Chúa Nhật (14-03-2021) – Trang suy niệm

13/03/2021

Lời Chúa Hôm Nay

Chúa Nhật Tuần IV Mùa Chay Năm B

BÀI ĐỌC I: 2 Sb 36, 14-16. 19-23

“Cơn thịnh nộ và lòng từ bi của Chúa được tỏ bày qua sự lưu đày và giải phóng của dân tộc”.

Trích sách Sử Biên Niên quyển thứ hai.

Trong những ngày ấy, tất cả những đầu mục tư tế và dân chúng đều bất trung, bắt chước những sự ghê tởm của các dân ngoại. Họ làm dơ bẩn đền thờ Chúa đã được Chúa thánh hoá tại Giêrusalem.

Chúa là Thiên Chúa tổ phụ họ, đã luôn luôn đêm ngày sai sứ giả đến với họ, vì Người thương xót dân Người và đền thờ của Người. Nhưng họ nhạo báng các sứ giả Chúa, coi thường lời Chúa, và nhạo báng các tiên tri, đến nỗi, sau hết, cơn thịnh nộ của Chúa đã đổ lên dân Người, và vô phương cứu chữa. Quân thù đã đốt đền thờ Chúa, phá huỷ tường thành Giêrusalem, phóng hoả tất cả các lâu đài và thiêu huỷ mọi đồ vật quý giá. Nếu có ai thoát khỏi lưỡi gươm, thì bị dẫn về Babylon để làm nô lệ nhà vua và con cái vua, cho đến thời vua nước Ba-tư thống trị; như thế ứng nghiệm lời Chúa dùng miệng tiên tri Giêrêmia mà phán, cho đến khi đất nước được mừng ngày Sabbat; vì trong tất cả những ngày xáo trộn, họ sẽ không giữ được ngày Sabbat trọn bảy mươi năm trường.

Năm thứ nhất triều đại Cyrô, vua xứ Ba-tư, để lời Chúa dùng miệng tiên tri Giêrêmia phán trước được thực hiện, thì Chúa thúc đẩy tâm hồn hoàng đế Cyrô, vua xứ Ba-tư, nhà vua ra lệnh truyền rao khắp đất nước, và ban chiếu chỉ rằng: “Đây hoàng đế Cyrô, vua xứ Ba-tư tuyên bố: Chúa là Thiên Chúa trời đất đã ban cho trẫm mọi nước trên mặt đất, và chính Người đã ra lệnh cho trẫm xây cất cho Người một đền thờ ở Giêrusalem trong xứ Giuđa. Ai trong các ngươi thuộc về dân Chúa? Thiên Chúa sẽ ở với nó, và nó hãy tiến lên”. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 136, 1-2. 3. 4-5. 6

Đáp: Lưỡi tôi dính vào cuống họng, nếu tôi không nhớ đến ngươi (c. 6a).

Xướng:

1) Trên bờ sông Babylon, chúng tôi ngồi khóc nức nở, khi tưởng nhớ đến núi Sion. Trên những cây dương liễu miền đó, chúng tôi treo các cây lục huyền cầm của chúng tôi. – Đáp.

2) Vì nơi này, quân canh ngục đòi chúng tôi vui vẻ hát lên. Họ giục chúng tôi rằng: “Hãy vui mừng; hãy hát cho chúng ta nghe điệu ca Sion!”. – Đáp.

3) Lẽ nào chúng tôi ca hát ngợi khen Thiên Chúa trên đất khách quê người? Hỡi Giêrusalem, nếu tôi lại quên ngươi, thì cánh tay tôi sẽ bị khô đét. – Đáp.

4) Lưỡi tôi dính vào cuống họng, nếu tôi không nhớ đến ngươi. Nếu tôi không đặt Giêrusalem trên tất cả mọi niềm vui thoả. – Đáp. 

BÀI ĐỌC II: Ep 2, 4-10

“Anh em chết bởi tội và được cứu rỗi bởi ân sủng”.

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.

Anh em thân mến, Thiên Chúa là Đấng giàu lòng từ bi, vì lòng yêu thương cao cả mà Người đã yêu thương chúng ta, đến nỗi khi tội lỗi làm cho chúng ta phải chết, thì Người làm cho chúng ta sống lại trong Đức Kitô, nhờ ơn Ngài mà chúng ta được cứu rỗi; Người đã cho chúng ta được cùng chung sống lại và đồng ngự trị trên nước trời trong Đức Giêsu Kitô, để tỏ cho hậu thế được thấy sự phong phú dồi dào của ơn Chúa mà lòng nhân lành Chúa đã ban cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô? Vì chưng, bởi ơn Chúa, anh em được cứu rỗi nhờ đức tin. Điều đó không phải do anh em, vì đó là ân huệ của Chúa; cũng không phải do việc làm, để không ai được tự phụ. Vì chúng ta là thụ tạo của Người, đã được tạo thành trong Đức Giêsu Kitô, để làm các việc lành mà Chúa đã dự liệu, hầu chúng ta đem ra thực hành. Đó là lời Chúa.

CÂU XƯỚNG TRƯỚC PHÚC ÂM: Ga 3, 16

Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi ban Con Một Mình, để tất cả những ai tin Con Ngài, sẽ được sống đời đời. 

PHÚC ÂM: Ga 3, 14-21

“Thiên Chúa đã sai Con Ngài đến để thế gian nhờ Con Ngài mà được cứu độ”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô rằng: “Như Môsê đã treo con rắn lên ở sa mạc thế nào, thì Con Người cũng sẽ phải treo lên như vậy, để tất cả những ai tin ở Người, sẽ không bị huỷ diệt, nhưng được sống đời đời. Vì Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình, để tất cả những ai tin Con Ngài thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời, vì Thiên Chúa không sai Con của Ngài giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con Ngài mà được cứu độ. Ai tin Người Con ấy thì không bị luận phạt. Ai không tin thì đã bị luận phạt rồi, vì không tin vào danh Con Một Thiên Chúa; và đây án phạt là sự sáng đã đến thế gian, và người đời đã yêu sự tối tăm hơn sự sáng, vì hành động của họ xấu xa. Thật vậy, ai hành động xấu xa thì ghét sự sáng, và không đến cùng sự sáng, sợ những việc làm của mình bị khiển trách; nhưng ai hành động trong sự thật thì đến cùng sự sáng, để hành động của họ được sáng tỏ là họ đã làm trong Thiên Chúa”. Đó là lời Chúa.

(thanhlinh.net)

++++++++++++++++++

14/03/2021 – CHÚA NHẬT TUẦN 4 MC – B

Ga 3,14-21

THIÊN CHÚA ĐÃ YÊU ĐẾN NỖI…

“Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.” (Ga 3,16)

Suy niệm: Điều độ là một nhân đức. Thế nhưng trong tình yêu của Thiên Chúa thì đức “điều độ” không còn chỗ đứng nữa: vì khi yêu, Ngài luôn luôn yêu không mức độ.

1. Có ai yêu đến nỗi giết cả người thân của mình không? Thế mà Thiên Chúa đã yêu đến nỗi thế: Ngài đày Con Ngài là Đức Giê-su Ki-tô xuống trần gian rồi thí cả mạng người con đó miễn sao cứu được loài người mà Ngài yêu thương.

2. Giả sử có ai đó yêu một con vật đến nỗi hoá thân làm con vật đó ắt sẽ bị coi là quá đáng thậm chí còn điên khùng nữa. Nhưng Thiên Chúa đã làm điều mà thế gian cho là điên khùng: nhờ Con Thiên Chúa làm người, Ngài nhận chúng ta làm con, và ban cho chúng ta sự sống của chính Ngài để được sống đời đời như Ngài.

Mời Bạn: Thật “quá đã” phải không bạn? Bạn có cảm thấy hạnh phúc tột cùng khi được Đấng Cao Cả là Thiên Chúa yêu đến “cỡ” đó hay không? Khi bạn được yêu như thế thì bạn làm gì nhỉ? Từ chối  chăng? Nếu thế thì thật đáng tiếc! Phải chăng tâm tình xứng hợp nhất là ca ngợi, cảm tạ tình yêu và nhất là dùng tình yêu đáp lại tình yêu?

Chia sẻ: Để đáp lại tình yêu của Thiên Chúa, tôi phải yêu Ngài đến “cỡ” nào?

Sống Lời Chúa: Mỗi ngày khám phá cho được một dấu chỉ Thiên Chúa đang yêu thương bạn, để cảm tạ Ngài và quyết sống xứng đáng để đáp đền tình yêu của Ngài.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, thật tiếc thay con đã yêu Ngài quá muộn, quá ít. Con muốn yêu Chúa gấp muôn vạn lần để bù lại những tội lỗi của tháng ngày qua.

(5 Phút Lời Chúa)

++++++++++++++++++

Suy niệm và cầu nguyện

Suy Niệm

Trong Tin Mừng theo thánh Gioan,
Đức Giêsu nhiều lần nhận mình là ánh sáng (Ga 8,12; 9,5; 12,46).
Ngài là ánh sáng đã đến trong thế gian (Ga 1,9).
Tiếc thay, thế gian lại yêu bóng tối và ghét ánh sáng.
Bóng tối dễ làm người ta bị vấp, vì không thấy đường đi.
Nhưng nhiều người vẫn thích bóng tối hơn,
vì bóng tối che giấu những âm mưu của họ.
Sau khi được Thầy Giêsu đãi miếng bánh trong bữa ăn,
Giuđa liền đi ra, lúc đó trời đã tối (Ga 13,30).
Sau khi Đức Giêsu bị bắt vào buổi tối ở Vườn Dầu,
Ngài đã bị các thượng tế vội vã đem ra xét xử suốt đêm đó.
Mãi đến sáng họ mới chuyển Ngài cho Philatô (Ga 18,28).
Trong cuộc Khổ Nạn, có vẻ bóng tối thắng thế.
Thật ra thì bóng tối không thắng được ánh sáng (Ga 1,5).  
“Tên thủ lãnh thế gian không làm gì được Thầy” (Ga 14.30).
Sự phục sinh của Đức Giêsu là chiến thắng của ánh sáng.

Không phải chỉ từ khi làm người, Ngôi Lời mới là ánh sáng.
Ngài là ánh sáng từ vĩnh cửu, chiếu soi cả nhân loại (Ga 1,4.9).
Khi đối diện với Đức Giêsu, con người đứng trước một lựa chọn:
tin hay không tin, đón nhận hay từ chối ánh sáng.
Có những người không tin Đức Giêsu
không phải vì đức tin nghịch với lý trí, nhưng vì lối sống của họ.
Ai làm điều ác thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng,
vì họ sợ điều ác của họ bị phơi bày (Ga 3,20).
Ai làm theo sự thật thì đến cùng ánh sáng,
vì họ muốn việc họ làm được thấy là đúng ý Chúa (Ga 3,21).
Đến với Giêsu là đến với ánh sáng.
Ai có cuộc sống càng gần với sự thật, sự thiện,
thì càng dễ đón nhận ánh sáng và tin vào Giêsu.
Mặt khác, ai càng tin vào và bước theo Giêsu,
thì càng không ở lại, không đi trong bóng tối (Ga 8,12; 12,46).

Như thế để được sự sống đời đời, cần tin vào Đức Giêsu.
Nhưng đó không phải là một đức tin trên lý thuyết suông,
mà là một đức tin luôn làm cho đời mình được tỏa sáng.
Tin vào Đấng là ánh sáng đòi chúng ta phải từ khước bóng tối,
bóng tối sự dữ, bóng tối dối trá, bóng tối của ý định gian tà.
Vào ngày tận thế, người chết sẽ ra khỏi mồ.
“Ai đã làm điều lành, thì sẽ sống lại để được sống,
ai đã làm điều dữ, thì sẽ sống lại để bị kết án” (Ga 5,29).
Mặt khác, muốn làm cho nhiều người tin Đức Giêsu,
chúng ta phải xây dựng một thế giới tốt lành, huynh đệ.
Một thế giới càng ít điều xấu xa, đen tối, ám muội,
thì càng dễ đón nhận và tin vào Giêsu.

Lời Chúa hôm nay mời chúng ta đến với ánh sáng,
dứt khoát từ bỏ bóng tối, dù bóng tối cho ta sự an toàn.
Hơn nữa, Lời Chúa còn mời chúng ta ngước nhìn lên.
Người Do-thái xưa đã ngước nhìn lên con rắn đồng treo ở cột,
để được chữa lành khỏi cái chết vì rắn cắn.
Ngày nay, chúng ta được mời ngước nhìn lên Người Con Một
đang được giương cao trên thập giá.
Chẳng ai yêu Người Con ấy bằng Thiên Chúa Cha.
Nhưng Cha lại tặng chính Người Con mình yêu dấu
cho thế gian tội lỗi, đang thù nghịch và chống đối mình.
Phải yêu thế gian này biết chừng nào, Cha mới làm như vậy.
Đơn giản là Cha muốn cứu loài người khỏi họa diệt vong.
Người Con Một là bàn tay Cha đưa ra cho nhân loại.
Ai nắm lấy bàn tay ấy với lòng tin thì được sống.

Mùa Chay đã gần hết, lời mời trở nên khẩn trương hơn.
Chỉ mong chúng ta được sức sống hơn nhờ nhìn lên…
và được ngời sáng hơn nhờ đến cùng ánh sáng.

CẦU NGUYỆN

Lạy Chúa Giê su,
ánh sáng và bóng tối thì dễ phân biệt,
còn bóng mờ thì khó nhận ra hơn.
Con đã mạnh dạn khước từ bóng tối
nhưng khi nhìn thật sâu vào lòng mình,
con vẫn thấy có nhiều bóng mờ tác động.
Con an tâm ở lại trong bóng mờ,
vì thấy đó chưa phải là một tội.
Nhưng con cũng áy náy,
vì biết rằng bóng mờ là nơi
ánh sáng Chúa chưa thấm nhập trọn vẹn.
Con không muốn bóng mờ thành ánh sáng,
vì con vẫn muốn giữ lại
một điều gì đó rất quý đối với con.

Xin giải phóng con khỏi những tình cảm lệch lạc
để con được tự do yêu mến và phụng sự Chúa hơn.
Xin chinh phục những bóng mờ trong lòng con
để con được thuộc trọn về Chúa.
Xin kéo con ra khỏi thái độ lấp lửng nước đôi,
để dứt khoát đặt Chúa trên mọi sự.
Ước gì con có đủ can đảm để dám nhìn thẳng vào
những bóng mờ trong đời con.
Và ước gì con được trở nên trong suốt
nhờ để cho ánh sáng Chúa
tràn ngập mọi vùng mờ tối nơi con. Amen.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

(phutcaunguyen.net)

++++++++++++++++++

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

14 THÁNG BA

Hãy Đến Và Hãy Gặp

Nước hằng sống – nước đem lại sự sống đời đời – đã biến đổi cuộc sống của người phụ nữ Sa-ma-ri-ta-nô ấy như thế nào? Nếu chúng ta xem xét sự chuyển biến tâm linh của người phụ nữ này, chúng ta có thể thấy rằng cuộc gặp gỡ của chị với Đức Kitô sản sinh hoa trái tâm linh rất lớn lao. Thực vậy, chúng ta có thể nhận ra nơi chị một cuộc hoán cải đích thực – cuộc hoán cải đưa chị đến chỗ nhìn nhận Đức Giêsu là Đấng Mê-si-a: “Các người hãy đến và hãy gặp con người đã nói với tôi về tất cả những gì tôi đã làm! Chắc hẳn người ấy phải là Đấng Mê-si-a!” (Ga 4,29).

Người phụ nữ Sa-ma-ri-ta-nô ấy đã loan báo Đức Giêsu là Đấng Cứu Độ cho hàng xóm và bạn bè chị. Chị nói với họ về cuộc hoán cải của chị và về quyền năng cứu độ của Đức Giêsu. “Ông ấy đã kể cho tôi về mọi sự mà tôi đã làm”. Chị biểu lộ một nghị lực và niềm vui mới có sức thúc bách chị loan báo cho người khác về sự thật và về ân sủng mà mình đã nhận được. “Các người hãy đến và hãy gặp” – chị bảo họ như thế. Có thể nói, chị đã trở thành một sứ giả của Đức Kitô và của Tin Mừng cứu độ, như trường hợp Maria Mác-đa-la vào buổi sáng ngày Phục Sinh.

Cũng vậy, chúng ta được mời gọi uống thứ nước hằng sống có thể thanh tẩy tâm hồn ta và biến đổi cuộc sống ta. Và cũng vậy, chúng ta có thể trở thành những sứ giả của Tin Mừng. Như trường hợp người phụ nữ Sa-ma-ri-ta-nô ấy, chúng ta cũng phải để cho Đức Kitô đưa dẫn mình tới một cuộc khảo sát nghiêm túc lương tâm mình, nhờ đó chúng ta có thể quay lưng lại với tội lỗi và được ngập tràn niềm vui. Rồi chúng ta sẽ muốn chia sẻ cho người khác niềm vui về ơn cứu độ mà mình đã lãnh nhận được nơi Đức Kitô.

– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –

Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác

LIFT UP YOUR HEARTS

Daily Meditations by Pope John Paul II

+++++++++++++++++

Lời Chúa Trong Gia Đình

NGÀY 14/3

Chúa Nhật IV Mùa Chay

2Sb 36, 14-16. 19-23; Ep 2, 4-10; Ga 3, 14-21.

LỜI SUY NIỆM: “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời.”

          Chúa Giêsu nối kết câu chuyện con rắn được giương cao trong sa mạc, với sự Người được giương cao trên Thâp Giá, để giúp cho mỗi người trong chúng ta: “Khi nhìn lên Thánh Giá Chúa Giêsu, Người sẽ tỏ cho chúng ta ý nghĩa ẩn kín của nỗi đau và bóng tối, và cả cách mà niềm vui của nó bùng lên từ những gì đã bị thương tích và bị nghiền nát. Người cũng tỏ cho chúng ta thấy rằng Người đang ẩn náu trong con người nghèo khổ, yếu đuối và bị đàn áp, những người dó là tất cả chúng ta hôm nay.” (trích lời nói đầu trong sách Tấm Thân Bị Nghiền Nát)

          Lạy Chúa Giêsu. Xin cho mỗi người trong chúng con luôn nhìn lên Thánh Giá Chúa với niềm tin, và hiệp thông với nhau trong niềm tin và sự trung tín, để chúng con được sống muôn đời với Chúa.

Mạnh Phương

+++++++++++++++++

14 Tháng Ba

Tôi Muốn Con Tôi Sống

“Tôi muốn con tôi sống” đó là lời của bà Suzanna Petrosyan đã thốt ra và được báo chí nhắc lại. Thực ra, có bà mẹ nào lại không muốn con của mình được sống đâu? Thế nhưng trường hợp của bà Petrosyan và đứa con gái 4 tuổi của bà không giống như những trường hợp của nhiều bà mẹ khác, vì hai mẹ con bà này là nạn nhân của cơn động đất khủng khiếp tại Armeni, thuộc liên bang Xô Viết hồi tháng 12 năm 1987.

Sau khi động đất, cũng giống như hàng ngàn người khác, cả hai mẹ con bà Petrosyan đều bị lấp vùi dưới hàng trăm ngàn tấn gạch, đá và xi măng, nhưng họ may mắn nằm lọt vào trong một khoảng trống nhỏ chỉ vừa đủ chỗ cựa quậy mà thôi. Tất cả lương thực họ có chỉ là một hũ mứt và chẳng mấy chốc hũ mứt cũng hết sạch. Lúc đó, cô gái 4 tuổi mới kêu: “Mẹ ơi, con khát quá. Mẹ cho con uống nước”. Nhưng lấy nước đâu bây giờ? Tiếng kêu khát của con cứ tiếp tục làm cho bà mẹ vừa đau lòng vừa lúng túng. Nhưng tình mẫu tử thiêng liêng đã gợi cho bà một ý nghĩ táo bạo: đó là lấy những giọt máu cuối cùng của bà cho con uống để cầm cự với tử thần. Lúc đó, người mẹ đáng thương mới lấy tay sờ sẫm và vớ được một miếng kính bể. Bà lấy miếng kính cắt đầu ngón tay trỏ và đút ngón tay vào miệng con bảo con mút. Em bé mút ngón tay của mẹ một lúc rồi nói: “Mẹ cắt một ngón tay nữa cho con mút thêm”. Bà liền cắt một ngón tay nữa nhưng vì trời lạnh quá nên bà không thấy đau đớn gì nữa… Sau khi được cứu sống, người đàn bà thuật lại rằng: “Lúc đó, tôi biết thế nào tôi cũng chết, nhưng tôi muốn con tôi được sống”.

Tấm gương hy sinh cao cả của bà mẹ trên đây có thể gợi lên Tình Yêu của Ðấng đã nói: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của kẻ thí mạng sống vì người mình yêu”.

Cũng giống như một người mẹ sẵn sàng hy sinh đến giọt máu cuối cùng để cho đứa con được sống. Chúa Giêsu cũng đã hy sinh chính mạng sống của mình cho con người được sống. Sự sống thần linh mà Chúa Giêsu muốn thông ban cho con người cũng chính là tình yêu của Ngài. Chịu treo trên thập giá, đổ ra cho đến giọt máu cuối cùng, Chúa Giêsu chỉ muốn cho con người được sống và sống trong tình yêu. Ai sống trong tình yêu, người đó đang sống thực sự, bởi vì người đó đang sống trong Chúa.

Nhờ phép Rửa Tội, người Kitô chúng ta đang sống bằng sự sống của Thiên Chúa. Ðó là kết quả của những giọt máu của Ðấng đã chịu chết vì chúng ta trên thập giá… Những giọt máu thần linh ấy một cách nào đó, đang châu lưu trong chúng ta. Máu ngừng chảy, máu không châu lưu, tình yêu không được san sẻ cho người khác, cũng sẽ làm cho con người chết khô cằn… Bao lâu chúng ta khước từ không san sẻ tình yêu cho người khác, chúng ta cũng chối bỏ chính tình yêu của Chúa.

(Lẽ Sống)

++++++++++++++++++

Lời Chúa Mỗi Ngày

Chúa Nhật IV Mùa Chay, Năm B

Bài đọc: II Chro 36:14-17, 19-23; Eph 2:4-10; Jn 3:14-21.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Tình thương Thiên Chúa cứu chuộc con người.

             Con người thường đặt câu hỏi khi phải đối diện những tai ương tàn khốc: “Tại sao một Thiên Chúa tốt lành lại để con người phải chịu những hậu quả thảm khốc như thế?” Nếu không tìm được câu trả lời thích đáng, họ sẽ từ chối tin vào Thiên Chúa vì hai lý do: hoặc không có Thiên Chúa hoặc Thiên Chúa không có lòng thương xót.

             Các Bài Đọc hôm nay cung cấp cho chúng ta câu trả lời thích đáng. Trong Bài Đọc I, tác giả Sách Sử Biên Niên II tường trình cách vắn gọn tiến trình giáo dục con người của Thiên Chúa. Hình phạt chỉ là cách cuối cùng để con người nhận ra lầm lỗi của mình và để ngăn ngừa con người khỏi hư mất đời đời. Trong Bài Đọc II, Thánh Phaolô xác quyết Thiên Chúa đã tỏ lòng nhân hậu với con người qua biến cố Đức Kitô. Ngài sẵn sàng hy sinh Người Con Một để chúng ta có thể đạt được Ơn Cứu Độ là sự sống muôn đời. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu nói rõ: Thiên Chúa đã quá yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Mình. Mục đích của Ngài không là để kết án thế gian, nhưng để thế gian nhờ Người Con mà được Ơn Cứu Độ.  

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC: 

1/ Bài đọc I: Tiến trình giáo dục của Thiên Chúa.

1.1/ Ngài dạy dỗ và cảnh cáo con người:

            – Con người phạm nhiều tội và nhiều lần. Sách Sử Biên Niên chỉ nói cách tổng quát các tội: “Tất cả các thủ lãnh của các tư tế và dân chúng mỗi ngày một thêm bất trung bất nghĩa, học theo mọi thói ghê tởm của chư dân và làm cho Nhà Đức Chúa đã được thánh hiến ở Jerusalem ra ô uế.”

            – Sai nhiều ngôn sứ đến cảnh cáo: Con người đã được Thiên Chúa dạy dỗ qua Lề Luật, họ đã biết những gì họ phải làm và hậu quả họ phải chịu nếu không giữ cẩn thận các Lề Luật. Tuy nhiên, vì tình thương, “Thiên Chúa vẫn không ngừng sai sứ giả của Người đến cảnh cáo họ, vì Người hằng thương xót dân và thánh điện của Người. Nhưng họ nhạo cười các sứ giả của Thiên Chúa, khinh thường lời Người và chế giễu các ngôn sứ của Người.”

1.2/ Ngài sửa phạt dân như lời Ngài đã cảnh cáo:

            – Sau khi Thiên Chúa kiên nhẫn dạy dỗ dân qua Lề Luật và các Ngôn-sứ, và họ cố chấp không chịu nghe lời, Thiên Chúa dùng Vua Canđê như chiếc roi để sửa phạt dân: “Đức Chúa để cho vua Canđê tiến lên đánh họ; vua này dùng gươm giết các thanh niên ngay trong Thánh Điện của họ, chẳng chút xót thương bất kể thanh niên thiếu nữ, kẻ đầu xanh cũng như người tóc bạc. Đức Chúa trao tất cả họ vào tay vua Canđê. Quân Canđê đốt Nhà Thiên Chúa, triệt hạ tường thành Jerusalem, phóng hoả đốt các lâu đài trong thành và phá huỷ mọi đồ đạc quý giá. Những ai còn sót lại không bị gươm đâm, thì vua bắt đi đày ở Babylon; họ trở thành nô lệ của vua và con cháu vua, cho đến thời vương quốc Ba-tư ngự trị.”

            – Mục đích của việc sửa phạt là để cho dân nhận ra tội lỗi và hậu quả của nó, chứ không phải để thỏa mãn tính nóng giận mà để cho chết. Nếu Thiên Chúa không sửa phạt, dân chúng sẽ chết hết trong tội của họ. Khi Thiên Chúa sửa phạt, một số sẽ nhận ra tội lỗi, và bắt đầu cuộc hành trình trở lại với Ngài, để được Ngài xót thương. Như vậy, hình phạt cần thiết để tạo nên sự thống hối ăn năn, và để ngăn ngừa dân khỏi các hình phạt nặng nề hơn, nhất là cái chết.

1.3/ Thiên Chúa sửa phạt rồi lại xót thương:

            – Thiên Chúa xót thương vì Ngài là Cha: Khi dân biết nhận ra tội của họ và thực lòng ăn năn thống hối, Thiên Chúa tha thứ và cứu dân khỏi hình phạt họ đang chịu. Ngài xót thương vì Ngài là Cha, và không một người cha nào muốn con mình phải hư mất. Ngài hòan lại tất cả những gì con cái Israel đã mất: quê hương, Đền Thờ, và Lời Hứa với các Tổ-phụ.

            – Thiên Chúa có tòan quyền trên tất cả quyền lực của thế gian: Điều này chứng tỏ qua các sự kiện: Ngài dùng Vua Babylon như chiếc roi để sửa phạt dân; khi dùng xong, Ngài bẻ gãy chiếc roi bằng việc trao đế quốc Babylon vào tay Cyrus, Vua Ba-tư. Chính Vua này lại trở thành khí cụ Chúa dùng để phóng thích dân Do-thái, cho về để tái thiết lại quốc gia và Đền Thờ. Điều này đã được Thiên Chúa báo trước qua lời ngôn sứ Jeremiah; để khi xảy ra, dân chúng biết đó không phải là chuyện tình cờ, nhưng đã được xếp đặt trước bởi Thiên Chúa, để họ tin vào Ngài.

2/ Bài đọc II: Thiên Chúa tỏ lòng nhân hậu với chúng ta trong Đức Kitô Giêsu.

2.1/ Thiên Chúa tỏ tình yêu cho con người qua Đức Kitô:

            – Đức Kitô đến để lấp đầy khỏang cách xa lạ giữa con người và Thiên Chúa: Tội lỗi làm con người mặc cảm và xa lánh Thiên Chúa; Đức Kitô đến để mời gọi con người quay về với tình yêu Thiên Chúa.

            – Ngài nâng cao địa vị và phẩm giá con người: “Họ là con Thiên Chúa và Ngài yêu thương họ.” Tội lỗi làm mất đi các đặc quyền con người được hưởng như một người con của Thiên Chúa. Đức Kitô đến để phục hồi cho con người quyền làm con. Dụ ngôn Người Cha nhân hậu dẫn chứng rõ ràng điều này.

            – Ngài hướng lòng con người lên những điều tốt lành thánh thiện và giải thóat con người khỏi xiềng xích của tội, Ngài cho con người cảm nghiệm được tình thương Thiên Chúa.

            – Ngài cứu con người khỏi chết và cho con người được cùng sống lại với Đức Kitô. Chính do Đức Kitô mà con người đạt được đích điểm Thiên Chúa đã phác họa cho con người.

2.2/ Chúng ta được cứu độ là do bởi ân sủng của Thiên Chúa:

            – Hòan tòan là do bởi ân sủng của Thiên Chúa: Con người không thể làm gì để đạt Ơn Cứu Độ, vì tất cả đều phạm tội, và như một hậu quả, tất cả đều đáng phải chết. Nhưng tại sao con người không phải chết là hòan tòan do lòng thương xót của Thiên Chúa: Ngài cho Người Con Một của mình để chết thay cho nhân lọai. Điều Thiên Chúa mong muốn là con người hãy tin vào Người Con; và qua niềm tin này, con người sẽ nhận được Ơn Cứu Độ: “Quả vậy, chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ: đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa; cũng không phải bởi việc anh em làm, để không ai có thể hãnh diện.”

            – Chúng ta là tác phẩm của Thiên Chúa: “Chúng ta được dựng nên trong Đức Kitô Giêsu, để sống mà thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta.” Như nguyện ước của các cha mẹ khi sinh con ra đời, họ muốn con nên người và đạt được mọi kỳ vọng họ đặt nơi con. Để giúp con đạt được những kỳ vọng này, họ sẵn sàng hy sinh tất cả. Thiên Chúa cũng thế, Ngài cho con người ra đời là muốn tất cả đạt tới Ơn Cứu Độ. Để giúp con người đạt đích, Ngài sẵn sàng hy sinh tất cả, ngay cả việc cho đi chính Ngài qua Mầu Nhiệm Thập Giá.

3/ Phúc Âm: Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người.

3.1/ Nhờ Đức Kitô chịu khổ hình, con người được hưởng ơn Cứu Độ: Chúa Giêsu dùng biến cố “rắn lửa cắn dân chết” trong Sách Dân Số, để loan báo trước về Cuộc Khổ Nạn của Người:

            – Như nọc độc của rắn làm dân phải chết, nọc độc của tội cũng làm dân phải chết (Num 21:4-9). Như ông Moses đã giương cao con rắn trong sa mạc, Chúa Kitô cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để cứu chuộc con người.

            – Điều kiện để được chữa khỏi nọc độc của rắn là phải nhìn lên con rắn đồng trong sa mạc; điều kiện để được sống muôn đời là nhìn lên Cây Thập Giá và phải tin vào Đức Kitô. Khi nhìn lên Thập Giá, con người phải hiểu được tình thương Thiên Chúa dành cho con người; khi Ngài cho Người Con Một là Ngài cho chính Ngài: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.”

3.2/ Thiên Chúa không kết án thế gian, con người lên án chính mình:

            – Tình thương không có chỗ cho buộc tội, kết án: Mục đích của việc Chúa Cha sai Người Con tới là để gánh tội và chết cho con người: “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ.” 

            – Con người kết án chính mình khi từ chối tình yêu Thiên Chúa, và không tin vào Đức Kitô: “Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa.”

3.3/ Bản án của con người: “Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa.”

            – Ánh sáng và bóng tối: Ánh sáng là chính Đức Kitô, là Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa. Khi Đức Kitô đến, Ngài buộc con người phải làm quyết định: tin hay không tin vào Ngài. Bóng tối là tội lỗi, là những cám dỗ bất chính của Satan.

            – Con người có tự do lựa chọn: Họ có thể chọn ra ngòai ánh sáng hay ở trong bóng tối, chọn Thiên Chúa hay chọn ma quỉ. Khi con người chọn đàng nào, con người phải chấp nhận hậu quả của nó. Chọn ánh sáng sẽ dẫn con người tới Ơn Cứu Độ; chọn bóng tối sẽ làm cho con người phải chết muôn đời. Con người lên án chính mình bằng ngoan cố ở trong bóng tối.

            – Theo Gioan, Thiên Chúa chẳng cần phán xét con người, họ phán xét chính mình. Con người cũng chẳng cần phải đợi Ngày Phán Xét; chính lúc con người lựa chọn ở trong bóng tối là con người tuyên án cho chính mình (Realized eschatology, “phán xét ngay hiện tại” là thế). Phán xét tương lại hòan tòan tùy thuộc vào phán xét hiện tại.

            – Kẻ làm điều gian ác thích ở trong bóng tối, vì sợ nếu ra ngòai ánh sáng, các tội lỗi của mình sẽ bị lật tẩy. Điều này chúng ta dễ nhận ra vì đa số các tội ác xảy ra ban đêm và những chỗ vắng vẻ không người, như lời Tin Mừng hôm nay: “Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách.”

            – Ngược lại, người làm điều chân thật lại thích ở trong ánh sáng để tránh mọi nguy hiểm do bóng tối mang lại: “Nhưng kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa.” 

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG: 

            – Tiến trình giáo dục của con người giúp chúng ta nhận ra tiến trình giáo dục của Thiên Chúa. Hình phạt chỉ là cách thế sau cùng Thiên Chúa dùng trong tiến trình giáo dục.

            – Ngay cả khi xử dụng hình phạt, tình thương của Thiên Chúa vẫn chiếu sáng. Nếu không có hình phạt, con người sẽ không nhận ra lỗi lầm của mình.

            – Cần nhìn tòan thể Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa trước khi con người có thể phê bình cách thức của Ngài dùng. Nếu chỉ nhìn vào một biến cố, con người dễ mất niềm tin nơi Ngài. 

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

****************