Chúa Nhật (04-07-2021) – Trang suy niệm

03/07/2021

Lời Chúa Hôm Nay

Chúa Nhật Tuần XIV Mùa Thường Niên Năm B

BÀI ĐỌC I: Ed 2, 2-5

“Đây là nhà phản loạn, và họ sẽ biết rằng giữa họ vẫn có một tiên tri”.

Trích sách Tiên tri Êdêkiel.

Trong những ngày ấy, sau khi nói với tôi, Thần Linh nhập vào tôi, và đỡ tôi đứng dậy. Tôi nghe Người nói với tôi rằng: “Hỡi con người, Ta sai ngươi đến với con cái Israel, đến với dân nổi loạn phản nghịch Ta, chúng và cha ông chúng vi phạm giao ước của Ta cho đến ngày nay. Ta sai ngươi đến để nói với những con cái dầy mặt cứng lòng rằng: ‘Chúa là Thiên Chúa phán như vậy’. Hoặc chúng nghe, hoặc chúng không nghe, vì đây là bọn phản loạn, và chúng sẽ biết rằng giữa chúng có một tiên tri”. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 122, 1-2a. 2bcd. 3-4

Đáp: Mắt chúng con nhìn vào Chúa, cho tới khi Người thương xót chúng con (c. 2cd).

Xướng:

1) Con ngước mắt nhìn lên Chúa, Ngài ngự trị ở cõi cao xanh. Kìa, như mắt những người nam tôi tớ, nhìn vào tay các vị chủ ông. – Đáp.

2) Như mắt của những người tỳ nữ, nhìn vào tay các vị chủ bà, mắt chúng tôi cũng nhìn vào Chúa, là Thiên Chúa của chúng tôi như thế, cho tới khi Người thương xót chúng tôi. – Đáp.

3) Nguyện xót thương, lạy Chúa, nguyện xót thương, vì chúng con đã bị khinh dể ê chề quá đỗi! Linh hồn chúng con thật là no ngấy lời chê cười của tụi giàu sang, nỗi miệt thị của lũ kiêu căng. – Đáp.

BÀI ĐỌC II: 2 Cr 12, 7-10

“Tôi rất vui sướng khoe mình về những sự yếu hèn của tôi, để sức mạnh của Đức Kitô ngự trong tôi”.

Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, để những mạc khải cao siêu không làm cho tôi tự cao tự đại, thì một cái dằm đâm vào thịt tôi, một thần sứ của Satan vả mặt tôi. Vì thế đã ba lần tôi van nài Chúa, để nó rời khỏi tôi. Nhưng Người phán với tôi rằng: “Ơn Ta đủ cho ngươi, vì sức mạnh của Ta được tỏ bày trong sự yếu đuối”. Vậy tôi rất vui sướng khoe mình về những sự yếu hèn của tôi, để sức mạnh của Đức Kitô ngự trong tôi. Vì thế, tôi vui thoả trong sự yếu hèn của tôi, trong sự lăng nhục, quẫn bách, bắt bớ và khốn khó vì Đức Kitô: vì khi tôi yếu đuối, chính là lúc tôi mạnh mẽ. Đó là lời Chúa.

ALLELUIA: 1 Pr 1, 25

Alleluia, alleluia! – Lời Chúa tồn tại muôn đời, đó là lời Tin Mừng đã rao giảng cho anh em. – Alleluia. 

PHÚC ÂM: Mc 6, 1-6

“Không một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu trở về quê nhà và các môn đệ cùng theo Người. Đến ngày Sabbat, Người vào giảng trong hội đường, và nhiều thính giả sửng sốt về giáo lý của Người, nên nói rằng: “Bởi đâu ông này được như vậy? Sao ông được khôn ngoan như vậy? Bởi đâu tay Người làm được những sự lạ thể ấy? Ông này chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em ông không ở với chúng ta đây sao?” Và họ vấp phạm vì Người.

Chúa Giêsu liền bảo họ: “Không một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương, gia đình họ hàng mình”. Ở đó Người không làm phép lạ nào được, ngoại trừ đặt tay chữa vài bệnh nhân, và Người ngạc nhiên vì họ cứng lòng tin. Người đi rảo qua các làng chung quanh mà giảng dạy. Đó là lời Chúa.

(thanhlinh.net)

++++++++++++++++++

04/07/2021 – CHÚA NHẬT TUẦN 14 TN – B

Mc 6,1-6

KHÔNG TIN, KHÔNG CÓ PHÉP LẠ

Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó; Người chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ. Người lấy làm lạ vì họ không tin. (Mc 6,5-6)

Suy niệm: Xuyên suốt Tin Mừng, phép lạ chỉ xảy ra đối với những kẻ có lòng tin. Có lần Chúa Giê-su lên tiếng khen ngợi chính lòng tin đã cứu chữa người bệnh. Có người bị Chúa trách “kém tin”, nhưng với chút lòng tin còn yếu kém đó, họ cũng được Chúa ban phép lạ và lòng tin của họ được củng cố mạnh mẽ hơn. Nhờ niềm tin vào quyền năng và tình thương của Thiên Chúa, mà họ đã được chữa lành trở nên con người mới. Hơn nữa, Chúa Giê-su còn thúc giục họ gia tăng lòng tin vào Con Thiên Chúa để cũng làm được những phép lạ như Ngài (x. Mt 17,20). Nhưng tiếc thay hôm nay, nơi quê quán Ngài, Chúa không thể làm phép lạ, vì họ không có lòng tin.

Mời Bạn: Với nhiều người, nhất là người trẻ thời nay, niềm tin tôn giáo là không đáng tin vì thiếu những bằng chứng thực nghiệm. Thế nhưng bên cạnh những phát biểu đầy tự phụ ấy, trong thời đại dịch này, người ta cũng dễ dàng nhận ra rằng, con người thật là yếu ớt, và khả năng của con người cũng đụng phải những giới hạn. Chúa nói với dân thành Na-da-rét, Ngài không làm phép lạ vì họ không tin. Chúa không hứa sẽ làm cho bệnh dịch biến đi trong một cái nháy mắt, nhưng nếu chúng ta có lòng tin, chúng ta sẽ thấy những điều kỳ diệu hơn thế nữa (x. Ga 1,50).

Sống Lời Chúa: Thánh Phao-lô dạy đức tin có là nhờ nghe lời rao giảng, mà lời rao giảng của các tông đồ được ghi lại trong Kinh Thánh (Rm 10,17). Vậy mời bạn siêng năng suy niệm Lời Chúa để tăng thêm niềm tin.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin ban thêm niềm tin còn yếu đuối của chúng con.

(5 Phút Lời Chúa)

++++++++++++++++++

Suy niệm và cầu nguyện

Suy niệm
Ðức Giêsu giảng dạy ở hội đường tại quê nhà.
Phản ứng của dân làng là hết sức ngạc nhiên
trước sự khôn ngoan trong lời Ngài giảng.
Nếu họ chân thành tìm kiếm
họ có thể nhận ra khuôn mặt thật của người họ quá quen.

Tiếc thay người làng Nazareth đã không đủ vô tư.
Họ bị ám ảnh bởi quá khứ của Ngài,
và họ không sao ra khỏi những định kiến sẵn có.
“Ông ta không phải là bác thợ sao?”
Một bác thợ sống bằng đôi tay như bao người.
Một bác thợ trong làng, âm thầm và khiêm tốn,
sống bao năm ở đây không một chút hào quang.
Họ cũng bị ám ảnh bởi cái hiện tại trước mắt:
Bà Maria và các anh em, chị em của ông,
tất cả vẫn đang sống rất đỗi bình thường,
như những người láng giềng gần gũi.
Một quá khứ và hiện tại như thế
đã khiến họ vấp phạm.
Họ không tin Ngài là một ngôn sứ,
lại càng không thể tin Ngài là Mêsia,
và chắc chắn họ chẳng bao giờ dám nghĩ rằng
mình là người đồng hương với Ngôi Hai Con Thiên Chúa.

Không chắc chúng ta đã khá hơn người làng Nazareth.
Hôm nay chúng ta vẫn có thể bị đóng khung
trong một cái nhìn nào đó về Ðức Kitô,
khiến chúng ta chỉ thấy một phần khuôn mặt của Ngài.
Có những người chúng ta rất quen, sống sát bên ta,
nhưng chúng ta chẳng hiểu mấy về họ.
Những gì tôi biết về họ là đúng,
nhưng không đủ.
Mỗi người là một mầu nhiệm cần khám phá suốt đời.
Cần phải ra khỏi mình, ra khỏi cái nhìn khô cứng
để gặp được mầu nhiệm tha nhân,
để thấy người khác bằng cái nhìn luôn luôn mới.

Chúng ta thường nói đến một Thiên Chúa toàn năng,
nghĩa là Ðấng làm được mọi sự.
Nhưng Ðức Giêsu tại Nazareth lại cho ta thấy
hình ảnh một Thiên Chúa yếu đuối và bất lực.
Ngài bó tay trước sự cứng lòng của con người.
Ðức Giêsu đã không thể làm được phép lạ nào ở đó.
Thế mới hay con người có khả năng cản trở Thiên Chúa,
có thể dùng chính tự do Ngài ban để khước từ Ngài.
Phép lạ là quà tặng cần được đón nhận với lòng tin.
Phép lạ không phải là phù phép áp đặt trên người nhận.

Có bao điều lạ lùng Thiên Chúa định làm cho đời ta,
mà Ngài không làm được, vì không được làm.
Nên thánh là để cho Ngài yêu thương ta,
để cho Ngài tự do hoạt động trong đời ta.
Lúc đó đời ta sẽ trở nên một kỳ công của Thiên Chúa,
và nhờ Ngài, ta có thể làm được những kỳ công.

Cầu nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
dân làng Nazareth đã không tin Chúa
vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công.
Các môn đệ đã không tin Chúa
khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự.
Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa
chỉ vì Chúa sống như một con người,

Cũng có lúc chúng con không tin Chúa
hiện diện dưới hình bánh mong manh,
nơi một linh mục yếu đuối,
trong một Hội thánh còn nhiều bất toàn.

Dường như Chúa thích ẩn mình
nơi những gì thế gian chê bỏ,
để chúng con tập nhận ra Ngài
bằng con mắt đức tin.

Xin thêm đức tin cho chúng con
để khiêm tốn thấy Ngài
tỏ mình thật bình thường giữa lòng cuộc sống.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

(phutcaunguyen.net)

++++++++++++++++++

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

4 THÁNG BẢY

Biến Cái Hỗn Mang Thành Trật Tự

Trong nhiều bản văn, Thánh Kinh ca ngợi sự quan phòng thần linh như là quyền bính tối cao của thế giới, quyền bính đầy quan tâm đối với mọi tạo vật, nhất là đối với con người. Thiên Chúa, trong tư cách là chủ nhân đầy tình yêu thương đối với tất cả những gì mà Ngài đã tạo dựng, vẫn luôn luôn làm việc trong mọi sự.

Thiên Chúa, bằng sự khôn ngoan đầy sức sáng tạo của Ngài, dự liệu mọi sự và làm việc trong mọi sự. Sự khôn ngoan của Thiên Chúa vượt xa sự khôn ngoan và cẩn trọng của con người. Thật vậy, Thiên Chúa – Đấng siêu việt trên mọi sự – làm cho thế giới có thể biểu hiện trật tự lạ lùng theo ý Ngài ở nhiều cấp độ khác nhau.

Chính sự quan phòng và khôn ngoan này của Đấng Tạo Hóa làm cho thế giới có thể vận hành như một vũ trụ có hệ thống và trật tự chứ không phải như một mớ hỗn mang. “Chúa đã sắp xếp có chừng có mực, đã tính toán và cân nhắc cả rồi” (Kn 11,20). Thánh Kinh trầm trồ về sự khôn ngoan sáng tạo của Thiên Chúa.

– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –

Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác

LIFT UP YOUR HEARTS

Daily Meditations by Pope John Paul II

+++++++++++++++++

Lời Chúa Trong Gia Đình

NGÀY 04/7

Chúa Nhật XIV Thường Niên

Ed 2, 2-5; 2Cr 12, 7-10; Mc 6, 1-6.

LỜI SUY NIỆM:  Đức Giêsu bảo họ: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi.”

          Đây là một thực tế mà Chúa Giêsu đã gặp phải khi Người trở lại thăm Nadarét, quê hương của Người. Điều này ngày hôm nay cũng đã thường xãy ra, với những người lớn lên xa quê hương của mình một thời gian, sau khi thành đạt một lãnh vực nào đó, muốn trở lại quê hương mình để được đóng góp phần của mình cho quê hương, thì cũng thường gặp sự chống đối; đặc biệt trong lãnh vực Công Tác Tông Đồ.

          Lạy Chúa Giêsu, Xin cho mỗi người trong chúng con, luôn có nhiệt tâm xây dựng quê hương giáo xứ; cũng như nhiệt tâm đón nhận những đóng góp của tất cả những ai muốn quê hương, giáo xứ ngày càng phát triền và trưởng thành trong đức tin và đức mến.

Mạnh Phương

+++++++++++++++++

Gương Thánh Nhân

Ngày 04-07: Thánh ELISABETH LUSITANIA

(1271 – 1336)

Thánh Elisabeth là con vua Phêrô III nước Aragon, và là cháu vua Giacôbê I. Ngài sinh ra năm 1271 và được đặt tên là Elisabeth, để kính nhớ thánh nữ Elisabeth, hoàng hậu nước Hungari là dì của cha Ngài, mới được đức giáo hoàng Grêgôriô IX tuyên thánh 40 năm trước. Elisabeth ra đời như sứ giả hòa bình, vì khi Ngài sinh ra cha Ngài và ông nội Ngài làm hoà với hau.

Vua Giacôbê muốn tự mình giáo huấn đứa cháu gái. Elisabeth lên sáu tuổi thì ông nội từ trần. Nhưng những chỉ dẫn thánh thiện của ông nội lẫn gương sáng của bà nội đã in sâu trong tâm hồn thánh nữ. Nhận xét về đứa cháu gái của mình. Có lần nhà vua thánh thiện Giacôbê đã nói: – Đây là viên ngọc xứ Aragon.

Lên tám, Elisabeth đã tỏ ra là người trưởng thành. Vào tuổi này Ngài đã bắt đầu đọc kinh nhật tụng và sẽ trung thành đến phút cuối đời. Dầu thân xác yếu đuối, Ngài vẫn sống đời khắc khổ. Ngày áp lễ Đức Mẹ thánh nữ thường giữ chay nhiệm nhặt để dọn mình, không thích chưng diện sang trọng, Ngài sống khiêm tốn hiền hậu. Mọi người trong triều đình coi Ngài như một thiên thần được Thiên Chúa gởi xuống. Cha Ngài cũng phải nhìn nhận rằng: chính lòng đạo đức của con gái mình đã kéo ơn phúc lành từ trời cao xuống cho vương quốc.

Vào tuổi 12, Elisabeth được nhiều hoàng tử chú ý. Sau hai lần từ khước lời cầu hôn của hoàng tử nước Anh và của hoàng tử nước Ý, thánh nữ nhận lời thành hôn với hoàng tử Denis nước Bồ Đào Nha. Trở thành hoàng hậu, Elisabeth vẫn luôn hướng lòng về Thiên Chúa. Ngài dốc toàn lực để chu toàn phận vụ của một hoàng hậu. Nhưng ưu tư quan yếu của Ngài là trang hoàng các thánh đường và cung ứng của ăn áo mặc cho người nghèo. Đối với những ai biết được cuộc sống nhiệm nhặt âm thầm của thánh nữ mà muốn khuyên Ngài giảm bớt, Ngài nói: – Ở đâu cần hy sinh hãm mình hơn là ở trong triều đình là nơi có nhiều nguy hiểm lớn lao.

Ngài thường nói: – Thiên Chúa đặt tôi lên ngai là để tôi làm việc lành cho những người bất hạnh.

Mọi người đau khổ đều được Ngài săn sóc, nhưng Ngài quan tâm hơn tới trẻ mồ côi, nhưng người thiếu nữ cô độc và khốn khổ. Ngài còn tiếp đón khách hành hương, săn sóc các bệnh nhân. Mỗi ngày thứ sáu trong mùa chay, Ngài rửa chân cho 13 người hành khất. Lần kia, hoàng hậu rửa sạch, băng bó vết thương nơi chân một bệnh nhân, rồi âu yếm hôn lên vết thương ấy. Hành động anh hùng này đã được ân thưởng: vết thương được lành.

Đối với những người nghèo khổ mà mắc cỡ, thánh nữ mang của bố thí đến cho họ. Vào một ngày mùa đông, Ngài giấu đồ cứu trợ trong áo. Chồng Ngài bắt gặp và lên tiếng hỏi. Thấy chồng giận dữ, Ngài không dám trả lời. Nhà vua giật áo Ngài ra. Và lạ lùng nhà vua chỉ thấy toàn là hoa hồng. Để ghi nhớ phép lạ này, một cửa vào tu viện thánh Clara do thánh nữ thiết lập được đặt tên là hoa hồng.

Đức bác ái của thánh Elisabeth còn lan rộng tới những miền xa xôi khác nữa, hoà giải các gia đình và các dân tộc lại với nhau. Ngài đã hòa giải vua miền Aragon với vua miền Castille, rồi vua miền Castilia với vua Bồ đào Nha. Như thế Ngài đã dập tắt được nhiều cuộc chiến.

Trong khi mang hạnh phúc đến cho mọi người, thánh nữ lại là người chịu bao nhiêu cay đắng. Denis, chồng Ngài là một nhà cai trị có khả năng, nhưng lại là một người chồng thất tín. Chúng ta nhớ rằng: cuộc hôn nhân của Ngài là một cuộc dàn xếp chính trị và các vua mà giữ được sự tinh khiết thì quả là đặc biệt. Elisabeth không những đã nhẫn nhục và êm đềm chịu đựng sự bất trung của chồng mà còn tận tâm săn sóc những đứa con ngoại hôn của chồng với trọn tình mẫu tử. Dần dần những nhẫn nại và thùy mị đã cảm hóa được Denis.

Câu chuyện sau đây là một ví dụ: Hoàng hậu Elisabeth đã chọn một tiểu đồng nhân đức là Alonsô để phân phát của bố thí. Ghen tức Alonsô, một tiểu đồng khác đã vu cáo là Alonsô có những liên hệ tội lỗi với hoàng hậu. Nhà vua tin lời. Ong ra lệnh cho một chú lò vôi: – Khi một tiểu đồng đến hỏi rằng: “Lệnh nhà vua đã được thi hành chưa ?” thì cứ túm lấy cổ nó mà ném vào lò cho chết.

Hôm sau vua sai Alonsô đi hỏi như trên. Dọc đường anh vào nhà thờ dự ba thánh lễ liền. Còn nhà vua thì nóng lòng, sai tên vu cáo đi dò hỏi sự việc. Hắn tới và bị túm cổ ném vào lò vôi. Hết lễ Alonsô đến hỏi chủ lò vôi rồi về tường trình sự việc cho vua. Nhà vua ngạc nhiên và nhận biết sự vô tội của Alonsô. Ong hối cải và quyết tâm sống xứng đáng với người vợ thánh thiện của mình.

Nhưng rồi một thảm họa đã xảy ra. Hoàng tử Alfonsô nổi loạn. Hoàng hậu Elisabeth rất đau lòng. Ngài thêm lời cầu nguyện, sám hối và bố thí, Ngài đã thành công khi cỡi ngựa vào giữa trận địa, tay cầm thánh giá để ngăn cho khỏi xẩy ra việc đổ máu. Tại Lisbonne vẫn còn tấm đá cẩm thạch ghi dấu sự kiện này. Lợi dụng thời cơ bọn nịnh thần xúi giục nhà vua tin rằng: chính hoàng hậu đã thông đồng với con để khởi loạn. Elisabeth bị giam trong pháo đài Alamquer: nhưng hoàng hậu vẫn nhân từ, Ngài không chống đối theo lời khuyên của các lãnh Chúa mà còn làm cho họ trung thành hơn với vương quyền. Denis nhờ đó nhận biết sự lầm lẫn của mình. Ông công khai hối hận. Năm 1325 Denis từ trần cách thánh thiện sau một cơn bệnh lâu dài và đau đớn, dưới sự săn sóc tận tình của người vợ.

Từ đây Elisabeth cởi bỏ mọi y phục sang trọng, cắt tóc ngắn và nhập dòng ba Phanxicô. Ngài mặc áo dòng và đã sống trong một ngôi nhà cạnh dòng thánh Clara mà Ngài đã thiết lập ở Coimbra. Đời sống Ngài là một gương mẫu cho các nữ tu.

Năm 1336, con Ngài là vua Alphonsô gây chiến với vua miền Castille, người đã xử tệ với vợ mình, là con gái vua Alfonsô. Dầu đã yếu đau, thánh Elisabeth đã đuổi theo và gặp được đoàn quân ở Estremoz. Ngài đã thành công trong việc hòa giải hai nhà vua.

Trong cơn bệnh cuối đời của Ngài, có cả con và cháu hiện diện, Ngài còn được ơn an ủi đặc biệt và được Đức Mẹ đến đón trong lúc hơi thở cuối cùng. Ngài qua đời ngày 4 tháng 7 năm 1336. Đức giáo hoàng Urbanô đã suy tôn Ngài lên bậc hiển thánh.

(daminhvn.net)

+++++++++++++++++

04 Tháng Bảy

Củ Cà Rốt Của Tôi

Một lão bà nọ qua đời, được các Thiên Thần mang đến tòa phán xét. Trong khi duyệt xét các hành động của bà lúc còn sống, Ðấng phán xét đã không tìm thấy bất cứ một hành động bác ái nào, ngoại trừ có một lần bà đã cho người ăn mày một củ cà rốt. Tuy nhiên, Ðấng phán xét tối cao đầy lòng nhân từ cũng xem hành động ấy có đủ sức để mang người đàn bà lên Thiên Ðàng. Dĩ nhiên, củ cà rốt sẽ được dùng như sợi xích vững để người đàn bà bám vào và leo lên các bậc trong chiếc thang dẫn về Thiên Ðàng.

Người ăn mày cũng chết vào khoảng trong thời gian ấy. Anh cũng được diễm phúc bám vào gấu áo của người đàn bà để được đưa lên Thiên Ðàng.

Một người khác cũng qua đời vào ngày hôm đó. Người này cũng níu lấy chân của người hành khất. Không mấy chốc, chiếc thang bắt đầu từ củ cà rốt mỗi lúc một dài ra đến gần như vô tận: mọi người đều níu kéo nhau để lên Thiên Ðàng. Nhưng từ trên đỉnh thang nhìn xuống, người đàn bà bỗng châu mày khó chịu. Bà thấy sợi dây mỗi lúc một dài, bà sợ nó sẽ căng ra rồi đứt chăng. Cho nên trong cơn bực tức, bà cố gắng dành riêng cho mình củ cà rốt và la lên: “Các người giang ra, đây là củ cà rốt của tôi”.

Người đàn bà cố gắng giữ củ cà rốt cho riêng mình cho nên sợi dây tạo nên chiếc thang bắc lên Trời bị đứt. Bà rơi nhào xuống đất và cả đoàn người bám víu vào sợi dây ấy cũng rơi theo.

Một tác giả nào đó đã nói như sau: “Nguyên nhân của tất cả các sự dữ trên trần gian đều bắt đầu từ câu nói điều này thuộc về tội, điều kia thuộc về tôi”.

Khi con người muốn chiếm giữ cho riêng mình là lúc con người cũng muốn chối bỏ và loại trừ người khác. Nhưng càng muốn chiếm giữ cho riêng mình, con người không những chối bỏ người khác mà cũng đánh mất chính bản thân mình. Tình liên đới là điều thiết yếu cho sự thành toàn của bản thân chúng ta. Càng ra khỏi chính mình để sống cho người khác, chúng ta càng gặp lại bản thân, chúng ta càng lớn lên trong tình người. Ðó là nghịch lý mà Chúa Giêsu đã nói với chúng ta: “Ai mất mạng sống mình, người đó sẽ tìm gặp lại bản thân”. Hạnh phúc của bản thân chính là làm sao cho người khác được hạnh phúc.

(Lẽ Sống)

++++++++++++++++++

Lời Chúa Mỗi Ngày

Chúa Nhật 14 – Năm B – Thường Niên

Bài đọc: Eze 2:2-5; II Cor 12:7-10; Mk 6:1-6.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Những điều ngăn cản con người không nhìn ra sự thật.

             Trong hành trình đi tìm sự thật, con người cần phải học biết Thiên Chúa, biết tha nhân, và biết chính mình. Nếu chỉ ngông cuồng biết mình thôi, con người dễ phản loạn chống lại Thiên Chúa và tha nhân. Hơn nữa, khi con người chỉ biết mình, con người sẽ dễ kiêu hãnh và khinh thường Thiên Chúa và tha nhân.

             Các Bài Đọc hôm nay đưa ra một số lý do tại sao con người không tin Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I: Vì tính ngông cuồng và phản loạn, dân tộc Israel đã lạc xa đường lối Thiên Chúa. Tiên tri Ezekiel được Thiên Chúa sai tới để chinh phục họ về cho Ngài. Trong Bài Đọc II: Để ngăn ngừa tính kiêu hãnh của Phaolô, Thiên Chúa đã bắt ông chịu đau khổ để ông nhận ra một điều quan trọng: sức mạnh ông có được đến từ Thiên Chúa. Ngài hoạt động trong những yếu đuối của Phaolô. Trong Phúc Âm: Được chứng kiến những lời khôn ngoan từ miệng Chúa và chứng kiến những phép lạ Ngài làm, thay vì những người đồng hương Nazareth đánh giá Chúa trên những giá trị này để tin vào Chúa; họ lại đánh giá gia đình, tài sản, địa vị, và các môn đệ, những điều không phải là Chúa, để rồi khinh thường và không tin vào Chúa.  

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC: 

1/ Bài đọc I: Giống nòi phản loạn không chịu tin vào Thiên Chúa.

1.1/ Những đứa con mặt dày mày dạn, lòng chai dạ đá: Dân tộc Israel bị Thiên Chúa mắng là giòng giống phản loạn. Thiên Chúa phán với Tiên-tri Ezekiel: “Hỡi con người, chính Ta sai ngươi đến với con cái Israel, đến với dân phản nghịch đang nổi loạn chống lại Ta; chúng cũng như cha ông đã nổi lên chống lại Ta mãi cho đến ngày nay. Những đứa con mặt dày mày dạn, lòng chai dạ đá, chính Ta sai ngươi đến với chúng.”

            Đặc tính của người phản loạn:

            + Họ không muốn nghe lời của bất cứ ai: Họ lấy mình làm tiêu chuẩn để phán xét mọi người. Họ không muốn nghe lời Thiên Chúa hay những gì Ngài nói qua các ngôn sứ.

            + Họ khó chịu khi thấy ai làm gì không giống họ: Họ không muốn tin Thiên Chúa; đã vậy, họ còn ngăn cản những ai tin vào Thiên Chúa. Lý do: những tín hữu khuấy động lương tâm của họ. Người Do-thái bắt bớ và truy tố các ngôn sứ, vì các ngôn sứ không chịu phản loạn như họ.

            + Họ muốn làm gì thì làm: Giống như con ngựa bất kham, không muốn đeo bất cứ điều gì trên người để tự do bay nhảy tung tăng khắp chốn; nhưng người chủ phải chế ngự nó bằng giây cương hàm thiết, nó mới chịu ngoan ngoãn thi hành lệnh của chủ. Giống người phản lọan cũng thế, họ không muốn giữ bất cứ luật lệ nào của Thiên Chúa cũng như của loài người. Nhưng loại người như thế sẽ không tồn tại lâu dài, vì luật pháp sẽ không dung thứ họ. Cho dù họ có thể qua mặt loài người, họ sẽ không qua khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa.           

1.2/ Các ngôn sứ là khí cụ Thiên Chúa dùng để vạch ra lầm lỗi của họ: Chúa muốn Tiên-tri Ezekiel phải can đảm nói những gì Chúa muốn nói: “Còn chúng, vốn là nòi phản loạn, chúng có thể nghe hoặc không nghe, nhưng chúng phải biết rằng có một ngôn sứ đang ở giữa chúng.”

            Thái độ của ngôn sứ: Không được sợ hãi loại người phản loạn này, nhưng phải can đảm vạch ra lầm lỗi của chúng: “Phần ngươi, hỡi con người, đừng sợ chúng, cũng đừng sợ những lời chúng nói, dù ngươi có bị chống đối, có gặp chông gai tư bề, hay ngồi trên bò cạp. Những lời chúng nói, ngươi đừng sợ; có phải giáp mặt chúng, cũng đừng khiếp, vì chúng là nòi phản loạn. Ngươi cứ nói với chúng những lời của Ta, dù chúng nghe hay không, vì chúng là quân phản loạn” (Eze 2:6-7).

2/ Bài đọc II: Sức mạnh của Thiên Chúa được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối.

2.1/ Đau khổ giúp con người khỏi tự cao tự đại: Phaolô, trước khi trở thành môn đệ của Đức Kitô, là người nhiệt thành và kiêu hãnh. Ông hãnh diện với truyền thống của cha ông, và nhiệt thành truy tố những tín hữu của Đức Kitô, Người mà ông cho là xúi giục dân chúng chống lại Lề Luật của cha ông. Để dạy Phaolô một bài học, Chúa để ông té ngựa và bị mù; đồng thời Ngài cũng mặc khải cho ông biết nguy hiểm của những ai mù quáng giơ chân đạp mũi nhọn. Kể từ đó Phaolô suy nghĩ về thái độ quá khích của mình, và khiêm nhường để Đức Kitô hướng dẫn cuộc đời của ông.

            Trình thuật hôm nay kể: “Và để tôi khỏi tự cao tự đại vì những mặc khải phi thường tôi đã nhận được, thân xác tôi như đã bị một cái dằm đâm vào, một thủ hạ của Satan được sai đến vả mặt tôi, để tôi khỏi tự cao tự đại.” Qua các Thư Phaolô, chúng ta biết ông đã được Đức Kitô thân hành hiện ra dạy dỗ và cho hiểu biết nhiều mầu nhiệm. Chính vì được thấu hiểu các mầu nhiệm mà Satan ganh tị với ông. Không lạ gì khi Satan đến vả mặt ông vì chúng không muốn ai thấu hiểu những mầu nhiệm này. Hơn nữa, biết những điều phi thường dễ đưa con người đến chỗ tự mãn, tự kiêu. Chúng ta không biết rõ “cái dằm đâm vào thân xác Phaolô” là cái gì: có người cho là cám dỗ thân xác, có người cho là các bệnh tật mà ông phải chịu; nhưng điều quan trọng ông đã nói ra là “cái dằm” ngăn ngừa ông để khỏi tự cao, tự đại.

2.2/ Phaolô nhận ra sức mạnh đến từ Thiên Chúa: Qua kinh nghiệm của biến cố trở lại và của “cái dằm đâm vào thân xác,” Phaolô hiểu rõ con người kiêu hãnh và yếu đuối của mình. Ông biết nếu không có sức mạnh của Thiên Chúa chữa lành và ở với ông, ông sẽ mù lòa suốt đời về cả thể lý và tâm linh; nhưng vì tình yêu Thiên Chúa dành cho ông, Ngài cho ông lại được nhìn thấy ánh sáng và thấu hiểu sự quan trọng của Đức Kitô trong Kế Hoạch Cứu Độ.

            Trong trình thuật hôm nay, vì nhiệt thành rao giảng đức tin, Phaolô đã ba lần xin Chúa cho thoát khỏi nỗi khổ của “cái dằm;” nhưng Đức Kitô quả quyết với ông: “Ơn của Thầy đã đủ cho anh, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối.” Chúng ta ít nhiều cũng có những kinh nghiệm như Phaolô, khi đang hăng hái nhiệt thành rao giảng hay làm việc tông đồ, mà chúng ta bị những ngăn trở như bệnh tật, bắt bớ, hiểu lầm; chúng ta muốn Chúa lấy đi những trở ngại này với ý hướng tốt lành, để chúng ta mạnh khỏe và có cơ hội tiếp tục phục vụ Chúa. Thiên Chúa có kế hoạch khác: nhiều khi Ngài muốn chúng ta chậm lại để có thời giờ suy nghĩ chín chắn hơn, hay muốn chúng ta nghỉ ngơi để chuẩn bị cho sứ vụ sắp tới cam go hơn.

            Thái độ chúng ta cần có là học nơi Phaolô: “Thế nên tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Kitô ở mãi trong tôi. Vì vậy, tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Kitô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh.”

3/ Phúc Âm: Tại sao con người từ chối không tin vào Chúa Giêsu?

3.1/ Đức Kitô chuẩn bị cho người đồng hương để họ tin vào Ngài: Để một người có thể tin vào Đức Kitô, họ cần nhiều yếu tố quan trọng. Ngài chuẩn bị cho họ những điều cần thiết này:

            (1) Ngài cho họ có cơ hội gặp gỡ Ngài: Họ không đi tìm Chúa, nhưng Đức Giêsu trở về quê quán của Người, có các môn đệ đi theo. Đến ngày Sabbath, Người bắt đầu giảng dạy trong hội đường.

            (2) Ngài cho họ nhận ra sự khôn ngoan của Thiên Chúa nơi Ngài: Khi Ngài giảng dạy trong hội đường, nhiều người nghe rất đỗi ngạc nhiên. Chính họ đã phải thốt lên: “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao?”

            (3) Ngài cho họ nhận ra Ngài có uy quyền của Thiên Chúa: Khi chứng kiến các phép lạ Chúa Giêsu đã làm, họ đã phải ngạc nhiên thốt lên: “Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì?”

3.2/ Người đồng hương không nhận ra Đức Kitô: Lý do chính khiến người đồng hương không nhận ra Đức Kitô là thay vì họ phải phán xét chính Đức Kitô và các việc Ngài làm, họ lại quay qua phán xét gia đình của Chúa. Họ nói: “Ông ta không phải là bác thợ, con bà Maria, và anh em của các ông Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?” Và họ vấp ngã vì Người.

            Một ví dụ người Việt-nam chúng ta có kinh nghiệm là biến cố thi cử sau 1975, mà chúng ta thường nói khôi hài: “học tài thi lý lịch.” Thay vì chấm điểm thí sinh, giám khảo quay sang xét lý lịch gia đình. Nếu thí sinh là con của ngụy quân ngụy quyền, hay thuộc các gia đình “tư sản mại bản;” họ sẽ bị đánh rớt trước khi giám khảo có cơ hội xem bài thi của họ.

3.3/ Bụt nhà không thiêng: Đức Giêsu bảo họ: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi.” Đây là một thực tế đau lòng, mà người Mỹ có câu “Familiarity breeds contempt.” Tục ngữ Việt-nam cũng có câu tương tự: “Quen chó, chó liếm mặt.”

            (1) Nơi quê hương: Nhiều người chúng ta có thói quen thổi phồng người ngoại quốc. Cái gì của Mỹ cũng hay, cũng tốt, cũng đẹp; cái gì của Việt-nam cũng dở cũng xấu. Họ có biết đâu họ đang bị thành kiến chi phối, vì dân tộc nào cũng có cái hay cái dở; và không phải người Mỹ nào cũng tốt hay người Việt-nam nào cũng xấu.

            (2) Giữa họ hàng: Nhiều người thường đánh giá người đồng hương trên bằng cấp, địa vị, hay tài sản. Trình thuật hôm nay cho biết lý do họ khinh thường Chúa Giêsu là vì họ biết gia đình của Ngài. “Con bác xã chùa phải quét lá đa;” con bác thợ mộc, làm sao có cơ hội để quán thông Lề Luật? Qui tụ một đám môn đệ thất học như thế, thầy cũng chẳng hơn trò!

            (3) Trong gia đình: Nhiều người trong chúng ta đã từng có kinh ngiệm này. Chúng ta không thể hiểu lý do tại sao khi chúng ta làm cho người ngoài gia đình chỉ một việc rất nhỏ bé như chỉ bài, cho một ly nước, giới thiệu một việc làm, họ đã biết ơn hết sức và trả ơn bội hậu cho chúng ta. Trong khi ở nhà, chúng ta hy sinh tất cả mọi sự cho gia đình đến chỗ chỉ còn chấp nhận cái chết; nhưng người trong nhà vẫn vô ơn, bạc nghĩa, đến chỗ một lời cám ơn cũng không được lãnh nhận. Có lẽ vì người trong gia đình giả sử chúng ta phải làm những việc đó!

            Trình thuật Marcô kết luận: “Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó; Người chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ. Người lấy làm lạ vì họ không tin.”

 ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

            – Chúng ta phải dẹp bỏ tính ngông cuồng và phản loạn, vì chúng gây thiệt hại cho chúng ta. Trái lại, chúng ta phải biết vâng lời Thiên Chúa và giữ các huấn lệnh của Ngài.

            – Chúng ta phải dẹp bỏ tính kiêu hãnh vì nó đánh lừa chúng ta. Ngược lại, chúng ta hãy luyện tập cho biết khiêm nhường để nhìn nhận những yếu kém và giới hạn của mình.

            – Khi phải phán xét, hãy phán xét biến cố xảy ra hay người làm biến cố đó; đừng phán xét biến cố không liên quan đến sự việc hay những người không liên quan gì đến biến cố đó. 

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

****************