Chúa Nhật (11-08-2019) – Trang suy niệm

10/08/2019

Lời Chúa Hôm Nay

Chúa Nhật Tuần XIX Mùa Thường Niên Năm C

BÀI ĐỌC I: Kn 18, 6-9

“Như Chúa đã làm hại đối thủ thế nào, Chúa cũng đã làm cho chúng tôi được vẻ vang như vậy”.

Trích sách Khôn Ngoan.

Chính đêm ấy, cha ông chúng ta đã biết trước, để biết chắc mình đã tin tưởng vào lời thề nào mà được can đảm. Dân Chúa đã mong đợi sự giải thoát những người công chính và sự tiêu diệt kẻ thù. Vì như Chúa đã làm hại đối thủ thế nào, Chúa cũng kêu gọi để làm cho chúng tôi được vẻ vang như vậy.

Vì những con cái thánh thiện của các tổ phụ tốt lành đã lén lút tế lễ, và đồng tâm thiết lập luật thánh thiện, ấn định rằng những người công chính sẽ đồng hưởng vinh nhục, may rủi đều nhau; như vậy là họ đã xướng lên trước bài ca tụng của các tổ phụ. Đó là lời Chúa. 

ĐÁP CA: Tv 32, 1 và 12. 18-19. 20 và 22

Đáp: Phúc thay dân tộc mà Chúa chọn làm cơ nghiệp riêng mình (c. 12b).

Xướng:

1) Người hiền đức, hãy hân hoan trong Chúa; ca ngợi là việc của những kẻ lòng ngay. Phúc thay quốc gia mà Chúa là chúa tể, dân tộc mà Chúa chọn làm cơ nghiệp riêng mình. – Đáp.

2) Kìa Chúa để mắt coi những kẻ kính sợ Ngài, nhìn xem những ai cậy trông ân sủng của Ngài, để cứu gỡ họ khỏi tay thần chết, và nuôi dưỡng họ trong cảnh cơ hàn. – Đáp.

3) Linh hồn chúng con mong đợi Chúa, chính Ngài là Đấng phù trợ và che chở chúng con. Lạy Chúa, xin đổ lòng từ bi xuống trên chúng con, theo như chúng con tin cậy ở nơi Ngài. – Đáp.

BÀI ĐỌC II: Dt 11, 1-2, 8-19

“Ông mong đợi thành trì có nền móng mà Thiên Chúa là kiến trúc sư và là Đấng sáng lập”.

Trích thư gửi tín hữu Do-thái.

Anh em thân mến, đức tin là cốt yếu những thực tại người ta mong đợi, là bằng chứng điều bí ẩn. Vì nhờ đức tin mà các tiền nhân đã nhận được bằng chứng tốt.

Nhờ đức tin, Abraham đáp lại tiếng Chúa gọi, để ra đi đến xứ ông sẽ được lãnh làm gia nghiệp, và ông ra đi mà không biết mình đi đâu. Nhờ đức tin, ông đến cư ngụ trong đất Chúa hứa, như trong đất khách quê người, sống trong lều trại, cũng như Isaac và Giacóp, những kẻ đồng thừa tự cùng một lời hứa. Vì chưng, ông mong đợi thành trì có nền móng mà Thiên Chúa là kiến trúc sư và là Đấng sáng lập.

Nhờ đức tin mà ngay cả bà Sara son sẻ được sức mang thai, mặc dầu bà đã già, bởi vì bà tin rằng Đấng đã hứa sẽ trung tín giữ lời. Vì thế, do tự một người, mặc dầu người đó như chết rồi, mà có một dòng dõi đông đúc vô số như sao trên trời và như cát bãi biển.

Chính trong đức tin mà tất cả những kẻ ấy đã chết trước khi nhận lãnh điều đã hứa, nhưng được nhìn thấy và đón chào từ đàng xa, đồng thời thú nhận rằng mình là lữ khách trên mặt đất. Những ai nói những lời như thế, chứng tỏ rằng mình đang đi tìm quê hương. Giá như họ còn nhớ đến quê hương dưới đất mà họ đã lìa bỏ, chắc họ có đủ thời giờ trở về. Nhưng hiện giờ họ ước mong một quê hương hoàn hảo hơn, tức là quê trời. Vì thế, Thiên Chúa không ngại để họ gọi mình là Thiên Chúa của họ, vì Người đã dọn sẵn cho họ một thành trì.

Nhờ đức tin, khi bị thử lòng, Abraham đã dâng Isaac. Ông hiến dâng con một mình, ông là người nhận lãnh lời hứa, là người đã được phán bảo lời này: “Chính nơi Isaac mà có một dòng dõi mang tên ngươi”. Vì ông nghĩ rằng Thiên Chúa có quyền làm cho kẻ chết sống lại, do đó, ông đã đón nhận con ông như một hình ảnh. Đó là lời Chúa.

Hoặc bài vắn này: Dt 11, 1-2, 8-12

Anh em thân mến, đức tin là cốt yếu những thực tại người ta mong đợi, là bằng chứng điều bí ẩn. Vì nhờ đức tin mà các tiền nhân đã nhận được bằng chứng tốt.

Nhờ đức tin, Abraham đáp lại tiếng Chúa gọi, để ra đi đến xứ ông sẽ được lãnh làm gia nghiệp, và ông ra đi mà không biết mình đi đâu. Nhờ đức tin, ông đến cư ngụ trong đất Chúa hứa, như trong đất khách quê người, sống trong lều trại, cũng như Isaac và Giacóp, những kẻ đồng thừa tự cùng một lời hứa. Vì chưng, ông mong đợi thành trì có nền móng mà Thiên Chúa là kiến trúc sư và là Đấng sáng lập.

Nhờ đức tin mà ngay cả bà Sara son sẻ được sức mang thai, mặc dầu bà đã già, bởi vì bà tin rằng Đấng đã hứa sẽ trung tín giữ lời. Vì thế, do tự một người, mặc dầu người đó như chết rồi, mà có một dòng dõi đông đúc vô số như sao trên trời và như cát bãi biển. Đó là lời Chúa. 

ALLELUIA: Ga 14, 5

Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống: không ai đến được với Cha mà không qua Thầy”. – Alleluia. 

PHÚC ÂM: Lc 12, 32-48

“Các con hãy sẵn sàng”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. 

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Hỡi đoàn bé nhỏ, các con đừng sợ, vì Cha các con đã vui lòng ban nước trời cho các con. Các con hãy bán những của các con có mà bố thí. Hãy sắm cho các con những túi không hư nát, và kho tàng không hao mòn trên trời, là nơi trộm cướp không lai vãng và mối mọt không làm hư nát. Vì kho tàng các con ở đâu, thì lòng các con cũng ở đó.

“Các con hãy thắt lưng, hãy cầm đèn cháy sáng trong tay, và hãy làm như người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ về gõ cửa, thì mở ngay cho chủ. Phúc cho những đầy tớ nào khi chủ về còn thấy tỉnh thức: Thầy bảo thật các con, chủ sẽ thắt lưng, đặt chúng vào bàn ăn, và đi lại hầu hạ chúng. Nếu canh hai hoặc canh ba, chủ trở về mà gặp thấy như vậy, thì phúc cho các đầy tớ ấy. Các con hãy hiểu biết điều này là nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, ắt sẽ tỉnh thức, không để nó đào ngạch nhà mình. Cho nên các con hãy sẵn sàng: vì giờ nào các con không ngờ, thì Con Người sẽ đến”.

Phêrô thưa Người rằng: “Lạy Thầy, Thầy nói dụ ngôn đó chỉ về chúng con hay về mọi người?” Chúa phán: “Vậy con nghĩ ai là người quản lý trung tín khôn ngoan mà chủ đã đặt coi sóc gia nhân mình, để đến giờ phân phát phần lúa thóc cho họ? Phúc cho đầy tớ đó, khi chủ về, thấy nó đang làm như vậy. Thầy bảo thật các con, chủ sẽ đặt người đó trông coi tất cả gia sản mình. Nhưng nếu đầy tớ ấy nghĩ trong lòng rằng: “Chủ tôi về muộn”, nên đánh đập tớ trai tớ gái, ăn uống say sưa: chủ người đầy tớ ấy sẽ về vào ngày nó không ngờ, vào giờ nó không biết, chủ sẽ loại trừ nó, và bắt nó chung số phận với những kẻ bất trung. Nhưng đầy tớ nào đã biết ý chủ mình mà không chuẩn bị sẵn sàng, và không làm theo ý chủ, thì sẽ bị đòn nhiều. Còn đầy tớ nào không biết ý chủ mình mà làm những sự đáng trừng phạt, thì sẽ bị đòn ít hơn. Vì người ta đã ban cho ai nhiều, thì sẽ đòi lại kẻ ấy nhiều, và đã giao phó cho ai nhiều, thì sẽ đòi kẻ ấy nhiều hơn”. Đó là lời Chúa.

Hoặc bài vắn này: Lc 12, 35-40

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Các con hãy thắt lưng, hãy cầm đèn cháy sáng trong tay, và hãy làm như người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ về gõ cửa, thì mở ngay cho chủ. Phúc cho những đầy tớ nào khi chủ về còn thấy tỉnh thức: Thầy bảo thật các con, chủ sẽ thắt lưng, đặt chúng vào bàn ăn, và đi lại hầu hạ chúng. Nếu canh hai hoặc canh ba, chủ trở về mà gặp thấy như vậy, thì phúc cho các đầy tớ ấy. Các con hãy hiểu biết điều này là nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, ắt sẽ tỉnh thức, không để nó đào ngạch nhà mình. Cho nên các con hãy sẵn sàng: vì giờ nào các con không ngờ, thì Con Người sẽ đến”. Đó là lời Chúa.

(thanhlinh.net)

++++++++++++++++++

11/08/19 – CHÚA NHẬT TUẦN 19 TN – C

Lc 12,32-48

NHƯ NGƯỜI TÔI TỚ TRUNG TÍN

“Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn. Hãy làm như những người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ vừa về tới và gõ cửa, là mở ngay.” (Lc 12,35-36)

Suy niệm: Một triết gia nọ nói rằng “Con người sinh ra để chết”. Chúng ta không nghĩ như ông, vì con người sinh ra ở đời để sống, cái chết chỉ là một khoảnh khắc chấm dứt sự sống này và chuyển tiếp sang một sự sống mới, chứ không phải là cùng đích của kiếp người. Cái chết chắc chắn sẽ đến với từng người, nhưng lại đến cách bất ngờ, rất bất ngờ. Trong cuộc sống, để tránh những điều bất ngờ, chúng ta thường có sự chuẩn bị trước: binh lính tập trận, lính cứu hỏa thực tập chữa cháy… Trong bài Tin Mừng, để giúp ta chuẩn bị trước bất ngờ của sự chết, để khi sự chết đến, ta khỏi bất ngờ, Chúa làm như một người chủ đi vắng. Ta hãy có tư thế sẵn sàng như người đầy tớ ban đêm đợi chủ trở về, không phải với tâm trạng sợ sệt, nhưng tin tưởng và hy vọng. Chủ về bất cứ giờ nào cũng hài lòng vì thấy người tôi trung đang chu toàn nhiệm vụ.

Mời Bạn: Đừng chia cuộc sống thành những giây phút có Chúa hiện diện và Chúa đi xa. Bạn lúc nào cũng đang sống, đang làm việc dưới cái nhìn yêu thương chăm sóc của Chúa.

Sống Lời Chúa: Dù học hành tại trường, lao động tại xí nghiệp, buôn bán giữa chợ đời, thư giãn nơi giải trí, nghỉ ngơi tại gia đình, hãy luôn nhớ rằng mình đang hoạt động trong Chúa, theo tinh thần của con cái trung tín với Chúa.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa muốn chúng con trưởng thành như những con người tự do thật sự, vì thế, Chúa ẩn mình mặc dù vẫn hiện diện bên chúng con. Xin cho chúng con luôn trung tín và sẵn sàng theo tinh thần của Chúa. Amen.

(5 Phút Lời Chúa)

++++++++++++++++++

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

11 THÁNG TÁM

Thiên Chúa Đã Yêu Thế Giới Đến Nỗi …

“Thế giới ở đây là thế giới của con người, thế giới ấy, người Kitôhữu tin là đã được tình yêu của Đấng Tạo Hóa tác thành và bảo trì. Thế giới ấy, đã rơi vào ách nô lệ tội lỗi, nhưng, nhờ Chúa Kitô chịu đóng đinh và sống lại mà bẻ gãy uy quyền của Thần Dữ, đã được giải thoát để thay hình đổi dạng theo dự định của Thiên Chúa mà tiến tới sự viên mãn” (MV 2).

Định nghĩa ấy gồm tóm toàn bộ giáo thuyết về sự quan phòng, hiểu như kế hoạch vĩnh cửu của Thiên Chúa trong công trình sáng tạo, hoặc hiểu như sự hoàn thành chung cục của vũ trụ. Điều này đặc biệt đúng đối với thế giới con người theo như “được tiền định trong Đức Kitô”, Đấng là trung tâm và là nguồn gốc của mọi sự.

Bằng cách này, Vatican II làm cho sắc bén giáo huấn tín lý của Công Đồng Vatican I: “Thiên Chúa gìn giữ và điều khiển mọi loài Ngài đã dựng nên với sự quan phòng của Ngài, từ chân trời này tới chân trời kia (Kn 8,1). ‘Tất cả đều trần trụi và phơi bày trước mặt Ngài’ (Dt 4,13), ngay cả những gì xảy ra thông qua sáng kiến tự do của tạo vật” (Dei Filius, DS 3003).

Ngay từ đầu, Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng tập chú đến một vấn đề vừa liên quan với chủ đề của chúng ta ở đây vừa bức thiết với con người hiện đại: Bằng cách nào sự phát triển của Nuớc Thiên Chúa và sự phát triển của thế giới có thể hòa điệu với nhau?

– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –

Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác

LIFT UP YOUR HEARTS

Daily Meditations by Pope John Paul II

+++++++++++++++++

Lời Chúa Trong Gia Đình

NGÀY 11/8

Chúa Nhật XIX thường niên

Kn 18, 6-9; Dt 11, 1-2.8-12; Lc 12, 32-48.

LỜI SUY NIỆM: “Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, đừng sợ, vì Cha anh em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em.”

          Sống trong một xã hội mà con người đang cố tranh giành nhau của cải vật chất và quyền lực về cho mình. Thì Chúa Giêsu lại đang nhìn con cái Người như những đoàn chiên bé nhỏ, Người mong muốn con cái Người hoàn toàn tin tưởng vào sự chăn dắt, chăm sóc, gìn giữ và bảo vệ của chính Người, không phải lo sợ đói khát hay bị bỏ rơi: “Đừng sợ”. Vì chính Chúa Cha đã vui lòng ban Nước của Ngài cho tất cả những ai tin tưởng vào Con Một của Ngài.

          Lạy Chúa Giêsu. Xin cho mỗi thành viên trong gia đình chúng con luôn luôn là những con chiên bé nhỏ của Chúa và chỉ biết trông cậy vào một mình Chúa mà thôi.

Mạnh Phương

+++++++++++++++++

Gương Thánh Nhân

Ngày 11-08

Thánh CLARA

Đồng Trinh (1193 – 1253)

Thánh Clara sinh năm 1193 tại Assisi miền Umbria. Thuộc dòng họ danh gái Offreducciô. Người ta nói thánh nữ sinh ra với nụ cười trên môi và không bao giờ thấy Ngài khóc. Ngài dành nước mắt để tưới chân Chúa Giêsu chịu đóng dinh. Nghe biết một thanh niên giàu có đã trở nên người nghèo thành Assisi, người thiếu nữ danh giá cảm kích trước mẫu gương của thánh nhân. Trong khi gia đình nhắm cưới gả cho nàng, thì nàng chỉ nhắm đến cuộc sống sám hối khiêm hạ. Sau khi nghe bài giảng của thánh nhân, Ngài đã đi tới quyết định.

Khi ấy thánh Clara 18 tuổi. Vào ngày Lễ Lá, 18 tháng 3 năm 1212, thánh nữ ăn mặc sang trọng tới nhà thờ chính tòa dự lễ. Theo thói quen, các bà tiến lên nhận lá từ tay Đức giám mục. Hôm ấy Clara quá xúc động, khiến chính đức giám mục phải rồi ghế đưa lá đến cho Ngài. Chiều về, Ngài đã cùng với một người bạn lén bỏ nhà theo lối cửa hậu rồi theo ánh đuốc tới gặp thánh Phanxicô tại Porsiuncola…

Giai thoại thật cảm động, một cô gái 18 sang trọng đã bỏ tất cả những gì là quen thuộc và an toàn để đi theo Đấng vô hình, còn Phaxicô 30 tuổi không có lấy một xu dính túi đã nhận lấy trách nhiệm về cả tinh thần lẫn vật chất đối với cô. Giữa đêm xuân trong rừng cây và dưới ánh đuốc của đoàn anh em. Clara buông xõa mái tóc huyền trên bàn thờ cho Phanxicô cắt bỏ. Hành động hoàn toàn ngoại lệ và không với một chút quyền hạn theo giáo luật. Phanxicô đã lãnh bản ly dị của Clara đối với thế gian, rồi gởi đi vào một nữ tu viện Benedicto gần đó.

Biến cố nổ lớn làm cả thành phố xúc động. Thế gian kết án Clara. Ong Monaldo, cậu thánh nữ đến nhà dòng bắt thánh nữ về, nhưng Ngài ôm cứng chân bàn thờ quyết chọn Chúa mà thôi. Phanxicô dẫn thánh nữ tới một nữ tu tu viện Bênêdictô khác, cùng với em của mình là Anê. Sau cùng Phanxicô thiết lập cho Clara và cộng đoàn đã tăng số một tu viện tại San Damianô, nơi đây bà Ortolanta, mẹ của thánh nữ cũng nhập dòng. Trong một thời gian cộng đoàn độc lập như những người hành khất đầu tiên. Phanxicô viết cho cộng đoàn một bản luật sống vắn gọn, đòi kỷ luật gắt gao và chay tịnh khắc khổ.

Dầu vậy, Clara con người đi xa hơn cả ước muốn của thánh Phanxicô. Năm 1215 Phanxicô đặt Clara làm tu viện trưởng và có lẽ đã trao cho Ngài một bản luật dòng thánh Bênêdictô. Nhưng một mục chương nói rằng sự đơn sơ và nhiệt tình của chị em khiến cộng đoàn tăng số rất nhanh.

Vào những năm cuối đời thánh Phanxicô, mọi liên hệ với San Đômianô bị gián đoạn. Câu chuyện hay về bữa ăn tối với Clara không được chính xác lắm. Nhưng cơn đau cuối cùng Phanxicô đã được Clara cho trú ngụ trong một mái chòi bằng lá cây ở cổng tu viện Damianô, nơi Phaxicô trước tác bài ca mặt trời. Ngài ban phép lành cuối cho Clara rồi về Porziuncola và qua đời tại đó. Ngài cũng xin anh em đưa xác về Assisi qua ngã San Đamianô. Thánh Clara và chị em tiếp rước và có dịp chiêm ngưỡng các vết thương ở tay và chân Ngài.

Clara thực hiện đúng lý tưởng của người nghèo thành Assisi. Đức Innôcentê III đã đích thân ban phép cho Ngài được giữ đức nghèo khó tuyệt đối. Nhưng Đức Grêgôriô IX nguyên là hồng y Ugôlinô đã muốn cải sửa luật cho phép nhà dòng có đất đai nhà cửa. Clara cưỡng lại và năm 1228 đã được hưởng đặc ân như sở nguyện. Ngài đã thưa với Đức Grêgôriô: – Thưa Đức Cha, xin tha tội cho chúng con, nhưng đừng tha cho con khỏi theo lời Chúa.

Năm 1247, một lần nữa đức Innocentê IV kiểm soát lại luật thánh Phanxicô, muốn sống đời khó nghèo truyệt đối. Luật này được Đức Innocente chấp thuận vội vã, hai ngày trước khi thánh nữ qua đời. Năm 1893 người ta tìm thấy sắc chỉ nguyên thủy trong mộ thánh nữ.

Cuộc sống còn được ghi nhớ bởi cuộc tàn phá năm 1241 của vua Frêdêrico II, nhờ lời cầu nguyện đắc lực của Ngài. Trong cơn bệnh của Ngài, Đức hồng y Rainalđô, tức là đức giáo hoàng Alexandrô sau này, đã đến trao mình Chúa và khuyyên nhủ thánh nữ, thánh nữ trả lời: – Từ khi nếm thử chén đắng và cuộc tử nạn của Chúa, con thấy không còn gì làm con đau đớn nữa.

Sau khi chúc lành cho các nữ tu đến thăm, Ngài nói với mình: – Hãy an tâm, ngươi đã theo đúng đường, cứ tin tưởng vì Chúa tạo thành đã thánh hiến và không ngừng gìn giữ ngươi, đã yêu ngươi với tình mẹ thương con, ôi lạy Chúa xin chúc tụng Chúa vì đã dựng nên con.

Thánh nữ qua đời ngày 11 tháng năm 1253 và năm 1255 được tôn phong hiển thánh.

(daminhvn.net)

+++++++++++++++++

11 Tháng Tám

Cô Bạn Của Thánh Phanxicô Assisi

Một trong những cuốn phim có giá trị diễn tả về cuộc đời của thánh Phanxicô thành Assisi mới được thực hiện cách đây vài năm đa thi vị hóa vai trò của Clara, vị thánh Giáo Hội mừng kính hôm nay. Ðạo diễn của cuốn phim đã giới thiệu Clara qua hình ảnh một nữ tài tử trẻ đẹp với mái tóc vàng óng ả, thích tung tăng chạy nhảy giữa cánh đồng hoa hướng dương chạy dài mút mắt.

Trong thực tế, quãng đời thanh xuân của Clara đã cống hiến nhiều chi tiết có thể được sử dụng làm chất liệu để quay phim. Vào tuổi trăng tròn 15, Clara đã từ chối kết hôn vì tâm hồn của nàng bị xúc động mãnh liệt qua lời rao giảng có chiều sâu của Phanxicô. Từ đó cho đến lúc Clara trút hơi thở cuối cùng, Phanxicô là một người bạn tinh thần, một cha linh hướng của nàng.

Lúc lên 18 tuổi, Clara thoát ly gia đình và trong một buổi lễ đơn sơ cử hành vào đêm, nàng đã cởi bỏ những xiêm y đắt tiền để mặc lấy một chiếc áo dòng bằng vải thô, đã thay chiếc dây nịt quý giá bằng một sợi dây thắt lưng đơn sơ và đã để cho Phanxicô cắt mái tóc óng ả của mình tượng trưng cho tinh thần từ bỏ.

Khi một số thiếu nữ khác cùng một chí hướng, kể cả Agnes, em gái của Clara, theo chân nàng vào tu viện, họ đã bắt đầu một cuộc sống nghèo nàn, khổ hạnh và ẩn dật, cắt đứt mọi giao tiếp với thế giới bên ngoài. Họ đi chân không, ngủ trên nền nhà, không ăn thịt và giữ thinh lặng hầu như hoàn toàn. Ðó là những dấu hiệu bên ngoài biểu lộ ý hướng bên trong của họ muốn sống khó nghèo theo tinh thần Phúc Âm như Ðức Giêsu đã dạy.

Ðế sống cuộc đời từ bỏ, các nữ tu dòng thánh Clara khước từ quyền sở hữu của bất cứ của cải nào, kể cả với tính cách là của chung.

Nhu cầu lương thực hằng ngày được giải quyết bằng của bố thí. Khi Ðức Thánh Cha khuyên họ giảm bớt cách thực hành sống nghèo cách tuyệt đối như vậy, Clara đã khẳng khái trả lời: “Thưa Ðức Thánh Cha, chúng con cần cha tha tội, chứ chúng con không mong ước cha tha chúng con khỏi những bổn phận phải giữ để trung tín dõi theo chân Chúa Giêsu”.

Trong bốn bức tường tu viện tại San Ðamianô gần Assisi, Clara ân cần chăm sóc các bệnh nhân, khiêm nhượng hầu bàn và rửa chân cho các nữ tu sau khi họ đi cầu thực trở về và dành nhiều thời giờ để tâm hồn chìm sâu trong kinh nguyện. Các nữ tu đồng thời thuật lại rằng: Khi Clara cầu nguyện xong, mặt chị chiếu sáng làm chói mắt mọi người.

Trong 27 năm cuối đời, Clara bị đau ốm luôn, nhưng chị đã thu hút được nhiều Giám Mục, Hồng Y, kể cả các giáo chủ đến để tham khảo ý kiến của chị.

(Lẽ Sống)

++++++++++++++++++

Lời Chúa Mỗi Ngày

Chúa Nhật 19 Thường Niên, Năm C

Bài đọc: Wis 18:6-9; Heb 11:1-2, 8-12 (19); Lk 12:32-48.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Tin tưởng và trung thành giữ Lời Thiên Chúa.

Có nhiều người tin vào câu nói: “Phải thấy mới tin; tin mà không thấy là tin dị đoan” mà chẳng cần kiểm chứng gì cả. Có nhiều điều sai trái trong câu này. Thứ nhất, khi một người nói tin, là anh tin vào điều anh chưa thấy; nếu đã thấy rồi thì không cần phải tin nữa. Ví dụ, chẳng ai nói: “Tôi tin là tôi đã tìm được số bạc mà tôi đã đánh mất;” nhưng chỉ nói “Tôi đã tìm được số bạc mà tôi đã đánh mất.” Thứ hai, khi một người nói: “tin mà không thấy là tin dị đoan” là một điều hàm hồ, vì có những điều người đó vẫn tin mặc dù không thấy. Ví dụ, chẳng ai thấy hơi thở, nhưng nếu thấy một người đang sống, anh phải tin là người ấy có hơi thở; hay chẳng ai thấy dòng điện chạy, nhưng chẳng ai dám đưa tay sờ vào ổ điện.

Các bài đọc hôm nay dẫn chứng niềm tin vào Thiên Chúa không phải là dị đoan; nhưng là niềm tin có kiểm chứng bằng những lời Thiên Chúa hứa và các việc Ngài làm. Trong bài đọc I, tác giả Sách Khôn Ngoan lặp lại lời hứa ban Đất Hứa của Thiên Chúa cho các tổ phụ. Ngài bắt đầu thực hiện trong đêm ấy, khi Ngài đưa dân ra khỏi miền đất nô lệ của Ai-cập, lang thang trong sa mạc 40 năm, và sau cùng cho họ định cư trong Đất Hứa, “vùng đất chảy sữa và mật.” Trong bài đọc II, sau khi đã cho một định nghĩa chính xác về niềm tin, tác giả Thư Do-thái dẫn chứng bằng những ví dụ lịch sử cho thấy những lời Thiên Chúa hứa và những việc Thiên Chúa làm luôn tương xứng với nhau. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu khuyên các môn đệ phải tin tưởng và tỉnh thức chuẩn bị cho Ngày Thiên Chúa đến, Ngày mà họ sẽ được lãnh nhận tất cả những gì Thiên Chúa hứa ban cho các đầy tớ trung thành và khôn ngoan.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Đêm ấy đã được báo trước cho cha ông chúng con.

Đêm Vượt Qua là một biến cố vĩ đại mà không người Do-thái nào không biết, vì họ phải cử hành mỗi năm theo như luật Đức Chúa truyền. Mỗi khi cử hành biến cố này, họ nhắc nhở cho nhau uy quyền và tình thương của Đức Chúa dành cho họ, để họ biết sống thế nào cho đẹp lòng Thiên Chúa. Mỗi khi con cái Israel quên Đức Chúa và các Lề Luật của Ngài, Đức Chúa truyền cho các nhà lãnh đạo và các ngôn sứ nhắc nhở cho dân chúng nhớ lại biến cố này, để biết quay trở lại và tin vào Ngài.

1.1/ Đêm Vượt Qua của dân tộc Do-thái: Đức Chúa đã báo trước cho ông Moses và ông Aaron biết những gì xảy ra trong đêm ấy. Các thiên thần của Thiên Chúa sẽ vào tất cả các nhà của người Ai-cập để tàn sát tất cả các con đầu lòng của loài người cũng như loài vật; nhưng các thiên thần sẽ không vào những nhà nào có máu bôi trên cửa, mà ông Moses đã bí mật nói cho toàn dân phải làm khi giết con chiên Vượt Qua.

1.2/ Những gì đã xảy ra trong đêm ấy: Sự thật đã xảy ra như thế. Khi thấy các con đầu lòng của người Ai-cập bị tiêu diệt, vua Pharaoh và toàn dân đã phải xin ông Moses ra lệnh cho dân Do-thái phải tức khắc rời bỏ đất Ai-cập. Rồi khi vua Pharaoh đổi ý đuổi theo để bắt dân Do-thái trở lại, toàn bộ chiến xa và quân đội của nhà vua đã bị nhận chìm trong Biển Đỏ. Khi con cái Israel chứng kiến tất cả những cảnh tượng xảy ra trong đêm đó, họ nhận ra uy quyền và tình thương của Thiên Chúa dành cho họ, và họ hát lên những bài ca để ca tụng Thiên Chúa. Từ đó đến nay, họ vẫn giữ truyền thống cử hành trọng thể Lễ Vượt Qua mỗi năm, bằng việc giết con chiên tinh tuyền để ăn với bánh không men và rau đắng. Sự kiện này muốn nhắc nhở cho con cái Israel biết khi Đức Chúa hứa điều gì, Ngài sẽ làm; cho dẫu những điều Ngài hứa vượt quá khả năng bà sự tiên liệu của con người.

2/ Bài đọc II: Các tổ phụ tin rằng Đấng đã hứa là Đấng trung tín.

2.1/ Định nghĩa đức tin: Tác giả Thư Do-thái định nghĩa đức tin như sau: “Đức tin là điều chính yếu (hupostasis) của những gì ta hy vọng, là sự xác tín cho những điều ta không thấy.” Chúng ta có thể chia định nghĩa này làm hai để phân tích.

(1) Đức tin là điều chính yếu (hupostasis) của những gì ta hy vọng: Chữ chính yếu đây được dùng như bản thể khi nói Đức Kitô đồng bản thể với Đức Chúa Cha. Đức tin và đức cậy đi đôi với nhau, cái gì là chính yếu của đức tin thì cũng là như vậy của đức cậy. Đức tin là một sự thuyết phục của lý trí làm cho con người tin tưởng Thiên Chúa sẽ thực hiện những gì Ngài đã hứa. Sự tin tưởng này mạnh đến độ làm cho con người cảm thấy tâm hồn được vui vẻ và bình an.

(2) Nó là sự xác tín cho những điều ta không thấy: Đức tin chứng minh cho lý trí những thực tại mà không thể hiểu bởi trí khôn con người. Đức tin là một sự đồng ý chắc chắn của linh hồn về những mạc khải thần linh và những gì liên quan đến chúng. Tuy nhiên, đức tin và lý trí không mâu thuẫn nhau, nếu một người nhận ra lý trí con người có giới hạn của nó. Điều con người không hiểu không có nghĩa là điều ấy không có, nhưng vì trí khôn con người yếu kém chưa hiểu được điều đó. Ví dụ, cắt nghĩa triết học cho học sinh tiểu học.

Hơn nữa, đức tin là một trong ba nhân đức đối thần; gọi là đối thần vì có đối tượng là Thiên Chúa hay những sự thuộc về Thiên Chúa. Con người chỉ có thể hiểu những đối tượng vật chất trong thế giới con người. Con người tự mình không có khả năng để tin vào Thiên Chúa, nên họ cần được sự trợ giúp của Thiên Chúa qua mạc khải và ơn thánh, để họ có thể tin vào Ngài.

2.2/ Hai ví dụ về đức tin của tiền nhân: Thiên Chúa không để con người phải vật lộn với đức tin, nhưng Ngài ban cho con người trí khôn để hiểu biết lịch sử của những người đã đặt niềm tin vào Ngài. Tác giả Thư Do-thái dẫn chứng cho độc giả rất nhiều niềm tin của các tổ phụ trong quá khứ; trình thuật hôm nay chỉ đề cập đến hai tổ phụ.

(1) Đức tin của tổ phụ Abraham: Theo truyền thống của Do-thái cũng như Ả-rập, tổ phụ Abraham là người rất nghiêng về lý trí. Truyền thống Do-thái kể: Abraham không thể thờ lạy thần mặt trời, mặt trăng, và các ngôi sao, vì tất cả đều mọc lên rồi lặn xuống theo qui luật của Đấng Tạo Dựng chúng. Truyền thống Hồi-giáo kể: Cha của Abraham là Terah, ông không chỉ thờ 12 thần, mỗi thần cho một tháng, mà còn có cả một xưởng để làm các thần. Ngày kia có một bà mang đồ ăn đến cúng cho các thần. Abraham lấy một cây gậy đánh bể tất cả các thần, rồi đặt cây gậy vào tay một thần to lớn. Khi cha ông trở về hỏi lý do tại sao các thần bị đập bể, ông chỉ vào một thần còn sót lại và nói với cha: chính thần này vì ham ăn nên đã đập vỡ các thần kia. Khi cha ông bảo là chuyện không thể xảy ra, ông liền nói với cha đừng thờ và đừng bán các thần đó nữa.

Abraham có một niềm tin vững mạnh vào Thiên Chúa đến nỗi Ngài bảo gì, ông làm như vậy.

(2) Đức tin của tổ mẫu Sarah: Việc có con trong lúc cả Abraham và Sarah đã trên 90 tuổi là điều không thể đối với con người. Bà đã bật cười khi bà nghe người khách hứa với Abraham: “Độ rày sang năm, Sarah vợ ông sẽ cưu mang cho ông một con trai” (Gen 18:12), vì bà nghĩ bà không còn rung cảm gì khi nghĩ đến chuyện chăn gối nữa, chứ đừng nói tới việc có con. Đức Chúa sửa dạy bà: “Nào có điều kỳ diệu nào vượt sức Đức Chúa?”

Thế mà mọi chuyện đã xảy ra đúng như lời Đức Chúa hứa. Mùa Xuân năm sau, Đức Chúa trở lại thăm, và ông bà đã có một người con trai. Ông Abraham được 100 tuổi khi sinh đứa con là Isaac. Hai ông bà đặt tên cho con là Isaac, tiếng Do-thái có nghĩa là “nụ cười.” Bà Sarah nói: “Thiên Chúa đã làm cho tôi cười; tất cả những ai nghe biết sẽ cười tôi.” Bà còn nói: “Ai dám báo trước cho ông Abraham rằng Sarah sẽ cho con bú? Thế mà tôi đã sinh cho ông một con trai, khi ông đã về già!” (Gen 21:6-7).

3/ Phúc Âm: “Đừng sợ, vì Cha anh em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em.”

Lời hứa ban Nước Trời cho các môn đệ đước Chúa Giêsu nhắc lại nhiều lần; vì thế, các tín hữu không thể sống như không có Nước Trời. Họ phải sống đời này với cặp mắt luôn hướng về đời sau. Họ không được tích trữ của cải đời này, nhưng phải biết dùng nó cho các công cuộc bác ái, để tích trữ cho họ kho tàng không hư nát trên trời, “một kho tàng không thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm không bén mảng, mối mọt không đục phá.” Chúa Giêsu liệt kê hai điều kiện để được chấp nhận vào làm công dân Nước Trời.

3.1/ Phải tỉnh thức chờ đợi ngày Chúa đến.

Làm sao có thể tỉnh thức mà chờ đợi mọi lúc? Chúa Giêsu trả lời: Hãy luôn sống như thể chủ đến bất cứ lúc nào. Một ví dụ cụ thể giúp chúng ta hiểu điều này là khẩu hiệu “Sắp Sẵn” và cách huấn luyện của phong trào Hướng Đạo. Các em được huấn luyện về mọi chuyên môn như: mưu sinh thoát hiểm, cứu thương, nấu ăn, bơi lội… Mục đích là để các em luôn có những kiến thức và khả năng này trong mình, để khi phải đương đầu với những nguy hiểm xảy ra, các em biết giải quyết làm sao. Trên bước đường thiêng liêng cũng thế, các tín hữu phải tập luyện và phát triển tất cả các nhân đức mà Kinh Thánh dạy như ba nhân đức đối thần tin, cậy, mến; bốn nhân đức trụ khôn ngoan, công bằng, can đảm và tiết độ; cùng tất cả các nhân đức khác; nhất là đừng mang một tội trọng nào trong người cả, khi nỡ phạm phải tìm dịp xưng ngay.

Trình thuật hôm nay cũng nhắc nhở chúng ta ngày Chúa đến không nhất thiết là Ngày Tận Thế, có thể là ngày cuối cùng của đời mình; vì ngày chúng ta chết có khác gì ngày tận thế của cuộc đời chúng ta đâu.

3.2/ Phải trung thành phục vụ trong khi chờ đợi Chúa đến.

Ông Phêrô hỏi: “Lạy Chúa, Chúa nói dụ ngôn này cho chúng con hay cho tất cả mọi người?” Chúa Giêsu đáp: “Vậy thì ai là người quản gia trung tín, khôn ngoan, mà ông chủ sẽ đặt lên coi sóc kẻ ăn người ở, để cấp phát phần thóc gạo đúng giờ đúng lúc?” Trong sự quan phòng của Thiên Chúa, tất cả mọi người đều ở trong vai trò lãnh đạo, chỉ khác là là lãnh đạo nhiều người hay ít người thôi. Các cha mẹ lãnh đạo các con của mình, linh mục lãnh đạo giáo xứ, Đức Giáo Hoàng lãnh đạo cả hoàn cầu. Lãnh đạo theo cách thức của Thiên Chúa là phải hy sinh và phục vụ; chứ không phải lạm dụng quyền hành để bắt người khác phục vụ, hay để áp đảo những người dưới quyền mình. Mọi quyền hành đến từ Thiên Chúa và họ sẽ phải chịu trách nhiệm với Ngài.

Sau cùng, Chúa Giêsu nói về sự thưởng phạt và trách nhiệm. Ai chu toàn bổn phận sẽ được thưởng, ai không chu toàn sẽ bị phạt. Người đã được học biết chịu trách nhiệm nặng hơn người không biết. Ai đã được cho nhiều thì sẽ bị đòi nhiều, và ai được giao phó nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Không một điều gì là không thể đối với Thiên Chúa. Chúng ta đừng bao giờ giới hạn Ngài vào sự suy nghĩ và cách thức của con người.

– Chúng ta cần phải xác tín những gì Thiên Chúa hứa Ngài sẽ thực hiện. Nếu Ngài đã hứa ban Nước Trời cho những kẻ tin tưởng và làm theo ý Ngài muốn, Ngài sẽ thực hiện. Điều quan trọng là chúng ta phải luôn tỉnh thức và trung thành phục vụ anh/chị/em.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

****************