Chúa Nhật (15-09-2019) – Trang suy niệm

14/09/2019

Lời Chúa Hôm Nay

Chúa Nhật Tuần XXIV Mùa Thường Niên Năm C

BÀI ĐỌC I: Xh 32, 7-11. 13-14

“Chúa đã nguôi cơn giận, không thực hiện điều dữ mà Người đe doạ phạt dân Người”.

Trích sách Xuất Hành.

Trong những ngày ấy, Chúa phán cùng Môsê rằng: “Ngươi hãy đi xuống; dân mà ngươi dẫn ra khỏi đất Ai-cập đã phạm tội. Chúng đã sớm bỏ đường lối Ta đã chỉ dạy cho chúng, chúng đã đúc tượng bò con và sấp mình thờ lạy nó; chúng đã dâng lên nó của lễ hiến tế và nói rằng: “Hỡi Israel, này là Thiên Chúa ngươi, Đấng đã đưa ngươi ra khỏi đất Ai-cập”. Chúa phán cùng Môsê: “Ta thấy rõ dân này là một dân cứng cổ. Ngươi hãy để Ta làm, Ta sẽ nổi cơn thịnh nộ với chúng và sẽ huỷ diệt chúng, rồi Ta sẽ làm cho ngươi trở nên tổ phụ một dân tộc vĩ đại”.

Môsê van xin Chúa là Thiên Chúa của ông rằng: “Lạy Chúa, tại sao Chúa nổi cơn thịnh nộ với dân mà Chúa đã dùng quyền lực và cánh tay hùng mạnh đưa ra khỏi đất Ai-cập? Xin Chúa nhớ đến Abraham, Isaac và Israel tôi tớ Chúa, vì chính Chúa đã thề hứa rằng: “Ta sẽ làm cho con cháu các ngươi sinh sản ra nhiều như sao trên trời. Ta sẽ ban cho con cháu các ngươi toàn cõi xứ này như lời Ta đã hứa, và các ngươi sẽ chiếm hữu xứ này mãi mãi”. Chúa đã nguôi cơn giận, không thực hiện điều dữ mà Người đe doạ phạt dân Người. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 50, 3-4. 12-13. 17 và 19

Đáp: Tôi sẽ chỗi dậy và đi về cùng cha tôi (Lc 15, 18).

Xướng:

1) Lạy Chúa, nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa, xoá tội con theo lượng cả đức từ bi. Xin rửa con tuyệt gốc lỗi lầm, và tẩy con sạch lâng tội ác. – Đáp.

2) Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch, và canh tân tinh thần cương nghị trong người con. Xin đừng loại con khỏi thiên nhan Chúa, chớ thu hồi Thánh Thần Chúa ra khỏi con. – Đáp.

3) Lạy Chúa, xin mở môi con, miệng con sẽ loan truyền lời ca khen. Của lễ con dâng, lạy Chúa, là tâm hồn tan nát, lạy Chúa, xin đừng chê tấm lòng tan nát khiêm cung. – Đáp.

BÀI ĐỌC II: 1 Tm 1, 12-17

“Đức Giêsu Kitô đã đến trong thế gian để cứu độ những người tội lỗi”.

Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi Timôthêu.

Cha cảm tạ Đấng đã ban sức mạnh cho cha là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, vì Người đã kể cha là người trung tín, khi đặt cha thi hành chức vụ: dù trước kia cha là kẻ nói phạm thượng, bắt đạo và kiêu căng, nhưng cha đã được Thiên Chúa thương xót, vì cha vô tình làm những sự ấy trong lúc cha chưa tin. Nhưng ân sủng của Chúa chúng ta đã tràn lan dồi dào cùng với đức tin và đức mến trong Đức Giêsu Kitô.

Lời nói chân thật và đáng tiếp nhận mọi đàng là: Đức Giêsu Kitô đã đến trong thế gian này để cứu độ những người tội lỗi, trong số ấy, cha là người thứ nhất. Vì thế, cha được hưởng nhờ ơn thương xót, là Đức Giêsu Kitô tỏ ra tất cả lòng khoan dung trong cha trước hết, để nêu gương cho những ai sẽ tin vào Người hầu được sống đời đời.

Danh dự và vinh quang (xin dâng về) Thiên Chúa độc nhất, hằng sống, vô hình, là Vua muôn đời. Amen! Đó là lời Chúa.

ALLELUIA: Ga 14, 23

Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy. – Alleluia. 

PHÚC ÂM: Lc 15, 1-10 hoặc 1-32

“Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, những người thâu thuế và những người tội lỗi đến gần Chúa Giêsu để nghe Người giảng. Thấy vậy, những người biệt phái và luật sĩ lẩm bẩm rằng: “Ông này đón tiếp những kẻ tội lỗi, cùng ngồi ăn uống với chúng”. Bấy giờ Người phán bảo họ dụ ngôn này: “Ai trong các ông có một trăm con chiên, và nếu mất một con, lại không để chín mươi chín con khác trong hoang địa mà đi tìm con chiên lạc, cho đến khi tìm được sao? Và khi đã tìm thấy, người đó vui mừng vác chiên trên vai, trở về nhà, kêu bạn hữu và những người lân cận mà nói rằng: “Anh em hãy chia vui với tôi, vì tôi đã tìm thấy con chiên lạc!” Cũng vậy, Tôi bảo các ông: “Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần hối cải.

“Hay là người đàn bà nào có mười đồng bạc, nếu mất một đồng, mà lại không đốt đèn, quét nhà và tìm kỹ lưỡng cho đến khi tìm thấy sao? Và khi đã tìm thấy, bà mời các chị em bạn và những người láng giềng đến mà rằng: ‘Chị em hãy vui mừng với tôi, vì tôi đã tìm được đồng bạc tôi đã mất’. Cũng vậy, Tôi bảo các ông: Các Thiên Thần của Thiên Chúa sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải”.

Người lại phán rằng: “Người kia có hai con trai. Đứa em đến thưa cha rằng: ‘Thưa cha, xin cha cho con phần gia tài thuộc về con’. Người cha liền chia gia tài cho các con. Ít ngày sau, người em thu nhặt tất cả tiền của mình, trẩy đi miền xa và ở đó ăn chơi xa xỉ, phung phí hết tiền của. Khi nó tiêu hết tiền của, thì vừa gặp nạn đói lớn trong miền đó và nó bắt đầu cảm thấy túng thiếu. Nó vào giúp việc cho một người trong miền, người này sai nó ra đồng chăn heo. Nó muốn ăn những đồ heo ăn cho đầy bụng, nhưng cũng không ai cho. Bấy giờ nó muốn hồi tâm lại và tự nhủ: “Biết bao người làm công ở nhà cha tôi được ăn dư dật, còn tôi, tôi ở đây phải chết đói! Tôi muốn ra đi, trở về với cha tôi và thưa người rằng: ‘Lạy cha, con đã lỗi phạm đến Trời và đến cha; con không đáng được gọi là con cha nữa, xin cha đối xử với con như một người làm công của cha’. Vậy nó ra đi và trở về với cha nó. Khi nó còn ở đàng xa, cha nó chợt trông thấy, liền động lòng thương; ông chạy lại ôm choàng lấy cổ nó hồi lâu. Người con trai lúc đó thưa rằng: ‘Lạy cha, con đã lỗi phạm đến Trời và đến cha; con không đáng được gọi là con cha nữa’. Nhưng người cha bảo các đầy tớ: ‘Mau mang áo đẹp nhất ra đây và mặc cho cậu, hãy đeo nhẫn vào ngón tay cậu và xỏ giầy vào chân cậu. Hãy bắt con bê béo làm thịt để chúng ta ăn mừng, vì con ta đây đã chết, nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy’. Và người ta bắt đầu ăn uống linh đình.

“Người con cả đang ở ngoài đồng. Khi về gần đến nhà, nghe tiếng đàn hát và nhảy múa, anh gọi một tên đầy tớ để hỏi xem có chuyện gì. Tên đầy tớ nói: ‘Đó là em cậu đã trở về và cha cậu đã giết con bê béo, vì thấy cậu ấy trở về mạnh khoẻ’. Anh liền nổi giận và quyết định không vào nhà. Cha anh ra xin anh vào. Nhưng anh trả lời: ‘Cha coi, đã bao năm con hầu hạ cha, không hề trái lệnh cha một điều nào, mà không bao giờ cha cho riêng con một con bê nhỏ để ăn mừng với chúng bạn, còn thằng con của cha kia, sau khi phung phí hết tài sản của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại sai làm thịt con bê béo ăn mừng nó’.

“Nhưng người cha bảo: ‘Hỡi con, con luôn ở với cha, và mọi sự của cha đều là của con. Nhưng phải ăn tiệc mừng, vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy'”. Đó là lời Chúa.

(thanhlinh.net)

++++++++++++++++++

15/09/2019 – CHÚA NHẬT TUẦN 24 TN – C

Lc 15,1-32

ĐỒNG CẢM VỚI LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT

“Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó.” (Lc 15,6)

Suy niệm: Qua bài Tin Mừng dài với ba dụ ngôn: con chiên đi lạc, đồng bạc bị mất và người cha nhân hậu, Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay khoản đãi Dân Chúa một bữa tiệc thật thịnh soạn về Lòng Thương Xót Chúa. Nhờ những lời “xầm xì” của các kinh sư và Pha-ri-sêu khi thấy “những người thu thuế và những người tội lỗi lui tới với Đức Giê-su” mà chúng ta biết được rằng họ –“phường tội lỗi”– chính là đối tượng ưu tiên của lòng Chúa thương xót. Thiên Chúa, Đấng vô cùng thánh thiện nhưng cũng giàu lòng thương xót vô cùng, Ngài rất gần gũi với người tội lỗi. Thiên Chúa ưu tư khắc khoải đi tìm kiếm họ để đưa họ trở về. Nỗi ưu tư đó luôn có một cái kết có hậu: niềm vui vì điều đã mất nay được tìm thấy, vì người con đã chết nay sống lại.

Mời Bạn: Phải chăng chúng ta đang lợi dụng, thậm chí lạm dụng lòng thương xót của Chúa khi chạy đến với Ngài để xin ơn này ơn kia, nhất nữa là chỉ xin những lợi lộc vật chất, đời này? Lòng thương xót Chúa mời gọi chúng ta đồng cảm với Ngài, biết ưu tư đau đớn vì tội lỗi, và “chung vui với Ngài” vì Ngài đã “tìm thấy và cứu những gì đã mất” (Lc 19,10). Bạn có thao thức vì nhiều người đang lún sâu trong tội lỗi không? Bạn đã làm gì tích cực để lòng thương xót Chúa có thể đánh động tâm hồn họ và thúc đẩy họ trở về với Ngài không?

Sống Lời Chúa: Thăm một người xa Chúa lâu năm, và kể về lòng thương xót của Chúa: Ngài vẫn đi tìm con chiên lạc.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, lòng thương xót của Chúa dành cho chúng con là khi Chúa tha thứ mọi tội lỗi của chúng con. Chúng con đội ơn Chúa.

(5 Phút Lời Chúa)

++++++++++++++++++

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

15 THÁNG CHÍN

Mầu Nhiệm Hội Thánh

Từ sự hiện diện của Đức Kitô trong thâm sâu cõi lòng con người, chúng ta hãy chiêm ngắm mầu nhiệm Hội Thánh. Bản văn Sách Tông Đồ Công Vụ giúp chúng ta khám phá về sự bắt đầu của Hội Thánh. Hội Thánh là một cộng đoàn được khai sinh từ mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô. Hội Thánh mới được khai sinh này được Chúa Thánh Thần hướng dẫn và làm cho sinh động. Chẳng hạn, chính trong sức mạnh của Chúa Thánh Thần mà các tông đồ đã mạnh dạn xông pha rao giảng.

Nhìn lại chính buổi ban đầu của Giáo Hội, chúng ta nhận thấy một mối liên kết chặt chẽ giữa trách nhiệm nhân loại của các tông đồ và sự linh hứng của Chúa Thánh Thần. Hội Thánh Giêrusalem viết cho dân ngoại: “Điều đó dường như tốt đẹp đối với Chúa Thánh Thần và đối với chúng ta…” (Cv 15,28, RSV). Chắc hẳn ở đây có một ám chỉ về tính cộng tác giữa Chúa Thánh Thần và các tông đồ.

Không hề có chuyện tình cờ ở đây. Cũng như linh hồn của Kitô hữu được Thiên Chúa Ba Ngôi trú ngụ, thì Giáo Hội – là cộng đoàn các Kitô hữu – cũng được Thiên Chúa Ba Ngôi trú ngụ như vậy. Quả thực, Kitô hữu là đền thờ của Thiên Chúa Ba Ngôi bởi vì Kitô hữu là một thành phần trong Nhiệm Thể Đức Kitô, trong mức độ mà Kitô hữu là cành nho sống động, tháp nhập vào thân nho thật là Đức Kitô.

Ngay tại thế này, bất chấp những khốn khổ trong cuộc sống hằng ngày, Hội Thánh vẫn ở trong sự mật thiết với Thiên Chúa, và đấy là cơ sở cho tính bất khả ngộ của Giáo Hội.

– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –

Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác

LIFT UP YOUR HEARTS

Daily Meditations by Pope John Paul II

+++++++++++++++++

Lời Chúa Trong Gia Đình

NGÀY 15/ 9

Chúa Nhật XXIV thường niên

Xh 32, 7-11. 13-14; 1Tm 1, 12-17; Lc 15, 1-32.

LỜI SUY NIỆM: “Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất? Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai. Về đến nhà, người ấy mời bạn bè, hàng xóm lại và nói: hãy chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó.”

          Đối với mọi con người trên trần thế, đặc biệt là những Kitô hữu đều được Chúa Giêsu quan tâm lo lắng với tình thương và quyền năng của Người, Người không muốn để ai bị lạc mất với bất cứ lý do gì; khi có ai bị lạc mất, chính Người sẽ đích thân đi tìm, và tìm cho bằng được, để đem về sum họp cùng một đàn, dưới sự dẫn dắt của Người.

          Lạy Chúa Giêsu. Chúng con đang được ở trong tình thương và sự chăm sóc của Chúa. Xin cho mỗi người trong chúng con, đừng vì bất cứ gì mà phải bỏ xa đàn; cũng như đừng bao giờ làm cớ cho những con chiên trong đàn phải lìa bỏ xa đàn.

Mạnh Phương

+++++++++++++++++

Gương Thánh Nhân

NGÀY 15-09 KÍNH NHỚ BẢY SỰ THƯƠNG KHÓ ĐỨC TRINH NỮ MARIA

Lòng đạo đức của các tín hữu tập trung trước hết vào cảnh nát lòng mà Đức Trinh Nữ phải chịu trong ngày Chúa cứu thế chịu nạn. Họ suy gẫm những nỗi đau của Mẹ. Khi Mẹ gặp Chúa Giêsu. Con Mẹ, vai vác thánh giá, lúc mẹ trên đỉnh Canvê đứng dưới chân thánh giá suốt ba giờ hấp hối của Chúa Giêsu, và trong khi Mẹ dự cuộc mai táng Chúa Giêsu, thực sự trọn cuộc đời Mẹ đầy những thương đau. Việc tôn sùng bảy sự thương khó Đức Trinh Nữ Maria, được một linh mục đạo đức là cha Jean de Coudenberghe thiết lập.

Đau lòng về những tai họa do cuộc nội chiến sau cái chết của nữ bá tước miền Bourgogne, Ngài chạy đến với mẹ sầu khổ. Để hun đúc lòng sùng kính của các tín hữu, Ngài đặt trong ba thánh đường thuộc quyền Ngài một tượng Đức Trinh Nữ với bản khắc bằng thơ, bảy hoàn cảnh đặc biệt đã làm cho Đức Trinh Nữ phải sầu khổ:

  1. Lời tiên tri của Simêon.
    2. Cuộc chạy trốn qua đất Ai cập.
    3. Việc lạc mất Chúa Giêsu tại Giêrusalem.
    4. Việc Chúa Giêsu vác thánh giá.
    5. Việc Chúa Giêsu chịu đóng đinh.
    6. Việc hạ xác Chúa Giêsu khỏi Thánh giá.
    7. Việc táng xác Chúa Giêsu trong mồ.

Ngày 25 tháng 10 năm 1495, Đức Alexandre VI chấp thuận hội Đức Mẹ sầu bi đã được thành lập tại Bỉ năm 1490. Những cuốn niên giám của hội chứng tỏ rằng việc tôn sùng bảy sự thương khó Đức Trinh Nữ Maria đã được phổ biến cách rộng rãi ở hai bên sườn núi Flandres.

Lễ kính nhớ bảy sự thương khó Đức Ttrinh Nữ Maria được cử hành vào ngày thứ sáu trước Chúa nhật Thương khó.

Tuy nhiên lòng sùng kính này còn có trước cả những cử hành trọng thể bề ngoài nữa. Tại Florence năm 1233 đã xuất hiện dòng tôi tớ Đức Bà, đặc biệt tôn sùng việc tử đạo của Ngài. Đến năm 1688, dòng này được đặc ân mừng một lễ thứ hai kính nhớ bảy sự thương khó Đức Trinh Nữ Maria. Ngày 18 tháng 9 năm 1814. Lễ này được Đức Piô VII cho mừng trong cả Giáo hội.

Việc kính nhớ lần thứ hai trong năm phụng vụ này xuất phát bởi ý tưởng cho rằng: trong mùa chay, Giáo hội tập rung vào mầu nhiệm cứu chuộc và không chú ý hoàn toàn vào các sự đau khổ của Mẹ Maria được. Cùng với Giáo hội kính nhớ một lần nữa bảy sự thương khó của Đức Trinh nữ Maria chúng ta chiêm ngưỡng mọi đau khổ của Ngài như sự đồng khổ với Chúa Giêsu, để cùng biết hiệp nhất mọi khó khăn trong đời chúng ta với cuộc khổ nạn hồng phúc của Chúa.

(daminhvn.net)

+++++++++++++++++

15 Tháng Chín

Ðây Sẽ Là Niềm An Ủi Của Con

Một trong những hình ảnh thánh thiện nhất về đời sống Kitô có lẽ là hình ảnh của những người hấp hối trên tay cầm thánh giá.

Người ta kể về một người đạo đức nọ như sau: Trong một cơn bệnh thập tử nhất sinh, chỉ còn một phương thế duy nhất có thể hy vọng cứu sống bà đó là tiến hành cuộc giải phẫu. Người đàn bà chấp nhận cuộc giải phẫu, bà yêu cầu cho con trai bà được chứng kiến giờ phút đau khổ của bà. Vào thời buổi mà thuốc tê mê chưa có, thì bệnh nhân thường phải trải qua những cơn đau khủng khiếp. Mặc dù đau đớn vô cùng, nhưng người đàn bà vẫn cứ cắn răng chịu đựng. Nhưng đến cuối giờ mổ, khi các y sĩ chạm đến gần tim, người đàn bà rùng mình kêu lên: “Lạy Chúa tôi”. Chứng kiến cảnh đau đớn của người mẹ, người con trai không làm chủ được những cảm xúc, anh đã buột miệng thốt lên những lời phàn nàn phạm đến Chúa. Lúc bấy giờ người mẹ liền nghiêm nghị bảo con: “Con ơi, con hãy im đi, con làm mẹ đau đớn hơn các bác sĩ này nhiều. Con đã làm sỉ nhục Ðấng đã ban sức mạnh và an ủi mẹ”. Nói xong, bà ta mở bàn tay ra, và giơ cho mọi người xem một tượng chuộc tội nhỏ bà nắm chặt trong tay suốt giờ mổ. Và đó chính là thứ thuốc tê mê đã xoa dịu cơn đau đớn của bà.

Sau mấy tháng quằn quại trong đớn đau, người đàn bà đã yên nghỉ trong Chúa. Trước khi lìa đời, bà đã trao lại cho cậu con trai tượng ảnh chuộc tội và căn dặn: “Con hãy giữ lấy tượng chuộc tội này. Ðây sẽ là niềm an ủi của con”.

Hôm nay Giáo Hội kính nhớ Ðức Mẹ Ðau Khổ hay cũng thường được gọi là 7 sự thương khó của Ðức Mẹ.

Suốt cuộc đời trần thế, Mẹ Maria quả thực là một người đàn bà đau khổ. Nhưng cũng giống như người đàn bà can đảm trong câu chuyện trên đây, Mẹ luôn có Chúa bên cạnh. Còn nỗi đớn đau nào bằng khi ôm lấy xác Chúa được tháo gỡ từ thập giá? Nhưng đó cũng là bí quyết của Mẹ. Mẹ luôn có Chúa trong lòng, từ lúc cất giữ mọi sự trong lòng để suy niệm cho đến lúc ôm lấy xác Chúa: từng phút giây của cuộc sống, Mẹ đau khổ nhưng luôn có Chúa trong lòng. Sự hiện diện của Chúa trong lòng đã giúp Mẹ đi hết cuộc hành trình Ðức Tin.

Là mẫu mực trong cuộc hành trình Ðức Tin, Mẹ cũng muốn trao gởi Ðấng Cứu Thế cho mỗi người chúng ta. Mang lấy Ðức Kitô chịu đóng đinh trong mình, chúng ta sẽ cảm thấy được sự nâng đỡ trong muôn nghìn thử thách đớn đau trong cuộc sống.

Mẹ Maria đã đảm bảo cho chúng ta điều đó. Chúng ta hãy kết hiệp với thập giá của Ðức Kitô. Trong mọi đau khổ, chúng ta hãy ngước nhìn lên thập giá của Ngài. Chúng ta hãy thốt lên như thánh Phaolô: “Tooi chỉ biết có mỗi Ðức Kitô chịu đóng đinh”.

(Lẽ Sống)

++++++++++++++++++

Lời Chúa Mỗi Ngày

Chúa Nhật 24 Thường Niên, Năm C

Bài đọc: Exo 32:7-11, 13-14; 1 Tim 1:12-17; Lk 15:1-10 (hay 1-32).

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Lòng nhân từ của Thiên Chúa

Nhân từ là một trong những đặc tính của Thiên Chúa. Lòng nhân từ của Thiên Chúa được biểu lộ qua tình yêu và sự tha thứ Ngài dành cho con người. Lòng nhân từ của Thiên Chúa không có thời gian và biên giới: bao lâu con người biết thực tâm thống hối và quay về, Ngài sẵn sàng tiếp nhận và phục hồi quyền làm con cho họ. Trong tiến trình hòa giải, Thiên Chúa luôn đi bước trước bằng cách dùng những người trung gian và ban cơ hội để tội nhân có thể quay về. Lòng nhân từ của Thiên Chúa là lý do không những làm con người có cơ hội trở lại mà còn làm thăng hoa người trở lại để họ tỏ lòng nhân từ cho tất cả những ai cần đến.

Các bài đọc hôm nay muốn nêu bật lòng nhân từ của Thiên Chúa dành cho các tội nhân. Trong bài đọc I, khi Thiên Chúa có ý định muốn tiêu diệt con cái Israel vì họ đã đúc một con bê bằng vàng để thờ lạy nó thay vì Ngài, ông Moses đã hết lòng cầu xin cùng Thiên Chúa cho dân vì hai lý do: để bảo vệ Danh Thánh của Thiên Chúa và giữ lời hứa với các tổ phụ. Thiên Chúa đã nhận lời và không tiêu diệt dân lúc đó. Trong bài đọc II, Phaolô nhớ lại lòng nhân từ Thiên Chúa đã dành cho ông trên đường đi Damascus bắt bớ các tín hữu tin theo Đức Kitô. Ông biết Thiên Chúa muốn ông cảm nghiệm lòng nhân từ của Ngài, để rồi khi tới lượt, ông có thể tự bày tỏ lòng nhân từ của Thiên Chúa cho tha nhân. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu kể cho dân ba câu truyện (hai trong bài đọc ngắn) để diễn tả lòng nhân từ của Thiên Chúa dành cho tội nhân.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Moses là người trung gian cầu nguyện cùng Thiên Chúa cho dân.

1.1/ Dân ngươi đã hư hỏng rồi: Hậu trường của trình thuật hôm nay là biến cố 40 năm thử thách và thanh luyện trong sa mạc, trước khi đưa con cái Israel vào Đất Hứa. Khi Moses ở trên núi Sinai với Thiên Chúa để Ngài ban hành Thập Giới cho dân lâu quá, dân chúng dưới trại tưởng họ đã mất ông; nên họ mới chạy đến ông Aaron hỏi, và ông này đã yêu cầu họ đưa vàng vòng cho ông, và ông đã đúc một con bê bằng vàng cho họ tôn thờ.

Vì thế, Đức Chúa phán với ông Moses: “Hãy đi xuống, vì dân ngươi đã hư hỏng rồi, dân mà ngươi đã đưa lên từ đất Ai-cập. Chúng đã vội đi ra ngoài con đường Ta truyền cho chúng đi. Chúng đã đúc một con bê, rồi sụp xuống lạy nó, tế nó và nói: “Hỡi Israel, đây là thần của ngươi đã đưa ngươi lên từ đất Ai-cập.””

Còn gì buồn hơn khi Thiên Chúa và ông Moses đang lo cho dân chúng hết mọi sự về tinh thần cũng như thể xác, mà dân dễ dàng thay đổi và sa chước cám dỗ cách nhanh chóng. Họ vừa mới chứng kiến uy quyền và tình thương của Thiên Chúa qua việc vượt thoát ra khỏi đất nô lệ Ai-cập; giờ thay dạ đổi lòng và mù quáng đến độ sụp lạy một con vật vô tri vô giác do chính tay mình tạo nên, và cho nó là thần đã giải thoát mình! Nếu Thiên Chúa hành xử theo công bằng, không ai có thể trách Ngài được một lời vì tội quá to lớn của con cái Israel. Nhiều người chắc cũng đồng ý với Thiên Chúa: “Xin Ngài cứ thẳng tay tiêu diệt lũ vô ơn bội nghĩa đó!”

Để tránh cho Moses khỏi thất vọng, Đức Chúa lại phán với ông: “Ta đã thấy dân này rồi, đó là một dân cứng đầu cứng cổ. Bây giờ cứ để mặc Ta, cứ để cơn thịnh nộ của Ta bừng lên phạt chúng, và Ta sẽ tiêu diệt chúng; nhưng Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn.”

1.2/ Ông Moses cố làm cho nét mặt Đức Chúa dịu lại: Moses có lẽ đã học được bài học nhân từ của Thiên Chúa, vì chính ông cũng đã từng xin Ngài cất gánh nặng con cái Israel khỏi vai ông, khi họ than phiền vì không có thịt để ăn: “Ông Moses nghe thấy dân tụm năm tụm bảy theo thị tộc mà kêu khóc tại cửa lều của mình. Còn Đức Chúa thì bừng bừng nổi giận. Ông lấy làm khổ tâm và thưa với Đức Chúa: “Sao Ngài lại làm khổ tôi tớ Ngài? Tại sao con lại không đẹp lòng Ngài, khiến Ngài đặt gánh nặng tất cả dân này lên con? Có phải con đã cưu mang tất cả dân này không? Có phải con đã sinh ra nó không mà Ngài lại bảo con: “Hãy bồng nó vào lòng, như vú nuôi bồng trẻ thơ, mà đem vào miền đất Ta đã thề hứa với cha ông chúng? Con lấy đâu ra thịt cho cả dân này ăn, khi chúng khóc lóc đòi con: “Cho chúng tôi thịt để chúng tôi ăn?” Một mình con không thể gánh cả dân này được nữa, vì nó nặng quá sức con” (Num 11:10-14).

Trong tiến trình giáo dục con người, cả Thiên Chúa, người lãnh đạo, và dân chúng đều phải rất kiên nhẫn; vì dễ dàng để phủi tay, phá hủy và xây dựng lại, nhưng rất khó để thay đổi những cái cũ đã hư. Con người không phải là một đồ vật để có thể vứt đi và mua sắm đồ mới; nhưng họ cần được sửa đổi cho tốt lành hơn. Giáo dục con người để trở nên tốt lành là một tiến trình có khi đòi cả một đời người.

Ông Moses dùng hai lý do để xin Thiên Chúa đừng tiêu diệt dân: (1) Để bảo vệ Danh Chúa, vì ông sợ người Ai-cập sẽ nói Ngài mang dân vào sa mạc để tiêu diệt họ. (2) Lời Thiên Chúa hứa với các tổ-phụ là sẽ ban một dòng dõi và Đất Hứa. Đức Chúa đã thương không giáng phạt dân Người như Người đã đe.

2/ Bài đọc II: Thiên Chúa đã chứng tỏ lòng nhân từ của Người cho Phaolô.

2.1/ Phaolô nhận ra lòng nhân từ của Thiên Chúa: Hậu trường của trình thuật hôm nay là biến cố ngã ngựa, trở thành mù lòa, và được sáng mắt của Phaolô trên đường đi Damascus. Phaolô biết Đức Kitô đã tha thứ, tuyển chọn, và ban sức mạnh của Người cho ông đang khi ông còn là tội nhân, vì ông đang trên đường đi Damascus để bắt các tín hữu của Ngài về cầm tù tại Jerusalem.

Hai lý do chính của việc bắt đạo Phaolô liệt kê ra: (1) Kiêu ngạo: ông nghĩ con người có thể được cứu độ bằng việc giữ luật cách nghiêm chỉnh, chứ không cần tin vào một ông Giêsu nào đó đã chết. (2) Vô ý thức hay không biết sự thật như ông nói: “Tôi đã hành động một cách vô ý thức, trong lúc chưa có lòng tin.” Đây là lý do mà đa số con người phải đương đầu với khi phạm tội.

Cả hai lý do này đều có thể tránh được nếu con người biết khiêm nhường học hỏi sự thật. Thiên Chúa trang bị cho Phaolô và mọi người tất cả những thứ cần thiết để họ luôn biết kết hợp với Ngài. Điều cần là các tín hữu phải biết nhận ra và chạy đến lãnh nhận những ơn lành cần thiết để khỏi bị sa ngã. Nếu không, thuốc mặc dù đã có sẵn, nhưng không thể chữa bệnh cho những người không biết hay từ chối uống.

2.2/ Phaolô tuyên xưng lòng nhân từ của Thiên Chúa cho mọi người: Sau khi đã cảm nghiệm được lòng nhân từ của Thiên Chúa, Phaolô biết có hai điều ông phải làm:

(1) Tuyên xưng lòng nhân từ Thiên Chúa đã dành cho ông: Phaolô biết rõ mọi người cần được nghe Tin Mừng của Đức Kitô để họ cũng được cứu độ. Ông mạnh dạn tuyên xưng: “Đây là lời đáng tin cậy và đáng mọi người đón nhận: Đức Giêsu Kitô đã đến thế gian, để cứu những người tội lỗi, mà kẻ đầu tiên là tôi.”

(2) Biết đối xử nhân từ với những tội nhân: Ngài muốn ông cảm nghiệm rõ thế nào là sự xấu xa của tội lỗi, và thế nào là lòng nhân từ vô bờ của Thiên Chúa; để rồi khi tới phiên ông, ông có sức mạnh để tha thứ tội lỗi của anh em và chứng tỏ lòng nhân từ của ông cho họ.

Mỗi người chúng ta cần nhớ lại những gì Thiên Chúa đã làm trong cuộc đời để rồi chúng ta đừng bao giờ lên mặt luận tội anh chị em mình, nhưng biết tha thứ cho họ hết lòng.

3/ Phúc Âm: Đức Kitô đem những tội nhân về cho Thiên Chúa.

3.1/ Người Pharisees phê bình Chúa Giêsu đồng bàn với tội nhân:

Sứ mạng của Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, đến trần gian là đem tất cả mọi người về cho Thiên Chúa. Nếu Ngài không đến, sẽ không một ai có thể được giao hòa và đến với Thiên Chúa. Vì thế, sự kiện Ngài “đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng” là điều hiển nhiên, vì đó là sứ mạng của Ngài. Các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giêsu để nghe Ngài giảng, vì họ nhận ra tội lỗi của họ và lòng nhân từ của Thiên Chúa.

Chỉ có các Pharisees và kinh sư xầm xì bàn tán, vì họ kiêu ngạo. Họ không nhận ra tội lỗi của họ và vì tự cho là công chính, họ tin có thể đạt tới ơn cứu độ mà không cần đến lòng nhân từ của Thiên Chúa.

3.2/ Ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối: Chúa Giêsu kể một loạt 3 câu truyện để dẫn chứng lòng nhân từ của Thiên Chúa dành cho con người.

(1) Tìm con chiên bị thất lạc: Tất cả những chi tiết Lucas mô tả đều quan trọng cho việc nhận ra lòng nhân từ của Thiên Chúa.

+ Không nói lý do con chiên đi lạc: Người mục tử không cần biết lý do, ông chỉ biết sứ vụ của ông là đi tìm nó.

+ Lòng nhân từ của người chăn chiên: Ông đi tìm cho được con chiên lạc, chứ không đợi cho chiên lạc trở về.

+ Khi tìm được con chiên lạc, ông mừng rỡ vác chiên lên vai. Ông không đánh chiên vì tội đi lạc, cũng không làm chiên xấu hổ vì tội đi lạc; nhưng chứng tỏ cho chiên biết nó được yêu thương qua việc vác chiên trên vai.

+ Kêu gọi bạn bè và hàng xóm đến ăn mừng: Lý do ăn mừng là tìm được con chiên bị mất. Một con chiên thế nào đi nữa đều có giá trị với người mục tử nhân lành.

+ Thiên Chúa và triều đình thiên quốc cũng vui mừng như thế: “Vậy, tôi nói cho các ông hay: trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn.”

(2) Tìm đồng tiền bị mất:

+ Chẳng để ý đến lý do bị mất.

+ Bà làm hết mọi cách để tìm cho kỳ được: thắp đèn, quét nhà, moi móc. Thiên Chúa cũng làm mọi cách để tìm cho được các tội nhân và đưa về.

+ Ăn mừng? Nhiều người châm biếm: Bà phải tiêu 9 quan kia để mở tiệc ăn mừng đãi hàng xóm! Câu truyện không nằm chỗ đó; nhưng nếu có phải tiêu hết 9 quan, Thiên Chúa cũng cho Bà 10 quan khác.

+ Thiên Chúa và triều thần sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Mọi người chúng ta đều đã lãnh nhận lòng nhân từ của Thiên Chúa qua việc Ngài yêu thương, tha thứ và bảo vệ chúng ta trong cuộc đời.

– Khi đã được hưởng lòng nhân từ của Thiên Chúa, chúng ta phải đứng dậy, đi kiếm các anh chị em đang cần lòng nhân từ của Thiên Chúa và của chúng ta.

– Chúng ta đừng bao giờ có thái độ kiêu ngạo không cần lòng nhân từ của Thiên Chúa, hay hung hăng luận tội anh chị em.

– Mọi người đều có thể sa ngã bất cứ lúc nào; vì thế, mọi người đều cần đến sự hiện diện của Thiên Chúa qua đời sống cầu nguyện và qua các bí tích.

– Hãy nhẩm đi nhắc lại điệp ca này để ca tụng Thiên Chúa: “Hãy ca ngợi Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Ngài vẫn trọn tình thương.”

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

****************