Các bài suy niệm Chúa Nhật 7 thường niên năm A

18/02/2023

CHÚA NHẬT 7 THƯỜNG NIÊN A

Lời Chúa: Lv 19,1-2.17-18; 1Cr 3,16-23; Mt 5,38-48

1. Trở nên con cái Chúa

(Trích trong ‘Manna’ – Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)

 Suy Niệm

Khi chúng ta suy niệm bài Tin Mừng này thì Xuân đã về trước ngõ.

Mùa Xuân làm cho lòng người rộn rã, cỏ cây chim chóc cũng reo vui với con người. Người ta chúc cho nhau bao điều tốt đẹp. Điều tốt đẹp nhất vẫn là sự bình an trong tâm hồn, sự bình an mua được bằng tha thứ yêu thương.

Khi dạy chúng ta đừng chống cự người ác, Đức Giêsu không đòi loại bỏ cảnh sát và pháp luật; cũng không lên án những cuộc chiến tranh tự vệ. Ngài chỉ muốn mời gọi các Kitô hữu hãy tránh thái độ báo thù, ăn miếng trả miếng.

Tha thứ là ra khỏi vòng luẩn quẩn của oán thù, là mở ra con đường để người kia hoán cải.

Có một vị rất tâm đắc với bài Tin Mừng này, đó là Gandhi, người được dân Ấn-độ coi là đại thánh. Ông là cha đẻ của chủ trương bất bạo động, để giành lại độc lập cho đất nước từ tay người Anh. Ông nói: “Bất bạo động là luật của loài người, bạo động là luật của loài thú.”

Chúng ta thường sợ mang tiếng là hèn nhát, khiếp nhược, sợ kẻ ác thắng thế khi thấy ta lùi bước. Chúng ta ít dám tin vào sức mạnh của Tình Yêu.

Chính Tình Yêu chứ không phải bạo lực mới có thể làm trái tim con người tan chảy.

Đức Giêsu mời gọi ta yêu thương và cầu nguyện cho kẻ thù để trở thành con cái Cha trên trời.

Chúng ta không chỉ trở thành con Cha vào ngày Rửa tội. Chúng ta trở thành con Cha hơn nhờ những hành vi tha thứ yêu thương mỗi ngày.

Chúng ta thật là con, vì giống Cha, Đấng cho nắng ấm, mưa rơi trên kẻ lành người dữ.

Chúng ta thường khó quên một xúc phạm đã qua, những chuyện cũ vẫn làm tim ta đau nhói. Cần nhìn lên Cha trên trời, Đấng để cho cỏ lùng mọc chung với lúa, Đấng mà ta phải nài xin ơn tha thứ mỗi ngày. Chỉ Ngài mới làm ta quên được điều tưởng như không thể quên.

Thế giới hôm nay có nhiều sự ác và người ác. Chúng ta phải tiêu diệt sự ác bằng sự thiện, hoán cải người ác bằng tha thứ yêu thương.

Kitô hữu là người dám đi lại con đường của Đức Giêsu, chấp nhận bị sự ác vùi dập và nuốt chửng, mà trên môi vẫn nói lời tha thứ. Nhưng cuối cùng là phục sinh, là niềm vui, hy vọng.

Chúng ta có dám tin rằng rốt cuộc chân lý, tình yêu và sự thiện sẽ chiến thắng không?

Gợi Ý Chia Sẻ

– Bạn có thấy những lời Chúa dạy trong bài Tin Mừng hôm nay là những điều không thể thực hiện được? Có phải đó là thái độ của kẻ yếu nhược và hèn nhát không? Theo ý bạn, Đức Giêsu có dạy ta dung túng, bao che cho sự ác không?

– Bạn đã và đang có những “kẻ thù” trong đời bạn, những người làm cho bạn phải đau khổ. Bạn có dám sống theo lời Chúa để tha thứ, yêu thương và cầu nguyện cho họ không? 

Cầu Nguyện

Lạy Cha,

Cha đã cho chúng con sống thêm một năm, đi thêm một đoạn đường đời. 

Nhìn lại đoạn đường đã qua, chúng con chỉ biết nói lên lời tạ ơn chân thành, vì Cha vẫn cho chúng con sống, và sống trong tình yêu. 

Mọi biến cố vui buồn của năm qua đều là những lời mời gọi kín đáo của Cha để thức tỉnh, nâng đỡ và đưa chúng con lên cao. 

Tạ ơn Cha vì những gì cuộc đời đã làm cho chúng con, và những gì chúng con đã làm được cho cuộc đời. 

Xin cho chúng con sống những ngày tết dân tộc trong tinh thần vui tươi, hoà nhã, và không quên những ai nghèo khổ, cô đơn. Ước gì những lời chúng con chúc cho nhau là những lời chúc lành xuất phát từ trái tim yêu thương. 

Và lạy Cha, năm mới đã đến, trái đất lại xoay một vòng mới quanh mặt trời, chúng con cũng muốn ở lại trong quỹ đạo của Cha, nhận Cha là trung tâm cuộc sống, và nhận mọi người là anh em. Amen.

 

2. Hãy nên hoàn thiện

(Suy niệm của Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu)

Năm 1893, lúc 24 tuổi, khi đang ở Nam Phi,

Gandhi đã quá đỗi vui mừng khi lần đầu đọc bài Tin Mừng hôm nay.

Ông ngây ngất vì vẻ đẹp nghệ thuật của những hình ảnh ở đó,

đến nỗi ông gọi Đức Giêsu là “Nghệ sĩ Tối cao”.

Đối với ông, Bài Giảng Trên Núi là tác phẩm tuyệt vời của Đức Giêsu,

chạm vào trái tim và bộ óc của ông, một người theo Ấn giáo,

và ảnh hưởng trên toàn bộ cuộc sống của ông cho đến khi nhắm mắt.

Có thể nói, từ Bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe,

Gandhi đã rút ra con đường bất bạo động, bất kháng cự (Satyagraha).

Ông đã áp dụng lời Chúa vào việc giải phóng dân Ấn khỏi đế quốc Anh

mà không dùng đến chiến tranh, vũ lực, hận thù.

Qua bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu dạy ta thái độ đối với kẻ thù.

Ai trong chúng ta lại không có kẻ thù, kẻ ác làm hại mình.

Cả Đức Giêsu cũng có kẻ thù ghét Ngài trong thời gian Ngài rao giảng.

Luật “mắt đền mắt, răng đền răng” đã là một luật tiến bộ rồi,

vì nó giới hạn việc trả thù quá đáng, và bắt vòng xoáy trả thù dừng lại.

Nhưng Đức Giêsu đòi chúng ta vượt lên trên sự công bằng đó:

không móc mắt hay nhổ răng người đã làm như thế cho mình,

nghĩa là “không chống cự lại người ác” (Mt 5,39),

không lấy bạo lực để trừng phạt bạo lực.

Sau đó, qua ba thí dụ cụ thể rất gợi hình và dễ hiểu,

Đức Giêsu còn mời chúng ta đi xa hơn đến mức kinh ngạc.

Khi bị tát bằng mu bàn tay vào má phải,

chẳng những không được tát lại, mà còn đưa má trái ra.

Khi bị ai kiện để lấy áo trong, hãy cho nó cả áo ngoài.

Khi bị ai ép mang đồ đi một dặm, hãy đi với người ấy hai dặm.

Như thế chẳng những chúng ta không được chống cự hay trả đũa,

mà dường như còn cho phép kẻ thù lấn tới trong hành vi độc ác của họ.

Làm như thế phải chăng là tiếp tay cho sự ác gia tăng,

và làm cho ác nhân tha hồ tung hoành trên mặt đất ?

Nhiều tín hữu đã nghĩ như thế, và coi lời dạy của Đức Giêsu

không thể và không nên áp dụng trong cuộc sống hàng ngày.

Đúng là khi bị tát, và Đức Giêsu đã không đưa má kia ra (Ga 18,22-23),

nhưng thái độ của Ngài trong cuộc Khổ Nạn và Tử Nạn

cho thấy Ngài đã sống điều Ngài dạy: không chống cự kẻ đến bắt,

hiền hòa với Giuđa, tha thứ cầu nguyện cho kẻ giết mình.

Khi Ngài được phục sinh chiến thắng,

Ngài cũng không hiện ra để trả thù Philatô, Hêrôđê hay Cai-pha.

Thay vì nguyền rủa, ghét bỏ, oán hờn, tiêu diệt kẻ thù,

Đức Giêsu bảo chúng ta hãy yêu kẻ thù.

Như thế kẻ thù thành người yêu của tôi, vì được tôi chúc lành,

được tôi nhớ đến trong lời cầu nguyện, được tôi chào mỗi buổi sáng.

Trái tim của tôi không còn chỗ cho kẻ thù, chẳng ai là kẻ thù của tôi.

Trái tim tôi trở nên lớn như trái tim Thiên Chúa là Cha trên trời.

Trái tim Ngài có đủ chỗ cho kẻ xấu và kẻ bất lương,

Vì Ngài cho mặt trời soi chiếu và cho mưa rơi trên mọi người.

Đức Giêsu mời chúng ta vượt lên trên tình cảm yêu ghét tự nhiên,

của những người bình thường hay tầm thường.

Con cái của Cha trên trời thì phải “làm điều gì hơn thế” (Mt 5,47),

nghĩa là phải giống Cha trong cách cư xử với kẻ thù.

Đó là con đường trở nên hoàn thiện (Mt 5,48).

Thế giới chúng ta hôm nay bị tan nát bởi chiến tranh, hận thù,

giữa các quốc gia, sắc tộc, tôn giáo, màu da, gia đình, đảng phái…

Nhiều người thấy mình có bổn phận phải dùng điều ác để chống kẻ ác.

Có người nghĩ mình phải giết cho hết những kẻ sát nhân.

Chẳng những cần trả thù mà còn cần đánh phủ đầu nữa.

Tát người ta khi người ta chưa kịp tát mình.

Lời hôm nay của Đức Giêsu thường bị coi là viển vông, chủ bại.

Chẳng mấy ai tin rằng: chỉ lời này mới đem lại bình an cho thế giới,

Nếu có một lần chúng ta đem những lời này ra áp dụng.

Chỉ một lần thôi, chúng ta sẽ thấy sức mạnh vô biên của sự hiền hòa.

Phúc cho ai có trái tim hiền hòa như Giêsu (Mt 11,29).

Với sự hiền hòa của Giêsu trên thập giá, thế gian được bình an.

 

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu,

Mỗi ngày con gặp bao chuyện bực mình.

Có những chuyện xảy ra làm con không vừa ý,

khiến ngày sống của con vắng bóng niềm vui.

Làm sao con có thể đón nhận mọi sự

với nụ cười bao dung, và coi những trắc trở như chuyện bình thường của cuộc sống? 

Làm sao con dám tin rằng Chúa vẫn giúp con tìm thấy ý Chúa

– qua những chuyện không vui, đòi con từ bỏ cái tôi,

– qua những chuyện không may, làm con giật mình tỉnh ngộ? 

Xin cho con bình an trước vấp váp của con, Và nhẹ nhàng trước vấp váp của người khác.

 

3. Nên thánh bằng yêu thương

(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)

Ngay từ thời đầu của Giáo Hội, những tín hữu Kitô đã được gọi là “các thánh”. Chính Thánh Phaolô đã dùng danh xưng này để chỉ những người đã gia nhập Giáo Hội qua bí tích Thanh Tẩy. Khi gọi họ là “các thánh”, chắc hẳn vị Tông đồ vừa muốn diễn tả đời sống tốt lành của các tín hữu, đồng thời muốn nhấn mạnh tới lý tưởng, mục tiêu mà các tín hữu phải đạt tới. Kitô hữu là người đang cố gắng để thánh hóa bản thân, làm cho mình trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu Kitô, để rồi lời nói của chúng ta là lời của Chúa, việc làm của chúng ta là việc làm của Chúa, chúng ta hiện diện nơi đâu là có Chúa hiện diện ở đó.

Như vậy, nên thánh không phải chỉ là tình trạng thiên đàng sau khi chúng ta đã chết, mà là một quá trình biến đổi để hoàn thiện chính mình, để rồi ngay khi còn đang sống ở đời này, chúng ta đã được nếm hưởng hạnh phúc vĩnh cửu, qua việc được chiêm ngưỡng Chúa bằng đức tin và tình mến. Nên thánh cũng không phải ảo tưởng hay giấc mơ về một thế giới xa vời, như để quên đi những đau khổ hiện tại.

Khái niệm nên thánh như đã nêu trên làm cho đời sống tín hữu không khô cứng, vô vị, nhưng luôn sống động và vươn lên không ngừng. Người ước ao nên thánh là người muốn sống ngày hôm nay tốt hơn hôm qua, và ngày mai tốt hơn ngày hôm nay. Họ không dừng lại ở một cuộc sống đơn điệu, nhưng luôn khám phá ra niềm vui của đức tin và sự tốt lành của Chúa. Cuộc sống mà dừng lại sẽ giống như ao tù. Con người không lý tưởng sẽ giống như ngõ cụt. Họ không biết mình sống cho ai và để làm gì.

Nên thánh là một lệnh truyền của Thiên Chúa cho dân riêng của Ngài. Lời Chúa phán với ông Môisen cho chúng ta thấy rõ: “Hãy nói với toàn thể con cái Israen: ‘Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Đấng Thánh” (Bài đọc I). Lý do của ơn gọi nên thánh là: vì Chúa là Đấng Thánh. Ai muốn thuộc về Chúa thì phải nên giống như Ngài. Thánh thiện chính là được san sẻ một phần vinh quang của Chúa, để rồi ngay khi sống ở trần gian, chúng ta đã tỏa sáng trong cuộc đời qua những cử chỉ tốt đẹp của mình đối với đồng loại. Sau khi nhắc lại lệnh truyền nên thánh, tác giả sách Lêvi quảng diễn chi tiết về khái niệm thánh: đó là yêu thương anh chị em, đừng quở trách họ. Không được trả thù, không được oán hận. Trái lại phải yêu mến người khác như chính bản thân mình.

“Thương người như thể thương thân”. Đó là nét đẹp truyền thống ngàn đời của người Việt Nam. Nét đẹp này đã gặp gỡ lời dạy “Yêu đồng loại như chính mình” của Cựu Ước và còn hơn thế nữa, là lời dạy “yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho kẻ ngược đãi mình” của Tân Ước. Để có thể yêu thương kẻ thù, mỗi người phải vượt lên chính mình, để chiến thắng thù hận và chấp nhận mọi thị phi. Yêu thương kẻ thù là một nhân đức anh hùng, là bằng chứng của sự từ bỏ chính bản thân và là tình yêu thương ở mức tuyệt hảo. Cầu nguyện cho kẻ ngược đãi mình, đó là bằng chứng của lòng bao dung và tha thứ trọn vẹn.

Nên thánh không dừng lại ở một khái niệm lý thuyết, nhưng phải được thể hiện cụ thể trong việc làm và lối sống. Nên thánh trước mặt Chúa là có một lối sống ngay thẳng chân thành. Tuy vậy, sự ngay thẳng chân thành ấy phải được kiểm chứng qua mối tương quan hằng ngày với tha nhân. Một cách rất cụ thể, Chúa Giêsu nói đến luật yêu thương và những lời khuyên để đem luật đó vào cuộc sống. Đức yêu thương Chúa Giêsu truyền dạy ưu việt hơn những lệnh truyền của Cựu Ước. Vì vậy, Chúa nói: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng…. Còn Thầy, Thầy bảo anh em…”. Qua những lời tuyên bố trên, Đức Giêsu chứng tỏ Người có sứ mạng kiện toàn lề luật. Người dựa trên nền tảng Luật Cựu ước, đồng thời mặc cho Luật ấy một giá trị cao siêu hơn, hoàn hảo hơn. Tình yêu thương Chúa dạy không chỉ được thực hiện nơi người đồng bào, người cùng phe cánh hay người làm ơn cho chúng ta mà thôi, nhưng là hết mọi người không phân biệt. Luật mới của Chúa không chỉ bao gồm những điều cấm đoán, nhưng khuyên dạy làm những điều tích cực cho tha nhân. Chính điều này làm cho lối sống của người tín hữu khác với những thực hành của những người thu thuế và người biệt phái. Đối với người tín hữu, không có ai là kẻ thù hay người ngoại, vì hết thảy mọi người trên trái đất đều là anh chị em của cùng một Cha trên trời. Mức độ thánh thiện của một người được lượng giá qua tình bác ái mà họ thực hiện đối với người xung quanh. Một người sống khép kín, dửng dưng trước nỗi đau của người bên cạnh, không thể nên thánh.

Thánh thiện còn là nhận ra phẩm giá cao quý của mình trong cuộc đời này. Mỗi người chúng ta không hiện  hữu như một đồ vật vô tri vô giác, nhưng là Đền Thờ của Chúa Thánh Thần (Bài đọc II). Biết được phẩm giá của mình để tôn trọng thân xác và trau dồi bản thân trong những lãnh vực khác nhau. Chỉ những ai biết yêu mến trân trọng bản thân mình, thì mới có thể yêu mến trân trọng tha nhân. Tác giả thư gửi giáo dân Côrinhtô cũng chỉ rõ đâu là điều quan trọng đích thực mà chúng ta tìm kiếm: đó là Đức Kitô. Người là lý tưởng và mẫu mực cho chúng ta trong hành trình nên thánh. Một khi quy hướng về Đức Kitô, sẽ không còn chia rẽ và ganh ty bè phái như thực trạng của cộng đoàn Côrinhtô lúc bấy giờ, tức là người thì cho mình thuộc về Phaolô, người thì thuộc Apôlô, người thì thuộc Kêpha.

Nên thánh bằng yêu thương. Đó là thông điệp mà Lời Chúa muốn thông truyền cho chúng ta. Hai ngàn năm nay, Giáo Hội đã thực hiện lời mời gọi của Chúa, cổ võ tình yêu thương, phá bỏ những ngăn cách, hòa giải những bất hòa và nâng đỡ người bé mọn. Chúng ta mỗi người đều là chi thể của Giáo Hội, chúng ta có ý thức được lời mời gọi nên thánh qua việc thực thi đức yêu thương không?

“Ai không có sức mạnh để tha thứ, cũng không có sức mạnh để yêu thương” (Martin Luther King Jr.).

 

4. Yêu thương kẻ thù

(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)

Một câu chuyện vui kể rằng, trong buổi hội thảo giao lưu với đề tài tha thứ tại một giáo xứ nọ, vị Linh mục hỏi những người có mặt, ai trong số họ sẵn sàng tha thứ cho kẻ thù. Tất cả mọi người đều giơ tay, trừ một ông lão ngồi bên dưới.

– Chẳng lẽ cụ không thể tha thứ cho kẻ thù của mình ư?

– Tôi không có kẻ thù.

– Thật là đức độ. Thế cụ bao nhiêu tuổi rồi?

– 90 tuổi.

– Cụ hãy cho mọi người biết bí quyết sống đến 90 tuổi, mà không có một kẻ thù nào.

– Ông lão cao giọng nói: “Chỉ có một cách là phải tiêu diệt hết lũ chúng nó mà thôi!”.

Sống trên đời, giữa chúng ta có nhiều khác biệt về tuổi tác, sở thích, quan điểm. Cuộc sống trần gian cũng là một mớ hỗn độn những cạnh tranh, bon chen, tính toán. Sự cạnh tranh bon chen trở nên nghiệt ngã, tới mức người ta loại trừ nhau. Trong lãnh vực thương mại ngày nay, người ta hay nói: “Thương trường là chiến trường”. Tưởng chừng đơn giản, nhưng đó là một thứ lý luận nguy hiểm, cho thấy sự ích kỷ tới mức hoang dã. Vì trong chiến trường, người lính phải đối diện với quân thù. Họ buộc phải giết đối phương để sống, vì không còn chọn lựa nào khác. Tuy vậy, trong thương trường, mưu mô gài bẫy để hủy diệt và loại trừ người khác là một thứ thương mại vô đạo đức. Danh từ “kẻ thù” được dùng để chỉ những người đối nghịch với mình. Người bị gọi là “kẻ thù”, tức người đó trở nên mối nguy hiểm cho người khác. Trong quan niệm thông thường, người ta chủ trương “không đội trời chung” với kẻ thù.

Nhưng, không kể nơi chiến trường máu lửa, thì kẻ thù là ai? Suy cho cùng, kẻ thù là người không đồng quan điểm với chúng ta. Sự khác biệt nơi những cá nhân đáng lẽ tạo ra một cuộc sống phong phú đa dạng, thì trong nhiều trường hợp lại là nguyên cớ dẫn tới đối nghịch, hiềm thù. Kết án một người là “kẻ thù” nhiều khi do chủ quan và do cái nhìn phiến diện. Nhiều người coi mình là mẫu mực, là tiêu chuẩn cho cách đối nhân xử thế, nên người nào không giống mình thì họ kết án là “kẻ thù”. Do quan niệm này, trong xã hội của chúng ta, biết bao mâu thuẫn và thậm chí có những án mạng đã xảy ra. Có những người coi nhau như kẻ thù, khi đang cùng nhau ngồi trên bàn nhậu, hay khi cùng tham dự một tiệc cưới, và vì một câu nói hay một mâu thuẫn nhỏ đã trở thành sát nhân, lấy đi mạng sống của người đồng bàn. Sự ích kỷ tham lam đã biến các thành viên trong cùng một gia đình thành kẻ thù không đội trời chung. Những anh chị em cùng máu huyết, chỉ vì vài mét vuông đất, hoặc vì không hài lòng do việc chia tài sản thừa kế, đã coi nhau như kẻ thù. Họ kiện nhau ra tòa án và không còn muốn nhìn mặt nhau. Trong bối cảnh xã hội hôm nay, người ta dễ quên tình huynh đệ, bằng hữu, làng xóm thân cận, để biến thành kẻ thù.

Trong Tin Mừng, Chúa Giêsu đã mời gọi chúng ta, không chỉ yêu mến những ai làm ơn cho mình, nhưng còn yêu thương và tha thứ cho kẻ thù. Đọc Phúc Âm, chúng ta thấy, Chúa Giêsu có những đối phương. Đó là một số người biệt phái và luật sĩ. Họ là những người luôn dò xét để chỉ trích cách sống của Chúa, nhất là tương quan của Người với các tội nhân. Tuy vậy, mặc dù lên án họ với những lời nói gắt gao, không bao giờ Chúa coi họ là những kẻ thù. Chúa muốn chỉ cho họ thấy quan niệm cực đoan của họ. Người cũng mời gọi họ có cái nhìn thiện cảm với các tội nhân. Bởi lẽ, là con người, không ai hoàn thiện. Chúa cũng muốn cho họ hiểu sứ mạng của Người khi đến trần gian là để cứu vớt các tội nhân, như thày thuốc chăm sóc và giúp cho bệnh nhân được lành. Người kêu gọi: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (Mt 5,44-45). “Yêu thương kẻ thù” là nét ưu việt của Kitô giáo. Trong Cựu ước, người Do Thái áp dụng luật “mắt đền mắt, răng đền răng”, tức là được phép làm cho người khác đúng như mức độ họ đã gây ra thiệt hại cho mình. Khái niệm “đồng loại” trong luật Cựu ước có ý chỉ người Do Thái, còn những người khác thì không phải đồng loại. Lời giáo huấn của Chúa Giêsu làm thay đổi quan niệm truyền thống này, đồng thời hướng tới sự tha thứ không giới hạn. Chính Chúa đã thực hiện điều Người rao giảng, khi chịu treo trên thập giá. Trong hơi thở yếu ớt lúc sắp lìa trần, Người xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ hành hình mình, vì họ không biết việc họ làm (x. Lc 23,34). Noi gương Chúa Giêsu, Thánh Têphanô Phó tế, vị tử đạo tiên khởi của Kitô giáo, cũng đã cầu nguyện cho những kẻ ném đá mình (x. Cv 7,60). Lời cầu nguyện ấy nói lên sự tha thứ mà vị tử đạo dành cho những người giết hại mình. Sự tha thứ ấy đã đem lại cho vị tử đạo sự bình an và thanh thản tâm hồn.

Cầu nguyện và tha thứ cho những người làm hại mình, chúng ta cũng nỗ lực để đừng trở nên “kẻ thù” của những người xung quanh. Có những người đã trở nên nỗi ám ảnh đối với môi trường sống, ví dụ hiện tượng ngày càng nhiều thanh niên “ngáo đá” do dùng ma túy. Họ trở nên nỗi sợ cho gia đình và làng xóm, khu phố. Nhiều người khác, do lối sống thực dụng, dùng mưu mô mánh lới lừa đảo, bất chấp danh dự và quyền lợi của người khác, sẵn sàng dùng mọi thủ đoạn để chiếm đoạt tài sản, lỗi đức công bằng. Họ đang biến mình thành “kẻ thù” của những người xung quanh.

Để sống một cuộc đời bình an, Ông Bà chúng ta dạy: hãy thêm bạn bớt thù. Đáng tiếc, trong bối cảnh xã hội hôm nay, người ta đang có khuynh hướng làm ngược lại. Thay vì hợp tác huynh đệ để cùng nhau giảm thiểu tội ác, chung sống hòa bình, thì người ta muốn hủy diệt và loại trừ nhau. Ông cụ 90 tuổi trong câu chuyện ở đầu bài viết không có kẻ thù, không phải vì ông quảng đại tha thứ, nhưng nếu ai làm mất lòng ông thì ông sẵn sàng giết họ.

Lấy oán hận đáp lại oán hận, thì hận thù sẽ chồng chất. Giáo lý Phật giáo cũng dạy: “Hận thù diệt hận thù. Đời này không có được. Không hận, diệt hận thù. Là định luật ngàn thu” (Tức là đem hận thù diệt hận thù hay lấy oán trả oán thì oán càng thêm. Còn không đem oán trả oán thì đó mới là định luật ngàn thu). Quảng đại tha thứ, từ bỏ hận thù, chung sống huynh đệ, đó là điểm gặp gỡ chung giữa Kitô giáo và Phật giáo.

Thánh Phanxicô đã cầu nguyện với Chúa: “Xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa” (Kinh Hòa bình). Ước chi mỗi Kitô hữu chúng ta trở nên những khí cụ bình an trong cuộc sống chao đảo và đầy bạo lực này. Trước khi trở nên khí cụ bình an, mỗi chúng ta phải cảm nghiệm sự bình an tâm hồn qua việc sẵn lòng tha thứ cho anh chị em mình.

“Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Đó là lời cầu nguyện của Chúa Giêsu trên thập giá. Ước chi đó cũng là lời cầu nguyện của chúng ta, mỗi khi chúng ta bị xúc phạm hoặc khinh chê. Chúng ta chỉ có thể thốt lên lời cầu nguyện này, nếu cuộc sống chúng ta thấm đượm tinh thần của Tin Mừng, và Lời Chúa luôn cư ngụ dồi dào trong tâm hồn chúng ta, nhờ đó, chúng ta có cái nhìn yêu thương như cái nhìn của Chúa và trái tim quảng đại như trái tim của Người.

 

5. Hãy yêu kẻ thù

(Suy niệm Chú giải Lời Chúa của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật VII Thường Niên Năm A mời gọi con cái Thiên Chúa phải nên thánh thiện như Cha của họ, là Đấng Thánh ngự trên trời. Sự hoàn thiện gặp thấy đỉnh cao của nó ở nơi luật yêu thương.

Lv 19: 1-2, 17-18

Bài Đọc I được trích từ sách Lê-vi, chính xác hơn từ phần được gọi “Luật Thánh Thiện” ở đó Đức Chúa đòi hỏi dân Ngài: “Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta là Đấng Thánh” và “Ngươi hãy yêu đồng loại như yêu chính mình”.

1Cr 3: 16-23

Thánh Phao-lô nhắc các tín hữu Cô-rin-tô nhớ rằng mọi người Ki-tô hữu là “Đền Thờ Thiên Chúa” vì họ được Chúa Thánh Thần ở cùng; họ không thuộc về sự khôn ngoan đời này nhưng sự khôn ngoan Thiên Chúa, vì họ thuộc về Đức Ki-tô và Đức Ki-tô lại thuộc về Thiên Chúa.

Mt 5: 38-48

Bản văn Tin Mừng Mát-thêu là phần tiếp theo diễn từ của Đức Giê-su về luật mới: “Anh em đã nghe Luật dạy… Còn Thầy, Thầy bảo anh em…”.

BÀI ĐỌC I (Lv 19: 1-2, 17-18)

Sách Lê-vi là quyển sách thứ ba trong năm quyển sách của bộ “Ngũ Thư”: sách Sáng Thế, sách Xuất Hành, sách Lê-vi, sách Dân Số và sách Đệ Nhị Luật. Năm sách này hình thành nên Lề Luật và nguồn cảm hứng của chúng, theo truyền thống, lên đến tận ông Mô-sê, nhà lập pháp vĩ đại của dân Ít-ra-en.

Sách này là cẩm nang chủ yếu dành cho các thầy tư tế hay các thầy Lê-vi, vì thế sách được gọi là sách Lê-vi vì những người này đều thuộc về chi tộc Lê-vi. Chi tộc này có một quy chế đặc biệt; họ không sở hữu đất đai và được dành riêng để phục vụ nơi thánh thay cho dân Ít-ra-en, vì thế Đức Chúa là gia nghiệp của họ. Xưa kia, tư tế và lê-vi là một. Sau này, danh xưng tư tế được dành cho những ai thực hiện những chức năng chính thức trong Đền Thánh Giê-ru-sa-lem, trong khi các thầy Lê-vi đảm nhận những công việc thứ yếu.

Sách Lê-vi được trình bày như một bộ sưu tập các huấn thị nghi thức và các nguyên tắc luân lý thuộc nguồn gốc và niên biểu khác nhau, thường rất xa xưa, với một ý tưởng chủ đạo: hình thành nên lương tâm luân lý của một dân tộc kề cận với sự thánh thiện của Thiên Chúa của mình. Công trình biên soạn chung cuộc thì rất muộn thời: đầu thế kỷ thứ năm trước Công Nguyên, tức là sau thời kỳ hồi hương trở về và công việc tái thiết Đền Thờ thứ hai, tuy nhiên công việc sưu tập các bản văn và các truyền thống đã là một công trình dài lâu, khởi sự rất sớm, chắc hẳn ngay từ cuối thời quân chủ (đầu thế kỷ thứ sáu trước Công Nguyên).

Bản văn của chúng ta được trích từ chương 19, chương này góp phần hình thành nên một tổng thể được gọi “Luật về sự Thánh Thiện” (ch 17-26).

  1. Đức Chúa phán với ông Mô-sê

Phần lớn các chương của sách Lê-vi đều bắt đầu: “Đức Chúa phán với ông Mô-sê”. Đối với dân Ít-ra-en, Lề Luật là cách diễn tả thánh ý của Thiên Chúa mà ông Mô-sê là người trung gian. Nhà biên soạn sách Lê-vi xây dựng hoạt cảnh, không chỉ trên núi Xi-nai, nhưng còn ở dưới chân núi, trước “Lều Hội Ngộ” nơi đặt Hòm Giao Ước. Đây không là hư cấu văn chương nhưng là ý hướng thần học: tất cả những khai triển Lề Luật chỉ là nối dài pháp luật đầu tiên và được định vị vào trong cùng một tinh thần, một sự liên tục không bao giờ bị gián đoạn.

  1. Hãy nói với toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en

Thật ra, Ít-ra-en là một cộng đồng trước khi là một quốc gia; họ là “dân Thiên Chúa” và căn tính của họ chỉ được diễn tả tròn đầy ở nơi cộng đoàn phụng vụ.

Mệnh lệnh này được ban cho ông Mô-sê để ông nói với toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en chỉ được gặp thấy một lần trong sách Lê-vi: vào lúc tấn phong các tư tế. Xem ra nhà biên soạn đã muốn đối chiếu giữa hai cách thế đi vào trong mối hiệp thông với Thiên Chúa:

Đối với sách Lê-vi, các tư tế là những người trung gian giữa con người và Thiên Chúa. Các sách Cựu Ước khác còn xem ngôn sứ hay vua là những người trung gian. Theo “sách Lê-vi”, phụng tự và chức tư tế cấu thành nên sự trung gian cốt yếu. Vào thời kỳ biên soạn sách Lê-vi chung cuộc, dân Ít-ra-en đã không còn vua và truyền thống ngôn sứ đang trên đường biến mất. Qua đức tin của mình và việc thực hành các quy tắc thánh thiện, các tín hữu cũng có thể đi vào trong mối thân tình của Thiên Chúa.

“Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta là Đấng Thánh”: Điều răn này được lập lại nhiều lần trong sách Lê-vi, và lời dạy của Chúa Giê-su cũng âm vang điều răn này: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5: 48).

Sự thánh thiện của Thiên Chúa là ý tưởng chủ đạo của sách Lê-vi. Thiên Chúa được gọi là “thánh” không chỉ vì Ngài được ban cho phẩm chất luân lý cao nhất, nhưng để nhấm mạnh khoảng cách vô tận của Ngài với phàm nhân tội lỗi, tính cách bất khả đạt của Ngài, mầu nhiệm cao vời khôn ví của Ngài. Noi theo Thiên Chúa của mình, dân Ít-ra-en được mời gọi tách riêng ra khỏi các dân ngoại, tránh xa tội lỗi, thánh hóa chính mình. Những chỉ thị của Luật Thánh Thiện chỉ cho họ con đường.

Phần thứ hai của bản văn trích dẫn vài lời khuyên bảo luân lý, mà một trong số đó cấu thành một trong những đỉnh cao Cựu Ước: “Ngươi phải yêu thương đồng loại như yêu chính mình”.

“Ngươi phải yêu thương đồng loại như chính mình”: Nguyên tắc này, được đặt lại vào trong mạch văn của nó, không có tầm mức quy mô như Tân Ước sẽ ban cho nó.

“Đồng loại” là tất cả thành viên của dân Ít-ra-en. Toàn bộ đoạn văn liên quan đến những mối liên hệ xã hội ở bên trong cộng đồng. Chúng ta cũng gặp thấy những xưng hô khác như “người anh em”, “người đồng hương”. “Người anh em” trong câu: “Ngươi không được để lòng ghét người anh em”, chỉ một thành viên thuộc cùng giòng dõi, cùng bộ tộc. “Người đồng hương” trong câu “Ngươi phải mạnh dạn quở trách người đồng hương”, tức là một người Ít-ra-en. Vì thế, viễn cảnh bị thu hẹp lại ở nơi câu: “Ngươi phải yêu thương đồng loại như chính mình”.

Tuy nhiên, khi tiếp tục đọc chương này, chúng ta gặp thấy ở câu 34: “Các ngươi phải đối xử với người ngoại kiều cư ngụ với các ngươi như với một người bản xứ, một người trong các ngươi; các ngươi phải yêu nó như chính mình”. Câu này triển khai luật yêu thương, chắc chắn còn trong những giới hạn của việc đồng hóa người ngoại kiều với một người Ít-ra-en, tuy nhiên luật yêu thương được mở rộng rồi. Chỉ thêm một bước nữa đạt đến tầm mức của tình yêu dành cho hết mọi người mà Chúa Giê-su sẽ dạy và Ngài còn đi xa hơn nữa cho đến huấn lệnh “Phải yêu kẻ thù”.

Đức Giê-su sẽ kết hợp điều răn yêu người này với điều răn mến Chúa. Điều răn mến Chúa này được gặp thấy trong một quyển sách khác của bộ “Ngũ Thư”, sách “Đệ Nhị Luật” (Đnl 6: 5). Đức Giê-su ban cho hai điều răn này một tầm quan trọng như nhau và tóm gọn mọi Lề Luật vào trong hai điều răn này (Mt 22: 37-40; Mc 12: 29; Lc 10: 25-28). Ngài sẽ chứng mình hai điều răn này tương tự nhau khi đồng hóa mình với người đồng loại: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25: 40).

Cựu Ước đã không hiệp nhất hai điều răn này và cũng không đồng hóa Thiên Chúa với người đồng loại. Chính Đức Ki-tô, vừa Thiên Chúa vừa con người, thực hiện sự ngang bằng này.

BÀI ĐỌC II (1Cr 3: 16-23)

Bản văn này mang đến một câu kết luận cho ba lập luận của thánh Phao-lô, chứng minh cho các tín hữu Cô-rin-tô thấy rằng việc họ phân chia thành những bè phái dựa trên một ý tưởng sai lầm về Giáo Hội, một quan niệm lầm lạc về sự khôn ngoan Ki-tô giáo, một sự ngộ nhận về vai trò của các vị rao giảng.

Thánh Phao-lô vừa mới khai triển điểm thứ ba này. Thánh nhân đã so sánh công việc của các nhà rao giảng với công việc của những người kiến trúc sư: “Theo ơn Thiên Chúa đã ban cho tôi, tôi đặt nền móng như một kiến trúc sư lành nghề, còn người khác thì xây trên nền móng đó…”. Như vậy mỗi người góp phần theo cách của mình vào việc xây dựng tòa nhà, tức là Đền Thờ Thiên Chúa, vì cộng đồng Ki-tô hữu không gì khác hơn một Đền Thánh ở đó Thiên Chúa ngự.

  1. “Anh em là Đền Thờ Thiên Chúa”

Thánh Phao-lô dùng từ “naos”, từ này chỉ nơi cực thánh nhất, nơi Thiên Chúa ngự, nơi “ba lần thánh” của Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Hình ảnh này rất gần với hình ảnh “Thân Thể Đức Ki-tô”. Thánh nhân sử dụng cả hai hình ảnh này, lúc thì luân phiên, lúc thì liên kết với nhau. Khái niệm “Đền Thờ tinh thần” cắm rễ sâu trong lịch sử của dân Ít-ra-en. Đức Chúa đã hứa với dân Ngài “Ngài sẽ ở giữa họ nếu họ tuân giữ các lề luật của Ngài” (Lv 26: 3-11). Kinh nghiệm về thời lưu đày ở Ba-by-lon, xa Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, vả lại bị phá hủy, đã khích lệ tâm tình của các tín hữu rằng sự kiện Thiên Chúa hiện diện giữa dân Ngài là một thực tại tinh thần. Trước đó, ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã loan báo rằng thời sẽ đến, vào thời đó tôn giáo sẽ được trở nên nội tâm hơn, thời Lề Luật sẽ được ghi khắc trong tâm khảm. Sau cùng, Đức Giê-su công bố rằng “thân thể của Ngài” là Đền Thờ mới, mà giờ đã đến, “giờ những người thờ phượng đích thật sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật” (Ga 4: 23).

Lời khẳng định: “đền thờ ấy chính là anh em” được giải thích ngay liền sau đó: người Ki-tô hữu là “đền thờ của Thiên Chúa” vì “Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em”. Đây là chủ đề chính yếu của thần học thánh Phao-lô, đó là sự hiện diện của Chúa Thánh Thần ở nơi mỗi người Ki-tô hữu: thần học này phù hợp với những lời hứa của Đức Giê-su và ơn thần khải của lễ Ngũ Tuần. Thánh nhân lập lại thần học này ở dưới một chút: “Anh em lại chẳng biết rằng thân xác anh em là Đền Thờ của Thánh Thần sao? Mà Thánh Thần đang ngự trong anh em là Thánh Thần chính Thiên Chúa đã ban cho anh em” (1Cr 6: 19).

Đó là sự thánh thiện của cộng đồng Ki-tô hữu vừa trong toàn thể vừa trong mỗi một thành viên. Làm nứt rạn tòa nhà do tinh thần phe phái và những chia rẽ nội bộ, chính là phạm thánh.

  1. Sự khôn ngoan đích thật

Thánh Phao-lô nhắc lại sự đối lập giữa sự khôn ngoan thế gian và sự khôn ngoan Thiên Chúa, mà thánh nhân đã khai triển ở trên: “Thật thế, lời rao giảng về thập giá là một sự điên rồ đối với những kẻ đang trên đà hư mất, nhưng đối với chúng ta là những người được cứu độ, thì đó là sức mạnh của Thiên Chúa. Vì có lời chép rằng: Ta sẽ hủy diệt sự khôn ngoan của kẻ khôn ngoan, và sẽ vứt bỏ sự thông thái của người thông thái” (1Cr 1: 18-19). Thánh nhân một lần nữa viện dẫn Kinh Thánh khi trích dẫn rất tự do sách Gióp tiếp đó một câu của Thánh Vịnh 94.

Trong nỗi chán chường thất vọng, đối mặt với những quyền lực sự ác, ông Gióp diễn tả niềm tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa, Đấng cất nhắc kẻ hèn mọn, đem lại niềm hy vọng cho người phiền muộn, phá vỡ mưu đồ của hạng tinh khôn, bắt kẻ khôn ngoan bằng chính những xảo kế của chúng và đi trước mưu toan của phường xảo quyệt (G 5: 11-13), mà thánh Phao-lô tóm tắt khi nói rằng “Chúa bắt được kẻ khôn ngoan bằng chính mưu gian của nó”. Lời phê-phán thật nghiêm khắc: rõ ràng nhắm đến những tín hữu Cô-rin-tô tự cao tự đại.

Tv 94 cũng là lời kêu gọi cứu giúp của những người công chính chống lại phường vô đạo:

“Tư tưởng phàm nhân, Chúa đều biết cả:

thật chỉ như cơn gió thoảng ngoài!” (Tv 94: 11)

  1. Những vị rao giảng của anh em là những người phục vụ mọi người

Những chia rẽ của các tín hữu Cô-rin-tô đối với những vị rao giảng của họ làm chứng rằng họ không là những người khôn ngoan. Không ai được phép nói: “tôi thuộc về Phao-lô, hay A-pô-lô, hay Kê-pha”, vì có một sự đảo lộn: dù Phao-lô, A-pô-lô hay Kê-pha đều thuộc về anh em, họ là những người phục vụ cộng đồng Ki-tô hữu, họ hiến dâng bản thân mình cho mỗi người và cho mọi người.

  1. Tất cả đều thuộc về anh em

Thánh Phao-lô chuyển đổi ngạn ngữ Hy-lạp: “Tất cả đều thuộc hiền triết”, thường được các triết gia Khắc Kỷ lập lại. Hiền triết là người biết, hiểu, gắn bó với trật tự vũ trụ, vừa lý tính vừa thần linh. Người Ki-tô hữu cũng là người biết và còn biết hơn nữa, vì Đức Ki-tô đã mặc khải ý định của Thiên Chúa về nhân loại: người Ki-tô hữu cũng nắm giữ ý nghĩa “sự sống và sự chết, hiện tại hay tương lai”. Thánh Phao-lô thường ca ngợi sự hiểu biết cao cả này của người Ki-tô hữu: người Ki-tô hữu không phải cậy dựa vào con người nhưng phải đặt trọng tâm cuộc đời mình vào Đức Ki-tô.

TIN MỪNG (Mt 5: 38-48)

Bản văn Mát-thêu này tiếp nối bản văn Chúa Nhật trước. Đức Giê-su tiếp tục đối chiếu giữa những huấn lệnh Mô-sê và luật yêu thương mà Ngài thiết lập. Hai ví dụ mới được đưa ra để đối chiếu: luật “Mắt đền mắt, răng đền răng” và luật “Yêu thương đồng loại của mình”.

  1. Luật “mắt đền mắt, răng đền răng”

Chúa Giê-su trích dẫn luật Cựu Ước: “Anh em đã nghe Luật dạy: ‘Mắt đền mắt, răng đền răng’”, được phát biểu trong sách Xuất Hành (21: 24) và được lập lại trong sách Lê-vi (24: 19-20). Vào thời Đức Ki-tô, luật này chỉ được áp dụng vào những trường hợp sát nhân: “mạng đền mạng”.

Vào thời đó, luật “Mắt đền mắt, răng đền răng” này đã giới hạn bạo lực. Chúng ta thử đọc lại bài ca thù hận ngút ngàn được trích trong sách Sáng Thế:

“Vì một vết thương, ta đã giết một người,

vì một chút xây sát, ta đã giết một đứa trẻ.

Ca-in sẽ được báo thù gấp bảy,

nhưng La-méc thì gấp bảy mươi bảy!” (St 4: 23-24).

Luật “Mắt đền mắt, răng đền răng” đưa ra những giới hạn chặt chẻ giữa sự xúc phạm và sự trả thù. Luật này chỉ có thể áp dụng vào những tấn công về phương diện thể lý; nhưng trong việc thực hành, luật này thường tỏ ra khó áp dụng. Vì thế, những đền bù thiệt hại bằng tiền bạc dần dần được thay thế, ngoại trừ trường hợp sát nhân.

Khi trích dẫn luật xưa, Đức Giê-su muốn nói rằng không còn “ăn miếng trả miếng” nữa. Dù biết rằng ước muốn trả thù vẫn sống động trong tâm trí con người, Đức Giê-su đòi hỏi người ta không được buông theo ước muốn này, đừng tìm cách trả thù. Thái độ từ chối trả thù trực tiếp này đã được các hiền nhân Cựu Ước phác họa rồi. Hiền nhân Si-rác khuyên:

“Kẻ báo thù sẽ chuốc lấy báo thù của Đức Chúa, tội lỗi nó, Người xem xét từng ly.

…..

Hãy nhớ đến các điều răn

mà đừng oán hờn kẻ khác,

nhớ đến giao ước của Đấng Tối Cao

mà không chấp nhất điều lầm lỗi” (Hc 28: 1-7).

Sách Châm Ngôn khuyên:

“Bạn đừng nói: ‘Tôi sẽ báo thù!’

Hãy cậy trông Đức Chúa, Người sẽ cứu bạn” (Cn 20: 22).

Đức Giê-su còn đi xa hơn các hiền nhân này, khi dạy rằng “lấy thiện báo ác”, “lấy tình yêu đáp lại hận thù”. Ngài dùng những kiểu nói rất bắt mắt và mâu thuẫn để nhấn mạnh: “Nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa. Nếu ai muốn kiện anh để cướp lấy áo trong, thì hãy cho nó lấy cả áo ngoài”. Áo trong và áo ngoài là y phục chính yếu miền Cận Đông. Áo ngoài còn cần thiết hơn áo trong: đây là chăn mền mà người nghèo dùng để đắp trong đêm, vì thế luật cấm giữ lại áo ngoài qua đêm. Ở đây, Đức Giê-su đòi hỏi một hành vi đặc biệt có ý nghĩa.

Động từ được dùng trong câu: “Nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm”, mang nét nghĩa đầu tiên là “trưng dụng phương tiện chuyên chở”, tiếp đó được mở rộng đến mọi công việc phục dịch. Xem ra chính nghĩa này phải giữ lại, bởi vì cốt là dặm đường phải đi. Người có quyền “trưng dụng” chắc hẳn là một binh lính hay quan chức Rô-ma. Quả thật, động từ này lại xuất hiện trong Tin Mừng Mát-thêu khi những người lính Rô-ma “trưng dụng” ông Simon thành Si-rê-nê vác đỡ thập giá với Đức Giê-su.

Luật truyền thống muốn rằng của bố thí và việc cho vay không lãi chỉ được dành cho những thành viên của đại gia đình Ít-ra-en, chứ không người ngoại kiều. Hơn nữa, năm sa-bát – cứ bảy năm một lần – bao gồm việc tha nợ nần. Những quy luật được thông qua ở bên trong cộng đồng. Khi công bố rằng “Ai xin, thì hãy cho; ai muốn vay mượn, thì đừng ngoảnh mặt đi”, Đức Giê-su muốn rằng những cử chỉ này phải ban cho hết mọi người, không phân biệt chủng tộc hay tôn giáo. Luật bác ái mà Đức Giê-su dạy không có giới hạn.

  1. Yêu thương kẻ thù

Lệnh truyền “Hãy yêu đồng loại” được gặp thấy trong sách Lê-vi, nhưng lệnh truyền “Hãy ghét kẻ thù” không được gặp thấy ở đâu trong sách Luật cả. Động từ “ghét” này chỉ cốt làm tương phản động từ “yêu thương”, theo một cặp đối lập rất đặc thù của ngôn ngữ sê-mít. Sự đối lập này được gặp thấy trong Luật Cộng Đồng Qumran: “Ngươi phải yêu thương con cái Ánh Sáng, nhưng ghét con cái Bóng Tối”. Dù sao đi nữa, cặp động từ đối lập này trình bày một tâm thức nào đó. Chúng ta đọc thấy trong sách Huấn Ca:

“Hãy cho người đạo hạnh, nhưng đừng giúp kẻ tội lỗi.

Hãy xử tốt với người khiêm tốn,

và đừng ủng hộ quân vô đạo,

hãy khước từ, đừng cung cấp bánh ăn cho nó…

Đừng bao giờ tin vào thù địch;

vì đồng tiền ten sét thế nào,

thì sự độc ác của nó cũng vậy” (Hc 12: 4-5, 10).

Quả thật, người Do thái ghét cay ghét đắng người Sa-ma-ri, khinh miệt người thu thuế, anh em đồng bào mặt dày mày dạn của mình cộng tác với quân chiếm đóng. Người Do thái chẳng bao giờ có những mối quan hệ bạn hữu với người ngoại giáo. Sách Lê-vi dạy yêu thương đồng loại của mình, nhưng quan niệm đồng loại bị hạn chế chỉ đóng khung vào đồng bào của mình. Đức Giê-su mở rộng cho đến hết mọi người. Luật đức ái phải lật đổ những phân biệt đối xử như thế. Khuôn mẫu của tình yêu này là mẫu gương của Cha trên trời, Đấng ban cho hết mọi người, kẻ xấu cũng như người tốt, ơn mưa mốc chan hòa.

Vào thời thánh Mát-thêu ghi lại những lời này: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em”, chúng có một âm vang bi thảm. Đây là thời kỳ Hội Đường bách hại Giáo Hội tiên khởi không chút xót thương. Những Ki-tô hữu gốc Do thái mà thánh Mát-thêu ngỏ lời, phải chịu những phiền nhiễu thậm tệ về phía những đồng đạo trước đây của mình.

Nhưng những môn đệ Đức Ki-tô phải mở rộng lòng mình, không so đo tính toán hơn thiệt. Đức Giê-su đòi hỏi họ đức tính anh hùng này và kêu gọi họ hãy nên hoàn thiện, thuật ngữ này nhắc nhớ “Luật Thánh Thiện” của sách Lê-vi, trong đó Đức Chúa phán: “Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta là Đấng Thánh”; còn ở đây, Đức Giê-su truyền: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, là Đấng hoàn thiện”.

 

6. Yêu kẻ thù là thánh – ViKiNi

(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)

Mở đầu sách Đại học của Nho Giáo đã nêu rõ mục đích là “Đại học chi đạo: Tại minh minh đức, tại thân dân, tại chỉ ư chí thiện”.

Kết thúc Hiến chương nước Trời trong bài Tin Mừng hôm nay cũng đặt rõ mục đích là “Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha trên trời… là yêu kẻ thù”.

Nho Giáo ở phương trời Viễn Đông, Kitô giáo ở phương trời Cận Đông, tuy xa nhau hàng ngàn dặm, nhưng tình yêu đâu có khác nhau?

Một đàng muốn con người nên chí thiện ở tại thân dân, thương yêu dân.

Một đàng bảo: “Anh em hãy nên toàn thiện ở tại thương yêu cả kẻ thù”.

Một đàng: “Minh minh đức”, minh là làm sáng tỏ, minh đức là đức sáng láng của Trời; minh minh đức là làm cho đức sáng của Trời sáng tỏ ra, chiếu sáng ra.

Một đàng bảo: hãy cầu nguyện, cốt yếu của cầu nguyện là làm cho danh thánh Cha trên trời hiển sáng, chiếu sáng ra khắp muôn dân. Thiên Chúa là ánh sáng, Đức Kitô là ánh sáng bởi ánh sáng (Ga. 1, 9).

Phần kinh của sách Đại học chỉ có 205 chữ: đây là cương lĩnh, là Hiến chương của Nho Giáo, mục đích đào tạo người học Thánh quân tử, thánh nhân.

Hiến chương nước Trời của Đức Giêsu cũng rất ngắn gọn, vài trăm chữ, nhằm đào tạo con người thành con Cha trên Trời, thành Thánh nhân của Thiên Chúa.

Hai Hiến chương có lẽ chỉ khác nhau ở chỗ: Tin Mừng nói rõ Cha trên trời là Đấng hoàn thiện và hạnh phúc Nước Trời; sách Đại học không nói rõ, nhưng cũng ngầm hiểu: làm cho dân được hạnh phúc là ở tới đích chí thiện; chí thiện chính là Thiên Chúa.

Lời Chúa hôm nay đặt chương trình nên chí thiện, nên chí thánh rất cụ thể.

Bài I (Lv. 19, 1-2; 17-18) Chúa phán dạy: “Các ngươi phải nên thánh”. Nhờ sống thánh thiện, mới tránh được: ghen ghét, oán hận, trả thù; mới biết yêu đồng loại như chính mình. Nền tảng của dân thánh đặt trên: “Ta là Đấng Thánh”.

Ở thời Cựu Ước, trước kỳ lưu đầy, khi nghe nói đến “Đấng Thánh” thì dân nhớ đến Đền Thánh, nhớ đến nơi cực Thánh trong cung thánh, nhớ đến những ngày lễ Thánh, những việc Thánh họ phải làm nơi đền thờ để được nên thánh.

Đến thời lưu đầy đền thờ bị phá hủy, dân bơ vơ, không còn điểm tựa để nhận ra Giavê là Đấng Thánh cho dân nên thánh. Họ phải nhớ lại giới luật giao ước núi Sinai mà Giavê, Đấng Thánh đã ban cho họ. Họ cần sống thực hiện giới luật đó để họ nên thánh như Đấng Thánh đã truyền dạy họ. Họ mới mong Đấng Thánh giải phóng họ khỏi cảnh lưu đầy như Ngài đã giải phóng tổ tiên họ khỏi nô lệ Ai Cập.

Bài II (1Cr. 3, 16-23) Phaolô không nhắc tới đền thờ Giêrusalem, không nhắc đến luật cũ nữa. Tân Ước là thời đại mới, dân Chúa thực sự không nên thánh nhờ đền thờ hay lề luật. Họ nên thánh, họ là dân thánh (1Phêrô 2, 9) nhờ được tái sinh bởi nước và Thánh Thần. Phaolô cho họ thấy: “Anh em là đền thờ Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em” Từ nay họ là chi thể thánh của Đức Kitô “Anh em thuộc về Đức Kitô, Đức Kitô thuộc về Thiên Chúa”

Thánh Phaolô đã cho ta biết rõ, bản chất cốt yếu của thánh thiện, không nhờ đền thờ hoặc bất cứ ai dù là Phaolô… hay luật lệ chỉ nhờ một mình Thiên Chúa: “Chính nhờ Người, với Người và trong Người” đã làm cho ta nên thánh.

Khi đã nhờ Người mà nên thánh, thì chính nhờ Người mà chúng ta mới có thể yêu kẻ thù.

Nhờ Người và như Người, chúng ta sẵn sàng chịu vả má phải và giơ thêm má trái cho họ vả, chứ không như luật dạy: mắt đền mắt răng đền răng. Nhờ Người và như Người, chúng ta không cần che thân, không cần bảo vệ, sẵn sàng chịu bóc lột áo trong cũng như áo ngoài. Nhờ Người và như Người không có hòn đá gối đầu, chúng ta không tiếc xót khi cho vay mượn, không bám gót của cải, dễ dàng cho đi, bỏ đi.

Nhờ Người và như Người đã vác khổ giá, chúng ta sẵn sàng phục vụ công việc như nô dịch, làm phu như ông Simon vô cớ bị quân dữ bắt làm phu vác đỡ thánh giá Chúa. Hơn nữa, còn phải sẵn sàng hy sinh cả mạng sống để yêu kẻ thù.

Như thế, mới được trở nên con Cha, Đấng đã làm cho mặt trời mọc lên soi sáng cho kẻ xấu cũng như người tốt và cho mưa xuống cho kẻ dữ cũng như người lành. Chiêm ngắm những kỳ công bao la đó, Nho gia xưa đã rất ngạc nhiên kêu lên: “Ôi đạo của bậc thánh vĩ đại thay! mênh mông như biển cả, sinh thành, nuôi dưỡng, giáo dục, thánh hóa tất cả vạn vật trong vũ trụ từ đất đi tới trời cực kỳ tốt đẹp: Đại tai thánh nhân chi đạo! dương dương hồ, phát dục vạn vật; tuấn cực vu thiên” (Trung Dung – chương 27)

Thánh như vậy đã “phối hợp với trời đất rộng dầy cao minh: bác hậu phối địa, cao minh phối thiên” (Trung Dung – 26)

Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta thấy ba mức độ thánh thiện:

Thánh thiện ở đền thờ, kinh lễ như hạng tư tế, bị Chúa phê: quân này mến Ta bằng môi miệng và lòng nó xa Ta.

Thánh thiện ở giữ trọn lề luật như chàng thanh niên giàu có, nhưng anh thiếu một điều là: hãy về bán những gì anh có mà cho người nghèo, người nghèo là kẻ thù của người giàu.

Thánh thiện ở yêu kẻ thù, yêu kẻ thù mới thực là tình yêu chí thiện, chí thánh phản ánh rõ nét tình yêu Thiên Chúa đã thí mạng sống Con Một cho kẻ thù: kẻ thù của Thiên Chúa là kẻ tội lỗi.

Lạy Chúa, xin thánh hóa tình yêu con, cho con biết yêu mến mọi người, nhất là những người thù ghét, oán hận con. Amen.

 

7. Yêu thương kẻ thù

Hãy yêu thương kẻ thù. Cứ sự thường người ta đối xử với nhau theo cái luật: Răng đền răng, mắt đền mắt, ân đền oán trả, hòn đất ném đi hòn chì ném lại. Chúng ta yêu thương những người yêu thương chúng ta và ghét bỏ những kẻ ghét bỏ chúng ta. Kẻ nào làm hại chúng ta thì chúng ta sẵn sàng để trả đũa, và người đời cho đó là lẽ thường tình, là thái độ khôn ngoan.

Thế nhưng, qua đoạn Tin Mừng nay Chúa Giêsu bảo chúng ta phải vượt lên trên cái lẽ thường tình ấy. Ngài phán với chúng ta: Hãy yêu thương kẻ thù và làm ơn cho những kẻ ghét bỏ chúng ta. Bởi vì có thực hiện được điều đó, chúng ta mới xứng đang là con cái Thiên Chúa và mới trở nên giống Ngài, Đấng đã cho mưa xuống trên người lành cũng như trên kẻ dữ.

Chúa Giêsu không phải chỉ truyền dạy chúng ta mà chính Ngài đã làm gương trước cho chúng ta trong việc thực thi giới luật yêu thương này. Đúng thế, Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước, ngay cả trong khi chúng ta còn nằm trong tội lỗi, còn quay lưng chống lại Ngài như lời thánh Phaolô trong bức thư gởi tín hữu Rôma đã viết: Thiên Chúa đã chứng tỏ tình yêu của Ngài đối với chúng ta, đó là khi chúng ta còn tội lỗi, thì Đức Kitô đã chết để chúng ta được sống.

Đúng thế, Ngài luôn luôn mong ước những điều tốt, những điều phải cho những kẻ bách hại Ngài. Ngài chịu đau khổ và chịu chết để những ai bắt Ngài phải đau khổ và phải chết được hết đau khổ và chết chóc. Trước sự từ chối của con người không đáp trả tình thương yêu của Ngài, Ngài vẫn duy trì cái quyết định tuyệt đối của Ngài, đó là yêu thương chúng ta mãi mãi.

Một trong những đặc tính nổi bật của tình yêu nơi Thiên Chúa đó là sự tha thứ. Ngài đã sánh ví mình như người mục tử tốt lành lên đường tìm kiếm con chiên lạc. Và khi đã tìm thấy thì vác nó trên vai và đem về nhà. Rồi Ngài đã xác quyết: Một kẻ tội lỗi ăn năn sám hối sẽ làm cho cả thiên đàng vui mừng hơn là 99 người công chính không cần sám hối ăn năn. Không phải những kẻ khoẻ mạnh là là những người đau yếu mới cần đến thầy thuốc. Ta đến không phải để kêu gọi người công chính nhưng để kêu gọi kẻ tội lỗi biết đường sám hối ăn năn. Ngài sẵn sàng chịu chết trên thập giá để làm gì nếu không phải là để tha thứ cho chúng ta. Trong giây phút đớn đau nơi thập giá, Ngài cũng đã thứ tha cho tất cả những kẻ độc ác đã hành hạ Ngài bằng lời van xin: Lạy Cha, xin Cha tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm.

Có hai người thổ dân Nam Phi rất ghét nhau. Ngày kia trong một hai người gặp đứa con gái nhỏ của kẻ thù đang đi trong rừng. Hắn liền bắt cô bé, chặt đứt ngón tay rồi thả ra. Cô bé vừa chạy vừa khóc, còn hung thủ vừa đi vừa la: Ta đã trả thù được rồi. Mười năm sau, cô bé lúc đó đã có chồng và có con. Ngày kia, một kẻ ăn mày tới xin ăn, bà nhận ra đó là kẻ đã chặt tay mình, nên vội vàng vào nhà, bảo tôi tớ đem cơm thịt và cá ra đãi. Khi kẻ thù đã ăn xong, bà bèn giơ bàn tay cụt ra cho coi và nói: Tôi cũng đã trả thù được rồi. Tên ăm mày thấy thế bèn khóc lóc xin được tha thứ.

Thiên Chúa đã yêu thương và tha thứ cho chúng ta, còn chúng ta thì sao? Liệu chúng ta có thực sự yêu thương và sẵn sàng tha thứ cho những kẻ ghét bỏ chúng ta hay không?

 

8. Mở toang cửa lòng – Thiên Phúc

(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu)

Một vị vua của Trung Quốc nói với triều đình của mình rằng: “Khi nào ta chinh phục đất nước ấy, ta sẽ tiêu diệt hết kẻ thù”.

Chẳng bao lâu sau, ông đã toàn thắng trở về. Đình thần của ông đều chờ đợi một cuộc thảm sát đẫm máu. Họ mong cho kẻ thù phải bị phanh thây không còn một tên sống sót. Nhưng họ lại vô cùng sửng sốt khi thấy kẻ thù ngồi ăn uống với nhà vua, cười cười nói nói vui vẻ như kẻ thắng trận. Họ liền tâu nhà vua:

-Muôn tâu Thánh Thượng, trước khi xuất quân lâm trận, ngài đã tuyên bố là sẽ tiêu diệt kẻ thù cơ mà! Sao bây giờ…?

Hoàng đế ôn tồn cười nói: “Không phải ta đã tiêu diệt hết kẻ thù rồi sao? Những người ngồi đây không phải là bạn hữu của chúng ta sao?”

***

Sự trả thù theo Kinh Thánh, nó như một con dã thú nằm phục trong bóng đêm ở cửa nhà, sẵn sàng nhảy ra nhe răng và vươn vuốt (Kn 4,7). Con dã thú ấy ở đâu đó trong lòng con người.

Abraham Lincoln, vị Tổng thống vĩ đại nhất của Hoa Kỳ đã phát biểu một câu danh tiếng: “Biến thù thành bạn, phải chăng đã là tiêu diệt được kẻ thù rồi?” Đó chính là sức mạnh của tình yêu cứu độ.

Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu đã dạy: “Hãy yêu kẻ thù”. Từ khi con người xuất hiện trên trái đất này, chưa có một tôn giáo nào kêu gọi “Hãy tha thứ cho kẻ thù”, chưa có một vị sáng lập đạo giáo nào đã dạy: “Hãy yêu kẻ thù”. Duy nhất, mình Đức Giêsu, Người không chỉ dạy “Hãy yêu kẻ thù” mà còn khuyên: “Hãy cầu nguyện cho kẻ ngược đãi anh em” (Mt 6,44). Người không chỉ dạy phải tha thứ cho kẻ thù, mà Người còn làm gương trước cho mọi người. Lời cao đẹp nhất tren môi miệng của Đức Giêsu, chính là lời thốt ra khi Người đang quằn quại trên thập giá: “Lạy Cha, xin tha thứ cho họ”. Và nghĩa cử hào hiệp nhất trong cuộc đời của Đấng Cứu Thế, chính là việc Người biện hộ cho những kẻ hành hạ mình: “Vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34).

Nhưng làm sao chúng ta có thể yêu kẻ thù?

Trước tiên, hãy học cho biết tha thứ. Không biết tha thứ thì không thể yêu thương. Khi người cha nhân hậu đã sẵn sàng tha thứ mọi lỗi lầm cho đứa con hoang đàng, ông mới có thể ôm hôn người con vào lòng, đeo nhẫn, xỏ giầy, mặc áo mới, giết bê béo ăn mừng. Tha thứ là tháo gỡ rào cản, phá đổ bức tường ngăn cách. Tha thứ là cất đi gánh nặng, là xóa bỏ món nợ. Tha thứ là hòa giải, là gặp lại nhau, là thiết lập lại quan hệ mới. Tha thứ là chất xúc tác rất cần thiết cho một khởi đầu mới. Tha thứ là mở toang cánh cửa lòng mình, cho nắng ấm tình yêu tràn ngập tâm hồn. Như thế, mức độ tha thứ chính là thước đo mức độ yêu thương kẻ thù.

Thứ đến, hãy biết rằng kẻ thù không hoàn toàn xấu. Nơi người xấu nhất vẫn có cái tốt và nơi người tốt nhất vẫn có cái chưa thật tốt. Chính thánh Phaolô cũng phải thú nhận: “Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm” (Rm 7,19). Trong biển đời mênh mông, mỗi người đều không ngừng thay đổi cả hướng tốt lẫn hướng xấu, chúng ta chớ cho rằng mình đã hiểu ai đó tới chân tơ kẽ tóc. Nhìn kỹ vào kẻ thù, chúng ta sẽ khám phá ra rằng, điều xấu họ làm thường xuất phát từ sợ hãi, thiên kiến, hiểu lầm hay ngu dốt. Nhưng dù sao, họ vẫn mang đậm hình ảnh của Thiên Chúa. Cũng chính vì những yếu đuối, bất toàn và khiếm khuyết ấy họ mới cần được Thiên Chúa cứu chuộc và mong chờ chúng ta yêu thương.

Cuối cùng, chúng ta đừng nuôi hờn giữ oán, đừng tìm cơ hội trả đũa, làm nhục kẻ thù hay thẳng tay tiêu diệt họ. Trái lại, mọi lời nói, cử chỉ, hành vi của chúng ta nên tỏ ra thân thiện, dễ gần gũi, để gia tăng sự hiểu biết và cảm thông với kẻ thù, để khai mở thiện chí hoán cải trong họ. Tấm lòng bao dung bao giờ cũng gói trọn con tim vô cùng độ lượng. Chính tấm lòng bao dung, quảng đại như thế sẽ dẫn chúng ta đến với tình yêu chân thành, một tình yêu sâu lắng hơn cảm xúc, một tình yêu tràn đầy, không chờ đợi điều gì cho mình, một tình yêu được tác động từ Thiên Chúa.

Chúng ta yêu kẻ thù vì chính Thiên Chúa đã yêu họ. Tuy nhiên, chúng ta vẫn ghê tởm điều ác họ làm. Yêu như thế là chúng ta đang dấn thân vào tình yêu của Thiên Chúa, tình yêu cứu chuộc. Chỉ với tình yêu đó, chúng ta mới “trở nên hoàn thiện như Cha chúng ta, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,48). Hoa nhân đức cứ tỏa hương mà không cần có người khen ngợi. Lòng bao dung cứ rộng mở cho dù chẳng ai hay biết.

***

Lạy Chúa, xin dạy chúng con biết rằng: Lấy oán báo oán sẽ làm tăng thêm hận thù, chỉ có tình yêu tha thứ mới có khả năng biến thù thành bạn. Hơn nữa, hận thù còn làm tổn thương tinh thần và hủy diệt nhân cách.

Xin cho chúng con biết quảng đại đáp lại lời mời gọi làm công việc khó khăn này, là “Hãy yêu kẻ thù”.

Nếu chúng con chưa bao dung được cho kẻ thù, thì xin cho chúng con nghe được lời bao dung của Chúa: “Lạy Cha, xin tha thứ cho họ”. Amen.

 

9. Tình yêu khỏa lấp hận thù – Dã Quỳ

Giữa một xã hội đề cao chủ nghĩa cá nhân, khuynh hướng tự nhiên của con người là ăn miếng trả miếng, muốn trả đũa, muốn thắng người khác và hơn người khác. Chính vì thế, nói đến “bỏ qua, tha thứ” dường như người ta nghe lạ lẫm, chứ chưa nói đến yêu thương cả kẻ thù, người bách hại mình… Thế nhưng Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã mời gọi và hơn nữa Người truyền lệnh cho chúng ta: “Còn Thầy, Thầy bảo anh em: Đừng chống cự người ác… Hãy yêu kẻ thù…” Là Kitô hữu, mỗi chúng ta cần phải nỗ lực thực thi mệnh lệnh yêu thương của Chúa, cố gắng “Nên Hoàn Thiện” như Cha trong cách thức sống, và chứng thực chúng ta là con cái của Cha – Thiên Chúa Tình Yêu.

Luật Môsê dạy rằng: “Mắt đền mắt, răng đền răng.” Khoản luật này xem ra vẫn còn nhẹ nhàng và khoan dung, bởi trong thời Sáng Thế, Đức Chúa đã phán với Cain rằng ai giết ông, sẽ bị trả thù gấp 7 lần (x. St 4,15). Nhìn vào thực tế đời sống xã hội hôm nay, chúng ta vẫn thấy nhan nhản những con người trả thù tàn bạo, vẫn còn đó những não trạng bất nhẫn và không chút khoan dung với tha nhân khi họ phạm tội! Chỉ cần nghe một người làm gì sai trái, ta chưa biết nguyên nhân dẫn họ đến hành động như thế, nhưng suy nghĩ tiêu cực luôn tràn trong trí óc là kết án, ném đá, đòi xử tội… dù ta vô can trong chuyện đó. Vì vậy, câu danh ngôn Latinh đã viết “Con người là chó sói của nhau”. Điều này có nghĩa là con người nhẫn tâm cư xử tàn bạo với nhau, dã man với nhau hơn cả lang sói!

Còn Thầy Giêsu, Thầy bảo anh em: “Đừng chống cự người ác…” Tất cả những bạo lực xảy ra đều do lòng người đã nhen nhúm sự tức giận, ghen ghét nhỏ nhen….để rồi dẫn đến hận thù và báo oán! Chúa Giêsu mời gọi chúng ta, những Kitô hữu hãy khử trừ khỏi lòng mình mọi hình thức trả thù. Hãy “Lấy ân đền oán”, vì không có con đường nào bình an và hạnh phúc cho tâm hồn bằng con đường tha thứ và yêu thương. Thật dễ khi ta cho đi những gì ta có hay dư giả như vật dụng, tiền của…Nhưng rất khó để ta trao tặng sự tha thứ vì nó đòi ta từ bỏ chính mình, gạt đi cái tự ái, bản thân, danh dự…. Chính vì vậy, ta cần có ơn Chúa trợ lực, sức mạnh Chúa giúp ta chiến thắng chính mình, thắng được lòng hận thù trong chính chúng ta. Có như thế, ta mới trở nên con cái của Cha chúng ta và có thể yêu thương cả kẻ thù như Chúa mong muốn ta thực hiện.

Thầy bảo anh em: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những người ngược đãi anh em.” Có lẽ trong đời sống hằng ngày, nhiều người trong chúng ta nghĩ mình không có kẻ thù. Thế nhưng, sao ta lại hay bực bội, khó yêu thương người khác. Những người làm ta trái ý, ta không vui; những người không giống ta, khác ta nhiều quan điểm và lối sống… Hơn thế nữa, những người đã và đang làm hại ta về vật chất, tinh thần, thanh danh, sức khỏe… và thế là ta đã khó yêu thương, chẳng thể sống hòa hợp! Nỗi bất bình cứ nhen nhúm và lớn lên, rồi một lúc ta xem người khác không còn phải là anh chị em mình nữa. Thế là sự thù nghịch, ghét ghen, diệt trừ nhau xảy ra. Chính vì điều này, ta cần phải ý thức, nhất là chúng ta, những Kitô hữu, hãy biết giữ lòng mình nhân từ, bao dung, rộng lượng bỏ qua cho anh em những khuyết điểm, sai lỗi hằng ngày. Đừng để lòng cay đắng, oán giận ai. Có như thế, khi ta gặp ai đó làm ta khó chịu, la mắng ta, đổ oan, vu khống hay làm thiệt hại ta, với tình yêu và ân sủng của Chúa, ta sẽ có thể dâng người anh em lên Chúa, cầu nguyện cho họ và sẵn lòng tha thứ cho họ và như vậy, ta mới xứng đáng là con của Cha- Đấng Nhân Từ.

“Nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình , thì anh em nào có công chi? Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em mình thôi, thì anh em có làm gì lạ thường đâu?” Yêu thương những ai không yêu mình, chào hỏi những người chẳng quan tâm thăm hỏi ta… đó là chúng ta bắt chước Thiên Chúa. Làm điều tốt cho những ai làm điều dữ cho ta, đó là tinh thần của chính Thiên Chúa. Trong mọi lời nói và cư xử, luôn có sự tự chủ, cần phải nhìn lên mẫu gương của Chúa, yêu thương, đón nhận anh chị em không giới hạn.

Chúa Giêsu đã yêu cầu chúng ta vượt qua bên kia cái tình cảm tự nhiên ban đầu để làm cho vòng tròn yêu thương xung quanh của ta được mở rộng không biên giới.  Nếu như chúng ta chỉ yêu những ai đáp lại tình yêu của ta, giống ta, suy nghĩ như ta, cùng tôn giáo với ta, những người trong dòng tộc hay thân quen của ta, những người trong làng xóm của ta…thì thực sự chưa đủ với tinh thần của người Kitô hữu và những gì Chúa muốn ta sống. Vì vậy, Chúa mong ta hãy làm lớn trái tim của ta, mở rộng tấm lòng của ta, để rồi chúng ta có thể yêu thương không giới hạn, không biên giới, không phân biệt. Có như thế, ta mới thực sự trở nên con của Cha- Đấng hoàn thiện, mà Chúa Giêsu mời gọi ta: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện.”

Ước mong sao từng Kitô hữu chúng ta luôn biết rằng: Nếu ta loại trừ ai đó ra khỏi tình yêu của ta, ta sẽ không có một tình yêu hoàn hảo. Người nào đó ta không yêu, chính Thiên Chúa đã và đang yêu họ. Người yêu thương cách tuyệt đối, yêu thương kẻ thù của Ngài. Hình ảnh Chúa Giêsu tha thứ và cầu nguyện cho những kẻ đóng đinh giết Người “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”,  chứng minh Thiên Chúa yêu những kẻ không yêu Ngài. Vậy chúng ta, cũng hãy đi và làm như vậy. Hãy cầu xin Tình Yêu Chúa lấp đầy trái tim ta, để ta có thể yêu thương kẻ thù như Thiên Chúa- Đấng hoàn thiện đã yêu thương; để ta có cái nhìn khoan dung, có tâm hồn  nhân hậu; để chúng ta luôn biết lấy sự lành đáp lại điều dữ, lấy tình yêu đáp lại hận thù,  biết cảm thông thay cho chấp nhất, tha thứ thay cho kết án. Và để trong mọi hoàn cảnh sống, ta luôn can đảm tỏa sáng tình yêu Chúa trong từng cung cách sống và hành vi của ta, chứng tỏ ta là con cái của Thiên Chúa Tình Yêu.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban ơn giúp sức và dạy chúng con biết yêu như Chúa yêu, biết tha thứ như Chúa đã tha thứ và trên hết, biết cầu nguyện cho anh chị em, kể cả người thù nghịch bách hại chúng con. Amen.

 

10.             Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành

Một thiền sinh hỏi: “Thưa sư phụ, con đau khổ vì cha mẹ tàn nhẫn, người yêu con ruồng bỏ, anh em phản bội, bạn bè phá hoại… Con phải làm sao để hết oán hờn và thù ghét đây?”

Vị sư phụ đáp: “Con ngồi xuống tịnh tâm, tha thứ hết cho họ.”

Vài hôm sau, người đệ tử trở lại: “Con đã học được tha thứ cho họ sư phụ ạ. Thật nhẹ cả người! Coi như xong!”

Sư phụ đáp: “Chưa xong, con về tịnh tâm, mở hết lòng ra thương yêu họ.”

Người đệ tử gãi đầu: “Tha thứ thôi cũng đã quá khó, lại phải thương yêu họ thì…Thôi được, con sẽ làm. Một tuần sau, người đệ tử trở lại, mặt vui vẻ hẳn, khoe với sư phụ là đã làm được việc thương những người mà trước đây đã từng đối xử tệ bạc với mình.”

Sư phụ gật gù bảo: “Tốt! Bây giờ con về tịnh tâm, ghi ơn họ. Nếu không có họ đóng những vai trò đó thì con đâu có cơ hội tiến hóa tâm linh như vậy.”

Người đệ tử trở lại, lần nầy tin tưởng rằng mình đã học xong bài vở. Anh tuyên bố: “Con đã học được và ghi ơn hết mọi người đã cho con cơ hội học được sự tha thứ!”

Sư phụ cười: “Vậy thì con về tịnh tâm lại đi nhé. Họ đã đóng đúng vai trò của họ chứ họ có lầm lỗi gì mà con tha thứ hay không tha thứ.”

Câu chuyện trên dạy chúng ta bài học về sự tha thứ, không những tha thứ mà còn thương yêu và làm ơn cho kẻ thù của mình. Lời  dạy của vị sư phụ đối với đệ tử của mình rất phù hợp với Lời Chúa hôm nay. Thật vậy, tha thứ cho kẻ thù là lệnh truyền của Thiên Chúa, là lời dạy và gương sáng của Đức Giêsu, của các thánh và của rất nhiều vị hiền nhân. Vì thế, tha thứ cũng là bổn phận của mỗi người Kitô hữu chúng ta.

Thứ nhất, tha thứ là lệnh truyền của Thiên Chúa: Khi chúng ta tha thứ và yêu thương kẻ thù là chúng ta thi hành mệnh lệnh của Thiên Chúa. Bài đọc 1, trích sách Lêvi, Thiên Chúa phán với Mô-sê: “Ðừng giữ lòng thù ghét anh em, nhưng hãy răn bảo họ công khai, để khỏi mang tội vì họ. Ðừng tìm báo oán, đừng nhớ lại lời mắng nhiếc của kẻ đồng hương. Hãy yêu thương các bạn hữu như chính mình” (Lv 19,17-18). Khi chúng ta tha thứ và yêu thương kẻ thù là chúng ta nên giống Thiên Chúa là Cha chúng ta “Đấng cho mặt trời chiếu soi kẻ dữ cũng như người lành, và cho mưa trên người công chính cũng như kẻ bất lương”(Mt 5,45). Thật vậy, Thiên Chúa là người Cha yêu thương hết mọi người, không phân biệt người lành kẻ dữ. Ngài đã tha thứ cho Tổ Tông sau khi hai ông bà phạm tội. Không những thế, mà Ngài còn yêu thương và hứa ban Đấng Cứu Thế. Suốt chiều dài lịch sử cứu độ, biết bao lần dân Do Thái bất trung, nhưng mỗi lần biết thống hối quay đầu trở lại, Ngài đã tha thứ và ban ơn. Sự tha thứ của Thiên Chúa được ngôn sứ Isaia diễn tả rõ ràng rằng:  “Tội các ngươi, dầu có đỏ như son, cũng ra trắng như tuyết; có thẫm tựa vải điều, cũng hoá trắng như bông” (Is 1,18).

Thứ hai, tha thứ là thực hiện lời dạy và làm theo gương sáng của Đức Giêsu: Đức Giêsu là hiện thân của Thiên Chúa. Ngài tiếp tục dạy cho nhân loại bài học về sự tha thứ. Bài Tin mừng hôm nay, Ngài dạy chúng ta: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em.”(Mt 5,44). Chính Ngài đã nói với Thánh Phêrô: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy”(Mt 18,22). Ngài còn nói thêm: “Nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi. Ngay cả những người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao?”(Mt 5, 46). Ngài còn dùng nhiều câu chuyện liên quan đến vấn đề tha thứ và yêu thương để dạy cho dân chúng: Dụ ngôn cỏ lùng (x. Mt 13, 24,30.36-43); ba dụ ngôn về lòng thương xót của Thiên Chúa (x. Lc 15,1-32); câu chuyện về người đàn bà phạm tội ngoài tình (x. Ga 8,1-11)…

Đức Giêsu không chỉ dạy về sự tha thứ mà Ngài còn làm gương cho chúng ta: Biết Giu-đa phản bội, Ngài không những tiếp tục yêu thương mà còn cho ông ngồi đồng bàn, nhiều lần Ngài cảnh tỉnh để Giu-đa từ bỏ ý đồ xấu. Khi Giu-đa dẫn quân lính đến bắt Ngài, Ngài ôn tồn nói những lời yêu thương: “Giu-đa ơi, anh dùng cái hôn mà nộp Con Người sao?”(Lc 22, 48). Ngài tha thứ cho Phê-rô khi ông chối Thầy ba lần. Ngài tha thứ cho kẻ trộm lành. Ngài tha thứ cho Phao-lô khi ông bắt bớ và chém giết người Kitô hữu. Ngài tha thứ cho những kẻ bắt bớ, đánh đập và đóng đinh Ngài trên thập giá, bằng cách cầu nguyện với Chúa Cha rằng: “Lạy Cha, xin Cha tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm”(Lc 23, 34).

Thứ ba, các thánh và các hiền nhân đã dạy và làm gương cho chúng ta về sự tha thứ:

Gương của các thánh để lại: Gương của Thánh Vương Đa-vít tha thứ cho Saul; Gương của Thánh Stêphanô, đã yêu thương và cầu nguyện cho kẻ giết mình: “Họ ném đá ông Tê-pha-nô, đang lúc ông cầu xin rằng: Lạy Chúa Giêsu, xin nhận lấy hồn con. Rồi ông quỳ gối xuống, kêu lớn tiếng: Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này. Nói thế rồi, ông an nghỉ”(Cv 7, 59-60). Gương của Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II đến thăm và tha thứ cho Ali Agca, kẻ có ý giết Ngài; Thánh nữ Maria Goretti tha thứ cho Alexander…

Gương của các hiền nhân: Khổng Tử chủ trương: “Dĩ đức báo oán.” Đức Phật Thích Ca cũng dạy: “Lấy oán báo oán, oán ấy chập chồng. Lấy đức báo oán, oán ấy tiêu tan.” Còn ông Gandhi, vị anh hùng của dân tộc Ấn Độ thì cho biết: “Luật vàng của xử thế là sự tha thứ lẫn nhau”; “Bất bạo động là luật của loài người, bạo động là luật của loài thú.” Ngoài ra, còn biết bao nhiêu mẫu gương khác, không những chủ trương tha thứ mà còn tha thứ bằng lời nói và hành động cho những kẻ làm hại mình.

Thứ tư, tha thứ là bổn phận của mỗi người Ki-tô hữu:  Theo tâm lý bình thường, thì chúng ta yêu thương kẻ yêu thương mình và chúng ta ghét kẻ thủ của chúng ta. Kẻ thù là những người bắt bớ, sỉ nhục, vu khống, đặt điều nói xấu và làm những điều bất công với chúng ta. Vì vậy, để yêu thương những kẻ chúng ta coi là xấu không phải là một việc làm dễ dàng. Nhưng vì là lệnh truyền của Thiên Chúa và lời dạy của Đức Giêsu, cũng như gương sáng của các thánh và của các hiền nhân nên người Ki-tô hữu chúng ta có bổn phận phải thi hành. Chúng ta không những tha thứ mà còn phải cầu nguyện cho họ để họ thay đổi đời sống. Đặc biệt, chúng ta phải làm ơn cho họ, giúp họ nhận ra sai trái để trở về nẻo chính đường ngay. Ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã từng nghe Thiên Chúa phán: “Nếu ngươi không báo cho kẻ gian ác biết tội lỗi của nó, không cảnh cáo nó từ bỏ lối sống xấu xa, để nó được sống, thì chính kẻ gian ác sẽ phải chết vì tội lỗi của nó, nhưng Ta sẽ đòi ngươi đền nợ máu nó” (Ed 3,18).

Tóm lại, chúng ta có bổn phận tha thứ, yêu thương và làm ơn cho kẻ thù, vì đó là lệnh truyền của Thiên Chúa, là lời dạy và gương sáng của Đức Giêsu, của các thánh và của các hiền nhân qua mọi thời đại. Vậy chúng ta hãy đặt mình vào những hoàn cảnh cụ thể trong cuộc sống để xét mình xem chúng ta đã thực hiện lời dạy về sự tha thứ như thế nào?

Lạy Chúa, xin dạy chúng con biết tha thứ cho anh em như Chúa đã từng tha thứ cho chúng con. Amen.

 

11.             Yêu thương kẻ thù

Trong cuộc sống thường ngày, chúng ta thường phân chia người khác thành từng loại: thân thiết, thù địch và dửng dưng, để rồi từ đó chúng ta có những thái độ cư xử khác biệt. Với người thân thiết, chúng ta yêu thương. Với kẻ thù địch chúng ta ghét bỏ và với kẻ dửng dưng, chúng ta thờ ơ.

 

Thế nhưng, bầu khí phụng vụ hôm nay đã làm đảo lộn hay nói đúng hơn đã phá đổ cái trật tự, cái lẽ thường tình này. Trong bài đọc thứ I, Maisen đã khuyên chúng ta: Đừng giữ lòng thù ghét anh em, đừng tìm cách báo oán và cũng đừng để lòng những lời nhiếc mắng của kẻ khác. Còn thánh Phaolô qua bài đọc II, thì đòi buộc chúng ta không được khinh rẻ người khác.

 

Và nhất là Chúa Giêsu Ngài muốn chúng ta phải có một tình thương tuyệt đối trong cách cư xử giữa người với người. Đúng thế, trong đoạn Tin Mừng của Chúa nhật tuần trước, chúng ta thấy đối với Chúa Giêsu việc làm hoà với nhau còn cấp bách hơn cả việc dâng của lễ cho Chúa: Khi các ngươi lên đền thờ dâng của lễ mà sực nhớ người anh em có điều chi bất bình thì hãy để của lễ đó, trở về làm hoà với người anh em trước đã rồi mới đến mà dâng của lễ sau. Còn trong đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, Người đòi hỏi chúng ta phải yêu thương cả kẻ thù, phải thoả mãn cả những đòi hỏi phi lý nhất của kẻ khác: Nếu các con bị vả má bên phải thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa. Nếu ai muốn kiện các con để cướp lấy áo trong thì hãy cho nó lấy cả áo ngoài nữa. Nếu ai bắt các con đi một dặm thì hãy đi với nó hai dặm. Điều Chúa đòi hỏi qua những trường hợp cụ thể được nêu lên ở trên, đó là phải đi cho tới tận cùng của tình yêu thương, hãy hết lòng với người khác dù người đó chính là kẻ thù của mình. Những đòi hỏi đó xem ra chẳng thực tế chút nào, nhưng lại là những đòi hỏi chính yếu của thời cứu độ, của thời mà trong đó tất cả chúng ta đều là con cái Thiên Chúa, như lời Người đã phán: Hãy yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi các con, như vậy các con mới được trở nên con cái của Cha các con, Đấng ngự trên trời vì Ngài cho mặt trời mọc lên, soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mua xuống trên kẻ dữ cũng như người lành.

 

Thánh Gioan đã định nghĩa Thiên Chúa là tình yêu. Một khi đã là con cái Thiên Chúa, thì cuộc đời chúng ta phải là một phản ảnh trung thành cho tình yêu của Thiên Chúa, một tình yêu không ngăn cách, không phân biệt, không hạn hẹp, phải yêu thương kể cả kẻ thù và những kẻ ghét bỏ chúng ta. Bởi vì biên giới của yêu thương đó là yêu thương không biên giới.

 

12.             Hãy sống yêu thương và nên trọn lành

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

 

Kết thúc “Bài giảng trên núi”, căn tính của người kitô hữu là muối là ánh sáng. Tiếp theo sau đó, Chúa Giêsu tiếp tục mạc khải cho khi dạy các môn đệ và cũng dạy chính chúng ta về thái độ cần phải có cũng như thực hành trong đời sống: “Các con đã nghe bảo… Còn Thầy, Thầy bảo các con “. Vậy nghe bảo gì? Và cụ thể giáo huấn của Chúa Giêsu cho các môn đệ mình ra làm sao?.

 

Khi Chúa Giêsu khi trích dẫn câu nói của người xưa về luật công bằng khi trả thù đã được ghi rõ trong Cựu Ước “Mắt đền mắt, răng đền răng ” (Xh 21,24). Chúng ta phải thừa nhận rằng, đây là một bước tiến lớn trong tương quan hành xử giữa người với người so với thời Lamek, bởi Lamek đã từng nói với hai vợ: “Vì một vết thương, ta giết một người, (Ta) trầy da, một nam nhi toi mạng. Vì Cain sẽ được báo thù gấp bảy, nhưng La-méc thì gấp bảy mươi bảy! ” (St 4,23-24) Vậy là trả thù mãi mãi. Luật “Mắt đền mắt, răng đền răng” (Xh 21,24) giúp con người khỏi rơi vào tình trạng thái quá. Trái lại, Luật của tình yêu phủ nhận sự đồng nhất với kẻ thù: “Còn Thầy, Thầy bảo các con: đừng chống cự lại với kẻ hung ác” (Mt 5, 39).

 

Theo Chúa Giêsu, yêu thương là vượt ra khỏi vòng tròn luẩn quẩn của cái ác và sống tình huynh đệ đại đồng, nên khi Ngài bảo chúng ta “đưa má bên kia cho nó nữa, ” là Ngài muốn chúng ta xây đắp tình hiệp thông anh em. Đưa má bên kia là cố tình giúp đối phương khám phá ra tình yêu và rằng thực hành bác ái là điều có thể. Đưa má bên kia còn muốn nói với kẻ ác rằng nó đã nhận được người anh em như nó là anh em. Một hành động đáng tin cậy như thế sẽ phá tan bạo lực.

 

Chúa Giêsu yêu cầu gia tăng thêm tình yêu và lòng tha thứ càng nhiều càng tốt! Vì tình yêu có sức mạnh giúp đối phương xích lại gần ta hơn bằng tình người. Như thế, bằng cách trao ban, chúng ta nhận nó là anh em.

 

Cho nó cả áo choàng, đi với nó hai dặm không phải một mà áp đặt, nhưng chứng minh con người luôn có sáng kiến về tình yêu. Vì đó là điều đẹp lòng Chúa, nên chúng ta từ bỏ điều có đi có lại và chủ động xây đắp tình hiệp thông trong tình yêu. “Ai xin, thì con hãy cho. Ai muốn vay mượn, thì con đừng khước từ ” (Mt 5, 44).

 

Tình yêu phải được thực hiện theo châm ngôn: “Hãy yêu thương thù địch các con, hãy làm lành cho những kẻ ghét các con, và cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ và vu khống các con” (Mt 5, 44). Chúa Giêsu không chỉ lên án một hệ thống dùng bạo lực để trả thù cho cân, Ngài còn muốn chúng ta hủy bỏ luật ăn miếng trả miếng xưa. Tình yêu không gia tăng theo kiểu có đi có lại – người ngươi yêu mến là một người anh em ngươi, một người ngươi yêu mến là người bạn ngươi. Tình yêu là quà tặng, nhưng không dựa trên sự khác biệt tối thiểu. Sự khác biệt của tình yêu là không giống nhau, là người khác chứ không phải là người họ hàng, nhưng là người chúng ta cảm thấy gần. Như Chúa Giêsu đã nói: đó là người thân cận của ngươi. Tuy nhiên, Chúa Giêsu không bác bỏ sự phân biệt của chúng ta. Người khác không phải luôn là một người bạn, nó có thể trở thành kẻ thù. Điều quan trọng là tất cả mọi người là anh em với nhau.

 

Thật phù hợp để người kitô hữu khẳng định căn tính là con Thiên Chúa của mình khi thực hành lời Chúa Giêsu dạy để trở nên con cái của Cha trên Trời. Giới luật yêu thương mà Chúa Giêsu để lại đã mạc khải rõ về hồng ân yêu thương. Là con cái Thiên Chúa, chúng ta phải yêu thương ngay cả kẻ thù, kẻ muốn cắt đứt tương quan là con Thiên Chúa và anh em với ta. Luật ăn miếng trả miếng không còn tồn tại. Chỉ có tình yêu mới biến đổi được hận thù, tình yêu làm cho chúng ta trở nên con Thiên Chúa và thể hiện chức phận là con đối với Người.

 

Như thế, chúng ta đi đến cùng lời Chúa Giêsu dạy về thánh ý Thiên Chúa trong đời sống: “Các ngươi hãy thánh thiện, vì Ta là Đấng Thánh” (Lv 19,1). Bằng những lời này, Thiên Chúa mời gọi dân Israel và cả chúng ta ngày hôm nay thể hiện lòng trung thành với giao ước Thiên Chúa đã thiết lập, đồng thời đặt luật lệ xã hội trên giới răn “Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình” (Lv 19,18). Tuy nhiên, phải đi xa hơn để tình yêu của chúng ta được phổ quát nhằm cho luật cũ được kiện toàn. Khi yêu như thế, ta đang thực hiện lời mời gọi của Chúa Giêsu: “Các con hãy nên trọn lành như Cha các con trên trời là Đấng trọn lành ” (Mt 5,48).

 

Nhưng ai có thể nên trọn lành? Sống trọn lành là thi hành thánh ý Chúa trong tư cách là con. Thánh Xip-ri-a-nô từng viết: “Cách hành xử của con cái Thiên Chúa phải tương hợp với tình phụ tử của Thiên Chúa bởi vì Thiên Chúa được tôn vinh và ca tụng từ những việc tốt lành của con người ” (De zelo et livore, 15: CCL 3a, 83). Như thế, con người có thể trở nên trọn lành khi sống tròn đầy cương vị làm con cái Thiên Chúa. Chúa Cha làm khác chúng ta là những người bỏ người này chọn người kia. Chúa Cha làm cho mặt trời mọc lên trên người lành cũng như kẻ dữ, và cho mưa trên người công chính cũng như kẻ bất lương. Chúa Cha quan tâm đến cả hai, người lành cũng như kẻ dữ ; con cái Thiên Chúa cũng phải trở nên trọn lành “như Cha các con trên trời là Đấng trọn lành” (Mt 5, 48).

 

Xem ra có thể khó, nhưng Chúa Giêsu đã làm gương cho chúng ta trước khi nói: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Ðấng ngự trên trời” (Mt 5, 44-45). Ai đón nhận Thiên Chúa trong đời sống mình và yêu mến Người hết lòng, người ấy có khả năng bắt đầu một chặng đường mới, có thể chu toàn thánh ý Thiên Chúa hầu hiện thực hoá một hiện hữu mới được nuôi sống bởi tình yêu và hướng đến sự vĩnh cửu. Tình yêu là điều vĩ đại, chúng ta đọc thấy trong sách Gương Chúa Giêsu, một điều tốt làm nhẹ đi những nặng nhọc và nâng đỡ những điều khó khăn. Tình yêu thôi thúc ta hướng lên cao mà không còn bị vướng bận vào bất cứ điều gì thuộc trần thế.

 

Lạy Chúa Thánh Thần, xin giúp chúng con luôn sống xứng đáng là con Cha trên Trời. Amen.

 

13.             Yêu thương kẻ thù

Hãy yêu thương kẻ thù. Cứ sự thường người ta đối xử với nhau theo cái luật: Răng đền răng, mắt đền mắt, ân đền oán trả, hòn đất ném đi hòn chì ném lại. Chúng ta yêu thương những người yêu thương chúng ta và ghét bỏ những kẻ ghét bỏ chúng ta. Kẻ nào làm hại chúng ta thì chúng ta sẵn sàng để trả đũa, và người đời cho đó là lẽ thường tình, là thái độ khôn ngoan.

Thế nhưng, qua đoạn Tin Mừng nay Chúa Giêsu bảo chúng ta phải vượt lên trên cái lẽ thường tình ấy. Ngài phán với chúng ta: Hãy yêu thương kẻ thù và làm ơn cho những kẻ ghét bỏ chúng ta. Bởi vì có thực hiện được điều đó, chúng ta mới xứng đang là con cái Thiên Chúa và mới trở nên giống Ngài, Đấng đã cho mưa xuống trên người lành cũng như trên kẻ dữ.

Chúa Giêsu không phải chỉ truyền dạy chúng ta mà chính Ngài đã làm gương trước cho chúng ta trong việc thực thi giới luật yêu thương này. Đúng thế, Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước, ngay cả trong khi chúng ta còn nằm trong tội lỗi, còn quay lưng chống lại Ngài như lời thánh Phaolô trong bức thư gởi tín hữu Rôma đã viết: Thiên Chúa đã chứng tỏ tình yêu của Ngài đối với chúng ta, đó là khi chúng ta còn tội lỗi, thì Đức Kitô đã chết để chúng ta được sống.

Đúng thế, Ngài luôn luôn mong ước những điều tốt, những điều phải cho những kẻ bách hại Ngài. Ngài chịu đau khổ và chịu chết để những ai bắt Ngài phải đau khổ và phải chết được hết đau khổ và chết chóc. Trước sự từ chối của con người không đáp trả tình thương yêu của Ngài, Ngài vẫn duy trì cái quyết định tuyệt đối của Ngài, đó là yêu thương chúng ta mãi mãi.

Một trong những đặc tính nổi bật của tình yêu nơi Thiên Chúa đó là sự tha thứ. Ngài đã sánh ví mình như người mục tử tốt lành lên đường tìm kiếm con chiên lạc. Và khi đã tìm thấy thì vác nó trên vai và đem về nhà. Rồi Ngài đã xác quyết: Một kẻ tội lỗi ăn năn sám hối sẽ làm cho cả thiên đàng vui mừng hơn là 99 người công chính không cần sám hối ăn năn. Không phải những kẻ khoẻ mạnh là là những người đau yếu mới cần đến thầy thuốc. Ta đến không phải để kêu gọi người công chính nhưng để kêu gọi kẻ tội lỗi biết đường sám hối ăn năn. Ngài sẵn sàng chịu chết trên thập giá để làm gì nếu không phải là để tha thứ cho chúng ta. Trong giây phút đớn đau nơi thập giá, Ngài cũng đã thứ tha cho tất cả những kẻ độc ác đã hành hạ Ngài bằng lời van xin: Lạy Cha, xin Cha tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm.

Có hai người thổ dân Nam Phi rất ghét nhau. Ngày kia trong một hai người gặp đứa con gái nhỏ của kẻ thù đang đi trong rừng. Hắn liền bắt cô bé, chặt đứt ngón tay rồi thả ra. Cô bé vừa chạy vừa khóc, còn hung thủ vừa đi vừa la: Ta đã trả thù được rồi. Mười năm sau, cô bé lúc đó đã có chồng và có con. Ngày kia, một kẻ ăn mày tới xin ăn, bà nhận ra đó là kẻ đã chặt tay mình, nên vội vàng vào nhà, bảo tôi tớ đem cơm thịt và cá ra đãi. Khi kẻ thù đã ăn xong, bà bèn giơ bàn tay cụt ra cho coi và nói: Tôi cũng đã trả thù được rồi. Tên ăm mày thấy thế bèn khóc lóc xin được tha thứ.

Thiên Chúa đã yêu thương và tha thứ cho chúng ta, còn chúng ta thì sao? Liệu chúng ta có thực sự yêu thương và sẵn sàng tha thứ cho những kẻ ghét bỏ chúng ta hay không?

 

14.             Tha thứ kẻ thù

Đâu là phương thế để làm cho thêm bạn bớt thù trong cuộc sống của mình?

 

Có một bản du ca tôi rất thích hát, bản du ca ấy có những lời lẽ như thế này: Kẻ thù ta đâu có phải là người giết người đi thì ta ở với ai. Đúng thế, đã là người thì ai cũng có những sai lỗi của mình. Nhân vô thập toàn là thế. Hơn nữa, mỗi người lại có những tính tình và sở thích riêng biệt, bá nhân bá tánh là thế.

 

Vì vậy, đã sống chung cùng nhau chúng ta không thể nào tránh đi cho hết những va chạm, những bực bội và những buồn phiền, như một câu danh ngôn đã bảo: Hễ ở đâu có hai người sống với nhau, thì ở đó thế nào cũng có sự xích mích và giận hơn.

 

Nếu suy nghĩ chúng ta sẽ thấy trên đời đâu phải chỉ có một hay hai người làm cho tôi sự mất lòng, làm cho tôi phải nhục nhã và tức giận. Ngay cả đến những người bạn thân tình, ngay cả đến cha mẹ và anh chị em ruột thịt cũng đã nhiều lần làm cho tôi phải bực bội.

 

Vậy nếu hễ tức giận là báo thù, thì tôi sẽ phải báo thù kẻ lạ cũng như người quen, kẻ ngoài xã hội cũng như người trong gia đình, kẻ bên trái cũng như những người bên phải, kẻ đàng trước cũng như người đàng sau, nghĩa là phải tẩy chay, phải thanh toán hết mọi thứ người trên mặt đất này.

 

Hơn nữa, xã hội và ngay chính bản thân tôi, sẽ không thể nào được xây dựng trên sự thù oán và đấu tranh, vì thù oán này sẽ nảy sinh ra thù oán khác, như một thứ bệnh truyền nhiễm làm cho xã hội bị sụp đổ, còn bản thân tôi sẽ phải quay quắt khổ đau. Thế nhưng, điều tệ hại nhất, đó là chính bản thân tôi nhiều khi lại là nguyên nhân cho sự thù oán, vì hơn một lần tôi đã sai lỗi, hơn một lần tôi đã gian tham và bất công. Cho nên người đáng phải giết, đáng phải loại trừ lại chính là bản thân tôi. Vì vậy mà bản du ca trên có những lời lẽ được tiếp nối như sau: Kẻ thù ta tên nó là gian ác, tên nó là điêu ngoa, tên nó là tham tàn…

 

Phương thế hữu hiệu nhất để làm cho thêm bạn bớt thù, không phải là chết giết những kẻ thù ở bên ngoài, vì sự trả thù chỉ là cái vui của những tâm hồn đê tiện, nhưng là phải lột mặt nạ và tận diệt cho bằng được những thói hư tật xấu, là những kẻ nội thù, nằm sẵn trong cõi lòng chúng ta, như người xưa đã dạy: Kẻ thù đích thực thì ở trong tâm hồn, vì đó là những nguyên nhân gây nên thù oán ngoài xã hội.

 

Cùng với việc uốn nắn sửa đổi những sai lỗi của mình, chúng ta hãy có thái độ khoan dung và tha thứ, cố gắng đi bước trước tiến đến sự hoà giải cùng nhau. Đừng khoan dung với mình mà gay gắt với anh em, trái lại hãy khoan dung với anh em mà gay gắt với chính mình. Cách tốt nhất để khỏi băn khoăn về kẻ thù là hãy làm cho họ trở nên một người bạn, bởi vì thù oán không thể huỷ diệt được thù oán, chỉ có tình thương mới huỷ diệt được nó mà thôi.

 

Ngày kia thánh Clementê đi vào một tiệm ăn, ngửa tay ra và nói:

– Xin quý ông rộng lượng bố thí cho các em mồ côi một miếng cơm, một manh áo.

 

Tức thì các thực khách cười lên hô hố một cách khinh bỉ. Sau đó, một anh thợ giày đã nói:

– Một miếng ư, được lắm.

 

Rồi anh ta uống một ngụm bia, phùng má trợn mắt phun thẳng vào mặt thánh nhân. Chúng ta thử tưởng tượng xem thánh nhân đã phản ứng như thế nào? Có lẽ ngài sẽ giáng cho anh ta một cái tát tai. Nhưng không, ngài vẫn bình tĩnh, rút khăn lau mặt, rồi lại ngửa tay và nói:

– Thưa quý ông, đó là phần của tôi, còn phần của các em mồ côi đâu chưa thấy.

 

Anh thợ giày bỗng té nhào xuống đất như bị một cú đấm thôi sơn, vì anh ta chẳng bao ngờ tới trên cõi đời nham nhở này mà lại có được một người khích phách như vậy. Anh lòm còm ngồi dậy và lắp bắp nói:

– Tôi… tôi sẽ gởi tặng các em.

Sau đó, anh đã dành một phần sản nghiệp và trao tận tay thánh nhân một số tiền lớn để tạ lỗi.

 

Hãy tha thứ để rồi bản thân sẽ được Chúa thứ tha.

 

15.             Thiên Chúa là tình yêu – Cố Lm Hồng Phúc

Thiên Chúa phán cùng Moisê rằng: “Ngươi hãy nói cho toàn thể Cộng đồng con cái Israel: Các ngươi hãy nên thánh, vì Ta là Đấng Thánh, là Thiên Chúa của các ngươi”.

Thiên Chúa là Đấng siêu việt, là Đấng Thánh. Không có một tì ố, một vết nhơ, như dòng nước trong veo, bầu trời trong sáng tuyệt đẹp. Và Ngài bày tỏ quyền năng và vinh hiển khi Ngài tạo dựng, giải phóng cũng như khi Ngài sát phạt và tha thứ. Tiên tri Isaia như bị chết ngộp khi được cảm nghiệm sự thánh thiện Thiên Chúa trong đền thờ, và tiên tri Ôsê kêu lên: “Đấng Thánh đang ở giữa anh em”. (11, 9)

Thiên Chúa muốn cho chúng ta nên thánh, nghĩa là chúng ta phải rửa sạch vết nhơ của Lề luật bên ngoài mà phải thực thi đức công chính, vâng lời và yêu thương (Nhị luật 6, 4-9), một sự thánh thiện trong mọi bối cảnh sống trong gia đình cũng như ngoài xã hội. “Hãy nên thánh như Ta là Đấng Thánh, Thiên Chúa của các ngươi”.

Trong Đạo cũ, người Do thái thường tôn đền thờ, “Đền thờ của Thiên Chúa là Thánh. Ai xúc phạm tới Đền Thánh thì Thiên Chúa sẽ hủy diệt người ấy”. Trong Đạo mới, Chúa Giêsu tự ví mình là Đền thờ hiện diện giữa loài người (Ga 1, 4; 2, 19). Thánh Phaolô trong bài đọc II, còn đi xa hơn nữa, Người nói Kitô hữu là đền thờ của Thiên Chúa, một đền thờ thiêng liêng, và Giáo hội cũng là Đền thờ do Chúa Giêsu xây dựng (1Cr 3, 10-17), trong đó người Do thái cũng như dân ngoại đều được mời vào như thành phần nhiệm thể Chúa. Đừng ai cho mình là khôn ngoan, là đồ đệ Phaolô, Kêpha hay Apollô, nhưng, “Anh em tất cả thuộc về Đức Kitô thuộc về Thiên Chúa”.

Trên tất cả, Thiên Chúa là tình yêu. Chúa Giêsu đến để đem lại một tình yêu bác ái gạn lọc mọi dơ bẩn, mọi lớp vỏ bao quanh như tình máu mủ, dân tộc, gia đình, quốc gia, lễ giáo chật hẹp. Người xưa bảo: “Mắt đền mắt, răng đền răng”, người ta xúc phạm mình mức nào, mình có quyền ăn miếng trả miếng, đối xử với họ như họ đã đối xử.

Còn Chúa, Chúa không dạy lấy sự dữ đối lại với sự dữ. Chúa dạy lấy sự lành đối với sự dữ và hơn thế phải làm sự lành hơn mức đòi hỏi: “Thầy bảo các con: đừng chống cự lại kẻ hung ác, trái lại, nếu ai vả má bên phải của các con hãy đưa má bên kia cho nó nữa… Ai xin, thì con hãy cho, ai muốn vay mượn, con đừng khước từ”. Chúa nói rằng đức bác ái không có biên giới, không phát xuất từ xác thịt mà từ một tâm hồn yêu mến Thiên Chúa, yêu mến đến từ bỏ mình, đến hy sinh.

Việc hy sinh lớn lao hơn cả là hy sinh tính tự ái của mình, là tha thứ cho kẻ làm nhục ta, là tha thứ cho kẻ thù. Xưa nay, chưa có một đạo giáo nào dạy tha thứ cho kẻ thù. Chúa phán: “Các con nghe dạy rằng: ngươi hãy yêu thương anh em ngươi và thù ghét kẻ làm hại ngươi. Còn Ta, Ta bảo các con: Hãy yêu thương kẻ thù”.

Người Do thái quan niệm anh em là người đồng hương hay người cảm tình với đạo. Đối với Chúa Giêsu, anh em là tất cả, là người Samaritanô, là người ngoại bang, là người lạc đạo nữa (Lc 10, 29-37). Chúa biết trái tim con người có thể vượt tính tự ái, mở rộng trái tim và vòng tay để ôm ấp cả kẻ thù.

Chúa đã tha thứ cho kẻ giết mình, “Lạy Cha, xin tha cho chúng” (Lc 23, 34). Khó thật nhưng Chúa ban cho kẻ thật lòng xin ơn biết tha thứ.

Văn hào Henry Bordeaux kể: Ngày kia, một nhóm thợ thuyền 20 người được Đức Giáo Hoàng Piô XII đến thăm và trò chuyện thân mật. Bỗng có một người thợ quỳ xuống và nói: “Thưa Đức Thánh Cha đây là cuốn sách con đọc điều dữ và đây là… con dao con muốn ám hại Đức Thánh Cha, con xin lỗi Ngài.” Đức Piô trả lời: “Con ơi, Chúa chúc lành cho con như cha” (Images romaines, plon, trang 279).

Lạy Chúa, xin dạy chúng con biết yêu thương thù địch, làm lành cho kẻ ghét và cầu nguyện cho kẻ bắt bớ và vu khống chúng con…, để chúng con trọn lành như Cha trên trời.

 

16.             Hãy hoàn thiện như Chúa

(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)

Có câu chuyện kể rằng: Nhà truyền giáo trên hòn đảo nọ rất ngạc nhiên khi thấy một phụ nữ mang nắm cát ướt bước vào lều của ông, và nói:

– Ông biết đây là gì không?

– Nó giống như cát.

– Ông có biết vì sao tôi mang nó vào đây không?

– Tôi không hiểu ý bà.

– Đây là tội lỗi của tôi, tội tôi không thể đếm được như cát biển này. Làm thế nào tôi biết chắc được tha thứ tất cả?

– Bà hãy đem cát ra biển và chất thành đụn cát, rồi ngồi nhìn xem sóng biển ập tới, chắc chắn sẽ cuốn đi tất cả. – Thưa bà, đó là cách Thiên Chúa thực hiện sự tha thứ của Ngài dành cho tội nhân. Lòng nhân từ, thương xót và tha thứ của Chúa bao la như đại dương. Hãy thành thật ăn năn để hưởng hồng ân của Thiên Chúa. Đó chính là lòng nhân từ của Thiên Chúa cho những ai có lòng ăn năn và tin cậy Ngài.

Thiên Chúa là Đấng rất mực yêu thương con người. Tình yêu đã thôi thúc Ngài thể hiện qua muôn ngàn cách dành cho con người. Ngài tạo dựng con người giống hình ành Ngài. Con người phản bội. Ngài vẫn thứ tha và hứa ban Đấng Cứu Thế đến để chuộc lỗi lầm con người. Con người sa đi ngã lại trong lầm lỡ. Ngài vẫn chậm bất bình và rất mực khoan nhân. Con người thì bất trung. Ngài thì trung thành mãi với tình yêu dành cho con người. Ngài có giận thì giận trong giây lát nhưng yêu thương thì vô bờ.

Tình yêu và lòng nhân từ của Thiên Chúa được thể hiện cụ thể qua Đức Giê-su. Đấng hiện tại hóa tình yêu ấy nơi dương gian. Một tình yêu nhân từ nhẫn nại trước sự dữ bủa vây. Chính Ngài không chỉ nói: “Khi người ta vả má này thì đưa má kia cho người ta tát” mà Ngài đã dám sống điều đó trong cuộc tử nạn. Chính Ngài đã để quân dữ lột áo ngoài của Ngài để chia nhau với thái độ bình thản đầy nhân từ. Chính Ngài vẫn một lòng nhân từ cầu nguyện cho kẻ làm hại mình. Ngài còn chúc phúc cho mọi người như chính Chúa Cha đã làm khi cho mưa thuận gió hòa trên kẻ lành người dữ.

Có một em học sinh trong lớp giáo lý đã hãnh diện nói về niềm tin mình rằng: “Khi con đặt Chúa Giê-su làm trọng tâm cuộc sống mình, thì con mới thấy ngày hôm nay vui hơn, con tử tế với mọi người hơn, và dễ tha thứ với mọi người”.

Quả thực, theo lẽ thường con người thường “ăn miếng trả miếng”, nhưng nếu mặc lấy tâm tình của Đức Giê-su, con người sẽ sống tha thứ và nhân từ với nhau. Nếu biết đặt Chúa Giê-su làm trung tâm con người sẽ thôi chiến tranh hận thù nhưng luôn biết vì Chúa mà làm hòa với nhau, vì Chúa mà đón nhận nhau trong yêu thương tha thứ. Đó cũng là lời mời gọi mà Chúa vẫn tha thiết mời gọi chúng ta hãy vì Chúa mà sống cao thượng hơn lẽ thường. Lẽ thường chỉ yêu thương kẻ yêu mình nhưng còn là ky-tô hữu thì phải yêu thương cả kẻ thù mình nữa. Lẽ thường chỉ chào hỏi anh em mình thôi thì chưa đủ mà còn phải thân thiện với tất cả mọi người.

Ước gì chúng ta biết hoàn thiện như Cha chúng ta ở trên trời là Đấng hoàn thiện. Hoàn thiện trong cách yêu mến tha nhân như Chúa đã yêu thương chúng ta. Hoàn thiện trong cách sống phục vụ như Chúa đã quan phòng gìn giữ chúng ta. Amen.

 

17.             Sống chữ Nhẫn – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền

 

Tích xưa kể rằng: Hàn Tín thời Hán Cao Tổ, thuở hàn vi phải đi câu cá đổi gạo mà ăn. Thế mà có những lúc không đủ ăn. Có bà thợ giặt cảm thương đã mời Hàn Tín đến dùng cơm tại nhà. Hàn Tín đi đâu cũng mang thanh gươm kè kè bên mình.

 

Một hôm, có tên đồ tể Ác Thiểu muốn hạ nhục Hàn Tín, chận đường thách:

 

Chú thường mang gươm, chả biết để làm gì! Bây giờ tôi không cho chú đi. Chú có gan thì sẵn thanh gươm đó hãy chém tôi đi, bằng không thì phải lòn trôn tôi mà đi.

 

Hàn Tín chẳng chút do dự, lòn trôn tên hạ tiện đó mà đi, vì tự nhủ: “Giết thằng này thì được rồi, nhưng mà lấy mạng mình đổi mạng nó, thì không đáng tí nào!”

 

Sau Hàn Tín nhờ có công giúp Hán Cao Tổ dựng nước mà được phong làm Vua Tam Tể. Lúc bấy giờ, Hàn Tín bèn mời bà thợ giặt đến biếu nghìn lạng vàng để tạ ơn. Rồi không những không thèm trả thù tên đồ tể mất dạy xưa, lại phong cho hắn chức Trung Huý. Ác Thiểu rất ngạc nhiên, khúm núm nói: “Lúc trước tôi ngu lậu thô bỉ, đã dại dột xúc phạm đến oai nghiêm ngài, nay tội ấy được tha chết là may, còn dám mong đâu ban chức tước?

 

Hàn Tín ôn tồn bảo: “Ta chẳng phải là kẻ tiểu nhân hay cố chấp, đem lòng thù hận. Hành động của ngươi ngày xưa tuy quá đáng, nhưng cũng là bài học luyện chí cho ta. Vậy nhà ngươi chớ tị hiềm mà hãy nhận chức ta ban”.

 

Lối báo đền ân oán của Hàn Tín thật là hay. Đối với người ân thì ban thường, song đối với người oán cũng vẫn ban thưởng chớ không trả thù. Thật là một người quân tử.

 

Là người con của Chúa, Chúa dạy chúng ta hãy làm hoà trước để khỏi xảy ra điều tai hại hơn. Đây là một lời khuyên quan trọng: chẳng những không được làm hại ai hay có ý mưu hại ai, mà còn phải đi trước một bước mà làm hoà. Nói rõ hơn, trước một điều bất công, vô tình hay hữu ý, thiên hạ gây cho ta: như xỉ nhục, xỉ vả, chê cười, nói hành, vu vạ, cáo gian… Tất nhiên lòng tự ái chúng ta bị va chạm, không thể nhịn được, lòng chúng ta như muốn trả đũa ngay. Đó là tính tự nhiên của con người. Nhưng Chúa muốn chúng ta sống khác hơn, sống cao thượng hơn. Chúa muốn chúng ta tha thứ và làm hoà. Tha thứ và làm hoà là điều kiện phải có để đến với Chúa. Không thể đến với Chúa mà lòng còn ngổn ngang những tức giận, ghen tương, đố kỵ. Nhân vô thập toàn, ai cũng có những lầm lỗi, ai ai cũng cần được tha thứ, thế nên cũng cần phải biết tha thứ cho nhau. Người ta vẫn thường nói để sống với Chúa cần có đức tin để mình tin tưởng, phó thác cậy trông vào Chúa giữa những phong ba của dòng đời, và để sống với tha nhân, cần phải có lòng độ lượng, để mình sống bao dung và tha thứ cho người khác. Nếu chúng ta không có lòng độ lượng có lẽ mình sẽ chẳng sống được với ai, và cũng chẳng ai sống được vời mình. Đây cũng là điều mà Chúa mời gọi chúng ta phải công chính hơn những người biệt phái trong tình yêu tha thứ. Không chỉ yêu kẻ yêu mình mà còn yêu cả kẻ ghét mình. Không chỉ quý mến kẻ thi ân cho mình mà còn làm ơn cho kẻ làm hại chính mình. Bởi vì, oán báo oán thì oán chập chùng. Chúa mời gọi chúng ta hãy tha thứ cho kẻ thù, hãy làm hoà cùng kẻ thù và hãy cầu nguyện cho kẻ thù. Chính Chúa đã sống tình yêu đó trên thập tự giá, nơi đó người ta đã tuôn đổ sự tàn ác trên thân thể Ngài, thế mà Ngài vẫn xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm. Tình thương Chúa không dừng lại ở việc tha thứ mà còn thi ân cho mọi người, kẻ lành cũng như người dữ. Kẻ thờ phượng Chúa cũng như kẻ chống đối lại Chúa.

 

Ước gì mỗi người chúng ta hãy sống tình thương bao dung đó cho anh em của mình. Hãy quên đi những xúc phạm của nhau. Hãy làm hoà để thêm bạn bớt thù. Hãy tha thứ để tìm được sự bình an tâm hồn cho bản thân và cho những người chung quanh. Xin Chúa là Đấng hằng thương xót và tha thứ, xin giúp chúng ta biết tha thứ lỗi lầm của anh em, như Chúa đã tha thứ cho chúng ta. Amen.

 

18.             Yêu “kẻ thù” như thế nào đây?

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

Quả thật đã từng có nhiều ý kiến khác chiều, thậm chí có khi là trái chiều liên quan đến những lời dạy của Chúa Kitô về việc không chỉ “đừng chống cự lại kẻ ác” mà còn “giơ má kia cho người ta đánh” hoặc “phải yêu kẻ thù” (x.Mt 5,38-44).

“Kẻ thù ta đâu có phải là người, giết người đi thì ta ở với ai”. Lời một bài ca khá phổ biến này dường như được cảm hứng từ những lời Tin Mừng trên đây. Nếu nhìn nhận mọi người là anh chị em của mình thì hẳn sẽ không có chuyện giết hay ghét bỏ. Chỉ có ma quỷ mới là kẻ thù đích thực của chúng ta.

Trước hết chúng ta cần phân định rõ lời dạy của Chúa Kitô qua đoạn tin mừng Mt 5, 38-48 mà giáo hội cho trích đọc trong Chúa Nhật VII TN A. Nội dung chính lời dạy của Chúa Kitô là cần phải vượt qua cái giới hạn của đức công bình cũng như giới hạn của đức yêu thương theo luật Cựu ước.

Thiết tưởng cần nhìn nhận mặt tích cực của luật công bình “mắt đền mắt, răng đền răng, sưng đền sưng, bầm đền bầm…”. Luật này giúp hạn chế sự gia tăng mức độ báo thù mà thường theo bản năng người ta khó tự kiềm chế. Chuyện bị đánh gảy một cái răng thì đánh trả lại người ta gảy nguyên cả hàm vẫn còn nhan nhản ngay trong thời đại hôm nay. Nước này phóng vào lãnh địa nước kia mười quả đạn pháo thì nước kia sẽ phóng trả đủa lại không dưới mười quả, có khi là gấp ba, gấp bảy lần. Luật “mắt đền mắt, răng đền răng” dường như vẫn còn giá trị của nó. Tuy nhiên giới luật này không khử trừ sự ác, điều xấu cách tận căn mà nhiều khi dẫn đến tình trạng không lối thoát.

Chuyện thật như bịa theo ý cha Anthony de Mello: Có tay trộm choai choai lẻn vào khuôn viên nhà thờ lúc bốn giờ sáng, định cuỗm thứ gì đó. Chưa thu được chiến lợi phẩm gì thì bị “ông từ” đi đánh chuông phát giác. Hoảng quá cậu nhóc leo đại lên tháp chuông trốn tưởng rằng qua được mắt ông từ già. Nhưng rủi cho cậu nhóc là cặp mắt ông từ vẫn còn tinh. Ông từ kiên nhẫn ngồi dưới tháp chuông chờ có người đến thì la làng. Cậu nhóc đoán được ý ông từ đành làm liều nhảy đại xuống từ độ cao khoảng bốn mét (tầng cuối). Ai ngờ cậu nhóc nhảy xuống vấp phải ông từ khiến ông già trẹo một chân. Dù gảy chân nhưng ông từ vẫn ôm chặt cậu bé và la lớn tiếng. Người ta chạy đến và cậu nhóc bị tóm. Tất cả dẫn cậu nhóc vào cha xứ. Ngài hỏi cậu nhóc đã ăn trộm cái gì. Cậu ta thưa là chưa lấy được gì cả. Ngài phán tiếp: “thế thì theo luật “mắt đền mắt, răng đền răng”, ông từ được quyền leo lên tháp chuông và nhảy xuống để làm trẹo một chân cậu nhóc!” Mặt ông từ tái xanh.

Chúa Giêsu đã dùng lối nói “ngoa ngữ” dạy chúng ta dùng chính tình yêu, việc lành để giải hoá sự hận thù, diệt trừ sự dữ tận gốc rễ. Cần lưu ý rằng văn phong “ngoa ngữ” thường được sử dụng không phải cố ý dạy những gì được trình bày nhưng để nhằm nhấn mạnh ý tưởng muốn nói. Chẳng hạn khi dạy chúng ta rằng nếu mắt hay tay chân ta gây cớ cho ta phạm tội thì chặt chúng đi, Chúa Giêsu chỉ muốn nhấn mạnh đến việc dứt khoát tránh dịp tội chứ không biểu chúng ta móc mắt hay chặt chân, chặt tay (x.Mt 5,29-30). Hiểu được điều này thì chúng sẽ không thấy có sự mâu thuẩn giữa lời dạy và hành động của Chúa Giêsu. Trước mặt thượng tế Khanan, khi bị một thuộc hạ của thượng tế vả vào mặt thì Chúa Giêsu đã chất vấn: “Nếu tôi nói sai, anh hãy chứng minh xem sai ở chỗ nào; còn nếu tôi nói phải, sao anh lại đánh tôi?”(Ga 18,23). Khi dạy chúng ta “nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái nữa” thì Chúa Giêsu chỉ muốn nhấn mạnh điều này: “đừng chống cự người ác”, nghĩa là đừng báo thù, kiểu ăn miếng trả miếng.

Tình yêu thì không có biên giới cả về mức độ lẫn đối tượng. Ăn cho, buôn so. Đã có tính toán, đã có hạn mức cố định thì sẽ chẳng còn là tình yêu. Đã yêu là yêu đến cùng. Xét về mức độ thì Chúa Kitô không chỉ minh định rõ ràng đó là sẵn sàng hiến thân vì người mình yêu mà Người còn thể hiện sự đến cùng trong tình yêu bằng cái chết trên thập giá. Để diễn tả sự đến cùng trong mức độ mến Chúa và yêu tha nhân thì Chúa Giêsu đã long trọng nhắc lại lời Cựu ước và nhấn mạnh thêm: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi…Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Mc 12,30-31). Hạn từ “hết” đuợc lặp đi lặp lại và hạn từ “như chính mình” làm nỗi rõ tính vô biên của tình yêu.

Xét về đối tượng, luật Cựu ước đòi hỏi phải yêu thương người đồng bào, người đồng đạo. Luật còn dạy phải quan tâm đến người nghèo khổ, mẹ goá, con côi, khách ngụ cư, khách ngoại kiều. Chẳng hạn khi gặt lúa thì đừng gặt sát bờ, kiểu gặt sạch sành sanh, đừng mót các gié bị vương vải. Và khi hái nho cũng thế, không được lượm các quả rơi rụng…Tất cả những thứ ấy là để dành cho người nghèo, người khốn khổ… (x. Lv 19, 9-10). Tuy nhiên, dù trong luật không minh nhiên dạy phải ghét kẻ thù nhưng truyền thống và lối sống của dân Chúa xưa luôn có khoảng cách với người tội lỗi, với người bị xem là ô uế, với quân thù lân bang. Những hạng người trên tuy không bị ghét bỏ, nhưng thường không được xem là anh em, là người thân cận với người Do Thái. Một vị thông luật đã từng hỏi Chúa Giêsu rằng: “Ai là người thân cận của tôi?” Nhân dịp ấy Chúa Giêsu đã kể câu chuyện dụ ngôn “người Samaritanô nhân hậu” và qua đó khẳng định rằng chúng ta phải làm người thân cận với tất cả những ai đang cần đến lòng thương xót của chúng ta (x.Lc 10,25-37).

Ngoài trừ thần dữ, Kitô hữu chúng ta không xem ai là kẻ thù. Tuy nhiên vấn nạn đặt ra là làm sao có thể yêu những người xem chúng ta là kẻ thù nghịch đồng thời ngược đãi chúng ta và làm thế nào để thi ân cho người bách hại chúng ta? Làm sao có thể yêu được những người đang làm hại chúng ta cách cố tình và cách bất chính và bất công? Làm sao có thể yêu những người đang đàn áp, bóc lột kẻ nghèo hèn, đang bán nước cầu vinh, đang cao ngạo cho mình là duy nhất đúng kiểu như thần, như thánh trong khi đang làm cho tiền đồ dân tộc đi vào ngõ cụt…?

Nếu cho rằng yêu thuơng là một phạm trù thuộc tình cảm thì quả thật rất khó vượt qua tâm lý bình thường của kiếp người. Tuy nhiên cần lưu ý rằng yêu thương trên hết là một quyết định của ý chí tự do được biểu lộ cả bằng tình cảm và hành động. Không chỉ có những tình cảm trìu mến, quyến luyến mới phản ánh tình yêu mà ngay cả khi giận dữ, buồn phiền cũng có thể phản ánh tình yêu. Chuyện thương con cho roi cho vọt là chuyện như hiển nhiên mang tính quy luật. Không chỉ khi xúc động trước đoàn lũ đông đảo dân chúng như chiên không người chăn thì Chúa Giêsu mới tỏ bày tình yêu, cũng không phải khi Người rơi lệ trước cái chết của Ladarô thì mới là yêu, nhưng cả khi Chúa Giêsu buồn phiền trước lòng chai dạ đá của một số kinh sư và biệt phái cũng là vì yêu hay khi Người xung giận bện dây thành roi đánh đuổi những người đã biến Ngôi nhà Chúa thành nơi chợ búa, thành hang trộm cướp thì cũng là yêu thương vậy.

Yêu thương là không chỉ muốn mà còn phải nỗ lực làm điều tốt nhất cho người mình yêu. Trong niềm tin Kitô giáo thì mọi người đều là anh chị em với nhau. Đã là anh em, chị em với nhau thì trên bình diện tiêu cực, chúng ta không được phép loại bỏ nhau dù dưới bất cứ hình thức nào. Trên bình diện tích cực thì cần giúp nhau tồn tại, phát triển theo thánh ý Thiên Chúa để có hạnh phúc đích thực. Cách thế biểu lộ tình yêu có thể khác nhau tùy từng trường hợp nhưng luôn với ý hướng là để người mình yêu nên tốt hơn, nên hoàn thiện hơn. Có thể nói rằng cách chung đối với những người tội lỗi thuộc hàng bé mọn, yếu đuối, thì Chúa Giêsu thường bày tỏ lòng khoan dung, sự trìu mến, cử chỉ khích lệ, còn với những người tội lỗi thuộc hàng phận cao, quyền trọng mà cố chấp thì Người nghiêm khắc cách tỏ tường.

Với người này thì chúng ta biểu lộ tình yêu bằng cách thế này, người kia thì cách thế kia, nhưng xin đừng quên rằng chúng ta có thể và phải cầu nguyện cho tất cả mọi hạng người. Vâng lệnh Chúa Giêsu chúng ta hãy chân thành cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi chúng ta. Trước hết hãy cầu xin cho họ nhận ra lầm lỗi họ đã phạm và biết sám hối, ăn năn, thay đổi. Hãy cầu xin cho họ biết tìm cách khắc phục những hậu quả xấu đã gây ra cho tha nhân, cho xã hội… Có thể nói đây là bước khởi đầu của việc sống yêu thương “kẻ thù”, yêu thương những người làm hại chúng ta. Tiếp đến, hãy dùng ngôn ngữ mà rao truyền chân lý, vạch trần sự dữ để giúp người lạc lối trở về nẽo chính, đường ngay. Ngôn sứ Êdêkien đã từng nghe Thiên Chúa phán: “Nếu ngươi không báo cho kẻ gian ác biết tội lỗi của nó, không cảnh cáo nó từ bỏ lối sống xấu xa, để nó được sống, thì chính kẻ gian ác sẽ phải chết vì tội lỗi của nó, nhưng Ta sẽ đòi ngươi đền nợ máu nó” (x. Ed 3,18). Có thể có nhiều cách thế yêu thương, nhưng thiết tưởng dù yêu bằng cách thế nào đi nữa cũng không thể thiếu hai động thái trên đây.

Phải chăng đang có đó nhiều Kitô hữu, thậm chí là nhiều tu sĩ, linh mục, giám mục những tưởng rằng mình đã yêu “kẻ thù”, đã làm ơn cho người “làm hại mình”, nhưng thực ra chỉ yêu chính mình mà thôi?

 

19.             Khi tình yêu trở thành ánh sáng

(Suy niệm của Lm. Giuse Trương Đình Hiền)

Văn chương tiểu thuyết kiếp hiệp của Tàu, có thể nói được, hầu hết xoay quanh chủ đề “oán thù”, ân oán thù hận. Oán thù giữa môn phái nầy với môn phái khác, giữa dòng tộc nầy với dòng tộc khác, giữa dân miền nầy với dân miền khác, giữa cá nhân nầy với cá nhân khác…đan xen, vướng vít, tồn tại miên viễn qua các loại thù: “tình ái thù” (Đinh Điển- Lăng Sương Hoa trong Liên Thành quyết), “phụ mẫu thù” (Quách Tĩnh-Dương Khang trong Anh hùng Xạ điêu), “sĩ diện thù” (Chu chỉ Nhược trong Cô gái Đồ Long), “quyền lực thù” (Nhạc Bất Quần-Đông phương Bất bại trong Tiếu ngạo giang hồ), “phu thê thù” (Tiêu Viễn Sơn trong Thiên Long bát bộ hay còn có tên khác là Lục Mạch thần kiếm)…

Dưới ngòi bút đầy tính nhân văn của cố đại văn hào Kim Dung, oán thù chỉ được hoá giải qua những mối tình si của các “cặp đôi” mà mỗi người thuộc một phe đối nghịch thâm thù. Vâng, chính nhờ những mối tình bất chấp mọi trái ngang, vượt qua mọi thù oán của họ mà cái gút của hận thù oan khúc mới được hoá giải: Hoàng Dung và Quách Tỉnh, Nhậm Doanh Doanh và Lệnh Hồ Xung, Triệu Mẫn (Minh) và Trương Vô Kỵ…; và có lẽ một dấu chỉ, một hình tượng bi tráng và ấn tượng nhất để thuyết minh cho luận đề “tình yêu hoá giải hận thù” đó chính là cô hiệp nữ hiền diệu A Châu sẵn sàng dùng thân mình đón nhận phát chưởng ngộ nhận của người yêu Tiêu Phong (Kiều Phong), lấy cái chết để hoá giải mối thâm thù dòng tộc; và sau đó, tại Nhạn Môn quan, chính Tiêu Phong bẻ tên đâm ngực tự vẫn để Liêu quốc và Trung Nguyên dừng cơn huyết hận… (Thiên Long bát bộ).

Ý nghĩa và hình tượng của những mối tình ở “đôi bờ thù oán” trên nơi tiểu thuyết kiếm hiệp của Kim Dung phương Đông, chúng ta lại gặp thấy một cặp đôi đầy ấn tượng dưới ngòi bút của văn hào người Anh Shakespeare qua tác phẩm bi hùng kịch lừng danh Romeo-Juliette. Vâng, chỉ sau cái chết đầy oan nghiệt của đôi bạn trẻ yêu nhau nầy mà hai dòng họ không đội trời chung Montague và Capulet cùng sắp hàng theo sau hai chiếc áo quan để cùng tiến vào Thánh đường hiệp dâng Thánh lễ…

Nhưng chuyện hận thù, oan khúc đâu phải chỉ là chuyện của ngày xưa hay trong tiểu thuyết, mà là chuyện xảy ra hằng ngày như cơm bữa trong xã hội chúng ta hôm nay: Vợ giết chồng, người yêu đâm chết người yêu, cha giết con, cháu hại ông bà, bạn bè thanh toán lẫn nhau…Trên bình diện quốc gia và quốc tế cũng chẳng khá hơn gì: hận thù tôn giáo, sắc tộc, tranh chấp đất đai, quyền lợi kinh tế…đã làm dấy lên ngọn lửa oán thù, bạo lực chiến tranh liên miên hết nơi nầy đế nơi khác, thời nầy đến thời nọ. Cái chết oan khúc của cụ Lê Đình Kình mới đây trong “biến nạn Đồng Tâm” là một thí dụ điển hình !

Quả đúng như Cicéron diễn giả Lamã đã từng nói: “Con người là kẻ thù khủng khiếp nhất của chính mình”. Và rồi thù oán mang theo oán thù. Oan oan tương báo. Cái vòng lẫn quẫn “oán thù” sẽ trói buộc con người trong nổi bất an và bất hạnh triền miên. Đức Khổng Tử cũng đã từng cảnh báo các đồ đệ phải tránh xa việc trả thù khi ngài phát biểu một ẩn dụ thâm thúy: “Trước khi lên đường báo thù, hãy đào hai cái huyệt”.

Hôm nay, Lời Chúa đề nghị cho chúng ta một con đường, một phương thế để thiết lập mối tương quan hoà bình huynh đệ giữa con người, để loại bỏ oán thù và thiết lập một nền văn minh tình yêu và sự sống trên mặt đất: Đó chính là con đường tìm về sự thánh thiện của Thiên Chúa “Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Đấng Thánh” (Sách Lêvi trong BĐ 1), “hãy nên trọn lành như Chúa Cha trên trời là Đấng trọn lành” (Bài Tin Mừng) ; và sự trọn lành hay “hoàn thiện” mà Thiên Chúa gọi mời con người chiêm ngưỡng và bắt chước Ngài lại chính là TÌNH YÊU, là lòng nhân từ. Bởi, như Thánh Gioan Tông Đồ định nghĩa “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4,8); và việc “hãy hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48) cũng đồng nghĩa với việc “hãy có lòng nhân từ như Cha anh em là Đấng nhân từ” (Lc 6,36).

Vâng, tình yêu thương chính là con đường tìm lại căn tính đích thực của chính mình “đền thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em” (Thư 1 Côrintô trong BĐ 2) và cũng là con đường “cách mạng nội tâm” để xây dựng lại mối tương quan mới trong cung cách ứng xử của cái tôi thường tình “oan đền oán trả”: “hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Bài Tin Mừng). Chính Đức Kitô, không phải chỉ bằng lời nói, nhưng bằng chính hành động: đón nhận cái chết vì tình yêu và sẵn sàng tha thứ và cầu xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ giết hại Ngài: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34).

Quả thật, chỉ với con đường “mới mẻ của Tin Mừng” nầy mới mong đẩy lùi nền “văn hoá oán thù”, nền “văn minh sự chết”,  như cách định nghĩ của Michel Quoist: “Hành động duy nhất có thể làm đứt đoạn dây chuyền bạo lực, đó là tha thứ và yêu thương. Ai dám đưa cả má trái mình ra, đó là người mạnh nhất.”

Giữa một thế giới, một xã hội, một đất nước mà bạo lực, oán thù, ghen ghét đã trở thành một “phản ứng đương nhiên và thường xuyên” của con người, thì thật là thích hợp khi sứ điệp lời Chúa hôm nay vang lên lời mời gọi: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em”, “Hãy nên trọn lành như Chúa Cha là Đấng trọn lành”. Và như thế, lời cầu nguyện dành cho nhau và cho cả thế giới không bao giờ lỗi thời lại chính là lời Kinh Hoà Bình của Thánh Phanxicô Assisi: “Lạy Chúa Từ nhân, xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người. Để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục….”.

Và thực ra, đã có những người con của Chúa thực thi huấn lệnh nầy để gieo mầm yêu thương, khoan dung, tha thứ, cho dù phải chấp nhận cái giá là hy sinh chính mạng sống mình, như linh mục Maximilien Kolbe chết thay người bạn trong trại tù của Quốc xã Đức vào thời đệ nhị thế chiến, hay như mục sư Martin Luther King Jr. chết để hoá giải cho cuộc kỳ thị lẫn nhau, phân biệt chủng tộc giữa những người da trắng và da màu. Cùng với cái chết như một lời chứng của hoà hợp, yêu thương, chính vị mục sư nầy đã chú giải thêm sứ điệp Tin Mừng hôm nay bằng những lời cũng thật thâm thuý: “Bóng tối không thể xua tan bóng tối, chỉ ánh sáng mới làm được. Hận thù không thể xua đuổi hận thù, chỉ tình yêu mới làm được” (Darkness cannot drive out darkness, only light can do that. Hate cannot drive out hate, only love can do that).

Và có lẽ chúng ta đều đồng ý với “quy luật vật lý” cơ bản nầy của Nicola Tesla: “Nếu hận thù ghen ghét biến thành điện, thì cả thế giới sẽ được thắp sáng” (If your hate could be turned into electricity, it would light up the whole world). Hận thù chắc chắn sẽ không bao giờ trở thành “điện”; nhưng chắc một điều: tình yêu sẽ trở thành ánh sáng. Hãy yêu thương để biến ước mơ và cũng là mệnh lệnh của chính Đức Kitô trở thành hiện thực: “Các con là ánh sáng thế gian” (Mt 5,14).

 

20.             Suy Niệm Chúa Nhật 7 Thường Niên

(Suy niệm của Lm. Antôn Hà Văn Minh)

Mt 5: 38-48 Giáo Hội Chúa Kitô là một cộng đoàn được qui tụ từ Đức tin và Đức mến, và có thể nói sứ vụ của Giáo Hội chính là tiếp tục loan báo và biểu tỏ tình yêu của Chúa cho mọi người.

Suy Niệm

Giáo Hội Chúa Kitô là một cộng đoàn được qui tụ từ Đức tin và Đức mến, và có thể nói sứ vụ của Giáo Hội chính là tiếp tục loan báo và biểu tỏ tình yêu của Chúa cho mọi người. Việc tỏ bày dức ái của Chúa không gì hơn chính là thể hiện lòng thương xót với tha nhân trong cách đối xử với nhau.

Sự hoàn thiện  của Cha trên trời được biểu tỏ qua thái độ bao dung của Chúa, không  nhỏ nhặt chấp nhất, Ngài độ lượng đến nỗi mau quên tội lỗi của chúng ta, và dầy lòng thương xót để sẵn sàng đón nhận hết mọi người, không phân biệt người đó là ai. Và đó chính là thái độ mà Đức Kitô mời gọi chúng ta, những người môn đệ, phải thể hiện trong cuộc sống.

Thật vậy, chúng ta thuộc về cộng đoàn của Đức mến, một cộng đoàn lấy nhân ái làm nền tảng cho các mối tương giao, để từ đó trở thành dấu chỉ của Vương quốc Thiên Chúa, một vương quốc an bình và hạnh phúc, vương quốc của những người luôn biết thể hiện lòng bao dung, quảng đại và yêu thương nhau.

Chúa Kitô đã không lên án kẻ giết mình, nhưng lại cầu xin ơn tha thứ cho họ với một tấm lòng nhân ái: xin tha cho họ vì họ lầm không biết. Sự thứ tha là cốt lõi để kiến tạo an bình, và đó là con đường hành động của Thiên Chúa để ban ơn cứu độ cho muôn người.

Người Kitô hữu chúng ta, khi thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng, chúng ta cũng phải mang trong mình một trái tim độ lượng luôn sẵn sàng tha thứ để dạy người khác thứ tha, vì có thứ tha mới có thể mở rộng lòng đón nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa. Vì ơn cứu độ chính là quà tặng quí giá được hình thành từ sự thứ tha bởi lòng thương xót của Thiên Chúa dành cho nhân loại.

Đối diện với ơn cứu độ của Thiên Chúa, chúng ta học được bài học thứ tha để từ đó chúng ta sẽ cảm nhận được rằng tha thứ quả thật là một sức mạnh giải phóng chúng ta khỏi sự sợ hãi, giận dữ và mang lại cho chúng ta sự bình an. Đó là bài học mà nhiều người đã cảm nhận được khi biết tha thứ cho kẻ thù. Chẳng hạn Bà Mariette Jaeger.

“Vào đêm cuối cùng của một kỳ nghỉ cắm trại trong rừng của gia đình, Susie, cô con gái 7 tuổi của bà, bị bắt cóc. Trong những tuần tiếp theo, người ta xới tung cả những cánh rừng lân cận, dùng tàu thủy quét lưới dọc dòng sông bên cạnh để tìm cô bé.

Gia đình Jaeger kiệt quệ về sức lực và cảm xúc, bà thề rằng bà có thể vừa nhếch mép cười vừa giết chết kẻ bắt cóc bằng hai bàn tay trần của mình. Nhưng rồi bà quyết định tha thứ, bà biết rằng nếu để căm ghét xâm chiếm mình, nó sẽ hủy hoại cuộc đời bà.

Đúng một năm sau, kẻ bắt cóc gọi điện thách thức Jaeger, nhưng sau một tiếng đồng hồ hắn suy sụp bên điện thoại khi cảm nhận được sự kiên nhẫn và lòng trắc ẩn của bà và thú nhận đã giết chết Susie. Theo luật pháp, mặc dù kẻ bắt cóc xứng đáng bị xử tử, bà xin chuyển án của hắn thành tù chung thân. Bà cho rằng giết hắn sẽ làm tổn hại tới vẻ đẹp và sự ngọt ngào của cuộc đời Susie và tầm thường hóa nó. Susie xứng đáng được nhận một tưởng niệm cao quý và đẹp đẽ hơn là một hành động giết người lạnh lùng được nhà nước phê chuẩn. Bốn tiếng sau khi yêu cầu của bà được chấp thuận, kẻ bắt cóc tự vẫn trong trại giam.

Trong 20 năm tiếp theo, Jaeger làm việc xã hội, hỗ trợ các gia đình nạn nhân tương tự. Trong cuốn Khám phá tha thứ, bà nhìn lại: Trải nghiệm của tôi luôn được khẳng định. Những gia đình này có tất cả các quyền để căm tức và thịnh nộ, nhưng những ai vẫn giữ tư duy báo thù cuối cùng lại trao cho kẻ phạm tội một nạn nhân nữa. Cay đắng, bị hành hạ, cầm tù trong quá khứ, chất lượng cuộc sống của họ suy giảm. Căm ghét, giận dữ, phẫn uất, chua chát, thù hằn – chúng sẽ lấy đi cuộc đời của chúng ta như là cuộc đời của Susie đã bị lấy đi.

Mặc dù không bao giờ lựa chọn vậy, Jaeger cho rằng bà nhận được một món quà từ cái chết của con mình. Bà đã học được khả năng tha thứ. Jaeger cũng kết nối với mẹ của thủ phạm để làm dịu nỗi đau của người phụ nữ kia. Họ trở thành bạn. Từ đó tới giờ, hằng năm, hai người phụ nữ luôn đi cùng nhau khi thăm mộ con mình” (Trích trong bài Van hoá làm nhục bằng tha thứ và hoà giải của Đặng Hoàng Giang)

Lạy Chúa, xin dạy chúng con hiểu giá trị của sự thứ tha, để giúp chúng con luôn biết huân luyệ cho mình mộtm trái tim quảng đại để sãn sàng tha thứ. Vì khi biết tha thứ là chính lúc chúng con đang trên đường tiến tới sự hoàn thiện như Cha trên trời. Amen.

 

21.             Yêu không kỳ thị xua đuổi

(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)

Với 11 trường hợp nhiễm Covid-19, tỉnh Vĩnh Phúc đang được coi là tâm dịch của cả nước. Trong thời điểm dịch bệnh đang diễn biến phức tạp, đặc biệt đã có trường hợp một bệnh nhân đã lây chéo sang nhiều người trong gia đình và hàng xóm. Bởi vậy, ngày 13/2, tỉnh Vĩnh Phúc đã tiến hành cách ly toàn bộ xã Sơn Lôi (huyện Bình Xuyên) – nơi ghi nhận nhiều bệnh nhân nhiễm Covid-19 nhất. Những hành động mạnh mẽ này nhằm giúp sớm loại bỏ đại dịch Covid-19 ra khỏi Việt Nam nhanh nhất mà thôi. Vâng, cách ly là cần thiết, tuy nhiên, một câu chuyện đáng buồn, mấy ngày qua, chuyện nhiều người tỏ thái độ kỳ thị với người dân Vĩnh Phúc. Đây là điều đáng lên án. Một khách sạn ở Hà Nội treo tấm biển từ chối tiếp công dân Vĩnh Phúc; trên mạng xã hội tràn lan những dòng bình luận: “Vũ Hán của Việt Nam” rồi “tránh xa người Vĩnh Phúc”… Phong trào kỳ thị người Vĩnh Phúc còn lan khắp các trang bán hàng trực tuyến. Nhiều người mất việc chỉ vì họ là người Vĩnh Phúc, có người không dám khai là người Bình Xuyên khi đi phỏng vấn xin việc. Thậm chí, có chị giúp việc còn bỏ về giữa chừng chỉ vì chủ nhà là… thông gia với người Vĩnh Phúc. Những hành động, cách nhìn nhận phiến diện trên khiến không ít người bức xúc, phẫn nộ. Hơn ai hết, cuộc chiến chống dịch sẽ không thể đạt hiệu quả nếu không có sự ủng hộ, đồng lòng hợp tác của mọi người cần lắm lúc này tinh thần tương thân tương ái, giúp đỡ nhau trong lúc khó khăn, không kỳ thị, xa lánh, hỗ trợ và giúp đỡ mọi người.

Chúng ta là con cái của Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương yêu thương hết mọi người không kỳ thị, không phân biệt, không ghét ai ngay cả kẻ thù của mình, huống chi là người ốm đau bệnh dịch. Cho nên, Chúa Giêsu là Thầy đã đi trước thi hành Lời Ngài trước rồi dạy chúng ta hãy làm theo mới xứng đáng là con cái, là môn đệ của Ngài. Vì thế, hôm nay Chúa Giêsu dạy bài học chí lý này đúng ngay vào thời đại bệnh dịch này: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính. Vì nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi? Ngay cả những người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao? Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em mình thôi, thì anh em có làm gì lạ thường đâu? Ngay cả người ngoại cũng chẳng làm như thế sao? Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện”. Cho nên, người đời kỳ thị người Vĩnh Phúc, có 1 linh mục trẻ mới 35 tuổi, chịu chức linh mục hơn 1 năm đã tự nguyện hy sinh xông vào chính tâm đại dịch để phục vụ mọi người. Đó là linh mục Giu-se Hoàng Trọng Hữu thuộc giáo xứ Lai Tê, giáo phận Bắc Ninh.  Thật cảm phục lòng yêu mến Chúa, tinh thần hy sinh phục vụ của người linh mục trẻ, sẵn sàng hy sinh quên mình, sẵn sàng chấp nhận mọi khó khăn để phục vụ hy sinh cho người mình yêu noi gương Chúa Giêsu: “Mục Tử tốt lành, thí mạng sống mình vì đàn chiên, Người đến để cho chiên được sống dồi dào” (Ga 10,28).

Tình yêu thì không có biên giới cả về mức độ lẫn đối tượng. Ăn cho, buôn so. Đã có tính toán, đã có hạn mức cố định thì sẽ chẳng còn là tình yêu. Đã yêu là yêu đến cùng. Xét về mức độ thì Chúa Kitô không chỉ minh định rõ ràng đó là sẵn sàng hiến thân vì người mình yêu mà Người còn thể hiện sự đến cùng trong tình yêu bằng cái chết trên thập giá. Để diễn tả sự đến cùng trong mức độ mến Chúa và yêu tha nhân, Ngài dạy: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi…Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Mc 12,30-31). Hạn từ “hết” đuợc lặp đi lặp lại và hạn từ “như chính mình” làm nỗi rõ tính vô biên của tình yêu.

Yêu thương là không chỉ muốn mà còn phải nỗ lực làm điều tốt nhất cho người mình yêu. Trong niềm tin Kitô giáo, mọi người đều là anh chị em với nhau. Đã là anh em, chị em với nhau một mặc, chúng ta không được phép loại bỏ hay kỳ thị nhau dù dưới bất cứ hình thức nào, mặc khác chúng ta cần giúp nhau, hy sinh cầu nguyện cho nhau thi hành thánh ý Thiên Chúa để có hạnh phúc đích thực. Vâng lệnh Chúa Giêsu chúng ta hãy chân thành cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi chúng ta. Trước hết hãy cầu xin cho họ nhận ra lầm lỗi họ đã phạm và biết sám hối, ăn năn, thay đổi. Hãy cầu xin cho họ biết tìm cách khắc phục những hậu quả xấu đã gây ra cho tha nhân, cho xã hội… Có thể nói đây là bước khởi đầu của việc sống yêu thương “kẻ thù”, yêu thương những người làm hại chúng ta. Tiếp đến, hãy dùng ngôn ngữ mà rao truyền chân lý, vạch trần sự dữ để giúp người lạc lối trở về nẽo chính, đường ngay, như Lời Chúa trong bài đọc 1 dạy:  “Ngươi không được để lòng ghét người anh em, nhưng phải mạnh dạn quở trách người đồng bào, như thế, ngươi sẽ khỏi mang tội vì nó. Ngươi không được trả thù, không được oán hận những người thuộc về dân ngươi. Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình”.

Ước gì qua Lời Chúa hôm nay, chúng ta cùng hiệp lời cầu xin Chúa ban cho mọi người không phân biệt tôn giáo có đủ khôn ngoan, nghị lực, đầy nhiệt huyết tông đồ để phục vụ mọi người nhất là những người bệnh tật, khổ đau thay cho kỳ thị xua đủa. Chúng ta cùng hiệp lời cho cầu nguyện cho những người đang sống trong tâm trấn dịch bệnh được bình an và cơn đại dịch sớm dập tắt, đồng thời mở rộng vòng tay yêu thương giúp đỡ, vì khi giúp đỡ những người đau khổ là giúp đỡ chính Chúa đang đau khổ vậy. Amen.

 

22.             Là Kitô hữu phải sống thánh và thiện

(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)

Sách Sáng thế kể: “ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật. Rồi ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa trồng một vườn cây ở Ê-đen, về phía đông, và đặt vào đó con người do chính mình nặn ra” (St 2,7-8). Như vậy, nơi con người ngay từ khi Thiên Chúa tạo dựng có hai yếu tố vật chất (bùn đất) và sinh khí (hơi thở của Thiên Chúa – ta gọi là hồn thiêng). Cho nên, linh hồn là do Thiên Chúa tạo dựng trực tiếp, do Thiên Chúa ban tặng chứ không do cha mẹ tạo nên. Vì vậy, tự bản chất con người chỉ là thụ tạo, được hưởng những đặc ân của Thiên Chúa nhưng con người vẫn khác xa và cách biệt ngàn trùng với Thiên Chúa Tạo Hoá. Chỉ trong Chúa Giêsu Kitô, con người mới trở thành con Chúa, mới được tham dự và chia sẻ sự sống đời đời. Cho nên, Chúa Giêsu hôm nay mời gọi chúng ta hãy nên thánh về phần hồn và thiện về phần xác nhờ đó chúng ta mới được sống lại cả hồn lẫn xác trong ngày sau hết.

Trước hết, về phần hồn, Lời Chúa bài đọc 1, Thánh Phaolô khẳng định rằng: “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao? Vậy ai phá huỷ Đền Thờ Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ huỷ diệt kẻ ấy. Vì Đền Thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và Đền Thờ ấy chính là anh em”. Rõ ràng, đời sống thiêng liêng của người Kitô hữu là đời sống dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, Ngài đưa ta vào đời sống của Ba Ngôi Thiên Chúa, tức là kết hiệp hoàn toàn với Thiên Chúa. Thiên Chúa là trung tâm của thân thể và đời sống ta, Người chiếm hữu toàn bộ linh hồn ta. Như thế, ta sẽ là tất cả cho Thiên Chúa và Thiên Chúa sẽ là tất cả cho ta, ta thuộc về Người và Người cũng thuộc về ta. Nhưng Thiên Chúa là Đấng Thánh (Hs 11,9), còn chúng ta là con người nên trước mặt Thiên Chúa, chúng ta phải thánh. Vì thế, mỗi người chúng ta cần phải xây dựng tâm hồn mình nên thánh, có nghĩa rằng phải có đời sống đầy ân sủng Chúa qua việc siêng năng lãnh nhận các Bí tích. Vì chưng, qua các Bí tích, ơn Chúa giúp tâm hồn ta mỗi ngày một thánh hơn. Chẳng hạn, Bí tích Hòa Giải, khi được Rửa Tội, chúng ta đã trở nên tạo vật mới nhưng bản chất con người vốn yếu đuối thường sa ngã phạm tội làm cho linh hồn hoen ố. Vì vậy, ta phải đi xưng tội để được tha tội nhằm giao hòa với Thiên Chúa và mọi người. Bí tích Giải Tội còn ban ơn trợ giúp chúng ta sợ tội, xa lánh tội và vượt thắng tội lỗi nhờ đó chúng ta mới thánh được. Rồi, Bí Tích Thánh Thể nữa, rước lễ giúp tăng triển sự hiệp thông với Chúa Kitô. Như của ăn vật chất mang lại sự sống cho thân xác thế nào, việc rước lễ cũng đem lại sự sống kỳ diệu cho đời sống thiêng liêng như vậy. Một khi đã hiệp nhất với Chúa Giêsu, đời sống tâm linh của chúng ta trở nên vững mạnh, giúp vượt thắng và xa lánh tội lỗi. Bí tích Thánh Thể là một bảo chứng chắc chắn cho vinh quang Nước Trời sau này, cho việc Phục Sinh thân xác cát bụi của chúng ta. Là con người, chúng ta cần lương thực trần thế để sống nhưng sự sống ấy cũng có giới hạn; là con Thiên Chúa, chúng ta cần được lương thực thần linh để sống và tồn tại mãi mãi. Nếu Đức Kitô chỉ là người thì thịt máu Ngài cũng chỉ là lương thực trần gian, song Đức Kitô còn là Thiên Chúa nên Thịt Máu Ngài cũng chính là sự sống thần linh nuôi linh hồn ta làm cho linh hồn ta nên thánh mỗi ngày và được sống muốn đời vì chưng Chúa Giêsu nói: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời”.

Thứ hai, Chúa Giêsu hôm nay mời gọi nên thiện về phần xác, có nghĩa là thiện về con của chúng ta. Thiên Chúa tạo dựng và phú bẩm cho ta các bản năng như con vật (ăn, ngủ, nghỉ, giận, hờn, ghét, yêu…) như chúng ta hơn con vật nhờ có trí khôn, có trí khôn nên điều khiển, kiểm soát và kiềm chế những bản năng này sao cho phú hợp với nhân phẩm con người ngay từ khi làm người là “nhân cho sơ tính bản thiện”. Làm sao để chúng ta nên thiện về phần con này? Thưa Lời Chúa các bài đọc hôm nay đưa ra những bài học luân thường đạo lý rất cụ thể và chí lý. Bài đọc 1, Sách Lê Vi dạy chúng ta không được vu khống những người trong dòng họ, không được ra toà đòi người đồng loại phải chết, không được để lòng ghét người anh em, không được trả thù, không được oán hận người ta và phải yêu đồng loại như chính mình. Rồi trong bài đọc 1, Thánh Phaolô dạy chúng ta đừng có dối gian với chính mình và với người khác. Và trong Tin Mừng, Chúa Giêsu dạy chúng ta đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa. Ai xin, thì hãy cho; ai muốn vay mượn, thì đừng ngoảnh mặt đi. Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi chúng ta. Như vậy, chúng ta mới được trở nên con cái của Cha chúng ta, Đấng ngự trên trời.

 Vì vậy, trong Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội Lumen Gentium (Ánh sáng Muôn dân), Công Đồng Vaticanô II dạy rằng để đời sống Kitô hữu mỗi ngày nên thánh thiện, trước hết chúng ta phải có lòng kính mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân. Qủa thật, chỉ có tình yêu mới làm cho Thiên Chúa ở với ta và ta ở với Thiên Chúa (1Ga 4,16). Tình yêu ấy mỗi ngày một lớn lên trong ta, thúc đẩy ta luôn sống hết mình cho Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô và buông mình cho Chúa Thánh Thần hầu lắng nghe Lời Chúa và mau mắn thi hành Lời Chúa dạy. Bên cạnh đó, chúng ta không ngừng nỗ lực thực thi bác ái thương người có mười bốn mối, và canh tân đời sống; nhất là siêng năng lãnh nhận các Bí tích, chuyên cần cầu nguyện và tham dự các buổi cử hành phụng vụ ngõ hầu đạt tới “sự viên mãn của đời sống Kitô hữu và sự trọn hảo của đức ái, dù ở hoàn cảnh hay địa vị nào” (Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội Lumen Gentium, số 40). Như thế, người thánh thiện không phải sống ngoài hay không quan tâm đến thực tại trần gian; trái lại họ phải nhập thế, cải thiện hoàn cảnh sống và giúp mọi người sống thánh và thiện hơn. Vậy, càng sống tinh thần Bát Phúc của Chúa Giêsu, chúng ta càng hoàn hảo, thánh thiện và có phúc vì chưng Chúa Giêsu hứa: “Phúc cho ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa” (Mt 5,8).

Ước gì qua Lời Chúa hôm nay, xin cho “mọi người đều thấy rõ rằng, tất cả Kitô hữu, bất cứ theo bậc sống hay địa vị nào, đều phải tiến đến sự viên mãn của đời sống Kitô giáo và đến bậc trọn lành thánh thiện” (Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội Lumen Gentium, số 41). Vì thế, chúng ta phải sử dụng hết sức lực, các ân sủng mà Đức Kitô đã ban nhiều hay ít để thi hành Lời Chúa trong tất cả mọi sự; đồng thời chân thành yêu mến Thiên Chúa, làm vinh danh Người qua việc yêu thương và khiêm nhường phục vụ tha nhân.

 

23.             Hãy nên trọn lành như Cha trên trời

(Giải thích bản văn Tin Mừng của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)

Sang phần hai của đoạn chính 5,21-48, Chúa Giêsu chuyển sang nói về cách hành xử của bản thân người môn đệ, đặc biệt đối với những người chống lại mình/kẻ thù: – Đừng thề (5,33-37), – Đừng chống lại người ác (5,38-42), – Yêu thương kẻ thù (5,43-48).

Đừng Chống Lại Người Ác (5,38-42)

Câu mở đầu (c. 38) hoàn toàn giống với 5,43, và giáo huấn của Chúa Giêsu ở dạng phủ định giống với câu ở phần trước: mē + động từ nguyên mẫu (c. 34). Các câu giải thích (cc. 39b-42) gồm hai phần đối xứng nhau với hai thí dụ cụ thể ở mỗi bên.

Luật Cựu ước “mắt đền mắt và răng đền răng” (Xh 21,24, Lv 24,20; Đnl 19,21) nhằm hạn chế việc đổ máu do không kiềm chế nỗi sự hận thù. Lamech hãnh diện với vợ mình “Nếu Cain trả thù bảy lần, Lamech trả thù bảy mươi lần” (Kh 4,23-24). Luật nầy đòi hỏi trách nhiệm trong việc gây thiệt hại, và giữ sự quân bình giữa tội ác và hình phạt. Trong Tân ước còn tìm thấy cách diễn tả tương tự với luật nầy (Mc 8,38, 1 Cr 3,17).

Chúa Giêsu cấm sự đánh trả người làm điều ác: “Đừng chống trả người ác” (c. 39). Động từ anthistēmi, “chống lại”, hàm ý sự thiệt hại do người ác gây nên. Người ác, ponēros, tương đương với kẻ thù, echthros, với người bắt bớ, làm sỉ nhục (x. 5,11). “Không chống lại người ác” nghĩa là không để mình bị vướng vào vòng lẩn quẩn của sự ác: bạo lực sinh ra bạo lực; một cái răng của mình bị mất đi phải đòi lại một cái răng của người khác. Mức độ đầu tiên là bất bạo động: “Khi Ngài bị sỉ nhục, Ngài không sỉ nhục lại” (1 Ph 2,23). Mức độ kế tiếp cao hơn sẽ là yêu mến người làm điều ác (5,44-45; 1 Thess 5,15). Chúa Giêsu đưa ra bốn minh họa về sự bất bạo động:

Bị đánh vào má (c. 39b), rhapizō, là hành vi hạ nhục và khinh dể hơn là làm cho đau về mặt thể lý. Việc đưa cả hai má phải và trái cho người ác chỉ việc hoàn toàn không chống trả và sẵn sàng chịu mọi sự sỉ nhục không do lỗi mình; người tôi tớ trong Isaia cũng đã làm như thế, “Tôi đã không che mặt” (Is 5,5-6; x. Gióp 16,10; ). Chúa Giêsu đã bị đánh vào má trước mặt các thượng tế và Công nghị vì Ngài bị cho là phạm thượng; do đó đáng phải chết (26,67).

Bị đoạt áo (c. 40): bối cảnh của đoạn nầy là việc thưa kiện ở toà án để đoạt lấy áo, “muốn kiện”, theolonti krithēnai (c. 40; x. 18,30). Người bị kiện là một người nghèo tận cùng. Người nầy phải vay nợ để sống và không có gì để trả nợ. Chủ nợ chỉ có thể lấy áo trong, chitōn để trừ nợ, chứ không được lấy áo ngoài, mặc dù áo ngoài có giá trị hơn (x. Mc 13,16). Theo luật pháp thời ấy, chủ nợ không được cầm giữ áo ngoài như vật thế chấp, và nếu có lấy áo ngoài thì buộc phải trả lại áo cho người nghèo trước khi mặt trời lặn, vì áo ngoài/áo choàng dùng để làm chăn đắp ban đêm (Xh 22,25-27; Đnl 24,12-13). Đứng trước người không có lòng xót thương, người nghèo có thể bị lột trần trước mặt mọi người. Ngay cả khi bị như thế, Chúa Giêsu dạy đưa luôn áo ngoài cho họ. Chúa Giêsu đã bị lột áo, cả áo trong (Ga 19,23) lẫn áo ngoài (27,31.35), và nên trần truồng hoàn toàn trên thập giá.

Bị ép phục dịch (c. 41): động từ angareuō, “bắt ép”, mượn từ tiếng Persian. Angaroi là những người đưa thư. Những người nầy đứng tại các trạm ở các địa phương do vua xứ Persian chỉ định. Họ sẵn sàng với con ngựa để chuyển thư từ trạm nầy qua trạm kia để chuyển thư thật nhanh đến đích. Ở đây từ angareuō nầy chỉ sự ép buộc đi một hành trình, mang một vật nặng hay làm một việc phục dịch nào đó do quân đội hay các viên chức trên một hay nhiều người, như trường hợp Simôn người Xirênê bị quân lính Rôma ép vác thánh giá với Chúa Giêsu (27,32).

Cho và vay mượn (c. 42): Câu nầy vẫn còn nằm trong văn mạch của mệnh lệnh: “Đừng chống lại người ác” (c. 39a), và người môn đệ vẫn còn là nạn nhân của bạo lực hay bất công. Theo cấu trúc, câu nầy đối xứng và song song với câu 40a: tō + phân từ + ngươi + động từ. Động từ “muốn + vay mượn”, thelō, trong câu nầy mang ý nghĩa tương tự như trong câu 42 là muốn vay mượn tài sản của anh em trong đó hàm ý việc đoạt lấy; so sánh câu nầy với câu song song trong Luca 6:30: “Tất cả ai xin, hãy cho, và kẻ đoạt của ngươi, ngươi chớ đòi lại”. Hơn nữa, câu nầy liên kết với đoạn theo sau 5:43-48 bởi từ ponēros, “người xấu” (cc. 39.45), trong đó nói về việc yêu thương kẻ thù. Đây là minh họa đi trước cho việc yêu thương kẻ thù.

Việc giúp đỡ và cho vay mượn được nói rất nhiều đến trong Cựu ước, mà đối tượng nhắm đến thường là người nghèo (Xh 22,25; Lc 25,36-37; Đnl 15,2-6). Ở đây Chúa Giêsu đưa ra một nguyên tắc tổng quát và không phân biệt người được cho và cho vay: “Ai xin, ngươi hãy cho. Ai muốn vay, ngươi chớ khước từ” (c. 42; x. 5.45), trong đó bao hàm cả người ác/xấu.

Vậy qua đoạn 5,38-42 Chúa Giêsu muốn chúng ta giữ mình tự do khỏi mọi hình thức bạo lực. Quyền xét xử và báo oán là của Thiên Chúa (Rm 12,19-21). Phần người môn đệ của Chúa là “không lấy oán báo oán, mà theo đuổi điều thiện cho nhau và cho mọi người” (1 Thess 5,15).

“Yêu thương kẻ thù” (cc. 43-48)

Sự công chính của người môn đệ được thể hiện ở mức tối đa là yêu thương kẻ thù. Hành vi yêu thương nầy làm họ nên giống Cha trên trời là Đấng trọn lành (5,48) và là Đấng công chính (6,33), và cũng làm cho họ trổi vượt hơn các kinh sư và người Pharisêô về sự công chính (5,20). Đoạn nầy có cấu trúc giống như các đoạn trước, và thêm lời kết luận cho toàn phần 5,21-48. Từ ngữ chính trong đoạn nầy là agapaō, “yêu thương” (cc. 43.44.46[2x]) và echthros, “kẻ thù” (cc. 43.44).

Cựu ước nói cách rõ ràng việc yêu thương người lân cận. Người lân cận được định nghĩa là người đồng hương Israel, mặc dù cũng có thể nới rộng định nghĩa nầy ra cho người ngoại quốc đến ngụ cư (Lv 19,18, 33-34; Đnl 10,18-19). Trái lại, không thấy Kinh Thánh nói cách hiển nhiên việc ghét kẻ thù, mặc dù có thể suy diễn từ một số đoạn (x. Đnl 7,2; 20,13–18; 25,17–19; Tv 137,8–9; 139,19–22). Đối lại với câu chủ đề gồm hai mệnh đề, Chúa Giêsu cũng đưa ra một câu gồm hai mệnh đề: “Hãy yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho người bắt bớ các con” (c. 44). Hai mệnh lệnh đều ở ngôi thứ hai số nhiều và thì hiện tại, chỉ sự áp dụng chung cho các môn đệ của Chúa Giêsu và cho mọi thời.

“Kẻ thù” theo mạch văn là người bắt bớ (c. 44b), người xấu (c. 45). Họ sỉ nhục, vu khống, đặt điều nói xấu đủ điều các môn đệ (x. 5,10-11), họ làm những điều bất công (x. 5,38-42); do đó việc ghét kẻ thù là điều thường tình đối với người đời. Trái lại Chúa Giêsu dạy phải yêu thương kẻ thù theo mẫu gương của Cha trên trời. Ngài “cho mặt trời mọc lên trên kẻ dữ lẫn người lành” (c. 45; x. 22,10). Ngài làm điều tốt cho cả hai mà không phân biệt (x. Rm 21,20-21). Matthêô dùng từ ponēros, “người xấu” thay vì echthros, “kẻ thù”, trong câu liên quan đến Thiên Chúa, vì “kẻ thù” thật sự của Thiên Chúa là ma quỉ; chắc chắn là Ngài không “cho mặt trời mọc lên” trên kẻ thù nầy, mà đặt nó dưới bệ chân Ngài (13,25tt, 22,44).

Trước khi đi đến kết luận, Chúa Giêsu đưa ra hai minh hoạ về cách yêu thương mà người môn đệ không nên noi theo, “Nếu chỉ yêu thương…”, “Nếu chỉ chào hỏi…” (cc. 46-47), bằng không họ sẽ không công chính hơn người thu thuế và dân ngoại chút nào cả. Tính từ so sánh “hơn”, perisson, ở đây đóng khung đoạn 5,21-48, và liên quan đến sự công chính của các môn đệ (c. 20). Vậy ai hành động như Thiên Chúa thì sẽ nên con cái của Ngài, và con cái của Ngài phải là người xây dựng hoà bình, chứ không lấy ác báo ác (5,9).

“Nên trọn lành như Cha trên trời” (c. 48)

Từ quan trọng của câu kết luận là teleios, “trọn lành”, nghĩa là đi đến cùng và không còn thiếu gì cần thiết nữa. Matthêô dùng 3 lần từ nầy và qui chiếu về Thiên Chúa. Trong 19,21, sự trọn lành mà Chúa Giêsu chỉ cho người thanh niên là tuân giữ lề luật Chúa, từ bỏ của cải và theo Chúa. Trong câu 5,48 sự trọn lành trước tiên quy chiếu về lề luật đã được Chúa Giêsu làm trọn (5,21-48), và cũng qui chiếu về Chúa Cha: “như Cha…” (c. 48b). Liên từ “như”, hōs, chỉ phẩm tính thuộc về Thiên Chúa. Vậy việc “nên trọn lành như Cha trên trời” được đặt trong tương quan Cha – con, “Cha trên trời” (c. 48) – “con cái Cha trên trời” (c. 45): sự trọn lành của con cái bắt nguồn từ sự trọn lành của Cha và có cùng phẩm tính là yêu thương, và tình yêu của Cha thể hiện qua việc “cho mặt trời mọc lên trên kẻ dữ và người lành” để nêu gương, thì con cái cũng bắt chước gương Cha mà làm như vậy: làm điều tốt cho người khác vì yêu thương.

Chúa Giêsu đến để kiện toàn mọi lề luật. Ngài đã dạy cho các môn đệ một cách cư xử mới trong tương quan với người bất hòa, phụ nữ, bản thân, người làm ác và kẻ thù. Cao điểm của cách cư xử nầy là làm điều tốt và yêu thương họ như Cha trên trời và cũng như Chúa Giêsu. Đó là con đường trọn lành mới mà Ngài muốn con người bước vào.

 

24.             Hãy nên hoàn thiện

(Suy niệm của Giuse Hồng Ân)

 

Đối với nhiều người trong chúng ta, hai tiếng “yêu thương” chỉ dành cho các thành viên trong gia đình, họ hàng và một vài người bạn thân cận. Có chăng chỉ là lòng “thương hại” những người nghèo khó, cô đơn và bất hạnh, vì họ là những người không làm gì hại đến mình và gia đình mình. Chúng ta chẳng bao giờ đề cập đến việc yêu thương những đối thủ của mình. Chúng ta còn gán cho họ những cái tên đáng sợ và dạy cho con cháu sống xa tránh họ.

 

Chúng ta đang sống trong một thế giới bị chi phối bởi những thứ luật có thể nói là “luật rừng”, thứ luật mà chỉ bảo vệ cho một số kẻ có quyền, có tiền, thứ luật không có chút nào là công bằng, cướp nhà, cướp đất của người nghèo, để chia chác, để làm giàu cho những kẻ có quyền có chức, bắt người vô tội, đánh đập đàn áp những người bênh vực cho chân lý. Một thế giới đầy dẫy những toan tính ích kỷ, vì lợi ích của mình, sẵn sàng chà đạp lên công lý, diệt trừ lẫn nhau, có người phải mất mạng, nhiều người thì “thân bại danh liệt”. Anh em lỡ làm thiệt hại một thì bắt đền gấp mười. Có những người chỉ vì cái lợi trước mắt đã cố tình gây ra tai nạn, rồi nằm ăn vạ để bắt người khác phải đền oan uổng.

 

Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy chúng ta không sống theo “luật rừng”, không chỉ dừng lại ở mức độ công bằng. Mà hãy sống theo giới luật Chúa truyền, đó là luật “yêu thương”, một tình yêu bao là rộng lớn, một tình yêu vượt trên sự công bằng, vượt ra ngoài sự giới hạn tình gia đình, tình bằng hữu, tình đồng hương, vượt ra ngoài chủng tộc hay tôn giáo, “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5, 43-44). Yêu kẻ thù, là yêu thương cả những người làm hại, khinh bỉ, nói xấu, vu khống mình, không tìm cách báo thù, không lấy ác báo ác, mà ân báo oán, luôn cầu nguyện và mong muốn cho họ gặp những điều may lành. Đavid bị vua Saul thù ghét, săn đuổi để giết, nhưng Đavid vẫn không làm hại người Thiên Chúa xức dầu phong vương khi có thể làm điều đó. Dưới cái nhìn của con người thì Đavid đã hành xử dại dột, bỏ mất một cơ hội “hiếm có” để khử trừ kẻ thù mình, nhưng Đavid đã chọn Thiên Chúa, không chọn lợi ích cho riêng mình mà làm hại đến tha nhân.

 

Chúa Giêsu dạy yêu thương, chính Ngài đã sống yêu thương, Ngài luôn tỏ tình yêu thương những kẻ thù nghịch với Ngài, mặc dù họ ghen ghét Ngài vô cớ, họ luôn tìm dịp để tố cáo Ngài, xuyên tạc lời Ngài giảng dạy. Đối với Giuđa là kẻ phản bội, Chúa không tố cáo đích danh trước mặt các môn đệ, Chúa còn ngồi ăn cùng bàn và rửa chân cho y nữa. Khi Giuđa dẫn quân lính đến bắt Chúa trong vườn cây dầu, Chúa vẫn ôn tồn nói với Giuđa: “Giuđa ơi, anh dùng cái hôn mà nộp Con Người sao?” (Lc 22, 48). Vì yêu thương Giuđa nên nhiều lần Chúa Giêsu nhắc nhở, cảnh tỉnh để ông ta thay đổi việc làm xấu mà được hưởng ơn cứu độ. Trên thập giá, trước khi tắt thở, Chúa vẫn dùng chút hơi tàn lực kiệt để cầu nguyện cho kẻ đóng đinh Người “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 34). Vì vậy, thánh Phaolô cũng nói: “Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi, đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5, 8).

 

Thánh Tê-pha-nô đã thực hành lời Chúa dạy, noi gương Thầy Chí Thánh yêu thương và cầu nguyện cho những kẻ giết mình: “Họ ném đá ông Tê-pha-nô, đang lúc ông cầu xin rằng: Lạy Chúa Giêsu, xin nhận lấy hồn con. Rồi ông quỳ gối xuống, kêu lớn tiếng: Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này. Nói thế rồi, ông an nghỉ” (Cv 7, 59-60).

Chúa Giêsu căn dặn chúng ta, để trở nên con Thiên Chúa phải “yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5, 44). Để được làm con Chúa, chúng ta cũng phải đối xử giống như Thiên Chúa đã đối xử tốt với tất cả mọi người không phân biệt người tốt, kẻ xấu. “Vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (Mt 5, 46). Chúng ta hãy sống lời Chúa dạy, yêu thương hết mọi người, một tình yêu không có giới hạn, không chỉ yêu thương những người thân cận, những người đồng hương, những người cùng tôn giáo, những người cùng quan điểm, những người đem lại lợi ích cho mình… Mà yêu thương cả thù địch, cả những người ghen ghét, hãm hại, nói xấu, phỉ báng mình nữa, yêu thương cả những người tội lỗi. Yêu thương, cầu nguyện và làm ơn cho kẻ thù. Nếu chỉ là một tình yêu co cụm, ích kỷ hẹp hòi, thì không phải là con Thiên Chúa. Như lời Chúa Giêsu đã dạy: “Nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi. Ngay cả những người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao?” (Mt 5, 46).

 

Chúa còn mời gọi mỗi người chúng ta hãy nên hoàn thiện “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5, 48). Để nên hoàn thiện, chúng ta hãy loại bỏ thứ “luật rừng”, thứ luật luôn diệt trừ lẫn nhau, loại bỏ những toan tính, ích kỷ, hẹp hòi, tham lam, gian dối, lừa lọc. Chúng ta hãy thực thi giới luật Chúa Giêsu đã truyền dạy là “mến Chúa và yêu người” yêu thương tất cả mọi người không phân biệt bạn hay thù, yêu thương và tha thứ cho những người làm thiệt hại đến mình, dù là vô tình hay hữu ý.

 

Thật khó để yêu thương kẻ thù, một khi đã ghét nhau, chỉ nhìn thấy mặt, nghe giọng nói đã thấy khó chịu rồi, chưa nói đến yêu thương, cầu nguyện và làm ơn cho kẻ thù, như trong bài thơ “yêu thương” của Lm Giuse Nguyễn Nhân Tài có viết:

“Anh em con đó con chưa thương

Nói chi đến kẻ con chán chường

Ghét cay, ghét đắng, ghét thậm tệ

Làm sao ôm lấy để yêu thương”.

 

Quả thật, đây là một việc vô cùng khó khăn, nhưng càng khó chúng ta càng phải cố gắng thực thi, vì đây là giới luật Chúa Giêsu đã truyền dạy, muốn trở nên con Chúa, muốn nên hoàn thiện, không còn cách nào khác ngoài cách sống “yêu thương và tha thứ”. Thánh Phaolô dạy cho ta biết: “Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật” (Rm 13, 10).

 

25.             Suy niệm của Lm. Anrê Đinh Duy Toàn

Qua Lời Chúa trong phụng vụ Thánh lễ hôm nay, Thánh Matthêô cho chúng ta một thực đơn thật là khó nuốt. Hiểu Lời Chúa đã là một việc khó, sống Lời Chúa lại còn khó hơn, huống hồ chia sẻ Lời chúa như một kinh nghiệm sống thì quả thật muôn vàn khó.

Quả vậy, đối với nhiều người không biết hoặc không quen với tinh thần Ki tô giáo thì đoạn tin mừng này gây ra nhiều thắc mắc, đố kỵ. Ngay cả chúng ta, những người đã thấm nhuần giáo lý của Đạo Chúa, vẫn thấy ngờ ngợ nếu không nói là nghịch lý.

Thử đọc đoạn tin mừng này trong bối cảnh thời Chúa Giêsu rồi hội ra những điều Chúa dạy.

Đoạn tin mừng hôm nay nằm trong phần Hiến chương Nước trời. Mt (5-7). Chúa Giê su khởi sự bằng cách trích dẫn luật lể cổ xưa, luật Hammurabi.

Năm 1901, một đoàn nghiên cứu khảo cổ người Pháp đã tìm được bộ luật được khắc trên một phiến đá ở thành phố Suse thuộc Iran ngày nay. Đó là Bộ luật Hammurabi của Nhà nước Lưỡng Hà cổ đại – bộ luật thành văn cổ xưa của nhân loại, một thành tựu có giá trị của lịch sử văn minh cổ đại. (Thực ra có rất nhiều bộ luật đương thời: bộ luật của Ur-Nammu, vua xứ Ur (khoảng 2050 TCN), bộ luật Eshnunna (khoảng 1930 TCN)… đều có các khoản tương tự như nhau).

Bộ luật ra đời trong khoảng thời gian từ năm 1792 đến 1750 trước công nguyên và mang tên Hammurabi, vị vua đã ban hành bộ luật, vua Babilon thứ sáu. Bộ luật mang tính cách phân biệt cách đối xử giữa quý phái và công nhân. Điều 196 -200 trong bộ luật ấy có ghi: Nếu một người gây cho một người quý phái mất con mắt thì phải mất con mắt; nếu làm thương tật thì phải chịu thương tật; nếu làm gãy răng thì phải chịu rụng răng, v…v…nói chung ai gây thiệt hại gì thì chịu thiệt hại tương đương.

Có lẽ luật Cựu ước cũng chịu ảnh hưởng rất nhiều với luật Hammurabi, vì như chúng ta thấy những khoản tương đương được đề cập đến ít nhất là 3 lần:

(Xh 21, 23-25) Nếu ai gây thiệt hại thì mạng đền mạng, mắt đền mắt, răng đền răng, tai đền tai, chân đền chân, …

(Lv 24, 19-20) Khi một người làm thương tích cho kẻ lân cận, thì phải làm thương tích cho nó như nó đã làm: gãy đền gãy; mắt đền mắt; răng đền răng…

(Tl 19, 21) … Mắt đền mắt; răng đền răng; chân đền chân …

Thoạt nghe, chúng ta không khỏi ngỡ ngàng, vì nó man tính chất hơi man rợ, nhưng nhìn tổng thể bối cảnh thời đó, nó chỉ có tính chất ngăn ngừa, giới hạn sự trả thù, và có thể nói, đó là khởi đầu của sự thương xót. Thời đó, hầu như cơ chế xã hội sống theo cái khung của từng bộ lạc. Vì thời tiết khắc khe, điều kiện kinh tế và cạnh tranh sinh tồn, họ luôn hặm hực ý muốn trả thù. Giả như không có luật này, thì khi một người ở bộ lạc này làm hại đến người bộ lạc kia, tức tốc họ kéo cả bộ lạc đi tiêu diệt toàn thể bộ lạc của người gây hấn. Luật chỉ cho phép một đền một mà thôi. Hơn nữa, luật này không cho phép cá nhân tự do báo thù mà phải có quan án ấn định hình phạt và khoản phạt. (xh 19,18). Như vậy, xét trong bối cảnh lịch sử của nó, thì đây không phải là man rợ mà là nhân từ.

Tuy rằng có chịu ảnh hưởng nhưng chúng ta đừng quên nhận ra rằng luật Cựu ước tiến xa hơn rất nhiếu so với những bộ luật thời đó. Qua luật cựu ước đã thể hiện lòng thương xót: Chớ toan báo thù (Lv 19, 18). Rõ ràng là luật cựu ước đã có dấu chỉ của lòng thương xót.

Trở lại với bài tin mừng. Ở phần đầu, Chúa Giê su dạy: Còn Thầy (chỉ có Chúa) Thầy bảo anh em: Đừng chống kẻ ác. NGƯỢC LẠI! Ai vả má phải thì đưa luôn má trái. Ý nghĩa thật phong phú chứ không phải hiểu theo nghĩa đen. Do thái có những phong tục rất lạ: tát ai bằng lưng bàn tay thì kẻ bị tát chịu sỉ nhục gấp hai lần. Như thế, giả như có người đứng đối diện với người kia, muốn tát má trái đang khi thuận tay phải, thì chỉ còn cách tát trái bằng lưng bàn tay mà thôi. Phải chăng điều Chúa muốn dạy là: Là người Ki tô hữu dẫu có bị hạ nhục cho dù gấp mấy thì cũng không được trả thù. Đừng phản kháng nhất là trả oán. Dù có ai muốn trút lên đầu sự nhục mạ thậm tệ nhất thì cũng không được báo thù.

Nếu ai lột áo trong hãy đưa luôn áo ngoài. Ở đây cũng vậy. Áo trong là áo dài thường là bằng vải bông để mặc ở trong. Người Do thái có nhiều áo trong để thay đổi. Áo ngoài là loại áo lớn, vải dày, có thể dùng làm mền vào ban đêm (giống như áo măng tô, có chiều dài quá gối mà những thế kỷ trước chỉ có quân đội và các nhà quý phái mới có). Luật Do thái cho phép cầm cố áo trong chứ không phải áo ngoài. Sách Xuất hành có ghi: Nếu cầm áo ngoài của người ta để làm tin,  thì phải trả cho nó trước khi mặt trời lặn, vì đó là đồ che thân để ngủ. Nếu nó kêu đến Ta, thì Ta sẽ nghe, vì Ta là Đấng hay thương xót. (Xh 22 26, 27). Do đó, điều Chúa dạy ở đây là: Ki tô hữu là người không bao giờ tranh biện về quyền hạn và pháp lý. Hiểu theo nghĩa tích cực là không nghĩ đến quyền lợi mà chỉ nghĩ đến phục vụ; không nghĩ đến đặc quyền mà chỉ nghĩ đến trách nhiệm của mình mà thôi.

Tiếp theo, Nếu bắt đi một dặm, thì hãy đi hai dặm. Từ “bắt” có một ý nghĩa lịch sử. Người xưa có hệ thống bưu điện khá hay. Đường đưa thư được chia làm nhiều chặng, mỗi chặng dài một ngày đường. Mỗi trạm đều có sẵn lương thực cho người đưa thư, lại còn có nước, có cỏ cho ngựa của người đua thư nữa. Nếu chẳng may một trạm có thiếu món gì, thì bất cứ ai cũng phải cung cấp cho đủ, thậm chí chính mình phải mang thư đi một dặm đường. Nó còn có nghĩa bị trưng dụng nữa. Dân của một xứ bị bị trị buộc phải mang hành lý, cung cấp thức ăn, chỗ ở cho kẻ đến chiếm đóng. Lắm lúc phải chịu trưng thu một cách tàn bạo không chút xót thương. Phải chăng điều Chúa muốn dạy là: Đừng nghĩ mình tự do để muốn làm gì tuỳ ý mà hãy nghĩ bổn phận và niềm vui được phục vụ kẻ khác?. Một việc đôi khi là gánh nặng, phi lý nhưng đem lại chút lợi ích cho người ta, đừng làm như cực chẳng đã, nhưng hãy làm một cách vui vẻ.

Phần thứ hai của bài Tin mừng Chúa cũng trưng dẫn luật Lêvi (Lv 19…) Luật của lòng thương xót. Chúa Giêsu dạy chúng ta yêu thương cả kẻ thù, là vì ngay cả những người đó và chính chúng ta đều có cùng một Cha chung trên trời. Qủa thực, suy gẫm kỹ càng sẽ thấy điều Chúa dạy tuy rất phi thường, nhưng cũng rất thực tế. Ngài lấy hình ảnh gia đình mà người cha tràn đầy tình thương, như vị trọng tài vô cùng công mình và nhân từ với mọi con cái theo hoàn cảnh của chúng. Vượt xa Khổng tử với “ Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân “, với Chúa phải tích cực hơn nữa “ Hãy đi và làm cho người ta điều mình muốn người ta làm cho mình”. Sở dĩ như thế là vì mọi người đều có MỘT CHA CHUNG.

Như vậy, những lời giáo huấn ở phần đầu bài Tin mừng thật không khó hiểu nếu đặt trong khung cảnh Đông phương thời đó.

Và Chúa Giê su đã thiết định một qui luật quan trong cho người Kitô hữu đó là: – Không bao giờ thù hận để rồi tìm cách báo thù, cho dù sỉ nhục đó có tính toán và độc ác đến đâu – Không bao giờ bám vào một thứ quyền nào để rồi cứ nghĩ là mình đương nhiên được hưởng – Không bao giờ nghĩ đến mình tự do hoàn toàn để rồi làm bất cứ điều gì tuỳ ý.

Tóm lại: “ Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi là Đáng Thánh. (Lv 19, 2) Bài đọc I.

Anh em hãy nên hoàn thiện như cha trên trời là đấng hoàn thiện.  (Mt 5, 48).

“Hãy nên hoàn thiện” dễ thương làm sao, chứ không phải “ phải” với lời ngăm đe khủng khiếp!

Trước giới luật của Chúa, ai trong chúng ta đã không kinh nghiệm một cách bi đát: chúng ta đã lắm lần, nếu không nói là hoàn toàn thất bại.

Hơn ai hết, Thánh Phao lô cũng đã trải nghiệm những thất bại ấy, và phải xác nhận “Tôi sống, nhưng không phải tôi sống mà là (ƠN) Chúa sống trong tôi”  nên mới khuyên được mọi người “Anh em đừng tự lừa dối mình…” “Đừng ai dựa vào phàm nhân mà tự hào”…(Cr 3, 18,21).

Phúc thay! Thánh Gioan đã xác tín một cách chắc nịch: Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài, để ai tin vào Người Con thì được cứu độ. Vì Thiên Chúa không sai Con đến thế gian để luận phạt, nhưng để thế gian nhờ Ngài mà được cứu. (Ga 3, 16).

Rốt cuộc, trong tôi, tất cả là …dối!. TRONG CHÚA, TẤT CẢ LÀ HỒNG ÂN!

Vậy thì, xin cho môi con luôn biết ca khen ân tình của Chúa. Xin cho mắt con luôn biết ngắm xem kỳ công của Ngài. Xin cho tai con luôn biết lắng nghe những điều Chúa dạy. Và mỗi chiều về xin Chúa nhắc con luôn cảm ơn Ngài.

Vậy thì, Xin cho con một đức tin vững bền, để con luôn trung kiên trong hành trình theo Chúa. Vì có những lúc con gặp nhiều khó khăn, thấy trước mắt ê chề những bất công, con làm sao tránh cho khỏi bâng khuâng. Xin ƠN của Chúa giúp con luôn xác tín: Chúa chính là sức mạnh đời con, Chúa chính là thành luỹ kiên cường, nơi nương tựa ngàn đời kiên vững. Chúa ơi, khấn xin Ngài ấp ủ đời con, giới luật Ngài xin giúp giữ tròn, bước dương trần cùng đi với con.

Bởi lẽ, có những lúc con thấy Chúa như người xa lạ. Có những khi con thấy Ngài thật gần gũi với con. Có những lúc con thấy Chúa rắc gieo an bình và đầy thương xót, thì có những lúc con thấy Chúa rắc gieo ê chề trên đường con đi.

Cho nên, xin cho con qua trọn ngày dài, luôn nếm tình Cha yêu thương con, để rồi trên dương gian sóng xô dập dồn, thuyền dù đã xa lối về, thì xin cho con được tin, yêu Chúa nhiều, và xác tín Chúa đỡ nâng con bước tới quê hương nhà, dù thuyền xa lối con chẳng còn lo gì.

 

26.             Yêu thương thù địch – điều không dễ chút nào

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)

 

“Hãy yêu thương tha nhân và ghét thù địch”. Mệnh lệnh này được ghi rõ trong sách Lêvi (Lv 19,18). Theo đó, người Dothái chỉ yêu thương những người đồng loại, tức là những người thuộc dân riêng của Chúa, dân Israel. Nói cách khác là họ chỉ yêu thương những người đã được cắt bì mà thôi. Còn dân ngoại, họ coi như thù địch. Họ còn có luật và bổn phận ghét người ngoại bang, nhất là dân Amalec, dân Moab (x. Đnl 25,18; 23,6).

 

Khi Đức Giêsu đến, Ngài đã phá đổ những giới hạn của luật cũ, và mạc khải cách trọn hảo về điều luật mới, khi dạy: “Anh em hãy yêu thương kẻ thù” (Mt 5,43a). Thế thì, kẻ thù mà Chúa Giêsu muốn nói ở đây là ai?

 

Một số quý ông, quý anh bảo rằng kẻ thù của con là rượu, là thuốc lá, là cờ bạc… Chúa dạy phải yêu kẻ thù, nên con yêu luôn những thứ đó. Không phải lập luận theo kiểu lý “cùn” này. Kẻ thù mà Chúa muốn nói ở đây là những người làm cho ta đau khổ, làm cho ta bị tổn thương, những kẻ không ưa thích gì ta, v.v… Yêu thương kẻ thù là yêu thương những người như thế: “Hãy cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5,43b).

 

Qua lời dạy trên, Chúa Giêsu muốn mời gọi ta điều gì? Thưa Chúa Giêsu muốn mời gọi ta biết vượt lên tình yêu tự nhiên, vốn nặng về cảm tính, để yêu thương hết mọi người. Và như thế, không còn ai bị loại ra khỏi tình yêu thương của người môn đệ Đức Kitô nữa. Đây là điều mới mẻ và độc đáo của luật Tin Mừng Đức Giêsu và là mức độ cao nhất của tình yêu hoàn thiện.

 

Thứ đến, tình yêu thương đó được biểu hiện bằng việc làm cụ thể, mà quan trọng nhất là thi ân và cầu nguyện cho những kẻ tự nhiên không được ta yêu thương. Không phải là cầu nguyện chống lại kẻ thù, cầu nguyện xin Chúa khừ trừ giùm kẻ thù của mình, như trong Thánh Vịnh:

“Còn những quân thù nghịch,

Thiên Chúa sẽ đập bể đầu;

bọn theo đường gian ác,

Người đánh cho gãy răng”.

Hay: “Lạy Chúa xin thẳng tay khai trừ bọn chúng

khỏi thế giới loài người;

Án phạt Chúa đã dành,

xin Ngài bắt chúng nuốt cho đầy bụng;

cả đàn con cũng được ăn cho thoả thích,

phần còn lại cho bầy cháu mai sau” (Tv 17,14).

 

Không phải là cầu nguyện kiểu đó, mà là cầu nguyện cho họ để họ được ơn hoán cải, ơn biến đổi.

 

Nhưng tại sao lại phải yêu thương như những kẻ thù nghịch? Đơn giản là vì chính chúng ta đã được Thiên Chúa yêu thương, đang khi chúng ta là kẻ nghịch thù với Chúa. Giả như Thiên Chúa đối xử với ta như cách ta thường đối xử với anh em mình, thì số là chúng ta đã bị diệt trừ từ lâu rồi. Vì trước mặt Chúa, đã nhiều lần chúng ta là kẻ thù của Chúa, đã nhiều lần làm ô danh Chúa, và đã từng chống đối Chúa, thử thách Chúa. ..

 

Lý do thứ hai là vì có yêu thương kẻ thù nghịch, thì ta mới đáng được gọi là con cái của Thiên Chúa, và có yêu thương như thế, chúng ta mới thực sự trở nên giống như Cha trên trời là Đấng trọn lành, Đấng đã “cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất lương” (Mt 5,45).

 

Dĩ nhiên, kính thưa quý…., yêu thương kẻ thù nghịch là điều không dễ chút nào xét trên bình diện con người tự nhiên. Tha thứ cho những kẻ làm hại hay xúc phạm đến mình đã là điều khó rồi, huống chi là yêu thương, làm ơn và cầu nguyện cho họ nữa. Thế nhưng chúng ta có thể thực hiện được nếu có ơn Chúa trợ giúp. Chính thánh Phaolô đã quả quyết điều này: “Tôi có thể làm được mọi sự trong Đấng ban sức mạnh cho tôi” (Pl 4,13).

 

Hãy yêu thương và cầu nguyện cho người kẻ mà không ưa ta, những kẻ thù ghét ta. Để rồi nhờ lời cầu nguyện của ta mà họ được hoán cải; nhờ tình yêu thương của ta mà họ được biến đổi, vì “tình yêu có sức biến đổi phận người”. Và cũng nhờ đó mà chúng ta được lớn lên trong tình yêu của Chúa.

 

27.             Luật của tình yêu toàn thiện

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)

Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay cho ta thấy Chúa Giêsu tiếp tục kiện toàn một khoản luật nữa của Cựu Ước, đó là luật của sự “ăn miếng trả miếng”. Trong bài ca man rợ mà nhân vật La-méc đã hát có câu: Cain được báo thù gấp bảy (1 trả 7 lần) thì La-méc được báo thù gấp 77 (1 trả 77 lần). Đến thời của Môisê, đã có một sự tiến bộ hơn: một trả một, tức là luật “ăn miếng trả miếng”, hay là luật “răng đền răng, mắt đền mắt”. Đây là giới hạn lẽ công bằng theo nghĩa chặt.

Vậy Chúa Giêsu kiện toàn theo nghĩa nào? Luật mới của Chúa Giêsu đó là gì? Luật mới của Chúa Giêsu đó là luật của tình yêu hoàn thiện, khi khoan dung với kẻ ác. Cụ thể là khoan dung với kẻ xúc phạm danh dự và phẩm giá của mình: “Ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa” (Mt 5,39). Khoan dung với kẻ trấn lột, tước đoạt những thứ mình sở hữu: “Ai kiện lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy luôn cả áo ngoài” (Mt 5,40). Khoan dung với kẻ hành hạ bóc lột sức lực của mình: “Nếu có ai bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với nó hai dặm” (Mt 5,41).

Nhưng tại sao lại phải khoan dung với kẻ ác? Phải chăng là Chúa Giêsu muốn cỗ võ thái độ nhu nhược và cam chịu cách thụ động? Hay Ngài muốn khuyến lệ sự bất công khi dung dưỡng cái ác? Thực ra khi Chúa Giêsu dạy các môn đệ Ngài phải có thái độ khoan dung như thế là có lý do của mình:

Thứ nhất là nhằm ngăn chặn vòng xoáy của sự ác, sự leo thang của bạo lực theo nghĩa “lấy oán báo oán, oán càng chồng chất”. Thứ hai là nhằm chinh phục và cảm hoá kẻ ác vốn cũng là con người, vì sự bao dung tha thứ có khả năng biến thù thành bạn, như Chúa Giêsu đã nói: “Như vậy là các con đã được lợi một người anh em”. Thứ ba là để có được một tâm hồn bình an, thanh thản của con cái Thiên Chúa. Và thứ bốn là để trở nên giống như Cha trên trời là Đấng nhân từ, bao dung và khoan thứ.

Khuynh hướng tự nhiên của con người là muốn trả đũa, và khi trả đũa thì thường muốn trả nặng hơn mức người ta gây cho mình: “Hòn đất ném đi, hòn chì ném lại”. Hòn chì chắc chắn là cứng hơn và nặng hơn hòn đất rồi. Chẳng thế mà khi chứng kiến đội chủ nhà Áo (tại Eurô 2008) được trọng tài cho hưởng quả phạt đền ở phút cuốn trận đấu, đẩy đội Ba Lan vào tình thế chắc chắn xếp vali về nước, Tổng thống Ba Lan đã thốt lên rằng: “Tôi chỉ muốn giết ngay viên trọng tài đó”.

Gia đình ông A và ông B sống gần nhau và cùng trồng dưa trên hai lô đất kế cận. Gia đình ông A đam mê rượu chè, bài bạc, không chăm sóc vườn dưa nên vườn dưa xơ xác, không thu hoạch được gì. Trong khi đó, gia đình ông B chăm sóc vườn dưa chu đáo nên được bội thu, tiền vào như nước, sắm sửa được nhiều thứ trong nhà. Nổi máu ghen tị, ông A xúi con qua phá hoại vườn dưa của ông B, vừa hái trái ăn vừa nhổ cây, gây thiệt hại nặng nề cho gia đình ông B.

Trước sự gây hấn đó, gia đình ông B giận sôi gan, tìm cơ hội để báo thù. Buổi tối trước khi ra tay hành động, ông B nằm suy nghĩ miên man và may thay, câu Lời Chúa ông vừa nghe trong thánh lễ ban sáng chợt vọng về: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em”… (Mt 5, 38-39).

Sáng hôm sau, nhờ Lời Chúa tác động, ông B bàn với vợ con cứ đến lúc trời mới tờ mờ sáng thì kéo nhau ra vườn dưa ông A, không phải để phá hoại trả thù, nhưng là chăm sóc, tưới nước, xịt thuốc, bón phân cho cả vườn dưa. Chẳng bao lâu sau, vườn dưa của ông A trở nên xanh tốt không kém gì dưa nhà ông B.

Khi biết được việc làm cao đẹp của ông B, cả gia đình ông A hết sức hối hận vì việc làm của mình, rồi dắt nhau qua tận nhà ông B để tạ lỗi. Từ đó, hai gia đình kết nghĩa anh em, thề nguyền yêu thương gắn bó với nhau cho đến mãn đời.

Thế đó, Lời Chúa là giải pháp tuyệt vời cho các xung đột giữa đôi bên. Chính Chúa Giêsu, muốn các môn đệ của Ngài xưa cũng như nay phải sẵn sàng dập tắt ngay nơi bản thân mầm mống của bạo động: “Đừng chống cự người ác” (Mt 5,39). Hơn thế nữa, Ngài còn nhấn mạnh đến tinh thần mà người môn đệ phải có, đó là tinh thần tha thứ, tha thứ cho những xúc phạm của anh em đối với mình, như Chúa đã nêu gương từ trên Thập giá: “Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm” Lc 23,34). Như vậy, bao dung tha thứ không phải là thái độ của kẻ yếu, mà ngược lại đó là thái độ của kẻ mạnh, kẻ mạnh về tình yêu thương. Vì chỉ người nào có một tình yêu thương rất mạnh mới có khả năng chế ngự được khuynh hướng trả đũa vốn nằm sẵn trong lòng mình.

Phần chúng ta thì sao? Chúng ta thường xử sự với anh em mình theo luật nào? Luật của sự “ăn miếng trả miếng” hay luật tình yêu bao dung mà Đức Kitô đã dạy?

Nếu ta muốn trở nên môn đệ chân chính của Chúa Giêsu thì ta không thể sống khác hơn những gì mà Chúa Giêsu đã sống, đó là bao dung tha thứ luôn luôn. Amen.

 

28.             Hãy yêu kẻ thù

(Suy niệm của Lm Trầm Phúc)

Lời Chúa hôm nay nối tiếp đoạn trước, cũng trong viễn tượng kiện toàn Luật Chúa. Hôm nay, chúng ta suy nghĩ về một vấn đề trung tâm của đạo Công giáo: giới luật yêu thương.

Chúa Giêsu nói: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Mắt đền mắt, răng đền răng” tức là theo Luật cũ thì luật báo oán là luật cho phép người bị thiệt hại được quyền đền trả lại những thiệt hại của mình cân xứng theo thiệt hại người khác làm cho mình. Nhưng đối với Chúa Giêsu thì hoàn toàn khác: “Còn Thầy, Thầy bảo anh em: đừng chống lại người ác; ai vả má bên trái thì cho họ vả luôn má bên phải”, nghĩa là chịu đựng tất cả mọi thiệt hại mà không đòi báo oán. Chúa Giêsu đòi phải đi xa hơn nữa: “Ai muốn đoạt áo trong, cho cả áo choàng”, “ai xin thì cứ cho; ai muốn vay mượn thì đừng từ chối”. Đọc thấy những điều này, chúng ta có thấy ớn lạnh không? Chúng ta dám đi đến mức độ quảng đại như thế không? Không mấy người đâu, chỉ có các thánh như thánh Phaolô, Mẹ Têrêxa Calcutta, hay thánh Vinh Sơn đệ Phaolô… Nhưng nếu chúng ta dám, thì ít nhiều, chúng ta cũng có thể làm được. Chúng ta không làm một mình đâu, Chúa Giêsu vẫn kề cận chúng ta. Ngài sẽ giúp chúng ta dám làm khi chúng ta bắt đầu đi vào con đường Ngài đã vạch ra.

Chúa Giêsu còn đi xa hơn: “Anh em nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những người ngược đãi anh em”. Đây là chóp đỉnh của luật yêu thương. Rất nhiều người không hiểu được luật mới này. Theo thông thường, đa số chúng ta còn giữ theo Luật Môsê là ghét kẻ thù. Chúa Giêsu không như thế. Ngài đi đến tột đỉnh của tình yêu. Yêu kẻ thù. Nhiều người cứ nghĩ rằng, tôi không trả thù, tôi không gây hấn với kẻ thù, như thế là đủ lắm rồi. Như thế vẫn chưa đủ, phải yêu kẻ thù. Phải xem kẻ thù là anh em thực sự, như một người thân. Chúa bảo yêu thương kẻ thù chứ không chỉ là dửng dưng như một người nào đó. Đây mới là nét độc đáo của Kitô giáo. Chúa Giêsu đòi buộc đến mức độ đó. Chúng ta có làm được không? Điều này vượt quá sức tự nhiên của con người, nhưng phải can đảm thực hiện. Chúa Giêsu biết chúng ta yếu đuối Ngài không để chúng ta một mình, Ngài sẽ ban Thánh Thần để trợ giúp chúng ta cho đến khi chúng ta đủ can đảm thực hiện những gì Ngài dạy, miễn là chúng ta không buông trôi.

Chúa Giêsu cho chúng ta thấy tình yêu của Chúa Cha như gương mẫu. Người không phân biệt người tốt người xấu. Người cho mưa nắng trên người lành kẻ dữ vì mọi người là con của Người. Đó là mẫu gương chúng ta cần chiêm ngắm và noi theo. Thực ra, chúng ta không thể xem ai như kẻ thù. Người ta có thể thù ghét chúng ta, nhưng chúng ta không xem ai là kẻ thù cả. Mọi người đều là anh em cùng một Cha duy nhất. Nếu như thế thì chúng ta có thể thương mọi người kể cả những người thù ghét chúng ta. Sở dĩ người đời ghét chúng ta vì họ không biết Chúa Cha, như Chúa Giêsu đã nói.

Hiện nay, chúng ta thấy, người đời đang tìm hết mọi cách để làm suy giảm uy tín của Giáo hội nhờ vào những lỗi phạm của một số anh em chúng ta. Họ dùng tất cả mọi phương tiện có thể để làm lung lạc niềm tin của các tín hữu. Họ thổi phồng tất cả những sơ hở của một số người trong chúng ta, và chúng ta thấy tất cả sự hận thù của họ. Chúa Giêsu bảo chúng ta: cứ yêu thương, không sờn lòng. Đáp trả hận thù bằng tình thương, bằng lời cầu nguyện. Như thế, chúng ta mới thực sự là con của Cha trên trời.

Thường chúng ta hành động theo cảm tính. Thương những người thương chúng ta và đố kỵ với người ghét chúng ta. Chúng ta tách rời một giới răn duy nhất thành hai giới răn: yêu Chúa và yêu người là một. Khi tách rời như thế, chúng ta không thể yêu trọn vẹn. Chúa Giêsu không như thế. Người đời chỉ yêu thương những người thuộc về mình và loại trừ những người khác. Chúa Giêsu không bao giờ loại trừ ai. Chính Chúa nói rõ: “Như thế thì ai làm không được? Những người gian ác nhất cũng làm như thế. Vậy chúng ta hơn họ chỗ nào?

Chúa Giêsu đòi buộc chúng ta anh hùng. Người tín hữu phải anh hùng. Anh hùng không phải chỉ là làm những việc phi thường mà “yêu thương như Thầy đã yêu thương”.“Là chết cho bạn hữu”. Trong Giáo hội, những gương anh hùng như thế không thiếu: thánh Têphanô, các thánh tử đạo… và trên hết Chúa Giêsu là mẫu gương tuyệt hảo khi Ngài chịu treo trên thập giá: “Xin Cha tha cho họ vì họ không biết việc họ làm”. Nhìn vào Chúa, chúng ta nghĩ sao?

Chúng ta không bị treo trên thập giá như Chúa, nhưng hằng ngày, sống kề cận với những người khác, lắm khi chúng ta bị hà hiếp, bị bất công, bị chà đạp, chúng ta dám yêu thương những người đó không? Yêu thương và tha thứ thực sự, và làm ơn cho họ khi cần? Nếu người Công giáo dám yêu thương như Chúa yêu thì chúng ta chinh phục thế giới, nhưng tiếc thay, không mấy người trong chúng ta biết yêu thương thành thật. Chúng ta đang sống trong một xã hội đầy dẫy hận thù, ghen ghét, tàn bạo, chúng ta bị lây nhiễm bởi bầu không khí quanh chúng ta, và chúng ta phản ứng như người không biết Cha trên trời.

“Yêu thương như Thầy đã yêu thương”. Đó là đòi buộc gắt gao nhưng lại là điều kiện để chúng ta hạnh phúc và làm cho mọi người quanh ta hạnh phúc. Thế giới đang khao khát tình thương, con người hôm nay đang oi ngợp trong một đại dương hận thù. Chiến tranh, khủng bố, bạo lực đủ mọi thứ đang bao trùm thế giới, người ta đang mong ước hòa bình, nhưng không thể có hòa bình nếu Chúa vắng bóng trong cuộc sống. Thiên Chúa là tình yêu. Nếu vắng bóng Tình Yêu thì hậu quả là con người sẽ tiêu diệt lẫn nhau thôi. Chúng ta đang chứng kiến một cách rõ ràng điều đó. Chúng ta dám yêu thương không? Hay chúng ta cũng chỉ đứng nhìn và sống chết mặc ai? Chúng ta đang đứng trước một chọn lựa nghiêm trọng: yêu thương hay hận thù? Chúng ta dám chọn yêu thương không? Có lẽ chúng ta không hận thù ai, nhưng yêu thương như Chúa yêu thì còn xa! Vì thế, phải luôn cố gắng, và không ngừng cố gắng để tình yêu của chúng ta trở thành dấu chỉ rõ ràng của tình yêu Chúa. Chúng ta không thể dừng lại trong một mức độ nào đó mà càng ngày càng tiến triển hơn trong tình yêu. Tình yêu tự nhiên còn đòi hỏi hôm nay hơn ngày hôm qua, thì tình yêu Chúa đòi buộc càng phải hơn như thế.

Thánh Phaolô không dạy khác hơn. Chúng ta đọc lại bài ca đức mến của ngài: “Đức mến tha thứ tất cả, tin  tưởng tất cả, chịu đựng tất cả”…”không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không nóng giận, không tìm tư lợi, không nuôi hận thù…”

Hãy nhìn vào khuôn mặt đầy yêu thương của Chúa Giêsu, “Đấng đã yêu chúng ta và đã liều mạng cho chúng ta”, chúng ta sẽ thấy hăng hái hơn, vững tin hơn, và cuộc sống chúng ta sẽ sung mãn hơn.

Hôm nay, bàn tiệc yêu thương vẫn chờ đợi chúng ta. Chúa Giêsu Tình Yêu vẫn đến với chúng ta với tất cả tình yêu của Ngài. Ngài đến nuôi dưỡng tình yêu của chúng ta bằng chính tình yêu của Ngài. Ăn lấy Ngài để cùng với Ngài, yêu thương anh em, kể cả những người thù ghét chúng ta. Chúng ta mới đủ can đảm yêu thương đến tận cùng như Ngài.

 

29.             Hãy nên trọn lành như Cha trên trời

(Suy niệm của Lm. Louis Gonzaga Đặng Quang Tiến)

Sang phần hai của đoạn chính 5,21-48, Chúa Giêsu chuyển sang nói về cách hành xử của bản thân người môn đệ, đặc biệt đối với những người chống lại mình/kẻ thù: – Đừng thề (5,33-37), – Đừng chống lại người ác (5,38-42), – Yêu thương kẻ thù (5,43-48).

Đừng chống lại người ác (5,38-42)

Câu mở đầu (c. 38) hoàn toàn giống với 5,43, và giáo huấn của Chúa Giêsu ở dạng phủ định giống với câu ở phần trước: + động từ nguyên mẫu (c. 34). Các câu giải thích (cc. 39b-42) gồm hai phần đối xứng nhau với hai thí dụ cụ thể ở mỗi bên.

Luật Cựu ước “mắt đền mắt và răng đền răng” (Xh 21,24, Lv 24,20; Đnl 19,21) nhằm hạn chế việc đổ máu do không kiềm chế nỗi sự hận thù. Lamech hãnh diện với vợ mình “Nếu Cain trả thù bảy lần, Lamech trả thù bảy mươi lần” (Kh 4,23-24). Luật nầy đòi hỏi trách nhiệm trong việc gây thiệt hại, và giữ sự quân bình giữa tội ác và hình phạt. Trong Tân ước còn tìm thấy cách diễn tả tương tự với luật nầy (Mc 8,38, 1Cr 3,17).

Chúa Giêsu cấm sự đánh trả người làm điều ác: “Đừng chống trả người ác” (c. 39). Động từ anthistèmi, “chống lại”, hàm ý sự thiệt hại do người ác gây nên. Người ác, ponèros, tương đương với kẻ thù, echthros, với người bắt bớ, làm sỉ nhục (x. 5,11). “Không chống lại người ác” nghĩa là không để mình bị vướng vào vòng lẩn quẩn của sự ác: bạo lực sinh ra bạo lực; một cái răng của mình bị mất đi phải đòi lại một cái răng của người khác. Mức độ đầu tiên là bất bạo động: “Khi Ngài bị sỉ nhục, Ngài không sỉ nhục lại” (1Pr 2,23). Mức độ kế tiếp cao hơn sẽ là yêu mến người làm điều ác (5,44-45; 1 Thess 5,15). Chúa Giêsu đưa ra bốn minh họa về sự bất bạo động:

– Bị đánh vào má (c. 39b), rhapizò, là hành vi hạ nhục và khinh dễ hơn là làm cho đau về mặt thể lý. Việc đưa cả hai má phải và trái cho người ác chỉ việc hoàn toàn không chống trả và sẵn sàng chịu mọi sự sỉ nhục không do lỗi mình; người tôi tớ trong Isaia cũng đã làm như thế, “Tôi đã không che mặt” (Is 5,5-6; x. Gióp 16,10). Chúa Giêsu đã bị đánh vào má trước mặt các thượng tế và Công nghị vì Ngài bị cho là phạm thượng; do đó đáng phải chết (26,67).

– Bị đoạt áo (c. 40): bối cảnh của đoạn nầy là việc thưa kiện ở toà án để đoạt lấy áo, “muốn kiện”, theolonti krithènai (c. 40; x. 18,30). Người bị kiện là một người nghèo tận cùng. Người nầy phải vay nợ để sống và không có gì để trả nợ. Chủ nợ chỉ có thể lấy áo trong, chitòn để trừ nợ, chứ không được lấy áo ngoài, mặc dù áo ngoài có giá trị hơn (x. Mc 13,16). Theo luật pháp thời ấy, chủ nợ không được cầm giữ áo ngoài như vật thế chấp, và nếu có lấy áo ngoài thì buộc phải trả lại áo cho người nghèo trước khi mặt trời lặn, vì áo ngoài/áo choàng dùng để làm chăn đắp ban đêm (Xh 22,25-27; Đnl 24,12-13). Đứng trước người không có lòng xót thương, người nghèo có thể bị lột trần trước mặt mọi người. Ngay cả khi bị như thế, Chúa Giêsu dạy đưa luôn áo ngoài cho họ. Chúa Giêsu đã bị lột áo, cả áo trong (Ga 19,23) lẫn áo ngoài (27,31.35), và nên trần truồng hoàn toàn trên thập giá.

– Bị ép phục dịch (c. 41): động từ angareuò, “bắt ép”, mượn từ tiếng Persian. Angaroi là những người đưa thư. Những người nầy đứng tại các trạm ở các địa phương do vua xứ Persian chỉ định. Họ sẵn sàng với con ngựa để chuyển thư từ trạm nầy qua trạm kia để chuyển thư thật nhanh đến đích. Ở đây từ angareuò nầy chỉ sự ép buộc đi một hành trình, mang một vật nặng hay làm một việc phục dịch nào đó do quân đội hay các viên chức trên một hay nhiều người, như trường hợp Simôn người Xirênê bị quân lính Rôma ép vác thánh giá với Chúa Giêsu (27:32).

– Cho và vay mượn (c. 42): Câu nầy vẫn còn nằm trong văn mạch của mệnh lệnh: “Đừng chống lại người ác” (c. 39a), và người môn đệ vẫn còn là nạn nhân của bạo lực hay bất công. Theo cấu trúc, câu nầy đối xứng và song song với câu 40a: + phân từ + ngươi + động từ. Động từ “muốn + vay mượn”, thelò, trong câu nầy mang ý nghĩa tương tự như trong câu 42 là muốn vay mượn tài sản của anh em trong đó hàm ý việc đoạt lấy; so sánh câu nầy với câu song song trong Lc 6,30: “Tất cả ai xin, hãy cho, và kẻ đoạt của ngươi, ngươi chớ đòi lại”. Hơn nữa, câu nầy liên kết với đoạn theo sau 5,43-48 bởi từ ponèros, “người xấu” (cc. 39,45), trong đó nói về việc yêu thương kẻ thù. Đây là minh họa đi trước cho việc yêu thương kẻ thù.

Việc giúp đỡ và cho vay mượn được nói rất nhiều đến trong Cựu ước, mà đối tượng nhắm đến thường là người nghèo (Xh 22,25; Lc 25,36-37; Đnl 15,2-6). Ở đây Chúa Giêsu đưa ra một nguyên tắc tổng quát và không phân biệt người được cho và cho vay: “Ai xin, ngươi hãy cho. Ai muốn vay, ngươi chớ khước từ” (c. 42; x. 5.45), trong đó bao hàm cả người ác/xấu.

Vậy qua đoạn 5,38-42 Chúa Giêsu muốn chúng ta giữ mình tự do khỏi mọi hình thức bạo lực. Quyền xét xử và báo oán là của Thiên Chúa (Rm 12:19-21). Phần người môn đệ của Chúa là “không lấy oán báo oán, mà theo đuổi điều thiện cho nhau và cho mọi người” (1 Thess 5:15).

“Yêu thương kẻ thù” (cc. 43-48)

Sự công chính của người môn đệ được thể hiện ở mức tối đa là yêu thương kẻ thù. Hành vi yêu thương nầy làm họ nên giống Cha trên trời là Đấng trọn lành (5:48) và là Đấng công chính (6:33), và cũng làm cho họ trổi vượt hơn các kinh sư và người Pharisêô về sự công chính (5:20). Đoạn nầy có cấu trúc giống như các đoạn trước, và thêm lời kết luận cho toàn phần 5:21-48. Từ ngữ chính trong đoạn nầy là agapaò, “yêu thương” (cc. 43.44.46[2x]) và echthros, “kẻ thù” (cc. 43.44).

Cựu ước nói cách rõ ràng việc yêu thương người lân cận. Người lân cận được định nghĩa là người đồng hương Israel, mặc dù cũng có thể nới rộng định nghĩa nầy ra cho người ngoại quốc đến ngụ cư (Lv 19:18, 33-34; Đnl 10:18-19). Trái lại, không thấy Kinh Thánh nói cách hiển nhiên việc ghét kẻ thù, mặc dù có thể suy diễn từ một số đoạn (x. Đnl 7:2; 20:13–18; 25:17–19; Tv 137:8–9; 139:19–22). Đối lại với câu chủ đề gồm hai mệnh đề, Chúa Giêsu cũng đưa ra một câu gồm hai mệnh đề: “Hãy yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho người bắt bớ các con” (c. 44). Hai mệnh lệnh đều ở ngôi thứ hai số nhiều và thì hiện tại, chỉ sự áp dụng chung cho các môn đệ của Chúa Giêsu và cho mọi thời.

“Kẻ thù” theo mạch văn là người bắt bớ (c. 44b), người xấu (c. 45). Họ sỉ nhục, vu khống, đặt điều nói xấu đủ điều các môn đệ (x. 5:10-11), họ làm những điều bất công (x. 5:38-42); do đó việc ghét kẻ thù là điều thường tình đối với người đời. Trái lại Chúa Giêsu dạy phải yêu thương kẻ thù theo mẫu gương của Cha trên trời. Ngài “cho mặt trời mọc lên trên kẻ dữ lẫn người lành” (c. 45; x. 22:10). Ngài làm điều tốt cho cả hai mà không phân biệt (x. Rm 212:20-21). Matthêô dùng từ ponèros, “người xấu” thay vì echthros, “kẻ thù”, trong câu liên quan đến Thiên Chúa, vì “kẻ thù” thật sự của Thiên Chúa là ma quỉ; chắc chắn là Ngài không “cho mặt trời mọc lên” trên kẻ thù nầy, mà đặt nó dưới bệ chân Ngài (13:25tt, 22:44).

Trước khi đi đến kết luận, Chúa Giêsu đưa ra hai minh hoạ về cách yêu thương mà người môn đệ không nên noi theo, “Nếu chỉ yêu thương…”, “Nếu chỉ chào hỏi…” (cc. 46-47), bằng không họ sẽ không công chính hơn người thu thuế và dân ngoại chút nào cả. Tính từ so sánh “hơn”, perisson, ở đây đóng khung đoạn 5:21-48, và liên quan đến sự công chính của các môn đệ (c. 20). Vậy ai hành động như Thiên Chúa thì sẽ nên con cái của Ngài, và con cái của Ngài phải là người xây dựng hoà bình, chứ không lấy ác báo ác (5:9).

“Nên trọn lành như Cha trên trời” (c. 48)

Từ quan trọng của câu kết luận là teleios, “trọn lành”, nghĩa là đi đến cùng và không còn thiếu gì cần thiết nữa. Matthêô dùng 3 lần từ nầy và qui chiếu về Thiên Chúa. Trong 19,21, sự trọn lành mà Chúa Giêsu chỉ cho người thanh niên là tuân giữ lề luật Chúa, từ bỏ của cải và theo Chúa. Trong câu 5,48 sự trọn lành trước tiên quy chiếu về lề luật đã được Chúa Giêsu làm trọn (5,21-48), và cũng qui chiếu về Chúa Cha: “như Cha…” (c. 48b). Liên từ “như”, hòs, chỉ phẩm tính thuộc về Thiên Chúa. Vậy việc “nên trọn lành như Cha trên trời” được đặt trong tương quan Cha – con, “Cha trên trời” (c. 48) – “con cái Cha trên trời” (c. 45): sự trọn lành của con cái bắt nguồn từ sự trọn lành của Cha và có cùng phẩm tính là yêu thương, và tình yêu của Cha thể hiện qua việc “cho mặt trời mọc lên trên kẻ dữ và người lành” để nêu gương, thì con cái cũng bắt chước gương Cha mà làm như vậy: làm điều tốt cho người khác vì yêu thương.

Chúa Giêsu đến để kiện toàn mọi lề luật. Ngài đã dạy cho các môn đệ một cách cư xử mới trong tương quan với người bất hòa, phụ nữ, bản thân, người làm ác và kẻ thù. Cao điểm của cách cư xử nầy là làm điều tốt và yêu thương họ như Cha trên trời và cũng như Chúa Giêsu. Đó là con đường trọn lành mới mà Ngài muốn con người bước vào.

 

30.             Giơ má kia ra  chăng?

Đây là một thí dụ điển hình để kiểm chứng bài giảng trên núi về chữ nghĩa và tinh thần. Đâu là tinh thần  của câu “Hãy giơ má kia ra” là câu làm bất cứ ai cũng nhăn mặt?

Khi chính mình bị một cái tát trong cuộc khổ nạn, Chúa Giêsu đã chẳng giơ má kia ra. Ngài đã đặt kẻ vũ phu đứng trước hành vi của mình: “Nếu ta nói sai, hãy chứng minh điều sai đó: nếu ta nói phải, tại sao lại đánh ta?” (Ga 18,23).

Điều sai lầm đó cứ lao theo từ ngữ như con bò mộng lao vào cái khăn nhử: “Tôi mà giơ má ra à? Để tạo điều kiện cho bạo lực sao?” Đúng ra là Chúa Giêsu muốn điều ngược lại. Khi Ngài nói: “Ngươi đừng đánh trả kẻ dữ dằn”, thì Ngài đã chỉ đích danh, và chúng ta biết phải làm gì đối với một kẻ dữ dằn rồi. nhưng đó là một cái gì vượt xa trên kẻ dữ dằn này cũng như trên cái má rát bỏng của chúng ta. Dưới cái hình ảnh gây ấn tượng này (giơ má kia ra!) ẩn giấu một kế hoạch phi thường: ngăn chận bạo lực gia tăng.

Con ngưới chấp nhận bạo lực như là một dữ kiện không thể bàn cãi vào đâu được. Đánh trả và báo thù dường như là điều tự nhiên, mọi người đều như thế, ngay cả những Kitô hữu tốt cũng vậy. Nếu chúng ta muốn đo lường sự đảo ngược to lớn mà Chúa Giêsu đưa ra, chúng ta hãy mở Kinh Thánh ra, Sáng Thế Ký 4,24: “Lameck sẽ bị báo thù 77 lần!”. Và chúng ta hãy đặt mình vào địa vị của Phêrô khi được trả lời rằng: “Ngươi hãy tha thứ bảy mươi lần bảy” (Mt 18,22).

Có thể tỏ ra hoàn toàn vô lý, sự đảo ngược này bắt đầu xảy ra thực sự ngay khi chúng ta có can đảm nói không đối với bạo lực của chính chúng ta. Không phải bạo lực của người khác, mà là bạo lực của chúng ta. Khi lái xe, khi làm việc, khi  coi truyền hình chúng ta muốn la lên: “Đồ thối tha! Quân sát nhân!” (và con cái có thể nghe được).

– Ngươi hãy im đi, hãy bình tĩnh, đừng đánh trả những người hung dữ, Chúa Giêsu nói.

– Chúa muốn chúng con để cho tất cả những người gàn dở, tất cả những kẻ bạo hành tha hồ hành động hay sao?

Tin Mừng không đơn giản chút nào cả. Sau đây là một câu chuyện đã xảy đến với tôi. Tôi đã chứng kiến hai tên vô lại đi xe máy làm một bà già bị thương nặng khi kéo lê bà ta dưới đất để giật túi xách. Một nỗi oán ghét dâng lên trong lòng tôi. Khi hai cảnh sát đến tôi nghĩ họ phải bắt hai tên đó, tẩn chúng cho tới chết để dạy cho chúng một bài học!

Điều đó chẳng dạy cho chúng một bài học nào cả. Bạo lực không bao giờ dạy cho ai một bài học nào cả. Nó  chỉ có kêu gọi thêm bạo lực mà thôi. Tôi đã thấy rõ điều đó chung quanh bà già bị thương tội nghiệp. Chúng ta sẽ nhìn tất cả các thanh niên đi xe máy bằng con mắt thành kiến.

Thánh Phaolô đã đào sâu vấn đề này: “Đừng để mình thua điều ác” (Rm 12,17). Đừng để cho ai cả, từ cậu bé vô lại cho tới tên đồ tể, có khả năng biến đổi bạn thành một  con người đầy căm thù. Nếu không, bạn sẽ thua điều ác.

Chúng ta không lúc nào cũng có thể hoàn toàn tự kiềm chế trước một kẻ tàn ác hoặc xảo trá. Nhưng chúng ta có thể chống lại làn sóng bạo lực ở trong ta, chống lại những lời nói và những cử chỉ bạo lực. Chúng ta có thể không cố gắng làm cho sự tự vệ và sự tức giận chính đáng biến thành bạo lực lớn và mù quáng hơn, biến thành sự khinh bỉ, biến thành ước muốn và hành vi báo thù thuần tuý.

Nơi nào một Kitô hữu ngăn chận được việc lan truyền bạo lực bằng cách từ chối làm một mắt xích của chuỗi sự ác, thì nơi đó một thế giới mới sinh ra.

 

31.             Lấy khoan dung đáp trả hận thù

(Suy niệm của Lm. Inhaxiô Trần Ngà)

 

Qua Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su đề xuất một giải pháp tối ưu để dập tắt bạo lực và hận thù trong đời sống con người. Đó là: “Đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra luôn” (Mt 5, 39).

 

Trước lời dạy nầy, những người nông nổi cho rằng làm như thế là nhu nhược, hèn nhát, yếu đuối… Thế mà một nhân vật lịch sử vĩ đại là Mahatma Gandhi, người anh hùng của dân tộc Ấn Độ, người lãnh đạo cuộc đấu tranh giành độc lập cho nhân dân Ấn, đã áp dụng lời dạy khôn ngoan này của Chúa Giê-su vào công cuộc đấu tranh bất bạo động của mình, nhờ đó, ông đã giành lại độc lập cho dân tộc Ấn khỏi ách thống trị của thực dân Anh cách êm thắm, nhẹ nhàng. [1]

 

Ngoài ra, lời dạy tiếp theo của Chúa Giê-su “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” cũng làm cho nhiều người cho là không tưởng, không mấy ai làm được.

 

Vậy mà Martin Luther King, nhà lãnh đạo tài ba của phong trào chống kỳ thị chủng tộc tại Mỹ, lại chọn lời khuyên quý báu này làm kim chỉ nam cho cuộc đấu tranh đòi quyền bình đẳng cho người Mỹ da đen và đã đạt được thắng lợi vẻ vang.

 

Martin Luther King sinh năm 1929 là một mục sư người Mỹ gốc Phi.

 

Chính vì đứng lên đòi quyền bình đẳng cho người Mỹ da đen trước sự kỳ thị của người da trắng, nên vào ngày 30 tháng 1 năm 1956, nhà riêng của King bị người da trắng đánh bom. Thế là những người ủng hộ King giận dữ tụ tập đông đảo trên con đường trước nhà ông. Họ tự vũ trang với dao, súng, gậy gộc, gạch đá và chai lọ… với quyết tâm báo thù. Trước bầu khí hừng hực đòi trả thù báo oán của những người da đen ủng hộ mình, King lên tiếng nói với họ: “Xin các bạn đừng hốt hoảng, đừng làm bất kỳ điều gì trong giận dữ! Ai đang mang vũ khí, xin hãy đem về! Ai không có vũ khí, xin đừng sử dụng chúng. Chúng ta không thể giải quyết vấn nạn này bằng những vụ bạo động, trả đũa… Chúng ta phải yêu thương những người anh em da trắng bất kể họ đã làm gì đối với chúng ta. Chúng ta phải hành động để họ biết rằng chúng ta yêu họ. Giáo huấn của Chúa Giê-su vẫn còn vang vọng đến hôm nay: “Hãy yêu thương kẻ thù, hãy chúc phúc cho kẻ rủa mình và cầu nguyện cho kẻ sỉ nhục mình.” Đó là điều chúng ta phải làm. Chúng ta phải lấy tình yêu mà đáp trả lòng thù hận” (Lu-ca 6, 27,28).

 

Thế là nhờ thực hành lời Chúa Giê-su dạy hãy lấy tình thương đáp trả hận thù, Martin Luther King đã đạt thắng lợi vẻ vang trong công cuộc đòi bình đẳng cho người da đen bị người da trắng áp bức bất công và đạt được thành công cách êm thắm.

 

Búa tạ giáng vào đá có thể làm cho đá cứng vỡ tan, giáng vào tường có thể làm cho tường sụp đổ nhưng giáng vào nước thì không thể làm cho nước hư hao, giáng vào bức màn, không thể làm cho màn rách nát. Sự hung bạo cứng rắn của búa không thắng được sự mềm mại của nước, không thắng được sự dịu dàng của bức màn.

 

Bão tố, cuồng phong có thể quật ngã những cây cổ thụ cao lớn nhưng không thể bẻ gãy loài lau sậy yếu mềm. Vậy thì chúng ta cũng hãy lấy sự dịu hiền, mềm mại và lòng bao dung để chiến thắng những tấn công thô bạo,  hung hãn của người khác. Nghệ thuật nhu thắng cương là thế.

Lạy Chúa Giê-su,

Nếu chúng con dùng bạo động và hận thù để đáp trả bạo động hận thù, thì bạo động và hận thù sẽ dâng cao; trái lại, nếu chúng con dùng sự khoan dung, tha thứ mà đáp trả… thì bạo động và hận thù sẽ bị dập tắt.

 

Xin cho chúng con ghi khắc quy luật ngàn vàng này vào tâm khảm và đem ra áp dụng trong cuộc sống hằng ngày, nhờ đó, chúng con sẽ tránh được nhiều đau thương đổ vỡ trong đời sống và cuộc đời sẽ chan hòa hoan lạc và niềm vui.

————————

[1] https://vi.wikipedia.org/wiki/Mahatma Gandhi, mục: Tôn giáo)

 

32.             Lòng bao dung – Lm. Ignatiô Trần Ngà

Trả thù, báo oán là cách ứng xử man rợ, thiếu đạo đức.

Luật trả thù báo oán kiểu “mắt đền mắt, răng đền răng” là thứ luật đã lỗi thời, không còn thích hợp nữa, thế mà ngày nay không ít người vẫn muốn cư xử với nhau theo thứ luật rừng man rợ đó. Ai móc mắt tôi, tôi móc mắt người đó. Ai đánh gảy răng tôi, tôi đánh gảy răng người đó…”

Trước hết, đây là cách ứng xử thông thường của loài vật, như gà chọi chẳng hạn: Con nầy đá qua, con kia mổ lại, đấu đá nhau cho đến khi cả hai đều gục xuống, kiệt sức, mình mẩy đầy máu me!

Đây cũng là phản ứng tự nhiên của những con trâu điên, của những con chó dại: Trâu nầy húc qua, trâu kia báng lại cho đến khi cả hai không còn hơi sức.

Những cách ứng xử như trên là man rợ, rừng rú, chỉ thích hợp cho một số loài động vật hung hãn. Là người, chúng ta không thể sống theo bản năng hạ cấp mang đầy thú tính như vậy.

Nhiều cuộc xung đột trên thế giới được giải quyết theo kiểu “mắt đổi mắt răng đền răng”, tức giải quyết bằng chiến tranh, trả thù, báo oán và đã đưa đến hậu quả vô cùng bi đát. Lịch sử chiến tranh giữa các dân tộc qua bao thời đã cho thấy điều đó.

Bao dung tha thứ cho kẻ thù là thượng sách.

Qua trích đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su muốn nâng nền luân lý nhân loại lên một tầm cao mới. Người đề xuất một giải pháp tối ưu cho mọi tranh chấp xung đột giữa người với người, đó là: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” và “Đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa” (Mt 5, 39.44)  Trước lời dạy nầy, những người nông nổi cho là nhu nhược, là hèn nhát, là yếu đuối; chỉ những ai khôn ngoan sâu sắc mới nhận thấy đây là giải pháp tối ưu để giải quyết mọi xung đột và đem lại an hòa.

Khi người ta quai búa tạ vào tảng đá cứng, đá sẽ dùng sự cứng rắn của mình để kháng cự lại búa, hậu quả là đá sẽ nứt vỡ ra, bị nghiền tán ra. Đá bị thất bại hoàn toàn! Nhưng khi người ta quai búa giáng mạnh xuống hồ nước, nước sẽ dùng sự mềm mại của mình để vô hiệu hoá sức mạnh của búa. Nước không hề hấn gì nhưng búa thì sẽ bị chìm lĩm xuống tận đáy hồ. Thế là nước thắng lợi vẻ vang!

Khi gặp bão táp cuồng phong, những cây cổ thụ cao lớn cứng cáp dùng sự cứng rắn mạnh mẽ của mình để kháng cự lại bão tố. Hậu quả là chúng bị gảy cành, trốc gốc. Trong khi đó, những rặng tre, những cây lau sậy không hề kháng cự lại bão tố, nhưng dùng sự mềm dẻo của mình để uốn theo chiều gió nên chúng được an toàn.

Hiểu được quy luật đó nên Lão tử đã dạy môn sinh từ mấy ngàn năm trước: “nhu thắng cương, nhược thắng cường.” Vị sư tổ của môn phái Judo cũng đã dựa vào quy luật nầy để sáng lập nên môn phái Judo (nhu đạo), một môn võ thuật lấy mềm dẻo chiến thắng hung bạo cứng rắn.

Thay phần kết luận:

Gia đình ông A và ông B sống gần nhau và cùng trồng dưa trên hai lô đất kế cận. Gia đình ông A đam mê rượu chè, bài bạc, không chăm sóc vườn dưa nên vườn dưa xơ xác, không thu hoạch được gì. Trong khi đó, gia đình ông B chăm sóc vườn dưa chu đáo nên được bội thu, tiền vào như nước, sắm sửa được nhiều thứ trong nhà. Nổi máu ghen tị, ông A xúi con qua phá hoại vườn dưa của ông B, vừa hái trái ăn vừa nhổ cây, gây thiệt hại nặng nề cho gia đình ông B.

Trước sự gây hấn đó, gia đình ông B giận sôi gan, chuẩn bị mài dao mài rựa tìm cách báo thù. Buổi tối trước khi ra tay hành động, ông B nằm suy nghĩ miên man và may thay, câu Lời Chúa ông vừa nghe trong thánh lễ ban sáng chợt vọng về: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em”… “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Mắt đền mắt, răng đền răng. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa.” (Mt 5, 44. 38-39).

Sáng hôm sau, nhờ Lời Chúa tác động, ông B bàn với vợ con cứ đến lúc trời mới tờ mờ sáng thì kéo nhau ra vườn dưa ông A, không phải để phá hoại trả thù, nhưng là chăm sóc, tưới nước, xịt thuốc, bón phân cho cả vườn dưa. Chẳng bao lâu sau, vườn dưa của ông A trở nên xanh tốt không kém gì dưa nhà ông B.

Khi biết được việc làm cao đẹp của ông B, cả gia đình ông A hết sức hối hận vì việc làm của mình, rồi dắt nhau qua tận nhà ông B để tạ lỗi. Từ đó, hai gia đình kết nghĩa anh em, thề nguyền yêu thương gắn bó với nhau cho đến mãn đời.

Thế đó, Lời Chúa là giải pháp tuyệt vời cho các xung đột giữa đôi bên.

 

33.             Tha thứ – Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Trong thời kỳ đầu của Phong Trào Nhân Quyền tại Montgomery, Alabama, đây là điểm sáng đích thật. Những người da đen tẩy chay dịch vụ xe búyt của thành phố, bởi vì có sự kỳ thị chủng tộc. Những người da trắng đã đáp lại bằng cách cho nổ bom những khu nhà của người da đen. Bầu khí sự thù hận bao trùm một cách nặng nề và căng thẳng. Mục sư Martin Luther King, Jr., đã giảng cho cộng đoàn người da đen trong khu phố của ông rằng sự hòa bình và sự tha thứ nằm trong tay của họ. Mục sư tiếp tục trình bầy: Hành động qúi báu của sự tha thứ luôn luôn được bắt đầu với những người bị lầm lạc.

Lời mời gọi sống phúc âm giữa đời là một thách thức đòi hỏi sự thắng vượt chính mình. Từ thời xa xưa, những lời dạy bảo về đức yêu thương và tha thứ đã được ghi chép trong sách Luật: Đừng giữ lòng thù ghét anh em, nhưng hãy răn bảo họ công khai, để khỏi mang tội vì họ. (Lev 19, 17). Chữ ‘đừng’đã được tác giả sách Lêvi dùng để khuyên răn đồng loại là ngưng theo đuổi sự dữ. Vì sự dữ sẽ sinh ra sự dữ. Sự báo qua oán lại sẽ không bao giờ được kết thúc. Chúng ta không thể dùng sự báo thù để tìm đạt sự công bình. Nếu chúng ta trả thù qua lại lẫn nhau mãi, thì chúng ta cũng chẳng khác gì cách cư xử của dân ngoại, họ không nhìn biết Thiên Chúa nhân lành. Trong kinh nghiệm sống đời, ai trong chúng ta cũng có lúc cảm thấy bực mình vì sự phản bội, đặt điều nói xấu, ngang trái và gây hại. Thái độ thù ghét là những phản ứng rất tự nhiên của lòng người. Nhưng sách Lêvi khuyên dậy chúng ta là đừng giữ lòng thù ghét nhưng hãy tha thứ và công khai răn bảo.

Đừng tìm báo oán là điểm son trong đời sống đạo: Đừng tìm báo oán, đừng nhớ lại lời mắng nhiếc của kẻ đồng hương. Hãy yêu thương các bạn hữu như chính mình. Ta là Chúa (Lev 19, 18). Đừng báo oán, không phải vì chúng ta sợ hãi, nhát đảm, yếu nhược hay bị áp chế, nhưng đây là một thái độ thực hành đạo bác ái yêu thương. Sự nhún nhường là một thái độ bao dung và tự chủ. Người ta vẫn thường nói rằng: Thắng mình khó hơn thắng vạn quân. Không phải ai cũng có thể dễ dàng thắng được sự ghen tuông, thù óan và bất công. Chịu nhường một bước để thắng hai bước, đó là thắng chính mình và thắng người khác. Biết tự kiềm hãm và làm chủ ý chí của mình là một trong những thành công trong việc đối nhân xử thế. Vì chúng ta biết rằng thái độ nóng nảy và giận dữ bốc đồng sẽ gây thiệt hại nhân cách và đổ vỡ tương giao. Tự ái vặt là đầu mối của nhiều phiền thức trong giao tế nhân sự và phá đổ các mối liên hệ.

Chúa Giêsu đã rao giảng tin mừng giải thoát vượt trên mọi lẽ thường tình: Còn Thầy, Thầy bảo các con: Đừng chống cự với kẻ hung ác, trái lại, nếu ai vả má bên phải của con, thì hãy đưa má bên kia cho nó nữa (Mt 5, 39). Sống theo lời Chúa, xem ra chúng ta sẽ bị thua thiệt nhiều. Chính Chúa Giêsu đã nêu gương chọn đi vào con đường khiêm hạ này. Một Thiên Chúa có uy quyền trên mọi loài đã cúi đầu chấp nhận mọi xỉ vả của con người. Chúng ta không thể nào hiểu thấu mầu nhiệm của sự đau khổ mà Chúa đã chịu. Nhẫn nhục chịu đựng để thắng vượt những bất công cần có sức mạnh nội tâm nhiệt thành. Trong đời sống thường ngày, chúng ta va chạm biết bao những thứ bực mình chung quanh qua lời nói và cách thế hành xử của những người khác. Cần phải biết kiên nhẫn cư xử và thắng vượt.

Một trải nghiệm gần gũi nhất là làm sao có thể đối xử tốt với các thành viên trong gia đình. Thí dụ: Chỉ cần một lời nói thiếu tế nhị, một thái độ ơ hờ và một tranh luận nhỏ nhoi cũng có thể gây nên sự. Người nói qua, kẻ nói lại chẳng ai chịu ai sẽ dễ gây bất hòa. Đôi khi có những câu truyện vô cớ cũng làm ảnh hưởng tới bầu khí êm ấm của gia đình. Thật là không đáng! Chúa Giêsu khuyên chúng ta đừng chống cự với kẻ hung ác. Vậy những người vợ và người chồng hiền lương và những thành viên nhiệt tình trong gia đình, nhóm hội hay một cộng đoàn giáo xứ, có đáng để chúng ta phải chống cự lẫn nhau hay không? Ca dao tục ngữ dạy: Lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau. Đừng bao giờ dùng những lời nói cộc cằn, thô lỗ và tục tĩu đối với tha nhân, nhất là những người trong gia đình thân tộc. Lời nói như con dao hai lưỡi, có thể xây dựng hòa bình và cũng có thể gây chiến tranh. Chúng ta biết chiến tranh bao giờ cũng gây thiệt hại và chỉ phá đổ.

Chúa Giêsu mở con đường yêu thương ngược dòng: Còn Thầy, Thầy bảo các con: Các con hãy yêu thương thù địch các con, hãy làm lành cho những kẻ ghét các con và cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ và vu khống cho các con (Mt 5, 44). Lời của Chúa không chỉ để suy gẫm và chiêm ngắm, nhưng phải đem ra thực hành trong đời sống. Đây là một thách thức cam go, vì nó đi ngược với bản năng tự nhiên của con người. Trong tâm lòng của con người có thất tình: Hỉ, nộ, ai, cụ, ái, ố và dục. Gieo hạt giống nào, chúng ta sẽ được gặt qủa đó. Nếu chúng ta gieo sự yêu thương tha thứ, chúng ta sẽ gặt được hoa trái an lạc và bình yên. Nếu chúng ta gieo hạt giận dữ và thù hằn, tim chúng ta sẽ cháy lửa cuồng si. Để thực hành các nhân đức, chúng ta hãy vun tưới những hạt giống yêu thương, bác ái, từ bi và khoan dung độ lượng. Con đường nhẫn nhục và tha thứ là con đường giải thoát. Tha thứ bỏ qua là cắt đứt giây xích của sự báo thù. Giải thoát chúng ta khỏi những ràng buộc của sự ăn miếng trả miếng. Tâm hồn chúng ta sẽ được tự do vui hưởng sự an vui tự tại.

Thánh Phaolô cảnh tỉnh: Đừng có ai lừa dối mình. Nếu có ai trong anh em cho mình là người khôn ngoan ở đời này, thì kẻ ấy nên điên dại để được khôn ngoan (1Cor 3, 18). Thiên Chúa trao ban cho mỗi người một khả năng riêng biệt. Mỗi người đều có những khả năng để hỗ tương làm giầu cho cuộc sống chung xã hội. Ân huệ giống như các ly chứa có dung tích khác nhau. Người nhiều kẻ ít, ai cũng có một số vốn cần được sinh lợi. Mỗi người chúng ta đều có khả năng chuyên môn để phát triển. Những khả năng tiềm ẩn đã được phú bẩm cho mỗi cá nhân, chỉ cần có cơ hội nó sẽ phát triển. Chúng ta sẽ thỏa mãn với những khả năng riêng đã nhận được. Biết rằng dù một số người có khả năng gọi là siêu việt như thần đồng, thì sự khôn ngoan của họ vẫn có giới hạn. Con người không phải là thần minh có thể hiểu thấu mọi sự. So với sự nhiệm mầu bao la của vũ trụ vạn vật, sự khôn ngoan của con người chỉ là hạt sương rơi.

Chẳng có ai hiểu thấu được sự vận hành tiến tới trong tương lai. Trong mọi cố gắng suy tư đi tìm về Chân, Thiện, Mỹ của vũ trụ, sự hiểu biết của con người vẫn chỉ là như mới khởi đầu. Phaolô nói tư tưởng của những kẻ khôn ngoan chỉ là hư không: Lại có lời khác rằng: Chúa biết tư tưởng của những người khôn ngoan là hão huyền (1Cor 3, 20). Thiên Chúa cho tâm trí con người được tham dự vào việc tìm kiếm sự cao siêu của sự sống và vận hành của vũ trụ. Bao lâu con người còn biết đặt niềm tin vào sự hiện hữu của Thiên Chúa thì sự khôn ngoan học hỏi của họ sẽ tìm tới ánh sáng. Quan sát chiếc diều bay cao trên không trung là nhờ sợi dây nối với cột trụ dưới đất. Nếu chúng ta cắt đứt sợi giây nối, diều sẽ rơi xuống đất. Đặt niềm tin vào Thiên Chúa là nguồn gốc của mọi sự khôn ngoan ở đời. Sự khôn ngoan sẽ dẫn dắt chúng ta đến cùng đích và chung cục, đó chính là tình yêu nguồn ơn cứu độ.

Lạy Chúa, Chúa dạy chúng con yêu thương, tha thứ và cầu nguyện cho những kẻ bách hại, nguyền rủa và vu khống. Khó qúa Chúa ơi. Mỗi lần chúng con bị người ta hiểu lầm, bịa truyện và gây hại, chúng con lại muốn tìm cách báo thù. Xin cho chúng con biết nhẫn nhịn dõi theo từng bước chân của Chúa để học hỏi và đem ra thực hành từng ngày trong đời sống. Yêu thương là tất cả!

 

34.             Bão lòng – Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em (Mt. 5,44).

Bạn tôi lái xe xuống Phố Tầu ở Mahattan kiếm được chỗ trống đậu xe dọc theo đường lộ và đi bỏ tiền vào máy tính giờ đậu xe gần bên. Chỉ chưa đầy một phút sau, trong khi bạn trở lại với biên nhận trong tay, thì đã thấy một cảnh sát công lộ đang ghi giấy phạt vì vi phạm luật đậu xe là 90 đô. Nói qua nói lại, bạn vẫn phải nhận vé phạt. Cảnh sát nói: Nếu muốn được giảm phạt phải gởi kèm cả vé phạt và biên nhận ghi giờ parking cho Sở Tài Chánh, thành phố Nữu Ước. Vé phạt và biên nhận được gởi đi, nhân viên Sở Tài Chánh trừ cho một nửa số tiền và ghi rằng muốn được tha phạt toàn bộ, bạn phải làm hẹn ra tòa. Câu truyện nghe mà ứ máu, tuy số tiền không bao nhiêu nhưng bị oan ức. Biết chia xẻ cùng ai. Ra tòa lại mất toi một ngày làm. Trả phạt cho xong, lòng không phục!

Hãy yêu kẻ thù. Chúa Giêsu mở rộng chân trời yêu thương tới hết mọi người. Lời khuyên dạy của Chúa cao siêu và tuyệt vời qúa. Chúng ta cảm nhận rằng tình yêu thương của chúng ta đối với tha nhân và kẻ thù chỉ mới là ở bước khởi đầu. Những người dưng nước lã, những khách qua đường và những người xa lạ không quen biết, chúng ta rất ít quan tâm nói chi đến yêu thương. Chúng ta chỉ dễ dàng yêu thương những người có cảm tình và yêu thương chúng ta. Nhưng Chúa Giêsu lại dậy rằng: Vì nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi? (Mt. 5,46).

Trong thực tế cuộc sống, tình yêu vị tha thường rất giới hạn. Theo quan niệm chung, yêu thương cũng phải có qua có lại chứ. Chúng ta biết rằng ngay cả anh chị em hay những bà con ruột thịt trong gia đình yêu nhau đã khó, yêu thương những người hàng xóm lại khó hơn và yêu thương kẻ thù thì khó gấp bội. Yêu thương kẻ thù trên lý thuyết chung chung hay trên môi miệng thì có thể được, nhưng yêu thật trong lòng một kẻ thù thì khó lắm. Chúa Giêsu đã dạy chúng ta yêu thương mọi người và yêu cả kẻ thù. Chúa đã nêu gương cho chúng ta qua chính cuộc sống và cái chết của Ngài. Ngài đã yêu hết mọi người, cả kẻ thù và đã tha thứ tất cả lỗi lầm của mọi người. Chúa đã chấp nhận chịu mọi cực hình oan trái đến chết để mang ơn cứu độ cho mọi người.

Với sức tự nhiên của con người, chúng ta khó vượt qua những yếu đuối của bản năng. Bản năng đòi sự công bằng tự nhiên: Mắt đền mắt, răng đền răng (Mt.5,38) là lẽ thường. Vì trong bản năng của con người có một động lực tiềm ẩn của sự báo thù do tội nguyên tổ. Khi chúng ta giận dữ thì cơn giông bão hận thù và ghen tương nổi lên trong lòng như một khao khát đốt cháy tâm can. Chúng ta rất khó cầm lòng để có sự bình tĩnh mà xét xử hơn thiệt. Người ta thường nói giận mất khôn là đúng lắm. Đôi khi trong cơn giận dữ lại có người còn thêm dầu vào lửa nữa, thì cơn giận càng có cơ hội bốc cháy. Những giận hờn, thù ghét chua cay và những gian dối che phủ mất lòng nhân ái. Hành động khi giận dữ dễ đưa đến những hậu qủa tác hại vô lường.

Truyện kể: Một hôm, một vị Samurai đến thu nợ của người đánh cá. Người đánh cá nói: “Tôi xin lỗi, nhưng năm vừa qua thật tệ, tôi không có đồng nào để trả ngài”. Vị Samurai nổi nóng, rú kiếm ra định giết người đánh cá ngay lập tức. Rất nhanh trí, người đánh cá nói: “Tôi cũng đã học võ và sư phụ tôi khuyên không nên đánh nhau khi đang tức giận”. Vị Samurai nhìn người đánh cá một lúc, sau đó từ từ hạ kiếm xuống. “Sư phụ của ngươi rất khôn ngoan. Sư phụ của ta cũng dạy như vậy. Đôi khi ta không kiểm soát được nỗi giận dữ của mình. Ta sẽ cho ngươi thêm một năm để trả nợ và lúc đó chỉ thiếu một xu thôi chắc chắn ta sẽ giết ngươi”.

Vị Samurai trở về nhà khi đã khá muộn. Ông nhẹ nhàng đi vào nhà vì không muốn đánh thức vợ, nhưng ông ta rất bất ngờ khi thấy vợ mình và một kẻ lạ mặt mặc quần áo Samurai đang ngủ trên giường. Nổi điên lên vì ghen và giận dữ, ông nâng kiếm định giết cả hai, nhưng đột nhiên lời của người đánh cá văng vẳng bên tai: “Đừng hành động khi đang giận dữ”. Vị Samurai ngừng lại, thở sâu, sau đó cố tình gây ra tiếng động lớn. Vợ ông thức dậy ngay lập tức, kẻ lạ mặt cũng vậy, hóa ra đó chính là mẹ ông. Ông gào lên: “Chuyện này là sao vậy. Suýt nữa con đã giết cả hai người rồi!”. Vợ ông giải thích: “Vì sợ kẻ trộm lẻn vào nhà nên thiếp đã cho mẹ mặc quần áo của chàng để dọa chúng”.

Một năm sau, người đánh cá gặp lại vị Samurai. Người đánh cá phấn khởi nói: “Năm vừa qua thật tuyệt vời, tôi đến để trả nợ cho ngài đây, có cả tiền lãi nữa”. Vị Samurai trả lời: “Hãy cầm lấy tiền của ngươi đi và ngươi đã trả nợ rồi”.

Ai cũng thù ghét sự bất công, gian tham và độc tài. Chúng ta nhìn thấy hình ảnh những người biểu tình ở các nước Tusinia, Ai Cập, Yemen đòi quyền sống cho công lý và tự do. Sự đấu tranh, sự hận thù và ghen ghét diễn tả trên những khuôn mặt giận dữ la hét và bạo động của họ. Giận dữ vì bị đối xử bất công và bị tước đoạt mất quyền sống. Làm sao họ có thể yêu thương những kẻ làm gây oan trái và ngỗ nghịch. Sức chịu đựng của con người có giới hạn. Chúng ta cũng là những người đã từng bị đối xử cách bất công trong cuộc sống. Chúng ta hiểu được phần nào những áp bức trong cuộc sống dưới chế độ những Phát-xít và độc tài. Trong tinh thần Kitô Giáo, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta nên có những cách đối xử nhân từ và rộng lượng hơn. Làm sao chúng ta có thể dung hòa để mang lời Chúa áp dụng vào cuộc sống thực tế đầy đau thương và bất công này. Chúa dạy chúng ta hãy yêu thương thù địch, hãy làm lành cho những kẻ ghét các con và cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ và vu khống các con.

Chúng ta có thể cầu nguyện cho họ nhưng làm lành hay yêu thương kẻ thù thì chúng ta khó có thể. Nhiều khi chỉ cần nhắc lại chuyện cũ không vui, sự tức giận đã trào nghẹn lên tới cổ.

Có những sự kiện nhỏ nhặt thôi nhưng chúng ta cũng khó lòng bỏ qua. Chỉ cần nhìn thấy bản mặt của họ là thấy ghét, làm sao chúng ta có thể dung hòa và tha thứ được chứ?. Chúa Giêsu nhắc nhở dịu dàng: Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính (Mt. 5,45).Khi thực hành được lời dạy của Chúa Giêsu, chúng ta sẽ tìm thấy sự yêu thương hòa giải thật tuyệt vời và đong đầy ý nghĩa. Khi thương yêu tha thứ, chúng ta không mất mát gì cả, mà còn được lợi gấp trăm. Ai cũng hiểu biết yêu là như thế đấy, nhưng đi vào thực hành tha thứ với con người cụ thể thì còn một khoảng cách cần lấp đầy. Truyện cổ Trung Hoa kể câu truyện về sự hòa giải và kết hạn: Ngày xưa ở Trung Quốc, có một người nông dân và một người thợ săn là hàng xóm của nhau. Người thợ săn nuôi một đàn chó săn rất dữ tợn và khó bảo, chúng thường nhảy qua hàng rào và rượt đuổi đàn cừu của người nông dân. Người nông dân bảo người hàng xóm của mình hãy trông nom đàn chó cẩn thận, nhưng xem ra những lời đó đều bị bỏ ngoài tai.

Một ngày nọ, đàn chó lại nhảy qua hàng rào, chúng đuổi cắn đàn cừu và làm nhiều con trong đàn bị thương nặng. Lúc này, người nông dân không thể chịu đựng thêm nữa. Anh ta bèn lên phủ để báo quan. Vị quan phủ chăm chú lắng nghe đầu đuôi câu chuyện rồi nói: “Ta có thể phạt người thợ săn và bắt anh ta xích hoặc nhốt đàn chó lại. Nhưng anh sẽ mất đi một người bạn và có thêm một kẻ thù. Anh muốn điều gì hơn: một người bạn hay một kẻ thù làm hàng xóm của mình?” Người nông dân trả lời rằng anh muốn có một người bạn hơn. Vị quan phủ nghe vậy bèn phán:“Được, vậy ta sẽ bày cho anh một cách để vừa bảo vệ an toàn cho đàn cừu, vừa giữ được một người bạn”. Người nông dân bèn nghe theo lời chỉ dẫn của vị quan phủ. Vừa về đến nhà, người nông dân liền thử làm theo những gì vị quan phủ đã bày cho anh ta. Anh ta bắt ba con cừu tốt nhất của mình và đem tặng chúng cho ba cậu con trai nhỏ của người hàng xóm. Đám trẻ rất vui thích quấn quít chơi đùa bên mấy con cừu. Để bảo vệ cho đồ chơi mới của lũ trẻ, người thợ săn đã làm một cái cũi chắc chắn để nhốt đàn chó. Từ đó trở đi, đàn chó không bao giờ quấy rầy đàn cừu của người nông dân nữa. Cảm kích trước sự hào phóng của người nông dân với những đứa con của mình, người thợ săn thường mang chiến lợi phẩm mà anh ta săn được sang cho người nông dân. Người nông dân đáp lại bằng thịt cừu và phô mai mà anh ta làm ra. Chỉ trong một thời gian ngắn, hai người hàng xóm đã trở thành bạn tốt của nhau.

Chúng ta biết rằng chiến tranh bao giờ cũng có thiệt hại, đổ nát, chia cách và mất mát. Cổ nhân có dạy: “Một sự nhịn chín sự lành”. Trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật có dạy: “Lấy oán báo oán, oán nghiệp chập chùng. Lấy ơn báo oán, oán nghiệp tiêu tan”. Trong cuộc sống, chúng ta va chạm nhau rất nhiều qua lời nói vô tình, cử chỉ vô ý, một câu truyện bịa đặt thêm nếm cũng có thể là nguyên nhân của chuyện thù ghét oán hờn. Chúng ta cố gắng xây dựng hòa bình bằng sự chân thật và tình yêu thương tha thứ. Thánh Phaolô khuyên dạy chúng ta: Anh em nổi nóng ư? Đừng phạm tội: chớ để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn (Eph. 4,26).

 

35.             Hãy yêu thương kẻ thù

(Suy niệm của )

Tin mừng Mt 5: 38-48: Đức Giêsu khởi sự bằng cách trích dẫn luật cổ nhất: mắt đền mắt, răng đền răng, luật ấy gọi là Lex talionis (luật báo thù)…

Luật Talion (luật báo thù)

Ngày xưa dân Do Thái cũng như dân ngoại đối xử với nhau quá mức trong việc trả thù (St 4,15; 4,17-24)  (Kn 4,23-24). Nhưng khi luật Talion ra đời, luật này qui định một hình phạt tương đối với thiệt hại đã gây ra.

Trong bài Tin Mừng,

Đức Giêsu khởi sự bằng cách trích dẫn luật cổ nhất: mắt đền mắt, răng đền răng, luật ấy gọi là  Lex talionis (luật báo thù). Nó xuất hiện trong bộ luật cổ nhất gọi là luật của Hammurabi, vị hoàng đế trị vì Babylon từ năm 2285-2242 TC.

Luật Hammurabi phân biệt cách đối xử giữa người quí phái và công nhân:  Nếu một người gây cho người quí phái mất con mắt thì người ấy sẽ phải mất một mắt. Nếu người ấy làm thương tật người quí phái thì người ta sẽ làm thương tật người ấy…Nếu người nào làm cho người ngang hàng gẫy răng, thì người ta cũng làm cho người ấy rụng một chiếc răng…

Nguyên tắc thật rõ ràng và rất đơn giản: nếu ai làm cho người khác bị thiệt hại điều gì thì người ấy bị thiệt hại tương đương.

Luật ấy trở thành một phần nhỏ của luật đạo đức Cựu Ước. 

Trong Cựu Ước luật ấy được đề cập không dưới ba lần:

– “Còn nếu có sự thiệt hại chi, thì ngươi sẽ lấy mạng đền mạng, lấy mắt đền mắt, lấy răng đền răng, lấy tai đền tai, lấy chân đền chân, lấy phỏng đền phỏng, lấy bầm đền bầm, lấy thương đền thương”(Xh 21,23-25).

– “Khi người nào làm thương tích  cho kẻ lân cận mình, thì người ta phải làm thương tích cho người đó lại như chính người đó đã làm, gẫy đền gẫy, mắt đền mắt, răng đền răng. Người ta sẽ làm cho người ấy đồng một thương tích như người ấy đã làm cho người khác”(Lv 24,19-20).

– “Mắt ngươi chớ có thương xót, mạng đền mạng, mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay, chân đền chân” (TL 19,21).

Chúng ta nhận thấy rằng luật Talion đã có sự tiến bộ. Luật này có ý  hạn chế luật báo thù. Luật qui định chỉ người gây thương tích mới bị hình phạt và hình phạt không được thái quá, mà chỉ tương đương với sự thiệt hại mà người ấy đã gây ra mà thôi. [1]

Luật cũ cho phép báo thù, còn Đức Giêsu nói: “Còn Thầy, Thầy bảo các con:”Các con hãy yêu thương thù địch và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi các con” (Mt 5,43-44).

Truyện: tổng thống Nelson Mandela.

Ông Nelson Mandela đã trải qua 27 năm trong nhà tù Nam Phi. Sau cùng, khi ông được phóng thích, ông có đủ lý do  để trả thù những người đã cướp đoạt tự do của ông một cách bất công.

Trong cuốn tiểu sử tự thuật “Hành trình đến tự do” (1994), ông nói với chúng ta:“Tôi biết rằng dân chúng chờ đợi tôi nuôi dưỡng sự giận dữ  đối với người da trắng, nhưng tôi đã không làm thế. 

Trong nhà tù, sự tức giận của tôi với người da trắng giảm xuống, nhưng lòng thù ghét hệ thống xã hội đã tăng lên.

Tôi muốn thấy đất nước Nam Phi thấy tôi yêu thương  cả những kẻ thù của tôi trong khi tôi thù ghét hệ thống đã khiến chúng ta chống đối nhau. 

Tôi đã thấy sứ mạng của tôi là rao giảng sự hòa giải hay chữa lành những vết thương lâu đời và xây dựng một nước Nam Phi mới” [2]

Và mục sư Luther King trong tác phẩm “Chỉ có một cuộc cách mạng”, ông nói:”Trong Tân Ước, chúng ta thấy từ “Agapè” được dùng để chỉ tình yêu. Đó chính là tình yêu dồi dào không đòi một đáp trả nào hết. Các nhà thần học nói  đó là tình yêu Thiên Chúa  được thực hiện nơi tâm hồn con người.

Khi vươn lên đến một tình yêu như vậy, chúng ta sẽ yêu hết mọi người, không phải vì chúng ta có thiện cảm với họ, cũng không phải vì chúng ta  đánh giá cao lối sống của họ, chúng ta yêu thương họ vì Thiên Chúa yêu thương họ”.

Đó chính là ý nghĩa lời Đức Giêsu: “Các con hãy yêu thương kẻ thù”.

Phần tôi, tôi sung sướng  vì Ngài đã không nói: ”Anh em hãy có thiện cảm với kẻ thù của anh em”  bởi vì có những người mà tôi khó có thiện cảm nổi. Thiện cảm là một xúc cảm. Tôi không thể có xúc cảm với người đang ném bom vào gia đình nhà tôi. Tôi không có thiện cảm với người bóc lột tôi. Tôi không có thiện cảm với người đè bẹp tôi dưới sự bất công.

Không, không thể có một thiện cảm nào đối với người đêm ngày đe dọa giết tôi. Nhưng Đức Giêsu nhắc nhở tôi rằng tình yêu còn lớn hơn thiện cảm, rằng tình yêu là thiện chí biết cảm thông, có tính sáng tạo, cứu độ đối với hết mọi người”. Amen[3]

————-

[1] Lm. Giuse Đinh Lập Liễm, CN 7A TN

[2]  McCarthy,  Chúa nhật và lễ trọng năm A, trg. 359-360

[3] Casterman, chỉ có một cuộc cách mạng trg.108-109

 

36.             Nên hoàn thiện như Cha trên trời

Từ sau khi nguyên tổ chúng ta phạm tội thì con người đã trở nên yếu đuối và rất dễ sa ngã. Do đó, con người rất cần những quy tắc sống. Nhờ đó, con người dựa vào để thi hành trong cuộc sống của mình.

Thấy được điều đó nên Thiên Chúa tình yêu đã ban bố cho dân Do thái những quy tắc sống qua ông Môisen. Vì thế, đối với người Do thái luật Môisen được coi như kim chỉ nam cho cuộc sống của họ.

Thế nhưng có vẻ như Chúa Giêsu không tuân giữ đúng luật Môisen nên làm cho người Do thái cách chung và với những Luật sĩ và Pharisêu cảm thấy dị ứng. Từ bối cảnh ấy Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: “Thầy bảo cho anh em biết, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pharisêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời” (Mt 5, 20). Nghĩa là Người muốn các môn đệ giữ lề luật Môisen với tinh thần mới. Bởi lẽ, “Người ta cũng không đổ rượu mới vào bầu da cũ, vì như vậy, bầu sẽ bị nứt: rượu chảy ra và bầu cũng hư. Nhưng rượu mới thì đổ vào bầu mới” (Mt 9, 17).

Nối tiếp những lời dạy tuần trước, hôm nay Chúa Giêsu kêu mời các môn đệ cũng như mỗi người chúng ta đi tới một mức độ cao hơn: “Các con hãy nên hoàn thiện, như Cha các con trên trời là Ðấng hoàn thiện” (Mt 5, 48). Hoàn thiện qua việc tuân giữ luật Môisen với một tinh thần vị tha.

Ngay từ thuở ban đầu, con người chúng ta đã được dựng nên theo và giống hình ảnh Thiên Chúa. Vì vậy, trong cuộc hành trình trên dương thế nầy chúng ta được kêu mời sống thế nào để mỗi ngày trở nên giống như Ðấng đã dựng nên chúng ta. Bao nhiêu lần chúng ta xúc phạm đến Chúa đều được Chúa thứ tha tất cả. Tác giả Thánh vịnh 129 cảm nghiệm được điều đó nên đã thốt lên:

“Ôi lạy Chúa, nếu như Ngài chấp tội,

nào có ai đứng vững được chăng?

Nhưng Chúa vẫn rộng lòng tha thứ

để chúng con biết kính sợ Ngài” (Tv 129, 3 – 4).

Hôm nay Chúa Giêsu đưa ra những lời chỉ dạy nhằm giúp chúng ta thoát khỏi lối sống ích kỷ, hay tự ái và muốn trả đủa. Vì người sống theo lối sống như thế e rằng khó có được sự bình an trong tâm hồn. Ông Ganđi, là cha đẻ của chủ trương bất bạo động đã thốt nên một lời nói bất hủ rất đáng chúng ta suy nghĩ: “Bất bạo động là luật của loài người còn bạo động là luật của loài thú”. Ông bà chúng ta cũng đã dạy “lấy oán trả oán oán chồng chất còn lấy ơn trả oán thì oán sẽ hết”.

Là người con Chúa Cha trên trời và cũng là môn đệ của Chúa Giêsu, mỗi người chúng ta hãy làm theo những lời dạy vàng ngọc của Chúa Giêsu hôm nay.

 

37.             Tình yêu vượt ra khỏi mối hỗ tương.

(Trích từ ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)

 

Khi đề nghị một buổi lễ đọc một đoạn Phúc Âm, Giáo Hội ao ước cho ta làm quen với giáo huấn, lối nhìn, cách suy nghĩ, sứ điệp của Chúa Giêsu. Ít nhất người ta cũng có thể nói một điều: là Chúa Giêsu đi ngược lại các phản ứng thuộc bản năng của con người. Không chống lại sự ác nghiệt và yêu mến kẻ thù, đó không phải là những khám phá của sự khôn ngoan sơ đẳng của bản tính nhân loại. Sự táo bạo kêu mời con người thực thi tình yêu hoàn hảo, chỉ có thể xuất phát từ Con Thiên Chúa, Đấng đã nêu gương về một mức độ tình yêu như thế. Nếu Người dám xin ta yêu mến thù địch ta, là vì Thiên Chúa đã yêu loài người trước hết, ngay trong khi họ còn chống lại Người, còn nằm trong tội lỗi. Thiên Chúa chứng tỏ tình yêu Người đối với ta: ấy là khi ta còn tội lỗi, Đức Kitô đã chết cho ta (Rm 5,8). Có những triết thuyết, những tổ chức tôn giáo ngoài Kitô giáo đôi khi đã xích lại gần sự đòi hỏi của Chúa Giêsu nhưng không hề đạt tới được. Phúc Âm quả là một chóp đỉnh duy nhất mà chỉ Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô dám xin ta leo lên. Tình yêu đối với thù địch nằm ở chóp đỉnh ấy. Giới răn của Chúa Giêsu buộc ta không được giản lược tình yêu vào trình độ của mối hỗ tương, trao đổi không vươn xa hơn. Tình yêu tuỳ thuộc ở một sự trao đổi là một tình yêu mong manh. Trái lại, tình yêu mà phát xuất từ sâu thẳm của hữu thể là một sức vọt mạnh mẽ, chỉ lấy tự do mình làm giới hạn. Mà chiến thắng của cái tự do ấy, chính là ở chỗ nó quyết định yêu thương, cả khi gặp cản trở, tức bị từ chối. Chúa nêu gương cho ta về điều này:

 

1) Chúa muốn điều hay cho những kẻ muốn làm hại Người. Người chịu khổ, chịu chết để những ai bắt Người phải khổ, phải chết được hết đau khổ và chết chóc. Trước sự từ chối tuyệt đối của con người không đáp lại tình yêu – (trước sự từ khước một mối hỗ tương), Chúa vẫn duy trì quyết định tuyệt đối là thương yêu.

 

2) Tình yêu ấy mặc khuôn mặt của lòng tha thứ. Tình yêu theo Thiên Chúa biết nhìn từ bên trong. Tha thứ là một sự sáng suốt của tình yêu. Lạy Cha, xin tha cho họ, vì ho không biết mình làm gì. Người tự coi là kẻ thù của ta, họ vâng theo những động lực nào? Có lẽ họ là nạn nhạn của sự dốt nát, của những sức mạnh tối tăm làm chủ họ, của tính tình v.v… Không ai nói phải khuyến khích lòng độc dữ của họ, nếu họ tỏ ra nguy hiểm. Điều cấm làm, là trả thù. Điều phải làm theo là yêu mến họ, dầu sao đi nữa, và ao ước sự tốt lành cho họ. Điều này có thể đòi hỏi một sức mạnh tinh thần gần như là khí phách anh hùng. Phải biết thưa với Chúa rằng, nếu Người đòi hỏi phải nên anh hùng, thì Người cũng phải ban đủ sức làm anh hùng.

 

38.             Chiến thắng bản năng trả thù và thù ghét

(Suy niệm của Cao Nhất Huy)

Mt 5: 38-48 Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã trích dẫn bộ luật cổ xưa nhất với tên gọi là Hammurabi của nhà nước Lưỡng Hà cổ đại, với nguyên tắc Talion.

Anh chị em thân mến,

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã trích dẫn bộ luật cổ xưa nhất với tên gọi là Hammurabi của nhà nước Lưỡng Hà cổ đại, với nguyên tắc Talion, nghĩa là “Mắt đền mắt, răng đền răng”. Đó là nguyên tắc trả thù ngang bằng (đồng thái phục thù) hay còn gọi là “luật pháp Talion”.

Bộ luật Hammurabi ra đời trong khoảng thời gian từ năm 1792 đến 1750 trước công nguyên và mang tên của vị vua đã ban hành bộ luật, vua Babilon thứ sáu.

Nguyên tắc cơ bản được quán triệt trong toàn bộ Bộ luật Hammurabi là nguyên tắc công bằng, trong đó công bằng có nghĩa là áp dụng hình phạt ngang bằng với thiệt hại mà kẻ phạm tội gây ra. Có thể nói, chưa có bộ luật nào áp dụng triệt để nguyên tắc Talion (mắt đền mắt, răng đền răng) như Bộ luật Hammurabi.

Không chỉ thế, theo như điều 202 của bộ luật: “nếu một kẻ nào đó tát vào mặt một người có địa vị cao, thì kẻ ấy phải mang ra trước công chúng đánh 50 roi”. Những hình phạt khác nhau dành cho các hành vi khác nhau cũng không đồng bộ giữa các giai cấp và tầng lớp người trong xã hội, hơn nữa chúng khác nhau tùy theo địa vị của tội nhân. Đôi khi bộ luật cho phép bồi thường bằng tiền thay cho nhục hình. Thí dụ “Nếu một người phá hỏng mắt của người khác, người ta phá hỏng mắt của hắn”, “Nếu một người phá hỏng mắt của một nô lệ, hắn chỉ phải bồi thường nửa giá cho tên nô lệ”.

Sau này, luật ấy trở thành một phần nhỏ của luật đạo đức Cựu Ước. 

Chẳng hạn, trong Cựu Ước ta có thể thấy ở một vài chỗ như:

– Trong sách Xuất Hành nói rằng: “Còn nếu có sự thiệt hại chi, thì ngươi sẽ lấy mạng đền mạng, lấy mắt đền mắt, lấy răng đền răng, lấy tai đền tai, lấy chân đền chân, lấy phỏng đền phỏng, lấy bầm đền bầm, lấy thương đền thương” (Xh 21,23-25).

– Trong sách Lê Vi “Khi người nào làm thương tích cho kẻ lân cận mình, thì người ta phải làm thương tích cho người đó lại như chính người đó đã làm, gẫy đền gẫy, mắt đền mắt, răng đền răng. Người ta sẽ làm cho người ấy đồng một thương tích như người ấy đã làm cho người khác” (Lv 24,19-20).

Ta thấy luật cũ cho phép báo thù, còn luật mới của Đức Giêsu thì khác, nhấn mạnh đến tình yêu thương và sự tha thứ, Chúa Giêsu đã nói:

“Còn Thầy, Thầy bảo các con: Các con hãy yêu thương thù địch và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi các con, Nếu ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa…, Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài…”

Những điều Chúa Giêsu nói đó, chúng ta cảm thấy thế nào?

Chúng ta có dám can đảm đưa luôn má trái ra cho người ta tát khi họ tát má phải ta không? Hay có người muốn lấy áo trong của ta, ta có cho họ luôn áo ngoài không? …Ta thấy trong Tin Mừng, chính Đức Giêsu, khi đã nhận cái vả của người đầy tớ vị Thượng Tế, Chúa cũng đâu có giơ má kia ra! Không những không đưa má ra mà Ngài con hỏi lại rằng: “Sao anh lại đánh tôi” (Ga 18, 23).

Vậy Chúa Giêsu đang muốn nói với chúng ta điều gì đây?

Tin Mừng không bao giờ cho chúng ta những công thức đạo đức hoàn toàn có sẵn. Điều quan trọng là một “tinh thần” chứ không phải là một “quy tắc”.

Nghĩa là, Chúa Giêsu không có ý nói rằng khi bị người khác tát má này thì cứ vui vẻ đưa má kia ra cho nó tát luôn. Chúng ta không nên hiểu theo mặt chữ như vậy, nhưng hãy hiểu theo một ý nghĩa xâu sa khác. Lời Chúa trong Tin Mừng muốn đưa chúng ta đến một đỉnh cao của tình người, chiều sâu hơn của tình yêu, để chúng ta vượt qua chính mình mà đạt đến sự tha thứ, đó là, Ngài muốn tất cả chúng ta đều phải chiến thắng bản năng trả thù trong con người của mình. Nói đến bản năng trả thù, có nghĩa là: con người chúng ta không chịu được khi người ta xúc phạm đến chúng ta, không chịu được khi người khác đánh con cái hay người thân của chúng ta, chúng ta không chịu được khi người người khác chửi bới hay xúc phạm đến người thân của chúng ta, hay là chính chúng ta. Và khi sự việc xảy ra thì từ cái không chịu được những điều đó, sẽ dễ dẫn chúng ta đến việc thù ghét đối phương và tìm cách trả thù đối phương. Và theo Chúa Giêsu thì trả thù là một điều xấu, và điều xấu sẽ trở thành một phần của chúng ta khi chúng ta đáp lại nó bằng một sự tàn nhẫn tương đương. Khi người ta trả đũa điều xấu bằng điều xấu, người ta sẽ trở về với vòng tròn của sự dữ.

Thật vậy, điều xấu mà chúng ta chịu đựng thật ra vẫn còn ở bên ngoài chúng ta, nó chưa đi vào con người chúng ta. Nhưng khi chúng ta đáp trả lại điều xấu bằng một điều xấu, thì điều xấu ấy sẽ có thêm một chiến thắng phụ nữa, bởi vì nó đã đi vào lòng chúng ta, đi vào bên trong con người của chúng ta. Thế nên, Đức Giêsu muốn mở ra một con đường khác cho nhân loại: chiến thắng điều xấu bằng điều thiện, dùng tình yêu để đáp lại hận thù. Nếu làm được như vậy, thì điều xấu sẽ khó có thể xâm nhập vào trong tâm hồn của chúng ta.

Tuy nhiên, điều xấu thì cứ rình rập chúng ta mỗi ngày, còn chúng ta thì mãi mãi vẫn là những thụ tạo dễ bị ảnh hưởng bởi điều xấu, nên chúng ta dễ bị điều xấu xâm nhập vào tâm hồn. Bởi vì, trong cuộc sống, chúng ta va chạm nhau rất nhiều qua lời nói vô tình, một cử chỉ vô ý, một câu truyện thêm mắm thêm muối cũng có thể là nguyên nhân của chuyện thù ghét oán hờn. Vì thế, trước tiên, chính chúng ta hãy cố gắng xây dựng hòa bình bằng sự chân thật và tình yêu thương tha thứ. Nhờ đó, chúng ta có thể giảm bớt đi được những hiểm hoạ của điều xấu rình rập, khiến cho người khác có thể thù ghét chúng ta, hay chính chúng ta đi thù ghét họ.

Để chiến thắng được bản năng thù ghét, thì ngoài sự cố gắng của bản thân mỗi ngày tập luyện cách sống chân thật, yêu thương, thì chúng ta cần mở lòng ra để đón nhận sự trợ giúp của Chúa nữa.

Lạy Chúa, xin cho con say men tình Chúa, để đời con bớt đi lỗi tội. Xin cho con biết yêu thương mọi người, vì mọi người là những anh em. Xin cho con biết đem yêu thương gieo trong đời sống, để đời luôn cất lên tiếng cười. Trao cho nhau yêu thương ngọt bùi, để mọi người cùng mến thương nhau. Amen.

 

39.             Hãy giơ ra má bên trái nữa

(Suy niệm của Lm JB. Lê Ngọc Dũng)

Chúa Giêsu dạy rằng: “Nếu ai bị vả má bên phải, thì hãy giơ ra cả má bên trái nữa” (Mt 5,39). Lời dạy này, hầu như mọi Kitô hữu đều biết. Nhiều người ngoài Công giáo cũng biết. Tuy nhiên, thực tế là, biết thì biết vậy thôi, chứ thực hành thì mấy ai thực hành được!

Chúa Giêsu còn dạy thêm nhiều điều khác nữa: “Ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài… Ai xin thì hãy cho; ai muốn vay mượn, thì đừng nghoảnh mặt đi” (Mt 5, 40-42).

Những giáo huấn của Chúa Giêsu như thế, quả là khó thực hiện. Nhiều khi, người ta lại làm ngược lại, đã không đưa cả má bên kia, mà còn tát trả thù mạnh hơn, hay là tát gấp đôi, gấp ba, tát hai ba cái, tát cả bên phải lẫn bên trái! Hoặc như có kẻ muốn vay mượn, thì mấy khi ta dễ dàng cho người khác mượn. Nếu có cho mượn thì cũng đòi hỏi điều kiện này, điều kiện nọ, sợ người vay không trả, hay không thể trả.

Vậy Lời Chúa dạy trong bài Tin Mừng hôm nay, phải chăng là thiếu thực tế, hay là siêu tưởng, là quá lý tưởng?

Thật ra, Chúa Giêsu đã nhấn mạnh: “Anh em đã nghe luật dạy rằng:… Còn Thầy, Thầy bảo anh em”. Và Ngài cũng khuyên dạy: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt5, 48).

Vậy thì, Lời Chúa dạy không phải ở tầm mức tu đức thông thường của cuộc sống, của các tôn sư, các thầy dạy ở trần gian; cũng không phải là lề luật của những nhà khôn ngoan, nhà lập pháp trần thế. Nhưng đó chính là nền tu đức, là lề luật, của Thiên Chúa truyền ban.

Thiên Chúa có chương trình của Ngài khi tạo dựng con người ở trần thế. Ngài muốn nâng con người chúng ta lên bậc thánh thiện, nâng con người lên hàng con cái Thiên Chúa, được chia sẻ hạnh phúc thần thiêng với Ngài. Vì vậy, Ngài luôn mời gọi chúng ta hãy nâng mình lên trong cách sống của một nền luân lý đạo đức, trỗi vượt lên trên nền luân lý đạo đức thông thường của trần gian.

Thế gian có thể nghĩ rằng, những cách sống của Kitô hữu là yếu hèn, là bạc nhược, là khờ dại: Bị đánh mà không đánh trả là yếu hèn; bị lấy thì phải lấy lại cho công bằng; cho vay mượn thì phải cẩn thận, chứ đừng khờ dại, kẻo bị mất tất cả…!

Nhưng những cách sống chịu mất mát, thua thiệt đó lại là con đường giúp chúng ta nên hoàn thiện, nên thánh như Thiên Chúa là Đấng Thánh. Cuộc sống đích thực của chúng ta không ở trần gian này, nhưng là ở Nước Trời. Sự mất mát, thua thiệt ở đời này phát sinh hoa quả đời sau. Ngược lại, sự có được ở đời này lại là sự mất mát đời sau. Vì như có lần Chúa Giêsu dạy: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Ta và vì Tin Mừng thì sẽ cứu được mạng sống ấy. Vì được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì được ích gì” (Mc 8,35-36).

Một nữ tài xế taxi sau đi đón một vị khách lên xe đã bị kề dao vào cổ và đòi tiền. Thì ra, đây là một tên cướp. Cô bình tĩnh lấy tất cả tiền ra đưa cho kẻ cướp và nói: “Đây là tất cả số tiền mà tôi kiếm được trong ngày hôm nay, nếu anh thấy ít quá thì có thể lấy thêm mấy đồng tiền lẻ trong túi tôi nữa”. Tên cướp có vẻ sững sờ bởi thái độ của nữ tài xế. Cô nói tiếp: “Anh sống ở đâu? Muộn rồi. Gia đình anh có thể lo lắng cho anh. Tôi sẽ đưa anh về nhà”. Trước sự quan tâm của nữ tài xế, tên cướp đã thu dao lại.

Trên đường đi, cô trò chuyện với tên cướp: “Gia đình tôi từng sống một cuộc sống rất khó khăn, nên tôi học lái xe và trở thành tài xế taxi. Mặc dù tôi không kiếm được nhiều tiền, nhưng chúng tôi đã sống tốt hơn trước đây. Nhưng hãy nhìn anh xem! Một người đàn ông với cơ thể khỏe mạnh. Anh không thể làm gì để kiếm sống sao? Nếu anh tiếp tục đi con đường này, cuộc sống của anh sẽ bị hủy hoại!”

Khi đến nơi kẻ cướp muốn xuống, nữ tài xế nói với theo: “Nghe này, không phải là anh cướp của tôi, mà là tôi đưa tiền cho anh. Hãy dùng số tiền đó để làm việc đúng đắn và đừng đi ăn cướp nữa”.

Tên cướp im lặng suốt quãng đường đi đột nhiên nói lớn lên và trả lại tiền cho nữ tài xế: “Chị à, tôi hứa sẽ không lặp lại chuyện này một lần nữa, dù cho bất cứ chuyện gì xảy ra”.

Người nữ tài xế quả là đã sống một cách cụ thể lời Chúa dạy: “Nếu ai bị vả má bên phải, thì hãy giơ ra cả má bên trái nữa. Ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài… Ai xin thì hãy cho; ai muốn vay mượn, thì đừng nghoảnh mặt đi” (Mt 5, 39-42).

Giáo huấn của Chúa Giêsu tuy có khó thực hiện, nhưng chúng ta nên nhớ là mình đang trên đường lữ hành về quê trời. Chúng ta được sinh ra với hình ảnh Thiên Chúa, là con cái Thiên Chúa. Thế gian này với tiền tài, quyền lực, danh vọng, rồi cũng sẽ qua đi. Thế thì tại sao chúng ta lại không để cho nó qua đi một cách chủ động, với tinh thần tự nguyện, hy sinh cho tha nhân, để tạo dựng cho ta một đời sống trên Thiên quốc, nơi chúng ta sống hạnh phúc với Thiên Chúa, là Cha chúng ta ở trên Trời.

 

40.             Yêu thương trọn hảo

Qua đoạn Tin Mừng, Thánh Matthêu thuật lại luật yêu thương trọn hảo của Chúa Giêsu. Chúa dạy ta cách sống, cách xử thế đối với mọi người, cả những người yêu thương ta lẫn người không yêu thương chúng ta. Đây là điểm vàng son của đạo Kitô giáo.

Theo luật cũ trong Cựu Ước thì một người làm lỗi phải chịu trừng phạt tùy theo tội nặng hay nhẹ. Nếu một người làm người khác bị thương, thì phải đền bù theo luật ác giả ác báo: mắt đền mắt, răng đền răng. Còn Chúa Giêsu, Ngài mời gọi ta sống, nhân hậu, tha thứ, ân cần yêu thương tha nhân. Ngài đã đưa ra nhiều thí dụ: “Nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa. Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài”.

Chúa Giêsu dạy như thế không có nghĩa là Chúa đề cao lối sống buông xuôi, đầu hàng, cam chịu. Nhưng Chúa Giêsu muốn dạy rằng: Hãy khôn ngoan mà dùng tình thương là thượng sách. Tình thương mới xóa bỏ hận thù, lấy ơn mà đền oán, chứ không thể áp dụng “dĩ độc trị độc”. Thực tế, trả thù không bao giờ xóa bỏ được hận thù, mà còn chồng chất hận thù lên mãi. Có lẽ trong cuộc sống hiện nay vẫn còn có người sống theo lối “ăn miếng trả miếng”, “hòn đá nén đi hòn chì nén lại”, nên chúng ta thấy khó am hợp với lời Chúa dạy là tha thứ, là yêu thương.

Giáo huấn của Chúa, khó thì khó thật, nhưng không phải là không thực hiện được. Trong thực tế, đã có những người dù không phải là Kitô hữu, dù chưa biết Tin Mừng đã thực hiện điều này. Người ta kể rằng: gần hai nước Lương và Sở, có hai người làm nghề trồng dưa: Một người ở nước Lương và một người ở nước Sở. Nhờ sự chăm tưới và bón phân, vườn dưa của người nước Lương lên tốt, kết quả rất mỹ mãn và hàng năm đem lại một mối lợi đáng kể. Còn anh chàng nước sở, lười biếng cỏ chẳng làm, dưa không tưới và bón phân, dĩ nhiên không kết quả bao nhiêu. Thấy vậy anh ta sinh ghen ghét, đêm đêm lẻn sang vườn người nước lương phá hoại.

Vườn dưa đang tốt, song mỗi ngày cứ thấy lụi tàn dần, tìm hiểu và biết được kẻ phá hoại, tức mình lắm, định trả đũa. Nhưng trước khi thi hành, anh đem việc đến trình quan là Tống Hựu. Tống Hựu can và nói: “Làm như thế chỉ tổ gây thên hận thù, tôi khuyên anh: thay vì trả đũa ,mỗi đêm lẻn sang đó tưới nước và bón phân. Nhưng phải bí mật đừng cho nó thấy”. Thấy bên kia không trả đũa, lại nhận ra vườn mình ngày cang xanh tốt. Sau lâu ngày mới biết người kia không báo thù mà còn làm ơn, anh liền sang xin lỗi. Hai gia đình đã kết thân và trở nên giàu có.

Vậy thì, tại sao hay lý do nào Chúa dạy chúng ta phải yêu thương hết mọi người, kể cả những người không thích chúng ta, thù ghét chúng ta. Thưa, vì mọi người đã được tạo dựng nên giống hình ảnh Chúa và đã được Chúa Ki tô cứu chuộc bằng giá máu châu báu của Người, nên mọi người đều đáng kính trọng và đáng kính yêu. Và đặc biệt, vì mọi người là con một Cha chung trên trời và là anh em với nhau. Chúa Giêsu đã dạy chúng ta cầu nguyện rằng: “Lạy Cha chúng con ở trên trời”, vì Chúa là Cha chung hết mọi người, hằng cho mặt trời mọc lên soi sáng cho kẻ dữ người lành, làm mưa xuống trên kẻ công chính và người bất lương. Vậy nếu mọi người đều là con một Cha trên trời, thì chúng ta đều là anh em với nhau. Mà là vì anh em với nhau, thì chúng ta phải yêu thương nhau. Chúng ta phải yêu thương hết mọi người không loại trừ ai cả, có như thế chúng ta mới xứng đáng là con cha trên trời. Một khi có tình yêu như vậy, nhất định chúng ta sẽ xóa bỏ mọi hận thù, ghen ghét, nhất định chúng ta sẽ khoan dung quảng đại với mọi người.

Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa, để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa và nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm. Amen.

 

41.             “Hãy yêu kẻ thù”

(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)

 

Tin mừng Mt 5: 38-48: Tin Mừng các Chúa Nhật liên tiếp trình bày những giáo huấn mới mẻ của Chúa Giêsu so với luật cũ của Cựu ước…

Tin Mừng các Chúa Nhật liên tiếp trình bày những giáo huấn mới mẻ của Chúa Giêsu so với luật cũ của Cựu ước.

Chúa Nhật IV, Chúa Giêsu là Môisen mới, đứng trên núi Sinai mới (núi Bát Phúc) công bố luật mới của Nước Trời (Tám mối Phúc thật).

Chúa Nhật V, sau khi công bố Hiến Chương Nước Trời, Chúa Giêsu khuyến khích các môn đệ, những công dân mới của Nước Trời, hãy đem những giáo huấn của Người ra thi hành. Sứ mạng cao cả của người công dân Nước Trời là muối cho đời, ánh sáng thế gian.

Chúa Nhật VI, Chúa Giêsu so sánh luật mới của Người với luật cũ của Môisen. Luật mới kiện toàn luật cũ. Chúa Giêsu đưa ra 4 trường hợp cụ thể:

  • Luật cũ cấm giết người. Luật mới dạy, phải coi người khác là anh em. Thương yêu nhau, nếu có gì bất hòa thì hòa giải với nhau.
  • Luật cũ cấm hành vi ngoại tình. Luật mới ngăn chặn ngoại tình từ ước muốn. Cần chặn đứng những gì gây nên ước muốn xấu xa như con mắt, cái tay, cái chân…
  • Luật cũ quy định thủ tục li dị. Luật mới triệt để cấm li dị.
  • Luật cũ cấm thề gian. Luật mới dạy sống chân thực. Khi đã sống chân thực rồi thì không cần thề nữa.

Chúa Nhật VII, Chúa Giêsu tiếp tục giáo huấn hoàn thiện luật cũ.

  • Luật cũ dạy yêu thương, nhưng lòng yêu thương ấy chỉ giới hạn trong những người Israel với nhau. Luật mới dạy phải mở rộng yêu thương đến kẻ thù nữa.
  • Tinh thần luật cũ “mắt đền mắt, răng đền răng”. Pháp lý của Chúa Giêsu hoàn toàn mới mẻ. Chúa mở ra con đường mới: thiện thắng ác, tình yêu thắng hận thù.
  • Tinh thần luật cũ là chỉ yêu thương người đồng bào. Giáo huấn mới là hãy yêu thương thù địch và làm ơn để báo oán.

 

  1. “Hãy yêu kẻ thù”

“Hãy yêu kẻ thù” là giáo huấn độc đáo nhất của Chúa Giêsu. Người đã cắt nghĩa rất cụ thể. Yêu thương kẻ thù là:

  • Làm ơn cho kẻ ghét mình.
  • Chúc phúc cho người nguyền rủa mình.
  • Cầu nguyện cho kẻ vu khống mình.
  • Ai vả má nầy thì đưa cả má kia.
  • Ai lột áo ngoài thì cho cả áo trong.
  • Ai lấy gì thì đừng đòi lại…

Lý do của thái độ nhân ái, lòng yêu thương bao la ấy là con cái phải noi gương Thiên Chúa là Cha ngự trên trời “Người làm cho mặt trời mọc lên trên người lành cũng như kẻ dữ, làm cho mưa xuống trên kẻ lành cũng như người bất lương…”.

“Yêu thương kẻ thù” là một nghĩa cử anh hùng, một nổ lực vượt thắng tình cảm tự nhiên, vượt trên phản ứng thường tình của con người. “Yêu thương kẻ thù” là bước vào thế giới siêu nhiên của con cái Chúa, sống nhân hậu và hoàn thiện như Cha trên trời.

Khi dạy “Hãy yêu kẻ thù”, Chúa Giêsu không có ý cổ võ sự nhu nhược, nhát đảm nhưng là để nêu cao tinh thần khoan dung hiền từ quãng đại tha thứ.

“Hãy yêu kẻ thù”, đó là lệnh truyền khó thi hành nhất trong các lệnh truyền của Chúa Giêsu. Khó nhưng không phải là không có thể. Chính Chúa đã làm gương khi xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ hành hạ, đóng đinh mình trên thập giá. Chính hành vi cao cả này đã thể hiện trọn vẹn tình yêu của Thiên Chúa. Đó cũng là nét cao quý nhất trong dung mạo Đấng Cứu Thế. Người đến để yêu thương và cứu chuộc con người. Người đến để tha thứ và đem lại cho con người cơ may để sám hối và canh tân.

Như vậy Chúa Giêsu mở ra con đường mới cho nhân loại. Con đường lấy thiện thắng ác, lấy tình yêu vượt thắng hận thù. Chỉ có yêu thương mới làm cho thù hận tiêu tan.

 

  1. Tại sao phải yêu kẻ thù?

Yêu người yêu mình thì dễ. Yêu kẻ làm hại mình thật khó biết bao! Trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật có dạy: “Lấy oán báo oán, oán chập chùng. Lấy đức báo oán, oán tiêu tan”. Lấy oán báo oán chỉ thêm hận thù mà thôi. Bạo lực sẽ kéo theo bạo lực. Câu chuyện tình bất hủ Roméo và Juliette đã đi vào lịch sử nhân loại. Nhiều thi sĩ, nhạc sĩ đã viết thi ca âm nhạc ca tụng tình yêu. Những vỡ kịch những cuốn phim diễn tả hấp dẫn mối tình lãng mạn của đôi tình nhân trẻ. Nếu câu chuyện tình của họ được kết thúc một cách tốt đẹp và bình thường, chắc sẽ không có ai nhắc đến. Nhưng Roméo Juliette là nạn nhân của sự thù hận giữa hai gia tộc. Không ai có thể tìm cách để giải hòa được sự thù hận ấy. Sự thù hận dẫn đến mất mát cho cả hai bên. Sự thù hận đã cướp đi mạng sống của đôi bạn trẻ yêu nhau tha thiết. Sự thù hận giết chết một mối tình đẹp, nhân loại ngàn đời xót xa nuối tiếc. Sự thù hận khởi đi từ tâm hồn ích kỷ. Bảo vệ mình bằng sự trả thù, thì càng mất mát hơn và hận thù hận ngày càng dâng cao.

Nhạc sĩ Phạm Duy viết trong một ca khúc: Kẻ thù tôi đâu có phải là người. Giết người đi thì ta ở với ai? Đã là người thì ai cũng có những sai lỗi. Nhân vô thập toàn. Hơn nữa, mỗi người lại có những tính tình và sở thích riêng biệt, bá nhân bá tánh. Vì vậy, đã sống chung cùng nhau chúng ta không thể nào tránh đi cho hết những va chạm, những bực bội và những buồn phiền. Vậy nếu hễ tức giận là báo thù, thì tôi sẽ phải báo thù kẻ lạ cũng như người quen, kẻ ngoài xã hội cũng như người trong gia đình, kẻ bên trái cũng như những người bên phải, kẻ đàng trước cũng như người đàng sau, nghĩa là phải tẩy chay, phải thanh toán hết mọi thứ người trên mặt đất này. Phạm Duy khuyên đừng giết người vì tuy là kẻ thù, nhưng họ vẫn là người, vẫn giống chúng ta.

 

  1. Tình yêu biến kẻ thù thành bạn hữu.

Trong cuộc sống, chúng ta va chạm nhau rất nhiều qua lời nói vô tình, cử chỉ vô ý, một câu truyện bịa đặt thêm nếm cũng có thể là nguyên nhân của chuyện thù ghét oán hờn. Chúng ta cố gắng xây dựng hòa bình bằng sự chân thật và tình yêu thương tha thứ.Thánh Phaolô khuyên dạy chúng ta: Anh em nổi nóng ư? Đừng phạm tội: chớ để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn (Ep 4,26).

Thiên Chúa tạo dựng nên con người giống hình ảnh Chúa, lẽ nào Người lại tiêu diệt nó chứ? Chúa Giêsu đến để đẩy lui sự ác, xóa bỏ tội lỗi. Chúa không đến để tiêu diệt người tội lỗi mà để cứu vớt. Tình yêu là vũ khí mạnh nhất để đẩy lui tội lỗi nơi con người, làm thay đổi một con người. Chỉ có ánh sáng mới xóa tan được bóng tối. Chỉ có tình thương mới xóa bỏ hận thù ghen ghét. Tình yêu có phép mầu biến kẻ thù thành bạn hữu. Tình yêu có sức mạnh sáng tạo và cứu độ. Đối với người Kitô hữu, lý do căn bản để yêu thương kẻ thù chính là Lời Chúa: ”Anh em hãy yêu kẻ thù…Như vậy phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao và anh em sẽ là con Đấng Tối Cao” (Lc 6,35).

Câu chuyện ngụ ngôn kể rằng:Sư tử ốm đã một tuần nay và nằm trong hang không dậy được. Nó buồn lắm vì là chúa tể sơn lâm mà chẳng con vật nào đến thăm hỏi hay mang cho nó chút quà gì cả. Nhìn cây hoa hồng bên cạnh, lúc nào cũng có bướm, có ong, có chim chóc ríu rít, đến bay lượn vui vẻ. Sư tử bèn hỏi cây hoa hồng:Hoa hồng ơi, vì sao ngươi mảnh dẻ yếu ớt như thế, mà lúc nào cũng có bạn bè đến thăm vui vẻ, còn ta là chúa tể sơn lâm mà chẳng có con vật nào đến thăm ta cả?

Hoa hồng trả lời: Vì tôi luôn tặng cho mọi loài màu sắc tươi đẹp và hương thơm ngào ngạt khi mọi loài đến với tôi. Còn ngài là chúa tể sơn lâm uy quyền, nhưng ngài có tặng cho những con vật bé nhỏ thuộc hạ của ngài cái gì đâu?

Hoa hồng là hình ảnh của con người biết yêu thương.

Lạy Chúa, trên thập giá, Chúa đã nêu gương tha thứ cho những kẻ giết Chúa. Xin thương củng cố tình thương của Chúa trong trái tim con, để mỗi ngày con được tiến thêm và kiên trì đi trên con đường yêu thương của Chúa cho đến cùng. Xin thánh hóa tình yêu trong con, cho con biết yêu mến mọi người. Amen.

 

42.             Yêu kẻ thù

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Anh em hãy yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em, như vậy anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt” (Mt 5,44-45).

“Anh em hãy yêu thương kẻ thù mình”. Việc này thật đòi hỏi: Nó đảo lộn các suy nghĩ của ta và làm mọi người phải thay đổi hướng đi của đời mình!

Bởi vì, đừng dấu diếm nữa, tất cả chúng ta đều có một vài kẻ thù… lớn hoặc nhỏ.

Kẻ thù đang ở đàng sau cánh cửa căn nhà bên cạnh, nơi người đàn bà đáng ghét đó mà tôi thường tìm cách tránh né mỗi làn bà ta sắp sửa cùng bước lên cầu thang. Kẻ thù ở chính nơi người bà con mà cách đây ba chục năm đã đối xử bất công với cha tôi, vì thế tôi không còn chào hỏi nữa. Kẻ thù ngồi ở bàn đàng sau trong lớp học và từ ngày nó tố cáo cho bạn tôi với thầy giáo, không bao giờ bạn nhìn mặt nó. Kẻ thù là người bạn gái đó, vì cô ta đã bỏ bạn để đi với người khác. Kẻ thù là người bán hàng đã đánh lừa bạn. Đó là những người không nghĩ như bạn về chính trị, vì thế ta tuyên bố họ là kẻ thù. Có người coi Nhà Nước là kẻ thù, nên dùng bạo lực đối xử với người đại diện Nhà Nước. Cũng có người nhìn các linh mục và Giáo Hội như là thù địch. Tất cả những người này và vô vàn những người khác mà ta gọi là “kẻ thù” ta phải yêu thương họ.

Phải yêu thương họ sao?

Thưa phải, phải yêu thương họ! Và đừng cho mình có thể làm được bằng cách thay đổi tình cảm oán ghét thành tình cảm nhân hậu hơn.

Mà còn hơn nữa. Bạn hãy lắng nghe lời Đức Giêsu dạy:

“Anh em hãy yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em, như vậy, anh em mới thực sự trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt”.

Bạn thấy không? Đức Giêsu muốn một tình thương thể hiện qua việc cầu nguyện và những hành động cụ thể.

Ở nơi khác, Ngài cũng dạy: “Anh em hãy làm ơn cho kẻ oán ghét mình, chúc lành cho kẻ nguyền rủa mình, cầu cho kẻ nhục mạ mình” (Lc 6,27-28).

Ngài giải thích cho ta lý do tại sao Ngài truyền dạy như vậy, và chỉ cho ta mẫu gương là tình thương của Thiên Chúa, Cha Ngài; Ngài dạy ta làm như vậy cùng hành xử theo gương Chúa Cha.

Điều đó có nghĩa là trên đời ta không còn cô đơn: ta có một người Cha và phải sống như Người. Không những thế, mà Thiên Chúa còn có quyền đòi ta làm như vậy, bởi vì khi ta còn là thù địch của Người, còn sống trong tội lỗi, Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước (x.2Ga 4,19), và sai Con của Người đến với ta, Đấng đã chết cách nhục nhã vì mỗi người chúng ta.

“Anh em hãy yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em, như vậy anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt”.

Bài học ấy chú bé Jery người da đen đã học được ở Washington. Vì có trí thông minh, em đã được nhận vào một lớp đặc biệt gồm toàn thiếu niên da trắng. Nhưng trí thông minh không đủ để làm cho các bạn cùng lớp hiểu rằng em cũng bình đẳng như chúng. Màu da đen đã làm cho tất cả ghét bỏ em, đến độ ngày lễ Giáng Sinh các học sinh tặng quà cho nhau nhưng không thèm để ý tới Jery. Em bật khóc, điều này dễ hiểu! Nhưng khi về nhà em nghĩ đến Chúa Giêsu: “Hãy yêu thương kẻ thù của anh em”, và đồng ý với má, em mua quà vui vẻ tặng cho tất cả những “người anh em da trắng” của mình.

“Anh em hãy yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em, như vậy anh em mới trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt”.

Ngày hôm đó Elizabeth, cô bé có đạo ở thành phố Florence (Italia) thật đau lòng, khi bước lên bậc thang vào nhà thờ dự lễ, vì cô nghe tiếng cười nhạo của một nhóm đồng lứa tuổi. Cho dù muốn chống lại, em mỉm cười và trong nhà thờ em cầu nguyện cho những thiếu niên ấy.

Khi đi ra, các thiếu niên chặn em lại và hỏi lý do tại sao em xử sự như vậy. Em trả lời, mình là người có đạo, nên phải thương yêu luôn luôn. Em nói lên điều đó với niềm xác tín mạnh mẽ.

Chứng ta của em Elizabeth đã được thưởng công: Chúa Nhật sau đó em thấy tất cả các thiếu niên ấy trong nhà thờ, rất chăm chú ở hàng ghế trên cùng. Các thiếu niên chấp nhận Lời Chúa như thế. Do đó các em là người lớn trước mặt Chúa.

Có lẽ ta cũng nên điều chỉnh lại một vài tình trạng, hơn nữa cũng vì ta sẽ được xét xử theo như cách ta xét đoán người khác. Thật vậy, chính ta là người trao vào tay Chúa cái thước mà Ngài phải dùng để đo tình yêu của chúng ta. Ta đã chẳng xin Chúa: “Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con” đó sao? Vậy ta hãy yêu thương kẻ thù! Chỉ khi xử sự như vậy ta mới có thể sửa chữa lại sự chia rẽ, đạp đổ những hàng rào ngăn cách và xây dựng cộng đoàn huynh đệ.

Điều đó khó khăn sao? Nặng nề sao? Nó không để ta ngủ yên, ngay khi mới nghĩ đến sao? Hãy can đảm lên! Điều đó không phải là quá sức: một nỗ lực nhỏ từ phía ta, rồi 99 phần trăm Thiên Chúa sẽ làm, và… trong tâm hồn ta sẽ dâng trào niềm vui.

 

43.             Chúng ta có tiến bộ tí nào không?

(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ của Charles E. Miller)

 

Dòng giống nhân loại đã làm một tiến bộ vượt bực trong lịch sử gần đây. Hãy suy nghĩ về điều tương phản giữa một “toa xe không ngựa kéo và một chiếc xe hơi hiện đại”, hoặc sự khác nhau giữa “chuyến bay đầu tiên ở Kitty Hawk, Bắc Caroline vào năm 1903 và một cuộc du hành bằng máy bay hiện đại”. Vào một trăm năm trước, không người nào có thể tưởng tượng ra rằng người ta có thể ngồi trước một cái hộp, vừa gọi điện vừa nghe được tiếng nói, vừa xem thấy người đang trò chuyện với mình.

 

Những tiến bộ của chúng ta thật đáng kinh ngạc, nhưng một vấn nạn về luân lý và giáo dục vẫn còn tồn tại và nặng nề hơn cả người sống ở thế kỷ trước hay ba mươi thế kỷ qua. Chúa Giêsu trong Phúc Âm, Người đã ám chỉ tới sách Xuất hành, sách đó thuật lại sự kiện đã xảy ra trước khi Chúa Giêsu sinh ra khoảng một ngàn bốn trăm năm. Đoạn văn mà Người đã trích dẫn như sau: “Mắt đền mắt, răng đền răng”. Điều này có nghĩa là chỉ có mắt mới đền mắt được và chỉ có răng mới đền răng được. Nói cách khác, đây là một sự bào chữa cho một công lý chính xác vào một thời mà nền quân chủ ngự trị, không hè do dự phạt tội chết một người ăn cắp một quả nho trên bàn của vua. Hãy nhớ lại vào những ngày tháng của Chúa Giêsu, nhiều năm sau lời bào chữa này đã trở nên hòa hoãn hơn. Vua Hêrôđê đã không do dự chém đầu Gioan Tẩy Giả bởi vì vị quốc vương dại gái ấy đã làm một lời hứa ngu ngốc với một cô gái nhảy dâm đãng.

 

Chúa Giêsu tìm kiếm một nền đạo lý cao hơn cho những người đi theo Người. Nơi hình ảnh một bức tranh Người đòi hỏi chúng ta không nên nhấn mạnh đến một sự công lý nghiêm thẳng. Điều đó đang muốn nói đến án lệnh làm cho sự việc nên nghiêm trọng hơn. Chúa Giêsu còn đi xa hơn nữa. Người tuyên bố nếu chỉ yêu thương những người cùng dân tộc với mình thì không đủ. Người ban mệnh lệnh yêu thương ngay cả kẻ thù của mình và cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ mình. Những kẻ hoài nghi chế tạo những giáo huấn này. Họ nghĩ rằng Chúa Giêsu là một gã khờ khạo và những giáo huấn của Người là những lý tưởng không thể thực hiện được. Đương nhiên Chúa Giêsu không ngây thơ tí nào, Người rất khôn ngoan. Những lý tưởng Người đưa ra là những mục đích không phải là không đạt tới được. Ít nhất chúng ta cũng như những người có dit đã nghe và chấp nhận sự thách đố của Người: “Các con phải trở nên hoàn hảo như Cha các con ở trên trời là Đấng Hoàn Hảo”.

 

Thánh Phaolô hỏi chúng ta: “Anh em không ý thức anh em là Đền Thờ Chúa Thánh Thần ư, và Thánh Thần của Thiên Chúa ngự trong lòng anh em sao?”. Một sự khiêm nhượng giả hiệu sẽ không bao giờ làm cho chúng ta quên đi giá trị của mình. Chúng ta xét thấy nhà thờ là nơi thánh thiêng bởi vì đó là nhà của Thiên Chúa. Cùng một cách ấy, chúng ta phải nhận biết sự thánh thiêng của chúng ta vì nó là Đền Thờ của Thiên Chúa. Thánh Thần Thiên Chúa sống động bên trong chúng ta, biến đổi chúng ta nên con cái của Thiên Chúa, củng cố hình ảnh Con Thiên Chúa là Chúa Giêsu nơi chúng ta. Có phải không khi nói với chúng ta rằng chúng ta phải trở nên khác đi, rằng chúng ta không phải tự dối mình bằng việc suy nghĩ theo lối trần tục sao? Chúng ta được kêu gọi để hành động theo những tiêu chuẩn của Thiên Chúa, không phải theo những tiêu chuẩn của xã hội thế trần.

 

Khi chúng ta đến dự Thánh Lễ, việc đầu tiên chúng ta lắng nghe Lời Chúa, Thánh Kinh sẽ dẫn chúng ta đi đến những lý tưởng và những thách đố. Tiếp đó, chúng ta tham dự Phụng vụ Thánh Thể và chúng ta được lãnh nhận Mình và Máu Chúa. Thánh Thể là nguồn sức mạnh Thiên Chúa ban cho chúng ta để chúng ta tiến bước theo những lý tưởng của Thánh Kinh và để chấp nhận những thách đố ấy. Sẽ không có sự tiến bộ thật sự trong đạo đức nếu chúng ta không sẵn lòng cố gắng, dù vất vả cũng không hề chi để toàn tâm toàn ý với tiếng gọi của Chúa Giêsu là: “Các con hãy trở nên trọn lành như Cha trên trời là Đấng trọn lành”.

 

44.             Gợi ý giảng của Lm Carôlô.

SỐNG BẰNG YÊU THƯƠNG

1) Thế nào là thánh?

Trong các bài đọc hôm nay, chúng ta nghe được hai lời kêu gọi nên thánh như Thiên Chúa: “Các ngươi hãy nên thánh, vì Ta là Đấng Thánh” (bài đọc I); “Các con hãy nên trọn lành như Cha các con ở trên trời là Đấng trọn lành” (Bài Tin Mừng).

Thánh là thế nào?

Người ta thường hình dung vị thánh là một người khổ hạnh, xa lánh thế gian, chuyên chăm đọc kinh cầu nguyện… Vì hình dung như thế, người ta ngưỡng mộ các vị thánh nhưng không thích làm thánh.

Bài đọc I và bài Tin Mừng hôm nay hình dung vị thánh một cách rất dễ thương, dễ thích: Thánh là người cố gắng giống Chúa. Mà vì Chúa là tình yêu cho nên thánh là người sống yêu thương, chẳng những yêu thương những người thân cận với mình, mà còn yêu thương cả những kẻ thù ghét mình.

Một vị thánh như thế, ai mà không thích? Hình ảnh một vị thánh như thế, ai mà không muốn trở thành? Và những người thánh như thế, xã hội nào mà không cần đến?

 

2) “Mắt đền mắt, răng thế răng”

Toàn văn của khoản luật trả đũa được ghi trong sách Xuất hành (Xh 21,24) như sau: “Mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay, chân đền chân, phỏng đền phỏng, bầm đền bầm, sưng đền sưng”. Mục đích của khoản luật này là tuy cho phép trả đũa nhưng giới hạn sự trả đũa đúng mức bị gây hại: kẻ thù làm mình hư một mắt, mình có thể trả đũa làm cho nó hư lại một mắt (không được hai); nó đánh mình bầm, mình có thể đánh nó bầm lại (không được hơn)…

Một điều đáng buồn là ngay trong thời đại Tân Ước này, nhiều người chẳng những chưa giữ được giới hạn tối thiểu của luật Cựu Ước mà còn tệ hơn thế nhiều. Họ sống theo luật “Hòn đất ném đi, hòn chì ném lại”. Hãy nhìn tình hình xung đột bên Trung Đông giữa Palestine và Israel: một người của bên này bị bắn tỉa chết là liền sau đó một làng của bên kia bị máy bay bên này ném bom. Trên bình diện nhỏ hơn: hai đứa trẻ đánh nhau kéo theo hai gia đình xung đột với nhau; khi hai người cãi nhau, người này chửi một câu thì người kia đáp lại ba câu; người này nói “Cha mầy” thì người kia đáp lại “Tổ tiên sư mầy”…

Làm thế nào để chấm dứt xung đột? Cách giải quyết “Mắt đền mắt răng đền răng” rất khó dừng lại ở giới hạn hợp lý mà thường có khuynh hướng leo thang trả đũa. Còn nếu giải quyết bằng cách “Hòn đất ném đi hòn chì ném lại” thì xung đột càng leo thang nhanh hơn.

Đến đây chúng ta mới thấy giáo huấn của Đức Giêsu rất khôn ngoan. Xung đột chỉ chấm dứt được khi một bên chịu nhường nhịn. Nhường nhịn không có nghĩa là mình yếu, mình thua, nhưng là mình đang cố gắng nên thánh như Thiên Chúa ở trên trời là Đấng thánh.

 

3) Yêu thương kẻ thù không phải là thiện cảm, mà là thiện chí

Martin Luther King là một mục sư da đen, người đã đấu tranh để người da đen không còn bị người da trắng ngược đãi. Ông có một cách hiểu rất dễ chấp nhận về lời Chúa Giêsu dạy “Hãy yêu thương kẻ thù”, như sau:

“Trong Tân Ước, chúng ta thấy từ Agapè được dùng để chỉ tình yêu. Đó chính là tình yêu dồi dào không đòi một đáp trả nào hết. Các nhà thần học nói đó là tình yêu Thiên Chúa được thực hiện nới tâm hồn con người. Khi vươn lên một đỉnh tình yêu như vậy, chúng ta sẽ yêu hết mọi người, không phải vì chúng ta có thiện cảm với họ, cũng không phải vì chúng ta đánh giá cao lối sống của họ. Chúng ta yêu thương họ vì Thiên Chúa yêu thương họ. Đó chính là ý nghĩa lời Đức Giêsu dạy “Anh em hãy yêu thương kẻ thù”. Phần tôi, tôi sung sướng vì Ngài đã không nói “Anh em hãy có thiện cảm với kẻ thù của anh em” bởi vì có những người mà tôi khó có thiện cảm nổi. Thiện cảm là một xúc cảm. Tôi không thể có xúc cảm với người đã ném bom vào gia đình tôi. Tôi không thể có thiện cảm với người bóc lột tôi. Tôi không thể có thiện cảm với người đè bẹp tôi dưới sự bất công. Không, không thể có một thiện cảm nào đối với người đêm ngày đe dọa giết tôi. Nhưng Đức Giêsu nhắc tôi rằng tình yêu còn lớn hơn thiện cảm, rằng tình yêu là thiện chí biết cảm thông, có tính sáng tạo, cứu độ đối với hết mọi người” (Trích bởi Fiches Dominicales, Năm A, trang 201)

 

4) Mảnh suy tư

– Khi đọc lịch sử người ta rất buồn, không phải buồn vì những tội ác mà những kẻ ác đã phạm, cho bằng vì những sự trừng phạt mà người lành phải gánh chịu; và một cộng đoàn trở nên hung ác không phải do những tội ác thỉnh thoảng xảy ra cho bằng do thói quen xử dụng hình phạt. (Oscar Wilde)

– Tha thứ giống như cái gì? Giống như mùi hương mà bông hoa tỏa ra khi nó bị giẫm nát.

 

5) Lời cầu nguyện cuối ngày

Lạy Chúa, mỗi ngày khi chúng con đi ngủ là đi vào một cái chết nho nhỏ để chịu một cuộc phán xét nho nhỏ về một ngày vừa qua.

Ước gì khi đó từng điều lầm lỗi của chúng con đều đã được tha thứ, và từng điều không thánh thiện của chúng con đều đã được thánh hóa.

Xin đừng để còn một điều gì đi theo chúng con vào giấc ngủ mà chưa được tha thứ và thánh hóa.

Có như thế chúng con mới luôn sẵn sàng cho cuộc tái sinh vào cõi đời đời, chúng con dám nhìn về phía trước với ánh mắt chan chứa tình yêu và hy vọng và có thể đứng vững trước mặt Chúa là Đấng vừa là quan tòa vừa là Đấng cứu độ chúng con, một quan tòa thánh thiện và một đấng cứu độ yêu thương. (Đức Giám Mục Appleton)

 

6) Chuyện minh hoạ

a/ Trả thù

Một thanh niên trong làng bị lăng mạ cách thậm tệ. Anh vội vàng đến mục sư kể cho ông nghe và muốn đi trả thù ngay.

– Tốt hơn, con nên về nhà.

– Nhưng con bị nhục mạ.

– Vậy thì con càng nên về nhà ngay lúc này. Sự nhục mạ cũng giống như bùn.

– Đúng thế. Con sẽ làm sạch nó.

– Này con, có một điều con có thể học hỏi tốt ngay bây giờ và sau này: Bùn được gạt sạch dễ dàng khi nó khô.

 

b/ Tiêu diệt kẻ thù

Một hoàng đế Trung hoa tuyên bố sẽ tiêu diệt hết các kẻ thù. Nhưng ít lâu sau, thần dân thấy nhà vua đi lại, ăn uống với kẻ thù trước kia.

– Chẳng phải ngài đã từng nói là sẽ tiêu diệt hết kẻ thù?

– Đúng, ta đã tiêu diệt hết kẻ thù, vì ta đã biến họ thành bạn bè của ta.

 

45.             Nên hay dừng? – JM. Lam Thy

Cả chương 5 sách Tin Mừng theo Thánh Mat-thêu trỉnh thuật Lời dạy của Đức Giê-su nhằm giúp các môn đệ và những kẻ tin trở nên người công chính: Từ “8 mối phúc” đến “muối, men và ánh sáng cho đời”. Tiếp liền theo đó, Đức Giê-su lại dạy 5 “Đừng”: Đừng giận ghét – Chớ ngoại tình – Đừng ly dị – Đừng thề thốt – Chớ trả thù; và 1 “Nên”: Phải yêu kẻ thù.

Bài Tin Mừng tuần trước (CN VI/TN-A – Mt 5, 17-37) trích Lời Đức Giê-su dạy các môn đệ 4 “Đừng”; đến bài Tin Mừng hôm nay (CN VII/TN-A – Mt 5, 38-48), Người lại dạy thêm 1 “Đừng” nữa: Chớ trả thù. Vì sao con người hay trả thù? Chung quy cũng do tự ái quá cao mà thôi, bởi tự ái là gì nếu không phải là tự yêu mình. Khi chỉ biết yêu mình một cách thái quá thì sẽ cho là mình đúng, lúc nào và trong trường hợp nào cũng đúng hết. Bởi thế nên được người khen thì chẳng nói làm gì, nhưng bị chê thì sửng cồ lên ngay. Bị phê bình trúng tim đen thì bằng mọi giá sẽ tìm cách trả đũa. Nói cách khác, khi con người tự ái quá đáng, sẽ rất dễ giận ghét và từ giận ghét sẽ đưa đến hành động trả thù.

Ngay trong Cựu Ước, Lề Luật cũng dạy: “Luật báo phục tương xứng: Mạng đền mạng, mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay, chân đền chân.” (Đnl 19:21); “Nếu ai làm cho người đồng bào phải mang tật, thì phải xử với nó như nó đã xử với người ta: chỗ gãy đền chỗ gãy, mắt đền mắt, răng đền răng; nó đã làm cho người khác mang tật thế nào, thì người ta cũng sẽ làm cho nó như vậy.” (Lv 24, 19-20); “Nếu có gây tổn thương, thì ngươi phải lấy mạng đền mạng, mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay, chân đền chân” (Xh 21, 23-24). Mới nghe qua những điều khoản đó thì thấy quả thật là Lề Luật quá khe khắt. Và cũng vì thế nên đã có những bài suy niệm cho rằng hành động như vậy là phản Ki-tô giáo. Sẽ có phản biện: Nếu là phản Ki-tô giáo thì tại sao Đức Giê-su không bãi bỏ mà Người lại dạy “Thầy đến không phải để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn Lề Luật” (Mt 5, 17)?

Thực ra, vấn đề cũng không đến nỗi nan giải cho lắm. Trước hết, cần phải hiểu Lề Luật của Cựu Ước dù sao cũng chỉ là luật do con người đặt ra, mà đối với con người thì chỉ thích sòng phẳng theo kiểu “ân đền oán trả” (đền ơn trả oán), nên mới đòi “mạng đền mạng, mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay, chân đền chân”. Tuy nhiên, điều cần lưu ý là lề luật có tính răn đe: Chỉ có nghiêm ngặt như vậy mới có thể răn đe, ngăn ngừa người ta phạm tội. Coi lại câu chuyện Nguyên tổ phạm tội thì vấn đề sáng tỏ ngay. Thiên Chúa đưa ra giới luật “trái cấm” cũng là để răn đe. Nếu con người biết vâng phục thì đâu có sao. Đã không vâng lời, còn muốn trở nên “những vị thần biết điều thiện điều ác” (St 3, 5) ngang bằng với Thiên Chúa, nên mới thành cớ sự. Biết là tội mà còn cứ cố tình phạm tôi, rõ ràng Nguyên tổ loài người đã tự xử án mình. tự kết án mình vậy. Đức Giê-su Thiên Chúa cũng đã từng khẳng định: “Ai nghe những lời tôi nói mà không tuân giữ, thì không phải chính tôi xét xử người ấy, vì tôi đến không phải để xét xử thế gian, nhưng để cứu thế gian. Ai từ chối tôi và không đón nhận lời tôi, thì có quan toà xét xử người ấy: chính lời tôi đã nói sẽ xét xử người ấy trong ngày sau hết.” (Ga 12, 47-48).

Không những chỉ khuyên “Chớ trả thù”. Đức Giê-su còn đi xa hơn: “Phải yêu kẻ thù”. Để cụ thể hóa vấn đề, Người lại tiếp tục dùng kiểu nói “Luật dạy rằng… Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết…”, để răn dạy môn đệ: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Mắt đền mắt, răng đền răng. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa. Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài. Nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm. Ai xin, thì hãy cho; ai muốn vay mượn, thì đừng ngoảnh mặt đi.” (Mt 5, 38-42). Đã không “ăn miếng trả miếng”, mà lại còn lấy đức độ mà đáp trả oán thù (dĩ đức báo oán), sẵn sàng chịu đựng gấp bội sự tàn độc của ác nhân, thì quả là… thiên nan vạn nan, khó lòng mà chấp hành.

Con người chỉ có thể tự yêu mình (tự ái), khó lòng yêu được người khác, chớ đừng nói đến yêu cả kẻ thù. Mà có lẽ cũng chính vì thế nên mới có vụ “cửa rộng, cửa hẹp” (“Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy. Mt 7, 13-14). Như vậy thì phải làm sao? Cái đó hoàn toàn tuỳ thuộc vào bản thân, bởi “Trước mặt con, Người đã đặt lửa và nước, con muốn gì, hãy đưa tay ra mà lấy. Trước mặt con người là cửa sinh cửa tử, ai thích gì, sẽ được cái đó” (Hc 15, 16-17). Nếu không muốn bận tâm bận trí, không muốn hy sinh này, thiệt thòi khác, con người được quyền tự do chọn cho mình cửa rộng – còn rộng thênh thang nữa kia! – còn ngược lại, sẽ được vào cửa hẹp.

Nói cách khác, con người hoàn toàn tự do khi yêu hoặc ghét, Chúa không hề ngăn cấm hay bắt buộc, Người chỉ khuyên bảo, nhắc nhở thôi. Có lẽ cũng nhờ thế mà trong cuộc sống vẫn còn nhiều thật nhiều những con người sẵn sàng quyết tâm chọn cho mình cửa hẹp. Thế thì tại sao lại cứ đưa cái tự ái lố bịch của mình lên quá cao như thế? Vâng, hãy bình tâm lại mà  “xoay cái nhìn ra khỏi cái tôi”, để thấy được rằng mình đã “nhận” quá nhiều từ Thiên Chúa, kể cả của anh em đồng loại. Vậy tại sao lại cứ khép chặt cửa lòng, bịt chặt miệng túi, mà không biết đem chia sẻ với anh em những gì mình đã được nhận? Hãy nhớ rằng, nếu bản thân có đem “cho” anh em cái gì thì cái đó cũng chẳng phải là của riêng mình, mà là của Thiên Chúa đã ban cho, vậy đâu có mất mát thiệt thòi gì mà cứ phải ca cẩm? Vâng, Lời Chúa còn rành rành ra đó: “Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy.” (Mt 10, 8).

Như vậy là đã rõ, Đức Giê-su không bãi bỏ Lề Luật, “dù một chấm một phết cũng không thay đổi”, mà Người chỉ “kiện toàn”. Nói cho dễ hiểu hơn thì Lề Luật vì do con người soạn thảo nên chưa đầy đủ, chưa nêu bật được cái cốt lõi của vấn đề (giữ Lề Luật để phụng thờ, tôn vinh Thiên Chúa). Vì thế, Người mới dùng cách nói “Luật dạy rằng… Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết…” để các môn đệ hiểu được rằng những điều Lề Luật dạy chỉ là những “lý lẽ”, những “tư tưởng của loài người”, và cần phải nhìn vấn đề theo “tư tưởng của Thiên Chúa”, đó là “điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, lòng nhân và thành tín. Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ.” (Mt 23, 23). Và cũng vì “điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, lòng nhân và thành tín”, nên sau 5 lời khuyên “Đừng”, thì tiếp liền theo đó, Đức Ki-tô lại khuyên “Nên” (“Phải yêu kẻ thù”). Thay vì “lấy oán báo oán (“dĩ oán báo oán”) thì hãy lấy ơn báo oán (“dĩ đức báo oán”).

Cả 6 điều khuyên bảo “Đừng” và “Nên”, xét cho thấu đáo, đều nằm trong luật yêu thương, mà ở đây là Luật yêu thương của Thiên Chúa (vô hạn) chớ không phải của con người (hữu hạn). Nói về luật yêu thương thì chính là nói về nguyên lý tình yêu, nguyên lý ấy xuất phát từ Thiên-Chúa-Tình-Yêu. Vâng, kể từ khi Thiên Chúa dựng nên vũ trụ, muôn loài, thì đã vì tình yêu mà Người dựng nên loài người và đặt làm chủ mặt đất. Con người đầu tiên được sinh ra chỉ có một mình, Thiên Chúa lại thương “Con người ở một mình thì không tốt” (St 2, 18), nên ban cho một người bạn khác giới tính để từ đó có thể sinh sôi nảy nở cho đầy mặt đất. Sự đối kháng giới tính không nhằm loại trừ nhau mà là bổ túc cho nhau, hỗ trợ nhau nên hoàn thiện. Cũng vì tình yêu, không những Thiên Chúa dựng nên con người giống hình ảnh Người, có nam có nữ, mà Người lại ban cho con người một đặc ân là được tự do đến gần như tuyệt đối. Cũng vì được tự do như vậy, nên con người đã vượt qua giới răn của Thiên Chúa mà phạm tội. Sau khi phạm tội, con người vẫn không bị trách phạt; chẳng những thế, còn được Thiên Chúa ban Con Một xuống thế để cứu chuộc, để giải thoát con người khỏi ách thống trị của tội lỗi và đem lại đời sống vĩnh cửu. Nếu không vì tình yêu, thì Thiên Chúa có đối xử với con người như vậy không?

Nói tóm lai, bản chất con người vốn dĩ là thích yêu hơn bị ghét, và nếu có yêu thì chỉ thích yêu mình hơn cả. Còn oái oăm hơn nữa là khi thù ghét người khác thì lại không muốn người ta thù ghét mình. Nếu không vì thế, các bậc thánh hiền đã không mất công truyền dạy “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” (điều mình không muốn thì đừng làm cho người khác), “ái nhân như ái thân” (yêu người như yêu mình). Thiên Chúa thì còn hơn thế nữa, tình yêu Người dành cho nhân loại đã lên tới tuyệt đỉnh: Người đã ban cả Con Một làm giá chuộc muôn người vì tình yêu. Và chính Con Một Thiên Chúa – Đức Giê-su Ki-tô – luôn luôn day: “Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Mô-sê và lời các ngôn sứ là thế đó” (Mt 7, 12); “Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12); “Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13, 15).

Ôi! Lạy Chúa! Chúa đã dựng nên con, đã ban cho con một tấm lòng, một trí khôn biết phân biệt thiện ác, biết yêu và ghét, và nhất là đã ban cho con sự tự do tuyệt đối, để con có thể tự quyết định cuộc đời của mình bằng cách lựa chọn một con đường. Con đã sai lầm trong lựa chọn để chỉ biết yêu mình trên hết, co mình vào cái vỏ ốc “ích kỷ” đến độ có thể “hại nhân” (“ích kỷ hại nhân”: lợi mình hại người). Xin Chúa đoái thương, ban cho con một tâm hồn quảng đại, một tấm lòng bao dung độ lượng; xin cho con biết yêu người như yêu chính mình, biết coi tất cả mọi người (kể cả những người thù ghét con) đều là anh em một nhà (“tứ hải giai huynh đệ”), cùng con một Cha trên trời.

Ôi! “Lạy Chúa từ nhân, xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người. Lạy Chúa xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa, để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hoà vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm. Để con đem tin kính vào nơi ghi nan, chiếu trông cậy vào nơi thất vọng. Để con dọi ánh sáng vào nơi tối tăm, đem niềm vui đến chốn u sầu. Lạy Chúa xin hãy dạy con, tìm an ủi người hơn được người ủi an, tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết, tìm yêu mến người hơn được người mến yêu. Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ, chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời. Ôi Thần Linh thánh ái! Xin mở rộng lòng con, xin thương ban xuống những ai lòng đầy thiện chí, ơn an bình.” (TCCĐ Kinh Hoà Bình). Amen.

 

46.             Yêu thương tha nhân không giới hạn

(Suy niệm của Lm. FX Vũ Phan Long)

1.- Ngữ cảnh

Câu Mt 5,17 đưa vào một vấn đề: tương quan giữa Luật Môsê và các Ngôn sứ, tức trọng tâm của niềm tin Cựu Ước, và giáo huấn của Đức Giêsu, trọng tâm của niềm tin Kitô giáo. Vấn đề được minh nhiên cứu xét trong phân đoạn 5,20-48 là bản văn nói về sáu “cặp đối nghĩa”. Phân đoạn này cho thấy tính cách mới mẻ trong giáo huấn của Đức Giêsu so với chính các bản văn Cựu Ước.

Bản văn chúng ta đọc hôm nay đề cập đến hai cặp đối nghĩa cuối cùng: chớ trả thù (5,38-42) và phải yêu kẻ thù (cc. 43-48).

2.- Bố cục

Bản văn có thể chia thành hai phần:

1) Chớ trả thù (5,38-42);

2) Phải yêu kẻ thù (5,43-48).

3.- Vài điểm chú giải

– mắt đền mắt, răng đền răng (38): Đây là luật hình sự dựa trên nguyên tắc đối trọng: ai đã gây thiệt hại, thì phải sửa chữa thiệt hại đã gây ra. Xem Xh 21,23-25; Lv 24,19-20; Đnl 19,21; Bộ luật Hammourabi (2000 năm tCN).

– đừng chống cự người ác (39): Lời này được ngỏ với kẻ bị xúc phạm để họ biết xử sự đúng tư cách là môn đệ Chúa Kitô, chứ không phải là nhằm hủy bỏ nền luật pháp hiện hành (thánh Phaolô đã vận dụng luật pháp này: x. Cv 25,11). Chính cách xử sự này cho thấy rằng các bộ luật hình sự chỉ có tính cách nhất thời, giới hạn.

– đi một dặm (41): Có lẽ đây là một dịch vụ. Các lính tráng và quan chức có thể bắt người qua đường vác một gánh nặng (trường hợp Simôn Kyrênê) hoặc đi với họ như là con tin hoặc như người dẫn đường.

– Ai muốn vay mượn (42): Bên Paléttina, “cho vay thường tương đương với bố thí (x. Hn 29,1). Người Israel không được cho người đồng chủng vay lấy lãi (Xh 22,24; Lv 25,35-37; Đnl 15,7-11; 23,20-21).

– hãy yêu kẻ thù (44): Động từ agapaô nói đến một tình yêu hy sinh cho người kia. Tình philia (phileô) là một tương quan đặc biệt, một sự trao đổi, một sự đồng thuận hỗ tương dựa trên các phẩm chất tự nhiên, sự để ý đến nhau, sự đồng cảm. Còn eraô (eros) là tình yêu phàm tục.

– nên hoàn thiện (48): Teleios (Hp. tamim) có nghĩa là đã đạt tới đích (telos), tức là tới mức thể hiện tối đa; như thế là không có lỗ hổng, khiếm khuyết, giới hạn.

4.- Ý nghĩa của bản văn

* Chớ trả thù (38-42)

Luật báo phục (“mắt đền mắt, răng đền răng”) hình thái triệt để nhất và cũng sơ khai nhất của luật hình sự; luật báo phục chính là việc hợp pháp hóa sự công bình riêng tư. Thật ra, vào thời Đức Giêsu, người ta không còn áp dụng luật này cách cứng ngắc nữa, vì đã tạo ra những hình thức khác để nộp phạt (đóng tiền…). Tuy nhiên, Đức Giêsu đã lấy luật báo phục làm điểm xuất phát để giáo huấn: với năm ví dụ cụ thể (cc. 39b-42), Người mời gọi các thính giả đi xa hơn thái độ cam chịu thụ động: không những không đáp lại sự dữ bằng sự dữ, nhưng còn phải đáp lại sự dữ bàng sự lành, sự thiện. Bằng các ví dụ đó, Đức Giêsu cho các môn đệ hiểu rằng Thiên Chúa Cha chờ đợi họ sẵn sàng cho đi trọn vẹn, cho đến mức tối đa, nếu hoàn cảnh đòi hỏi. Do đó, không phải là cứ áp dụng sát mặt chữ những ví dụ của Đức Giêsu, nhưng là hiểu cho đúng để áp dụng cho đúng. Vấn đề không phải chỉ là đưa má kia cho người ta tát tiếp, nhưng là cống hiến một không gian để kẻ gian ác có thể suy nghĩ về các lầm lạc của họ.

Chịu vả vào cả hai má, nhường cả áo ngoài cho kẻ đòi áo trong, đi hai dặm với một người bắt anh đi một dặm, anh muốn vay mượn, thì hãy cho vay mượn, tất cả đều là những hành vi diễn tả thái độ Kitô hữu, nhưng không đúng ý Chúa Kitô nếu người bị khổ không chịu khổ vì tình yêu đối với những kẻ gây bất công cho mình.

* Phải yêu kẻ thù (43-48)

Với cặp đối nghĩa cuối cùng này, Đức Giêsu cho hiểu rằng sự hoàn thiện của Chúa Cha, đó là tình yêu. Sách Lêvi (19,18) buộc người Híp-ri yêu thương người re’a (HL ho plêsios, người thân cận), là người cùng sống giao ước với Đức Chúa, những thành viên của cộng đồng dân Thiên Chúa; người ngoại quốc (gêr) mà đi vào cộng đồng tôn giáo với người Israel thì cũng được hưởng tình yêu này. Sự thù ghét kẻ thù không được quy định trong Lề Luật, nhất là với một công thức sống sượng như thế. Sự thù ghét này phát sinh như một hậu quả của luật yêu thương người thân cận.

Kẻ thù đầu tiên được kể ra, đó là “những kẻ ngược đãi”. Đây hẳn là những kẻ thù chống lại niềm tin của ta, chống lại lối sống Kitô giáo. Yêu kẻ thù không có nghĩa là trở thành bạn hữu của họ, nhưng là tỏ ra thông cảm, nhân ái, và sẵn sàng trợ giúp. Đức Giêsu đã yêu thương mọi người, nhưng không phải không có những sự ưu ái đối với một số người, và cũng không ngại nói lên lời răn đe và trách mắng các đối thủ. Tình yêu đối với kẻ khác được diễn tả ra bằng hai ví dụ mẫu: cầu nguyện cho kẻ thù và “chào hỏi” mọi người không phân biệt. (x. Lc 23,34; Cv 7,60). Người Kitô hữu phải mở rộng vòng người thân cận ra bên ngoài những gì Luật dạy và những ngươi thu thuế (telônai) và dân ngoại (ethnikoi) vẫn thực hành. Người plêsios không chỉ là “những người công chính”, “những người tốt” (c. 45), “những ai yêu thương anh em” (c. 46), “các anh em” (c. 47), nhưng tất cả mọi người, đặc biệt các “kẻ thù” (cc. 43-44), “những kẻ ngược đãi anh em” (c. 44), “những người xấu” và “những người bất chính” (c. 45).

Đức Giêsu đưa điều răn yêu thương về lại với ý hướng của Đấng Lập pháp đầu tiên. Tình yêu buộc phải cung cấp cho mọi người những gì phải làm: sự tín nhiệm, sự trân trọng, sự trợ giúp. Cũng như trong những cặp đối nghĩa khác, Đức Giêsu không chỉ cho một lời khuyên, nhưng ban một lệnh mới cho các tương quan giữa con người. Người môn đệ chỉ trở thành con của Chúa Cha trong mức độ người ấy mô phỏng lối xử sự của mình theo cách ứng xử của Chúa Cha, nghĩa là yêu thương người khác, kể cả kẻ thù, y như Chúa Cha vẫn yêu thương họ. Khi yêu thương mọi người không phân biệt kỳ thị, người Kitô hữu chứng tỏ cách chắc chắn và trung thực nhất dây quan hệ họ hàng với Thiên Chúa. Câu “anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48) làm vọng lại lời mời gọi của sách Đnl (18,13): “Anh (em) phải sống trọn hảo với Đức Chúa, Thiên Chúa của anh (em)” và của sách Lêvi (19,2): “Hãy nói với toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en và bảo chúng: Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Đấng Thánh”.

+ Kết luận

Luật Kitô hữu là luật yêu thương. Khi người môn đệ Chúa Kitô chấp nhận những từ bỏ do luật này đòi hỏi, luật yêu thương này chứng tỏ được tất cả trọng lượng của nó. Nếu các nguyên tắc được công bố ở đây đi vào trong xã hội, xã hội này hẳn là sẽ không bị tiêu vong, nhưng sẽ thấy các tương quan giữa con người được đổi mới, bởi vì các bất công và bạo động sẽ bị dập tắt dễ dàng nhờ sống theo luật này hơn là do sợ các biện pháp chế tài hình sự. Thật ra đây chính là lối sống của Đức Giêsu. Đức Giêsu đã chết vì không nhường bước trước các áp lực của sự thận trọng hoặc của lương tri. Khi làm như thế, Người không đảo lộn trật tự xã hội, nhưng Người củng cố các tương quan giữa con người với con người. Bắt chước Thiên Chúa, và cũng là bắt chước Đức Giêsu, là quy tắc duy nhất của lối cư xử của Kitô hữu, là con đường duy nhất để vượt qua nền luân lý Pharisêu.

5.- Gợi ý suy niệm

  1. Qua giáo huấn của Người, Đức Giêsu giúp chúng ta nhìn vào đời sống Kitô hữu giữa lòng xã hội. Như bất cứ ai, người Kitô hữu cũng có khi là đối tượng của những bất công, của bạo động; họ bị xử thô bạo, hành hạ, đánh đập, bỏ tù, xử bất công. Đức Giêsu đề nghị không phải là một cách thức xử sự mang tính tự vệ hoặc chỉ là bất bạo động, nhưng còn là chấp nhận bị tước đoạt vô điều kiện.
  2. Khi chịu xử bất công, người môn đệ Chúa Kitô vác thập giá cho những kẻ đã chuẩn bị thập giá cho mình. Không phải là những hành vi thể lý là đáng kể, nhưng là những động lực khiến người ta chấp nhận, không vì yếu đuối hoặc hèn nhát, nhưng là để khỏi gây thiệt hại cho người anh em hư hỏng, lạc đường.
  3. Đức Giêsu không đề nghị một trật tự mới cho các tương quan xã hội, nhưng một nguyên tắc sống khổ chế có khả năng minh họa và giải thích trước thái độ của Người đối với người Pharisêu và các kẻ bách hại Người nói chung.
  4. Luật Tình yêu kẻ thù đảo lộn các cách xử sự theo quy ước của loài người. Thường yêu thương là quan tâm đến những ai có cùng kiểu nhìn như mình, trình độ văn hóa như mình, địa vị xã hội như mình. Sứ điệp Tin Mừng vượt quá các giới hạn ấy. Đức ái Kitô giáo không “cào bằng” các con người, nhưng tỏ ra kính trọng họ, thậm chí cả các giới hạn và khiếm khuyết của họ. Lòng nhân ái của Kitô hữu là thông dự vào tình yêu của chính Thiên Chúa.
  5. Từ ngữ “hoàn thiện” in vào trong lối hành xử của Kitô hữu một sức năng động. “Hoàn thiện” là vượt qua mọi thiếu sót, như thế là không bao giờ thực hiện được vĩnh viễn, nhưng cứ tiến tới mãi, và nếu mức độ là sự hoàn thiện của Thiên Chúa, thì ta chẳng bao giờ đạt tới được mức thực hiện hoàn toàn. Nên hoàn thiện như Chúa Cha, trong cụ thể, là bắt chước Đức Kitô trong thái độ quy phục trọn vẹn, anh hùng, thánh ý Thiên Chúa, và trong sự tận tình sống cho anh chị em.

 

47.             Chú giải của Noel Quesson

“Anh em đã nghe luật dạy người xưa rằng….còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết…”

Tiếp nối bài giảng trên núi, chúng ta đang ở phần đề thứ năm và thứ sáu trong luật mới. Đức Giêsu đã chống lại những gì đã được nói trước kia hay đúng hơn người kiện toàn chúng. Nhưng cách nói này có một uy quyền chưa từng thấy, nhất là khi người ta biết công thức ở thể thụ động (“luật dạy người xưa” = luật được dạy cho…) là một ngữ điêu trong ngôn ngữ Do thái, được dùng vô vị, để tránh việc sử dụng danh của Thiên Chúa mà người ta không bao giờ nói ra vì lòng tôn kính Người. Nói rõ ra công thức này có nghĩa; “Thiên Chúa đã nói..còn Thầy, Thầy cho anh em biết…”. Cũng thế, công thức “anh em đã được nghe, được dạy…” gợi lại việc đọc trang trọng luật trong phụng vụ ở Hội Đường. Đó là luật thánh, bất khả xâm phạm toả ánh vinh quang của núi Xi-nai. Vậy, Đức Giêsu đã dám chống lại lời của Thiên Chúa, sách kinh Tô-ra bằng những khẳng định riêng Người. Không bao giờ có một ngôn sứ nào đã nói như thế. Vai trò của họ chỉ là truyền đạt lại hay chú giải sứ điệp của Thiên Chúa: “Đức Chúa nói như thế…” Để nói như Đức Giêsu, phải là người điên hoặc là Thiên Chúa.

“Thiên Chúa đã dạy anh em… Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em…” Người ta biết rằng Người đã bị buộc tội phạm thánh.

Nhưng phần tiếp theo sẽ chứng tỏ cho chúng ta thấy rằng đó là một sứ điệp thật sự siêu phàm, một sứ điệp của Thiên Chúa!

Anh em đã nghe Luật dạy rằng: “Mắt đền mắt, răng đền răng”. Còn Thầy, Thầy bảo anh em đừng chống cự người ác…”

Tầm thước thời đại của chúng ta… khó mà hiểu được “luật phạt ngang bằng” (loi du talion). Làm thế nào mà Luật của Môsê (Luật của Thiên Chúa) đã có thể phát biểu một luật như thế. Vả lại, luật này đã là một tiến bộ to lớn đối với bản năng: trả thù rất tự nhiên nơi con người. Bởi luật phạt ngang bằng ấy, những luật theo tập quán của Phương Đông Cổ đại (ví dụ: bộ luật Ham mourabi) cố gắng giới hạn những sự trả thù thái quá. Hành động tự nhiên của người bị tấn công là “trả đũa nhiều hơn”. Như một bài ca man rợ mà La-méc đã hát: “Ca-in sẽ được báo thù gấp bảy, nhưng La-méc thì gấp bảy mười bảy…” (St 4,24). Vì thế luật ấy đã cố gắng giới hạn bạo lực và khuyến cáo chỉ nên bắt kẻ tấn công chịu sự đối xử giống như người này bắt nạn nhân của hắn phải chịu (Xh 21, 24; Lv 24,20; Đnl 19,21). Hình như chúng ta đã hoàn toàn vượt qua luật này của Kinh Thánh vì nó được viết ra cho một thời- đại khác với thời đại của chúng ta. Than ôi! Nếu như người ta cứ sống mãi theo luật hình phạt ngang bằng! Biết bao thành phố bị ném bom bởi sự “trả thù” thật biết bao cuộc đấu tranh chủng tộc, quốc gia, xã hội trong đó người ta áp dụng điều ngược lại với “luật hình phạt ngang bằng, nghĩa là sự leo thang của bạo lực”. Nó áp dụng cho người nào sẽ là người mạnh nhất cho người nào sẽ trả đũa lại những cú đòn đã nhận được! người ta nói một cách ngây thơ về ‘những tương quan lực lượng’ nhưng đó luôn luôn là một bản năng man rợ lâu đời.

Đức Giêsu đã táo bạo mời gọi con người đi đến hoàn thiện của tình yêu Người bảo chúng ta rằng không nên trả thù về mọi việc… không nên đánh trả kẻ hung ác! và vốn là một nhà thuyết giảng cụ thể, đại chúng, Người sẽ cho chúng ta bốn ví dụ:

“Nếu ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa…

Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài…

Nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dăm…

Ai xin thì anh hãy cho; ai muốn vay mượn thì anh đừng ngoảnh mặt đi..”

Ở đây cũng thế, Tin Mừng không bao giờ cho chúng ta những công thức đạo đức hoàn toàn có sẵn. Điều quan trọng là một “tinh thần” chứ không phải là một “quy tắc”. Chính Đức Giêsu, khi đã nhận cái vả của người đầy tớ Thượng Tế, đã không giơ má kia ra! Người đã đáp lại dũng cảm và xứng đáng: “Sao anh lại đánh tôi” (Ga 18,23).

Vả lại người ta không có quyền dựa trên những lời đó của Đức Giêsu để bảo lãnh cho sự bất công, ở đây, chúng ta không có những quy tắc luật pháp có thể áp dụng nguyên xi cho xã hội dân sự: điều này sẽ khuyến khích tình trạng ăn xin, khích lệ bạo lực và tội ác, không bảo đảm sự trừng phạt những kẻ bất lương. Chắc chắn, Đức Giêsu đã không muốn công nhận một tình trạng áp bức bất bình thường khi đòi hỏi những kẻ yếu phải cam chịu. Cũng có những trường hợp mà một môn đệ chân chính của Đức Giêsu phải chiến đấu: cam chịu sự bất công, nhất là sự bất công mà những người khác là nạn nhân, hoàn toàn trái ngược với tinh thần của Đức Giêsu. Sau khi đã nêu ra những khía cạnh đó, hãy để Đức Giêsu tra hỏi chúng ta. Phải, tất cả chúng ta đều phải chiến thắng bản năng trả thù tròng con người của mình. Điều ác sẽ không bị vượt qua khi chúng ta đáp lại nó bằng một sự tàn nhẫn tương đương. Khi người ta trả đũa điều ác bằng điều ác, người ta trở về với vòng tròn hỏa ngục. Thật vậy, điều ác mà chúng ta chịu đựng thật ra vẫn còn ở bên ngoài chúng ta. Nhưng khi người ta đáp trả lại điều ác, điều ác ấy sẽ có thêm một chiến thắng phụ nữa, bởi vì nó đã đi vào lòng chúng ta. Đức Giêsu muốn mở ra một con đường khác cho nhân loại: chiến thắng điều ác bằng điều thiện, dùng tình yêu để đáp lại hận thù.

“Anh em đã nghe Luật dạy rằng: “hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù”.

Trong Kinh Thánh, người ta có tìm kiếm một quy tắc như nhưng thế cũng vô ích. Thật vậy, Đức Giêsu muốn ám chỉ thái độ thông thường của toàn thể nhân loại; được diễn tả rất mạnh trong nhiều bài Thánh vịnh về “sự trừng phạt của Chúa”, trong đó lòng thù ghét tội lỗi đi đến chỗ biện minh cho sự thánh chiến: “Lạy Chúa, ước chi Ngài tiêu diệt kẻ gian tà… Lạy Chúa, kẻ ghét Ngài, làm sao con không ghét? Con ghét chúng, ghét cay, ghét đắng, chúng trở thành thù địch của chính con” (Tv 139,19-22). Những thủ bản kinh Thánh ở Qumram có lệnh truyền này: “Ngươi sẽ ghét những đứa con của bóng tối”. Vả lại, phải hiểu ở đây trước hết không phải là những kẻ thù của mình mà là những “kẻ thù của Thiên Chúa” tức là những kẻ thù của của nhóm giáo sĩ gồm “con cái của ánh sáng. Vậy sự thù ghét trước hết có ý nghĩa là từ chối ý thức hệ của họ.

“Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính”.

Đây là điều mới mẻ cao cả nhất của Tin Mừng. Cho đến bây giờ người ta đã cầu nguyện “chống lại” các kẻ thù của mình (Thánh vịnh 17,13; 28,4; 69,23-29; v.v…) Giờ đây phải cầu nguyện cho họ, nghĩa là để cho họ được hoán cải. Nhưng hãy coi chừng, người ta không thể sống Tin Mừng, bằng cách chỉ ở lại trên bình diện con người. Làm điều mà. Thiên Chúa vừa đòi hỏi chúng ta là đã vượt quá những khả năng của con người. Nếu Đức Giêsu bảo chúng ta yêu mến kẻ thù, chúng ta bởi vì Thiên Chúa là người đầu tiên yêu chúng ta như thế Phải đọc lại đoạn văn nổi tiếng của thánh Phaolô gởi tín hữu Rôm (5,7.8): “Hầu như không ai chết vì người công chính, họa may có ai dám chết vì một người lương thiện chăng. Thế mà Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi”. Khi chúng ta đứng trước một tình yêu thương mà về mặt con người, chúng ta khó sống hoặc không thể sống nổi thì chúng ta không còn ở lại trên bình diện tâm lý, đạo đức và xã hội… mà phải đặt mình trước măt ảnh chuộc tội: Lạy Chúa Giêsu con của Chúa Cha, Chúa đã muốn điều tốt lành cho những người muốn Chúa chịu điều ác… Chúa đã đau khổ và đã chết… Tình yêu chúng kẻ thù chỉ có thể đến từ Thiên Chúa không ngừng thực hiện, ‘Người cho mặt trời của Người mọc lên trên cánh đồng của người vô thần bách hại đạo, cũng như trên khu vườn của các nữ tu Cát Minh’. Bạn có tự hỏi mình phải làm gì để yêu thương người không yêu thương bạn không?

Thiên Chúa đã yêu bạn như thế nào? Bằng cách không ngừng tha thứ cho bạn. Đức Giêsu chỉ dám yêu cầu chúng ta sống tình yêu thương xem ra không thể có đối với kẻ thù bởi vì Người đã sống nó trước tiên: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34).

“Vì nếu anh em yêu thương kẻ yêu mình, thì anh em nào có công chi? Ngay cả những người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao? Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em mình thôi, thì anh em có gì lạ thường đâu? Ngay cả người ngoại cũng chẳng làm như thế sao?

Người đã nói: chúng ta hãy trở thành muối và ánh của thế gian. Vì thế Người mời gọi chúng ta chấp nhận một cung cách hoàn toàn mới về mặt nhân loại là không thể có cắt đứt với mọi cung cách của những người khác. Để bắt chước Thiên Chúa; noi gương Người, chúng ta phải đi đến tận cùng tình yêu ấy vốn không đơn giản là một tình yêu có qua có lại: Tôi yêu thương bạn bởi vì bạn yêu thương tôi, tôi chào bạn bởi vì bạn chào tôi… Đức Giêsu nói, người ngoại cũng chẳng làm như thế. Phần Thiên Chúa; trước sự khước từ tuyệt đối không đáp lại tình yêu, Người vẫn duy trì quyết định tuyệt đối là yêu thương. Theo Đức Giêsu yêu không thể chỉ được giản lược vào bình diện tình cảm, sự lôi cuốn, cảm tính, quyến luyến. Đức Giêsu không chê trách tình yêu đó, mà chúng ta rất cần. Ai có thể sống mà không có sự dịu dàng âu yếm đó? Có điều, Đức Giêsu bảo chúng ta rằng không nên ở lại mãi trong tình yêu đó.

Phải Đức Giêsu bảo chúng ta phải yêu thương kẻ thù của mình. Và chúng ta có sẵn nghệ thuật xoa dịu yêu sách của Tin Mừng, chúng ta nói: ‘Tôi không có kẻ thù…’ Lúc đó, chúng ta phải chấp nhận ánh sáng sống sượng và mạnh mẽ mà Đức Giêsu soi chiếu trên cuộc đời con người đã mang dấu ấn của những xung đột không thể tránh khỏi: Thật ra mọi người không giống tôi đều xúc phạm và làm tôi tổn thương. “Cái làm cho người khác khác tôi”, cáo giác tôi và nhắm đến việc loại bỏ tôi… ‘Tính tình ấy rất khác tính tình của tôi’ làm tôi bực dọc giết chết tôi. ‘Cái cách nói năng đó… cái cách cư xử đó…’ làm tôi phát cáu. Bạn đừng chờ đến ngày mai. Ngay trong giây phút này bạn. hãy ngừng ngay suy nghĩ của bạn…. và hãy làm điều Đức Giêsu bảo bạn: Hãy cầu nguyện, dù chỉ trên danh nghĩa cho những người làm bạn bực bội, những người làm bạn đau khổ, những người mà bạn không yêu hoặc những người không yêu bạn.

“Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện”.

Yêu thương những người không yêu chúng ta… đó là noi gương Thiên Chúa. Hãy làm điều thiện hảo cho những ai làm hại chúng ta, đó là điều linh thánh. “Kitô hữu là gì? Đó không phải là đã đạt đến mục đích cao cả nhất tức tình yêu phổ quát, mà là cố gắng vươn lên tình yêu ấy. Đây không phải là một thứ đạo đức hiền từ nhu nhược dành cho những người có tình cảm bất lực. Chúng ta là những con cái của một Chúa Cha được “ôm ấp tròng lòng của Người” dù là kẻ xấu cũng như người tốt. Trên thập giá Đức Giêsu có quyền nói với chúng ta những yêu sách ấy. Người là Đấng bị người ta vả vào má… bị người ta lột áo trong, áo ngoài… bị người ta đem ra xét xử trong một vụ kiện bất công… bị người ta đem ra xét xử trong một vụ kiện bất công… bị người ta lôi đi hai dặm trên con đường lên núi Can-va-ri-ô. Người là “Đấng bị đóng đinh mà không có lòng thù hận”.

 

48.             Chú giải của Fiches Dominicales

“ANH EM HÃY NÊN HOÀN THIỆN NHƯ CHA ANH EM TRÊN TRỜI LÀ ĐẤNG HOÀN THIỆN”

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:

  1. Những áp dụng cụ thể của luật mới…

Khi tuyên bố rằng Ngài “đến không phải để hủy bỏ Lề luật và các Tiên Tri, nhưng là để kiện toàn”. Trong Bài giảng trên núi, Đức Giêsu mạc khải “sự công chính” mới của Nước Trời hệ tại điều gì: đó không phải là giữ Luật cách hình thức, nhưng là “tự điều chỉnh” theo ý Chúa Cha như Ngài, là sống thông hiệp trong tình yêu và tự do của Người Con như Ngài. Rồi nhờ vào 5 minh họa, Ngài cụ thể hóa “sự công chính” mới này, và cho biết rằng để thực hiện toàn bộ Lề luật người tín hữu phải đầu tư toàn bộ cuộc sống của mình. Cả năm minh họa đều bắt đầu bằng một dạng thức duy nhắt biểu lộ một quyền lực phi thường: ‘Anh em đã nghe người xưa được dạy rằng… Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết’. Ba minh họa đầu tiên trong Phúc âm chúa nhật vừa qua, hai minh họa cuối cùng trong Phúc âm hôm nay.

Minh họa thứ tư nhân nhượng mối tương quan và Để tránh những sự trá thù thái quá ngoài tầm kiểm soát luật báo thù (loi du talion) dự kiến kẻ gây hấn sẽ bị đối xử tương xứng với điều thiệt hại đã gây ra cho nạn nhân “Mắt đền mắt” – nhưng không phải là đền hai mắt, “răng đền răng” nhưng không phải là cả hàm (xem Lêvi) Luật này đã là một tiến bộ thực sự trong việc trấn áp tội phạm.

Phần Đức Giêsu, ngài chủ trương một thái độ rất cá biệt, tương phản hoàn toàn với thái độ bình thường: “Đừng chống cự với người ác”. Ngài đòi hỏi các môn đệ phải bẽ gãy vòng xích bạo lực, dù hợp pháp, và được báo thù.

Ba ví dụ sau đều ở ngôi hai số ít:

+ Ví dụ thứ nhắt về “cái tát”: “Nếu ai vả má bên phải con, hãy giơ cả má bên trái ra nữa.” Dĩ nhiên không thể hiểu lệnh mâu thuẫn này theo nghĩa đen. Chính Đức Giêsu cũng đã không giơ má khác cho tên đầy tớ tát tai. Ngài hỏi hắn: “Nếu tôi nói sai, hãy cho thấy sai ở chỗ nào. Còn nếu tôi nói đúng, sao anh lại tát tôi?” (Gioan 18,23). Như vậy, đứng trước kẻ gây hấn, người theo Chúa để có một hành vi vừa thách thức vừa làm cho kẻ địch hết chống trả.

+ ví dụ thứ hai về người môn đệ bị người khác có ý định đưa ra tòa và người đó muốn lấy áo trong (tưnique) người môn đệ làm vật thế chấp, nghĩa là áo lót. Đức Giêsu chủ trương: “Hãy để cho nó lấy cả áo ngoài nữa”. Trong khi đó, theo Luật, áo ngoài và áo trong là của không thể sang nhượng được của người nghèo; chiếm hữu chúng là xâm phạm đến chính Thiên Chúa (coi Xh 22, 25-26). Khi để bị trần trụi đến cho đi cả áo theo gương Thầy mình, các Kitô hữu biết rằng sự khó nghèo như vậy, họ là những kẻ chiến thắng, bởi vì họ sẽ được lòng thương xót của Thiên Chúa bao bọc.

+ Ví dụ sau cùng là ví dụ về sự “trưng tập”, thường được quân đội và các viên chức chánh quyền Rôma dùng để làm việc công ích (một hình thức lao dịch thời đó). Đức Giêsu còn nói thêm. “nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm”. Ngoài bài giảng trên núi, thánh sử Mátthêu chỉ dùng động từ “trưng tập” một lần khác khi quân lính trưng tập Sinon thành Xyrênê, một dân ngoại, lúc đó tượng trưng cho tất cả các thế hệ môn đệ chấp nhận thập giá Đức Kitô.

+ Minh họa thứ năm và cuối cùng nói đến yêu thương kẻ thù. Sách Lêvi viết: “Ngươi sẽ yêu tha nhân như chính mình” (19,18). Như vậy điều này mời gọi con cái Israel sống với nhau bằng tình yêu huynh đệ loại bỏ mọi hận thù oán ghét. Nhưng các Thầy rabbi thuộc những nhóm khác nhau tranh luận mãi về quan niệm tha nhân và nhiều người đã cho nó một nghĩa hạn hẹp: tha nhân là người mà ta có quan hệ tốt đẹp; phân biệt với kẻ thù. Từ đó mà có câu Phúc âm: ‘Anh sẽ ghét kẻ thù’ tuy câu này không có trong Luật, nhưng biểu lộ khá đúng ý nghĩ của rất nhiều người. Ngược lại với tình yêu có tính cách chọn lựa đối tượng này, Đức Giêsu nói đến một tình yêu phổ quát vượt mọi biên giới, đến cả kẻ thù và người bách hại, theo Ngài, đòi hỏi này đặt nền tảng trên cách đối xử của chính Thiên Chúa với mọi người, “Kẻ xấu cũng như kẻ tốt”, người công chính cũng như kẻ bất chính”.

  1. Hệ tại theo gương Chúa Cha:

Câu 48 kết luận toàn thể phần này: “Vậy anh em hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng thiện”.

Như vậy, theo gương Cha và Con của ngài Đức Giêsu, đó là nền tảng và mục đích của Luật mới này. Là người môn đệ của Đức Giêsu, đến lượt chúng ta được mời gọi sống như Con, với Ngài và trong Ngài. Cái mới triệt để của Bài giảng trên núi chính là vậy, chứ không phải trong một giới răn đặc biệt nào.

Cl. Tassin chú giải: “Tính từ “hoàn thiện” tóm tắt ý tưởng về sự công chính hơn (các ký lục và biệt phái) ở câu 20, và sự hoàn thiện này chính là noi theo hành động của Thiên Chúa. Đạo Do Thái đã hiểu “những công việc bác ái xót thương” như những hành vi mà chính Thiên Chúa đã làm gương. Và Hội đường đã chú giải sách Lêvi 22, 28 bằng ngạn ngữ sau: “Như Ta thương xót trên trời thế nào, dưới đất các con cũng hãy thương xót như vậy” Điều này được Luca trình bày bằng những từ như sau: “Hãy xót thương như Cha các con là Đấng xót thương” (6,36). nếu Mátthêu thích tĩnh từ “hoàn thiện” hơn, là vì theo Ngài, lòng thương xót đạt tới mức yêu thương kẻ thù chính là hoàn thiện được Thiên Chúa trông đợi nơi những người của Ngài. Những ai muốn rập theo khuôn mẫu Chúa thì cậy vào Đức Giêsu. Con chí thiết của Thiên Chúa, ngài trao cho các chìa khóa bí mật này”. (“Phúc âm Matthêu”, Centurion, 1991, tr. 69-70).

BÀI ĐỌC THÊM.

  1. “Bẻ gãy vòng vây bạo lực”: (Đức cha L. Daloz, trong “Nước Trời đến gần”, Desche de Brouwer, tr. 58-60).

Đức Giêsu lấy lại qui định của Luật: anh em đã nghe dạy rằng: Mắt đền mắt, răng đền răng… đối với chúng ta điều đó dường như biểu lộ một sự trả thù nghiệt ngã, nhưng trong thực tế, nó lại điều hòa bạo lực và giới hạn ham muốn. Trong một xã hội mà mỗi người thường là quan tòa cho chính mình, đó là một loại luật “tương xứng” trong sự đền trả lại sự xúc phạm, người ta có thể trả thù tới mức độ, không được vượt quá. Trong các quốc gia của chúng ta ngày nay, mỗi người không thể làm quan toà cho chính mình. Chúng ta đã có nhũng cơ quan cảnh sát và tư pháp là những cơ quan duy nhất có quyền bất và trừng phạt những kẻ phạm tội ác. Các hình phạt được xác định rõ bởi một bộ luật. Trong bộ luật này, người ta tìm thấy lại nguyên tắc tương xứng. Như vậy phạm nhân thoát khỏi ham muốn trả thù cá nhâ, người ta lưu ý đến hoàn cảnh, không chỉ tìm cách trấn áp và trừng phạt, mà còn nhằm tìm cách chữa trị và nâng đỡ. Dĩ nhiên, chúng ta ai cũng biết rằng hệ thống tư pháp có những điểm yếu, những trì tre, những sai lầm hay những “vết chàm”. Nhưng dẫu sao nó vẫn là một đảm bảo về sự tiến bộ của nhân loại, chứ trong khung cảnh xã hội và pháp lý này mà hôm nay chúng ta đón nhận Lời Đức Giêsu. Và ngay cả ở trong khung cảnh này, Ngài vẫn kiện toàn Luật bằng cách làm cho nó đi sâu vào tâm hồn con người. Có khi ý muốn trả thù không còn biểu lộ qua hành động nữa nhưng vẫn còn bị khích động và khơi gợi lên trong công luận qua các hành vi bạo lực và các vụ kiện. Không dễ gì chống lại được tình cảm tập thể, nhất là khi nó được chia sẻ bởi một đám đông những khán giả trong một thế giới mà tất cả mọi sự đều bị các phương tiện thông tin đại chúng truyền đi. Đàng khác chúng ta dễ ham muốn kêu gọi trả thù và trừng phạt khi chính chúng ta không phải chịu trách nhiệm. Trong xứ sở chúng ta, ngành tư pháp có sứ mạng xã hội vừa bảo vệ, giáo dục vừa làm gương; nhưng cũng vừa sửa đổi, chữa trị vừa giúp tái hội nhập. Lời Đức Giêsu dạy đừng chống cự người ác không cản trở cũng không gò bó sứ mạng này Nhưng còn có một cái gì khác hơn là những biện pháp cần thiết để bảo đảm an an ninh xã hội, một cái gì khác hơn là sự hận thù, ghen ghét, báo án. Đức Giêsu kêu gọi đến cái tốt nhất nơi con người, đôi khi đến cả sự anh dũng để có được một con út thứ tha; chúng tôi có thể làm chứng các Kitô hữu sự tha thứ này cách công khai! Đức Giêsu không cấm chúng ta đòi hỏi những quyền lợi chính đáng. Khi bị viên vệ binh tát tai, chính Ngài đã đòi anh ta giải thích lý do tại sao anh ta hành động như vậy: nếu tôi nói sai, hãy cho thấy sai ở chỗ nào; nếu tôi nói đúng, thì sao lại tát tôi”. (Ga 18, 23). Nhưng nơi vườn Cây dầu Ngài cho phép Phêrô rút kiếm bảo vệ mình và cũng vì Chúa Cha sai các đạo binh thiên thần đến che chở Ngài để mình bị trấn lột, tát tai, đánh đập và đội triều thiên bằng mũ gai. Ngài không hài lòng với lời kêu gọi đừng lấy oán báo oán, lấy lành thắng dữ, lấy tình yêu thắng hận thù. Ngài còn tỏ ra chính mình là con đường thực hiện lời tiên tri về người đầy tớ đau khổ đã không quay lưng, quay mặt tránh những kẻ ra sức làm khổ mình. Ở bất cứ nơi đâu chúng ta sinh sống và theo cách thế của mình, Ngài kêu mời chúng ta đừng đi vào chu kỳ bạo lực, nhưng hãy có đủ sức mạnh tinh thần để đặt một Lôgíc mới trong mối tương quan giữa con người với nhau.

  1. “Thứ tha như Thiên Chúa tha thứ cho ta”

“Nếu thực sự thứ tha của Thiên Chúa làm tôi hiện hữu, nếu Ngài ban cho tôi tình yêu Thiên Chúa và khả năng yêu mến, làm sao tôi lại không thể hoán chuyển tình yêu thành thứ tha theo chừng mực, mà tôi có thể làm được đối với những ai đã phản bội, chối bỏ và làm tổn thương tôi? Hoặc tôi không là Kitô hữu và rơi vào lối sống theo câu ngạn ngữ cổ: “mắt đền mắt, răng đền răng”, hoặc tôi muốn sống như là một Kitô hữu, thì lập tức tôi phải nhớ điều loan báo cốt yếu nhất của đức tin: tất cả anh em, đều là những tội nhân đã được thứ tha, tất cả anh em đều là nhũng đứa con của lòng thương xót. Nếu anh em muốn là những Kitô thực sự sống đạo, điều thực hiện đầu tiên, cơ bản nhất, chính là thực hành điều Thiên Chúa đã sống đối với anh em, điều mà Đúc Giêsu đã làm vào lúc Ngài sắp qua đời. Đó là thứ tha. Đó là cách thế duy nhất em làm chứng cho mọi người sự tha thứ ta đã lãnh nhận và nó được trao ban cho tất cả mọi người. Dĩ nhiên sự tha thứ như vậy không thể là sự quá ngây thơ, càng không thể là sự cổ võ cho sự dữ. Để thực sự là tha thứ, nó chỉ có thể phát xuất từ một lương tâm không có ảo tưởng nào về những ác tâm, ô nhục, tội ác của thế gian nào và của lịch sử con người. Tuy nhiên, vượt lên trên không bất hạnh mà người Kitô hữu dấn thân đấu tranh nhân danh công lý, họ còn làm chứng về niềm hy vọng Thiên Chúa đặt sẵn nơi mỗi người, dù là những kẻ phạm tội, nhơ nhớp nhất Như vậy, Thiên Chúa mong muốn tất cả hoán đổi ác tâm và hận thù thành tình yêu. Điều này thật đúng, vì chúng ta chỉ là Kitô hữu do niềm tin và hy vọng như vậy, và chúng ta đang cố gắng hết sức mình sống niềm tin là hy vọng đó nhờ ơn Chúa”

  1. “Yêu thương mọi người vì Thiên Chúa yêu thương họ” (Martin-Luther King, trong “Chỉ có một cuộc cách mạng”. Casterman, 1968, tr. 108-109)

Trong Tân ước, chúng ta thấy từ Agapè được dùng để chỉ tình yêu. Đó chính là tình yêu dồi dào không đòi một đáp trả nào hết. Các nhà thần học nói đó là tình yêu hơn Chúa được thực hiện nơi tâm hồn con người. Khi vươn đến một tình yêu như vậy, chúng ta sẽ yêu hết mọi người, không phải vì chúng ta có thiện cảm với họ, không phải vì chúng ta đánh giá cao lối sống của chúng ta yêu thương họ vì Thiên Chúa yêu thương họ, chính là ý nghĩa Lời Đức Giêsu Anh em hãy yêu thương kẻ thù. Phần tôi, tôi sung sướng vì Ngài đã không nói: “Anh em hãy có thiện cảm với kẻ thù của anh em” bởi vì có những người mà tôi khó có thiện cảm nổi, thiện cảm là một xúc cảm. Tôi không thể có xúc cảm với người ném bom vào gia đình tôi. Tôi không thể có thiện cảm với người bóc lột tôi. Tôi không thể có thiện cảm với người đè bẹp tôi dưới sự bất công. Không, không thể có thiện cảm nào đối với người đêm ngày đe dọa giết tôi. Nhưng Đúc Giêsu nhắc tôi rằng tình yêu còn lớn hơn thiện cảm, rằng tình yêu là thiện chí biết cảm thông, có sáng tạo, cứu độ đối với hết mọi người”.

 

49.             Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt

YÊU THA NHÂN VÔ BỜ BẾN

CÂU HỎI GỢI Ý

  1. Các yêu sách của Chúa Giê-su có thể thực hiện được không?
  2. Chúng là những chỉ thị, chỉ dẫn hay điều luật?
  3. Chúa Giêsu ngỏ lời với ai? Với một nhóm ưu tú? Với tất cả môn đồ? Thánh Bonaventura phân biệt hai hạng người: hạng của điều luật, hạng của lời khuyên, và cho rằng ở đây Chúa Giêsu nhắm đến hạng thứ hai. Phải nghĩ sao về ý kiến này? Các “lời khuyên” thuộc phần nào trong Tin Mừng?
  4. Vài tác giả khác cho rằng nghiêm chỉnh mà nói thì các lời Chúa Giêsu không thể nào thực hiện được. Từ đó họ bảo có hai nền luân lý, một có tính cách hão huyền, do Chúa Giêsu tưởng tượng ra, nhằm thúc đẩy ta ăn năn hoán cải và nhận biết mình là tội nhận; một có tính cách thực tế, tầm thường, công dụng.

Hãy rút ra phần sự thật trong lối giải thích thứ nhất (cánh chung học): Các yêu sách của Chúa Kitô tự chúng có thể thực hiện được không? Ai làm cho chúng có thể thực hiện được? Nếu không thì Diễn từ chẳng trở nên một khảo luận luân lý sao?

  1. Tầm mức và giới hạn của Diễn từ trên núi:
  2. Phải chăng đó là một chương trình sống xã hội (Tolstoi)? Một chương trình đào tạo Kitô hữu?
  3. Phải chăng đó là toàn bộ hiến chương Kitô giáo? Thiếu điều gì chủ yếu trong Diễn từ này không, hoặc trong các yêu sách, hoặc trong lời mặc khải mầu nhiệm Nước Trời?
  4. Hãy tìm tương quan giữa luật Chúa Kitô với luật tự nhiên: mối tương quan giữa luật Môisen và luật Chúa Giêsu phải chăng không tương tự với tương quan bản tính-ân sủng và với tương quan thế trần Kitô giáo?
  5. Tìm ý nghĩa của câu: “Hãy nên trọn lành như…” (5,48; x. Lv 19, 2; Lc 6, 36). Câu đó phải chăng không nói lên một mệnh lệnh bất khả thực hiện? Giữa sự “trọn lành” và “đức công chính dư dật” (5, 20) có tương quan gì?

***

  1. Người ta đã dày công tìm hiểu giáo huấn luân lý Do thái để xem các lời khiển trách của Chúa Giêsu, ví dụ về luật báo thù, có đúng hay không, và để xem tính cách mới mẻ của các yêu sách “mới” của Người hệ tại ở chỗ nào. Kết quả của những cuộc nghiên cứu này không bất lợi mấy cho Do thái giáo. Đối chiếu với mọi giới luật luân lý được Chúa Giêsu phát biểu một cách như khiêu khích, ta có thể trích dẫn nhiều câu tuyên bố của các giáo sĩ cũng nói ít nhiều một chuyện như thế, cũng đạt tới một tầm mức luân lý cao như thế, trên một vài điểm hoặc ít ra cũng rất tương hợp trên nhiều điểm khác. Phải thành thật mà công nhận điều đó. Tuy nhiên việc so sánh ấy làm lệch lạc quan điểm. Vì một trong những đặc điểm của truyền thống trường phái Do thái là thu gộp lại các câu nói khác nhau của các giáo sĩ, đến nỗi có nhiều ý kiến có giá trị luân lý cao đã được đặt bên cạnh các ý kiến khác từng bị Chúa Giêsu tấn công. Thành thử ta phải công nhận Tân ước như là nguồn mạch của mọi quan niệm thông thường ảnh hưởng trên tâm thức nhân gian thời bấy giờ. Sau cùng và đặc biệt, điều quan trọng đối với Chúa Giêsu, đó là một sứ điệp tôn giáo và luân lý tổng hợp, mà tìm cách mới mẻ đã được tỏ bày cùng với giờ của lịch sử cứu rỗi.
  2. Trong tất cả các phản đề Chúa Giêsu nêu lên, hiện ra một yêu sách duy nhất, dứt khoát. Điều thiện cần làtn thì phải làm cho trọn vẹn. Ai chỉ làm một phần, với sự hạn chế, cốt cho xong mệnh lệnh bên ngoài, là không làm gì cả. Và để người ta hoàn toàn chú ý tới yêu sách đó, cái yêu sách ăn sâu đến tận tâm hồn, Chúa Giêsu dùng một thể văn đặc biệt: thể văn phóng đại. Câu tuyên bố về việc làm gương xấu và về yêu sách chặt bớt các phần thân thể là một trường hợp rõ ràng. Và ta cũng phải hiểu theo một nghĩa tương tự phán quyết của Chúa Giêsu về sự giận hờn và nhục mạ. Tuy nhiên, đừng lạm dụng hình thức giảng dạy bình dân thông dụng ở phương Đông này, để làm yếu đi các đòi hỏi khách quan mà nó chứa đựng. Vì quả thực Chúa Giêsu buộc phải triệt để xa lánh ngay cả dịp tội, chấp hành tốt tình huynh đệ không chỉ bên ngoài mà còn từ ý tưởng con tim, và từ chối mọi quyền trả thù chính đáng (5, 38- 42).
  3. Nố sau cùng này đặc biệt gây ra nhiều vấn đề khó giải quyết. Phải chăng như thế là Chúa Giêsu đã không phá bỏ trật tự pháp lý bên ngoài cần thiết cho đời sống xã hội? Trật tự đó há chẳng bắt nguồn từ Thiên Chúa sao? Và đặc biệt riêng về đoạn văn này, phải chăng nó không tạo nén một nền tảng Kinh Thánh vững chắc cho các luồng tư tưởng chủ hòa hiện thời, những luồng tư tưởng nghiêm cấm mọi hình thức tham chiến. Rồi người bị thiệt thòi cách bất công có thể nại đến toà án không.. Đó là những câu hỏi hóc búa khó trả lời trong vài dòng chữ. Chúng ta hãy tạm đưa ra một vài nhận xét tổng quát ít nhất như những cái mốc đầu tiên của một câu trả lời.

Tất cả các quy định của luật Cựu ước mà Chúa Giêsu trích dẫn, dù chưa thực sự hoàn hảo, cũng đã nói lên một tiến bộ luân lý không thể chối cãi so với luật rừng hay tình trạng man rợ vẫn có khuynh hướng ưu thắng trong đời sống xã hội thời bấy giờ. Tất cả các quy định đó đều nhằm mục đích làm cho đời sống xã hội trở nên công bình và huynh đệ hơn. Thế mà, sở dĩ Chúa Giêsu đến kiện toàn Lề luật Môisen, chính là để kiến lập thêm công bình và huynh đệ giữa con người. Dĩ nhiên, việc kiện toàn luật Môisen chỉ có thể được thực hiện trong chiều hướng triệt để hóa các yêu sách tuyệt hảo nhất của nó. Thành ra mọi lời giải thích học thuyết luân lý của Chúa Giêsu trong Diễn từ trên núi đều phải lưu ý đến bối cảnh tổng quát đó: lối giải thích nào khuyến khích các lạm dụng và có khuynh hướng biến xã hội thành một đàn cừu phó mặc cho lũ sói cắn xé, thì không phù hợp với bồi cảnh này. Vì thế, thái độ bất kháng cự tuyệt đối trước mọi hình thức bạo lực đang hoành hành trong thế giới ngày nay, chỉ tổ khuyến khích việc bóc lột kẻ cô thân yếu đuối, tước đoạt các nhân quyền và làm phương hại phẩm giá con người cách trầm trọng.

Thứ đến, có thể tự hỏi phải chăng Chúa Giêsu chỉ muốn đứng trên bình diện pháp định hoàn toàn. Có nhiều bằng chứng cho thấy phải hiểu ngược lại. Thực vậy, các bản văn pháp luật thường mang tính cách điều độ, dùng từ ngữ chính xác, không có những hình ảnh thái quá hay kiểu nói khoa trương, đầy dấy nhiều điều khoản tiên liệu các luật trừ v.v… Thế mà văn thể Chúa Giêsu dùng trong Diễn từ lại hoàn toàn khác biệt. Người ưa sử dụng kiểu nói đại ngôn. Hãy lấy một trường hợp điển hình: lời khuyên bảo chìa cả hai má cho kẻ vả mặt (5, 39). Hiển nhiên đây không phải là một nguyên tắc về phản lệ chính thức, song chỉ là một ví dụ cố ý phóng đại ra; cũng vậy khi nói phải móc mắt hay chặt bàn tay. Vì trong thực tế, hành động như thế chẳng có hiệu quả gì. Cũng như con mắt bị móc hay bàn tay chặt lìa không thể bảo vệ người tín hữu khỏi bị một gương xấu khác, thì cũng vậy, cái vả má thứ hai chẳng cản ngăn được cái tát thứ ba, hay làm cho người hung ác trở nên thiện cảm. Hơn nữa, chính Chúa Giêsu sẽ đưa ra một lối giải thích hay nhất về câu nói của Người: đó là khi bị tên đầy tớ vả mặt, Người đã chẳng đưa má kia, song nghiêm nghị hỏi nó: “Nếu Ta đã nói không phải, thì hãy làm chứng không phải chỗ nào: còn nếu là phải, sao lại đánh Ta?” (Ga 18, 23). Hãy phân biệt rõ: một đàng là mệnh lệnh, có giá trị đối với mọi người và cho mọi hoàn cảnh, đàng kia là một ví dụ cố ý phóng đại mà chẳng xét đến các điều kiện cụ thể hằng biến đổi luôn. Chúa Giêsu công bố một lý tưởng, chứ không ban hành một đạo luật.

Lại nữa, giả thiết rằng Giáo Hội và xã hội phải tuân theo một quá trình tiến hóa có tính cách năng động, và quá trình này, ít ra trong các nguyên tắc, nhằm tinh luyện ý thức luân lý dưới tác động của Chúa Thánh Thần (như đã xảy ra trong suốt lịch sử Israel), thì có thể Chúa Giêsu đã biết đến một quá trình như vậy và muốn trình bày, trong Diễn từ trên núi, các nguyên tắc năng động sẽ hướng quá trình đó tiến về việc thực hiện ngày càng hoàn hảo một xã hội công bằng và huynh đệ. Trong viễn ảnh ấy, các lời khuyên bảo có tính cách tuyệt đối của Người có lẽ không nhằm đưa ra các mệnh lệnh cụ thể phải thực hiện tức khắc, nhưng đưa ra một đường hướng phải theo để dần dà, với thời gian, sự thiện lướt thắng sự ác.

Hiển nhiên, mọi suy luận trên đây chẳng làm mất đi tính cách khẩn trương của một nỗ lực vô điều kiện nhằm thực hiện các yêu sách luân lý của Chúa Giêsu. Vì Người cũng muốn đưa ra, không phải một bộ luật mới, song là những đường hướng mới và đòi buộc một thái độ cụ thể. Điều đó hiện ra rõ ràng qua cung giọng sai khiến của các phản đề, và được xác định bởi dụ ngôn cuối cùng về việc xây nhà, trong ấy Chúa Giêsu đối chiếu người khôn biết nghe lời Người và đem ra thực hành, với kẻ dại chỉ nghe qua mà thôi. Tuy nhiên, trong cụ thể, việc đem ra thực hành đó cũng bị chi phối bởi nhiều hoàn cảnh. Điều cốt yếu là biết cảm hứng theo lý tường mình nhận ra trong Diễn từ này và chân thành phấn đấu đưa lý tưởng đó vào trong một thế giới mà, mặc dầu bị nhiều thất bại thê thảm, cũng biết cách mù mờ rằng nó phải chọn hoặc luân lý Tin Mừng, hoặc là bị hủy diệt tiêu tan.

CHÚ GIẢI CHI TIẾT

“Mắt thế mắt, răng đền răng”: Nguyên tắc báo thù theo đó phạm nhân phải bị bồi thường tương xứng với thiệt hại đã gây nên, vẫn được áp dụng chung chung và từ lâu, trong thế giới văn minh. Nguyên tắc đã xuất hiện trong bộ luật Hammourai 2000 năm trước Chúa Giêsu. Ở đây nó quy chiếu về Xh 21, 24 (x. Đnl 19, 21; Lv 24, 20). Trong bối cảnh Cựu ước, nó nhấn mạnh đến tính cách nghiêm khắc cần thiết của hình phạt, song cũng đánh dấu một bước tiến quan trọng so với chế độ báo thù cá nhân hỗn loạn (xem bài ca man rợ của Lamek trong St 4, 24 chẳng hạn).

“Đừng cự lại người ác”: Huấn thị này không nói với các quan tòa là những kẻ phải tìm cho ra phương cách mới để áp dụng luật lệ trường hợp các truyền thống giáo sĩ Do thái), nhưng trái lại ngỏ lời với người bị tổn thương để bảo họ biết phải xử trí ra sao cho hợp với tư cách môn đồ Chúa Kitô. Chúa Giêsu và các Kitô hữu đầu tiên không muốn hủy bỏ pháp chế hiện hành thời đó (như thánh Phaolô, với tư cách công dân Rôma, đã kháng cáo lên Hoàng đế để xin minh oan: Cv 25,11); song các ngài đã đưa vào xã hội một thái độ nhân bản mới làm phát hiện tính cách sơ thiển, hạn chế trong thời gian của các bộ hình luật chính thức hiện hành; các bộ luật này không bị hủy bỏ nhưng đã trở nên lỗi thời vì thái độ cụ thể của các Kitô hữu, là thái độ dù cảm hứng theo một lý tưởng, vẫn để ý tới các hoàn cảnh con người, không gian và thời gian.

“Đi một dặm”: Chắc hẳn ví dụ này ám chỉ đến một khổ dịch; binh sĩ và viên chức này xưa có thể buộc một bộ hành nào đó vác một gánh nặng (x. trường hợp ông Simon thành Xyrênê vác thập giá) hoặc đi theo họ để làm con tin hay người dẫn đường.

“Ai xin… ai muốn vay”: Lời khuyên gồm hai xác ngôn song song- hầu như đồng nghĩa: việc cho vay mượn thường tương đương với việc bố thí. “Cho đồng loại vay là làm việc từ thiện”, Hc 29, 1 khẳng định thế. Giữa người Do thái với nhau, cho vay không được ăn lời (Xh 22, 24; Lv 25, 35- 37; Đnl 15, 7- 11; 23, 20-21 tất cả các bản văn này đều quy chiếu về các “anh em” Do thái) và đến hưu niên (année sabbatique) thì mọi nợ nần và vay mượn đều được tha ít nhất trên lý thuyết (Đnl 15). Làm thế là vì Israel muốn mãi mãi là một dân tộc sống tình anh em. Ở đây hình như Chúa Giêsu muốn nới rộng luật ấy theo nghĩa là người yêu cầu hãy cho vay bất cứ ai xin vay, mà đừng để ý đến chủng tộc hay tôn giáo của họ. Gia đình Israel phải mở rộng cửa nhà mình cho tất cả mọi người.

“Hãy ghét địch thù”: Trong lúc mấy phản đề trên kia quy chiếu về các khoản luật đích xác của Cựu ước thì ớ đây lại khác hẳn. Quả vậy, ta chẳng tìm đâu ra trong Cựu ước mệnh lệnh minh nhiên phải ghét địch thù. Có lẽ lời huấn thị chỉ muốn chống lại tư tưởng khá phổ biến trong Do thái giáo suy đồi là: tất cả những ai không thuộc thành phần cộng đoàn quốc gia và tôn giáo đều là thù địch. Đặc biệt trong các bản văn Qumrân, ta thấy tỏa ra lòng khinh miệt ghê gớm đối với “con cái tối tăm”; các Thánh vịnh của Salomon cũng cho nhiều ví dụ tương tự. Thành thử có lẽ trong bối cảnh này, thù địch không phải là đối phương cá nhân bên trong cộng đoàn tôn giáo, cũng chẳng phải là thù địch của quốc gia theo nghĩa chính trị hay quân sự, nhưng là kẻ bách hại đức tin, kẻ thù của cộng đoàn thiên sai do các Kitô hữu đầu tiên thành lập. Trước đó, trong bản 70, chữ echthros đã thường chỉ các thù địch của dân Thiên Chúa (Tv 31, 7; 139, 21 v.v…); lời ám chỉ đến các người bắt bớ trong câu tiếp theo củng cố giả thiết vừa nói; sau cùng các thánh thư cũng cho thấy chữ này thường được dùng theo nghĩa ở thế kỷ thứ nhất (2 Tx 3, 15; Rm 5, 10; Cl 1, 21; Gc 4, 4). Tình yêu nói đây không phải chỉ là chẳng giận hờn, chẳng báo oán nhưng, như trong Cựu ước và Tân ước, luôn luôn là hành động cụ thể, là hiệp thông sống động biểu lộ qua các cừ chỉ rõ ràng (Vd. Lời chào hỏi nơi c.47). Cầu nguyện cho các người bắt bớ không phải là biểu thức duy nhất của tình yêu đó, song chỉ là một trong các cách biểu lộ tình yêu; chữ khi (và) chẳng có nghĩa giải thích nhưng có nghĩa: và đặc biệt. trong khi làm các cử chỉ yêu thương này, có thể ta vẫn mang tâm trạng oán hận hay ác cảm tự nhiên đối với kẻ thù hiện gây cho ta đau khổ. Trong một trường hợp như vậy, dù cố gắng thế nào, cũng khó mà chế ngự các phản ứng nhạy cảm được. Nhưng Chúa Giêsu không đứng trên bình diện tâm lý, và chẳng muốn phân biệt giữa điều cảm thấy và điều ưng thuận như các nhà luân lý học thường làm một cách chính đáng. Người đứng trên bình diện hành lang cụ thể (vd: cầu nguyện, c.44; chào hỏi, c.47), nơi phê phán sau cùng sự chọn lựa sâu xa của con người vượt trên mọi xao động của cảm giác.

“Hãy nên trọn lành, như Cha các ngươi trên trời là Đấng trọn lành”: Hình như lời tuyên bố này không chỉ kết thúc đoạn văn về lòng yêu thương thù địch, mà còn kết thúc cả đoạn gồm cc. 17-48 về việc chu tất Lề luật theo quan niệm của Chúa Giêsu. “Câu nói” (logion) rõ ràng cảm hứng từ Lv 19, 2: “Hãy nên thánh, vì Ta là Đấng thánh” và từ Đnl 18, 3: “Ngươi hãy nên trọn. lành trước mặt Chúa là Thiên Chúa của ngươi”. Có nhiều cách giải thích nó. Nhưng hình như phải loại bỏ ý tưởng về một sự tương đồng kiểu hữu thể học (xa lạ với tư tưởng Hy bá) hay kiểu luân lý học theo nghĩa tuyệt đối không thể phạm tội là một điều bát khả đối với tạo vật, trừ phi được đặc ân ngoại thường). Thật ra, chủ đề “trọn lành”, trong các bản văn Kinh Thánh, diễn tả ý tưởng dấn thân hoàn toàn, thuộc trọn về một mình Thiên Chúa. Đó cũng là ý nghĩa của teleios (trọn lành) được một dùng thêm một lần nữa, trong câu chuyện Chúa Giêsu đề nghị người thanh niên giàu có bán của cải anh ta có và đi theo Người nếu anh muốn nên trọn lành (19, 21). Hạn từ này xem ra liên hệ với hạn từ công chính”: người trọn lành là người thực thi tròn đầy Lề luật đã được Chúa Kitô tái giải thích.

KẾT LUẬN

Dù ta có thể nghĩ rằng các thành ngữ Chúa Giêsu dùng trong đoạn văn này có tính cách nghịch lý, thì sứ điệp căn bản vẫn rành rành: môn đồ của Chúa Giêsu được mời gọi hãy yêu thương tất cả mọi người không trừ ai và yêu thương một cách cụ thể, chứ đừng để cho tà ý hay hận thù lấn át tình yêu. Như thế, họ mới tỏ ra mình là con cái đích thật của Cha trên trời.

Ý HƯƠNG BÀI GIẢNG

  1. Trong một thế giới bị chi phối bởi luật “do út des” (hòn đất ném đi, hòn chì ném lại), giáo huấn của Chúa Giêsu thật mở ra nhiều viễn tượng mênh mông. Nó giúp ta tránh khỏi cái vòng quỷ quái của toan tính ích kỷ, của hành động vụ lợi, của thù hận đáp trả hận thù. Chỉ tình yêu mới có thể phát sinh tình yêu. Chỉ các Kitô hữu bị thu húat bởi sức mạnh chinh phục của sự dịu dàng nơi Chúa Kitô, mới có thể tạo nên trong thế giới một cuộc cách mạng ôn hòa có sức đánh đổ việc bóc lột người hèn yếu và bạo động quá đáng.
  2. Các bản văn này buộc ta tự vấn về mức độ cởi mở của ta đối với kẻ khác. Phải chăng ta chỉ phục vụ, yêu thương cha mẹ và bằng hữu? Khi gặp dịp, ta có biết chấp nhận phiền toái để giúp đỡ những người xa lạ không?
  3. Lý tưởng trọn lành của Kitô hữu chẳng phải là lý tưởng tránh phạm tội của Biệt phái, tiết độ của Khắc kỷ, hay vô cảm của Phât giáo. Kitô hữu không nhìn đến bản thân mình nhưng nhìn đến Chúa Cha, không tìm cách trau dồi các nhân đức như người ta vun trồng cây cối hay tìm cách tạc nên bức tượng thiêng liêng của mình, nhưng chỉ cố gắng bắt chước Chúa Cha, bằng cách gieo rắc tình yêu quanh mình. Và so với lòng nhân lành vô biên của Chúa Cha, người Kitô hữu luôn cảm thấy mình thiếu sót.
  4. Khi thấy mình hoàn toàn không thể sống tình yêu mà Chúa Giêsu truyền dạy, Kitô hữu liền ý thức rằng chỉ ân sủng của Chúa Thánh Thần mới có thể biến đổi tâm hồn hẹp hòi của mình và làm cho mình nên giống như Chúa Giêsu cầu nguyện trên thập giá: “Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm” (Lc 25, 34).

 

50.             Có phải không thể yêu kẻ thù?

(Suy niệm của Lm. Đaminh Trần đình Nhi)

 

Yêu thương kẻ thù chắc chắn phải là một vấn đề vô cùng độc đáo trong giáo lý của Chúa Giê-su và của đạo Công giáo. Đó cũng là điều nói thì dễ, nhưng thực hành thì hết sức khó, hoặc có thể nói đó là điều không thể thực hiện theo sức riêng của con người.

 

Trước khi quảng diễn lời dạy “hãy yêu kẻ thù”, Chúa Giê-su nêu lên lẽ công bằng của sự thù nghịch theo Lề Luật Mô-sê. Luật công bằng của người xưa là: mắt đền mắt, răng đền răng. Cho nên ý niệm truyền thống về bạn hay thù được xây dựng trên căn bản lẽ công bằng. Người ta bị ràng buộc trong giới hạn của lẽ công bằng, do đó không thể chấp nhận việc yêu kẻ thù vì làm như thế người ta sẽ không duy trì được sự công bằng nữa. Nhưng Chúa Giê-su không lấy lẽ công bằng của Luật Mô-sê để dạy chúng ta về việc yêu kẻ thù, mà Người lấy tình yêu của Thiên Chúa Cha làm nền móng cho việc yêu kẻ thù. Kẻ xấu và tội lỗi đều là “kẻ thù” của Thiên Chúa. Vậy mà Cha trên trời vẫn “cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính”. Cha nào con nấy. Nếu Cha trên trời yêu kẻ thù của Người thì chúng ta là con, cũng phải yêu kẻ thù của Người và của chúng ta. Quả thực Chúa Giê-su đã “kiện toàn” Lề Luật khi Người mở ra một con đường mới cho một vấn đề bế tắc là hãy yêu kẻ thù. Vậy theo Chúa Giê-su, thế nào là “yêu kẻ thù”?

 

Yêu kẻ thù là dám vượt lên trên lẽ công bằng để thực hiện một việc làm tích cực. Dĩ nhiên những thí dụ Chúa Giê-su đưa ra, như vả cả hai má, lấy cả áo trong lẫn áo ngoài, hoặc đi thêm dặm đường nữa với kẻ thù, tất cả chỉ là những hình ảnh mô tả thái độ tích cực là động lực của tình yêu. Chỉ có động lực tình yêu này mới có thể giúp chúng ta vượt trên lẽ công bằng để đến với kẻ thù và yêu thương họ, vì tình yêu bao giờ cũng tích cực.

 

Yêu kẻ thù còn là điều kiện để “được trở nên con cái của Cha trên trời” và là dấu chỉ chúng ta khác biệt với những người không phải là con cái Chúa. Chúng ta hãy nhìn vào gương của Chúa Giê-su, Trưởng Tử của nhân loại mới, đã đối xử thế nào với kẻ thù. Không kể bao lần “đụng độ” với kẻ thù mà Người vẫn hòa nhã yêu thương, trên thập giá và trước khi nhắm mắt, Người đã xin Cha tha thứ cho những kẻ giết Người. Người Con Yêu Dấu ấy của Thiên Chúa đã dạy các em Người hãy yêu kẻ thù để xứng đáng làm con cái Thiên Chúa.

 

Sau hết, yêu kẻ thù là phương thế nên hoàn thiện như Cha trên trời. Yêu kẻ thù (tức là những kẻ tội lỗi) là đặc điểm hoàn thiện của Thiên Chúa. Phải chăng Chúa muốn chúng ta lấy việc yêu kẻ thù làm phương thế tốt nhất để nên hoàn thiện giống như Chúa, nên Người mới để chúng ta có nhiều “kẻ thù” hơn là bạn hữu?

 

Sống sứ điệp Tin Mừng

Thực tế cho thấy yêu kẻ thù là điều không thể thực hiện. Nhưng chẳng lẽ Chúa Giê-su dạy chúng ta làm một điều vượt ngoài khả năng con người? Đối với chúng ta, đó là điều không thể, nhưng “đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lu-ca 1:37). Chính vì thế Chúa Giê-su mới “kéo” Cha trên trời xuống với chúng ta, để chúng ta ý thức mình là con cái Chúa và chính Người nêu gương yêu kẻ thù, chúng ta mới hoàn toàn có thể yêu kẻ thù.

 

Chúa Giê-su đưa ra một thí dụ rất cụ thể để chúng ta thực hành việc yêu kẻ thù, đó là “chào hỏi” kẻ thù. Trong đời sống hằng ngày, biết bao lần chúng ta không muốn “chào hỏi” nhiều người. Có thể đấy là người vợ, người chồng hoặc con cái. Có thể là người làm cùng sở. Cũng có thể là một người đã gây cho chúng ta một thiệt hại không thể đền bù hay sửa chữa. Vậy chúng ta phải làm thế nào để xóa đi hàng rào ngăn cản là lẽ công bằng, là niềm tự ái có lý của chúng ta? Bạn và tôi hãy nhìn lên Cha trên trời, Đấng đã hết lòng yêu thương chúng ta là kẻ tội lỗi và kẻ thù của Người, đến nỗi sai Con Một Người xuống trần để chết cho chúng ta (Gio-an 3:16). Nhờ Chúa Cha là Tình yêu, Chúa Con là sự Tha thứ và Chúa Thánh Thần là Sức mạnh hiệp nhất, nhất định chúng ta có thể yêu kẻ thù được!

 

51.             Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho họ!

(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP.)

 

Mến Chúa, yêu người chính là điểm cốt lõi của đạo Công Giáo. Nếu nói mến Chúa mà không yêu người thì đó là kẻ nói dối. Mến Chúa thì dễ, nhưng yêu người lại rất khó. Hơn nữa yêu cả kẻ thù của mình thì càng khó hơn gấp bội. Tuy nhiên, là người môn đệ của Đức Giêsu, chúng ta không thể bỏ qua hay làm ngơ khi đứng trước lời mời gọi của Đức Giêsu là yêu thương hết mọi người, kể cả người thù ghét mình nữa.

 

  1. Luật yêu thương trong Cựu Ước

Thời Cựu Ước, luật yêu thương được hiểu là không hại người anh em, phải yêu thương đồng loại:“Ngươi không được trả thù, không được oán hận những người thuộc về dân ngươi. Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình.” (Lv 19,18). Trong sách Huấn Ca, tác giả cũng dạy không được oán hờn, giận giữ anh em mình, vì nếu thù ghét đồng loại mình và không tha thứ cho nhau thì không xứng đáng được Chúa tha thứ cho mình. Hơn nữa, đây lại chính là điều kiện cần để được Thiên Chúa tha thứ và ban ơn cứu độ cho mình: “Vì các ngươi đong bằng đấu nào, thì cũng sẽ được đong trả lại bằng đấu ấy” (Lc 6:38)”.

Tuy nhiên, luật Cựu Ước, theo lẽ công bằng thì yêu tha nhân là những người đồng chủng, đồng bào, nghĩa là chỉ người Do thái. Còn tất cả mọi người khác là ngoại bang, là kẻ thù, không được thương mà cũng không được giúp. Ngược lại, còn khuyên tránh xa, và nếu cần có thể giết nữa (x. Đnl 20,13-17; 23,4-5; 25,17-19). Luật công bằng cũng hiểu là: “mắt đền mắt, răng đền răng”.

Như thế, ta thấy luật Cựu Ước là một luật đem lại công bằng cho người đồng loại, nhưng được phép báo oán kẻ thù của mình. Còn đến thời Tân Ước thì sao? Chúng ta xem Đức Giêsu đến, Ngài dạy gì?

  1. Luật yêu thương thời Tân Ước

Sang thời Tân ước, Đức Giêsu đến để kiện toàn Lề Luật bằng việc đem vào đó một tình yêu bao dung tha thứ được dành cho hết mọi người.  Vì thế, theo giáo huấn của Đức Giêsu về luật yêu thương tha nhân, thì sự bao dung đại lượng còn phải đi tới chỗ yêu thương luôn cả thù địch nữa. Đức Giêsu đã phán: “Các con cũng đã nghe dạy rằng: ‘Hãy yêu thương tha nhân, và ghét thù địch’. Còn Thầy, Thầy bảo các con: ‘Các con hãy yêu thương thù địch và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi các con’” (Mt 5,43-44). Thánh Phaolô cũng tiếp lời giáo huấn của Đức Giêsu khi nói: “Hãy chúc lành cho kẻ bắt bớ, chúc lành chứ đừng chúc dữ… Nếu kẻ thù ngươi đói hãy cho nó ăn; nó khát hãy cho nó uống […]Chớ để sự dữ thắng được ngươi, nhưng hãy lấy lành mà thắng dữ” (x. Rm 12:14, 20-21). Rõ ràng, Đức Giêsu đã xóa bỏ nguyên tắc “ăn miếng trả miếng”. Ngài đòi hỏi các môn đệ phải khước từ báo oán, phải tha thứ, yêu thương và cầu nguyện cho kẻ thù nữa, bởi vì: “Cha các con ở trên trời, là Đấng làm cho mặt trời mọc lên trên người lành cũng như kẻ dữ, và cho mưa trên người công chính cũng như kẻ bất lương”. Ngài mời gọi các môn đệ hãy tha thứ vô điều kiện: “Không phải chỉ tha 7 lần nhưng là 70 lần 7”. Như vậy, vị chi là 490 lần, tức là yêu thương không ngừng.

Tuy nhiên, không vì thế mà Ngài bảo trợ cho những người phạm tội hay có những tà ý vẫn ung dung sống trong những chọn lựa sai lầm của họ, mà Ngài đã mở lối thoát cho những ai bị người đời giam hãm cách tuyệt vọng trong tội hay trong những khuyết điểm của họ, để giúp họ vượt ra khỏi vòng tội lỗi để trở về với Chúa và sống chân tình với nhau. Đức Giêsu cũng không ngừng mời gọi người môn đệ sống tinh thần đó để góp phần làm cho một xã hội tràn đầy tình thương, lòng bao dung tha thứ.

“Các con hãy yêu thương thù địch và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi các con”(Mt 5,43-44) là điểm sáng của người môn đệ. Nếu không tha thứ cho những người ngược đãi mình thì của lễ của chúng ta cũng không được đẹp lòng Chúa và không được Ngài chúc phúc: “Nếu mỗi ngày, anh em con xúc phạm đến con tới bảy lần, và bảy lần nó trở lại với con mà nói: Tôi hối hận thì hãy tha cho nó” (Lc 17, 4). Xa hơn nữa: “Khi con đang dâng của lễ nơi bàn thờ mà sực nhớ người anh em lỗi phạm đến con, thì hãy để của lễ lại đó, đi làm hòa với người anh em trước đã rồi bấy giờ trở lại dâng của lễ của con” (Mt 5, 23-24).

Điều đó quả thật không dễ! Khó, nhưng cần thiết biết bao, vì “tha thứ và xin thứ tha tạo ra một phẩm chất mới trong quan hệ giữa người với người, bẻ gãy xiềng xích tội lỗi trói buộc trong tâm tư những người thù hận nhau… Thánh Công đồng Vat. II cũng nhấn mạnh luật yêu thương khi nói: “Giáo Huấn của Đức Kitô còn đòi ta phải tha thứ những xúc phạm và mở rộng luật yêu thương tới mức kể luôn cả những kẻ thù của mình nữa” (MV số 28).

Tuy nhiên, Công đồng lưu ý ta phải phân biệt giữa tội và người có tội. Ghét tội, nhưng không được ghét kẻ có tội,  phải tìm cách giúp đỡ họ vượt ra khỏi tình trạng tội lỗi.  Nếu người môn đệ Đức Giêsu chỉ yêu thương những người đồng đạo thì chưa phải là một môn đệ đích thực. Người đời họ cũng làm như thế: “Ta bảo các người: nếu đức công chính của các ngươi không vượt hẳn các Ký Lục và Biệt Phái, các người sẽ không được vào Nước Trời” (Mt 5,20). Ngài đã đi một bước xa hơn để diễn tả một tình yêu không phân biệt bạn và thù, để hướng tới mọi người ở mức độ tuyệt đối. Bởi vì mức độ của tình yêu là yêu không mức độ.

 

  1. Hãy yêu thương kẻ thù và làm ơn cho họ

“Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho họ”. Đây là giáo huấn độc đáo của Đức Giêsu về lòng nhân ái.

 

“Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho họ”. Là một nghĩa cử anh hùng, một nỗ lực vượt thắng tình cảm tự nhiên, vượt trên phản ứng thường tình của con người. “Yêu thương kẻ thù” là bước vào thế giới siêu nhiên của con cái Chúa, sống nhân hậu và hoàn thiện như Cha trên trời: “Đấng làm cho mưa xuống trên kẻ lành cũng như người bất lương…”

 

Khi dạy “Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho họ”. Đức Giêsu không có ý cổ võ sự nhu nhược, nhát đảm nhưng là đề nêu cao tinh thần khoan dung hiền từ quảng đại tha thứ.

 

“Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho họ”. Đó là lệnh truyền khó thi hành nhất trong các lệnh truyền của Đức Giêsu. Nhưng Ngài đã làm gương khi xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ hành hạ, đóng đinh mình trên thập giá “lạy Cha, xin tha cho họ vì nó lầm chẳng biết”. Chính hành vi cao cả này đã thể hiện trọn vẹn tình yêu của Thiên Chúa. Đó cũng là nét cao quý nhất trong dung mạo Đấng Cứu Thế. Người đến để yêu thương và cứu chuộc con người. Người đến để tha thứ và đem lại cho con người cơ may hầu sám hối và canh tân để được cứu độ.

Như vậy Đức Giêsu mở ra con đường mới cho nhân loại. Con đường lấy thiện thắng ác, lấy tình yêu vượt thắng hận thù. Chỉ có yêu thương mới làm cho thù hận tiêu tan.

Giới răn của Đức Giêsu “Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho họ” là một sự từ bỏ triệt để bạo lực. Ý tưởng ấy rất cao và rất khó nhưng nó tạo nên ý nghĩa và làm nên bản chất của người môn đệ.

 

  1. Sống sứ điệp Lời Chúa

Là những Kitô hữu, chúng ta đứng về phía bất bạo động. Tuy nhiên đó không phải là một chọn lựa cho sự nhu nhược hay thụ động leo thang, nhưng chọn lựa bất bạo động có nghĩa là tin tưởng mạnh mẽ vào sức mạnh của chân lý, của công bằng và tình yêu hơn là sức mạnh của chiến tranh, vũ khí và hận thù…

Là những kitô hữu, chúng ta phải cố gắng học theo lòng quảng đại của Thiên Chúa, sẵn sàng tha thứ, không đòi trả thù và oán hận chống lại người khác, vì họ là đền thờ và hình ảnh của Thiên Chúa.

Khi đến trần gian, Đức Giêsu đã mang ơn cứu độ từ trời xuống cho nhân loại, nhưng ơn cứu độ này lại được ban cách ưu tiên cho kẻ tội lỗi như Ngài đã nói: Ta đến không phải để kêu gọi người công chính, mà là kêu gọi người tội lỗi, vì người khỏe thì không cần đến thầy thuốc, người đau yếu mới cần.

Như vậy, nếu các kitô hữu không cố gắng bắt chước tình yêu không phân biệt của Thiên Chúa, họ sẽ không tốt hơn những người khác và có khi những người không phải là Công Giáo, người ta làm tốt hơn chúng ta.

Chính sự tha thứ sẽ giải phóng con người, còn nếu nuôi lòng hận thù báo oán thì con người sẽ chuốc lấy sự đau khổ: “ai dùng gươm sẽ chết vì gươm”. Đức Giêsu đã nói với Phêrô như vậy tại vườn cây dầu khi ông dùng gươm để bênh vực cho thầy của mình và đã chém đứt tai người lính đến để bắt Đức Giêsu. Khi chúng ta ghét kẻ thù là chúng ta cho họ quyền áp đảo chúng ta.

Nói cách khác, viên đạn căm thù chỉ có thể làm thương tổn kẻ thù chúng ta sau khi đã xuyên qua lương tâm chúng ta trước. Khi nuôi trong mình sự trả thù thì đồng nghĩa với việc ta đào thêm một cái hố nữa để chôn chính ta. Người Hylạp cổ thường ví von như sau: “Người khôn ngoan thà chịu đựng sự ác hơn là làm điều ác”.

Chúng ta biết chỉ một mình Thiên Chúa là Đấng hoàn thiện, tốt lành vô cùng, chúng ta không thể trọn hảo như Người được. Nhưng chúng ta phải nên trọn lành như ý Người muốn, theo mẫu gương thánh thiện của Người, là Đấng làm cho mặt trời mọc lên trên người lành cũng như kẻ dữ: “hãy nên trọn lành như Cha các con trên trời là Đấng trọn lành”.

Cuối cùng, yêu thương tha thứ phải được định hướng bởi sự thật. Không có sự thật thì tình thương trở thành mù quáng. Yêu hoa, không có nghĩa là yêu luôn cả những con sâu ẩn núp trong những cánh hoa. Đức ái Kitô Giáo đòi hỏi phải đấu tranh tích cực để khử trừ tội ác và cứu vớt con người, biến kẻ thù thành anh em, biến con người thành con Chúa. Đây là một lý tưởng cao đẹp, nhưng cũng phải phấn đấu hằng ngày.

Lạy Chúa, xin cho chúng con hiểu và sống tinh thần yêu thương, tha thứ, làm ơn cho anh chị em, nhất là những người đang thù ghét chúng con bằng một tình yêu không giới hạn. Amen.

 

52.             Làm thánh sống – Trầm Thiên Thu

Người ta chết rồi mới được làm thánh, chưa chết mà sao làm thánh? Làm gì có chuyện “ngược đời” như thế chứ? Đúng vậy, nhưng NGHỊCH mà lại hoàn toàn THUẬN đấy. Tại sao? Chết rồi mà làm thánh là “chuyện nhỏ”, sống mà làm thánh mới là “chuyện lớn”. Thật chứ không đùa. Vì Chúa Giêsu đã truyền lệnh: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5:48).

Nhân vô thập toàn, ngay cả những thánh nhân cũng tìm về Nhà Cha qua con đường tội lỗi và thứ tha. Vả lại, làm thánh hay không là dựa vào cuộc sống đời thường, sống sao chết vậy. Như người ta vẫn nói: “Cọp chết để da, người ta chết để tiếng”. Cái “tiếng” ở đây là “tiếng tốt”. Phàm nhân đầy “vết chàm”, phàm nhân mà hoàn thiện thì không phải là LÀM THÁNH SỐNG sao? Thật vậy, Chúa Giêsu không chỉ bảo chúng ta phải làm thánh sau khi chết mà phải làm thánh ngay ở đời này vậy.

Thời đại của chúng ta cũng đã có những vị thánh sống như Mẹ Teresa Calcutta (1910-1997), ĐGH Gioan Phaolô II (1920-2005). Và hiện nay, thế giới đang chú ý tới ĐGH Phanxicô với phong cách “ngược đời” của một thánh nhân giữa đời thường, dám nói thẳng nói thật vì công lý và chân lý. Tất nhiên, chúng ta cũng phải sống như thế – nếu thực sự muốn làm thánh!

Muốn nên thánh thì phải yêu Chúa, mức độ yêu Chúa được chứng minh qua việc yêu tha nhân – yêu người tức là yêu Chúa. Ai yêu Chúa thì phải từ bỏ mình, ngược lại, ai yêu mình thì mặc nhiên từ bỏ Chúa. Rất lô-gích. Phàm nhân chẳng là gì, có là gì thì chỉ là tội nhân khốn nạn, vì con tim của chúng ta là “tro bụi”, hy vọng của chúng ta “hèn hơn đất”, và cuộc đời của chúng ta “tệ hơn bùn” (Kn 15:10). Thế nên phải cố gắng “làm thánh sống”, cố gắng không ngừng, cố gắng liên lỉ.

Tuy nhiên, nếu chỉ nên thánh một mình thì là ích kỷ – mà ích kỷ thì không thể làm thánh, nghĩa là chúng ta phải không ngừng nỗ lực nên thánh mà còn phải giúp người khác cùng nên thánh. Kinh Koran (Kinh thánh của Hồi giáo) xác định: “Người hoàn thiện nhất là người đã giúp ích cho nhân loại nhiều nhất”. Tất nhiên ai cũng có thể nên thánh và phải làm thánh, dù chúng ta chỉ là tội nhân khốn nạn, trừ phi chúng ta không muốn. Đã có những tội nhân “lớn” nhưng đã làm thánh: Vua Đa-vít, Tướng cướp Dismas (tên gian phi tốt bụng, Lc 23:39-43), binh sĩ Longinô (người cầm giáo đâm vào ngực Chúa Giêsu trên Đồi Sọ), Giáo hoàng tiên khởi Phêrô, Tông đồ Phaolô, Người Phụ nữ Tội lỗi (Lc 7:36-50),… và một người ít “bị” để ý là vua Salômôn, dù là người khôn ngoan nhất nhưng cũng đã cãi lệnh Chúa và đã từng sống trong tội lỗi (1 V 11:1-13). Vì yếu đuối và tội lỗi ngập đầu nên mới phải cố gắng hoàn lương để làm thánh, và đừng bao giờ mất niềm tin vào Lòng Chúa Thương Xót. Hoàn toàn hợp lý!

Thế nhưng đôi khi chúng ta vẫn nặng hình thức mà chưa “lột xác” được. Giảng hay, nói giỏi, viết tốt,… khiến say mê lòng người, nhưng chính mình lại vẫn giậm chân tại chỗ, chẳng thay đổi được gì. Vậy thì chỉ là “lẻo mép” hoặc “lẻo bút”, hoàn toàn vô ích! Loài rắn và loài cua phải lột xác để phát triển, nếu chúng ta không “lột xác” thì không thể phát triển về tâm linh được, mà “lột xác” thì phải đau đớn, phải dứt khoát. Càng “lột xác” nhiều thì càng hoàn thiện, càng nên thánh.

Từ ngàn xưa, Đức Chúa đã phán với ông Mô-sê: “Hãy nói với toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en và bảo chúng: Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Đấng Thánh” (Lv 19:1-2). Đó là lẽ tất nhiên. Thiên Chúa là Đấng thánh thì con cái Ngài cũng phải thánh, không thể khác được.

Ngài nói rất dứt khoát: “Ngươi không được để lòng ghét người anh em, nhưng phải mạnh dạn quở trách người đồng bào, như thế, ngươi sẽ khỏi mang tội vì nó. Ngươi không được trả thù, không được oán hận những người thuộc về dân ngươi. Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình. Ta là Đức Chúa” (Lv 19:17-18). Thấy điều trái tai gai mắt mà làm ngơ thì có thể là bao che hoặc nhát đảm, nhưng dám lên tiếng cảnh báo thì mới là can đảm bảo vệ công lý và yêu mến chân lý. Thật vậy, người bạn thân thiết là người dám phê phán chúng ta cả trăm lần chỉ vì muốn tốt cho chúng ta, ngoài ra không là “bạn” mà chỉ là “bè” mà thôi.

Thiên Chúa chí thánh, thật hạnh phúc khi chúng ta đang biết tôn thờ một Đấng Thánh toàn năng và hết mực yêu thương. Vì thế, chúng ta phải đêm ngày thầm nhủ: “Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, toàn thân tôi, hãy chúc tụng Thánh Danh! Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, chớ khá quên mọi ân huệ của Người” (Tv 103:1-2). Phải hành động như vậy với lý do rất minh nhiên: “Chúa tha cho ngươi muôn ngàn tội lỗi, thương chữa lành các bệnh tật ngươi. Cứu ngươi khỏi chôn vùi đáy huyệt, bao bọc ngươi bằng ân nghĩa với lượng hải hà” (Tv 103:3-4).

Ngài không chỉ là Đấng chí tôn cao cả mà còn giàu lòng thương xót: “Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương, chẳng trách cứ luôn luôn, không oán hờn mãi mãi. Người không cứ tội ta mà xét xử, không trả báo ta xứng với lỗi lầm. Như đông đoài cách xa nhau ngàn dặm, tội ta đã phạm, Chúa cũng ném thật xa ta. Như người cha chạnh lòng thương con cái, Chúa cũng chạnh lòng thương kẻ kính tôn” (Tv 103:8-10, 12-13). Thật vậy, Người không đành bẻ gãy cây lau bị giập, và cũng chẳng nỡ tắt đi tim đèn leo lét (x. Mt 12:20).

Chúng ta phải làm thánh sống vì một lý do khác nữa, như Thánh Phaolô đặt vấn đề: “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao? Vậy ai phá huỷ Đền Thờ Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ huỷ diệt kẻ ấy. Vì Đền Thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và Đền Thờ ấy chính là anh em” (1 Cr 3:16-17). Thiên Chúa là Đấng Thánh thì không thể ở nơi ô uế tội lỗi. Chúng ta xấu xa, hèn hạ, khốn nạn và bất xứng như thế, vậy mà Thiên Chúa lại cho chúng ta trở thành Đền Thờ của Ngài. Thật không thể nào tưởng tượng nổi, thế nên chúng ta phải tạ ơn Ngài bằng cách cố gắng làm thánh sống. Hoàn toàn hợp lý!

Thánh Phaolô cũng “ngược đời” khi nhắc nhở chúng ta: “Đừng ai tự lừa dối mình. Nếu trong anh em có ai tự cho mình là khôn ngoan theo thói đời, thì hãy trở nên như điên rồ, để được khôn ngoan thật. Vì sự khôn ngoan đời này là sự điên rồ trước mặt Thiên Chúa, như có lời chép rằng: Chúa bắt được kẻ khôn ngoan bằng chính mưu gian của chúng. Lại có lời rằng: Tư tưởng kẻ khôn ngoan, Chúa đều biết cả: thật chỉ như cơn gió thoảng ngoài” (1 Cr 3:18-20). Ít có ai dám “khác người”, vì như vậy sẽ bị người ta cho là “chạm điện”, bị ghen ghét, bị xa lánh, bị trù dập,… thế nhưng như vậy mới là “khôn ngoan thật” theo phong cách của Thiên Chúa. Đúng là “căng” thật đấy!

Cuối cùng, Thánh Phaolô kết luận rất cụ thể: “Vậy đừng ai dựa vào phàm nhân mà tự hào. Vì tất cả đều thuộc về anh em; dù là Phaolô, hay Apôlô, hay Kê-pha, dù cả thế gian này, sự sống, sự chết, hiện tại hay tương lai, tất cả đều thuộc về anh em, mà anh em thuộc về Đức Kitô, và Đức Kitô lại thuộc về Thiên Chúa” (1 Cr 3:21-23).

Luật vị nhân sinh, nhân sinh bất vị luật. Nhưng cuộc sống cần có luật như dây cương và hàm thiếc để điều khiển ngựa kẻo nó sinh chứng. Luật cũng đa dạng, có luật hợp lòng dân hoặc không hợp lòng dân. Luật hợp lòng dân là luật chứa sự nhân đạo, nhằm hoàn thiện con người – như Luật Tân Ước, nổi bật là chữ NÊN; còn luật không hợp lòng dân là luật chỉ nhắm tới những khung hình phạt – như Luật Cựu Ước, chú trọng chữ CẤM. Luật Cựu Ước xem chừng thoải mái, dễ thực hiện hơn, và ai cũng thích: “Mắt đền mắt, răng đền răng”. Có lý lắm, vì người ta đánh mình thì mình phải “chơi tới bến” chứ không thì người ta chê mình “dở ẹc” hoặc “lép vế”. Thế thì máu tự ái bốc tới chỏm đầu thôi, chịu gì nổi!

Thế nhưng Đại sư Giêsu dạy: “Đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa. Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài. Nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm. Ai xin, thì hãy cho; ai muốn vay mượn, thì đừng ngoảnh mặt đi” (Mt 5:39-41). Chu choa, “căng” quá đi! Chúa Giêsu kỳ thí mồ, dạy những điều chi mà khó mần quá chừng. Thế nhưng đó lại là chuyện thật chứ không là chuyện đùa!

Luật Cựu Ước dạy: “Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù”. Chỉ là “chuyện nhỏ”, các loài động vật khác cũng vẫn thực hiện như vậy. Vì thế, Chúa Giêsu dạy những điều mà chúng ta thấy rất khó nghe: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5:44). Mèn ơi! Gay go quá đi!

Thế nhưng phải vậy thôi, vì Chúa Giêsu giải thích: “Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính. Vì nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi? Ngay cả những người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao? Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em mình thôi, thì anh em có làm gì lạ thường đâu? Ngay cả người ngoại cũng chẳng làm như thế sao?” (Mt 5:45-48). Những bí quyết Chúa Giêsu đưa ra thật thú vị, rất “khác người”, rất “ngược đời”, nhưng mà lại rất thú vị và chí lý. Quả thật, có dám “khác người” thì mới khả dĩ nên thánh, có thể làm thánh sống ngay trên thế gian này!

Nhận biết mình chỉ là tội nhân, chúng ta sẽ thấy thích lời truyền dạy của Chúa Giêsu: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5:48). Khi định hướng rạch ròi như vậy, chúng ta sẽ thanh thản làm mọi thứ chỉ vì Chúa chứ không vì bất cứ lý do nào khác, như vậy chúng ta mới có thể thẳng thắn như Thánh Phaolô đã xác định: “Tình yêu Đức Kitô thúc bách tôi” (2 Cr 5:14).

Lạy Thiên Chúa, chúng con xin lỗi Chúa vì chúng con nói nhiều mà chẳng làm bao nhiêu. Xin Chúa giúp chúng con biết “khó” với chính mình để biến đổi tích cực từng ngày theo định hướng của Ngài, để nên thánh trong từng nhịp thở, để nên thánh ngay trên thế gian này. Chính Ngài là Đấng Thánh thì chúng con không thể không làm thánh. Xin thương biến đổi chúng con, lạy Thiên Chúa chí thiện. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.

 

53.             Yêu kẻ thù để nên hoàn thiện

(Suy niệm của Lm Đan Vinh)

  1. HỌC LỜI CHÚA

Ý CHÍNH:

Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu dạy môn đệ phải nên hoàn thiện qua cách ứng xử với những người xấu hay những kẻ thù của mình:

– Đối với những người xấu (Mt 5,38-42): Người môn đệ không chống cự khi bị xỉ nhục, bị kiện tụng, bị bắt phục dịch, quảng đại cho đi và cho vay mượn.

– Đối với những kẻ thù (5,43-48): Hãy yêu kẻ thù ghét mình và cầu xin điều lành cho những kẻ ngược đãi mình. Làm như vậy để nên hoàn thiện noi gương Chúa Cha trên trời.

CHÚ THÍCH:

– C 38-42: + Anh em đã nghe Luật dạy rằng: “Mắt thế mắt, răng đền răng” (c 38). Còn Thầy, Thầy bảo anh em: Đức Giê-su dùng kiểu nói song đối so sánh giữa Luật Mô-sê với luật yêu thương của Người. Chẳng hạn về việc trả thù, Mô-sê dạy trả báo công bình “mắt đền mắt, răng đền răng” (Xh 21,24) còn Đức Giê-su dạy phải hạn chế sự hận thù bằng thái độ “bất bạo động”. + đừng chống cự lại người ác nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa (c 39): Đừng để mình rơi vào vòng lẩn quẩn của bạo lực. Vì bạo lực sẽ sinh ra bạo lực. Sự vả mặt mang tính hạ nhục hơn là làm đau về thể xác. Việc đưa cả hai má ra cho người ác là hành vi “bất bạo động”, không chống trả và sẵn sàng chịu sỉ nhục cách bất công như “Người tôi tớ” trong sách I-sai-a: “Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ” (Is 50,6). Đức Giê-su trong cuộc khổ nạn cũng đã làm như vậy khi nhẫn nhịn chịu đựng các đầu mục Do thái “khạc nhổ vào mặt và đấm đánh. Có kẻ còn tát Người” (x. Mt 26,67).  + Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài (c. 40): người bị thưa kiện ở toà án nếu quá nghèo, chủ nợ sẽ chỉ được đoạt áo trong để trừ nợ, và không được lấy áo ngoài dù áo này có giá trị hơn (x. Mc 13,16). Chủ nợ không được cầm giữ áo choàng ngoài như vật thế chấp, và nếu có lấy thì cũng phải sớm trả lại cho người nghèo trước khi mặt trời lặn, vì áo choàng còn được anh ta dùng làm mền đắp ban đêm (x. Xh 22,25-27). Môn đệ khi bị kiện để đòi lấy áo trong, hãy sẵn sàng đưa luôn cả áo ngoài cho họ. Chính Đức Giê-su cũng đã bị quân lính lột áo, cả áo trong lẫn áo ngoài mà chia nhau (x. Mt 27,31.35), và bị đóng đinh trên thập giá trong tình trạng trần trụi không có cả áo trong lẫn áo ngoài. + Nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm (c. 41): Đây là sự bắt buộc một người phải mang một vật nặng hay làm một việc phục dịch nào đó cho quân đội hay cho viên chức nhà nước, như ông Si-môn người Ky-rê-nê đã bị lính Rô-ma ép phải vác đỡ thập giá cho Đức Giê-su trên đường thương khó khi Người quá yếu mệt (x. Mt 27,32). + Ai xin thì anh hãy cho, ai muốn vay mượn, thì anh đừng ngoảnh mặt đi (c. 42): Khi kẻ ác và người xấu xin và muốn được vay mượn thì người môn đệ cũng hãy sẵn sàng đáp ứng.

– C 43-38: + Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy Thầy bảo anh em: Sự công chính của người môn đệ Đức Giê-su sẽ đạt tới tầm mức tối đa khi yêu thương kẻ thù. Hành vi yêu thương kẻ thù ghét mình là để nên hoàn hảo noi gương Chúa Cha trên trời là Đấng hoàn hảo (x. 5,48) và công chính (x. 6,33). Nhờ đó, họ mới được nên công chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-sêu để xứng đáng được vào Nước Trời (x. 5,20). + “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những người ngược đãi anh em” (c. 44): Theo mạch văn kẻ thù là kẻ bắt bớ người tốt (c. 44b), là kẻ xấu luôn sỉ nhục, vu khống, đặt điều nói xấu người lương thiện (x. 5,10-11), và làm những điều bất công (x. 5,38-42); do đó người đời thường ghét kẻ thù. Trái lại Đức Giê-su dạy môn đệ phải yêu thương kẻ thù theo gương Chúa Cha trên trời. + Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính (c. 45): Thiên Chúa không phân biệt đối xử giữa kẻ xấu và người tốt. Ở đây Mat-thêu dùng từ “người xấu” thay vì “kẻ thù”. Vì “kẻ thù” của Thiên Chúa chính là ma quỉ; chắc chắn là Thiên Chúa không yêu thương và “cho mặt trời mọc lên” trên loại kẻ thù này (x. Mt 13,25), nhưng Ngài sẽ đặt nó dưới bệ chân Ngài (x. Mt 22,44). + Vì nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi? (c 46). Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em mình thôi, thì anh em có làm gì lạ thường đâu? (c 47): Trước khi kết luận, Đức Giê-su đưa ra hai cách làm bình thường mà người môn đệ cần phải vượt qua là chỉ yêu thương những người yêu mình hay chỉ chào hỏi những anh em của mình, để nhờ đó họ sẽ nên công chính hơn những người thu thuế và lương dân. + Vậy anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện (c. 48): Đây là điều đã được Đức Giê-su thực hiện và qui chiếu về Chúa Cha: “như Cha anh em”. Nếu Chúa Cha đã thể hiện tình yêu qua việc “cho mặt trời mọc lên trên kẻ dữ và người lành”, thì con cái của Ngài cũng phải làm như vậy: nghĩa là phải làm điều tốt cho người khác vì tình yêu họ.

CÂU HỎI: 1) Đức Giêsu dạy môn đệ phải nên hoàn thiện noi gương Thiên Chúa để đối xử với người xấu và người ác ra sao? 2) về việc trả thù, Mô-sê dạy phải trả báo công bình như: “mắt đền mắt, răng đền răng” (Xh 21,24). Còn Đức Giê-su dạy môn đệ phải hạn chế hận thù như thế nào? 3) Tại sao lại phải giơ má kia khi đã bị kẻ xấu tát má này của mình? Phải chăng làm như vậy là khuyến khích kẻ xấu tiếp tục làm ác: “được đằng chân lân đàng đầu”? 4) Môn đệ phải yêu kẻ thù là những ai để noi gương Thiên Chúa?  5) Đức Giê-su đòi môn đệ phải công chính hơn người thu thuế và dân ngoại như thế nào? 6) Nếu Chúa Cha đã thể hiện tình yêu qua việc “cho mặt trời mọc lên trên kẻ dữ và người lành”, thì các tín hữu cũng phải làm gì đối với những kẻ thù ghét mình?

  1. SỐNG LỜI CHÚA
  2. LỜI CHÚA: Đức Giêsu phán:” Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. (44) Còn Thầy, Thầy bảo anh em: Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5,43-44).
  3. CÂU CHUYỆN:

1) Tổng Thống Nam Phi Nensơn Manđêla yêu thương kẻ thù:

Đảng Quốc Dân, chính đảng của thiểu số người da trắng nắm quyền ở Nam Phi từ 1948, chủ trương phân biệt chủng tộc gọi là chủ nghĩa A-pác-thai và đối xử dã man với người da đen ở Nam Phi và các người di dân từ Châu Á tới, đặc biệt là từ Ấn Độ. Nensơn Manđêla (Nelson Mandela) đã đứng ra tranh đấu đòi bãi bỏ chế độ A-pác-thai và đã bị cầm tù nhiều năm và cuối cùng đã giành được thắng lợi. Ngày 7.12.1993 Hội đồng Hành pháp Lâm thời Nam Phi (ANC) đã ra đời với vị chủ tịch đầu tiên là Nensơn Manđêla, chấm dứt 340 năm độc quyền cai trị của thiểu số người da trắng ở nước Nam Phi này. Tháng 4 năm 1994, tổng tuyển cử đa sắc tộc đã được tổ chức. ANC đã chiếm được đa số phiếu và Nen-xơn Man-đê-la trở thành vị tổng thống da mầu đầu tiên của Nam Phi.

Ông Nensơn Manđêla đã trải qua 27 năm trong nhà tù. Sau khi được phóng thích, lẽ ra ông đã có đủ lý do để trả thù những kẻ đã cướp đoạt tự do của ông cách bất công. Nhưng ông đã không làm như thế mà luôn tỏ thái độ tươi cười hòa giải với những người đã từng ra lệnh giam giữ ông. Vì thế Man-đê-la đã trở thành lãnh tụ nổi tiếng nhất của nước Nam Phi mới. Trong cuốn tự thuật “Hành trình đến tự do” (1994), Man-đê-la đã viết như sau: “Tôi biết rằng dân chúng mong chờ tôi nuôi dưỡng hận thù người da trắng. Nhưng tôi đã không làm như thế. Trong nhà tù, sự tức giận của tôi với người da trắng đã hạ nhiệt, nhưng lòng thù ghét hệ thống xã hội phân biệt chủng tộc “A-pác-thai” lại gia tăng. Tôi muốn đất nước Nam Phi nhìn thấy tôi đã yêu thương những kẻ thù của tôi, đang khi tôi thù ghét chế độ A-pac-thai là nguyên nhân khiến mọi người trong nước chống lại nhau.  Tôi đã thấy sứ mạng của tôi là rao giảng sự hòa giải để chữa lành những vết thương lâu đời và xây dựng một nước Nam Phi mới” (McCarthy).

2) Ông Ham-Mel-Mann đã tha thứ cho kẻ thù đã giết hại vợ con mình:

Một tên sát nhân sau khi đã thụ án 20 năm trong ngục được thả ra, đã thuật lại hành động anh hùng của ông Ham-mel-mann: Không những ông tha thứ cho anh ta tội giết hại vợ và bốn đứa con của ông, mà còn sẵn sàng giúp đỡ anh ta cách tận tình. Anh ta đã phát biểu như sau:

“Tôi đã bị bắt, cảnh sát đã tìm thấy tôi. Tôi vốn là một kẻ hiếu sát. Tôi đã giết bà Ham-mel-mann và bắn chết 4 người con của bà. Tôi đã nhìn thấy họ nằm chết trên vũng máu. Sau khi bị cảnh sát bắt và đưa ra tòa xét xử; quan tòa đã tuyên án như sau: ”Anh đã làm một việc vô cùng tàn bạo, anh phải lãnh án tù khổ sai 20 năm”. Trong thời gian trong tù, tôi đã nhận được lá thư của ông Ham-mel-mann viết cho tôi vì được tin chính quyền Ba-lan không cho phép tôi được trở về quê hương Ba-lan của tôi sau khi mãn hạn tù. Ngay cả chính quyền Đức cũng nói với tôi: ”Chúng tôi không muốn anh sống tại nước Đức”.

Trong lá thư Ham-mel-mann viết cho tôi có đoạn sau: ”Tôi tha thứ cho anh về việc anh đã giết vợ và 4 đứa con của tôi. Tôi cũng đang vận động với chính quyền Đức để họ cho phép anh được sống tại Đức. Tôi đã nói với chính phủ Đức là anh có thể ở trong nhà tôi và tôi hứa sẽ giúp anh sống một cuộc đời lương thiện”. Tại sao tôi lại muốn giúp đỡ anh? Tại sao tôi có thể tha thứ cho anh về tội tàn sát cả gia đình của tôi? Sở dĩ tôi có thể làm được điều này vì Thiên Chúa đã làm một phép màu nơi tôi. Ngài đã ban cho tôi Thần Khí của Ngài. Thần Khí của Thiên Chúa đã dẫn dắt cuộc đời tôi và đã tăng thêm sức mạnh giúp tôi sẵn sàng tha thứ tội lỗi cho anh”.

Cuối cùng anh ta nói: Bây giờ tôi biết được rằng chắc chắn Thần Khí của Thiên Chúa phải quyền năng siêu việt.  Ngài đã có thể cất đi mối tử thù khỏi lòng một con người và ban cho ông ta tấm lòng quảng đại để sẵn sàng giúp đỡ tôi, mặc dù tôi đã giết vợ và 4 đứa con của ông ta (TK Nguyệt san, số 367).

  1. SUY NIỆM:

Tin Mừng Chúa Nhật 7 Thường Niên tiếp tục trình bày giáo huấn của Đức Giê-su hoàn thiện Luật Mô-sê: Luật cũ dạy người Do thái phải yêu thương thân nhân và những người đồng chủng, đồng thời phải ghét kẻ thù là dân ngoại và những kẻ chống lại mình. Luật Mới của Đức Giê-su dạy môn đệ phải mở rộng tinh yêu để đến với mọi người, nhất là những người nghèo đói bệnh tật, què quạt đui mù câm điêc… và còn phải yêu thương cả những kẻ làm ác và kẻ thù ghét mình nữa.

1) Lời dạy của các bậc vĩ nhân đối với kẻ thù:

Trong việc ứng xử với kẻ thù, Đức Khổng Tử đã dạy học trò: ”Dĩ đức báo oán”, nghĩa là phải làm điều tốt để đáp lại điều xấu của kẻ thù của mình. Còn Đức Phật Thích Ca suốt đời tìm cách giải thoát con người  khỏi đau khổ, cũng dạy các đệ tử như sau: ”Lấy oán báo oán, oán chập chùng. Lấy đức báo oán, oán tiêu tan”. Thánh Gandhi của dân tộc Ấn độ, đã nêu ra học thuyết “bất bạo động” làm phương thế đấu tranh và đã giải phóng được nước Ấn thoát khỏi ách khỏi ách thống trị của thực dân Anh, cũng nói như sau: ”Luật vàng của xử thế là sự tha thứ cho nhau”. Sau này, Mục sư Luther King người Mỹ suốt đời đấu tranh cho quyền bình đẳng của người da màu với người da trắng và đã bị kẻ thù bắn chết. Trong tác phẩm “Chỉ có một cuộc cách mạng” mục sư đã viết về cách đối xử với kẻ thù như sau: ”Tôi hài lòng vì Đức Giê-su đã không dạy: Anh em hãy có thiện cảm với kẻ thù của anh em. Bởi vì có nhiều người tôi khó lòng có thiện cảm được. Thiện cảm là một cảm tính. Tôi không thể có thiện cảm với kẻ tìm cách ném bom vào gia đình tôi, đàn áp bóc lột tôi, chèn ép tôi cách bất công. Không, không thể có thiện cảm nào đối với những kẻ luôn đe dọa cuộc sống của tôi. Tuy nhiên Đức Giê-su đã dạy rằng: “Tình yêu còn mạnh hơn sự chết”, rằng tình yêu là thiện chí cảm thông, mang tính sáng tạo và có khả năng cứu độ mọi người”.

Riêng Đức Giê-su Đấng đến kiện tòan Luật Mô-sê, đã dạy về cách đối xử với kẻ thù như sau: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5,43-44).

2) Yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi mình:

  1. a) Kẻ thù là những ai?: Thời Đức Giê-su kẻ thù của người Do Thái là quân Rô-ma đang cai trị đất nước Do thái. Còn kẻ thù đối với chúng ta hôm nay không phải ai xa lạ mà chính là những người đang sống chung dưới một mái nhà, là anh chị em ruột thịt nhưng đang bất thuận với chúng ta; Là người hàng xóm nhiều lời và hay nói xấu chúng ta; Là bạn đông nghiệp cùng một cơ quan xí nghiêp nhưng hay tỏ ra ganh tị và luôn tìm cách làm hại chúng ta; Là người cùng chung một cộng đoàn nhưng lại hay ganh ghét và muốn loại trừ chúng ta… Kẻ thù cũng có thể là cấp trên đang chèn ép chúng ta khi không lôi kéo được chúng ta làm điều bất chính; Cuối cùng kẻ thù còn là những kẻ tự nhiên có thành kiến không tốt về chúng ta hoặc những kẻ chúng ta tự nhiên có ác cảm ngay từ lần gặp gỡ đầu tiên…
  2. b) Phải yêu thương kẻ thù như thế nào?: Đức Giê-su không đòi chúng ta phải yêu kẻ thù giống như yêu một người thân của mình về mặt tình cảm, vì đó là điều bất khả thi. Người chỉ đòi chúng ta yêu kẻ thù bằng hành động như: Làm ơn cho họ, cầu nguyện điều lành cho họ, sẵn sàng chia sẻ cơm bánh cho họ và cho họ vay mượn tiền bạc.

– “Hãy làm lành cho những kẻ ghét anh em”: Tình yêu tha nhân phải được biểu lộ qua hành động như: sẵn sàng nói chuyện, quảng đại giúp đỡ và khiêm hạ phục vụ…

– “Và cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ”: Đức Giê-su dạy các tín hữu phải theo gương Chúa Cha: “cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính”. Khi cầu nguyện điều tốt cho những kẻ bách hại mình, chúng ta mới chứng tỏ mình thuộc về Thiên Chúa như có người đã nói: “Làm điều ác để đáp trả ơn lành là việc làm của ma quỉ. Làm điều lành để đáp trả ơn lành là việc làm của con người. Còn làm điều lành để đáp trả điều ác mới là làm việc của Thiên Chúa”.

  1. c) Làm như vậy phải chăng là thái độ của kẻ đạo đức giả và hèn nhát?: Thực ra việc yêu kẻ thù dù tự nhiên mình không thích, không phải là hành động đào đức giả, nhưng là một hành động anh hùng, luôn nỗ lực vượt thắng bản thân để trở thành một con người bao dung từ bi nhân hậu. Làm như vậy cũng không phải là hành vi của kẻ hèn nhát, chịu khuất phục trước bạo lực, nhưng là dấu hiệu của một nhân cách trưởng thành, sẽ giành được sự nể phục của nhiều người. Làm được như vậy còn làm cho chúng ta trở nên môn đệ thực sự của Đức Giê-su, Đấng đã nêu gương nhẫn nhịn chịu đựng và cầu xin cho những kẻ giết hại mình trên cây thập giá.
  2. d) Việc yêu thương kẻ thù mang lại những ích lợi nào?: Khi cư xử tốt với kẻ thù, chúng ta được giải phóng khỏi thái độ “ăn miếng trả miếng” và tránh được nhiều chứng bệnh thời đại như cao huyết áp, mất ngủ, trầm cảm… Khi đối xử tốt với kẻ thù có thể chúng ta sẽ cảm hóa được kẻ thù, giúp họ hoán cải và theo làm môn đệ Đức Giê-su. Nhờ việc vượt thắng bản thân để đi bước trước bắt tay chào hỏi, sẵn sàng giúp đỡ và cầu nguyện điều lành cho họ… chúng ta hy vọng sẽ biến thù thành bạn của chúng ta.
  3. THẢO LUẬN: 1) Đã có bao giờ bạn làm điều tốt cho kẻ thù ghét mình chưa? 2) Đã có khi nào bạn gây được thiện cảm với ai đó nhờ việc đi bước trước để bày tỏ sự thân thiện, quảng đại chia sẻ và tận tình phục vụ họ chưa?
  4. NGUYỆN CẦU:

Lạy Chúa Giêsu. Xin cho con quả tim của Chúa. Xin cho con biết quảng đại để vươn tâm hồn lên cao, vượt qua những tình cảm đời thường và mặc lấy tâm tình bao dung nhân hậu của Chúa. Xin cho con loại bỏ những sự hờn oán nhỏ nhen, những sự trả thù không đáng có. Xin cho tâm hồn con luôn bình an trong sáng, và không biến cố nào có thể làm xáo trộn, không đam mê nào có thể khuấy động được lòng con. Xin cho con đừng quá vui khi được người đời khen ngợi, cũng đừng quá buồn khi bị chỉ trích chê bai. Xin cho quả tim của con đủ lớn để yêu thương cả những người con không ưa và những kẻ không ưa con. Xin cho vòng tay con luôn rộng mở để ôm cả thế giới, trong đó có cả những kẻ thù ghét con. Nhờ đó con mới nên con thảo của Cha trên trời và nên môn đệ thực sự của Chúa. – Amen.

 

54.             Đỉnh của luật: Luật Yêu Thương – Huệ Minh

Mt 5: 38-48 Hãy yêu thương kẻ thù. Cứ sự thường người ta đối xử với nhau theo cái luật: Răng đền răng, mắt đền mắt, ân đền oán trả, hòn đất ném đi hòn chì ném lại.

Hãy yêu thương kẻ thù. Cứ sự thường người ta đối xử với nhau theo cái luật: Răng đền răng, mắt đền mắt, ân đền oán trả, hòn đất ném đi hòn chì ném lại. Chúng ta yêu thương những người yêu thương chúng ta và ghét bỏ những kẻ ghét bỏ chúng ta. Kẻ nào làm hại chúng ta thì chúng ta sẵn sàng để trả đũa, và người đời cho đó là lẽ thường tình, là thái độ khôn ngoan.

Qua trang Tin Mừng nay Chúa Giêsu bảo chúng ta phải vượt lên trên cái lẽ thường tình ấy. Ngài phán với chúng ta: Hãy yêu thương kẻ thù và làm ơn cho những kẻ ghét bỏ chúng ta. Bởi vì có thực hiện được điều đó, chúng ta mới xứng đang là con cái Thiên Chúa và mới trở nên giống Ngài, Đấng đã cho mưa xuống trên người lành cũng như trên kẻ dữ.

Chúa Giêsu không phải chỉ truyền dạy chúng ta mà chính Ngài đã làm gương trước cho chúng ta trong việc thực thi giới luật yêu thương này. Đúng thế, Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước, ngay cả trong khi chúng ta còn nằm trong tội lỗi, còn quay lưng chống lại Ngài như lời thánh Phaolô trong bức thư gởi tín hữu Rôma đã viết: Thiên Chúa đã chứng tỏ tình yêu của Ngài đối với chúng ta, đó là khi chúng ta còn tội lỗi, thì Đức Kitô đã chết để chúng ta được sống.

Trên tất cả, Thiên Chúa là tình yêu. Chúa Giêsu đến để đem lại một tình yêu bác ái gạn lọc mọi dơ bẩn, mọi lớp vỏ bao quanh như tình máu mủ, dân tộc, gia đình, quốc gia, lễ giáo chật hẹp. Người xưa bảo: “Mắt đền mắt, răng đền răng”, người ta xúc phạm mình mức nào, mình có quyền ăn miếng trả miếng, đối xử với họ như họ đã đối xử.

Chúa Giêsu dạy yêu thương, chính Ngài đã sống yêu thương, Ngài luôn tỏ tình yêu thương những kẻ thù nghịch với Ngài, mặc dù họ ghen ghét Ngài vô cớ, họ luôn tìm dịp để tố cáo Ngài, xuyên tạc lời Ngài giảng dạy. Đối với Giuđa là kẻ phản bội, Chúa không tố cáo đích danh trước mặt các môn đệ, Chúa còn ngồi ăn cùng bàn và rửa chân cho y nữa. Khi Giuđa dẫn quân lính đến bắt Chúa trong vườn cây dầu, Chúa vẫn ôn tồn nói với Giuđa: “Giuđa ơi, anh dùng cái hôn mà nộp Con Người sao?” (Lc 22, 48).

Vì yêu thương Giuđa nên nhiều lần Chúa Giêsu nhắc nhở, cảnh tỉnh để ông ta thay đổi việc làm xấu mà được hưởng ơn cứu độ. Trên thập giá, trước khi tắt thở, Chúa vẫn dùng chút hơi tàn lực kiệt để cầu nguyện cho kẻ đóng đinh Người “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 34). Vì vậy, thánh Phaolô cũng nói: “Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi, đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5, 8).

Trên thập giá, Chúa đã tha thứ và đưa vào Thiên Đàng người trộm lành biết ăn năn hối cải: “Hôm nay, ngươi sẽ ở trên Thiên Đàng với Ta”. Chúa đã tha thứ ngay khi Ngài bị kết án bất công, bị đóng đinh trên thập giá: “Lạy Cha, xin tha thứ cho họ vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 34). Chết mới nói lên lời. Chết mới nói lên tình ây trọn vẹn, tình yêu vô vị lợi, tình yêu dâng hiến.

Tha thứ, yêu thương kẻ thù là điều rất khó thực hiện. Nhưng Chúa dạy: “Các con phải trở nên hoàn thiện như cha các con trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5, 48).

Chúa Giêsu đã dùng lối nói “ngoa ngữ” dạy chúng ta dùng chính tình yêu, việc lành để giải hoá sự hận thù, diệt trừ sự dữ tận gốc rễ. Cần lưu ý rằng văn phong “ngoa ngữ” thường được sử dụng không phải cố ý dạy những gì được trình bày nhưng để nhằm nhấn mạnh ý tưởng muốn nói. Chẳng hạn khi dạy chúng ta rằng nếu mắt hay tay chân ta gây cớ cho ta phạm tội thì chặt chúng đi, Chúa Giêsu chỉ muốn nhấn mạnh đến việc dứt khoát tránh dịp tội chứ không biểu chúng ta móc mắt hay chặt chân, chặt tay (x.Mt 5,29-30).

Hiểu được điều này thì chúng sẽ không thấy có sự mâu thuẩn giữa lời dạy và hành động của Chúa Giêsu. Trước mặt thượng tế Khanan, khi bị một thuộc hạ của thượng tế vả vào mặt thì Chúa Giêsu đã chất vấn: “Nếu tôi nói sai, anh hãy chứng minh xem sai ở chỗ nào; còn nếu tôi nói phải, sao anh lại đánh tôi?”(Ga 18,23). Khi dạy chúng ta “nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái nữa” thì Chúa Giêsu chỉ muốn nhấn mạnh điều này: “đừng chống cự người ác”, nghĩa là đừng báo thù, kiểu ăn miếng trả miếng.

Xã hội và ngay chính bản thân ta sẽ không thể nào được xây dựng trên sự thù oán và đấu tranh, vì thù oán này sẽ nảy sinh ra thù oán khác, như một thứ bệnh truyền nhiễm làm cho xã hội bị sụp đổ, còn bản thân tôi sẽ phải quay quắt khổ đau. Thế nhưng, điều tệ hại nhất, đó là chính bản thân tôi nhiều khi lại là nguyên nhân cho sự thù oán, vì hơn một lần tôi đã sai lỗi, hơn một lần tôi đã gian tham và bất công. Cho nên người đáng phải giết, đáng phải loại trừ lại chính là bản thân tôi. Vì vậy mà bản du ca trên có những lời lẽ được tiếp nối như sau: Kẻ thù ta tên nó là gian ác, tên nó là điêu ngoa, tên nó là tham tàn…

Phương thế hữu hiệu nhất để làm cho thêm bạn bớt thù, không phải là chết giết những kẻ thù ở bên ngoài, vì sự trả thù chỉ là cái vui của những tâm hồn đê tiện, nhưng là phải lột mặt nạ và tận diệt cho bằng được những thói hư tật xấu, là những kẻ nội thù, nằm sẵn trong cõi lòng chúng ta, như người xưa đã dạy: Kẻ thù đích thực thì ở trong tâm hồn, vì đó là những nguyên nhân gây nên thù oán ngoài xã hội.

Là người con của Chúa, Chúa dạy chúng ta hãy làm hoà trước để khỏi xảy ra điều tai hại hơn. Đây là một lời khuyên quan trọng: chẳng những không được làm hại ai hay có ý mưu hại ai, mà còn phải đi trước một bước mà làm hoà. Nói rõ hơn, trước một điều bất công, vô tình hay hữu ý, thiên hạ gây cho ta: như xỉ nhục, xỉ vả, chê cười, nói hành, vu vạ, cáo gian… Tất nhiên lòng tự ái chúng ta bị va chạm, không thể nhịn được, lòng chúng ta như muốn trả đũa ngay. Đó là tính tự nhiên của con người. Nhưng Chúa muốn chúng ta sống khác hơn, sống cao thượng hơn. Chúa muốn chúng ta tha thứ và làm hoà. Tha thứ và làm hoà là điều kiện phải có để đến với Chúa.

Không thể đến với Chúa mà lòng còn ngổn ngang những tức giận, ghen tương, đố kỵ. Nhân vô thập toàn, ai cũng có những lầm lỗi, ai ai cũng cần được tha thứ, thế nên cũng cần phải biết tha thứ cho nhau. Người ta vẫn thường nói để sống với Chúa cần có đức tin để mình tin tưởng, phó thác cậy trông vào Chúa giữa những phong ba của dòng đời, và để sống với tha nhân, cần phải có lòng độ lượng, để mình sống bao dung và tha thứ cho người khác. Nếu chúng ta không có lòng độ lượng có lẽ mình sẽ chẳng sống được với ai, và cũng chẳng ai sống được vời mình. Đây cũng là điều mà Chúa mời gọi chúng ta phải công chính hơn những người biệt phái trong tình yêu tha thứ.

Không chỉ yêu kẻ yêu mình mà còn yêu cả kẻ ghét mình. Không chỉ quý mến kẻ thi ân cho mình mà còn làm ơn cho kẻ làm hại chính mình. Bởi vì, oán báo oán thì oán chập chùng. Chúa mời gọi chúng ta hãy tha thứ cho kẻ thù, hãy làm hoà cùng kẻ thù và hãy cầu nguyện cho kẻ thù. Chính Chúa đã sống tình yêu đó trên thập tự giá, nơi đó người ta đã tuôn đổ sự tàn ác trên thân thể Ngài, thế mà Ngài vẫn xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm. Tình thương Chúa không dừng lại ở việc tha thứ mà còn thi ân cho mọi người, kẻ lành cũng như người dữ. Kẻ thờ phượng Chúa cũng như kẻ chống đối lại Chúa.

Ngoài trừ thần dữ, Kitô hữu chúng ta không xem ai là kẻ thù. Tuy nhiên vấn nạn đặt ra là làm sao có thể yêu những người xem chúng ta là kẻ thù nghịch đồng thời ngược đãi chúng ta và làm thế nào để thi ân cho người bách hại chúng ta? Làm sao có thể yêu được những người đang làm hại chúng ta cách cố tình và cách bất chính và bất công? Làm sao có thể yêu những người đang đàn áp, bóc lột kẻ nghèo hèn, đang bán nước cầu vinh, đang cao ngạo cho mình là duy nhất đúng kiểu như thần, như thánh trong khi đang làm cho tiền đồ dân tộc đi vào ngõ cụt…?

Chúa còn mời gọi mỗi người chúng ta hãy nên hoàn thiện “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5, 48). Để nên hoàn thiện, chúng ta hãy loại bỏ thứ “luật rừng”, thứ luật luôn diệt trừ lẫn nhau, loại bỏ những toan tính, ích kỷ, hẹp hòi, tham lam, gian dối, lừa lọc. Chúng ta hãy thực thi giới luật Chúa Giêsu đã truyền dạy là “mến Chúa và yêu người” yêu thương tất cả mọi người không phân biệt bạn hay thù, yêu thương và tha thứ cho những người làm thiệt hại đến mình, dù là vô tình hay hữu ý.

 

55.             Yêu như Chúa yêu

(Suy niệm của Huệ Minh)

Thời Cựu Ước, luật yêu thương được hiểu là không hại người anh em, phải yêu thương đồng loại: “Ngươi không được trả thù, không được oán hận những người thuộc về dân ngươi. Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình” (Lv 19, 18). Trong sách Huấn Ca, tác giả cũng dạy không được oán hờn, giận giữ anh em mình, vì nếu thù ghét đồng loại mình và không tha thứ cho nhau thì không xứng đáng được Chúa tha thứ cho mình.

Tuy nhiên, luật Cựu Ước, theo lẽ công bằng thì yêu tha nhân là những người đồng chủng, đồng bào, nghĩa là chỉ người Do thái. Còn tất cả mọi người khác là ngoại bang, là kẻ thù, không được thương mà cũng không được giúp. Ngược lại, còn khuyên tránh xa, và nếu cần có thể giết nữa (Đnl 20, 13-17; 23,4-5; 25,17-19). Luật công bằng cũng hiểu là: “mắt đền mắt, răng đền răng”.

Chúa Giêsu đã khẳng định, ngài đã không đến hủy bỏ Lề Luật, mà là kiện toàn khi đưa nó đến chỗ hoàn hảo của nó. Ngài nói, sự công chính của những người kitô hữu phải vượt qua sự công chính của những người biệt phái và luật sĩ. Như thế, lý tưởng được Chúa Giêsu đề nghị dẫn đi rất xa và rất cao. Phúc Am hôm nay cũng đi theo đường hướng đó, khi thoáng mở cho thấy: đâu là những đòi hỏi của tình yêu đối với một người muốn dứt khoát đi theo Chúa Giêsu.

Chúa Giêsu đến để kiện toàn Lề Luật bằng việc thổi vào đó tinh thần của tình yêu, lòng bao dung và tha thứ. Vì thế, theo giáo huấn của Chúa Giêsu về luật yêu thương tha nhân, thì sự bao dung đại lượng còn phải đi tới chỗ yêu thương luôn cả thù địch nữa, Ngài nói: “Các con cũng đã nghe dạy rằng: ‘Hãy yêu thương tha nhân, và ghét thù địch’. Còn Thầy, Thầy bảo các con: ‘Các con hãy yêu thương thù địch và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi các con’” (Mt 5, 43-44).

Thánh Phaolô cũng tiếp lời giáo huấn của Chúa Giêsu khi nói: “Hãy chúc lành cho kẻ bắt bớ, chúc lành chứ đừng chúc dữ… Nếu kẻ thù ngươi đói hãy cho nó ăn; nó khát hãy cho nó uống […]Chớ để sự dữ thắng được ngươi, nhưng hãy lấy lành mà thắng dữ” (Rm 12, 14, 20-21). Rõ ràng, Chúa Giêsu đã xóa bỏ nguyên tắc “ăn miếng trả miếng”. Ngài đòi hỏi các môn đệ phải khước từ báo oán, phải tha thứ, yêu thương và cầu nguyện cho kẻ thù, bởi vì: “Cha các con ở trên trời, là Ðấng làm cho mặt trời mọc lên trên người lành cũng như kẻ dữ, và cho mưa trên người công chính cũng như kẻ bất lương”. Ngài mời gọi các môn đệ hãy tha thứ vô điều kiện: “Không phải chỉ tha 7 lần nhưng là 70 lần 7”. Như vậy, vị chi là 490 lần, tức là yêu thương không ngừng.

Thiên Chúa đã tạo dựng nên chúng ta, và trong khi tạo dựng nên chúng ta, ngài đã để lại nơi chúng ta dấu ấn linh thánh của ngài. Chúng ta được tạo dựng theo hình ảnh ngài và giống như ngài. Chúng ta không phải là Thiên Chúa, nhưng trong chúng ta có sắc thái thần thiêng của Thiên Chúa. Chúng ta không phải là Thiên Chúa, nhưng chúng ta là con cái của Thiên Chúa.

Ta thấy ta không phải là Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa lôi cuốn chúng ta về với ngài, gắn bó với ngài, để chúng ta càng ngày càng trở nên giống ngài hơn. Chúng ta không phải là Thiên Chúa, nhưng thần khí của Thiên Chúa ngự trong chúng ta, đến nỗi những tư tưởng của Thiên Chúa có thể trở thành những tư tưởng của chúng ta; những chương trình, dự án của ngài có thể trở thành của chúng ta; đến nỗi chính tình yêu mà Thiên Chúa yêu thương chúng ta có thể trở thành tình yêu mà chúng ta có thể biểu lộ cho nhau.

Lời mời gọi của Chúa Giêsu: “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ”, là câu then chốt của đoạn Tin Mừng này, tức lả “bắt chước Thiên Chúa”, như Fray Luis giải thích: “Phẩm chất đầu tiên của nhân đức này chính là nó làm cho con người nên giống Thiên Chúa và giống đức tính vinh quang nhất ở nơi Người, lòng từ bi nhận hậu của Ngài (Lc 6,  36). Vì chắc chắn sự hoàn thiện bậc nhất một thọ tạo có thể có là phải nên giống Đấng Tạo Hóa của mình; và càng nên giống Người, càng nên hoàn thiện”

“Hãy yêu kẻ thù”. Đó là lệnh truyền đã được Chúa Giêsu nhắc lại hai lần trong bài tin Mừng hôm nay. Đó cũng là lệnh truyền khó thi hành nhất trong các lệnh truyền của Người. Khó nhưng không phải là không có thể. Chính Người đã làm gương cho chúng ta khi Người xin Cha tha thứ cho những kẻ hành hạ mình. Hơn nữa, Người còn minh oan cho họ : “Vì họ lầm chẳng biết”.

Trong thực tế ta thấy ta không bao giờ chúng ta sẽ yêu mến như chúng ta được Thiên Chúa yêu mến, và không bao giờ chúng ta sẽ tha thứ như ngài tha thứ cho chúng ta. Tuy nhiên, đó không phải là lý do để, mỗi ngày, trong suốt cuộc đời, chúng ta không tìm kiếm thực hiện một bài ca tình yêu của lòng thương xót, cho những người chung quanh chúng ta, bằng những hành động cụ thể, cho dù rất nhỏ bé. Trên mặt đất, không bao giờ chúng ta sẽ thánh thiện như Cha trên trời là Đấng thánh, và không bao giờ chúng ta sẽ hoàn hảo như ngài. Tuy nhiên, đó không phải là lý do để chúng ta tự bằng lòng vói cái ít ỏi của mình, và để chúng ta không hướ

Luật Kitô hữu là luật yêu thương. Khi người môn đệ Chúa Kitô chấp nhận những từ bỏ do luật này đòi hỏi, luật yêu thương này chứng tỏ được tất cả trọng lượng của nó. Nếu các nguyên tắc được công bố ở đây đi vào trong xã hội, xã hội này hẳn là sẽ không bị tiêu vong, nhưng sẽ thấy các tương quan giữa con người được đổi mới, bởi vì các bất công và bạo động sẽ bị dập tắt dễ dàng nhờ sống theo luật này hơn là do sợ các biện pháp chế tài hình sự.

Thật ra đây chính là lối sống của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã chết vì không nhường bước trước các áp lực của sự thận trọng hoặc của lương tri. Khi làm như thế, Người không đảo lộn trật tự xã hội, nhưng Người củng cố các tương quan giữa con người với con người. Bắt chước Thiên Chúa, và cũng là bắt chước Chúa Giêsu, là quy tắc duy nhất của lối cư xử của Kitô hữu, là con đường duy nhất để vượt qua nền luân lý Pharisêu.

“Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho họ”. Đó là lệnh truyền khó thi hành nhất trong các lệnh truyền của Đức Giêsu. Nhưng Ngài đã làm gương khi xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ hành hạ, đóng đinh mình trên thập giá “lạy Cha, xin tha cho họ vì nó lầm chẳng biết”. Chính hành vi cao cả này đã thể hiện trọn vẹn tình yêu của Thiên Chúa. Đó cũng là nét cao quý nhất trong dung mạo Đấng Cứu Thế. Người đến để yêu thương và cứu chuộc con người. Người đến để tha thứ và đem lại cho con người cơ may hầu sám hối và canh tân để được cứu độ.

=> Tài liệu dạng Word, xin nhấn vào đây để tải về máy