Chúa Nhật (17-02-2019) – Trang suy niệm

16/02/2019

Lời Chúa Hôm Nay

Chúa Nhật Tuần VI Mùa Thường Niên Năm C

BÀI ĐỌC I: Gr 17, 5-8

“Khốn thay cho kẻ tin tưởng người đời; phúc thay cho người tin tưởng vào Thiên Chúa”.

Trích sách Tiên tri Giêrêmia.

Đây Chúa phán: “Khốn thay cho kẻ tin tưởng người đời, họ nương tựa vào sức mạnh con người, còn tâm hồn họ thì sống xa Chúa. Họ như cây cỏ trong hoang địa, không cảm thấy khi được hạnh phúc; họ ở những nơi khô cháy trong hoang địa, vùng đất mặn không người ở. Phúc thay cho người tin tưởng vào Thiên Chúa, và Chúa sẽ là niềm cậy trông của họ. Họ sẽ như cây trồng nơi bờ suối, cây đó đâm rễ vào nơi ẩm ướt, không sợ gì khi mùa hè đến, lá vẫn xanh tươi, không lo ngại gì khi nắng hạn mà vẫn sinh hoa kết quả luôn. Đó là lời Chúa. 

ĐÁP CA: Tv 1, 1-2. 3. 4 và 6

Đáp: Phúc thay người đặt niềm tin cậy vào Chúa (Tv 39, 5c).

Xướng:

1) Phúc cho ai không theo mưu toan kẻ gian ác, không đứng trong đường lối những tội nhân, không ngồi chung với những quân nhạo báng, nhưng vui thoả trong lề luật Chúa, và suy ngắm luật Chúa đêm ngày. – Đáp.

2) Họ như cây trồng bên suối nước, trổ sinh hoa trái đúng mùa; lá cây không bao giờ tàn úa. Tất cả công việc họ làm đều thịnh đạt.- Đáp.

3) Kẻ gian ác không được như vậy; họ như vỏ trấu bị gió cuốn đi, vì Chúa canh giữ đường người công chính, và đường kẻ gian ác dẫn tới diệt vong. – Đáp. 

BÀI ĐỌC II: 1 Cr 15, 12. 16-20

“Nếu Đức Kitô đã không sống lại, thì lòng tin của anh em cũng là hão huyền”.

Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, nếu Đức Kitô được rao giảng rằng Người đã từ cõi chết sống lại, thì làm sao có người trong anh em cho rằng không có sự sống lại từ cõi chết? Vì nếu kẻ chết không sống lại, Đức Kitô cũng đã không sống lại. Nếu Đức Kitô đã không sống lại, thì lòng tin của anh em cũng là hão huyền, và hiện anh em vẫn còn ở trong tội lỗi của anh em. Như thế ai đã chết trong Đức Kitô, cũng bị tiêu huỷ cả. Nếu chúng ta chỉ hy vọng vào Đức Kitô trong cuộc đời này mà thôi, thì chúng ta là những người vô phúc nhất trong thiên hạ.

Nhưng không, Đức Kitô đã từ cõi chết sống lại, là hoa quả đầu mùa của những người đã yên giấc. Đó là lời Chúa.

ALLELUIA: Ga 14, 23

Alleluia, alleluia! – Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy. – Alleluia. 

PHÚC ÂM: Lc 6, 17. 20-26

“Phúc cho những kẻ nghèo khó. Khốn cho các ngươi là kẻ giàu có”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu từ trên núi xuống cùng với mười hai tông đồ, và dừng lại trên một khoảng đất bằng; ở đó có đông môn đệ và một đám đông dân chúng từ Giuđêa, Giêrusalem, miền duyên hải Tyrô và Siđon kéo đến để nghe Người giảng và xin Người chữa bệnh tật. Bấy giờ Người đưa mắt nhìn các môn đệ và nói: “Phúc cho các ngươi là những kẻ nghèo khó, vì nước Thiên Chúa là của các ngươi. Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ đói khát, vì các ngươi sẽ được no đầy. Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ phải khóc lóc, vì các ngươi sẽ được vui cười. Phúc cho các ngươi, nếu vì Con Người mà người ta thù ghét, trục xuất và phỉ báng các ngươi, và loại trừ tên các ngươi như kẻ bất lương. Ngày ấy, các ngươi hãy hân hoan và reo mừng, vì như thế, phần thưởng các ngươi sẽ bội hậu trên trời. Chính cha ông họ cũng đã đối xử với các tiên tri y như thế.

“Nhưng khốn cho các ngươi là kẻ giàu có, vì các ngươi hiện đã được phần an ủi rồi. Khốn cho các ngươi là kẻ đã được no nê đầy đủ, vì các ngươi sẽ phải đói khát. Khốn cho các ngươi là kẻ hiện đang vui cười, vì các ngươi sẽ ưu sầu khóc lóc. Khốn cho các ngươi khi mọi người đều ca tụng các ngươi, vì chính cha ông họ cũng từng đối xử như vậy với các tiên tri giả”. Đó là lời Chúa.

(thanhlinh.net)

++++++++++++++++++

17/02/2019CHÚA NHẬT TUẦN 6 TN – C

Lc 6,17.20-26

NGHÈO LÀ MỐI PHÚC

Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì nước Thiên Chúa là của anh em.” (Lc 6,20)

Suy niệm: Con người trần thế tìm mọi cách để dành cho bằng được giàu sang, quyền thế, cho dù phải gây thù chuốc hận, cho dù phải gây ra những cuộc chiến tương tàn khốc hại… Đang khi đó, Chúa Giê-su lại coi nghèo là một mối phúc. Chắc chắn, Ngài chống lại thứ nghèo làm tổn thương nhân phẩm. Ngài muốn con người được sự giàu có vĩnh cửu: được cả Nước Trời làm gia nghiệp, chứ không phải thứ giàu có chỉ đem lại niềm hạnh phúc chóng vánh, tạm thời ở đời này. Để đạt được thứ giàu sang bền vững ấy phải biết làm cho mình nghèo đi những thứ của cải tạm bợ và giả trá. Nghèo có phúc là: – nắm giữ chức quyền nhưng không tham quyền cố vị trái lại phục vụ trong khiêm tốn; – làm ra của cải vật chất nhưng không bị lệ thuộc vào chúng, trái lại biết “hằng ngày dùng đủ” và cảm thông chia sẻ với nhau trong tình anh em. Nghèo như thế, chiến tranh, hận thù mới biến mất, và thế giới này chỉ còn có tình mến chan hoà. Nghèo như thế mới là mối phúc.

Mời Bạn: “Trong thế giới chúng ta, tiền, lợi nhuận, sự khao khát của cải vật chất phá hỏng mọi tương quan, đức nghèo chọn lựa cách tự nguyện trong đoàn kết và chia sẻ dạy ta lòng biết ơn và biết sống cách vô vị lợi, cậy trông và phó thác” (Sr Christianne, fmm). Lời chia sẻ đó có làm cho chúng ta suy nghĩ để sống nghèo như mối phúc của Chúa Giê-su không? Bạn hãy chia sẻ mục đích sống nghèo mà bạn sẽ chọn lựa.

Sống Lời Chúa: Trong tương quan với người khác, ta nghĩ đến tình nghĩa hơn là tư lợi.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, con xin ký thác đường đời con cho Chúa. Amen.

(5 Phút Lời Chúa)

++++++++++++++++++

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

17 THÁNG HAI

Mùa Chay: Tiếng Gọi Ăn Chay Và Cầu Nguyện

“Hãy xé lòng, chứ đừng xé áo” (Ge 2, 13). Giáo Hội công bố mùa Chay bằng những lời kêu gọi ấy của ngôn sứ Giô-en. Vào thời ngôn sứ Giô-en, tiếng gọi ăn chay đã phải được kết hợp với lời cảnh giác: “Hãy xé lòng, chứ đừng xé áo!”

Cũng thế, Đức Giêsu đã phải cảnh giác vào thời của Người: “Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy… Khi bố thí, đừng có khua chiêng đánh trống, như bọn đạo đức giả thường biểu diễn trong hội đường và ngoài phố xá, cốt để người ta khen… Khi anh em cầu nguyện, đừng làm như bọn đạo đức giả: chúng thích đứng cầu nguyện trong các hội đường, hoặc ngoài các ngã ba ngã tư, cho người ta thấy… Khi anh em ăn chay, chớ làm ra bộ rầu rĩ như bọn đạo đức giả: chúng làm cho ra vẻ thiểu não, để thiên hạ thấy là chúng ăn chay” (Mt 6, 1. 2. 5. 16).

Trong quá khứ, khi Giáo Hội công bố mùa Chay, Giáo Hội đã phải cảnh giác mọi người nên tránh thói ‘biểu diễn’ thuần túy, tránh giả hình trong việc ăn chay, cầu nguyện và bố thí.

Còn hiện nay, điều đáng báo động hàng đầu không hẳn là thói ‘biểu diễn’ ấy. Mối nguy thực sự hiện nay là ở chỗ tiếng gọi mùa Chay bị người ta bỏ hẳn ngoài tai. Đối với rất nhiều người hôm nay, tiếng gọi mùa Chay chỉ là “một tiếng kêu trong sa mạc” (Mc 1, 3). Họ không hưởng ứng tiếng gọi ấy.

– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –

Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác

LIFT UP YOUR HEARTS

Daily Meditations by Pope John Paul II

+++++++++++++++++

Lời Chúa Trong Gia Đình

NGÀY 17/2

Chúa Nhật VI Thường Niên

Gr 17, 5-8; 1Cr 15, 12. 16-20; Lc 6, 17. 20-26.

LỜI SUY NIÊM: “Đức Giêsu ngước mắt lên nhìn các môn đệ và nói: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì Nước Trời là của anh em….” “Nhưng khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có, vì các ngươi đã được phần an ủi của minh rồi…”

          Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, Chúa Giêsu đưa ra cho mỗi người trong chúng ta: “Bốn mối phúc” và “Bốn mối khốn”. Giúp cho chúng ta nhận biết những điều nào đem lại  hạnh phúc thật, để hưởng phước thiên đàng đời đời, hay những điều nào sẽ đưa dến cõi diệt vong cả hồn lẫn xác. Mỗi người cần phải chọn lựa. Đây cũng là trách nhiệm của những ai có bổn phận và trách nhiệm trong việc giáo dục và đào tạo con người.

          Lạy Chúa Giêsu. Những điều Chúa cho là phúc, là khốn, đều đi ngược với quan niệm của thế gian. Xin Chúa ban thêm ơn đức tin, ơn thánh cần thiết cho mỗi người trong chúng con, để chúng con biết vâng nghe theo lời Chúa dạy.

Mạnh Phương

+++++++++++++++++

Gương Thánh Nhân

Ngày 17-02

BẢY THÁNH LẬP DÒNG TÔI TỚ ĐỨC MẸ

(Thế kỷ XIII)

Bảy thánh này là những thương gia tên tuổi miền Frorence. Không muốn chỉ là những người thế giá, các Ngài hướng tới đời sống thánh thiện và họp lại thành một nhóm huynh đệ đặc biệt tôn sùng Đức Trinh Nữ. Các Ngài được cảm hứng bởi một thi kiến để giã từ thế gian và hiến thân phụng sự một lý tửơng cao cả hơn. Truớc hết Ngài cư ngụ trên triền núi Seraniô và xây một nhà thờ tại đó.

Sau khi viếng thăm Đức Giám mục, các Ngài được khuyên nhủ nên nhận một luật sống. Các Ngài lại được một thị kiến khác của Đức Mẹ, nhưng đó Đức Mẹ khuyên nên nhận luật dòng của thánh Augustinô. Mẹ cầm nơi tay một y phục đen và thiên thần bên cạnh mẹ cầm một cuộn giấy với danh hiệu “tôi tớ Đức Mẹ”. Điều này xảy ra ngày 13 tháng 4 năm1240 và từ nhóm tu sĩ này được biết đến dưới danh hiệu “Tôi tớ Đức Mẹ”. Hội dòng lo rao giảng Phúc âm và phổ biến bảy sự thương khó Đức Mẹ khằp vùng Toscanne.

Ơ đây cũng nên ghi nhớ giai thoại thi vị kể lại một phép lạ đánh dấu sự chúc lành của trời cao dành cho hội dòng. Các tôi tớ Đức Mẹ hiến cuộc đời cho cả đất đai lẫn cho các linh hồn. Các Ngài canh tác một miếng đất khô chồi quanh nhà, nhưng các Ngài đã thành công để làm cho mọc lên những thân nho tươi tốt. Một đêm mùa đông vườn nho bỗng chĩu nặng những chùm trái mọng mướt.

Đức giám mục thấy đây là dấu chứng tỏ những phục vụ của các Ngài được Thiên Chúa chúc lành. Thực vậy, các tập sinh tuốn đến đông đảo và nhà dòng được thiết lập trên khắp Au Châu.

Năm 1304 nhà dòng được tòa thánh phê chuẩn. Đến thế kỷ XIV đã đảm nhận việc truyền giáo tại An Độ. Nhiều cơ sở khác cũng được thành lập tại Anh quốc và Mỹ Châu.

Lễ kính nhớ bảy anh em lập dòng được định vào ngày hôm nay. Ngày mà thánh Alexia Falconieri, một trong bảy anh em qua đời vào năm 1310. Bảy Đấng sáng lập sao một cuộc sống hiệp nhất trong nỗ lực nên thánh, đã được an táng chung trong cùng một ngôi mộ và Giáo hội đã trình bày cho các tín hữu kính nhớ.

Tên các Ngài là:

  1. Bonfilius Menaldi
    2. Benedictô Antella.
    3. Giêradô Sestegui.
    4. Barthôlômêô Amidei.
    5. Gioan Manetti
    6. Ricôver Lippi
    7. Alexis Falconieri.

(daminhvn.net)

+++++++++++++++++

17 Tháng Hai

Người Buồn Cảnh Có Vui Ðâu Bao Giờ 

Bỏ xứ mình để đến phục vụ tại nơi đất khách quê người quả là một lý tưởng đáng ca ngợi. Hiện nay, người ta thấy có rất nhiều thanh niên thiếu nữ tây phương chán cuộc sống trống rỗng, thiếu lý tưởng trong xã hội dư dật, đã tình nguyện sang các nước thuộc thế giới thứ ba để phục vụ.

Một thanh niên nọ đã xin đến Ấn Ðộ để phục vụ người nghèo. Ra đi hồ hởi bấy nhiêu, giờ này chạm với thực tế, anh cảm thấy thất vọng bấy nhiêu. Tất cả đều xa lạ và tất cả đều làm anh chán nản: từ khí hậu cho đến thức ăn, điều kiện sống và nhất là những khuôn mặt xem ra rất bí hiểm đối với anh. Nhưng điều làm cho anh mất hết kiên nhẫn lại là một điều không đáng bận tâm mấy…

Người ta dành cho anh một căn phòng không sạch sẽ và dĩ nhiên cũng không nhiều tiện nghi lắm. Anh dọn dẹp và sắp xếp căn phòng lại cho tươm tất. Duy có một chướng ngại mà anh không thể vượt qua để có thể sống bình thản: đó là sự hiện diện của một chú thằn lằn. Anh tìm đủ mọi cách để xua đuổi nó ra khỏi căn phòng, nhưng vô ích: đâu lại vào đó, anh đuổi nơi này, nó chạy vào nơi khác. Cuối cùng con vật chui được vào trong tủ đựng thức ăn và ngự trị hẳn trong đó. Không còn biết làm cách nào khác hơn để tẩy chay con vật, anh đành phải nghĩ đến chuyện làm quen với nó.

Dần dần, con thú đã trở thành một người bạn của anh. Mỗi khi đi đâu về, việc đầu tiên của anh là tìm cho được chú thằn lằn. Khi con vật đã trở thành thân thiết với anh, anh đặt cho nó một cái tên và trò chuyện với nó. Từ một con vật dơ bẩn xấu xa, giờ này anh nhìn thấy nơi nó rất nhiều đức tính trong đó quan trọng hơn cả đó là tài săn muỗi của nó.

Sự hiện diện của chú thằn lằn đã giúp cho anh khám phá được một chân lý trong cuộc sống: những khó khăn không đến từ môi trường chung quanh, mà chính từ bản thân anh.

Chúng ta vẫn thường lặp lại câu thơ của Nguyễn Du: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, như để nói rằng lắm khi chúng ta mặc cho ngoại cảnh chính tâm trạng của chúng ta. Khi chúng ta vui, chúng ta như thấy cảnh vật xung quanh chúng ta cũng vui lây. Khi chúng ta buồn, cảnh có đẹp đến đâu, chúng ta vẫn thấy u ám. Lắm khi những vấn đề khó khăn không đến với chúng ta từ ngoại cảnh, từ những người khác, mà chính từ chúng ta. Gương mặt cau có của chúng ta thường được chúng ta nhìn thấy nơi tất cả mọi người xung quanh. Trái lại, khi chúng ta vui, chúng ta như cảm thấy mọi người đều vui vẻ với chúng ta. Quả thật, chúng ta đong đấu nào, thì người sẽ đong lại đấu ấy cho chúng ta.

Câu chúc đầu tiên của Ðức Kitô phục sinh mỗi lần hiện ra cho các môn đệ của Ngài là: :bình an cho các con”. Có sự bình an đích thực trong tâm hồn, chúng ta mới thắng được sợ hãi, mới vượt qua được những khó khăn trong tâm hồn. Có sự bình an đích thực trong tâm hồn, chúng ta mới dễ dàng tha thứ và chấp nhận chính bản thân để rồi từ đó mới có thể tha thứ và chấp nhận tha nhân cũng như mọi nghịch cảnh. Mang lấy màu xanh của hy vọng, đôi mắt chúng ta mới dễ dàng nhìn đời, nhìn người một cách lạc quan. Trái lại, mang lấy bộ mặt cau có và buồn chán, đi đâu, ở đâu, chúng ta cũng chỉ thấy bất mãn, thất vọng và khó chịu.

(Lẽ Sống)

++++++++++++++++++

Lời Chúa Mỗi Ngày

Chúa Nhật VI Thường Niên, Năm C

Bài đọc: Jer 17:5-8; I Cor 15:12, 16-20; Lk 6:17, 20-26.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hãy đặt trọn vẹn niềm tin nơi Thiên Chúa!

Đa số con người ở mọi thời đều tin: “ở hiền gặp lành, gieo gió gặt bão.” Đàng sau niềm tin này là niềm tin vào “ông Trời,” hay “Thượng Đế,” hay “Thiên Chúa;” vì phải có một Đấng uy quyền nhìn xem để bảo vệ người lành và trừng phạt kẻ ác. Mới đầu, niềm tin này chỉ giới hạn trong cuộc đời trên dương gian của mỗi người; nhưng khi thấy có những người ăn ở hiền hậu mà vẫn không gặp lành, hay những kẻ ăn ở thất nhân ác đức mà vẫn sống phây phây; niềm tin này lan rộng tới đời sau. Nếu ông trời có mắt, phải thưởng công cho những người ăn ở hiền lành và phải phạt kẻ ác ở đời sau.

Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong việc con người phải đặt trọn vẹn niềm tin tưởng nơi Thiên Chúa, để được Ngài ghé mắt thương tới cả đời này và đời sau. Trong Bài Đọc I, tiên-tri Jeremiah so sánh sự đau khổ của những kẻ tin tưởng nơi sức phàm nhân với hạnh phúc của những ai đặt niềm trông cậy nơi Thiên Chúa. Trong Bài Đọc II, thánh Phaolô khuyên các tín hữu Corintô phải giữ vững niềm tin vào sự sống lại của Đức Kitô và niềm tin mình cũng sẽ được sống lại với Ngài. Đây chính là lý do thúc đẩy con người thực hành những gì Đức Kitô dạy. Trong Phúc Âm, thánh Lucas tường thuật bài giảng của Đức Kitô nơi đồng bằng. Ngài chúc lành cho tất cả những ai nghèo khó, đói khát, khóc lóc, và bị đối xử bất công vì danh Thiên Chúa. Ngược lại, Ngài báo trước khốn cho những ai bây giờ đang giầu có, no đầy, vui cười, và được mọi người ca tụng.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Phúc thay kẻ đặt niềm tin vào Đức Chúa, và có Ngài làm chỗ nương thân.

1.1/ Kẻ tin ở sức con người: Mục đích của Jeremiah là nêu bật sự tương phản giữa niềm tin nơi sức con người với niềm tin nơi Thiên Chúa. Điều đầu tiên chúng ta cần lưu ý: để bị nguyền rủa, một người phải có cả ba yếu tố được liệt kê: tin ở người đời, lấy xác thịt mình làm sức mạnh, và lòng dạ xa rời Đức Chúa! Nếu một người tin cha mẹ, tự tin nơi mình, và tin tưởng Thiên Chúa, người đó sẽ không bị nguyền rủa. Jeremiah muốn nhấn mạnh con người phải đặt trọn vẹn niềm tin nơi Thiên Chúa, hơn là chỉ tin tưởng nơi tài năng của mình, hay cậy dựa vào người đời cho dẫu họ có quyền thế đến đâu chăng nữa. Điều dễ hiểu là nếu con người không có đức tin nơi Thiên Chúa, họ sẽ dễ dàng rơi vào chán chường và tuyệt vọng khi phải đương đầu với bệnh tật, phản bội, hay cái chết; vì họ không còn biết trông cậy vào ai hay vào điều gì nữa.

1.2/ Người trông cậy nơi Thiên Chúa: Lịch sử của Cựu Ước là một chuỗi những bài học dẫn chứng những điều tốt lành xảy đến cho các tổ-phụ, nhà lãnh đạo, các vua, và các tiên tri, khi họ tuân hành giữ cẩn thận các điều Thiên Chúa truyền dạy. Chúng ta có thể nói lời sấm của ngôn sứ Jeremiah hôm nay là kết luận của những gì Thiên Chúa muốn in sâu vào tâm khảm của con người: “Phúc thay kẻ đặt niềm tin vào Đức Chúa, và có Đức Chúa làm chỗ nương thân. Người ấy như cây trồng bên dòng nước, đâm rễ sâu vào mạch suối trong, mùa nóng có đến cũng chẳng sợ gì, lá trên cành vẫn cứ xanh tươi, gặp năm hạn hán cũng chẳng ngại, và không ngừng trổ sinh hoa trái.”

Nếu con người biết hoàn toàn trông cậy nơi Thiên Chúa, Ngài sẽ tiếp tục chúc lành, bảo vệ, và ban mọi ơn lành. Lịch sử Cựu Ước cũng chứng minh: khi một con người hay cả dân tộc không tin tưởng nơi Thiên Chúa, chỉ tin vào sự khôn ngoan hay sức mạnh của mình, hay chỉ biết cậy dựa vào sức mạnh của quốc gia khác, họ sẽ phải lãnh nhận biết bao đau khổ, tủi nhục, và lưu đày.

2/ Bài đọc II: Niềm tin vào sự sống lại giúp con người thi hành những gì Thiên Chúa dạy.

Truyền thống Do-thái cho tới năm 200 BC không có giải thích rõ rệt về sự sống lại, mặc dù có nhiều đoạn nói về chỗ nghỉ của kẻ chết nhất là những người được trở thành bạn hữu với Thiên Chúa. Niềm tin vào sự sống lại bắt đầu được đề cập tới trong Sách tiên tri Daniel và Sách Maccabees.

2.1/ Niềm tin căn bản là niềm tin vào sự sống lại: Có nhiều lý do đưa tới việc thánh Phaolô dạy dỗ về sự sống lại:

(1) Niềm tin của các triết gia Hy-lạp: Họ tin vào sự bất tử của linh hồn, vì linh hồn không cấu thành bởi vật chất, nên không bị tiêu tan. Họ cũng tin thân xác là ngục tù giam hãm linh hồn, nên con người phải tìm mọi cách để giải thoát linh hồn khỏi thân xác. Đó là một trong những lý do mà họ nhạo cười Phaolô tại Areopagus, Athens, khi ông nói về sự sống lại của thân xác. Corintô cũng là một thành phố của Hy-lạp, chắc chắn đã có người phản đối Phaolô về sự giáo huấn thân xác sẽ sống lại.

(2) Kinh nghiệm của các chứng nhân: Thánh Phaolô có kinh nghiệm rõ rệt về sự phục sinh của Đức Kitô trên đường đi Damascus. Ngài tưởng một người tên Giêsu đã bị Thượng Hội Đồng kết tội và giết chết sẽ rơi vào quên lãng như bao người; nhưng không, Ngài vẫn sống và tỏ uy quyền cho Phaolô: “Ta là Người mà ngươi đang truy tố. Khốn cho ngươi nếu ngươi cứ giơ chân đạp mũi nhọn!” Chính cuộc gặp gỡ này đã thay đổi hoàn toàn cuộc đời Phaolô: từ chỗ không tin có sự sống lại đến chỗ phải tin; từ chỗ bắt bớ đạo Chúa đến chỗ nhiệt thành rao giảng… Nếu một Người đã chết mà vẫn sống, mọi điều Người ấy nói đều có thực; nhất là những mặc khải về ý định của Thiên Chúa cho con người và về sự sống đời sau.

(3) Niềm tin của đa số con người: Rất nhiều người dù không tin nơi Thiên Chúa, nhưng vẫn tin: “ở hiền gặp lành, gieo gió gặt bão;” nhưng có những người ăn ở thất nhân ác đức mà vẫn sống phây phây ở đời này. Vì thế, nếu ông trời có mắt, phải thưởng công cho những người ăn ở hiền lành và phải phạt kẻ ác ở đời sau.

(4) Mục đích của biến cố Nhập Thể của Đức Kitô: là để tha tội lỗi cho con người và mang lại cho con người cuộc sống đời đời với Thiên Chúa.

2.2/ Niềm tin vào sự sống lại giúp chúng ta biết sống thế nào trong cuộc đời: Có hai niềm tin và hai cách sống tương xứng với hai niềm tin này.

(1) Người không tin có sự sống lại: Họ sẽ giản lược tất cả vào việc tìm cách hưởng thụ tối đa những gì mà thế gian dâng tặng, cho dẫu phải đối xử bất công với anh chị em đồng loại. Họ không lo bị ai phán xét, vì chết là hết. Họ sẽ không phí thời giờ học hỏi Lời Chúa hay thực hành những gì Thiên Chúa dạy.

(2) Người tin vào sự sống lại sẽ sống đời này với cặp mắt luôn hướng về đời sau. Họ sống đời này như cuộc đời tạm thời để tiến về cuộc sống mai sau vĩnh cửu với Đức Kitô. Thánh Phaolô không chấp nhận giải pháp tin vào Đức Kitô sẽ giúp ích cho người tín hữu chỉ ở đời này: “Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Kitô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người.” Nói cách khác, nếu không tin vào sự sống lại, chúng ta hãy hưởng thụ tối đa cuộc sống đời này, như những người vô thần. Lý do: nếu không, đời này chúng ta đã không được hưởng mà đời sau cũng chẳng có để hưởng.

3/ Phúc Âm: Bài giảng về Nước Thiên Chúa nơi đồng bằng

3.1/ Những điều khác biệt giữa Lucas và Matthew: Có ít nhất 3 điều khác biệt giữa hai thánh ký:

(1) Khác với Matthew trong Bài Giảng Trên Núi (Mt 5:1-12), trong đó Chúa Giêsu chỉ dạy dỗ các môn đệ; trình thuật của Lucas xảy ra ở một chỗ đất bằng và mở rộng cho dân chúng: “từ khắp miền Judah, Jerusalem cũng như từ miền duyên hải Tyre và Sidon.”

(2) Matthew tường thuật rõ ràng Bát Phúc; trong khi Lucas phân chia thành bốn mối phúc và bốn sự khốn.

(3) Matthew xử dụng ngôi thứ ba trong khi Lucas xử dụng ngôi thứ hai.

3.2/ Những mối phúc: Đức Giêsu ngước mắt lên nhìn các môn đệ và nói: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa của anh em.” Lucas dùng động từ ở thời hiện tại trong câu này, như có ý bảo khi con người sống nghèo khó, họ bắt đầu sở hữu Nước Thiên Chúa. Trong thực tế, khi con người sống trong hoàn cảnh nghèo nàn, họ dễ trông cậy vào Thiên Chúa hơn khi họ trở nên giàu có. Người giàu thường cậy vào của cải của mình.

Trong câu kế tiếp, Lucas dùng mệnh đề thứ nhất ở thời hiện tại và mệnh đề thư hai ở thời tương lai: “Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói, vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng. Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải khóc, vì anh em sẽ được vui cười.”

Lucas có ý muốn nói những gì xảy ra trong tương lai sẽ đảo ngược hoàn toàn những gì đang xảy ra trong hiện tại.

Câu kế tiếp Lucas dùng các động từ của mệnh đề thứ nhất ở thời điều kiện, và các động từ của mệnh đề thứ hai ở thời hiện tại: “Phúc cho anh em khi vì Con Người mà bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xoá tên như đồ xấu xa. Ngày đó, anh em hãy vui mừng nhảy múa, vì này đây phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Bởi lẽ các ngôn sứ cũng đã từng bị cha ông họ đối xử như thế.” Lucas có ý muốn nói nếu những điều đó xảy ra, các tín hữu hãy vui mừng, vì Thiên Chúa sẽ đền bù xứng đáng những gì họ phải chịu thiệt hại ở đời này.

3.3/ Những sự khốn: Có lẽ câu truyện giúp chung ta dễ hiểu Bài Giảng của Chúa Giêsu trong Lucas là câu truyện của Lazarus và người giàu có (Lk 16:20-31). Trong mối khốn thứ nhất, Lucas cũng dùng động từ của mệnh đề thứ nhất ở thời hiện tại và của mệnh đề thứ hai ở thời hoàn hảo: “Nhưng khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có, vì các ngươi đã được phần an ủi của mình rồi.” Khi con người sống trong hoàn cảnh giàu có ở đời này, họ đã được hưởng phần an ủi rồi. Trong câu kế tiếp, cấu trúc động từ cũng tương xứng với cấu trúc bên trên: “Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ bây giờ đang được no nê, vì các ngươi sẽ phải đói. Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ bây giờ đang được vui cười, vì các ngươi sẽ phải sầu khổ khóc than.” Tổ phụ Abraham cũng nói lời tương tự với người nhà giàu: “Con ơi, hãy nhớ lại: suốt đời con, con đã nhận phần phước của con rồi; còn Lazarô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ, Lazarô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ.”

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Chúng ta đừng đặt trọn vẹn niềm tin tưởng vào mình hay bất cứ ai ngoại trừ vào Thiên Chúa, chỉ có Ngài là người yêu thương và có uy quyền mang lại hạnh phúc đời đời cho chúng ta.

– Niềm tin vào sự sống lại là sự khác biệt căn bản giữa những người tin tưởng vào Thiên Chúa và những người không tin tưởng nơi Ngài.

– Đức tin của chúng ta cần phải được tôi luyện và thử thách trong đau khổ; nhưng những thử thách này chỉ tạm thời. Nếu không có thử thách, chúng ta sẽ không có cơ hội chứng minh niềm tin của chúng ta nơi Thiên Chúa.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

****************