Chúa Nhật (07-07-2019) – Trang suy niệm

06/07/2019

Lời Chúa Hôm Nay

Chúa Nhật Tuần XIV Mùa Thường Niên Năm C

BÀI ĐỌC I: Is 66, 10-14c

“Đây Ta khiến sông bình an chảy vào nó”.

Trích sách Tiên tri Isaia.

Các ngươi hãy vui mừng với Giêrusalem, và hết thảy những ai yêu quý nó, hãy nhảy mừng vì nó. Hỡi các ngươi là những kẻ than khóc nó, hãy hân hoan vui mừng với nó, để các ngươi bú sữa no nê nơi vú an ủi của nó, để các ngươi sung sướng bú đầy sữa vinh quang của nó. Vì chưng Chúa phán thế này: “Ta sẽ làm cho sự bình an chảy đến nó như con sông, và vinh quang chư dân tràn tới như thác lũ. Các ngươi sẽ được bú sữa, được ẵm vào lòng và được nâng niu trên đầu gối. Ta sẽ vỗ về các ngươi như người mẹ nâng niu con, và tại Giêrusalem, các ngươi sẽ được an ủi. Các ngươi sẽ xem thấy, lòng các ngươi sẽ hân hoan, và các ngươi sẽ nẩy nở như hoa cỏ, và tôi tớ Chúa sẽ nhìn biết bàn tay của Chúa”. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 65, 1-3a. 4-5. 6-7a. 16 và 20

Đáp: Toàn thể đất nước, hãy reo mừng Thiên Chúa (c. 1).

Xướng: 1) Toàn thể đất nước hãy reo mừng Thiên Chúa, hãy ca ngợi vinh quang danh Người, hãy kính dâng Người lời khen ngợi hiển vinh. Hãy thưa cùng Thiên Chúa: kinh ngạc thay sự nghiệp Chúa. – Đáp.

2) Toàn thể đất nước thờ lạy và ca khen Ngài, ca khen danh thánh của Ngài. Hãy tới và nhìn coi sự nghiệp của Thiên Chúa, Người thi thố những chuyện kinh ngạc giữa con cái người ta! – Đáp.

3) Người biến bể khơi thành nơi khô cạn, người ta đã đi bộ tiến qua sông, bởi đó ta hãy hân hoan trong Chúa. Với quyền năng, Người thống trị tới muôn đời. – Đáp.

4) Phàm ai tôn sợ Chúa, hãy đến, hãy nghe tôi kể lại, Chúa đã làm cho linh hồn tôi những điều trọng đại biết bao! Chúc tụng Chúa là Đấng không hất hủi lời tôi nguyện, và không rút lại lòng nhân hậu đối với tôi. – Đáp.

BÀI ĐỌC II: Gl 6, 14-18

“Tôi mang trong mình tôi những dấu thánh của Chúa Giêsu”.

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Galata.

Anh em thân mến, phần tôi, ước gì tôi đừng khoe mình về một điều gì khác, ngoại trừ về thập giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Nhờ cây thập giá mà thế gian đã chịu đóng đinh cho tôi, và tôi cho thế gian. Vì chưng trong Đức Kitô, có cắt bì hay không cũng chẳng có giá trị gì, điều quan trọng là trở nên một tạo vật mới. Nguyện chúc bình an và lòng thương xót đối với những ai rập theo quy tắc đó, và cho cả Israel của Thiên Chúa nữa. Từ nay trở đi, ước gì không ai làm phiền tôi nữa; vì tôi mang trong mình tôi dấu thánh của Chúa Giêsu.

Anh em thân mến, nguyện ân sủng của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ở cùng anh em! Amen. Đó là lời Chúa.

ALLELUIA: Ga 14, 23

Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy”. – Alleluia. 

PHÚC ÂM: Lc 10, 1-9 hoặc 1-12. 17-20

“Sự bằng yên của các con sẽ đến trên người ấy”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa chọn thêm bảy mươi hai người nữa, và sai các ông cứ từng hai người đi trước Người, đến các thành và các nơi mà chính Người sẽ tới. Người bảo các ông rằng: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít; vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của Người. Các con hãy đi. Này Ta sai các con như con chiên ở giữa sói rừng. Các con đừng mang theo túi tiền, bao bị, giầy dép, và đừng chào hỏi ai dọc đường. Vào nhà nào, trước tiên các con hãy nói: ‘Bình an cho nhà này’. Nếu ở đấy có con cái sự bình an, thì sự bình an của các con sẽ đến trên người ấy. Bằng không, sự bình an lại trở về với các con. Các con ở lại trong nhà đó, ăn uống những thứ họ có, vì thợ đáng được trả công. Các con đừng đi nhà này sang nhà nọ.

“Khi vào thành nào mà người ta tiếp các con, các con hãy ăn những thức người ta dọn cho. Hãy chữa các bệnh nhân trong thành và nói với họ rằng: ‘Nước Thiên Chúa đã đến gần các ngươi’.

“Khi vào thành nào mà người ta không tiếp đón các con, thì hãy ra giữa các phố chợ và nói: ‘Cả đến bụi đất thành các ngươi dính vào chân chúng tôi, chúng tôi cũng xin phủi trả lại các ngươi. Nhưng các ngươi hãy biết rõ điều này: Nước Thiên Chúa đã đến gần’. Ta bảo các con, ngày ấy, thành Sôđôma sẽ được xử khoan dung hơn thành này”.

Bảy mươi hai ông trở về rất vui mừng và nói rằng: “Thưa Thầy, nhân danh Thầy thì cả ma quỷ cũng vâng phục chúng con”. Người bảo: “Ta đã thấy Satan từ trời sa xuống như luồng chớp. Này Ta đã ban cho các con quyền giày đạp rắn rít, bọ cạp, mọi quyền phép của kẻ thù, và không có gì có thể làm hại được các con. Dù vậy, các con chớ vui mừng vì các thần phải vâng phục các con, nhưng hãy vui mừng vì tên các con đã được ghi trên trời”. Đó là lời Chúa

(thanhlinh.net)

++++++++++++++++++

07/07/2019CHÚA NHẬT TUẦN 14 TN – C

Lc 10,1-12.17-20

HÀNH TRANG TÔNG ĐỒ

Đức Giê-su nói: “Anh em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em như chiên con đi vào giữa bầy sói. Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép.” (Lc 10,3)

Suy niệm: Người đi đường cần phải mang theo bao bị, túi xách. Đi càng lâu càng xa, bao bị càng lớn, va li càng to. Vậy mà Đức Giê-su lại căn dặn người môn đệ ra đi rao giảng Tin Mừng không túi tiền giắt lưng, cũng chẳng bao bị, túi xách, va li. Lỡ hết tiền dọc đường chẳng lẽ ngửa tay xin? Không có đồ dùng cá nhân thì lấy gì lo cho những nhu cầu tối thiểu? Cần phải hiểu đúng lời Đức Giê-su: Ngài muốn hành trang người tông đồ phải là hành trang gọn nhẹ, đơn giản hết sức. Đúng hơn nữa, hành trang ấy phải là lòng yêu mến Thiên Chúa, tâm tình nhiệt thành đối với các linh hồn, nhất là đối với những người chưa biết Đức Ki-tô, chưa nghe biết Tin Mừng Nước Trời. Chính lòng yêu mến Chúa và công cuộc Nước Trời mới là hành trang cho sinh hoạt mỗi ngày của những ai muốn làm tông đồ.

Mời Bạn: Hãy ghi nhớ lời Gandhi: “Một vật cứng rắn đến đâu, cũng sẽ tan chảy trong lửa tình yêu. Nếu vật ấy không tan chảy, chính vì ngọn lửa không đủ mạnh.” Bạn sẽ làm gì để lửa yêu mến các linh hồn làm tan chảy sự dửng dưng của bạn đối với công cuộc truyền giáo và sau đó làm tan chảy các tâm hồn khác?

Chia sẻ: Tại sao cuộc sống của tôi chưa là lời chứng về Tin Mừng Chúa Ki-tô cho người chung quanh?

Sống Lời Chúa: Gia đình tôi sẽ kết nghĩa với một gia đình lương dân và khi thuận tiện, mời họ tham dự những sự kiện của gia đình, gia tộc (lễ cưới, lễ giỗ…) để họ có dịp tiếp xúc với Lời Chúa

Cầu nguyện: Sốt sắng hát bài: Lạy Chúa, xưa Chúa đã phán… để cầu cho việc truyền giáo.

(5 Phút Lời Chúa)

++++++++++++++++++

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

7 THÁNG BẢY

Đừng Lo Lắng !

Nhận thức của chúng ta về sự quan phòng thần linh trong Cựu Ước được củng cố và được làm cho phong phú thêm trong Tân Ước. Trong tất cả những lời nói của Đức Giêsu về chủ đề này, những lời được ghi lại bởi hai Thánh Sử Matthêu và Luca sau đây đặc biệt cho ta nhiều ấn tượng: “Vậy, anh em đừng băn khoăn về những vấn đề như mình sẽ ăn gì uống gì hay mặc gì. Những kẻ không tin luôn luôn theo đuổi những thứ ấy. Nhưng Cha của anh em trên trời biết anh em cần gì. Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài, và mọi thứ khác sẽ được ban cho anh em” (Mt 6,31-33; Lc 12,29-31).

“Hai con chim sẻ chỉ bán được một hào phải không? Thế mà, không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em. Thì đối với anh em cũng vậy, ngay đến tóc trên đầu anh em, Ngài cũng đếm cả rồi.Vậ anh em đừng sợ; anh em còn quí giá hơn muôn vàn chim sẻ” (Mt 10,29-31; Lc 21,18).

“Hãy xem chim trời: chúng không gieo không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quí giá hơn chúng sao? Hỏi có ai trong anh em, nhờ lo lắng, mà kéo dài đời mình được dù chỉ một gang tay? Còn về áo mặc cũng thế, lo lắng làm gì? Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào mà rút ra bài học: chúng không làm lụng, không kéo sợi; thế mà, Thầy bảo cho anh em biết: Ngay cả Sa-lô-môn, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy. Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin!” (Mt 6,26-30; Lc 12,24-28).

Với một giáo huấn mạnh mẽ như vậy, Chúa Giê-su không chỉ củng cố giáo huấn của Cựu Ước về sự quan phòng thần linh mà thôi. Người còn cho thấy tại sao chúng ta không bao giờ được phép nghi ngờ sự quan phòng ấy. Người bảo chúng ta đừng lo lắng, bởi vì chúng ta có thể ung dung thanh thản trong tình yêu của Cha trên trời dành cho chúng ta.

– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –

Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác

LIFT UP YOUR HEARTS

Daily Meditations by Pope John Paul II

+++++++++++++++++

Lời Chúa Trong Gia Đình

NGÀY 07/7

Chúa Nhật XIV thường niên

Is 66, 10-14; Gl 6, 14-18; Lc 10, 1-12.17-20.

LỜI SUY NIỆM: “Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về. Anh em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói.”

            Chúa Giêsu luôn luôn hiện diện và quan tâm đến đời sống của nhân loại, Người muốn cứu độ hết thảy mọi người không trừ một ai; không những vậy, Người còn mời gọi những ai đã đi theo và tin vào Người; hãy cùng Người cầu xin Chúa Cha ban thêm những người đã được tuyển chọn và đào tạo ra thu gom nhân loại vào trong Nước Thiên Chúa.

            Lạy Chúa Giêsu. Chúa sai chúng con đi vào trần gian, như chiên con đi vào giữa bầy sói. Xin cho chúng con tin vào ơn ban và sự gìn giữ, bảo vệ của Chúa, để chúng con mạnh bước trên mọi thử thách gian nguy.

Mạnh Phương

+++++++++++++++++

07 Tháng Bảy

Ðể Cho Lòng Tha Thứ Tiếp Tục Hiện Hữu

Chuyện “Nghìn lẻ một đêm” của Ba Tư có kể lại một phiên tòa như sau:

Có hai người anh em ruột nọ bắt chói được thủ phạm giết cha mình. Họ lôi kéo tên sát nhân đến trước quan tòa và yêu cầu xử theo luật mắt đền mắt răng đền răng. Kẻ sát nhân đã dùng đá để ném chết cha của họ, thì hắn cũng phải bị ném đá theo như luật đã quy định… Trước mặt quan tòa, tên sát nhân đã thú nhận tất cả tội lỗi của mình. Nhưng trước khi bị đem ra xử, hắn chỉ xin một ân huệ, đó là được trở về nhà trong vòng ba ngày để giải quyết mọi vấn đề có liên quan đến một người cháu được ký thác cho hắn trông coi từ nhỏ. Sau thời hạn đó, hắn sẽ trở lại để chịu xử tử… Quan tòa xem chừng như không tin ở lời cam kết của tên tử tội. Giữa lúc quan tòa đang do dự, thì trong đám đông những người tham dự phiên tòa, có một người giơ tay cam kết: “Tôi xin đứng ra bảo đảm cho lời cam kết của tử tội. Nếu sau ba ngày, hắn không trở lại, tôi sẽ chết thế thay cho hắn”.

Tên tử tội được tự do trong ba ngày để giải quyết việc gia đình. Sau đúng kỳ hạn ba ngày, giữa lúc mọi người đang chờ đợi để chứng kiến cuộc hành quyết, hắn hiên ngang bước ra giữa pháp trường và dõng dạc tuyên bố: “Tôi đã giải quyết mọi việc trong gia đình. Giờ đây, đúng theo lời cam kết, tội xin trở lại đây để chịu tội. Tôi muốn trung thành với lời cam kết của tôi để người ta sẽ không nói: Chữ tín không còn trên mặt đất này nữa”.

Sau lời phát biểu dõng dạc của kẻ tử tội, người đàn ông đã đứng ra bảo lãnh cho hắn cũng ra giữa đám đông và tuyên bố: “Phần tôi, sở dĩ tôi đứng ra bảo lãnh cho người này, là vì tôi không muốn để cho người ta nói: Lòng quảng đại không còn trên mặt đất này nữa”.

Sau hai lời tuyên bố trên , đám đông bỗng trở nên thinh lặng. Dường như ai cũng cảm thấy được mời gọi để thể hiện những gì là cao quý nhất trong lòng người…

Từ giữa đám đông, hai người thanh niên bỗng tiến ra và nói với quan tòa: “Thưa ngài, chúng tôi xin tha cho kẻ đã giết cha chúng tôi, để người ta sẽ không còn nói: Lòng tha thứ không còn hiện hữu trên mặt đất này nữa”.

Giữa sa mạc cằn cỗi, một cụm cỏ hay một cánh hoa dại là cả một bầu trời hy vọng cho những người lạc lõng. Giữa sa mạc nóng cháy, một tiếng suối róc rách là cả một nguồn hy vọng tràn trề cho những ai đang đói khát… Giữa một xã hội khô cằn tình người, giữa một xã hội mà những giá trị tinh thần và đạo đức đã bị bóp nghẹt, chứng từ của người tín hữu Kitô cần thiết hơn bao giờ hết. Giữa biển khơi mù mờ, có biết bao kẻ chới với đang cần một chiếc phao của chữ tín, của lòng thành, của lòng quảng đại, của sự tha thứ…

Người tín hữu Kitô phải sống thế nào để người ta có thể nói; Niềm tin vào cuộc sống, ý nghĩa của cuốc đời vẫn còn cháy sáng giữa xã hội.

Người tín hữu Kitô phải sống thế nào để người ta có thể nói: Thiên Chúa vẫn tiếp tục yêu thương con người.

Người tín hữu Kitô phải sống thế nào để người ta có thể nói: Con người vẫn có thể yêu thương nhau và sống cho nhau.

Người tín hữu Kitô phải sống thế nào để người ta có thể nói: Tôn giáo không là thuốc phiện mê hoặc quần chúng, nhưng là sức mạnh để cải thiện xã hội.

(Lẽ Sống)

++++++++++++++++++

Lời Chúa Mỗi Ngày

Chủ Nhật 14 Thường Niên, Năm C

Bài đọc: Isa 66:10-14c; Gal 6:14-18; Lk 10:1-9.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Ba sự thật cần thiết nhất của cuộc đời.

Con người bị lẫn lộn và giằng co giữa sự thật và sự gian tà, giữa việc tôn thờ Đấng Tạo Hóa với những tạo vật do tay Ngài làm nên, giữa mục đích của cuộc đời và những phương tiện sinh sống trong cuộc đời, giữa bổn phận chính yếu với những bổn phận phụ thuộc. Ví dụ: Mục đích của cuộc đời là làm sao để đạt được Nước Trời chứ không phải xây cho được những tòa nhà lộng lẫy, nguy nga… để rồi sẽ có ngày không còn hòn đá nào chồng trên hòn đá nào. Niềm tin để đạt được mục đích cuộc đời là xác tín vào Đức Kitô, Đấng duy nhất có thể bảo đảm cho con người được cứu độ, chứ không phải nơi uy quyền, danh vọng hay bất cứ người nào khác. Bổn phận chính con người phải làm khi sống ở đời này là rao giảng Tin Mừng sao cho mọi người nhận ra và tin vào Thiên Chúa để được hưởng ơn cứu độ, chứ không phải bất kỳ một bổn phận phụ thuộc nào khác.

Các bài đọc hôm nay cho chúng ta ba cái nhìn chính xác về mục đích của cuộc đời, niềm tin phải có để đạt được mục đích đó, và bổn phận phải làm để đạt được mục đích của cuộc đời. Trong bài đọc I, ngôn sứ Isaiah nhìn thấy rõ viễn cảnh hòa bình của Jerusalem sau những ngày lưu đày cơ khổ. Đây cũng là mục đích người tín hữu hướng tới khi phải làm việc vất vả, chịu đựng bao nhiêu gian khổ trong thế gian là để đạt tới và sống trong cảnh thái bình của Jerusalem trên trời. Trong bài đọc II, thánh Phaolô xác tín Thập Giá Đức Kitô là dấu hiệu bảo đảm cho niềm tin vào hạnh phúc Thiên Đàng. Niềm xác tín này phải in sâu tâm hồn của mọi tín hữu để họ đừng bị lung lay bởi bất cứ học thuyết nào hay bất cứ những cám dỗ nào của thế gian. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu sai 72 môn đệ đi rao giảng Tin Mừng và căn dặn các ông tập trung vào một điều chính yếu là làm cho triều đại của Thiên Chúa mau tới. Bổn phận của người tín hữu phải luôn nhớ sứ vụ của mình là rao giảng Tin Mừng để đem mọi người về cho Thiên Chúa, chứ không phải cho bất kỳ một sứ vụ nào khác.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Mục đích của cuộc đời: Viễn cảnh thái bình của Jerusalem.

1.1/ Jerusalem sẽ được phục hồi: Jerusalem là trọng tâm đời sống của con cái Israel, vì đây là Đền Thờ của Thiên Chúa cư ngụ giữa họ. Sau năm 587 BC, Đền Thờ bị phá hủy tan tành, thành Sion và các thành lũy chung quanh cũng bị triệt hạ hoàn toàn, và dân chúng bị đem đi lưu đày tại Babylon. Đối với những người không có đức tin, năm đó là năm chấm dứt niềm tin của con cái Israel vào Thiên Chúa, vì còn đâu Đền Thờ cho Thiên Chúa ngự. Nhưng đối với các ngôn sứ, Jerusalem sẽ được phục hồi và sẽ trở thành trung tâm mà mọi dân mọi nước hướng về. Sau cảnh thương khóc và gian khổ là sung mãn vinh quang mà Thiên Chúa dành cho những ai tin tưởng nơi Ngài. Chương 66 của Sách Isaiah nói lên vinh quang của Jerusalem sẽ được hưởng sau thời kỳ lưu đày: “Hãy vui mừng với Jerusalem, hãy vì Thành Đô mà hoan hỷ, hỡi tất cả những người yêu mến Thành Đô! Hãy cùng Jerusalem khấp khởi mừng, hỡi tất cả những người đã than khóc Thành Đô, để được Thành Đô cho hưởng trọn nguồn an ủi, được thoả thích nếm mùi sung mãn vinh quang, như trẻ thơ bú no bầu sữa mẹ.”

1.2/ Đức Chúa sẽ yêu quí Jerusalem: Tác giả diễn tả sự yêu quí này bằng những hình ảnh khác nhau: Thiên Chúa sẽ tuôn đổ muôn hồng ân xuống trên Jerusalem cho dân Người “tựa dòng sông cả, và Ta khiến của cải chư dân chảy về tràn lan như thác vỡ bờ. Người sẽ an ủi vỗ về dân Người như người mẹ săn sóc con thơ: “Các ngươi sẽ được nuôi bằng sữa mẹ, được bồng ẵm bên hông, nâng niu trên đầu gối.”

Hình ảnh Jerusalem của ngôn sứ Isaiah diễn tả ở đây không chỉ giới hạn Jerusalem sau thời lưu đày, vì Jerusalem này cũng bị quân đội Roma phá bình địa vào năm 70 AD. Người tín hữu trông cậy vào thành Jerusalem trên trời, nơi không một sức mạnh nào có thể phá nổi.

2/ Bài đọc II: Niềm xác tín của người môn đệ: “Tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô.”

2.1/ Làm sao để có bình an?

(1) Thập giá Đức Giêsu Kitô là niềm hãnh diện của người tín hữu: Đây là bốn câu cuối cùng của Thư Galat, và thánh Phaolô muốn tổng kết những gì Ngài đã nói với các tín hữu trong toàn Thư. Người tín hữu không được tìm sự hãnh diện nơi bất cứ điều gì thế gian dâng tặng như: uy quyền, danh vọng, tiền của, hưởng thụ… Niềm hãnh diện của người tín hữu là ở nơi Thập Giá của Đức Kitô, vì nhờ cây Thập Giá này mà họ được rửa sạch tội lỗi và được giao hòa với Thiên Chúa. Thánh Phaolô tuyên xưng: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta! Nhờ thập giá Người, thế gian đã bị đóng đinh vào thập giá đối với tôi, và tôi đối với thế gian.”

(2) Qui tắc để có bình an: Đối với các Kitô hữu, không phải hệ tại ở việc cắt bì, cũng chẳng phải ở việc giữ Luật, nhưng là ở chỗ trở nên một tạo vật mới: theo sự hướng dẫn của Thánh Thần để hoàn toàn sống cho Đức Kitô. Thánh Phaolô dạy: “Quả thật, cắt bì hay không cắt bì chẳng là gì cả, điều quan trọng là trở nên một thụ tạo mới. Chúc tất cả những ai sống theo quy tắc ấy, và chúc Israel của Thiên Chúa được hưởng bình an và lòng thương xót của Người.”

Bình an này có liên kết mật thiết với niềm tin của người tín hữu vào Đức Kitô: một khi đã biết Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa, người tín hữu không còn lo lắng về tội lỗi và về sự chết nữa. Họ biết nếu họ tin và tuân giữ những gì Đức Kitô dạy bảo, họ sẽ được sống đời đời với Thiên Chúa. Chính sự xác tín này làm cho họ được bình an trong tâm hồn.

2.2/ Tôi mang trên mình tôi những dấu tích của Đức Giêsu.

Trong cuộc đời, người tín hữu phải đương đầu với biết bao nhiêu những lạc thuyết của thế gian và các tôn giáo khác nhau. Một khi đã biết rõ ràng Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa, người tín hữu đừng để cho bất cứ người nào làm lung lay niềm tin của mình, đừng để cho bất cứ sự gì lôi cuốn mình khỏi Thập Giá của Đức Kitô, và đừng để cho những dấu tích của Đức Kitô in trên thân thể bị xóa nhòa. Những “dấu tích” thánh Phaolô nói ở đây có thể là “5 dấu thánh” mà thánh Phanxicô Khó Khăn hay Cha Piô được chịu; cũng có thể là những đau khổ để lại trên thân xác sau khi đã trải qua những gian khổ để làm chứng cho Đức Kitô; hay có thể hiểu một cách thiêng liêng: những chứng tích mà bí-tích Rửa Tội để lại trong linh hồn các tín hữu.

3/ Phúc Âm: Bổn phận của môn đệ là loan báo: “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần các ông.”

3.1/ Khác biệt về văn bản: Theo Lucas, Chúa Giêsu không chỉ chọn 12 tông đồ, nhưng còn nhiều môn đệ khác, để huấn luyện và sai đi rao giảng Tin Mừng. Trong Lucas, có hai lần sai đi: Lần thứ nhất, Chúa Giêsu sai 12 tông đồ (Lk 9:1-6; Mt 10:1, 7-16; Mk 6:7-13). Lần thứ hai, chỉ có trong Lucas, theo trình thuật hôm nay: “Chúa chỉ định bảy mươi hai người khác, và sai các ông cứ từng hai người một đi trước, vào tất cả các thành, các nơi mà chính Người sẽ đến.”

70 hay 72 môn đệ? Theo Bruce Metzger, sự khác biệt của các văn bản cổ xưa có thể nói là đồng đều. Theo bản Alexandria (A) và các bản của nhóm Tây Phương (gồm hầu hết các bản của Latin cũ và Sinaitic Syriac) cho là 72 môn đệ. Các bản Alexandrian khác (Sinaiticus, L, Delta) cùng với hai bản f 1f 13 cho là 70 môn đệ. Vì thế, khó mà xác định con số nào chính xác. Nhiều học giả còn đi xa hơn trong việc phiên dịch ý nghĩa của con số 70 (dựa trên Exo 24:1; Num 11:16) hay 72 (dựa trên truyền thuyết 72 người phiên dịch của Bản Bảy Mươi hay 72 quốc gia trong Gen 10). Tất cả những phiên dịch này chỉ có tính cách võ đoán. Metzger tuy chọn con số 72, nhưng để trong ngoặc cho mọi người biết là có sự tranh luận về con số này.

3.2/ Môn đệ là sứ giả mang Tin Mừng.

(1) Phải ý thức sứ vụ cuả mình: Chúa Giêsu biết những nguy hiểm người môn đệ phải đương đầu khi Ngài nói với các ông: “Này Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói.” Hai điều Ngài muốn đề phòng cho các ông:

– “Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép”: Đây là những thứ ngăn cản việc rao giảng Tin Mừng. Lo lắng quá nhiều về phương diện sinh sống sẽ ngăn cản các ông dành mọi cố gắng cho việc rao giảng Tin Mừng.

– “Cũng đừng chào hỏi ai dọc đường”: Chúa Giêsu không dạy các môn đệ bất lịch sự hay sống cách biệt. Ngài chỉ muốn các môn đệ biết tính khẩn cấp của việc rao giảng Tin Mừng để các ông đừng trò chuyện vô ích dọc đường, làm mất thời gian rao giảng (cf. 2 Kgs 4:29).

(2) Chấp nhận Tin Mừng là điều kiện để có bình an: Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ: “Vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói: “Bình an cho nhà này!”” Điều này chứng tỏ Tin Mừng cứu độ được trao cách nhưng không cho mọi người. Theo Lucas, sự bình an này được liên kết với ơn cứu độ mà Đức Kitô mang đến cho mọi người (cf. 1:79, 2:14-29, 7:50, 8:48, 12:51, 19:38). Chấp nhận Tin Mừng là có bình an: “Nếu ở đó, có ai đáng hưởng bình an, thì bình an của anh em sẽ ở lại với người ấy; bằng không thì bình an đó sẽ trở lại với anh em.” Điều Chúa Giêsu muốn ám chỉ ở đây là sự bình an trong các môn đệ có năng lực làm cho người khác cũng cảm thấy được bình an.

3.3/ Môn đệ là sứ giả của Nước Trời.

(1) Đừng tìm kiếm những sự thế gian: Nhiều người nói “nếu không đem theo tiền bạc và bao bị thì lấy gì mà ăn.” Nói như thế là khinh thường sự quan phòng của Thiên Chúa. Ngài coi các môn đệ là những người làm cho Ngài, và “thợ làm đáng được trả công đời này” (1 Tim 5:18; cf. 1 Cor 9:7-14). Tuy nhiên, Chúa Giêsu cũng nhấn mạnh: “người ta cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó.” Người rao giảng không được đòi hỏi, họ phải có khả năng ăn thức ăn của địa phương dâng tặng. Họ cũng không thể sống theo luật kosher của Do-thái nữa. Người môn đệ cũng “đừng đi hết nhà nọ đến nhà kia” để tìm lợi nhuận vật chất hay chỗ ăn ở sung sướng hơn.

(2) Làm cho triều đại Thiên Chúa mau đến: Chúa Giêsu nhắc lại bổn phận chính của người môn đệ: “Hãy chữa những người đau yếu trong thành, và nói với họ: “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần các ông.”” Triều đại của Thiên Chúa đã đến với sự xuất hiện của Đức Kitô và các môn đệ loan báo Tin Mừng này đến cho mọi người.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Mục đích của cuộc đời chúng ta là hướng tới Jerusalem trên trời, nơi Thiên Chúa sẽ lau khô mọi giòng lệ, đau khổ và chết chóc sẽ không còn, và chúng ta sống hạnh phúc bên Ngài muôn đời.

– Để đạt được mục đích đó, chúng ta phải tin tưởng vào Đức Kitô. Ngài đến để xóa tội lỗi cho chúng ta và giao hòa chúng ta với Thiên Chúa. Chúng ta cần tuân giữ những dạy dỗ của Ngài.

– Sứ vụ của chúng ta ở đời này là lo sao cho mình và mọi người được hưởng ơn cứu độ của Thiên Chúa. Chúng ta đừng để mình bị lôi cuốn vào những thú vui tạm bợ đời này.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

****************