Mc 16,15-20: Khi ấy Chúa Giêsu nói cùng các môn đệ: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân về những điều này. “Phần Thầy, Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa. Còn anh em, hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống.”
Sau đó, Người dẫn các ông tới gần Bê-ta-ni-a, rồi giơ tay chúc lành cho các ông. Và đang khi chúc lành, thì Người rời khỏi các ông và được đem lên trời. Bấy giờ các ông bái lạy Người, rồi trở lại Giê-ru-sa-lem, lòng đầy hoan hỷ, và hằng ở trong Đền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa.
Đây là cuộc đối thoại cuối cùng với các tông đồ trước khi Chúa Giêsu lên trời. Người cho họ hiểu lần cuối sứ mệnh của Người như đã được viết trong các Sách Thánh. Đồng thời Người giao phó cho họ sứ mệnh sắp đến là làm chứng về tất cả những gì họ đã nghe và biết về Người; để trợ giúp họ, Người ban cho họ Thánh Thần. Rồi Người lên trời; còn các tông đồ bắt đầu sứ mệnh của họ. Nằm trong chương 24 trình bày những biến cố và giáo huấn của Chúa Giêsu sau khi Người sống lại, đoạn 24,44-53 gồm hai phần: – Giáo huấn các tông đồ bằng cách làm cho hiểu những điều Sách Thánh nói về Người và giao phó cho họ sứ mạng (24,44-49); – Trình thuật lên trời (24,50-53).
Giáo huấn các tông đồ về con người và sứ mệnh của Chúa Giêsu (24,44-49)
Để có thể hiểu dễ dàng hơn, đoạn nầy được chia thành hai phần: – Ứng nghiệm những điều đã nói trong các Sách thánh về Chúa Giêsu (24,44-46); – Sứ mạng trao phó cho các tông đồ (24,47-49).
Các tông đồ bị vấp ngã trước cái chết trên thập giá của Chúa Giêsu. Họ nghi ngờ về Người như là Đấng Được Sai Đến. Xem câu chuyện hai môn đệ về làng Emmaus (24,13-35; x. 1Cor 1,23.28-24). Chúa Giêsu hiểu điều nầy; nên Người phải dùng đến các Sách Thánh để làm chứng về Người. Với dân Israel, các Sách Thánh là nơi ý định của Thiên Chúa được bày tỏ; đồng thời, họ xem các Sách Thánh là nguồn uy tín nhất để hiểu và giải thích nhất là những điều liên quan đến đời sống tôn giáo. Câu đầy đủ nhất là “phải ứng nghiệm tất cả những gì được viết trong luật Môsê và các ngôn sứ và thánh vịnh về Tôi” (24,44. 45.46). Điều mà các Sách Thánh viết là “Đấng Kitô chết và sống lại từ kẻ chết vào ngày thứ ba” (24,26; x. 9,22; Cv 17,2-3). Các tông đồ đã không hiểu các điều nầy, mặc dù Chúa Giêsu đã lấy Sách thánh mà tiên báo về cái chết và sự sống lại của Người (18,31-34). Bởi đó, họ cần được mở lòng để hiểu (24,45; 24,25). Lời nầy trong các Sách Thánh chỉ có thể hiểu được cách tường tận khi nó đã được thực hiện: Đấng Kitô đã sống lại. Đầu Tin mừng khi Chúa Giêsu khởi đầu việc rao giảng công khai, Người tuyên bố là “đã ứng nghiệm” (4,21) lời Sách Thánh trích trong ngôn sứ Isaia (Is 61,1tt; 58,6), nói về sứ mệnh của Người. Bây giờ Người lại tuyên bố là “phải ứng nghiệm” (24,44) để đánh dấu công việc ấy đã hoàn tất. Như thế, Người muốn các tông đồ nhận biết cách rõ ràng và chắc chắn Người chính là Đấng Kitô do Thiên Chúa sai đến, và sự chết và sống lại của Người nằm trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
Sứ mạng trao phó cho các tông đồ (24,47-49)
Chúa Kitô chết và sống lại là nền tảng và nội dung căn bản của lời rao giảng sám hối để được tha tội (24,47; Cv 2,38; 5,31; 17,30). Lời kêu gọi sám hối để được tha tội đã ngỏ với dân Do thái (1,77; 3,3; 4,18; 5,32; 15,7) để chuẩn bị họ đón nhận Tin mừng do Chúa Giêsu rao giảng. Các tông đồ sẽ tiếp tục lời kêu gọi nầy, vì họ sẽ bắt đầu thời kỳ mới rao giảng về Chúa Kitô chết và sống lại; không còn chỉ cho Israel, mà mọi dân tộc. Khi nhân danh Chúa Kitô rao giảng sự sám hối, các tông đồ lấy tư cách và uy quyền của Chúa Kitô mà làm việc nầy. Mục đích là tái lập sự hiệp thông với Thiên Chúa nhờ tin vào Đấng Kitô và nhờ hiệu quả của sự chết và sống lại của Người mà được tha tội (x. Cv 2,38; 3,16; 4,12.17.18; 5,28.40.41). Việc nầy “khởi đầu từ Giêrusalem”, vì nơi đó sứ mạng của Chúa Giêsu đã hoàn tất cách dứt khoát. Chúa Giêsu sống lại làm cho họ trở thành những chứng nhân (24,48; x. 1,2; Cv 1,8.22; 2,32; 3,15; 5,32). “Những điều nầy” là những sự kiện đã xảy ra và những giáo huấn của Chúa Giêsu mà họ đã chứng kiến, lắng nghe và cả cảm nghiệm bằng đức tin (Cv 2,22-36). Tiếp theo việc giao phó sứ mạng làm chứng, Chúa Giêsu loan báo việc ban Thánh Thần do Chúa Cha đã hứa (24,49; Gio 16,7; 14,16). Khi Người đến, Thánh Thần sẽ làm cho họ hiểu hơn về Chúa Giêsu như là Đấng Kitô; đồng thời giúp họ chu toàn vai trò làm chứng cho Người.
Biến cố Chúa Giêsu lên trời (24,50-53)
Biến cố nầy được trình bày cách chi tiết hơn trong Cv 1,4-14. Có thể phân chia đoạn nầy như sau: – Bêtania nơi Chúa lên trời (24,50a); – Hành động của Chúa trước khi lên trời (24,50b-51); – Các tông đồ sau khi Chúa đã lên trời (24,52-53). Bêtania (24,50a), nơi Chúa lên trời, được ghi nhận gần hơn là ngọn núi Cây Dầu (Cv 1,12). Các tông đồ được Chúa Giêsu dẫn đến đó có tên trong danh sách Cv 1:13. Việc “được đem lên trời” được diễn tả cách khác là “đám mây che Người khỏi mắt họ” (Cv 1,9). Đám mây tượng trưng cho “nơi” Thiên Chúa cư ngụ. Vậy “lên trời” là đi vào trong vinh quang của Thiên Chúa (x. 24,24.46), và mắt con người không thể nhìn thấy “nơi” nầy.
Giữa trình thuật lên trời và trình thuật giáng sinh có nhiều chi tiết tương đồng. Rất có thể Luca cố ý trình bày như vậy để nhấn mạnh sứ mạng đã khởi đầu của Chúa Giêsu, nay kết thúc. Trong trình thuật giáng sinh, Luca mô tả các thiên thần xuất hiện và loan báo cho các mục đồng Đấng Kitô xuống trần gian (2,9-11). Trong trình thuật lên trời, cũng chính các thiên thần loan báo cho các tông đồ là Người đã về trời rồi (Cv 1,11). Như thế, sứ mạng ở trần gian đã kết thúc. Chúa Giêsu trở về nơi Người đã đến. Luca nói đến “niềm vui lớn” cả khi Chúa sinh ra lẫn khi Người về trời (2,10 và 24,52). Niềm vui khởi đầu là Đấng Cứu Thế, cũng là Đấng Kitô, đã sinh ra cho mọi người (2,10-11). Người là sự cứu độ mà muôn dân trông đợi (2,30; 3,6). Bởi đó mọi người đều vui mừng: các mục đồng (x. 2,15-20), Zacharia (1,64.68-79), Simêon (2,28-32). Sự cứu độ ấy nay được Đấng Kitô thực hiện trong cái chết và sống lại của Người (24,46.52). Bởi đó các tông đồ vui mừng vì họ đã chứng kiến được việc quyền năng nhất Thiên Chúa đã làm trong Đấng Kitô. Luca khởi đầu Tin mừng với việc tế tự của Zacharia trong đền thờ (1,8-10) để cầu xin Thiên Chúa nhớ lại dân của Người mà ban ơn cứu độ. Ông (1,64), Simêôn (2,28), Elizabeth (1:42) và Maria (1,46-55) đã chúc tụng Thiên Chúa khi nhận ra những dấu hiệu cứu độ khởi đầu. Kết thúc Tin mừng, Luca nói đến việc các tông đồ trở lại đền thờ để chúc tụng Thiên Chúa (24,55). Họ sẽ còn tiếp tục lui tới đền thờ để cử hành việc bẻ bánh và chúc tụng Thiên Chúa (2,26-47), cầu nguyện (3,1) và rao giảng Chúa Giêsu là Đấng Kitô (5,42). Vậy, với trình thuật lên trời kết thúc Tin mừng, Luca cho thấy sứ mạng cứu độ của Chúa Giêsu đã hoàn tất đúng theo chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Thiên Chúa đáng mọi lời chúc tụng (2,14, 24,53).
Chúa Giêsu đã hoàn tất chương trình cứu độ Thiên Chúa muốn. Bây giờ Người đi vào trong vinh quang của Cha Người. Người là gương mẫu của những người tôi tớ trung tín (x. 19,12-27).
Linh mục Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến