lối cho chúng ta trong suốt cả cuộc hành trình trần thế. Đến lượt mình, chúng ta cũng được mời gọi phản chiếu lại ánh sáng này cho môi trường sống chung quanh. Theo chiều hướng đó, chúng ta được mời gọi trở nên hoàn thiện như Cha của chúng ta, Đấng ngự trên trời, là Đấng Toàn Năng; được mời gọi sống như những người con của ánh sáng; và làm điều tốt lành như Thiên Chúa nhân từ, vì Người chiếu sáng mặt trời và tuôn đổ mưa móc xuống cho hết thảy mọi người, cho người lành cũng như kẻ dữ.

 

Những ai làm được như thế cho tha nhân sẽ trở nên ánh sáng cho thế gian giúp người khác có thể nhận biết Thiên Chúa là Đấng tốt lành. Họ sẽ được gọi, theo như lời của Thánh Vịnh đáp ca hôm nay, là những người kính sợ Thiên Chúa, hằng yêu mến thánh ý của Người, là người công chính và biết cảm thương. Họ cũng biết thực thi sát với lời dạy bảo của Thiên Chúa nêu lên trong bài đọc thứ nhất trích sách tiên tri Isaia: “Hãy chia bánh của ngươi cho kẻ đói, hãy tiếp nhận vào nhà ngươi những kẻ bất hạnh không nhà ở; nếu ngươi gặp một người trần truồng, hãy cho họ mặc đồ vào, và đừng khinh bỉ xác thịt của ngươi. Như thế, sự sáng của ngươi tỏ rạng như hừng đông, […] ánh sáng của ngươi sẽ bừng lên trong bóng tối, và bóng tối sẽ trở thành như giữa ban ngày”.

 

Xét cho cùng, khi chúng ta bước đi trong huấn lệnh của Thiên Chúa, thực thi những điều Người chỉ bảo, là chúng ta đã phản chiếu được sự tốt lành của Người cho môi trường sống của mình và đời sống của mình trở nên lời chứng hữu hiệu nhất cho việc loan báo Tin Mừng cứu độ. Cách thức loan báo này, theo kinh nghiệm của thánh Phaolô Tông Đồ trong bài đọc thứ hai, hoàn toàn không dựa vào sức riêng của cá nhân, cũng chẳng “cậy dựa vào những lời quyến rũ của sự khôn ngoan loài người, nhưng dựa vào sự giãi bày của thần trí và quyền năng của Người”.

 

Loan báo Tin Mừng là bản chất của Giáo Hội và là sứ mệnh của mỗi Kitô hữu. Ngày nay, Giáo Hội cần nhiều đến những chứng nhân sống Tin Mừng. Các đấng bậc chủ chăn luôn luôn quan tâm đến công cuộc Tân Phúc Âm hóa để đem Tin Mừng thấm nhập vào môi trường thực tiễn của nhân loại. Xin Chúa Thánh Thần soi sáng và ban sức mạnh để mỗi người biết sống những giá trị đích thực của Tin Mừng. Ở đó vốn đã chứa đựng lời rao giảng sống động nhất. Xin Ngài nung nấu bầu nhiệt huyết của mỗi người để chúng ta luôn luôn ý thức được vai trò làm men muối và ánh sáng cho trần gian mà Đức Giêsu mời gọi chúng ta sống trong bài Tin Mừng hôm nay.

 

55.             Gần đèn thì rạng!

(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)

Tin mừng Mt 5: 13-16: Chúa Giêsu Kitô chính là Ánh Sáng soi chiếu trần gian u mê (Mt 4,16; Pl 2,15; Ep 5,8). Ngài đến để giảng dạy cho thế gian biết đâu là hạnh phúc chân thật…

Thi sĩ Xuân Ly Băng (Đức Ông JB Lê Xuân Hoa) viết bài thơ “Đừng thích làm mặt trời”. Lời thơ thật nhẹ nhàng mà sâu lắng. Nhiều hình ảnh so sánh rất gần gũi thân thương của đời thường.

Khoan mộng làm mặt trời.

Đừng mơ làm sao sáng.

Hãy cố gắng con ơi.

Làm những điều nhỏ mọn

Chỉ vì mến Chúa thôi.

Tặng người con không thích

Một nụ cười thế thôi.

Đôi mắt nhìn trìu mến

Để chia sẽ tâm tình

Với một người đau khổ.

Viếng thăm và giúp đỡ

Người bệnh tật già nua.

Đừng ngại nắng ngại mưa.

Thấy Chúa trong người họ

Không mắng la nạt nộ.

Đừng giận dữ một ai.

Chút mật bắt nhiều rồi

Hơn giấm chua từng hũ.

Hiền lành và tha thứ

Biết rộng rãi khoan dưng.

Theo Chúa ở khiêm nhường

Và sẵn sàng phục vụ.

Việc làm tuy bé nhỏ

Giá trị thật vô cùng

Làm mặt trời đừng mong.

Cũng đừng mơ làm sao sáng…

Đọc thơ, tôi liên tưởng đến hình ảnh Muối và Ánh Sáng của Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay.

Khoan mộng làm mặt trời.

Đừng mơ làm sao sáng.

Chỉ mong làm muối đất.

là ánh sáng Chúa thôi.

Hiến chương Nước trời được Chúa Giêsu công bố trong Tin mừng Chúa nhật vừa qua. Tiếp theo bài giảng trên núi, Chúa Giêsu xác định sứ mạng của các môn đệ: “Anh em là muối cho đời… anh em là ánh sáng thế gian”.

  1. Anh em là muối cho đời, một định nghĩa tuyệt vời về Kitô hữu.

Sử gia Pliny viết: “Không gì bằng hữu dụng bằng muối và ánh sáng”. Không có ánh sáng, cỏ cây sẽ úa tàn. Không có muối, sơn hào hải vị cũng sẽ ra nhạt phèo. Chúa Giêsu ví các môn đệ của Ngài như muối đất và ánh sáng của trần gian. Đây là một vinh dự cho các môn đệ vì họ được mời gọi tham dự vào sứ mệnh làm muối đất, ánh sáng của Chúa Kitô.

Chúa Giêsu Kitô chính là Ánh Sáng soi chiếu trần gian u mê (Mt 4,16; Pl 2,15; Ep 5,8). Ngài đến để giảng dạy cho thế gian biết đâu là hạnh phúc chân thật: “Ta là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống” (Ga 14,6). Chúa Giêsu đã chữa lành những kẻ bị tật nguyền, xoa dịu những tâm hồn đau khổ. Như muối đất, tình yêu của Ngài được biểu lộ qua những nghĩa cử bác ái và cái chết, đã làm cho trần gian tẻ nhạt và khổ đau thêm mặn mà, ý vị.

“Muối đất”. Muối được dùng để khử trùng, gìn giữ thức ăn và để nêm vào các món ăn cho thêm hương vị mặn mà. Nếm một món ăn thiếu muối sẽ thấy nhạt nhẽo. Nhưng chỉ cần thêm vài hạt muối, món ăn trở nên đậm đà và dễ ăn. Người bị bệnh cao huyết áp phải ăn lạt nên thường mất ngon khi ăn. Người Việt thường dùng nước mắm để nêm các món ăn, nhưng vẫn phải thêm muối, món ăn mới hấp dẫn.

Vào thời Chúa Giêsu, muối tượng trưng cho tính hiếu khách. Khách đến nhà thường được tặng bánh mì và muối, biểu hiệu sự tiếp đón nồng hậu.

Ngày xưa, khi chưa khám phá ra phân bón hóa học, người ta dùng muối để làm đất đai thêm phì phiêu. Khi chưa có tủ lạnh, muối còn được dùng để ướp cá, thịt và thức ăn, cất giữ được lâu ngày hơn. Chúa Giêsu sai các môn đệ đến trong thế gian như người ta nêm muối vào thức ăn để thêm hương vị và giữ được lâu. Vị mặn của muối là yếu tố quan trọng. Mặn thuộc về bản chất của muối.Vị mặn, đó là lòng yêu mến Chúa mặn nồng. Vị mặn là tình yêu tha nhân mặn mà. Yêu Chúa mặn nồng, yêu tha nhân mặn mà, đời sống Kitô hữu sẽ ướp hương vị tình yêu mặn mòi cho cuộc đời.

  1. Anh em là ánh sáng cho trần gian, một định nghĩa quá cao trọng về Kitô hữu.

Chỉ Thiên Chúa mới là Ánh Sáng (1Ga1,5), chỉ Đức Giêsu mới dám nhận mình là Ánh Sáng (Ga 8,12). “Anh em là ánh sáng” vì anh em gần Thầy “gần đèn thì sáng”.

“Ánh sáng thế gian”. Một hình ảnh rất quen thuộc với người Việt đó là đèn dầu. Một căn nhà có đèn sáng báo hiệu đang có người ở, có sự sống. Một người đi lạc trong đêm tối hẳn sẽ rất sung sướng khi thấy có ánh đèn. Ánh đèn đem lại niềm vui và thu hút mọi người.“Các con là ánh sáng thế gian”, đây là lời mời gọi truyền giáo, qua đời sống, qua lời nói và hành động, Kitô hữu được mời gọi làm ánh sáng hy vọng cho những ai đang lần bước trong bóng tối tuyệt vọng, dẫn dắt họ đến với Chúa. Trong bóng đêm mịt mùng, một ánh lửa nhỏ cũng có thể được nhìn thấy từ xa.

Chúa Giêsu không nói: các con hãy cố gắng làm muối đất và trở nên ánh sáng cho thế gian nhưng lại nói: “Các con là muối đất và là ánh sáng thế gian”, bởi vì các con là môn đệ của Thầy, vì các con đã lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy.

“Các con là sự sáng thế gian”, sự sáng này không phải do chúng ta tạo nên, nhưng phát xuất từ Chúa Kitô: “Ta là sự sáng thế gian” (Ga 8,12). Chúa Giêsu muốn chúng ta như tấm gương phản chiếu ánh sáng của Ngài, cho mọi người và cho mọi nơi. Do đó, ánh sáng được chiếu tỏa không phải cho chúng ta được vinh danh, nhưng cho vinh quang của Chúa: “Sự sáng của các con phải chiếu giãi ra trước mặt thiên hạ, để họ xem thấy những việc lành của các con mà ngợi khen Cha các con trên trời”.

Muối đất, sự sáng thế gian: hai hình ảnh cùng diễn tả một lời mời gọi. Tiên tri Isaia, trong Bài đọc 1 đưa ra những phương cách để giữ muối khỏi “lạt” và ngọn đèn luôn chiếu sáng. Đó là sống bác ái, chia cơm sẻ bánh cho người nghèo đói, tiếp đón những kẻ bất hạnh vô gia cư, cho quần áo những người không đủ mặc… Khi ấy, “ánh sáng của ngươi sẽ bừng lên trong bóng tối và bóng tối sẽ trở thành như giữa ban ngày”.

Có lẽ nhiều người sẽ tự nhủ: làm sao mình có khả năng và xứng đáng làm muối đất và sự sáng cho mọi người? Nắm muối gồm những hạt muối nhỏ dồn lại, đèn sáng được nhờ những giọt dầu góp lại. Những hạt muối nhỏ đó, những giọt dầu đó là những việc bé nhỏ mà chúng ta thực hiện trong đời sống hằng ngày: những nụ cười, lời nói lịch thiệp, những cử chỉ bác ái khiêm nhường, thái độ biết lắng nghe, sống tha thứ biết nghĩ đến người khác…

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay nhấn mạnh đến chứng từ muối đất và ánh sáng trần gian của Kitô hữu. Nếu chúng ta thương yêu nhau như Chúa đã yêu thương thì chính đời sống, việc làm, việc bác ái sẽ mang lại hương vị cuộc đời, hương thơm cho mọi người, chiếu tỏa ánh sáng giúp nhiều người đến với Chúa là “nguồn ánh sáng và ơn cứu độ” (Tv 2,1). Kitô hữu tiếp nhận ánh sáng từ Chúa Giêsu để rồi chiếu lên làn ánh sáng hy vọng, ánh sáng tin yêu, ánh sáng công bình bác ái. Những chứng tá đức tin cậy mến, những gương sáng đời sống gia đình, những nỗ lực thực thi các giá trị Phúc Âm chính là muối thêm hương vị đức ái cho đời, là những ánh sáng đức tin soi đường truyền giáo.

 

56.             Hãy trở nên “vị mặn tình yêu Giêsu”

(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP.)

Chúa Nhật tuần trước, thánh Mátthêu tường thuật việc Đức Giêsu lên tiếng giảng dạy và mời gọi những người đang nghe Ngài đi theo con đường Bát Phúc thì được sống hạnh phúc đời đời. Hôm nay, như một sự tiệm tiến mang tính cấp thiết, Đức Giêsu không ngần ngại khẳng định: “Các con là muối đất” (Mt 5,13). Nhưng“Nếu muối mà nhạt đi, thì lấy gì mà muối cho nó mặn lại? Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc đổ ra ngoài cho thiên hạ chà đạp lên thôi” (Mt 5,13).

Vậy vai trò của muối trong đời sống thường ngày và ý nghĩa mà Đức Giêsu dùng để chỉ về các môn đệ là gì?

 

  1. Muối trong sinh hoạt đời thường

Khi nói đến muối, chúng ta cũng nhớ ngay đến những cánh đồng muối. Muối được tích tụ từ lượng nước biển, khi nước biển dâng lên, người ta đắp đập, be bờ để giữ nước, rồi chờ cho ánh nắng mặt trời chiếu vào và sau đó, nước biển se lại thành muối. Từ một khối nước khổng lồ, nhưng khi thành muối, ta thấy nó trở thành những hạt li ti. Như vậy, muối là một hạt nhỏ nhoi trong muôn ngàn những loại khổng lồ. Nó nhỏ đến độ nhiều người không cần quan tâm đến nó nữa, chỉ biết được nó nặm mà thôi. Tuy nhiên, để cho mọi người thưởng thức được ngon miệng thì bản chất của nó phải hòa tan ra giữa thức ăn. Nếu không tan ra thì muối chỉ trơ trọi một mình và không phát huy được tác dụng của nó. Khi nhắc đến muối, người ta cũng nhớ đến màu sắc của nó là màu trắng, gợi lại cho chúng ta màu của sự tinh khiết, trong sạch. Khi nghĩ về muối, người ta cũng cảm nghiệm ngay đến vị mặn của nó.

Từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây… không ai nói là tôi không cần đến muối. Vì thế, người ta dùng muối để bảo quản thức ăn khỏi hư thối, tăng hương vị. Chẳng thế mà cha ông ta thường có câu: “Cá không ăn muối cá ươn”. Muối làm cho thức ăn thêm đậm đà. Muối cũng làm cho vị ngọt đã ngọt lại càng ngọt hơn. Người ta cũng dùng muối để trị bệnh, sát trùng và diệt khuẩn. Muối còn có chức năng giúp tiêu hóa tốt, dung hòa i – ốt trong cơ thể, và ngăn ngừa bệnh tật. Muối là một trong những khoáng chất quan trọng nơi sinh hoạt của con người và súc vật. Muối trở nên quan trọng và phát huy tác dụng là vì nhờ vào vị mặn của nó. Nếu nó không còn mặn thì chỉ còn nước đổ ra đường cho người ta chà đạp lên mà thôi.

 

  1. Muối của người môn đệ

Khi ví người môn đệ như là muối ướp, Đức Giêsu muốn nói đến bản chất của người môn đệ là phải mặn. Người môn đệ phải mang trong mình vị mặn của tình yêu, tha thứ, bao dung và liên đới. Nếu không có vị mặn như thế thì không còn đóng giữ vai trò của mình nữa. Chính vì thế, Đức Giêsu nói: “Các con là muối đất” (Mt 5,13). Nhưng tiếp theo sau đó, Ngài nói ngay: “Nếu muối mà nhạt đi, thì lấy gì mà muối cho nó mặn lại? Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc đổ ra ngoài cho thiên hạ chà đạp lên thôi” (Mt 5,13). Thật vậy, người môn đệ trở nên muối trước tiên là ướp chính mình; sau là ướp cho đời.

Khi nói người môn đệ phải có trách nhiệm ướp đời, Đức Giêsu ngầm muốn nói đến một xã hội đang bị hư hỏng vì sự bê tha, suy đồi và trụy lạc về luân lý… Vì thế, để khỏi hư thối, người môn đệ phải trở nên muối mặn của nhân đức, và phải mang trong mình “vị mặn Giêsu” thì mới mong ướp cho đời được. Có thế, người môn đệ mới hy vọng đem lại cho xã hội một mùi vị thơm ngon… thay cho lạt lẽo, gian dối.

Cũng như những hạt muối được làm từ một khối nước biển tràn vào thế nào, thì người môn đệ cũng phải biết đón nhận nguồn “vị mặn Giêsu”, để rồi trở nên muối và góp phần ướp cho đời như vậy. Nếu hạt muối phải tan chảy ra thấm nhập vào từng thớ thịt, con cá… để tăng hương vị, để khỏi hư thối thế nào, thì người môn đệ cũng phải hòa mình vào trong cuộc sống nhân loại như vậy. Tuy nhiên, chúng ta không thể làm biến chất vì những thói đời hư hỏng, mà vẫn luôn giữ được vị mặn như muối.

Thật vậy, vị mặn của mỗi chúng ta chính là mặn vì yêu mến Chúa, mặn vì yêu thương anh em, mặn vì lòng bao dung và sẵn sàng tha thứ cho những người xúc phạm đến chúng ta.

Lạy Chúa, giữa một xã hội vàng thau lẫn lộn, coi thường những giá trị đạo đức, và đang trên đà xuống dốc vì những giá trị tầm thường. Xin Chúa cho chúng con được trở nên muối ướp cho đời để xã hội này ấm hơn nhờ “vị mặn của tình yêu Giêsu”. Amen.

 

57.             Muối và Ánh Sáng cho đời – Lm. Đan Vinh

HỌC LỜI CHÚA:

Ý CHÍNH: Muối ướp cho đời và ánh sáng cho thế gian

Đây là đoạn Tin Mừng tiếp theo bài giảng về Tám Mối Phúc Thật, nhằm nói lên bản chất và sứ mệnh của người môn đệ trong xã hội trần thế. Bản chất việc tông đồ của họ là muối mặn ướp cho đời khỏi hư hỏng và là ánh sáng soi đường cho thế gian. Họ có sứ mạng loan truyền Tin Mừng của Chúa đến cho mọi người. Để chu toàn được sứ mạng khó khăn này thì người môn đệ của Chúa phải trở thành thứ muối có chất mặn và là cây đèn có khả năng cháy sáng được đặt lên giá đèn cao để soi sáng mọi vật trong nhà giống như một thành phố được xây trên núi không tài nào che giấu được. Nghĩa là trước hết họ phải sống tinh thần Tám Mối Phúc Thật của Chúa Giêsu, để nhờ nếp sống tốt lành trổi vượt này, người đời sẽ được cảm hóa và sẵn sàng đón nhận Tin Mừng Nước Trời do họ công bố.

CHÚ THÍCH:

C 13: + Muối cho đời: Muối là một chất phụ gia cần cho sự sống con người. Nó có tác dụng tẩy uế và sát trùng (x. Tl 9,45). Đức Giêsu muốn cho các môn đệ trở thành những người giữ cho xã hội khỏi hư hỏng tội lỗi, cũng giống như muối ướp thịt cá khỏi hư họai. Muối cũng làm cho đồ ăn được thơm ngon, là thứ gia vị tượng trưng cho giao ước được thêm vào các lễ phẩm dâng tiến cho Đức Chúa (x. Lv 2,13). Đức Giêsu muốn các môn đệ của Người phải cải tạo xã hội loài người ngày một tốt đẹp hơn theo Thánh Ý Thiên Chúa, cũng như chất muối làm cho các món ăn thêm đậm đà ngon miệng. + Muối mà nhạt đi: Ở đây nói đến thứ muối bị biến chất, không còn vị mặn nữa. Nhưng thực ra muối nào mà chẳng mặn. Khi dùng kiểu nói này, Đức Giêsu muốn dạy rằng: Môn đệ nào không sống đúng vai trò muối mặn, là một môn đệ bị biến chất, không còn là môn đệ thực sự của Người nữa. + Nó đã thành vô dụng: Muối mà ra nhạt sẽ chẳng ích lợi gì, không được dùng dù chỉ là làm phân bón. Người môn đệ cũng vậy: một khi không sống theo Tám Mối Phúc Thật, là tự đánh mất sự cao quý của mình, và sẽ trở thành đồ hư vất bỏ đáng bị người đời khinh dể. + Chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi: Thời bấy giờ có nhiều người thường hay đổ các đồ phế thải ra ngòai đường cho người ta dẫm đạp. Số phận của người môn đệ biến chất cũng sẽ bị người đời chà đạp khinh khi như thế.

C 14: + Ánh sáng: Có đặc tính chiếu soi, xua đuổi bóng tối và làm cho người ta nhìn thấy đồ vật chung quanh. + cho trần gian: Môn đệ là ánh sáng soi cho thế gian, phân biệt với Đức Giêsu chính là nguồn phát ra ánh sáng như lời Người nói: “Tôi là ánh sáng đến thế gian, để bất cứ ai tin vào Tôi, thì không ở lại trong bóng tối” (Ga 12,46), và: “Bao lâu các ông còn có ánh sáng, hãy tin vào ánh sáng, để trở nên con cái ánh sáng” (Ga 12,36). + Một thành xây trên núi sẽ không tài nào che giấu được: Cũng vậy, ánh sáng có khả năng lôi kéo sự chú ý của người ta giống như thành phố xây trên núi khiến ai cũng dễ dàng nhìn thấy. Đời sống tốt lành của người môn đệ Đức Ki-tô cũng sẽ ảnh hưởng tới người khác. Điều này không trái nghịch với lời cảnh giác các môn đệ phải tránh thói phô trương công đức như các người Pha-ri-sêu giả hình (x. Mt 6,1).

C 15-16: + Cái thùng: là một dụng cụ đo lường đựng được khỏang 9 lít, dưới chân đế có ba hoặc bốn cái chân. + “thắp đèn lên rồi lại đặt bên dưới cái thùng”: cũng giống như câu “Chẳng lẽ mang đèn tới để đặt dưới cái thùng hay dưới gầm giường? Nào chẳng phải là để đặt trên đế sao?” (x. Mc 4,21). + Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi: Ở đây nhắc đến mục đích và phương cách làm việc tông đồ: Môn đệ sống tốt lành là nhằm cho người ta ngợi khen Chúa Cha trên trời, chứ không tìm tiếng khen nơi người đời. Thánh Ky-sô-lô-gô (Chrysôlôgô) nói: “Nếu người Ki-tô hữu sống xứng danh Ki-tô hữu, thì chắc sẽ không còn người ngoại giáo nữa!”.

CÂU HỎI:

1) Muối có đặc tính gì? Đức Giêsu muốn môn đệ làm gì khi ví các ông với muối mặn? 2) Muối nhạt đi ám chỉ điều gì nơi các môn đệ? 3) Số phận của họ sẽ thế nào nếu họ trở thành đồ vô dụng? 4) Phân biệt giữa ánh sáng của các môn đệ với ánh sáng của Đức Giêsu khác nhau ra sao? 5) Đời sống của người môn đệ sẽ có tác động thế nào đối với người khác? 6) Khi dạy môn đệ phải chiếu giãi ánh sáng trước mặt người đời bằng các việc lành, phải chăng Đức Giêsu muốn các ông bắt chước lối sống giả hình như bọn Biệt Phái?

  1. SỐNG LỜI CHÚA
  2. LỜI CHÚA: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ” (c. 16a).
  3. CÂU CHUYỆN:

1) Gương sáng phục vụ của một nữ tu:

Cách đây ít lâu một đoạn phim ngắn được chiếu trên đài truyền hình Pa-ri (Paris) nước Pháp: Đầu tiên người ta nhìn thấy trên màn ảnh nhỏ một đôi bàn tay xinh xắn và nõn nà đang săn sóc một vết thương lở loét trông thật ghê sợ. Tiếp theo là cảnh một nữ tu bác ái đội voan chùm đầu đang phục vụ một người bị bệnh phong. Rồi đến cảnh một khán giả đang ngồi xem truyền hình nói với người bên cạnh: “Có cho tôi một ngàn phờ-răng, tôi cũng không bao giờ thèm làm công việc ghê tởm ấy!”. Cuối cùng là cảnh phóng viên hỏi chị nữ tu kia: “Xin hỏi chị đã phục vụ các bệnh nhân phong ở đây được bao lâu rồi?” Nữ tu trả lời: “Thưa được gần 20 năm”. Phóng viên hỏi tiếp: “Thế mỗi tháng chị nhận được thù lao bao nhiêu?” Nữ tu trả lời: “Thưa không có đồng nào cả!”. Câu hỏi tiếp: “Có người nói: Dù có cho họ một ngàn phờ-răng, họ cũng không bao giờ thèm làm công việc ghê tởm này. Vậy tại sao chị lại sẵn lòng làm việc này không công tới gần hai mươi năm?” Nữ tu trả lời: Tôi cũng vậy, có cho tôi một triệu phờ-răng tôi cũng không muốn làm việc này. Nhưng chính do lòng yêu mến Chúa Giêsu mà những bệnh nhân này là hiện thân của Người, nên tôi sẵn sàng làm tất cả mà không cần bất cứ thù lao nào hết!”.

2) Gương trung thành của một con chó:

Tại một trạm xe điện ngầm bên Nhật Bản, có một bức tượng khá nổi tiếng, không phải tượng của một nhân vật danh tiếng, nhưng là tượng một chú chó. Ai đi qua cũng chăm chú nhìn tượng con vật được tạc trong tư thế nằm ngước mắt nhìn về phía trước như đang đợi ai đó. Bức tượng này là hình ảnh của một chú chó mà câu chuyện về sự trung thành của nó lay động lòng người như sau: Một công nhân Nhật có nuôi được một con chó khôn ngoan và trung thành. Nó luôn đi theo và quấn quít bên ông chủ. Ngày nào nó cũng tiễn đưa ông đi làm tại trạm xe điện ngầm gần nhà. Nó chờ cho chủ lên tàu và tàu đóng cửa lại rồi mới đủng đỉnh ra về. Chiều đến, nó lại xuất hiện đúng giờ xe điện về đến trạm, vẫy đuôi chào đón chủ và sau đó ngoan ngoãn đi theo ông về nhà. Ngày nào cũng vậy, sáng theo chủ đến bến, chiến lại đến bến để đón chủ. Nhưng rồi một buổi chiều kia, người chủ của nó đã không trở về do tai nạn sập hầm và ông bị chết trong đó. Hôm ấy con chó như mọi lần đã đến trạm chờ chủ. Nhưng chờ đến chuyến xe cuối cùng mà không thấy chủ. Nó đành thất thểu ra về khi màn đêm bắt đầu buông xuống. Hôm sau, trời vừa hừng sáng nó đã có mặt tại trạm xe điện và ngồi yên chờ chủ. Nhưng đến tối mịt không thấy ông, nó lại lui thủi trở về. Và ngày nào cũng vậy, con chó luôn có mặt và ra về đúng giờ dù không có ông chủ đi cùng. Chẳng ai thèm quan tâm tới con vật đáng thương ấy, ngoại trừ ông xếp nhà ga và mấy nhân viên phục vụ nhà ga. Người ta thấy càng ngày con chó càng gầy đi. Ai cho đồ ăn, nó cũng chỉ ngửi qua và không ăn. Đôi mắt nó ngày một buồn hơn, và bước đi của nó cũng ngày một loạng choạng chậm chạp hơn. Nó thất vọng vì bị mất ông chủ thật rồi!

Vào một buổi sáng kia, tiết trời giá rét, bên cạnh dòng người mặc áo ấm chen chúc nhau lên tàu, người ta thấy con chó trắng đã nằm chết co quắp bên vệ đường từ bao giờ. Thương hại con vật trung thành, ông xếp và các nhân viên nhà ga xe điện đã chôn cất nó tử tế. Và để tưởng nhớ một con vật trung thành, người ta đã đúc một bức tượng của nó và đặt ngay nơi nó thường nằm mỗi khi đến đưa đón chủ.

3) Hai lối ứng xử mang lại hai kết quả trái ngược:

Đức cha Phun-Tơn Sin (Fulton Sheen) đã kể lại hai câu chuyện sau đây:

+ Câu chuyện thứ nhất: Tại một nhà thờ bên Nam Tư, một em lễ sinh đang giúp lễ cho cha già, đã vô tình đánh rơi làm bể lọ rượu lễ. Ngay lúc đó, vị linh mục dù đang dâng lễ, đã không kềm nổi sự tức giận, thẳng tay đánh em một bạt tai té giập vào tường. Ông còn thét lên: “Đồ nhãi ranh, làm ăn như vậy hả? Mau cút ngay đi khuất mắt tao và nhớ đừng bao giờ vác mặt trở lại đây nữa nhé!” Cậu bé giúp lễ bị đánh rất tức giận. Cậu ta liền cởi ngay chiếc áo giúp lễ, rời khỏi nhà thờ và thề quyết sẽ không bao giờ thèm đặt chân vào nhà thờ nữa. Từ ngày đó, cậu ta trở thành kẻ thù của Giáo Hội. Về sau, khi đã trở thành người có quyền hành lớn lao, ông ta luôn gây khó dễ và quyết tâm tiêu diệt Giáo Hội. Kẻ đó không ai khác hơn là thống chế Ti-tô, một thời cai trị đất nước Nam Tư cũ.

+ Câu chuyện thứ hai: Đức cha Phun-tơn tiếp tục kể câu chuyện về mình như sau: “Tôi còn nhớ rõ là hồi còn nhỏ, tôi đã ước muốn được giúp lễ phục vụ bàn thờ khi linh mục cử hành thánh lễ. Năm lên bảy tuổi, mẹ tôi rất có lòng đạo đã dẫn tôi đến gặp đức Tổng giám mục Giáo phận để xin cho tôi được vào ban lễ sinh giúp lễ tại nhà thờ. Một hôm, đến phiên tôi giúp lễ. Vì lần đầu làm công việc này, nên tôi bị lóng ngóng và lỡ tay làm rớt bình đựng rượu xuống nền cung thánh nhà thờ bể tan thành từng mảnh nhỏ. Ngay lúc đó tôi rất xấu hổ và sợ hãi, vì bọn giúp lễ chúng tôi kháo nhau rằng: Đức Tổng giám mục là một người rất nghiêm khắc. Thế nhưng biết tôi làm bể lọ rượu, mà ngài vẫn không mảy may phản ứng và cứ tiếp tục dâng thánh lễ như không có chuyện gì xảy ra cả. Sau khi thánh lễ kết thúc và cởi áo lễ xong, ngài gọi tôi đến gần. Tôi chuẩn bị tinh thần để nghe ngài quở mắng vì tội bất cẩn làm bể lọ rượu của mình. Nhưng sự thể lại diễn ra trái với tưởng tượng của tôi. Đức cha thân mật đặt bàn tay lên vai tôi rồi âu yếm nhìn thẳng vào mặt tôi và hỏi: “Này con, lớn lên con có muốn đi tu và vào đại học không? Con có bao giờ nghe nói về đại học Lu-vanh (Louvain) chưa?” Tôi đáp: “Thưa đức cha chưa ạ”. Ngài nói tiếp: “Con hãy về nhà thưa với mẹ con rằng: Đức cha bảo lớn lên con sẽ đi tu và sẽ vào học tại đai học Lu-vanh nhé”. Từ ngày đó, tôi cố gắng chăm chỉ học hành và mỗi năm đều đạt thứ hạng cao. Khi tốt nghiệp bậc trung học phổ thông, được cha mẹ đồng ý, tôi đã tự động đến gặp đức cha để xin ngài cho tôi được dâng mình cho Chúa và được vào chủng viện học làm linh mục. Vì là học sinh xuất sắc, tôi được đức cha cấp học bổng để vào đại học Lu-vanh là đại học rất danh tiếng thời đó. Sau 4 năm, tôi tốt nghiệp đại học với hạng ưu và được thụ phong linh mục, rồi một thời gian sau đó thành giám mục. Nghĩ lại cuộc đời của mình, tôi thấy phải cám ơn Chúa đã thương cho tôi có được cha mẹ thật tuyệt vời, đã yêu thương và nuôi nấng dạy dỗ tôi nên người. Nhưng người tiếp theo tôi phải đặc biệt ghi ơn chính là Đức Tổng giám mục Giáo phận. Ngài là người khoan dung độ lượng: đã không la mắng khi tôi sai lỗi mà thay mặt Chúa để kêu gọi tôi dâng mình cho Chúa ngay khi mới 7 tuổi. Cũng nhờ lòng khoan dung và sự quan tâm ưu ái của ngài, mà tôi mới được như ngày hôm nay.

  1. SUY NIỆM:

1) Anh em là muối ướp thiên hạ và là ánh sáng chiếu soi cho đời:

“Thế nào là một Ki-tô hữu?”. Trong Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu đã trả lời cho vấn nạn ấy qua hai hình ảnh là muối và ánh sáng như sau:

– Muối mặn: Như chất muối mặn thấm vào đồ ăn, để giữ cho đồ ăn khỏi bị hư hỏng và thêm ngon miệng thì người tín hữu cũng phải sống chan hòa với mọi người chung quanh để cải hóa họ nên tốt hơn. Vị mặn là bản chất của muối. Nếu muối không còn chất mặn thì không còn phải thực sự là muối nữa. Một khi người tín hữu mất đi đức tin, thể hiện qua việc không quan tâm giữ các giới răn và không có tình thương người theo tinh thần của “Tám Mối Phúc”, chứng tỏ chất muối đức tin nơi họ đã biến chất, bấy giờ họ không còn có giá trị nữa và đáng bị khinh khi như muối lạt bị quăng ra đường cho mọi người chà đạp.

– Ánh sáng: Thực ra chỉ mình Đức Giêsu mới là nguồn sáng (x. Ga 8,12). Nhưng Người cũng muốn các tín hữu hôm nay phải giãi ánh sáng chiếu soi cho trần gian. Muốn chiếu giãi ánh sáng của Chúa cho người khác, trước hết chúng ta phải có Chúa là nguồn sáng trong tâm hồn mình. Lòng tin cậy mến Thiên Chúa phải được thẻ hiện qua các việc lành như: chia sẻ cơm áo cho người nghèo đói, khiêm tốn phục vụ những người bệnh tật, chăm sóc những người già cô đơn và những trẻ em mới sinh bị bỏ rơi… Nhờ đó lương dân sẽ nhận biết Thiên Chúa là “nguồn ánh sáng và là ơn cứu độ” (Tv 27,1) và tin theo Đức Giêsu qua các tín hữu như Người đã dạy: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).

2) Thực trạng thế giới hôm nay:

Nhiều người tín hữu chúng ta thường hay phàn nàn rằng: xã hội hôm nay ngày một suy đồi xuống cấp về nhân bản và tình người. Nhưng ít ai trong chúng ta dám nhận sự xuống cấp đó cũng có phần trách nhiệm của mình. Thực vậy: Xã hội suy đồi có nhiều nguyên nhân, nhưng trong đó cũng có một phần do lỗi của các tín hữu chúng ta: Có thể do muối Tin Mừng nơi chúng ta đã bị biến chất, tình Chúa tình người nơi chúng ta đã ra nhạt… nên chúng ta thường nhắm mắt làm ngơ trước những nhu cầu của tha nhân, chúng ta không đủ nhiệt tình để dấn thân cải thiện môi trường là gia đình, khu xóm, và xã hội nên đoàn kết và giúp nhau sống tốt hơn. Có thể do cây đèn đức tin của chúng ta đã cạn dầu ân sủng và không còn đủ sức chiếu sáng bác ái được nữa, nên xã hội và thế giới chung quanh chúng ta ngày càng trở nên tối tăm và sa đọa tội lỗi hơn.

3) Chúng ta phải làm gì?

Đọc Tin mừng chúng ta nhận ra rằng môn đệ của Chúa chính là người làm chứng và loan báo Tin mừng. Muối nơi chúng ta phải mặn. Ánh sáng trong chúng ta phải sáng tỏ như thành phố được xây trên núi, nghĩa là Nước Trời được công khai xây dựng bằng cả vật chất, bằng cả con người, bằng lời nói, thái độ cử chỉ hành động… để ai nhìn thấy cũng nhận ra Đức Giêsu đang sống và làm việc trong chúng ta. Hôm nay Đức Giêsu đã trao sứ mạng làm chứng về Chúa cho các Tông đồ và cho Hội Thánh để mọi dân nước được mặn lại đức Tin, được ánh sáng Lời Chúa soi chiếu và Nước Trời sẽ có nhiều người gia nhập và ngày một lan tỏa đến khắp cùng bờ cõi trái đất.

Mỗi người tín hữu cần ý thức nguyên nhân của sự xuống cấp xã hội hiện nay là do sự xuống cấp suy đồi của chính chúng ta, để từ đó biết khiêm tốn cầu xin Chúa Giêsu đổ ơn Thánh Thần chỉnh đốn những sai lệch, tăng cường độ mặn Tin Mừng cho chúng ta. Cần xin Chúa Thánh Thần đốt lên trong tâm hồn chúng ta ngọn lửa tin yêu bằng dầu ân sủng nhờ năng lãnh nhận các phép bí tích, nhất là tham dự các buổi hiệp sông chia sẻ Lời Chúa và cầu nguyện sám hối chung cộng đoàn, năng xưng tội và rước lễ cách sốt sắng để chu toàn sứ mạng.

Hiện nay vẫn có nhiều người tín hữu tuy có khả năng ướp mặn tha nhân, có đủ sức chiếu tỏa ánh sáng tin yêu của Thiên Chúa, nhưng lại không dám dấn thân vì sợ nguy hiểm. Cần có thêm nhiều tín hữu Công giáo trở thành những điểm sáng về các lãnh vực như: ca nhạc, sản xuất kinh tế, những gương điển hình tiên tiến về các công tác bác ái xã hội được tôn vinh trên các phương tiện truyền thông, những mẫu gương hy sinh quên mình được nhiều người biết đến và đề cao trên báo chí, các trang mạng internet và truyền thanh truyền hình… Các tín hữu chúng ta phải tỏa sáng qua những hoạt động tốt đẹp phục vụ người nghèo khó, bị khinh dể và bị bỏ rơi trong các cô nhi viện, nhà nuôi người già, người mù lòa khuyết tật, nhà chăm sóc bệnh cùi hay si-đa… để mọi người được sống chan hòa yêu thương trong đại gia đình có Thiên Chúa là Cha và mọi người là anh em của nhau như sách Khải Huyền đã diễn tả: “Bấy giờ tôi thấy Trời Mới Đất Mới, vì trời cũ đất cũ đã biến mất, và biển cũng không còn nữa. Và tôi thấy Thành Thánh là Giê-ru-sa-lem mới, từ nơi Thiên Chúa mà xuống, sẵn sàng như tân nương trang điểm để đón tân lang” (Kh 21,1-2).

  1. THẢO LUẬN:

1) Trong lịch sử Việt Nam, bạn có biết những nhân vật người Công giáo nào đã để lại những công trình ích quốc lợi dân, làm rạng danh Thiên Chúa trước mặt đồng bào Việt Nam mà đại đa số là lương dân hay không? Cụ thể: Đức cha A-lếch-xăng đờ Rốt đã để lại công trình nào? Ông Nguyễn Trường Tộ đã làm gì? Hàn Mặc Tử đã làm gì? Pe-trus Ký đã làm gì? 2) Mỗi người chúng ta có thể làm gì để chiếu soi ánh sáng tình thương của Chúa giúp đồng bào Việt Nam hôm nay nhận biết tin thờ Thiên Chúa?

  1. NGUYỆN CẦU:

Lạy Chúa Giêsu. Chúa đã ban cho chúng con mặt trời chiếu sáng ban ngày và mặt trăng soi chiếu ban đêm. Chúng con xin tạ ơn Chúa đã dạy các tín hữu chúng con phải trở thành ánh sáng giữa thế gian, là muối mặn ướp cho tha nhân khỏi bị hư hỏng. Đây là niềm vinh dự nhưng cũng là một trách nhiệm phải chu toàn. Xin cho chúng con luôn có ánh sáng của Chúa trong lòng, để đi đến đâu chúng con cũng đẩy lùi tăm tối tội lỗi, bất công và thù hận đến đó. Xin giúp chúng con luôn giữ gìn ngọn lửa đức ái trong tim, và luôn đi theo con đường mà Chúa đã soi dẫn và đi trước chúng con. Trong thực tế, xin cho chúng con luôn biết quên mình yêu thương phục vụ những người nghèo khổ bệnh tật, để nên muối ướp cho đời, trở thành ánh sáng chiếu soi cho trần gian. Xin cho các bậc cha mẹ biết nêu gương công chính, hòa thuận, khiêm tốn và đạo đức để giáo dục đức tin cho con cái. Xin cho chúng con cảm nghiệm được niềm vui của Chúa khi phục vụ những người nghèo hèn bệnh tật và bị bỏ rơi… là hiện thân của Chúa.

  1. X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.

 

58.             Muối cho đời – Lm. Giacôbê Phạm văn Phượng

Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói về muối và ánh sáng. Đó là hai hình ảnh xác định rất rõ và đúng bản chất cũng như sứ mạng của người môn đệ Chúa Giêsu là chúng ta. Chúng ta phải là muối cho đời và ánh sáng cho trần gian.

Chúng ta là muối cho đời nghĩa là gì? Thời Chúa Giêsu, muối được dùng để làm cho đất được tốt, trộn lẫn với phân nên được gọi là muối đất. Ngày nay, muối luôn luôn được sử dụng để giữ cho các thức ăn khỏi bị ôi thối, ngăn chặn hay làm chậm lại sự tan rã hay hư hỏng của thịt cá. Nhưng vai trò thường tình nhất của muối là tạo ra vị ngon: có muối đủ mặn thì ngon, không đủ thì lạt quá, không ngon hay mất ngon. Ngoài tác dụng tạo ra vị ngon, muối còn là một yếu tố rất cần cho cơ thể. Cơ thể chúng ta sống không thể thiếu muối. Ngoài muối thường, ngày nay còn có muối i-ốt, loại muối này vừa dùng để nêm nếm thức ăn, vừa rất có lợi cho sức khỏe trong việc ngừa bệnh bướu cổ. Muối i-ốt hoàn toàn không có mùi vị khác muối thường.

Đó là hình ảnh nói về phẩm chất của người Kitô hữu. Chúng ta là muối cho đời, mang lại mùi vị cho đời, nghĩa là vai trò của chúng ta là phải mang lại niềm vui và phấn khởi cho mọi người, mang lại ý nghĩa cho các thực tại tầm thường đang trở nên nhạt nhẽo. Dùng muối làm hình ảnh: “Anh em là muối cho đời”, rõ ràng Chúa Giêsu muốn đề cao tầm quan trọng đời sống thấm nhuần Tin Mừng của người Kitô hữu đối với thế giới.

Thứ hai, chúng ta là ánh sáng cho trần gian nghĩa là gì? Ai cũng biết: ánh sáng rất quan trọng và cần thiết, không có ánh sáng, con người và vũ trụ vạn vật không thể sống được, bởi lẽ không có ánh sáng tức là không có mặt trời. Mặt trời là nguồn mạch duy nhất và cần thiết cho mọi năng lượng hiện hữu trên hành tinh của chúng ta. Không có mặt trời thì không có than đá, không có chất đốt, không có điện lực, bởi vì sẽ không có rừng, không có thủy triều. Như vậy, ánh sáng rất cần thiết, không có ánh sáng thì không có sự sống. Cũng thế, không có ánh sáng thì cũng không có mầu sắc, không có vẻ đẹp.

Đó cũng là một hình ảnh nữa nói về phẩm chất của Kitô hữu. Chúng ta phải chiếu giãi sự sáng ra trước mặt người ta, tức là phải nêu gương sáng đời sống đạo đức, thánh thiện, phải làm việc lành trước mặt người ta, để họ xem thấy những việc lành đó mà ngợi khen Cha trên trời. Cho nên, mang danh hiệu là tín hữu Chúa Kitô, chúng ta phải có đời sống tốt lành thánh thiện hơn những người khác, để trở nên ánh sáng chiếu soi cho họ, giúp họ nhận biết Cha trên trời.

Như vậy, với hai hình ảnh muối đất và ánh sáng đã được Chúa Giêsu phát biểu theo chiều hướng truyền giáo rõ rệt, khó có thể hiểu khác đi được. Chúng ta minh chứng mình là môn đệ của Chúa Giêsu qua cuộc sống đức tin, lối sống yêu thương, tinh thần Tin Mừng. Chúng ta làm chứng cho Chúa, cho đạo bằng đời sống chứng nhân của chúng ta. Thế giới chúng ta đang sống đã bị quá nhiều ô nhiễm bởi những cái xấu và tiêu cực: tin tức thế giời trên truyền hình mỗi ngày để lại những ấn tượng đau xót cho người xem: chiến tranh, hận thù, chém giết, bạo lực, khủng bố…diễn ra khắp năm châu. Những thảm kịch ấy làm cho thời đại hôm nay trở thành điểm nóng thôi thúc người Kitô hữu diễn đạt cuộc sống yêu thương bằng những hành vi cụ thể, thực tế trong cuộc sống cá nhân, gia đình và nơi môi trường xã hội.

Theo ý Chúa Giêsu, thì vị mặn của muối và ánh sáng của đèn là những việc lành, nghĩa là những công việc phù hợp với lòng tin của chúng ta hay với Tin Mừng của Chúa, đó là những công việc thể hiện các nhân đức thương xót, từ bi, nhân hậu, những công việc thể hiện công bình, quảng đại, bác ái. Nhiều người tưởng rằng việc lành phúc đức chỉ là những việc đạo đức đối với Chúa, như đọc kinh lần hạt, đi nhà thờ dự lễ, ăn chay kiêng thịt… Những việc ấy tuy rất tốt, nhưng nếu thiếu các việc lành đối với tha nhân như công bằng, bác ái thì cũng trở thành vô ích. Có biết bao người đi nhà thờ, dự lễ đọc kinh thật nhiều, nhưng lại thiếu công bằng bác ái. Họ có ngờ đâu họ đã trở thành muối nhạt, muối vô dụng hay chiếc đèn không còn ngọn lửa chiếu sáng nữa. Thật đáng sợ, vì đời họ đã không làm cho ai ngợi khen Thiên Chúa.

Nhưng có điều này đáng an ủi là trong thiên nhiên, muối đã nhạt thì không thể nào trở thành mặn, đèn đã tắt thì không thể tự mình đốt lên ngọn lửa khác. Nhưng trong thế giới siêu nhiên, điều đó có thể xảy ra: người tội lỗi có thể ăn năn trở lại, người khô khan có thể trở nên sốt sắng, người lười biếng có thể trở nên siêng năng.

Chúng ta sống trong xã hội là chúng ta sống với, sống cùng, sống cho và sống vì người khác. Không ai là một hòn đảo, không ai có thể tự phụ sống cho riêng mình mà hoàn toàn không ảnh hưởng gì đến người khác. Bằng lời nói hay hành động, tất cả mọi hành xử của chúng ta đều gây một ảnh hưởng nào đó với người khác. Riêng với người Kitô hữu, thì vai trò ảnh hưởng ấy càng quan trọng hơn. Cuộc sống chứng tá của bác ái, của nhẫn nhục, của tha thứ, của quảng đại, của phục vụ và của sự cần kiệm liêm chính mà chúng ta luôn phải thể hiện có khả năng thuyết phục và lôi kéo được nhiều người đến với Chúa.

Như vậy, nếu mỗi người Kitô cố gắng thực hiện vai trò ướp muối đất vào soi sáng cho người bằng những việc lành, tức là bằng những việc công bằng, bác ái, thì thế giới này, xã hội này sẽ tốt đẹp hơn và Thiên Chúa sẽ được nhiều người ca tụng ngợi khen. Như thế, đời sống chứng tá của chúng ta còn có tác dụng tông đồ, truyền giáo nữa.

 

59.             Muối và ánh sáng – Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi

Chúa Giêsu luôn dùng dụ ngôn và những sự việc, những hình ảnh trong đời thường để dạy dỗ con người, để nói lên một sứ điệp, một sứ mệnh nào đó của Giáo Hội, của người Kitô hữu. Muối là đồ gia vị để ướp mặn, đèn dùng để soi sáng. Muối và ánh sáng là hai hình ảnh Chúa Giêsu dùng để nói lên sứ mệnh của Giáo Hội nơi trần gian.

Thực ra, ngay từ thuở ban đầu, Giáo Hội đã ý thức về sứ mệnh của mình bởi vì Giáo Hội là muối, là ánh sáng cho đời bởi vì Giáo Hội là Thân Thể của Đấng đã mạc khải là Đường, là Sự Thật, là Sự Sống. Do đó, Giáo Hội có sứ mệnh phải loan báo con người bởi đâu mà ra, con người sẽ đi về đâu? Giáo Hội cho nhân loại biết cùng đích của con người là sống và về với Thiên vì con người phát xuất tự Thiên Chúa. Tin Mừng viết: “Anh em là muối cho đời. Anh em là ánh sáng cho trần gian” (Mt 5,13-14). Tin Mừng nói lên sứ mệnh cao cả, nói lên bản chất của Giáo Hội, của người Kitô hữu là truyền giáo, là giới thiệu Đức Kitô cho người khác. Chính vì bản chất của Hội Thánh, của người Kitô hữu là truyền giáo. Cũng như muối nhạt thì không phải là muối. ánh sáng phải chiếu sáng. Nên, người Kitô hữu không thể sống mà không loan báo Tin Mừng, không truyền giáo. Người môn đệ Chúa khi đã sống lắng nghe và thực thi Lời Chúa, đã sống các Mối Phúc Thật thì không thể nào không có tác động, không có ảnh hưởng trên những người khác.

Khi ví người Kitô hữu là muối cho đời, Chúa Giêsu đã trao cho các môn đệ, đã trao cho con người một trọng trách cao cả, một sứ mệnh quí giá. Muối không thể thiếu trong thực phẩm, trong phân bón, muối làm gia vị, ướp mặn và làm cho cá không ươn, không thối. Muối là đồ gia vị không thể thiếu được trong đời sống sinh hoạt hằng ngày của con ngưới. Do đó, con người đặc biệt người Kitô hữu không thể nào sống khơi khơi mà không ý thức vai trò, trách nhiệm của mình là làm gương tốt và giới thiệu Chúa Kitô cho nhiều người chưa biết Chúa. Chính vì thế, người môn đệ Chúa phải làm cho những người xung quanh bớt tẻ nhạt, bớt vô vị, người Kitô hữu phải làm cho người khác biết được Chúa và nhờ đó họ yêu mến Chúa.

Và khi ví con người là ánh sáng, Chúa Giêsu muốn mạc khải Ngài là ánh sáng: “Tôi là ánh sáng thế gian” (Ga 8, 12). Chúa Giêsu là ánh sáng, là Mặt trời soi chiếu trần gian. Nhờ măt trời mới có mầu sắc, vẻ sinh đẹp, thảo mộc, cây cối xanh tươi và con người mới sống được. Mặt trời là hình ảnh đẹp nhất về Thiên Chúa. Người Kitô hữu chỉ là hình ảnh phản chiếu, họa lại hình ảnh của Đức Kitô. Tuy nhiên, Ngài luôn muốn con người trở nên muối và ánh sáng cho anh em minh. Thánh Phaolô trong thư thứ 2 gửi tín hữu Corintô đã viết: ” Thiên Chúa đã phán ánh sáng hãy bừng lên từ nơi tối tăm ! Người cũng làm cho ánh sáng chiếu soi lòng trí chúng tôi, để tỏ bầy cho thiên hạ biết vinh quang của Thiên Chúa rạng ngời trên khuôn mặt Đức Kitô ” (2 Co 4, 6).

Vâng, muối và ánh sáng là hai thực thể quan trọng cho đời sống con người và cho thế giới mọi thời. Muối ướp mặn cho đời và làm cho đặm đà các món ăn. Ánh sáng chiếu soi và làm cho sự sống được trường tồn.

Giáo Hội Chúa Kitô là muối, là ánh sáng cho thế gian. Nên, mỗi Kitô hữu cũng thực thi Lời Chúa: “Chính anh em là muối, chính anh em là ánh sáng”…Người Kitô hữu chỉ có thể trở nên muối, trở thành ánh sáng nếu họ sống Tin Mừng và thực thi Lời Chúa cách nghiêm túc, chân thành…Người Kitô hữu sẽ không còn là muối, là ánh sáng nếu họ mất đi phẩm chất đạo đức, thánh thiện mà chạy theo những dễ dãi, những móc ngoặc, lọc lừa, thỏa hiệp ngược với chân lý, nghịch với Tin Mừng của Chúa Kitô.

Người Kitô hữu phải sống bản chất truyền giáo là như thế, nghĩa là họ phải luôn trở nên muối mặn cho đời và trở thành ánh sáng chiếu soi thế gian, dọi chiếu xã hội để bô mặt của Chúa được rạng rỡ, được nổi bật giữa thế giới.

Lạy Chúa Giêsu, xin tăng thêm đức tin, sức mạnh cho chúng con, để cho dù chúng con chỉ là thiểu số giữa biển đời mênh mông, chúng con vẫn tỏa hương thơm ngát, trở nên muối ướp mặn cho đời và trở thành ánh sáng chiếu soi mọi người. Amen.

 

60.             Suy niệm của Lm Augustine S.J.

Phong trào chia sẻ đời sống Tin Mừng bắt đầu ảnh hưởng tới buôn làng. Sau hai tuần học về cầu nguyện và chia sẻ Tin Mừng, một em dân tộc Cờ Ho nhận ra ánh sáng, nên đã viết như sau cho người tới dạy lớp đó: “Anh chị em chúng con tuy có ánh sáng mà chúng con lại không nhận biết. Chúng con chỉ là người mù về Tin Mừng. Cuộc sống của chúng con chỉ là bóng tối. Chúa biết chúng con là kẻ có tội nên mới sai thày mang Tin Mừng đến cho chúng con.”

Một cách bất ngờ, em dân tộc Cờ Ho này đã đụng tới đề tài lớn là “Ánh sáng và bóng tối.” Chính Đức Giêsu tự xưng là ánh sáng thế gian (Ga 9,5). Ngài còn khẳng định rằng các moan đệ Ngài phải trở nên ánh sáng soi cho trần gian. Cần phải hiểu lời Chúa dạy thế nào cho chính xác? Nhất là hiểu để đưa ra thực thi.

Một thành xây trên Núi không tài nào che giấu được

Thiên Chúa sáng tạo ánh sáng: – Ánh sáng không phải tự nhiên mà có. Chính Thiên Chúa đã dựng nên ánh sáng và mọi sự khác. Sách Sáng Thế mô tả cho thấy khi đất còn trống rỗng, chưa có hình dạng và bóng tối còn bao trùm vực thẳm, thì Thiên Chúa phán: phải có ánh sáng! Liền có ánh sáng. Bóng tối và ánh sáng kế tiếp nhau, cả hai đều trong một hoàn cảnh vì được tạo dựng do cùng một Đấng Thiên Chúa (Is 45,7; Am 4,13 LXX). Do đó thánh vịnh gia hô hào:

Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa,

không trung loan báo việc tay Người làm.

Ngày qua mách bảo cho ngày tới,

Đêm này kể lại với đêm kia (Tv 18A, 2-3).

Cho nên không có chỗ dành cho các thần mặt trời, mặt trăng và các vì sao, dầu người ta có thể nói đến ánh sáng và bóng tối như những biểu tượng.

Đức Kitô là ánh sáng soi cho trần gian: – Khi Đức Giêsu bắt đầu rao giảng tại Galilê, Tin Mừng Matthêu (4,16) cho biết lời sấm trong sách Isaia 9,1 đã được ứng nghiệm.

Chính ngang qua lời nói và việc làm, Đức Giêsu tự mạc khải là ánh sáng soi cho thế giới. Khi Người làm cho người mù được thấy như trong Tin Mừng Gioan, Người tuyên bố rất rõ về mình rằng: Bao lâu tôi còn ở trần gian, tôi là Ánh Sáng soi cho trần gian (9,5). Người còn nói: “Ai theo tôi sẽ không bước đi trong tăm tối nhưng sẽ có ánh sáng ban sự sống” (8,12). Điều quan trọng là đặt niềm tin vào Người “Tôi chính là Ánh Sáng đến trong trần gian để ai tin vào tôi không bước đi trong tăm tối.” (12,46).

Khi Đức Kitô chiếu giãi ánh sáng để người ta thấy thì hành vi ấy phát xuất từ bản thân Người với tư cách là Lời của Thiên Chúa, là sự sống và ánh sáng soi cho loài người, là Ánh Sáng đích thực soi cho mọi người đến trong thế gian (1,4.9). Do đó xảy ra màn bi kịch là có cuộc đối đầu giữa ánh sáng và bóng tôi: Ánh sáng bừng lên giữa tăm tối (1,4), và xảy ra vụ thế giới xấu xa ra sức bóp nghẹt ánh sáng. Lý do vì có những con người ưa thích bóng tối hơn ánh sáng, nên họ đeo đuổi công việc xấu xa của họ (3,19). Tại bữa tiệc ly, khi Giuđa bỏ bàn ăn để đi lo chuyện nộp Thầy mình, tác giả Gioan ghi nhận “Khi ấy trời đã tối” (19,30). Rồi khi Đức Giêsu bị bắt, Người tuyên bố: “Đây là giờ của các ngươi và quyền lực tăm tối” (Lc 22,53).

Đức Kitô biến hình: – Suốt cuộc đời trần thế của Đức Giêsu, thiên tính như ẩn giấu nơi tình trạng yếu đuối và khiêm hạ của con người, nhưng có một trường hợp Ánh Sáng thần linh của Người tỏ lộ cách ngời sáng, đó là trường hợp Người biến hình với dung mạo rực rỡ, với bộ đồ chói lọi như ánh sáng (Mt 17,2). Tình trạng biến hình như vậy không còn thuộc về đieu kiện tự nhiên của loài người. Tình trạng ấy báo trước tình trạng của Đức Kitô phục sinh như trong cuộc hiện ra với tông đồ Phaolô khi ấy còn là Saulê (Cv 9,3; 22,6; 26,13). Chính với tư cách là Con Thiên Chúa mà Đức Giêsu “rực rỡ trong vinh quang Thiên Chúa” (Dt 1,3). “Chính Đức Kitô là ánh sáng, nơi Người chẳng có tăm tối” (1Ga 1,5). Tất cả những gì là ánh sáng đều phát xuất do Đức Kitô, kể từ khi ánh sáng thể lý được tạo dựng (x.Ga 1,4) cho tới khi tâm hồn ta được chiếu sáng do ánh sáng Đức Kitô (2Co 4,6). Ngược lại, tất cả những gì xa lạ với ánh sáng Đức Kitô đều thuộc về tăm tối của đêm đen, tăm tối của âm phủ, tăm tối của nỗi chết, và tăm tối của Satan quỉ thần.

Con Cái của Ánh sáng: – Đức Kitô là Con Thiên Chúa làm người, biểu lộ ánh sáng thần linh, nhằm đối tượng là chính chúng ta, những kẻ tin vào Người. Do đó, Người nói với chúng ta trong Tin Mừng hôm nay là: Chính anh em là ánh sáng cho trần gian (c.14).

Nét đối chiếu giữa ánh sáng và bóng tôi diễn ra không phải chỉ ở bình diện suy tư siêu hình nhưng ở bình diện luân lý. Ánh sáng mang lại phẩm chất thuộc về điều thiện hảo và đức công bằng, đó là lãnh vực của Thiên Chúa và của Đức Kitô. Ngược lại, bóng tối thuộc về sự ác và sự nghịch đạo, mặc dầu trong ý đồ lừa đảo Satan có thể đội lốt thiên thần ánh sáng. Một đàng sự công chính không thể liên kết với sự bất chính và ánh sáng không thể dung hoà với bóng tối (x.2Co 6,14) nhưng Satan vẫn có thể nép dưới bóng thiên thần ánh sáng (x.2Co 11,14), để hành động.

Loài người chúng ta được đặt giữa chọn lựa sự thiện và sự ác. Chọn sự ác ta trở nên con cái của tăm tối. Ngược lại, chọn sự thiện, ta trở nên con cái của Thiên Chúa, Đấng là hiện thân của Ánh sáng. Dưới cái nhìn của Đức Giêsu, loài người chia ra một bên là “con cái của thế gian này” bên kia là “con cái của ánh sáng” (Lc 16,8). Bản án cuối cùng sẽ dựa vào việc người ta có chọn lựa Đức Kitô là Ánh sáng chăng: “Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. Quả thật ai làm điều ác thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách. Nhưng kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa” (Ga 3,19-21).

Bước ra khỏi vùng u tối

Vượt khỏi tăm tối, bước vào ánh sáng: – Mọi người khóc chào đời giữa tăm tối. Nhưng Thiên Chúa đã gọi các tín hữu ra khỏi miền u tối mà bước vào nơi đầy ánh sáng diệu huyền (1P 2,9). Ngài kéo ta ra khỏi quyền lực tăm tối, cho ta hưởng phần gia nghiệp cùng chư thánh trong vương quốc của Con Ngài, tràn ngập ánh sáng (x.Col 1,12).

“Xưa kia anh em là bóng tối, nhưng bây giờ trong Chúa, anh em lại là ánh sáng. Vậy anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng, mà ánh sáng đem lại tất cả những gì là lương thiện, công chính và chân thật.” (Ep 5,8-10).

Quả thật, lời Đức Giêsu dạy ta trong Tin Mừng hôm nay hết sức cụ thể. Trước hết, Thiên Chúa đòi một sự hoán cải nơi hữu thể ta: Chính anh em là ánh sáng cho trần gian (c.14). Sự hoán cải ấy, những người ở xung quanh ta phải thấy được: Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được (c.14). Chúa không cho phép ta lấy lý do khiêm nhường để che giấu ánh sáng ta nhận được từ Đức Kitô, Đấng đến để soi sáng mọi người trần thế: Chẳng ai thắp đèn rồi để bên dưới cái thùng (c.15). Hãy nhằm mục đích tối hậu của đời ta cũng là mục đích của mọi người và mọi việc được thực hiện: Đó là để tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời (c.16). Hễ ai nhằm mục đích đó và sống trung thực với mục đích đó, ta được giải thoát khỏi tăm tối và trở nên ánh sáng soi cho thế gian này.

Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu còn dạy các moan đệ: Chính anh em là muối cho đời. (c.13).

Muối là đồ gia vị và cũng là phương tiện để duy trì của ăn khỏi hư thối (Ga 6,6). Ở phía tây bờ hồ Galilê người ta chuyên sử dụng muối để ướp cá. Tại khuôn viên đền thờ Giêrusalem có cả một kho dự trữ muối để đáp ứng nhu cầu rắc muối trên các vật hiến tế (Lv 2,13; Ed 43,24).

Trong Tân Ước, muối là hình ảnh của sự khôn ngoan và sự tinh ròng về luân lý. Đó là điều Đức Giêsu chờ đợi nơi người môn đệ (c.13).

Trong Mc 9,50 Đức Giêsu cũng dạy các môn đệ khi nói: “Muối là cái gì tốt. Nhưng muối mà hết mặn, thì anh em sẽ lấy gì ướp cho mặn lại? Anh em hãy giữ muối trong lòng anh em và sống hoà thuận với nhau.” Ở đây muối có thể được kể như sự hy sinh và từ bỏ mình để duy trì đời sống hoà thuận thương yêu nhau (x.Lc 14,34tt).

 

61.             Suy niệm của JNK

  1. Công dụng của muối và nhiệm vụ của người Ki-tô hữu

Muối dùng để ướp thức ăn, giữ thức ăn khỏi hư thối, đồng thời thêm vị ngon cho nó. Đức Giêsu đã dùng hình ảnh này để nói lên sứ mạng của người Ki-tô hữu đối với môi trường mình đang sống. Thật vậy, Đức Giêsu đã lập Giáo Hội – gồm những người Ki-tô hữu – như một dấu chỉ của Nước Trời, như một cầu nối giữa nhân loại với Thiên Chúa, như một lời chứng cho Ngài trước mọi người. Giáo Hội – hay người Ki-tô hữu – có vai trò như muối đối với thế giới. Nếu muối dùng để ướp thức ăn, giữ thức ăn khỏi hư và thêm vị ngon cho nó, thì Thiên Chúa muốn dùng người Ki-tô hữu để giữ cho thế giới, xã hội không bị hư hỏng, mà trở nên tốt đẹp hạnh phúc hơn trước mặt Thiên Chúa.

Thức ăn bị nhiều yếu tố bên trong lẫn bên ngoài làm cho hư thối. Xã hội con người cũng bị những yếu tố nội tại lẫn ngoại tại làm cho hư hỏng, tồi tệ, và trở nên đau khổ. Vì thế, khi Đức Giêsu nói: “Chính anh em là muối cho đời”, thì một cách nào đó, Ngài muốn giao cho chúng ta, là người Ki-tô hữu hay môn đệ Ngài, một nhiệm vụ rất quan trọng đối với xã môi trường mình đang sống. Đó là: phải làm sao giữ cho môi trường ấy không bị hư hỏng và đau khổ bởi gương xấu, bất công, hận thù, bạo lực, mà trở nên tốt đẹp hạnh phúc hơn nhờ gương sáng, sự thực thi công lý, tình thương của chính chúng ta… Người Ki-tô hữu cần ý thức nhiệm vụ ấy.

  1. Trở nên “muối cho đời” bằng cách nào?

Nhưng chúng ta phải thực hiện nhiệm vụ ấy như thế nào? Làm sao chúng ta có thể giữ cho thế giới đừng hư hỏng mà trở nên tốt đẹp hơn? Đức Giêsu đề nghị với chúng ta một phương cách cũng lại bằng một ẩn dụ: “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian”.

Mọi người ai cũng cần ánh sáng để nhìn thấy, để biết lối đi hầu khỏi té ngã, để biết đường mà làm công nọ việc kia. Về mặt tâm linh, người ta cũng cần có những gương sáng để họ theo đó mà hành xử cho đúng, cho khôn ngoan, cho tốt đẹp trong mọi trường hợp. Nhưng gương sáng đó họ tìm nơi đâu? Khi nói: “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian”, Đức Giêsu đã giao phó cho chúng ta nhiệm vụ làm gương sáng cho mọi người chung quanh, trong môi trường mình sống. Và khi làm gương sáng như thế, chúng ta đã trở nên “muối cho đời”.

  1. Bạn có làm gương sáng trong môi trường mình sống không?

Tình hình xã hội hiện nay có nhiều điều đáng bi quan: bất công, bạo lực và nhiều thứ tệ nạn xã hội đang lan tràn, mạng sống con người bị coi thường (nhất là của thai nhi), tình dục bị lạm dụng, bảng giá trị Ki-tô giáo bị đảo lộn (nhiều người, kể cả Ki-tô hữu, coi trọng tiền bạc, địa vị hơn tình nghĩa…), v.v… Nói chung, thế giới đang bị hư hỏng, trở nên tội lỗi, từ trong gia đình ra đến ngoài xã hội. Vì thế, bất kỳ người Ki-tô hữu nào cũng cần ý thức lại nhiệm vụ làm “muối cho đời”, làm “ánh sáng cho trần gian” mà Đức Giêsu đã giao cho chúng ta. Nhưng thử hỏi, người Ki-tô hữu – cụ thể là chính bạn, chính tôi – đã ý thức và cố gắng thực hiện nhiệm vụ ấy trong cuộc đời mình chưa?

Thực tế đang trả lời cho chúng ta. Giáo Hội lúc nào cũng nỗ lực truyền giáo, bỏ ra biết bao nhiêu nhân lực và tài lực vào công việc này. Nhưng… hiện nay, dân số Ki-tô giáo trên thế giới tuy có tăng theo đà tăng của dân số thế giới, nhưng tỷ lệ người Ki-tô hữu đang càng ngày càng giảm khoảng từ 50 năm nay, nhất là tại Âu châu. Tại châu Âu, nơi trước đây số Ki-tô hữu đã lên tới 70%, thì nay tỷ lệ người Ki-tô hữu thực hành đạo thật sự (pratiquants, church-goers) chỉ còn chưa tới 5% (tôi đã gặp nhiều người Âu châu cho biết là chỉ được từ 2 đến 3%). Tại châu Á, tỷ lệ người Ki-tô hữu hiện nay – theo thống kê của Tòa Thánh tính đến cuối năm 1998 – chỉ được 2,7%. Số Ki-tô hữu gia tăng chủ yếu là do trẻ con vừa lọt lòng mẹ thì đã thành Ki-tô hữu do được rửa tội sớm, và số người lớn trở lại Ki-tô giáo chủ yếu là do việc kết hôn với người Ki-tô hữu đòi buộc. Số người giác ngộ Ki-tô giáo để tự nguyện theo thì rất ít. Thực trạng đó quả không đáng tự hào chút nào!

Điều ấy đòi hỏi chúng ta phải suy nghĩ để tìm ra nguyên nhân: chúng ta đã sống đạo thế nào? Tôi nghĩ: mọi nỗ lực truyền giáo đều là vô ích, nếu chính người Ki-tô hữu chỉ giữ đạo một cách hình thức, không sống đạo thật sự, nghĩa là chỉ biết đến nhà thờ dự lễ, năng lãnh nhận các bí tích, chứ thật sự không áp dụng tinh thần Đức Ki-tô vào trong đời sống của mình.

  1. Phải chăng cách sống của ta là một phản chứng?

Ta hãy nghe Mahatma Gandhi – được dân Ấn Độ xem là một vị thánh – nói về cách sống đạo của những Ki-tô hữu trong xã hội của ông. Ông đã lên tiếng, có vẻ như thách thức người Kitô hữu, cụ thể là những người Anh đô hộ họ: Nếu những người Kitô hữu ở Ấn độ thật sự sống đúng tinh thần của Đức Kitô, thì họ chẳng cần phải mất công rao giảng, toàn Ấn độ sẽ trở thành Kitô hữu hết. Trước mắt ông, người Kitô hữu – cụ thể là người Anh lúc ấy đang đô hộ dân tộc ông – cũng tham lam, bất công và tàn bạo không kém gì những kẻ xâm lăng khác. Ông rất say mê Đức Kitô, nhưng ông không thể trở nên Kitô hữu, vì những người đem Kitô giáo đến với dân tộc ông – người Anh – lại chính là những người đang nô lệ hóa dân tộc ông, đàn áp dân tộc ông một cách dã man. Ông không thể tin rằng dân Ấn Độ hiền lành của ông cứ phải gia nhập cái đạo của những người đang quàng ách nô lệ lên dân tộc ông thì mới được cứu rỗi. Nếu những kẻ nô lệ hóa dân tộc ông một cách bỉ ổi mà được Thượng Đế thưởng công chỉ vì họ là người Kitô hữu, đang khi dân tộc hiền hòa của ông lại bị phạt chỉ vì không phải là Kitô hữu, thì một vị Thượng Đế như thế không thể chấp nhận được!

Cũng vậy, biết bao người như Gandhi rất mộ mến Đức Giêsu, nhưng cứ nhìn thấy cách sống của những người Ki-tô hữu chung quanh họ, là họ cảm thấy chẳng cần phải vào Ki-tô giáo làm gì. Vì người Ki-tô hữu nói chung cũng chẳng hơn gì họ: cũng ích kỷ, cũng ăn gian nói dối, cũng gây bất công, cũng lặng im trước bất công, cũng sống chẳng có tình nghĩa bao nhiêu… Làm sao họ có thể tin được những người chẳng tốt hơn họ, đôi khi kém họ lại được Thiên Chúa ân thưởng chỉ vì là Ki-tô hữu, còn họ cũng sống như vậy thậm chí tốt hơn thì lại bị phạt. Chẳng lẽ chúng ta lại giới thiệu với họ một Thiên Chúa bất công và vô lý như vậy qua cách sống của chúng ta?

  1. Truyền giáo bằng chính đời sống phù hợp với Tin Mừng

Nếu đời sống của ta ngược lại với Tin Mừng, làm sao ta có thể làm “muối cho đời” để đời khỏi hư hỏng được? làm sao ta có thể làm cho đời tốt đẹp lên được? Muối như thế là muối đã lạt. Muối có giá trị hay không là ở vị mặn của nó. Nếu muối lạt thì còn giá trị gì, còn làm được việc gì? “Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi”!

Người ta – nhất là Đức Giêsu – có thể kết luận gì về chất “muối” tâm linh của ta? Hãy tự xét mình xem chất “muối” của ta có còn vị “mặn” không? có còn tác dụng “ướp” nữa không? Xét một cách cụ thể hơn: sự hiện diện của tôi trong gia đình, trong tổ dân phố, trong xứ đạo, trong xã hội, trong nơi ta làm việc… có làm “ánh sáng” dẫn đường cho môi trường ấy tốt hơn không? Những vùng đông người Ki-tô hữu có trật tự xã hội và mức phát triển về mọi mặt – nhất là mặt đạo đức – cao hơn những vùng khác không? Sự hiện diện của một ngôi giáo đường có đích thực là một sự chúc lành cho vùng chung quanh không? nghĩa là có làm cho dân chúng vùng chung quanh trở nên tốt hơn, trật tự hơn, hạnh phúc hơn không?

Theo quan niệm của Gandhi, để toàn dân Ấn Độ trở thành Ki-tô hữu, không cần phải đổ công đổ của ra mà truyền giáo cho bằng chỉ cần người Ki-tô hữu sống đích thực tinh thần của Đức Giêsu là đủ. Sống như thế chính là trở nên “ánh sáng cho trần gian”. Thật mỉa mai khi muối đã lạt lại còn muốn ướp cái này cái nọ, ích lợi gì? Và mỉa mai hơn nếu đạo mình mình không thèm sống lại còn muốn đem đạo ấy truyền cho người khác, để làm gì?! Vừa truyền giáo, vừa sống phản lại Tin Mừng thì chẳng khác gì “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”. Thật mỉa mai khi chính mình tối om lại muốn làm ánh sáng dẫn đường cho người khác! Thật ngược đời khi chính mình đói meo lại đi lo chuyện làm no ấm thiên hạ!

CẦU NGUYỆN

Tôi nghe tiếng Chúa nói với tôi: “Qua Đức Giêsu, Cha đã mời gọi con và trao cho con nhiệm vụ: hãy trở nên “muối cho đời” và “ánh sáng cho trần gian”. Để làm được chuyện ấy, con phải là muối thật mặn, phải là đèn thật sáng. Muốn thế, con phải quyết tâm trở nên như thế. Điều quan trọng là chính con phải quyết tâm trước, rồi Cha sẽ ban ơn trợ giúp sau. Con không quyết tâm thì Cha có đổ tràn thần lực xuống cho con cũng vô ích. Cha đành phải bó tay nếu chính con từ chối lời mời gọi của Cha hay chính con không quyết tâm thực hiện. Vì Cha luôn luôn tôn trọng tự do của con. Một lần nữa, Cha mời gọi con hãy trở nên “muối cho đời” và “ánh sáng cho trần gian”. Cha rất mong con đáp trả bằng một quyết tâm thật sự”.

 

62.             Hãy là muối và ánh sáng cho trần gian

(Suy niệm của Huệ Minh)

 

Tin mừng Mt 5: 13-16: Trang Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy bản chất của người kytô hữu không phải là những gì cao xa nhưng chỉ là những hạt muối bé nhỏ hay chỉ là một chút ánh sáng lẻ loi…

Trang Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy bản chất của người kytô hữu không phải là những gì cao xa nhưng chỉ là những hạt muối bé nhỏ hay chỉ là một chút ánh sáng lẻ loi. Thật bình thường và cũng thật tầm thường nhưng lại thật hữu ích cho đời sống con người. Không có muối làm sao có những bữa tiệc thơm ngon mặn mà. Không có ánh sáng làm sao con người có thể nhìn ngắm những vẻ đẹp muôn màu của vũ trụ mà Thiên Chúa đã dựng nên.

 

Muối là một sản phẩm không thể thiếu trong đời sống con người. Muối vừa làm phân bón cho đất đai màu mỡ; vừa làm gia vị cho các món ăn thêm thơm ngon đậm đà; vừa bảo quản thực phẩm cho khỏi hư thối. Khi muối muốn ướp cho “mặn đời”, muối phải biết chấp nhận hòa tan, phải biết “mất đi” cho chính mình để hoá thân trong chất mặn, để hiến dâng cho đời hương vị thơm ngon, mặn nồng của quảng đại, của yêu thương và tha thứ …

 

Muối là vật dụng thường thức dùng trong việc nấu nướng. Không có muối, đồ ăn thiếu hương vị và lạt lẽo. Nhưng người Do Thái còn dùng muối làm phân bón. Vì vậy mà Ngài bảo: Các con là muối đất. Trong Kinh Thánh, muối là hình ảnh được nhắc lại nhiều lần. Từ vụ vợ ông Lót nhìn lại đàng sau mà biến thành tượng muối, đến chút muối mà thánh Phaolô căn dặn nên đặt vào trong lời ăn tiếng nói cho có hương vị khi giao tiếp với anh em.

 

Muối có đó nhưng không ai thấy muối. Không chỉ vì muối bé nhỏ khiêm nhường mà vì muối phải tan biến đi. Phải tan biến đi muối mới có tác dụng. Muối ướp vào thịt cá mà không tan đi thì không thấm được vào thớ thịt, thớ cá, không giữ cho thịt tươi cá tốt được. Muối gia giảm vào cá kho, thịt rim, nước canh mà không tan đi thì khi ăn phải, người ta sẽ nhăn mặt bỏ đi. Chỉ khi tan biến đi, hoà tan vào thịt, cá, rau cỏ, muối mới có ích lợi. Muối phải hiện diện nhưng lại phải tiêu huỷ đi thì mới có ích.

 

Ngày nay hơn bao giờ Giáo Hội phải thâm nhập vào nền văn minh với những giá trị của đức tin, hầu cho thế gian khỏi tan rã và thoái hoá trong bạo lực. Người ta nói nhiều đến thuyết duy vật, thuyết duy sắc dục… Lắm người quảng đại chiến đấu cho một thế giới công bình hơn, nhưng không biết bên kia cái cùng đích họ theo đuổi còn có gì… Nếu bị bỏ mặc cho mình, thì thế giới sẽ nên hủ bại. Người Kitô hữu phải làm chứng về phẩm giá, và số mệnh con người, để góp phần cứu vớt thế gian. Trong tất cả đời sống xã hội, gia đình, nghề nghiệp, chính trị kinh tế, họ phải nghĩ tưởng và hành động theo như lòng tin nơi Đức Giêsu Kitô soi sáng thúc đẩy họ. Nếu không có can đảm làm như thế, nếu trở nên lạt lẽo, thì nó sẽ không chu toàn sứ mệnh và thế gian có thể lôi kéo họ vào sự ghê tởm. Bị ném ra ngoài cho người ta dày đạp dưới chân. Phúc Âm nói thế.

 

Các con là muối, nghĩa là chúng ta hãy sống đạo dức, thực thi những điều Ngài dạy, để thánh hoá bản thân, nêu gương sáng cho người khác, hâm nóng những cõi lòng đã nguội lạnh. Nếu chúng ta không sống Lời Chúa trọn vẹn, thì chúng ta như muối đã nhạt, không ích lợi gì, chỉ đáng đem đổ ra ngoài đường cho người ta dày đạp. Người Do Thái ngày xưa đổ rác cả ra đường phố cho khách qua lại dẫm lên.

 

Có lần Chúa Giêsu đã xác quyết: Ta là ánh sáng thế gian. Ai theo Ta sẽ không đi trong đêm tối, nhưng sẽ có ánh sáng đời đời. Và hôm nay Chúa dạy các môn đệ hãy bắt chước Ngài để trở nên ánh sáng thế gian: Người ta không thắp đèn rồi để dưới đáy thùng, nhưng đặt nó trên giá đèn hầu soi sáng cho mọi người trong nhà.

 

Chúng ta phải là đèn soi cho kẻ khác bằng lời nói, bằng việc làm và bằng gương sáng. Nếu Phúc Âm không được rao giảng người ta sẽ quên nó. Trái lại, nếu mỗi người chúng ta thắp lên cây đèn nhỏ của mình, thì không những nhà riêng của chúng ta mà cả thế giới sẽ được soi sáng. Sự sáng của các con sẽ chiếu soi trước mặt thiên hạ và mọi người sẽ ngợi khen Thiên Chúa

 

Chúng ta chỉ là ánh sáng thế gian trong mức độ khi chúng ta để Chúa Kitô biến đổi cuộc sống mình, để cho ánh sáng của Chúa biến đổi cuộc đời chúng ta trở thành cuộc đời của Chúa. Lời Chúa phán: “Chúng con là ánh sáng”, không là một lời khoe khoang để chúng ta hãnh diện, tự kiêu, nhưng là một mệnh lệnh, một đòi hỏi, mỗi người phải là một Chúa Kitô khác, hãy sống sự sống của Chúa, hành động như Chúa để trở thành một Chúa Kitô khác.

 

“Chính anh em là ánh sáng cho trần gian”(Mt.5:13). Đây là lời mời gọi tuyệt vời dành cho người Kitô, bởi lẽ chỉ Thiên Chúa mới là Ánh Sáng (1Ga.1:5). Chỉ Đức Giêsu mới dám nhận mình là Ánh Sáng (Ga.8:12). Vậy ta muốn trở thành ánh sáng như Đức Giêsu, ta phải ở gần Ngài: gần đèn thì ta được toả sáng.

 

Ánh sáng không thiên vị một ai, không thích người này và cũng không chê người kia. Ánh sáng của mặt trời lan tỏa khắp nơi, chiếu sáng mọi người và mọi nhà. Ánh sáng của người Kitô cũng vậy,“ánh sáng của anh em phải ở trên cao, vượt trên mọi danh vọng, tiền tài, lạc thú. Không phải để khoe khoang, tự kiêu, nhưng là để tôn vinh Cha, Đấng ngự trên trời” (Mt.5:16).

 

Ánh sáng của cây nến tuy nhỏ bé nhưng cũng đủ toả sáng cả một căn phòng, làm cho bóng tối phải lùi bước. Một khi ánh sáng của ngọn nến bừng lên, đó cũng là lúc ngọn nến bị đốt cháy, bị tan biến đi. Người Kitô cũng vậy, phải mất đi cho chính mình, phải tan biến đi để “Ánh Sáng Chúa Kitô“ được loan toả khắp nơi, khắp mọi nhà, khắp mọi tâm hồn.

 

Thánh Phaolô đã để cho ánh sáng của Chúa được hiện diện trong cuộc đời của ngài, biến cuộc đời của ngài trở thành ánh sáng cho muôn dân. Chúng ta cần sống trọn vẹn Tin Mừng của Chúa, sống như Chúa đã sống, sống sức sống của Chúa, lãnh nhận ánh sáng của Chúa. Để làm tốt cho đời, chúng ta cần lấy Đạo Chúa mà chúng ta có để làm cho đời được tươi đẹp, như thế tốt đời mới đẹp đạo của Người, đó là đối với chúng ta phải tốt đạo để đẹp đời, chúng ta phải sống trọn vẹn đức tin của mình, phải thực hiện đức bác ái của mình cách hoàn hảo.

 

Vấn đề không phải là phô trương mình ra. Những cũng là ánh sáng soi chiêu vì nó là nó, thì người Kitô hữu cũng phải toả ánh sáng Tin Mừng bằng cách là người Kitô hữu đích thực, thế thôi. Một điểm đáng cho ta lưu ý. Khi hoạt động với tư cách Kitô hữu, có nên che dấu “sự quy chiếu” của mình về Chúa Kitô và đặc nó dưới thùng hay không? Nói cách khác, ánh sáng mà người tin Chúa mang trong mình không phải loan báo Đức Giêsu Kitô hay sao? Trả lời thực tế cho câu hỏi này không đơn giản đâu. Dù sao, theo Phúc Âm dạy thì hành động được thực hiện trong ánh sáng, phải dẫn đưa con người tới chỗ ngợi khen Cha trên trời.

 

Là muối đất, là ánh sáng thế gian, hơn ai hết, kitô hữu chúng ta cần phải thắp sáng lên niềm hy vọng bằng cuộc sống tỏa lan tình người. Dù chỉ là một ngọn đèn mù mờ giữa biển khơi, cho dù phải đương đầu với biết bao sống gió nhưng vẫn phải giữ cho ngọn đèn đó cháy sáng, vì biết đâu xa xa ngoài khơi vẫn còn có ai đó đang cần một chút ánh sáng để định hướng vào bờ.

 

Công đồng Vatican II khuyên như sau: “Người giáo dân có rất nhiều cơ hội làm việc tông đồ: rao giảng Phúc âm và thánh hóa. Chính chứng tá của đời sống Kitô và những việc lành được làm với tinh thần siêu nhiên có sức lôi kéo người ta đến đức tin và đến với Thiên Chúa, vì Chúa phán: “Sự sáng của các con phải soi trước mắt người ta, như vậy để họ xem thấy việc lành các con mà ngợi khen Cha các con ở trên trời”.

 

Ước gì trong cuộc đời Kitô hữu, chúng ta ý thức được vai trò làm muối và ánh sáng như lời Chúa dạy trong bài Phúc âm hôm nay. Để chu toàn trách nhiệm này, xin Chúa “thắp sáng lên trong con tình yêu của Chúa”. Nếu không có tình yêu và ân sủng của Chúa, chúng ta chẳng là gì cả.

=> Tài liệu dạng Word, xin nhấn vào đây để tải về máy