Chúa Nhật (11-07-2021) – Trang suy niệm

10/07/2021

Lời Chúa Hôm Nay

Chúa Nhật Tuần XV Mùa Thường Niên Năm B

BÀI ĐỌC I: Am 7, 12-15

“Hãy đi nói tiên tri cho dân Ta”.

Trích sách Tiên tri Amos.

Trong những ngày ấy, Amasia (vị tư tế ở Bêthel) nói cùng Amos rằng: “Hỡi tiên tri, người hãy trốn sang đất Giuđa, sinh sống và nói tiên tri ở đó. Chớ tiếp tục nói tiên tri ở Bêthel, vì đó là thánh điện của vua và là đền thờ của vương quốc”. Amos trả lời cùng Amasia rằng: “Tôi không phải là tiên tri, cũng không phải là con của tiên tri, nhưng là đứa chăn bò (và chuyên) đi hái trái sung. Khi tôi đang đi theo đàn chiên, thì Chúa dẫn tôi đi và nói cùng tôi rằng: “Ngươi hãy đi nói tiên tri cho dân Israel của Ta”. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 84, 9ab -10. 11-12. 13-14

Đáp: Lạy Chúa, xin tỏ lòng từ bi Chúa cho chúng con, và ban ơn cứu rỗi cho chúng con (c. 8).

Xướng:

1) Tôi sẽ nghe Chúa là Thiên Chúa của tôi phán bảo điều chi? Chắc hẳn Người sẽ phán bảo về sự bình an. Vâng, ơn cứu độ Chúa gần đến cho những ai tôn sợ Chúa, để vinh quang Chúa ngự trị trong đất nước chúng tôi. – Đáp.

2) Lòng nhân hậu và trung thành gặp gỡ nhau, đức công minh và sự bình an hôn nhau âu yếm. Tự mặt đất, đức trung thành sẽ nở ra, và đức công minh tự trời nhìn xuống. – Đáp.

3) Vâng, Chúa sẽ ban cho mọi điều thiện hảo, và đất nước chúng tôi sẽ sinh bông trái, đức công minh sẽ đi trước thiên nhan Chúa, và ơn cứu độ theo sau lốt bước của Người. – Đáp.

BÀI ĐỌC II: Ep 1, 3-10 hoặc 3-14

“Ngài đã chọn chúng ta trong Người trước khi tạo dựng thế gian”.

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.

Chúc tụng Thiên Chúa là Cha Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Đấng đã chúc lành cho chúng ta bằng mọi phúc lành thiêng liêng trên trời, trong Đức Kitô. Như Ngài đã chọn chúng ta trong Người trước khi tạo dựng thế gian, để chúng ta được nên thánh thiện và tinh tuyền trước mặt Ngài trong tình yêu thương.

Chiếu theo thánh ý Ngài, Ngài đã tiền định cho ta được phúc làm con nhờ Đức Giêsu Kitô, để chúng ta ca tụng vinh quang ân sủng của Ngài mà Ngài đã ban cho chúng ta được ơn cứu chuộc nhờ máu Người, được ơn tha tội theo sự phong phú của ân sủng Ngài. Ân sủng này, Ngài đã đổ tràn đầy trên chúng ta với tất cả sự khôn ngoan thượng trí, khiến chúng ta được biết mầu nhiệm ý định của Ngài, theo ý Ngài đã định về Người, để kiện toàn trong thời gian viên mãn, là thâu hồi vạn vật trên trời dưới đất trong Đức Kitô.

Cũng trong Người mà chúng tôi được kêu gọi làm thừa tự, được tiền định theo ý định của Ngài là Đấng tác thành mọi sự theo thánh ý Ngài, để chúng tôi trở thành lời ca vinh quang của Ngài, chúng tôi là những kẻ trông cậy vào Đức Kitô. Trong Người, cả anh em nữa, sau khi anh em đã nghe lời chân thật là Tin Mừng cứu rỗi anh em, anh em đã tin và được ghi dấu Thánh Thần, như đã hứa. Người là bảo chứng phần gia nghiệp của chúng ta, để chúng ta được ơn cứu chuộc, và được ca ngợi vinh quang Ngài. Đó là lời Chúa.

ALLELUIA: Ga 1, 14 và 12b

Alleluia, alleluia! – Ngôi Lời đã làm người và đã ở giữa chúng ta. Những ai tiếp rước Người, thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa. – Alleluia. 

PHÚC ÂM: Mc 6, 7-13

“Người bắt đầu sai các ông đi”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu gọi mười hai tông đồ và sai từng hai người đi, Người ban cho các ông có quyền trên các thần ô uế. Và Người truyền các ông đi đường, đừng mang gì, ngoài cây gậy, không mang bị mang bánh, không mang tiền trong túi, nhưng chân đi dép, và đừng mặc hai áo. Người lại bảo: “Đến đâu, các con vào nhà nào, thì ở lại đó cho đến khi ra đi. Ai không đón tiếp các con, cũng không nghe lời các con, thì hãy ra khỏi đó, phủi bụi chân để làm chứng tố cáo họ”. Các ông ra đi rao giảng sự thống hối. Các ông trừ nhiều quỷ, xức dầu chữa lành nhiều bệnh nhân. Đó là lời Chúa.

(thanhlinh.net)

++++++++++++++++++

11/07/2021 – CHÚA NHẬT TUẦN 15 TN – B

Mc 6,7-13

HÀNH TRANG ĐƠN GIẢN

Người chỉ thị cho các ông không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền dắt lưng; được đi dép, nhưng không được mặc hai áo. (Mc 6,8-9)

Suy niệm: Chúa Giê-su sai Nhóm Mười Hai đi rao giảng và chỉ thị cho các ông “không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy và đôi dép”. Phải bỏ lại đàng sau không chỉ những hành trang lỉnh kỉnh, mà cả những vật dụng hết sức cơ bản và thiết yếu cho cuộc sống cũng như cho hành trình sứ mạng. Chúa muốn dạy các tông đồ phải hoàn toàn tin tưởng, phó thác vào Chúa, chứ không cậy dựa vào những phương tiện của con người. Một lý do khác, đó là tính khẩn trương, cấp bách của sứ mạng: phải lên đường rao giảng ngay chứ không đợi đến lúc có đủ điều kiện, phương tiện mới loan báo Tin Mừng.

Mời Bạn: Quả thực, các phương tiện kỹ thuật giúp ích nhiều cho công cuộc loan báo Tin Mừng. Tuy nhiên, người tông đồ dễ rơi vào cạm bẫy ngọt ngào là giản lược việc loan báo thành việc phô diễn kỹ thuật hoặc trì hoãn các kế hoạch sứ mạng với lý do thiếu thốn các phương tiện. Là những ‘môn đệ thừa sai’, bạn được mời gọi đặt hết niềm tin tưởng vào Chúa và rao giảng Tin Mừng lúc thuận cũng như lúc nghịch.

Sống Lời Chúa: Tôi tập phân định dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần để sử dụng những phương tiện giúp cho việc loan báo Tin Mừng và cũng sẵn sàng từ bỏ chúng nếu chúng kềnh càng ngáng trở sứ mạng.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, hành trang con mang theo trên đường sứ mạng là chính Chúa. Xin giúp con giữ tâm hồn đơn sơ, thanh thoát và luôn vững tin vào Chúa để loan báo Tin Mừng mọi lúc, mọi nơi.

(5 Phút Lời Chúa)

++++++++++++++++++

Suy niệm và cầu nguyện

Suy niệm:
Ðức Giêsu là người làm nên Nhóm Mười Hai.
Sau một thời gian ở với Ngài (x. Mc 3,14),
họ đã được Ngài sai đi rao giảng.
Người được sai đi
phải là người có đời sống gần gũi thiết thân với Chúa.
Ðức Giêsu sai họ lên đường.
Ngài trao cho các ông những quyền năng Ngài có:
quyền rao giảng, quyền chữa bệnh, quyền trừ quỷ.
Ðó là hành trang lên đường của các ông.
Mọi hành trang khác chỉ là phụ thuộc:
một chiếc áo đang mặc,
một cây gậy và đôi dép khi đi đường.
Ðức Giêsu cấm các ông không được mang theo
lương thực, bao bị, tiền bạc…
Không lương thực đi đường nên có thể bị đói.
Không bao bị nên không thể để dành.
Không tiền bạc nên không thể mua sắm.
Ngài muốn các ông hoàn toàn nương tựa
vào lòng tốt của Thiên Chúa và của con người.
Ra đi mà không có một chút bảo đảm.

Các môn đệ đã đi từ nơi nọ đến nơi kia,
lê gót qua các làng mạc và thành phố.
Họ không đóng đô ở một nơi, dù gặp thành công,
vì họ nhớ lời của Thầy:
“Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh,
để Thầy còn rao giảng ở đó nữa” (x. Mc 1,38)
Tính cơ động là đặc tính thiết yếu của người tông đồ.
Sẵn sàng đến và cũng sẵn sàng đi.

Các môn đệ loan báo về Nước Thiên Chúa đang đến.
Ðó là một tin vui, nhưng đòi con người hoán cải.
Hoán cải là điều chẳng ai ưa.
Người tông đồ cần can đảm nói điều phải nói.
Không làm nhẹ đi những đòi buộc của Tin Mừng,
không bóp méo Tin Mừng để tìm thành công cá nhân,
cũng không mỵ dân để vuốt ve dư luận.
Người tông đồ phải chấp nhận được tiếp đón
một cách nồng hậu hay lạnh nhạt.
Họ chỉ là những người phục vụ cho Tin Mừng.
Chúng ta cần cảm nghiệm niềm vui của các môn đệ.
Những người đánh cá nay trở thành nhà rao giảng.
Những người ít học, bình dân, nay trừ quỷ và chữa bệnh.
Họ đem đến cho con người niềm vui,
sự giải phóng toàn vẹn cả hồn lẫn xác.

Hôm nay Ðức Giêsu vẫn sai ta đến trong thế giới.
Ði từng hai người hay từng nhóm để nâng đỡ nhau.
Chúng ta có thể mang theo nhiều đồ trang bị hơn xưa,
nhưng không vì thế mà bỏ rơi cậy dựa vào Chúa.
Thế giới hôm nay vẫn có nhiều bệnh tật:
bệnh tuyệt vọng chán chường, bệnh hoài nghi khép kín…
Ước gì chúng ta chữa lành những nỗi đau hôm nay.

Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin sai chúng con lên đường
nhẹ nhàng và thanh thoát,
không chút cậy dựa vào khả năng bản thân
hay vào những phương tiện trần thế.

Xin cho chúng con làm được những gì Chúa đã làm:
rao giảng Tin Mừng, trừ quỷ,
chữa lành những người ốm đau.

Xin cho chúng con biết chia sẻ Tin Mừng
với niềm vui của người tìm được viên ngọc quý,
biết nói về Ngài như nói về một người bạn thân.

Xin ban cho chúng con khả năng
đẩy lui bóng tối của sự dữ, bất công và sa đọa.

Xin giúp chúng con lau khô những giọt lệ
của bao người đau khổ thể xác tinh thần.

Lạy Chúa Giêsu,
thế giới thật bao la
mà vòng tay chúng con quá nhỏ.
Xin dạy chúng con biết nắm lấy tay nhau
mà tin tưởng lên đường,
nhẹ nhàng và thanh thoát.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

(phutcaunguyen.net)

++++++++++++++++++

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

11 THÁNG BẢY

Con Đường Tiến Tới Thành Toàn

Sự quan phòng bao trùm một cách đặc biệt những tạo vật được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa và giống như Ngài – tức con người. Con người nhận được “sự tự trị của những hữu thể thụ tạo” trong ý nghĩa đầy đủ nhất theo diễn tả của Công Đồng Vatican II (MV 36). Nhưng không chỉ con người mà thôi – vì còn phải kể đến các tạo vật có bản tính tinh thần thuần túy nữa. Nhưng chúng ta sẽ đề cập đến vấn đề này sau – vấn đề liên quan đến thế giới vô hình.

Trong thế giới hữu hình, đối tượng đặc biệt của sự quan phòng thần linh là con người. Theo ngôn ngữ của Công Đồng Vatican II, “con người là tạo vật duy nhất trong thế giới được Thiên Chúa yêu thương vì chính nó” (MV 24). Vì thế, “con người không thể hoàn thành chính mình nếu không chân thành trao hiến chính mình” (MV 24).

– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –

Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác

LIFT UP YOUR HEARTS

Daily Meditations by Pope John Paul II

+++++++++++++++++

Lời Chúa Trong Gia Đình

NGÀY 11/7

Chúa Nhật XV Thường Niên

Am 7, 12-15; Ep 1, 3-14; Mc 6, 7-13.

LỜI SUY NIỆM: Người gọi Nhóm Mười Hai lại và bắt đầu sai đi từng hai người một. Người ban cho các ông quyền trừ quỷ.

          Tiếp nối sứ vụ loan báo Tin Mừng là bổn phận của tất cả mọi Kitô hữu. Nên mỗi người cần phải ở thật gần Chúa, nghe Lời Người như Nhóm Mười Hai xưa kia, để được lớn lên trong đức tin với ân sủng và sức mạnh của Chúa Thánh Thần.

          Lạy Chúa Giêsu, xin cho mọi thành viên trong gia đình chúng con được ơn ban của Chúa để trở nên chứng nhân Tin Mừng nơi chốn chúng con đang sống, đang học tập và đang làm việc. 

Mạnh Phương

+++++++++++++++++

Gương Thánh Nhân

Ngày 11-07: Thánh BÊNÊDITÔ

Tu Viện Trưởng (480 – 547)

Thánh Bênêditô, tổ phụ các dòng tu bên tây phương, sinh khoảng năm 480 tại Nursia. Hai nguồn chính về cuộc đời thánh Bênêđitô là cuốn Dialogne (đối thoại) của thánh Grêgôriô Cả và cuốn qui luật của chính thánh nhân. Cuốn Dialogne thâu thập các phép lạ được coi là do thánh nhân thực hiện. Giá trị của các phép lạ này tùy theo thẩm quan và theo cách thức phê phán của mỗi người, nhưng cung ứng cho chúng ta những sự kiện quí giá. Cha mẹ Ngài có lẽ thuộc vào hàng quí tộc ở miền quê. Ngài lớn lên tại gia đình. Năm 14 tuổi, Ngài được gửi tới Roma để bổ túc việc học hành. Các độc giả ngày nay có thể ngạc nhiên khi thấy có chị vú nuôi Cyrilla của Ngài đi theo.

Sự suy đồi của Roma làm cho người thiếu niên nhà quê này khiếp sợ. Dầu có vú nuôi đi theo, thánh nhân trốn khỏi kinh thành hai hay ba năm sau đó. Ngài biết rằng: Thiên Chúa muốn gọi mình sống đời tu trì. Cùng với vài người đạo đức, Ngài lưu lại ít lâu ở Enfide, cách Roma 35 dặm. Sau đó một mình lên đường, Ngài tìm sống đời ẩn dật tu trì. Tại Subianô, Ngài gặp một ẩn sĩ tên là Rômanô, vị ẩn sĩ hỏi: – Bạn ơi, bạn đi đâu vậy ?

– Tôi trốn thế gian và đi tìm cô tịch.

Rômanô khen ngợi ý định đạo đức của thánh nhân, khuyên Ngài hãy kiên trì và ban cho những lời khuyên nhủ quí báu. Thầy cho Ngài một bộ áo nhà tu, là một tấm da cừu và chỉ cho Ngài một cái hang. Nhận bộ áo nhà tu, Bênêditô lần mò tới cái hang ở giữa triền dốc Montê Calvô. Ngài đã giam mình ở đó 3 năm, thinh lặng cầu nguyện và ăn chay hãm mình. Thực phẩm Ngài dùng là rễ cây và ít mẩu bánh thầy Romanô gởi tới bằng một cái thúng cột giây thả xuống.

Quỉ dữ tức giận vì các nhân đức của thầy dòng trẻ tuổi. Chúng dùng nhiều chước cám dỗ để lôi kéo Ngài bỏ sa mạc trở về thế gian. Ngài thường làm dấu thánh giá để xua đuổi các cơn cám dỗ. Một lần kia bị cám dỗ nghịch với đức trong sạch, Ngài liền cởi áo và lăn mình vào bụi gai đến chảy máu ra. Từ đó tư tưởng xấu hoàn toàn bị đè nén và không còn khuấy khuất Ngài nữa.

Tuy nhiên, các mục đồng đã khám phá ra Ngài và danh thơm nhân đức của Ngài đã lan rộng. Một tu viện gần đó mời Ngài về làm bề trên. Nhưng khi muốn chỉnh đốn những lạm dụng và muốn áp dụng một qui luật, Ngài đã bị một số thầy dòng bực tức khó chịu. Họ còn đi đến quyết định hãm hại người khác nữa. Đến bữa ăn thánh Bênêditô làm dấu thánh giá trên chén rượu như thói quen, chén liền vỡ tan. Ngài nói với họ: – Xin Chúa tha thứ cho các anh. Tại sao các anh làm như vậy ? Tôi đã chẳng nói với các anh rằng: chúng ta không thể sống chung được với nhau là gì ? Vậy các anh hãy đi tìm một bề trên khác hợp ý các anh hơn.

Rồi thánh nhân tìm lại cô tịch để sống thân mật một mình với Thiên Chúa. Dầu vậy danh tiếng của thánh nhân lan rộng tới Roma. Ngài không thể sống cô độc một mình được nữa. Nhiều người tìm đến xin làm môn đệ Ngài. Tiếp nhận họ, Ngài đã phải thiết lập 12 tu viện nhỏ. Có những gia đình quí phái mang con đến gởi thánh nhân. Chúng ta phải kể đến trong số này hai thiếu niên Placidê và Maurô là những người sau này đã trở nên các vị thánh.

Nhân đức các phép lạ của thày dòng cao cả này đã gây nên nỗi ghen tức và cả đến việc vu oan nữa. Thánh Grêgôriô cho chúng ta biết rằng: vì bị một linh mục ghen ghét xua đuổi, Bênêditô phải dời bỏ Subianô. Thi sĩ Marcô lại nói rằng: Ngài đã được Chúa gọi đến Cassinô. Dầu sự thực có thế nào đi nữa, thì vào khoảng giữa năm 520 và 530, thánh Bênêditô cùng với vài người bạn đã rời bỏ Subiacô tới Cassinô. Trên núi Cassinô có một ngôi đền cổ và một cánh rừng dâng kính thần Apollô. Ngài rao giảng Tin Mừng cho dân cư vùng này và phá rừng khai hoang. Sau khi triệt hạ ngôi đền cổ, Ngài đã thiết lập hai nhà nguyện kính thánh Gioan tẩy giả và thánh Martinô. Đó là nguồn gốc của tu viện nổi danh Montê Cassinô.

Thánh Bênêditô đã sống tại đây cho tới hết đời. Cũng tại đây, Ngài đã trước tác một bộ luật dòng ảnh hưởng rất lớn trong đời sống tu trì của Giáo hội. Theo luật sống này, một ngày của tu sĩ được phân phối cho ba hoạt động chính là cầu nguyện, học hành và lao động.

Mọi hoạt động của thánh nhân đều nhằm thi ân. Người ta còn kể lại nhiều phép lạ Ngài đã thực hiện. Chẳng hạn như Ngài chữa cho nhiều người phong hủi, trừ quỉ và làm cho nhiều người chết sống lại, Ngài còn được ơn thấu suốt bí mật tâm hồn và bí mật về tương lai. Chúng ta ghi lại giai thoại về cuộc tiếp xúc giữa thánh nhân với vua Totila. Nhà vua muốn kiểm chứng tin đồn rằng: thánh nhân biết được những điều bí mật. Ông cho biết mình sẽ đến thăm thánh nhân. Nhưng thay vì đích thân đến, ông lại sai một viên chức tên là Riggon, ăn mặc như nhà vua và có đoàn tùy tùng đông đảo. Thánh nhân vẫn ngồi khi thấy ông tới và nói với ông: – Con ơi ! Cởi áo ra đi. Nó không phải là của con,

Đến luợt Tôtila, ông đến thăm người của Chúa, ông quỳ mọp dưới chân thánh nhân, nhưng đã ngạc nhiên khi nghe Ngài nói: – Hãy giảm bớt những bất công đi, bởi vì ông đã gây quá nhiều sự dữ. Ong sẽ tiến vào Roma, cai trị trong chín năm. Năm thứ 10 ông sẽ từ trần.

Lời tiên báo của thánh nhân đã được thể hiện đầy đủ. Ngài còn cho biết rằng tu viện Monte Cassinô sẽ bị tàn phá. Lời tiên báo này cũng đã xảy ra. Năm 590, tu viện bị người Combarde cướp phá. Năm 1943, bọn đồng minh tàn phá dữ dội tu viện.

Thánh nhân tiếp tục làm nhiều phép lạ, do lòng bác ái thúc đẩy. Vào cuối đời, Ngài được thị kiến, thấy địa cầu chói sáng và linh hồn của thánh Germain được các thiên thần đưa về trời.

Ngài cũng đã thấy linh hồn của em mình là thánh nữ Scolastica về trời như vậy. Bốn mươi ngày sau cái chết của người em gái thánh nhân cho biết về cái chết của em mình. Sau khi đào mộ cho mình, thứ bảy ngày 21 tháng 3 năm 543 Ngài từ trần như lời loan báo trước.

(daminhvn.net)

+++++++++++++++++

11 Tháng Bảy

Một Quy Luật Ðơn Sơ

Hôm nay Giáo hội tôn kính nhớ thánh Bênêđictô, bổn mạng của toàn thể Châu Âu.

Vào cuối thế kỷ thứ 5, đế quốc La Mã bị lung lay vì cuộc xâm lăng của những người mà thế giới Kitô tại Âu Châu gọi là dân man di.

Một người thanh niên thuộc dòng dõi quý tộc tại miền trung nước Italia muốn trốn thoát khỏi cuộc loạn nhiễu nhương ấy, cho nên đã leo lên ngọn núi Subiaco để dìm mình trong cuộc sống ẩn dật. Chính giữa nơi thanh tịnh thoát tục ấy mà chàng đã nghe được tiếng Chúa phán trong tâm hồn: có nhiều giá trị của đế quốc La Mã cần phải được bảo tồn. Càng ra sức làm việc để đem lại sự thống nhất và văn minh cho các dân xâm lược ấy.

Lấy những thôi thúc ấy làm lý tưởng cho cuộc sống, Bênêđictô, người thanh niên quý tộc ấy đã quy tụ xung quanh mình một số người đồng chí hướng và thiết lập tu viện đầu tiên tại Montecassino.

Chàng đã nói với Mauro, Placido và những người môn đệ đầu tiên như sau: “Chúng ta giam mình trong bốn bức tường kiên cố không phải là để xa cách những người khác, nhưng là để tiếp nhận từ trên cao ánh sáng của Chúa và thông đạt cho thế giới, để học hỏi một cách sâu xa hơn nền văn minh vừa Kitô giáo vừa nhân bản và làm cho nền văn minh ấy chiếu sáng giữa những người anh em của chúng ta. Tôn chỉ của chúng ta là thập giá và cái cày, bởi vì một dân tộc chỉ có thể phát sinh và lớn lên với sự cầu nguyện, nghiên cứu học hỏi và lao động”.

Những điểm chính trong quy luật của chúng ta là: Hát bảy lần một ngày để ca tụng Chúa và làm cho màn đêm tăm tối cũng được ấm cúng với lời ca tụng này. Thứ đến, mỗi ngày bỏ ra nhiều giờ để lao động ngoài đồng áng, học hỏi những sự trên trời và dịch lại những tác phẩm cổ điển. Sau cùng, phục vụ nhau như những người anh em của nhau, nhất là tại bàn ăn, là nơi vừa nghe đọc sách vừa thưởng thức chút rượu.

Vị thánh đã đưa ra chút quy luật đơn sơ trên đây đã được chọn làm bổn mạng của toàn thể Âu Châu, bởi vì nền văn minh của Kitô giáo hiện nay, nền văn minh nhân bản của thế giới ngày nay đã phát sinh từ chính lý tưởng cao quý ấy: sống chung trong yêu thương để ca tụng Chúa và phục vụ con người.

Giữa cơn khủng hoảng của đời sống tu trì như người ta đang chứng kiến hiện nay tại hầu hết các nước Tây phương, người ta lại thấy một dấu hiệu đầy hy vọng: các tu viện sống đời chiêm niệm vẫn tiếp tục thu hút thanh niên thiếu nữ. Giữa một thế giới dư dật, nhưng trống rỗng, hơn bao giờ hết, người ta càng ngày càng cảm thấy có nhu cầu phải cầu nguyện, phải sống kết hợp với Chúa.

Ðời sống tu trì, dù bất cứ dưới hình thức nào đi nữa, cũng không là một lẩn trốn đầy sợ hãi trước thế gian… Người tu sĩ đích thực xa lánh thế gian, chứ không xa lánh con người. Người tu sĩ đích thực xa lánh sự sa đọa của thế gian, để rồi lại kiến tạo một xã hội nhân bản hơn, dễ thở hơn, dễ sống hơn.

Ðó không chỉ là sứ mệnh của người được Chúa chọn cho cuộc sống chiêm niệm và cầu nguyện, mà cũng là sứ mệnh của mọi người Kitô. Người tín hữu Kitô luôn được mời gọi để thoát tục, để đi ngược lại tinh thần của thế tục, để tiêu diệt nơi mình những sức mạnh của sự dữ để ra sức kiến tạo một thế giới đáng sống hơn. Sống giữa thế giới, nhưng không thuộc về thế gian: đó là thế đứng của người Kitô. Ơn gọi và sứ mệnh của họ là kiến tạo Nước Chúa nghĩa là xây dựng những giá trị vĩnh cửu ngay trên chính những cái chóng qua ở đời này.

(Lẽ Sống)

++++++++++++++++++

Lời Chúa Mỗi Ngày

Chúa Nhật 15 – Năm B – Thường Niên

Bài đọc: Amo 7:12-15; Eph 1:2-14; Mk 6:7-13.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Ơn gọi của con người qua Đức Kitô.

             Con người thiển cận thường cho tất cả những gì mình có được là do sức cố gắng và tài năng của mình; nhưng nếu họ chịu suy nghĩ và có cái nhìn bao quát hơn, họ sẽ nhận ra tất cả đều là hồng ân của Thiên Chúa. Khi con người nhìn ra điều đó, con người sẽ biết ơn Thiên Chúa, và sẽ cố gắng làm mọi cách để rao truyền tình yêu của Thiên Chúa, để mọi người đều tin Ngài.

            Các Bài Đọc hôm nay giúp con người nhận ra tất cả những gì họ sở hữu đều là hồng ân của Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, khi bị Amaziah ngăn cản và không cho nói tiên tri tại vương quốc Israel, Amos đã thẳng thắn trả lời: Ông không lựa chọn để trở thành ngôn sứ; nhưng Thiên Chúa đã chọn và sai ông đi để nói những gì Ngài muốn nói. Trong Bài Đọc II, tác giả Thư Ephesô nêu lên tất cả những hồng ân mà Thiên Chúa đã ban cho con người qua Đức Giêsu Kitô. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu lựa chọn Nhóm Mười Hai để huấn luyện, ban quyền, và sai các ông đi để rao giảng Tin Mừng và chữa lành mọi vết thương hồn xác. 

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC: 

1/ Bài đọc I: Thiên Chúa chọn lựa ông Amos và sai đi tuyên sấm.

1.1/ Phản ứng của Amaziah: Tiên-tri Amos sinh ở Tekoa, một làng thuộc vương quốc Judah ở miền Nam; nhưng Thiên Chúa lại sai ông đi thi hành sứ vụ tiên tri tại vương quốc Israel, miền Bắc. Ông sống trong một giai đoạn rất khó khăn của lịch sử Israel (721 BC), vì dân chúng quay lưng lại với Thiên Chúa, để chạy theo các thần ngoại bang; thêm vào đó, các vua quan toa rập nhau để ức hiếp dân nghèo, và tiếng kêu cứu của họ đã vang lên tới Thiên Chúa. Amos không sợ bất cứ một thế lực nào của vua quan, ông can đảm tố cáo những điều họ đã xúc phạm tới Ngài, và tuyên sấm mất nước và lưu đày sẽ xảy ra nếu họ không biết ăn năn trở lại. Đó là lý do tại sao Amaziah khinh thường và xua đuổi ông Amos trong trình thuật hôm nay: “Này thầy ngôn sứ ơi, mau chạy về đất Judah, về đó mà kiếm ăn, về đó mà tuyên sấm! Nhưng ở Bethel này, đừng có hòng nói tiên tri nữa, vì đây là thánh điện của quân vương, đây là đền thờ của vương triều.”           

1.2/ Phản ứng của Amos: Ông Amos trả lời ông Amaziah: “Tôi không phải là ngôn sứ, cũng chẳng phải là người thuộc nhóm ngôn sứ. Tôi chỉ là người chăn nuôi súc vật và chăm sóc cây sung. Chính Đức Chúa đã bắt lấy tôi khi tôi đi theo sau đàn vật, và Đức Chúa đã truyền cho tôi: “Hãy đi tuyên sấm cho Israel dân Ta.”” Hai điều nổi bật Amos muốn đề cập tới ở đây:

            (1) Ông được Thiên Chúa bắt đi khi ông đang làm việc, chứ chính ông không tình nguyện để đi tuyên sấm.

            (2) Ông không lợi dụng danh nghĩa ngôn sứ để kiếm lợi nhuận vật chất như Amaziah buộc tội, vì ông đang có việc làm để sinh sống.

2/ Bài đọc II: Trong Đức Kitô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ.

2.1/ Nhận ra hồng ân của Thiên Chúa: Trong phần đầu của trình thuật hôm nay, thánh Phaolô muốn các tín hữu Ephesô nhận ra tất cả những ơn lành Thiên Chúa đã ban cho họ qua Đức Kitô: “Trong Đức Kitô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người. Theo ý muốn và lòng nhân ái của Người, Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giêsu Kitô, để ta hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời, ân sủng Người ban tặng cho ta trong Thánh Tử yêu dấu.” Đây là một đoạn văn chứa nhiều tư tưởng mặc khải, chúng ta cần suy tư từng chi tiết để hiểu những gì Thiên Chúa đã làm cho con người:

            (1) Cho chúng ta có mặt trong cuộc đời: “Trong Đức Kitô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ.” Thánh Gioan nói rõ hơn: “Tất cả đều nhờ Người mà được tạo thành; không có Người, chẳng có chi được tạo thành” (Jn 1:3).

            (2) Cho chúng ta biết Đức Kitô: Thiên Chúa quan phòng cho con người được gặp gỡ Đức Kitô, cách trực tiếp khi Ngài xuống trần hay cách thiêng liêng qua việc rao giảng Tin Mừng; không những thế, Ngài còn gởi Thánh Thần vào tâm hồn con người để soi sáng cho con người hiểu những gì Đức Kitô nói và thúc đẩy con người tin vào Đức Kitô. Thánh Phaolô xác quyết: “Không ai có thể tin Đức Kitô nếu không do Thánh Thần của Thiên Chúa tác động” (I Cor 12:3).

            (3) Cho chúng ta trở thành nghĩa tử nhờ niềm tin vào Đức Kitô: “Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa” (Jn 1:12).

            (4) Cho chúng ta nhận ra hồng ân và ngợi khen Thiên Chúa: “Để ta hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời, ân sủng Người ban tặng cho ta trong Thánh Tử yêu dấu.”

            (5) Cho chúng ta trở nên tinh tuyền thánh thiện: Với sự rửa sạch của Đức Kitô và sự thánh hóa của Chúa Thánh Thần, con người có thể trở nên tinh tuyền thánh thiện, xứng đáng là những nghĩa tử của Thiên Chúa, những môn đệ giống như Đức Kitô.

            (6) Cho chúng ta sạch khỏi mọi tội lỗi: “Trong Thánh Tử, nhờ máu Thánh Tử đổ ra chúng ta được cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi theo lượng ân sủng rất phong phú của Người.”

            (7) Cho chúng ta thấu hiểu sự khôn ngoan của Thiên Chúa: “Ân sủng này, Thiên Chúa đã rộng ban cho ta cùng với tất cả sự khôn ngoan thông hiểu.” Nếu con người chịu học hỏi Kinh Thánh, họ sẽ không thiếu bất kỳ sự khôn ngoan nào cần thiết cho cuộc đời.

            (8) Cho chúng ta thấu hiểu Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa được thực hiện qua Đức Kitô: “Người cho ta được biết thiên ý nhiệm mầu: thiên ý này là kế hoạch yêu thương Người đã định từ trước trong Đức Kitô. Đó là đưa thời gian tới hồi viên mãn là quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Kitô.”

            Hiểu như thế, tất cả những gì chúng ta có được, đều là hồng ân của Thiên Chúa. Chúng ta không được kiêu hãnh coi những điều tốt lành chúng ta đang sở hữu là của mình, nhưng phải biết sấp mình xuống và cám ơn tình yêu bao la Thiên Chúa đã dành cho chúng ta.

2.2/ Ơn gọi làm ngôn sứ để rao giảng Tin Mừng: Sau khi đã nhận ra tình yêu Thiên Chúa, con người có bổn phận loan truyền tình yêu này cho mọi người. Phaolô không những ý thức được ơn gọi rao giảng Tin Mừng mà Đức Kitô đã trao cho ông, nhưng còn là của mọi tín hữu.

            (1) Của Phaolô: “Cũng trong Đức Kitô, Thiên Chúa là Đấng làm nên mọi sự theo quyết định và ý muốn của Người, đã tiền định cho chúng tôi đây làm cơ nghiệp riêng theo kế hoạch của Người, để chúng tôi là những người đầu tiên đặt hy vọng vào Đức Kitô, chúng tôi ngợi khen vinh quang Người.” Khi Phaolô đã thấu hiểu những điều Thiên Chúa đã làm cho ông qua Đức Kitô, ông dùng cả cuộc đời để ngợi khen Thiên Chúa. Ngay cả việc sai Phaolô đi để rao giảng Tin Mừng cũng bắt nguồn từ Đức Kitô. Ngài sai ông đi để rao giảng Tin Mừng, làm cho mọi người hiểu biết và tin vào Đức Kitô để nhận được những hông ân Thiên Chúa ban qua Đức Kitô.

            (2) Của mọi tín hữu: “Trong Đức Kitô, cả anh em nữa anh em đã được nghe lời chân lý là Tin Mừng cứu độ anh em; vẫn trong Đức Kitô, một khi đã tin, anh em được đóng ấn Thánh Thần, Đấng Thiên Chúa đã hứa. Thánh Thần là bảo chứng phần gia nghiệp của chúng ta, chờ ngày dân riêng của Thiên Chúa được cứu chuộc, để ngợi khen vinh quang Thiên Chúa.” Các tín hữu sau khi đã chịu Phép Rửa cũng có bổn phận phải ra đi rao giảng Tin Mừng, làm cho mọi người nhận biết và tin vào Đức Kitô.

 3/ Phúc Âm: Chúa Giêsu gọi Nhóm Mười Hai lại và bắt đầu sai đi từng hai người một.            

3.1/ Chúa Giêsu sai các Tông-đồ đi rao giảng Tin Mừng: “Người gọi Nhóm Mười Hai lại và bắt đầu sai đi từng hai người một. Người ban cho các ông quyền trừ quỷ. Người chỉ thị cho các ông không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền đồng để giắt lưng; được đi dép, nhưng không được mặc hai áo.” Hai tư tưởng nổi bật trong đoạn văn này:

            (1) Chúa Giêsu gọi, dạy dỗ, ban quyền, và sai các tông-đồ đi rao giảng Tin Mừng, chứ các ông không tình nguyện theo Ngài trước. Khi các môn đệ rao giảng, các ông rao giảng Tin Mừng các ông đã nghe được nơi Đức Kitô, chứ không phải những gì của các ông. Sức mạnh chữa lành và sự khôn ngoan đến từ Thiên Chúa, chứ không phải đến từ các ông.

            (2) Rao giảng Tin Mừng là bổn phận chính yếu các môn đệ phải thi hành, chứ không phải là bất kỳ bổn phận nào khác. Để chu toàn bổn phận này, Chúa Giêsu biết người môn đệ phải sống một cuộc đời đơn giản: càng ít lệ thuộc vào vật chất bao nhiêu càng tốt; vì Ngài biết khi người môn đệ bắt đầu lệ thuộc quá nhiều vào vật chất, người môn đệ sẽ xao lãng bổn phận rao giảng Tin Mừng            

3.2/ Ơn gọi rao giảng Tin Mừng: Hai điều quan trọng các môn đệ cần biết khi rao giảng:

            (1) Khán giả có thể tiếp nhận hay từ chối các sứ giả loan báo Tin Mừng: Chúa Giêsu báo trước cho các môn đệ chuẩn bị điều này, khi Người dặn các ông: “Bất cứ ở đâu, khi anh em đã vào nhà nào, thì cứ ở lại đó cho đến lúc ra đi. Còn nơi nào người ta không đón tiếp và nghe lời anh em, thì khi ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ.”

            Con người được Thiên Chúa ban cho có tự do để nhận ra và tin vào sự thật, Ngài không ép buộc con người phải tin những gì họ không muốn. Các môn đệ cũng thế, họ không thể ép buộc khán giả tin những gì họ không muốn tin. Điều các môn đệ có thể làm được là trình bày sự thật và những lợi ích do việc sống theo sự thật mang lại, với hy vọng con người sẽ nhận ra và tin theo. Nếu họ từ chối không chấp nhận sự thật, các môn đệ cũng đừng buồn, vì có nhiều lý do khiến con người từ chối chấp nhận sự thật, như đã từng xảy ra với khán giả của Chúa Giêsu.

            (2) Mục tiêu của việc rao giảng là “kêu gọi người ta ăn năn sám hối.” Khi người môn đệ rao giảng Tin Mừng, người môn đệ phải giúp khán giả nhận ra tình yêu Thiên Chúa và những lầm lỗi của họ đã quay lưng lại với tình yêu này, để họ ăn năn trở lại với tình thương Thiên Chúa; chứ không phải là lúc giải trí, làm cho con người thư giãn sau những giờ phút làm ăn mệt nhọc, cũng không phải là lúc để người môn đệ quảng cáo sự khôn ngoan hiểu rộng của mình.

            Các quyền trừ được nhiều quỷ, xức dầu cho nhiều người đau ốm, và chữa họ khỏi bệnh là từ Đức Kitô ban cho các môn đệ để khán giả tin vào những lời các ông rao giảng. Hiểu như thế, các việc này chỉ là phương tiện; chứ không bao giờ có thể thay thế việc rao giảng Tin Mừng.

 ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

            – Tất cả những gì chúng ta đang có được là do bởi tình yêu Thiên Chúa. Chúng ta đừng bao giờ kiêu hãnh để khinh thường người khác; nhưng phải biết cảm tạ Thiên Chúa, sống cuộc đời tốt lành thánh thiện, và biết loan truyền Tin Mừng đến mọi người.

            – Rao giảng Tin Mừng là bổn phận quan trọng hàng đầu Đức Kitô trao cho chúng ta là những môn đệ của Ngài. Khi rao giảng Tin Mừng chúng ta loan báo những gì Ngài dạy dỗ chúng ta, và làm sao để muôn dân tin yêu Ngài. 

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

****************