Chúa Nhật (03-12-2023) – Trang suy niệm

02/12/2023

Lời Chúa Hôm Nay

CHÚA NHẬT 1 MÙA VỌNG – NĂM B

BÀI ĐỌC I: Is 63, 16b-17; 64, 1. 3b-8

“Xin Chúa băng qua các tầng trời mà ngự xuống”.

Bài trích sách Tiên tri Isaia.

Lạy Chúa, Chúa là Cha và là Ðấng Cứu Chuộc chúng con: danh Chúa đã có từ muôn đời. Lạy Chúa, tại sao Chúa để chúng con đi lạc xa đường Chúa, và làm cho tâm hồn chúng con trở nên chai đá, không còn biết kính sợ Chúa nữa? Vì các tôi tớ Chúa, các chi tộc thừa hưởng gia nghiệp Chúa, xin hãy đoái nhìn lại. Xin Chúa băng qua các tầng trời mà ngự xuống: các núi đồi rung chuyển trước tôn nhan Chúa. Chúa đã ngự xuống và các núi đồi rung chuyển trước tôn nhan Chúa. Ðó là việc từ xưa đến nay chưa từng có ai nghe thấy; lạy Chúa, không tai nào nghe thấy không mắt nào nhìn thấy một chúa nào khác ngoài Chúa đã dành những hồng ân cho những ai trông đợi Chúa. Chúa đã đón tiếp kẻ hân hoan thi hành công lý, và nhớ đến Chúa khi đi trong đường lối Chúa.

Này Chúa thịnh nộ, vì chúng con đã phạm tội. Chúng con đã luôn luôn ở trong tình trạng tội lỗi, thì làm sao sẽ được cứu rỗi? Tất cả chúng con đều đầy vết nhơ, và công nghiệp chúng con đều như chiếc áo dơ bẩn. Và không còn ai kêu cầu thánh danh Chúa, không còn ai tỉnh thức để bám lấy Chúa. Chúa đã ẩn nấp không cho chúng con nhìn thấy nữa, và Chúa đã phó mặc chúng con cho quyền lực tội lỗi. Tuy nhiên, lạy Chúa, Chúa là Cha chúng con, chúng con là đất sét, còn Chúa là người thợ gốm, tất cả chúng con đều do tay Chúa làm nên.

Ðó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 79, 2ac và 3b. 15-16. 18-19

Ðáp: Lạy Chúa là Thiên Chúa chúng con, xin cho chúng con được phục hồi, xin tỏ thiên nhan hiền từ Chúa ra, hầu cho chúng con được ơn cứu sống (c. 4).

1) Lạy Ðấng chăn dắt Israel, xin hãy lắng tai! Chúa ngự trên các Vệ Binh Thần, xin hiện ra trong sáng láng. Xin thức tỉnh quyền năng của Chúa, và ngự tới để cứu độ chúng con.

2) Lạy Chúa thiên binh, xin thương trở lại, tự trời cao xin nhìn coi và thăm viếng vườn nho này. Xin bảo vệ vườn nho mà tay hữu Ngài đã cấy, bảo vệ ngành nho mà Ngài đã củng cố cho mình.

3) Xin Chúa ra tay bang trợ người ở bên tay hữu Chúa, con người mà Chúa đã củng cố cho mình. Chúng con sẽ không còn rời xa Chúa nữa, Chúa cho chúng con được sống, và chúng con ca tụng danh Ngài.

BÀI ĐỌC II: 1 Cr 1, 3-9

“Chúng ta mong chờ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, tỏ mình ra”.

Bài trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, chúc cho anh em đầy ân sủng và bình an của Thiên Chúa là Cha chúng ta, và của Ðức Giêsu Kitô.

Tôi hằng cảm tạ Chúa thay cho anh em, vì ơn đã ban cho anh em trong Chúa Giêsu Kitô. Vì chưng, trong Ngài, anh em được tràn đầy mọi ơn: ơn ngôn ngữ và ơn hiểu biết, đúng như Chúa Kitô đã minh chứng nơi anh em, khiến anh em không còn thiếu ơn nào nữa trong khi mong chờ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, tỏ mình ra. Cũng chính Ngài sẽ ban cho anh em bền vững đến cùng, không có gì đáng trách trong ngày Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ngự đến. Thiên Chúa là Ðấng Trung Tín, đã kêu mời anh em hiệp nhất với Con của Người, là Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.

Ðó là lời Chúa.

ALLELUIA: Tv 84, 8

All. All. – Lạy Chúa, xin tỏ lòng từ bi Chúa cho chúng con, và ban ơn cứu rỗi cho chúng con. – All.

PHÚC ÂM: Mc 13, 33-37

“Các con hãy tỉnh thức, vì các con không biết lúc nào chủ nhà trở về“.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Các con hãy coi chừng, hãy tỉnh thức và cầu nguyện, vì các con không biết lúc đó là lúc nào. Ví như người đi phương xa, để nhà cửa lại, trao quyền hành cho các đầy tớ, mỗi người một việc, và căn dặn người giữ cửa lo tỉnh thức. Vậy các con hãy tỉnh thức, vì các con không biết lúc nào chủ nhà trở về, hoặc là chiều tối, hoặc là nửa đêm, hoặc là lúc gà gáy, hay ban sáng, kẻo khi ông trở về thình lình, bắt gặp các con đang ngủ. Ðiều Ta bảo cho các con, thì Ta bảo cho tất cả mọi người là: Hãy tỉnh thức!”

Ðó là lời Chúa.

(Nguồn: UBPV/HĐGMVN, ấn bản 1973)

++++++++++++++++++

03/12/2023 – CHÚA NHẬT TUẦN 1 MV – B

Mc 13,33-37

CANH THỨC

“Người giữ cửa phải canh thức.” (Mc 13,34)

Suy niệm: Truyện cổ Hy Lạp có kể chuyện người Hy Lạp, để chiếm thành Troa, dùng kế dâng cho vua thành ấy một con ngựa gỗ khổng lồ. Nào ngờ trong bụng con ngựa gỗ ấy chứa đầy quân lính. Nửa đêm toán lính chui ra, mở cửa thành cho đại quân tiến vào chiếm thành. Ngày nay người ta dùng điển tích ấy – gọi là “trojan” – để đặt tên một thứ vi-rút nguỵ trang có vẻ vô hại, nhưng một khi đột nhập vào hệ thống máy tính rồi, nó sẽ phá hoại dữ liệu, đánh cắp thông tin máy chủ, tác hại khôn lường. Chúa Giê-su dùng hình ảnh “người giữ cửa phải canh thức” có ý nhắc ta phải sẵn sàng đón Chúa đến bất cứ lúc nào, và cũng để đề phòng kẻ trộm nhằm lúc bất ngờ nhất đào ngạch khoét vách, lẻn vào căn nhà tâm hồn tác hại từ bên trong.

Mời Bạn: Thực trạng xã hội cho thấy người ta đã mở ‘cổng sau; cho những “trojan” đột nhập và ngấm ngầm tác hại lên nếp sống của cá nhân, cộng đoàn. Các công ty dám xả nước thải ra sông ra biển mà không áy náy vì đã từ lâu, người ta vẫn ‘vô tư’ quét rác rưởi ra đường phố hay xuống cống rãnh. Báo chí dám đưa thông tin dối trá, nhà trường dám gian lận bài thi, giả bằng cấp, vì đã từ lâu người ta cầu an hưởng thụ, không dám chấp nhận thách đố để sống chân thật, công bằng. Lương tâm là người giữ cửa tâm hồn bạn phải canh thức, để không lẫn lộn coi điều xấu thành điều tốt. Để người giữ cửa tâm hồn của bạn tỉnh thức cần có một nếp sống tiết độ và chuyên cần cầu nguyện.

Sống Lời Chúa: Lấy “Trung thực và Công bằng” làm châm ngôn sống.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho Danh Chúa vinh hiển, cho Nước Chúa trị đến.

(5 Phút Lời Chúa)

++++++++++++++++++

Suy niệm và cầu nguyện

SUY NIỆM

TỈNH THỨC VÀ CANH THỨC
Trong Kinh Tin kính, có hai tín điều mà ta còn phải chờ.

“Và Ngài sẽ lại đến trong vinh quang
để phán xét kẻ sống và kẻ chết.”
“Tôi trông đợi kẻ chết sống lại, và sự sống đời sau.”
Cả hai điều trên đều chưa xảy ra, nhưng là nỗi chờ mong
của các kitô hữu từ hai mươi thế kỷ.
Người Do-thái chờ Đấng Mêsia đến trần gian,
còn kitô hữu chờ ngày Con Thiên Chúa trở lại.
Đôi khi chúng ta nghĩ Đức Giêsu đã phục sinh và lên trời,
như thế là xong, Ngài chẳng còn phải làm gì nữa.
Thật ra khi phục sinh, Đức Giêsu đã chiến thắng thần chết,
nhưng Ngài chưa toàn thắng, và cuộc chiến vẫn còn kéo dài.
Thiên Chúa chưa “bắt muôn loài quy phục dưới chân Ngài”
và kẻ thù cuối cùng là sự chết vẫn chưa bị tiêu diệt (1 Cr 15,24-28).

Hai tín điều trong Kinh Tin kính mà ta còn phải chờ
lại là hai biến cố trùng nhau về thời gian.
Ngày Chúa Giêsu trở lại như một thẩm phán đầy quyền năng
cũng là ngày tận thế, ngày thân xác kẻ chết sống lại.
Ngày đó thật là một ngày quan trọng cho cả vũ trụ loài người,
và cũng là ngày vinh quang lớn lao cho chính Chúa Giêsu.
Nhiều người đoán già đoán non về lúc nào ngày ấy đến.
Đã có những lời đồn đoán về ngày tận thế, và tất cả đều sai.
Có người đã bán cả nhà cửa ruộng vườn để ngồi chờ tận thế.
Có người bỏ cả công ăn việc làm, nhưng chẳng thấy gì xảy ra.
Họ quên rằng chính Đức Giêsu, Con Thiên Chúa mang phận người,
cũng thú nhận chỉ mình Chúa Cha mới biết về Ngày ấy (Mc 13,32).
Chúng ta tin Ngày ấy thế nào rồi cũng đến,
nhưng chúng ta không biết rõ khi nào (Mc 13,33.35.36).
Chính vì thế đời của kitô hữu tự bản chất là chờ đợi.
Nếu Chúa Giêsu không quang lâm,
công trình cứu độ vẫn chưa hoàn thành trọn vẹn,
và Thiên Chúa chưa “là tất cả trong muôn loài” (1 Cr 15,28).

Nhưng kitô hữu không khoanh tay chờ suông cách thụ động.
Bài Tin Mừng hôm nay dạy ta cách chờ.
Chúng ta là những đầy tớ được ông chủ đi xa tin cậy,
giao nhà và giao cả quyền hành, phân công mỗi người mỗi việc.
Chúng ta là anh giữ cửa, có nhiệm vụ mở cửa ngay khi chủ về.
Thường thì ông chủ không về vào ban đêm,
vì trời thì tối, đường không có đèn, ẩn chứa nhiều nguy hiểm.
Nhưng biết đâu ông chủ lại bất thần trở về
vào lúc chập tối hay nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng sáng.
Đó là lúc mọi người dễ chìm trong giấc ngủ say.

“Hãy tỉnh thức! Hãy canh thức!” Đức Giêsu nhắc lại nhiều lần,
không phải chỉ cho bốn môn đệ thân tín (Mc 13,3),
mà cho mọi người và từng người chúng ta (Mc 13,37).
Không phải Ngài cấm chúng ta ngủ trưa hay ngủ tối.
Nhưng Ngài dạy chúng ta đừng ngủ mê trong tội.

Khi ngủ mê, người ta quên mình là đầy tớ,
nhận quyền hành của chủ để chu toàn công việc được giao.
Khi ngủ mê, người ta để chủ ban đêm đứng chờ ngoài cửa.
Sống ở đời, ta dễ bị ru ngủ bởi nhiều thứ gây nghiện.
Thế gian này quá hấp dẫn khiến ta nghĩ nó là vĩnh cửu.
nghĩ chuyện Chúa quang lâm là chuyện không đáng tin (2 Pr 3,4).
chẳng có thưởng phạt, cũng chẳng có phục sinh cho thân xác.

Thái độ thức tỉnh đòi hỏi ta cảnh giác liên tục.
Chính vì không biết lúc nào chủ về, lúc nào Chúa đến
nên lúc nào ta cũng phải sẵn sàng, tích cực chờ đợi,
để ra đón Chúa trong niềm vui bình an.

CẦU NGUYỆN

Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã yêu trái đất này,
và đã sống trọn phận người ở đó.
Chúa đã nếm biết nỗi khổ đau và hạnh phúc,
sự bi đát và cao cả của phận người.

Xin dạy chúng con biết đường lên trời,
nhờ sống yêu thương đến hiến mạng cho anh em.

Khi ngước nhìn lên quê hương vĩnh cửu,
chúng con thấy mình được thêm sức mạnh
để xây dựng trái đất này,
và chuẩn bị nó đón ngày Chúa trở lại.

Lạy Chúa Giêsu đang ngự bên hữu Thiên Chúa,
xin cho những vất vả của cuộc sống ở đời
không làm chúng con quên trời cao,
và những vẻ đẹp của trần gian
không ngăn bước chân con tiến về bên Chúa.

Ước gì qua cuộc sống hằng ngày của chúng con,
mọi người thấy Nước Trời đang tỏ hiện.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

(phutcaunguyen.net)

++++++++++++++++++

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

3 THÁNG MƯỜI HAI

Mùa Vọng, Thời Gian Của Đức Ma-ri-a

Một cách đặc biệt, Mùa Vọng là thời gian của Đức Ma-ri-a. Mẹ cưu mang Đấng Mêsia đã được mong đợi từ bao đời, Đấng là niềm hy vọng của mọi thời đại. Có thể nói, chính nơi Mẹ, chúng ta tìm thấy ý nghĩa tối thượng và đầy đủ của Mùa Vọng. Lễ Đức Trinh Nữ Ma-ri-a Vô Nhiễm được Giáo Hội cử hành trọng thể trong Mùa Vọng, điều đó có ý nghĩa hùng hồn biết bao!

Ngày Sinh Nhật Đức Mẹ được Giáo Hội mừng trọng thể hằng năm vào ngày 8 tháng 9; dù vậy, Mùa Vọng vẫn đưa chúng ta vào sâu trong mầu nhiệm thánh thiêng của ngày sinh nhật này. Trước khi xuất hiện trong trần gian, Đức Ma-ri-a được thụ thai trong cung lòng thân mẫu ngài. Đàng khác, cũng chính khoảnh khắc đó, Mẹ được sinh ra bởi chính Thiên Chúa, Đấng hoàn thành mầu nhiệm Vô Nhiễm Trinh Thai: Mẹ được sinh ra “đầy ơn phúc”!

Vì thế, cùng với vị Tông Đồ Dân Ngoại, chúng ta lặp lại: “Chúc tụng Thiên Chúa là Cha Đức Giê-su Kitô, trong Đức Kitô, Ngài đã ban cho chúng ta muôn vàn ơn phúc bởi Thánh Thần” (Ep 1,3). Và Đức Ma-ri-a được chúc phúc một cách đặc biệt, một cách độc đáo vô song. Trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã chọn Mẹ trước khi tạo thành thế giới để Mẹ trở nên thánh thiện tinh tuyền trước mặt Ngài (cf. Ep 1,4). Vâng, Chúa Cha vĩnh cửu đã chọn Đức Ma-ri-a trong Đức Kitô. Ngài đã chọn Mẹ cho Đức Kitô. Ngài đã làm cho Mẹ nên thánh thiện, thậm chí nên rất mực thánh thiện. Và hoa quả đầu tiên của sự tuyển chọn và của tiếng gọi này là: mầu nhiệm Mẹ Vô Nhiễm!

– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –

Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác

LIFT UP YOUR HEARTS

Daily Meditations by Pope John Paul II

+++++++++++++++++

Lời Chúa Trong Gia Đình

Ngày 03/12

Chúa Nhật I Mùa Vọng

Is 63, 16b-17. 19b; 64, 2b-7; 1Cr 1, 3-9; Mc 13, 33-37.

Lời Suy Niệm: Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức, vì anh em không biết khi nào thời ấy đến… Điều Thầy nói với anh em đây, Thầy cũng nói với hết thảy mọi người là: Phải canh thức. (Mc 13,33.37)

          Khởi đầu năm phụng vụ mới, Giáo Hội mời gọi tất cả mọi tín hữu chúng ta cần suy gẫm một cách nghiêm túc lời kêu gọi của Chúa Giêsu: “Phải tỉnh thức”. Phải tỉnh thức, bởi khi dòng đời sự sống trần thế của chúng ta chấm dứt khi nào chúng ta không biết được, nếu có sự tỉnh thức,  chúng ta sẽ xứng đáng được vào dự tiệc cưới với Người và được liệt kê vào số người được chúc phúc.

          Lạy Chúa Giêsu. Chúa day chúng con phải tỉnh thức, bởi vì mỗi người chúng con đều không biết lúc nào Chúa sẽ đến. xin Chúa cho mỗi người trong chúng con luôn trung tín trong cuộc sống hiện tại với một niềm hy vọng hướng về tương lai ngày cánh chung. Amen.

Mạnh Phương

+++++++++++++++++

Gương Thánh Nhân

Ngày 03-12: Thánh PHANXICÔ XAVIÊ

Tông Đồ Ấn Độ và Nhật Bản

(1506 – 1552)

Phanxicô ra đời tại lâu đài Xaviê thuộc vương quốc Navarre ngày 7 tháng 4 năm 1506. Cha Ngài là cố vấn của nhà vua miền Navarre và là thẩm phán. Anh em Ngài theo binh nghiệp. Riêng Phanxicô ham thích học hành. Năm 19 tuổi, Ngài theo học tại đại học Paris, trường lớn nhất thế giới. Khi còn ở học viện thánh Barbe, Ngài được phúc trọ cùng phòng với Phêrô Faure, người sau này sẽ nhập dòng Tên và được phong chân phước. Bốn năm sau, Ngài lại có được người bạn học giả là Inhatio thành Loyoa.

Người học trò mẫn cán đã trở thành giáo sư. Ngài dạy triết học. Thành công làm cho Ngài thành con người tham vọng. Inhaxiô nói với Ngài về một hội dòng mà thánh nhân muốn thành lập. Nhưng Phanxicô mơ tới danh vọng, Ngài chế nhạo cũng như khinh bỉ nếu sống nghèo tự nguyện của bạn mình. Inhaxiô vui vẻ đón nhận những lời châm biếm, nhưng lặp lại rằng: – “Lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào ích lợi gì”

Cuối cùng, Phanxicô đã bị ảnh hưởng. Inhaxiô còn đưa ra những lời cao đẹp hơn: – “Một tâm hồn cao cả như anh, không hề chỉ gò bó với cái vinh dự thế trần được. Vinh quang trên trời mới đúng với cao vọng của anh. Thật vô lý, khi ưa chuộng một thứ mây khói chóng tàn hơn là những của cải tồn tại đời đời”.

Phanxicô bắt đầu thấy được cái hư không của những sự cao trọng của thế nhân và hướng vọng tới của cải vĩnh cửu. Chiến thắng rồi, Ngài chống lại tính kiêu căng bằng mọi loại sám hối. Ngài quyết định theo sát Phúc âm, vâng theo cách cư xử của người bạn thánh thiện và xin được khiêm tốn hãm nình. Ngài chỉ còn chú tâm cứu rỗi các linh hồn.

Ngày lễ Mông triệu năm 1533, trong một nhà nguuyện tại Monmartre, trên mộ bia thánh Dénis, Phanxicô, Inhaxiô và 5 bạn khác đã hiến mình cho Chúa. Họ khấn từ bỏ mọi của cải, hành hương thánh địa, làm việc để cải hóa lương dân và hoàn toàn đặt mình dưới sự điều động của Đức Thánh Cha để phục vụ Hội Thánh. Phanxicô còn học thần học hai năm nữa, rồi cùng sáu bạn đi Italia. Đi đường, họ chỉ mang theo cuốn kinh thánh và sách nguyện trong bị, cổ đeo tràng hạt. Tuyết lạnh hay khắc khổ cũng không làm họ sợ hãi. Trái lại, Phanxicô lại còn cảm thấy quá êm ái nhẹ nhàng, nên một ngày kia đã cột giây thừng vào chân, khiến dây đó ăn vào thịt và ngay việc được khỏi bệnh đó cũng đã là một phép lạ.

Đoàn quân bé nhỏ đó tới Venatia chống lại quân Thổ. Thế là họ phải bỏ cuôc hành hương đi thánh địa. Đức thánh cha đã chúc lành cho nhóm bạn cũng như dự định của họ. Phanxicô và Inhatiô thụ phong linh mục ngày 16 tháng 6 năm 1537. Phanxicô đã chuẩn bị thánh lễ mở tay bằng cuộc sám hối kéo dài 40 ngày trong một túp lều tranh bỏ hoang và sống bằng của ăn xin.

Trong khi chờ đợi bắt đầu thực hiện công việc vĩ đại của mình, Ngài rao giảng và săn sóc cho người nghèo trong các nhà thương. Ngài còn phải chiến thắng chính mình nữa, chẳng hạn khi băng bó các vết thương lở loét. Ngài luôn đi ăn xin thực phẩm.

Khi Phanxicô được 35 tuổi, vua nước Bồ Bào Nha xin Đức Thánh cha gửi các thừa sai sang An độ. Phanxicô rất vui mừng khi được chỉ định.

Ngài bộc lộ cho một người bạn: “Anh có nhớ rằng, khi ở nhà thương tại Roma, một đêm kia, anh đã nghe tôi la: “Còn nữa, lạy Chúa, còn nữa” không ? Tôi đã thấy rằng: phải chịu khổ nạn cho vinh danh Chúa Giêsu Kitô. Trước mặt tôi là những hoang đảo, những miền đất báo cho tôi biết trước cơn đói, cơn khát và cả đến cái chết dưới hàng ngàn hình thức. Tôi ao ước được chịu khổ hình hơn nữa”.

Chỉ còn 24 giờ để chuẩn bị lên đường. Nhưng thế đã quá đủ để xếp đặt hành trang. Với vài bộ đồ cũ. Một thánh giá, một cuốn sách nguyện và một cuốn sách thiêng liêng. Ngài đáp tàu. Cuộc hành trình cực khổ vì say sóng. Đau bệnh, Ngài vẫn săn sóc các bệnh nhân. những thủy thủ hư hỏng dường như là đoàn chiên đầu tiên Ngài phải đưa về cho Chúa. Ngài rao giảng cho họ bằng chính việc chia sẻ cuộc sống với họ.

Sau bảy tháng hành trình, người ta dừng lại bến Mozambique. Khí trời ngột ngạt. Một cơn bệnh dịch đang hoành hành nơi đây. Phanxicô lại săn sóc các bệnh nhân và muốn sống đời cực khổ nhất. Ngài lặp lại: “Tôi khấn sống nghèo khó, tôi muốn sống và chết giữa người nghèo”.

Sau một năm hành trình, Phanxicô cặp bến Goa, thủ đô miền Ấn Độ thuộc Bồ Đào Nha vào tháng 5 năm 1542. Ngài phát khóc vì vui mừng. Nhưng việc cấp thiết, nhất là phải làm cho những người chinh phục Bồ Đào Nha giữ đạo đã. Những tật xấu và tính hung hăng của họ làm ô danh Kitô giáo. Còn dân An thì thờ ngẫu tượng. Họ vặn đó có con để tế lễ. Vị tông đồ làm thầy thuốc, thẩm phán, giáo viên. Ngài học tiếng một cách khó khăn, thời gian của Ngài dành cho các nhà thương, nhà tù, người nghèo và việc dạy giáo lý. Rảo qua đường phố, Ngài rung chuông tập họp trẻ em và dân nô lệ lại, với sự nhẫn nại vô bờ, Ngài ghi khắc tình yêu Chúa vào lòng họ. Các trẻ em tham dự lại trở thành các nhà truyền giáo cho cha mẹ và thày dạy của chúng. Chúng mang thánh giá của “ông cha” cho các bệnh nhân. Chúng trở nên hung hăng với các ngẫu tượng. Bây giờ, các cánh đồng lúa vang lên được bài thánh ca. Dần dần, đời sống Kitô giáo đã vững vàng trong lòng các gia đình.

Phanxicô nghe nói tới một bộ lạc thờ lạy ngẫu thần ở mũi Comorin, sống bằng nghề mò ngọc trai. Muốn loan báo Tin Mừng cho họ, thánh nhân học ngôn ngữ mới, vượt mọi khó khăn để phổ biến đức ái và chân lý. Rồi Ngài lại qua các làng khác. Cứ như thế Ngài đi khắp An độ. Trong 15 tháng trời, Ngài đã rửa tội cho một số đông đảo người Kitô hữu, khiến “xuôi tay vì mệt mỏi”. Người nói: “Mọi ngày tôi đều thấy tái diễn những phép lạ thời Giáo hội sơ khai”.

Ngài ngủ ít, đêm thức khuya để cầu nguyện. Sống khắc khổ để đền tội cho các tội nhân. Ngài chăm chú đào tạo các tâm hồn thanh thiếu niên địa phương để sai đi làm tông đồ truyền giáo cho các người đồng hương của họ.

Ở tỉnh Travancore, trong vòng một tháng, thánh nhân đã rửa tội cho 10.000 người. Người Brames muốn hạ sát Ngài, nhưng Ngài đã giữ được mạng sống một cách lạ lùng dưới cơn mưa tên. Ở vương quốc Travance, khi nhóm người man-di muốn tràn ngập, Phanxicô cầm thánh giá trong tay với một số ít tín hữu đã làm cho họ phải tháo lui. Ngài mang Tin Mừng tới Ceylanca, Malacca. Các đảo Molluques vang danh vì sự hung tợn của họ, nhất là đảo của dân More ở phía Bắc…

Ngài nhắm tới đảo này, Ngài muốn bị dân cư giết chết như một vị thừa sai 13 năm trứơc đây sao ?

Người ta ngăn không cho tàu bè chở Ngài đi. Phanxicô đáp lại: – “Thì tôi bơi tới vậy”.

– Nhưng Ngài sẽ bị đầu độc thì sao ?

Ngài nói: – “Niềm tin tưởng ở Thiên Chúa là thuốc kháng độc.

Rồi Ngài thêm: “Oi, nếu như hy vọng tìm được gỗ quí hay vàng bạc, các Kitô hữu đổ xô tới ngay. Nhưng lại chỉ có các linh hồn cần được cứu rỗi. Tôi sẽ chịu khổ gấp ngàn lần để cứu lấy một linh hồn thôi”.

Phanxicô đã viết thư xin vua Bồ Đào Nha và thánh Inhatiô gởi các linh mục tới săn sóc cho các cộng đoàn Kitô hữu Ngài để lại. Sự khó khăn và chậm chạp về thư tín làm cho đời Ngài thêm nhiều phiền phức. Ngài phải mất gần 4 năm để gửi thư từ Moluques về Roma. Dầu giữa các khó khăn mệt nhọc, thánh nhân không để mất tính hiền hậu và khiêm tốn.

Năm 1549, một người Nhật được Ngài rửa tội ở Malacca đã thu hút Ngài tới hòn đảo vô danh, chưa có người Kitô hữu nào. Lời cầu nguyện và đời sống hãm mình củng cố lòng can đảm của Ngài. Không để mình bị chán nản do ngôn ngữ khó học hay bởi nội chiến. Ngài đã có thể tạo lập được một cộng đoàn Kitô hữu nhỏ như Ngài mơ ước. Các phép lạ củng cố lời giảng dạy của Ngài, nhưng dân chúng bị đánh động nhiều hơn bởi đức tin và lòng can đảm của người ngoại quốc này đã từ xa đến để loan báo cho họ chân lý duy nhất.

Được hai năm, nhà truyền giáo lại ra đi, để lại tại miền đất xa này những cộng đồng Kitô hữu đứng khá vững trong nhiều thế kỷ, dù không có linh mục cai quản .

Phanxicô trở lại An độ. Ngài đã rảo qua gần 100.000 cây số trong 10 năm. Bấy giờ, việc chinh phục Trung hoa ám ảnh tâm hồn Ngài. Ngài đáp tàu, nhưng không bao giờ tới được quốc gia rộng lớn này. Vào cuối tháng 11 năm 1552, trên đảo Hoàng Châu, Ngài bị lên cơn sốt rét. Giữa cơn đau, Ngài đã lập lại: – Lạy Chúa Giêsu, con vua David, xin thương xót con, xin thương đến các tội con.

Ngài dứt tiếng và không nhận ra được các bạn hữu nữa. Khi hồi tỉnh, Ngài lại kêu cầu Chúa Ba Ngôi, Chúa Giêsu và nài xin Đức Mẹ: ” Lạy Đức Trinh Nữ, Mẹ Thiên Chúa, xin hãy nhớ đến con”.

Một người Trung Hoa thấy Ngài hấp hối thì đặt vào tay Ngài một cây nến. Phanxicô qua đời ngày 03 tháng 12 năm 1552. Ít tuần sau, người ta tìm thấy xác Ngài vẫn nguyên vẹn và chở về Goa. Dân chúng tại đây nhiệt tình tôn kính Ngài, vì đã coi Ngài như một vị thánh.

Năm 1619, Đức Paulô V đã suy tôn chân phước cho Ngài cùng với thánh Inhaxiô. Nay Ngài được đặt làm bổn mạng các xứ truyền giáo.

(daminhvn.net)

+++++++++++++++++

03 Tháng Mười Hai

Giác Ngộ

“Lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào được ích gì?”… Lời thách thức này của Tin Mừng đã khiến cho một vị giáo sư  trẻ tuổi bỏ tương lai đầy hứa hẹn, bỏ tất cả để chỉ còn đeo đuổi một mục đích duy nhất trong cuộc đời: sự sống đời đời của chính mình và của người đồng loại.

Vị giáo sư trẻ tuổi đó chính là Thánh Phanxicô Xaviê, bổn mạng của các xứ truyền giáo, mà hôm nay Giáo Hội kính nhớ… Chưa tròn 25 tuổi, Phanxicô đã nổi tiếng như một giáo sư triết học tài ba tại đại học Paris. Giữa lúc danh vọng đang đến, Phanxicô Xaviê đã nhận được những lời thách thức trên đây từ người bạn thân Inhaxiô Loyola.

Không còn chống cưỡng lại với lời Chúa, Phanxicô Xaviê đã đến Montmartre để cùng với Inhaxiô sống đời khó nghèo, khuyết tịnh và phục vụ tông đồ, theo những chỉ dẫn của Ðức Thánh Cha.

Năm 1537, nghĩa là 3 năm sau khi đã tuyên khấn, Phanxicô lãnh chức linh mục. Từ Italia, ngài sang Lisboa của Bồ Ðào Nha để lên đường đi truyền giáo tại Ấn Ðộ. Trong 10 năm ngắn ngủi, Phanxicô Xaviê đả rảo bước đi khắp nơi để đem Tin Mừng đến cho dân tộc Nhật Bản, Mã Lai và Ấn Ðộ. Cuộc sống của ngài là một chia sẻ cảm thông sâu xa với những người nghèo khổ nhất… Chưa đạt được giấc mơ đặt chân đến Trung Hoa và Việt Nam, thánh nhân đã qua đời trong kiệt sức, tại một hải đảo cách Hồng Kông 100 cây số. Bị những người lái buôn Bồ Ðào Nha bỏ rơi trên bãi cát, thánh nhân đã qua đời trong sự trơ trụi nghèo nàn.

Danh vọng, tiền tài, ngay cả sức khỏe… tất cả đều được đốt cháy để tìm được niềm vui đích thực cho tâm hồn và mang niềm vui đó đến với mọi người: đó là sứ điệp mà thánh Phanxicô Xaviê đã để lại cho tất cả chúng ta…

“Nhà giàu đứt tay bằng ăn mày đổ ruột”… Có lẽ người ta thường dùng câu nói trên đây không những để nói lên tính cách tương đới của đau khổ, mà còn để nói lên ngay cả sự tương đới của hạnh phúc.

Sau những tháng năm ăn độn, ăn rau, những người nghèo có thể hớn hở reo vui khi được bữa cơm trắng với chút thịt cá. Sau những tháng năm tù đày, một người vừa mới được phóng thích sẽ reo hò sung sướng khi được đi lại tự do, khi được thở không khí trong lành…

Những người giàu có, ngày nào cũng yến tiệc linh đình sẽ thèm khát đôi chút cá kho, mắm cà của người nghèo khổ… Những đứa trẻ giàu có ở đô thị có lẽ sẽ thèm khát những giây phút được cưỡi trâu hay tắm ao của những chú bé nghèo ở nhà quê…

Tựu trung, vấn đề cơ bản nhất của con người vẫn là đi tìm hạnh phúc. Và cuối cùng, sau những miệt mài tìm kiếm, ai cũng nhận thấy rằng mình sẽ không bao giờ đạt được hạnh phúc đích thực và trường cửu trên trần gian này. Kẻ đứng ở núi này sẽ luôn nhìn sang núi nọ…

Chúa Giêsu đã đề ra cho chúng ta một bí quyết của hạnh Phúc: Ai muốn cứu mạng sống mình, sẽ mất và ai mất  mạng sống mình vì Ta sẽ gặp lại… Chỉ có một niềm vui đích thực đó là sống trọn vẹn cho Chúa. Chỉ có một điều quan trọng nhất trong cuộc sống: đó là lắng nghe lời Chúa.

(Lẽ Sống)

++++++++++++++++++

Lời Chúa Mỗi Ngày

Chúa Nhật I – Năm B – Mùa Vọng 

Bài đọc: Isa 63:16-17, 19, 64:2-7; I Cor 1:3-9; Mk 13:33-37

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hy vọng Chúa sẽ ghé mắt thương đến.

Mùa Vọng là Mùa của trông ngóng đợi chờ; nhưng đợi chờ gì đây? Đợi chờ Đức Kitô ư? Ngài đã đến trần gian hơn 2000 năm nay rồi! Thế tại sao năm nào chúng ta cũng cử hành Mùa Vọng? Lý do quan trọng nhất là Giáo Hội muốn chúng ta nhìn lại cuộc đời mỗi người xem Đức Kitô đã đến và làm chủ cuộc đời của chúng ta chưa. Để nhận ra điều này, một cuộc hồi tâm xét mình cần thiết để con người có thể trả lời câu hỏi này với Thiên Chúa.

Các Bài đọc của Chủ Nhật đầu tiên cung cấp cho chúng ta nhiều chất liệu để suy gẫm. Trong Bài đọc I, tiên tri Isaiah giúp chúng ta nhận ra sự hiện diện cần thiết của Thiên Chúa trong cuộc đời. Nếu Thiên Chúa không hiện diện trong đời sống, con người sẽ bị điều khiển bởi ma quỉ, và tội lỗi sẽ lan tràn. Trong Bài đọc II, Thánh Phaolô nhắc nhở các tín hữu về sự hiện diện cần thiết của Đức Kitô trong cuộc đời mỗi người. Khi con người có Ngài trong cuộc đời, con người sẽ không thiếu bất cứ điều gì khác; vì Ngài là nguồn mạch của mọi ân sủng và bình an, là sự khôn ngoan và sức mạnh của Thiên Chúa. Trong Phúc Âm Thánh Marcô, Chúa Giêsu cảnh cáo: Vì không ai biết được ngày giờ Con Người đến, nên tất cả phải luôn chuẩn bị sẵn sàng. 

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC: 

1/ Bài đọc I: Sự cần thiết của Thiên Chúa trong cuộc đời

1.1/ Nhận ra tình trạng tội lỗi của mình: Sách TT Isaiah được viết vào một giai đọan lịch sử rất khó khăn của Do-Thái: quốc gia bị xóa sạch và dân chúng bị lưu đày các nơi. Thời gian lưu đày là lúc thuận tiện để họ nhìn lại quá khứ và tìm ra lý do tại sao dân tộc của họ bị đàn áp và lưu đày.

Điều trước tiên họ nhận ra là sự vắng mặt của Thiên Chúa: chẳng còn Đền Thờ để cầu nguyện, chẳng còn tư tế và tiên tri để nhắc nhở họ nghĩ tới Thiên Chúa. Họ kêu van lên Thiên Chúa: “Lạy Đức Chúa, Ngài mới là Cha, là Đấng cứu chuộc chúng con: đó là danh Ngài từ muôn thuở. Lạy Đức Chúa, tại sao Ngài lại để chúng con lạc xa đường lối Ngài? Tại sao Ngài làm cho lòng chúng con ra chai đá, chẳng còn biết kính sợ Ngài?”

1.2/ Sự cần thiết của Thiên Chúa trong cuộc đời: Dân lưu đày nhận ra sự quan trọng của Thiên Chúa trong cuộc đời, nên cầu xin với Ngài: “Vì tình thương đối với tôi tớ là các chi tộc thuộc gia nghiệp của Ngài, xin Ngài mau trở lại. Từ lâu rồi, chúng con là những kẻ không còn được Ngài cai trị, không còn được cầu khẩn danh Ngài. Phải chi Ngài xé trời mà ngự xuống, cho núi non rung chuyển trước Thánh Nhan. Chúa đã ngự xuống và các núi đồi rung chuyển trước tôn nhan Chúa. Đó là việc từ xưa đến nay chưa từng có ai nghe thấy; lạy Chúa, không mắt nào nhìn thấy một Chúa nào khác ngòai Chúa đã dành những hồng ân cho những ai trông đợi Chúa.” Sự kiện họ nhắc lại Thiên Chúa đã thân hành ngự xuống đây có lẽ là biến cố Núi Sinai, khi Thiên Chúa ban cho họ Thập Giới.

1.3/ Xin Chúa tha thứ tội lỗi: Dân cũng nhận ra tội lỗi của mình: “Này, Ngài phẫn nộ vì tội lỗi chúng con. Chúng con đã luôn ở trong tình trạng tội lỗi, làm sao sẽ được cứu rỗi. Tất cả chúng con đều đầy vết nhơ, mọi công nghiệp của chúng con khác nào chiếc áo dơ bẩn. Tất cả chúng con héo tàn như lá úa, và tội ác chúng con đã phạm, tựa cơn gió, cuốn chúng con đi.” Nhưng họ cậy trông vào lòng nhân từ của Thiên Chúa: “Lạy Đức Chúa, Ngài là Cha chúng con; chúng con là đất sét, còn thợ gốm là Ngài, chính tay Ngài đã làm ra tất cả chúng con.” 

2/ Bài đọc II: Sự cần thiết của Đức Kitô trong cuộc đời

Lịch sử Cứu Độ được lật qua trang mới sau Thời Lưu Đày, Thiên Chúa đã cho Con của Ngài, Đức Kitô nhập thể để cứu độ trần gian. Nếu trong Cựu Ước, người Do-Thái không thể sống vắng bóng Thiên Chúa; thì trong Tân Ước, người Kitô hữu cũng không thể sống vắng bóng Đức Kitô, vì:

2.1/ Đức Kitô là nguồn mạch ân sủng và bình an: Thánh Phaolô cầu nguyện cho các tín hữu Côrintô: “Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, và xin Chúa Giêsu Kitô ban cho anh em ân sủng và bình an. Tôi hằng cảm tạ Thiên Chúa của tôi vì anh em, về ân huệ Người đã ban cho anh em nơi Đức Kitô Giêsu.” Qua Cuộc Thương Khó của Đức Kitô, Ngài đã đem lại bình an và rất nhiều ân sủng cho con người. Con người có bình an vì con người nhờ Đức Kitô mà được hòa giải với Thiên Chúa và với nhau. Đức Kitô cũng là nguồn mạch mọi ân sủng cho con người, nhất là qua các Bí-tích.

2.2/ Đức Kitô mặc khải cho con người sự khôn ngoan của Thiên Chúa: “Quả vậy, trong Đức Kitô Giêsu, anh em đã trở nên phong phú về mọi phương diện, phong phú vì được nghe Lời Chúa và hiểu biết mầu nhiệm của Người. Thật thế, lời chứng về Đức Kitô đã ăn sâu vững chắc vào lòng trí anh em, khiến anh em không thiếu một ân huệ nào, trong lúc mong đợi ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, mặc khải vinh quang của Người.” Nếu không có Đức Kitô mặc khải, con người không thể hiểu rõ ràng Mầu Nhiệm Cứu Độ của Thiên Chúa và rất nhiều các Mầu Nhiệm khác trong đạo.

2.3/ Đức Kitô giúp con người trung thành đến cùng: “Chính Người sẽ làm cho anh em nên vững chắc đến cùng, nhờ thế không ai có thể trách cứ được anh em điều gì trong Ngày của Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô. Thiên Chúa là Đấng trung thành, Người đã kêu gọi anh em đến hiệp thông với Con của Người là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.” Nhờ hiểu biết rõ ràng về Kế Họach Cứu Độ qua Tin Mừng, và được nâng đỡ bằng các ân sủng của Đức Kitô, con người có thể vượt qua những gian khổ của cuộc đời để trung thành với Thiên Chúa. Ngòai ra, con người cũng biết chuẩn bị mọi hành trang cần thiết để ra trước Tòa Phán Xét của Thiên Chúa. 

3/ Phúc Âm: Phải tỉnh thức trông chờ Chúa đến.

3.1/ Ngày giờ Chúa đến không ai biết: Trong câu 13:32, Chúa Giêsu nói rõ ràng: “Còn về ngày hay giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay người Con cũng không, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi.” Vì không ai biết được ngày giờ, nên con người cần phải chuẩn bị luôn.

3.2/ Phải tỉnh thức, không được ngủ mê: “Anh em phải canh thức, kẻo lỡ ra ông chủ đến bất thần, bắt gặp anh em đang ngủ.” Chỉ trong 5 câu, chữ tỉnh thức được lặp đi lặp lại tới 4 lần; một câu không có chữ “tỉnh thức,” lại dùng chữ đối nghịch “ngủ mê”với trạng từ “không.” Vì thế, có thể quả quyết, Thánh Marcô đã chú trọng đến “sự tỉnh thức,” và lặp đi lặp lại tới 5 lần trong 5 câu.

3.3/ Làm sao để luôn chuẩn bị? Cách chuẩn bị hay nhất là luôn có trong mình tất cả những gì cần thiết để về với Thiên Chúa. Việc “Sắp Sẵn” mọi sự theo phương pháp của Hướng Đạo sẽ giúp chúng ta chuẩn bị. Các em HĐ học và thực tập tất cả những gì cần thiết cho việc sinh tồn: dấu đi đường, nút giây, nấu ăn, cứu thương … Về cách chuẩn bị tinh thần của các tín hữu, chúng ta cầ chú ý đến những sự sau đây:

(1) Giữ thân thể nhẹ nhàng, mau mắn: Cha ông ta khuyên: “Một tinh thần mau mắn trong một thân thể tráng kiện.” Chè chén say sưa làm thân thể nặng nề. Sự nặng nề của thân xác làm con người mê ngủ, lười biếng, và tinh thần ra bạc nhược. Các ngài nói không sai: “Ăn để sống, chứ không phải sống để ăn.” Vì thế, ăn ưống ngon quá chưa chắc đã giúp cho sức khỏe, mà còn làm hại con người. Ngòai ra, chịu khó tập thể dục, chơi thể thao sẽ giúp thân thể nhẹ nhàng, di chuyển dễ dàng, và có nghị lực để vươn lên.

(2) Không quá quan tâm đến cuộc sống vật chất: Khi bị cám dỗ về nhu cầu vật chất trong sa mạc, Chúa Giêsu đã thẳng thắn tuyên bố với ma quỉ và làm gương cho chúng ta: “Con người sống không chỉ bởi cơm bánh, nhưng còn bởi những Lời do miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4:4). Đa số con người hiện đại đang đơn giản hóa đời sống con người chỉ còn chiều kích vật chất (cả chủ nghĩa tư bản cũng như cộng sản; các chủ thuyết hiện đại như materialism, individualism). Họ quên đi tất cả những chiều kích khác như: tinh thần, trí tuệ, tình cảm. Nếu đời sống con người chỉ còn chiều kích vật chất, con người không bằng con vật; vì con vật không phải làm vất vả như con người mà vẫn có ăn.

(3) Quan tâm nhiều đến đời sống tinh thần: Vì con người được dựng nên và tiền định để sống cuộc đời hạnh phúc với Thiên Chúa; nên con người phải dành nhiều thời giờ cho chiều kích tâm linh này. Con người sẽ phải chịu thiệt hại nặng nề, nếu con người lấy thời giờ để chuẩn bị đời sống tâm linh để dùng vào đời sống vật chất. Làm sao để thăng tiến đời sống tâm linh? Hai điều chính được Chúa Giêsu nhấn mạnh nhiều lần:

– Nghiền gẫm Lời Chúa: Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng dẫn lối con đi (Psa:). Không hiểu biết Lời Chúa, làm sao con người có thể sống theo đường lối của Chúa? Không biết sống theo đường lối Chúa, con người sẽ sống theo đường lối thế gian, và phải chịu mọi hậu quả của nó.

– Kết hiệp mật thiết với Đức Kitô qua đời sống cầu nguyện: Nếu lúc nào con người cũng để Đức Kitô làm chủ và hướng dẫn cuộc sống, thì Ngày Ngài đến cũng chẳng làm con người ngạc nhiên. Con người kết hiệp mật thiết với Đức Kitô qua việc tham dự Thánh Lễ, đọc Kinh Thần Vụ, năng lãnh nhận các Bí-Tích, và cầu nguyện nhiều lần trong ngày.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG: 

– Câu hỏi quan trọng mỗi người phải tìm ra câu trả lời trong Mùa Vọng này: Cuộc đời chúng ta đang bị hướng dẫn bởi ai? Thiên Chúa hay những cám dỗ thế gian?

– Nếu Đức Kitô đang làm chủ cuộc sống, chúng ta sẽ không thiếu bất cứ điều gì: ân sủng, bình an, khôn ngoan, sức mạnh, và trung thành.

– Chúng ta biết chắc chắn một điều Ngày của Chúa sẽ đến, nhưng không biết ngày giờ nào; vì thế, chúng ta cần phải luôn chuẩn bị. Phải giữ cho thân thể nhẹ nhàng, dành thời giờ để trau dồi cuộc sống tâm linh, để Lời Chúa thấm nhập vào mọi khía cạnh của cuộc đời, và kết hợp mật thiết với Thiên Chúa trong đời sống cầu nguyện. 

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

****************