21Khi ấy, tại hội đường Na-da-rét, sau lúc đọc sách ngôn sứ I-sai-a, Đức Giê-su bắt đầu nói với họ: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe.” 22Mọi người đều tán thành và thán phục những lời ân sủng thốt ra từ miệng Người. Họ bảo nhau: “Ông này không phải là con ông Giu-se đó sao ?”
23Người nói với họ: “Hẳn là các ông muốn nói với tôi câu tục ngữ: Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình ! Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Ca-phác-na-um, ông cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào !” 24Người nói tiếp: “Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào ưu đãi quê hương mình cả ! 25Thật vậy, tôi nói cho các ông hay: vào thời ông Ê-li-a, khi trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng, cả nước phải đói kém dữ dội, thiếu gì bà góa ở trong nước Ít-ra-en ; 26thế mà ông không được sai đến giúp một bà nào cả, nhưng chỉ được sai đến giúp bà góa thành Xa-rép-ta miền Xi-đôn. 27Cũng vậy, vào thời ngôn sứ Ê-li-sa, thiếu gì người phong hủi ở trong nước Ít-ra-en, nhưng không người nào được sạch, mà chỉ có ông Na-a-man, người xứ Xy-ri thôi.”
28Nghe vậy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. 29Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành – thành này được xây trên núi–. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực. 30Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi.
SỨ MẠNG PHỔ QUÁT
Chúa nhật tuần trước, phụng vụ đã trình bày cho ta tấm thứ nhất của một bức song bình (tranh bộ đôi) và hôm nay là tấm thứ hai. Hậu cảnh là hội đường làng Na-da-rét, nơi Đức Giê-su vừa đọc đoạn sách I-sai-a trong đó nhà ngôn sứ xác định sứ mạng của mình như một nhiệm vụ cứu rỗi phổ quát: “công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt…” Đức Giê-su đã giải thích vắn gọn đoạn sấm ngôn này; lời Người đã được trích Chúa nhật tuần trước và rày được lặp lại: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe.”
1. Thái độ từ chối ưu đãi
Chắc đã được Người nói với tất cả sự xác tín nên lời đó đã khiến cử tọa phấn khởi. Sức thuyết phục của câu nói càng tăng thêm do biết bao tin tức họ đã nghe từ khắp nơi về “đứa con vinh hiển của dòng họ” này. Họ vui sướng xác nhận lại: “Ông ấy là người làng ta, con bác thợ mộc Giuse mà ! Bà con với chúng ta đó !” Đúng là “Áo gấm về làng” ! “Việt kiều về thăm quê hương” ! Họ mơ tưởng những gì sắp được kẻ đồng hương tài phép này ban tặng. Chẳng lẽ “bác sĩ lại không chữa bệnh tận tình, dành thuốc ngoại tốt quý cho gia đình, cho vợ con ?”
Biết tâm lý dân làng Na-da-rét như thế, Đức Giê-su đã chặn trước: “Hẳn là các ông muốn nói với tôi câu tục ngữ: Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình ! Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Ca-phác-na-um, ông cũng hãy làm ở đây, quê hương ông xem nào !” Còn lâu ! Đừng tưởng bở ! Quả là một gáo nước lạnh ! Đức Giê-su đúng là con người chẳng có chiến thuật gì ráo, không chịu lấy lòng một ai. Muốn cho thiên hạ theo mình mà toàn nói những lời nghịch nhĩ: “Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó… Phúc cho ai bị bách hại vì sống công chính… Ai muốn theo tôi, hãy bỏ mình, vác thập giá của mình…”
Chưa hết, như sẽ không nhân nhượng, dịu giọng trong diễn từ “Bánh sự sống” (x, Ga 6,51-61), ở đây Đức Giê-su càng quyết liệt trong lập luận: “Tôi bảo thật các ông (cung giọng long trọng, sắp đưa ra một mạc khải), không một ngôn sứ nào ưu đãi quê hương mình !” Rất nhiều nhà chú giải hiện đại chọn lối dịch này, vì hợp lý và mạch lạc hơn, chẳng hạn Giáo sư Kinh Thánh từng dạy ỏ Giáo hoàng Học viện Piô X Đà Lạt trước năm 1975, Linh mục Nil Guillemette Sj, A kingdom for all, Synoptics-Sunday readings. St. Paul Publications, Makati, 1988, trang 307-311). Lối dịch thông thường “Không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình” là do ảnh hưởng từ Mc 6,4 (vốn là bản văn có trước): “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mìnn.” Nhưng nơi Lu-ca, đó là một viễn ảnh hoàn toàn khác hẳn !
“Không một ngôn sứ nào ưu đãi quê hương mình.” Bằng chứng ư ? Hãy xem gương hai “tổ phụ” của phong trào ngôn sứ trong Kinh Thánh là Ê-li-a và Ê-li-sa. Họ đã làm các phép lạ trước hết cho người ngoại và người lạ. Quả thế, chẳng phải Ê-li-a đã quan tâm đến một bà góa vùng Phê-ni-ki, suốt một nạn đói khủng khiếp vốn cũng hoành hành trên cả Ít-ra-en đó sao ? (x. 1V 17,7-16). Quả thế, chẳng phải Ê-li-sa đã chữa hết bệnh cùi cho viên tướng người Xy-ri là Na-a-man, đang khi tại Ít-ra-en đầy rẫy những kẻ phong hủi đó sao ? (x. 2V 5,10-14). Tình yêu của Thiên Chúa là phổ quát và nếu Người có biệt đãi, thì biệt đãi những kẻ rốt cùng, xa lạ và Đức Giê-su chỉ có chứng tỏ thái độ thần linh ấy: hướng về những kẻ nghèo khổ bất hạnh Người gặp trên đường, không chú ý tới các đặc quyền đặc lợi. Nói cách khác, sứ mạng của Người là sứ mạng cứu rỗi phổ quát, như Người đã chứng tỏ qua việc cố ý chọn đoạn Is 61,1-2 khai mở trình thuật, như chiều hướng của tác giả viết Tin Mừng cho lương dân là Lu-ca đây.
- Phản ứng đầy óc địa phương
Chính lúc ấy, nổi lên phản ứng của dân làng Na-da-rét, hiện thân cho thái độ của những người xem tôn giáo như một sở hữu và Thiên Chúa như một thực tại sẵn sàng được sử dụng theo lợi ích của mình. “Đầy phẫn nộ, họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành… kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực.” Đối với Do-thái, từng ý thức mình thuộc Tuyển dân, thật không thể tưởng và đáng phẫn nộ việc Đấng Mê-si-a, vị Sứ giả Thiên Chúa sai tới cùng Ít-ra-en, lại có thể quan tâm đến dân ngoại. Do đó, lời tuyên bố của Người xem ra mang tính xúc phạm, đáng bị ném đá cho chết. Đức Giê-su sẽ thường gặp thái độ này suốt sứ vụ của mình. Chúng ta từng biết đến dụ ngôn những người thợ giờ thứ 11: các kẻ được thuê từ ban sáng (tượng trưng dân Ít-ra-en, biết Thiên Chúa trước) đã công phẫn trước lòng quảng đại của chủ vườn nho, vốn cho những kẻ làm sau hết (tượng trưng dân ngoại, nhận Tin Mừng sau) bằng những kẻ làm từ đầu. Một thái độ tử tế như thế xem ra bất công đối với họ. Nhưng những tính toán của Thiên Chúa khác hẳn các tính toán của chúng ta. Sở dĩ Thiên Chúa đã chọn Ít-ra-en như sở hữu của mình (x. Đnl 7,6), đó chẳng phải vì Người bất quan tâm tới các dân tộc khác; nhưng chỉ vì Người muốn biến họ thành khí cụ cứu rỗi cho toàn thể nhân loại, một vinh dự mà họ từng lãng quên.
Nếu Thiên Chúa đã chọn chúng ta làm con cái của Người qua phép rửa và qua nền giáo dục Ki-tô giáo, đó chẳng phải vì Người bất quan tâm tới dân ngoại, thậm chí tới những kẻ chống đạo, nhưng chỉ vì Người muốn sử dụng chúng ta để kéo họ về với Người qua gương sống của ta, qua việc làm chứng cho bác ái cũng như cho sự thật của ta. Chúng ta đôi khi quên bẵng vinh dự, đặc ân và vai trò này, thậm chí dương dương tự đắc Thiên Chúa đứng về phe chúng ta, sau lưng chúng ta ! Và nếu Thiên Chúa, không qua trung gian của chúng ta, ban cho một số người ngoại nhiều ơn hơn ban cho chúng ta (ơn quảng đại sống một cuộc sống thánh thiện, theo tiếng lương tâm của họ và theo mức độ ánh sáng họ có; ơn được thấy hay được hưởng nhiều phép lạ hơn các Ki-tô hữu) thì chúng ta chớ công phẫn trước lòng tử tế của Người; đúng hơn chúng ta phải tôn vinh ca ngợi một vì Thiên Chúa như thế, Đấng “đã muốn mọi người được cứu rỗi” (1Tm 2,4).
Ngoài ra, thái độ đầy vẻ hiếu chiến của dân làng Na-da-rét đã bộc lộ tính giả tạo của một lòng đạo đức bên ngoài mà thoạt đầu thật đẹp mã. Nếu đức tin tự coi như một cuộc đầu tư và bắt đầu thương lượng với Thiên Chúa để sinh lời, thì trước sự đáp ứng tiêu cực của Người, nó sẽ dễ chuyển thành thái độ không tin.
Vậy là đã hoàn tất tấn thảm kịch chối bỏ ơn cứu rỗi từ phía những người nhận đầu tiên, mà hết thảy đều tự cho mình là công chính, giữ luật tôn giáo, rồi có lẽ đã “nhân danh Chúa nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ” (Mt 7,22). Trở nên thành viên của một cộng đoàn, ghi tên vào một hiệp hội, chia sẻ một vài căn cội chung chẳng đủ để cứu rỗi. Và bằng cách hoàn tất các phép lạ chỗ khác, ngoài Na-da-rét, Đức Giê-su cho thấy rằng truyền thống chật hẹp, sở hữu thiêng liêng, việc thuộc về dân Chúa chẳng phải là không gian đủ để Người tỏ mình và hành động. Vì vậy, Người đi ra với Ca-phác-na-um “dân ngoại” để loan báo lời Người và ban các ân huệ của Người.
Thánh Tô-ma A-qui-nô (1225-1274), vị đại tiến sĩ mà Giáo Hội mừng kính cách đây gần 1 tuần, đã gặp nơi gia đình mình một kinh nghiệm như Đức Giê-su đã gặp nơi kẻ đồng hương. Lúc ấy, khi chưa tốt nghiệp đại học, người đã quyết định vào dòng Đa-minh. Bấy giờ dòng này thành lập chưa được ba mươi năm, đang còn nhỏ bé nghèo khổ. Gia đình người, một gia đình quý phái, đã rúng động với ý tưởng một đứa con danh giá như vậy lại trở nên tu sĩ dòng hành khất. Họ mong muốn thánh nhân vào dòng Biển-đức, lúc ấy đang hồi cực thịnh, và trở thành tu viện trưởng tu viện Monte Cassinô, tu viện lớn nhất bấy giờ, để nhờ đó họ vừa được vinh quang vừa được bổng lộc. Nghe tin, các anh của người, đang là sĩ quan trong quân đội, đã tỏ ra giận dữ. Họ bắt người trên đường đi Rô-ma và giam người trong ngọn tháp của lâu đài gia đình. Cả nhà tìm cách làm cho người đổi ý nhưng vô ích. Thậm chí họ còn dùng cả một cô gái làng chơi để hại người nữa. thế nhưng Tô-ma đã anh dũng chống cự. Sau hai năm, các chị của người cảm động trước tính cương quyết và những khổ cực của cậu em, đã giúp người trốn qua cửa sổ bằng một cái thúng. Các tu sĩ Đa-minh đợi Tô-ma dưới chân tháp, để đưa người về dòng.
ƯU ĐÃI QUÊ NHÀ ?
(cảm hứng Lc 4,14-30)
Hôm ấy, sau chuỗi ngày đi rao giảng
Trong các hội đường xứ Galilê,
Đức Giêsu nay có dịp quay về
Nơi mình được dưỡng dục: Nadarét.
Vào hội đường, thói quen ngày sabát
Người đứng lên đọc ngôn sứ I-sai:
“Ngự xuống trên tôi, Thần khí đã sai
Tôi đem Tin Mừng đến người nghèo khó,
Cho kẻ bị tù hay họ được thả,
Ai đui mù biết mình được sáng mắt.”
Cả hội đường lắng im phăng phắc,
Tán thành thán phục ý đẹp lời hay
Được thốt ra từ môi miệng của Người,
Kẻ đồng hương, nay trở thành nổi tiếng.
Vừa trông mong, vừa thập phần hãnh diện:
“Con bác Giuse thợ mộc đây mà !
Thân nhân ruột thịt của xóm làng ta,
Nay có ơn trời, dày phúc thấy tỏ !
Một người làm quan, được nhờ cả họ,
Thầy lang trước hết chữa bệnh gia đình.
Chẳng lẽ ông không hiến cho quê mình
Phép lạ dư đầy hơn những nơi khác ?”
Thật bất ngờ, lời Người như cái tát,
Tựa gáo nước lạnh vào mặt đồng hương:
“Không ngôn sứ nào ưu đãi quê hương !
Đây bằng chứng, tôi cho bà con thấy:
Thời ông Êlia, vào thuở ấy,
Trời hạn hán suốt hơn 3 năm trường,
Toàn dân cả nước đói khát, tang thương,
Thiếu chi bà góa nghèo trên khắp cõi.
Thế mà Êlia chỉ được sai tới
Giúp một bà góa ở Sarépta,
Miền Xiđon, đâu phải đất nước nhà,
Cho dầu và bột không hề vơi hũ !
Thời ông Êlisa, khắp cả xứ
Người mắc bệnh phong hủi quá tràn lan,
Nhưng ngôn sứ chỉ chữa Naaman
Quan lớn xứ Xyri, dân ngoại chủng.”
Nghe lời ấy, cả hội đường công phẫn:
“Không chơi nổi với tên quên gốc này !
Áo gấm về làng, tưởng y ra tay
Cho bà con thân thuộc nhờ chút đỉnh !”
Thế là nhất tề, chẳng cần bàn tính,
Họ đứng dậy, lôi Chúa ra khỏi thành,
Dẫn lên núi, tới bờ đứng thật nhanh,
Cốt thanh toán, xô Người rơi xuống vực !
Nhưng việc Người phải chết, chưa đến lúc.
Chúa băng qua giữa cuồng nộ mà đi.
Ôi Giêsu, sao bi đát lạ kỳ
Con đường, thân phận Ngài nơi trần thế !