Chúa Nhật (27-10-2024) – Trang suy niệm

26/10/2024

Lời Chúa Hôm Nay

Chúa Nhật XXX Thường Niên – Năm B

BÀI ĐỌC I: Gr 31, 7-9

“Ta sẽ lấy lòng từ bi dẫn dắt kẻ đui mù và què quặt”.

Trích sách Tiên tri Giêrêmia.

Đây Chúa phán: Hỡi Giacóp, hãy hân hoan vui mừng! Hãy hò hét vào đầu các Dân ngoại, hãy cất tiếng vang lên, ca hát rằng: “Lạy Chúa, xin hãy cứu dân Chúa là những kẻ sống sót trong Israel”.

Đây, Ta sẽ dẫn dắt chúng từ đất bắc trở về, sẽ tụ họp chúng lại từ bờ cõi trái đất: trong bọn chúng sẽ có kẻ đui mù, què quặt, mang thai và sinh con đi chung với nhau, hợp thành một cộng đoàn thật đông quy tụ về đây.

Chúng vừa đi vừa khóc, Ta sẽ lấy lòng từ bi và dẫn dắt chúng trở về. Ta sẽ đưa chúng đi trên con đường thẳng, băng qua các suối nước; chúng không phải vấp ngã trên đường đi: vì Ta đã trở nên thân phụ dân Israel, và Ephraim là trưởng tử của Ta. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 125, 1-2ab. 2cd-3. 4-5. 6

Đáp: Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan (c. 3).

1) Khi Chúa đem những người từ Sion bị bắt trở về, chúng tôi dường như người đang mơ, bấy giờ miệng chúng tôi vui cười, lưỡi chúng tôi thốt lên những tiếng hân hoan.

2) Bấy giờ dân thiên hạ nói với nhau rằng: “Chúa đã đối xử với họ cách đại lượng.” Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan.

3) Lạy Chúa, hãy đổi số phận của con, như những dòng suối ở miền nam. Ai gieo trong lệ sầu, sẽ gặt trong hân hoan.

4) Thiên hạ vừa đi vừa khóc, tay mang thóc đi gieo; họ trở về trong hân hoan, vai mang những bó lúa.

BÀI ĐỌC II: Dt 5, 1-6

“Con là tư tế đến muôn đời theo phẩm hàm Menkixêđê”.

Trích thư gửi tín hữu Do-thái.

Tất cả các vị thượng tế được chọn giữa loài người, nên được đặt lên thay cho loài người mà lo việc Chúa, để hiến dâng lễ vật và hy lễ đền tội. Người có thể thông cảm với những kẻ mê muội và lầm lạc, vì chính người cũng mắc phải yếu đuối tư bề. Vì thế, cũng như người phải dâng lễ đền tội thay cho dân thế nào, thì người dâng lễ đền tội cho chính mình như vậy. Không ai được chiếm vinh dự đó, nhưng phải là người được Thiên Chúa kêu gọi như Aaron.

Cũng thế, Đức Kitô không tự dành lấy quyền làm thượng tế, nhưng là Đấng đã nói với Người rằng: “Con là Con Cha, hôm nay Cha sinh ra Con”. Cũng có nơi khác Ngài phán: “Con là tư tế đến muôn đời theo phẩm hàm Menkixêđê”. Đó là lời Chúa.

ALLELUIA: Lc 19, 38

Alleluia, alleluia! – Chúc tụng Đức Vua, Đấng nhân danh Chúa mà đến; bình an trên trời và vinh quang trên các tầng trời. – Alleluia.

PHÚC ÂM: Mc 10, 46-52

“Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu ra khỏi thành Giêricô cùng với các môn đệ và một đám đông, thì con ông Timê tên là Bartimê, một người mù đang ngồi ăn xin ở vệ đường, khi anh ta nghe biết đó là Chúa Giêsu Nadarét, liền kêu lên rằng: “Hỡi ông Giêsu con vua Đavít, xin thương xót tôi”. Và nhiều người mắng anh bảo im đi, nhưng anh càng kêu to hơn: “Hỡi con vua Đavít, xin thương xót tôi”.

Chúa Giêsu dừng lại và truyền gọi anh đến. Người ta gọi người mù và bảo anh: “Hãy vững tâm đứng dậy, Người gọi anh”. Anh ta liệng áo choàng, đứng dậy, đến cùng Chúa Giêsu. Bấy giờ Chúa Giêsu bảo rằng: “Anh muốn Ta làm gì cho anh?” Người mù thưa: “Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy”. Chúa Giêsu đáp: “Được, đức tin của anh đã chữa anh”. Tức thì anh ta thấy được và đi theo Người. Đó là lời Chúa.

(Nguồn: UBPV/HĐGMVN, ấn bản 1973)

++++++++++++++++++

27/10/2024 – CHÚA NHẬT TUẦN 30 TN – B

Mc 10,46-52

PHỤC HỒI PHẨM GIÁ CAO QUÝ

Nhiều người quát nạt bảo anh ta im đi, nhưng anh ta càng kêu lớn tiếng: “Lạy Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi!” Đức Giê-su đứng lại và nói: “Gọi anh ta lại đây.” (Mc 10,48-49)

Suy niệm: Đối với nhiều người, anh mù Ba-ti-mê chẳng có một chút giá trị nào, thậm chí còn là chướng ngại phải dẹp bỏ đi. Có thể họ nghĩ mình đang bảo vệ Đức Giê-su khi “quát nạt bảo anh ta im đi”. Nhưng Chúa Giê-su không loại trừ ai. Ngài đón nhận tất cả mọi người đến với Ngài, nhất là những người nghèo khổ, bệnh tật, tội lỗi,… những người bị loại trừ. Ngài cho người gọi anh mù đến với Chúa. Lời kêu gọi của Chúa khiến anh được phục hồi phẩm giá. Người chung quanh liền đổi giọng, nói với anh một cách ân cần tôn trọng: “Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy.” Không phải Đức Giê-su thương hại anh ta. Đúng hơn Ngài thương xót vì phẩm giá của anh bị chà đạp. Ngài tôn trọng phẩm giá là con người của anh. Đó là lối sống của Đức Giê-su và cũng phải là lối sống của mọi Ki-tô hữu trong một giáo hội Công giáo mở đón tất cả mọi người.

Mời Bạn: Trong một thế giới thực dụng, những người không đem lại giá trị kinh tế thường là người yếu thế, dễ bị tổn thương, và bị loại trừ. Người môn đệ Chúa Ki-tô sống theo chuẩn mực của Ngài luôn tôn trọng mọi người, bảo vệ và phục hồi phẩm giá của những người bé mọn, yếu đuối nhất và bị bỏ rơi nhất.

Sống Lời Chúa: Thể hiện sự tôn trọng phẩm giá con người qua lời nói thể hiện sự hoà nhã, tôn trọng.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, Chúa không loại trừ ai, nhưng đến với mọi người và mời gọi mọi người đến với Chúa. Xin cho chúng con là Ki-tô hữu cũng luôn mở rộng đến với tha nhân để cùng họ đến với Chúa. Amen.

(5 Phút Lời Chúa)

++++++++++++++++++

Suy niệm và cầu nguyện

SUY NIỆM: NGƯỜI GỌI ANH – ANH THEO NGƯỜI

Tin Mừng Máccô kể chuyện Đức Giêsu chữa hai người mù. 
Một người ở Bếtsaiđa, khi Ngài và các môn đệ 
bắt đầu cuộc hành trình lên Giêrusalem (Mc 8,22-26). 
Người kia, ở cuối cuộc hành trình này (Mc 10,46-52),
khi Ngài ra khỏi Giêricô để chuẩn bị vào Giêrusalem. 
Anh mù ở Bếtsaiđa được người ta dẫn tới xin chữa.
Còn anh mù Ba-ti-mê trong bài Tin Mừng ta vừa nghe
thì ngồi ăn xin bên vệ đường ở Giêricô để kiếm sống. 
Chắc anh nghĩ  hôm nay sẽ là một ngày như mọi ngày.
Anh sống nhờ lòng tốt của những khách hành hương 
lên đền thờ Giêrusalem qua ngả Giêricô.

Bỗng anh nghe những bước chân của một đám đông lớn, 
và anh vui khi nghe biết có Đức Giêsu trong đoàn người.
Anh đã biết tiếng của vị ngôn sứ ở vùng Nadarét này.
Ngài có thể chữa bệnh, trừ quỷ và hoàn sinh kẻ chết.
Ngài đã dùng mấy ổ bánh để nuôi cả đám đông.
Từ lâu anh mong có dịp gặp Ngài, 
hy vọng Ngài cho đôi mắt anh được sáng.
Bây giờ Ngài đang đi ngang, trước mặt anh.
Cơ hội cho một cuộc hạnh ngộ đã đến gần,
dù Ngài không thấy anh, và anh cũng không thấy Ngài.
Làm sao báo cho Ngài biết là anh đang chờ Ngài?
Anh chỉ có một thứ vũ khí là tiếng kêu.
Anh tin rằng chỉ cần Ngài nghe được tiếng kêu của anh
là Ngài biết có một người đang cần trợ giúp.
Anh đã cố kêu thật to, gọi tên riêng của Ngài,
tuyên xưng Ngài là Đấng Mêsia, Con vua Đavít.
Anh chẳng xin gì, chỉ xin Ngài dủ tình thương xót.
Tiếng kêu thống thiết của anh chứa niềm tin và hy vọng.
Càng bắt anh im đi, anh càng kêu to hơn.
Tiếng kêu kiên trì đã chạm đến trái tim Đức Giêsu,
làm Ngài dừng chân, khiến cả nhóm cũng dừng chân.

Anh mù đã gọi Đức Giêsu, bây giờ đến lượt Ngài gọi anh.
Rõ ràng Ngài muốn gặp anh, dù chưa biết anh là ai.
Khi nghe biết Đức Giêsu gọi mình, anh vội vã đứng dậy,
vất lại chiếc áo choàng vướng víu để đến với Ngài. 
Đức Giêsu biết anh cần gì,
nhưng vẫn hỏi câu Ngài từng hỏi Giacôbê và Gioan:
“Anh muốn tôi làm gì cho anh?” (Mc 10,36).                                                                                                                                                                                                          
Anh không xin được ngồi ghế cao trong vinh quang,
anh chỉ xin được thấy, đôi mắt thoát cảnh mù lòa,
để khỏi phải sống bằng tiền bố thí.
Không thấy nói Đức Giêsu đã làm gì để chữa mắt anh.
Chỉ biết anh nhìn thấy được, ngay sau khi Ngài nói:
“Anh hãy đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh!”

“Anh hãy đi!”: Đức Giêsu đã nói như thế với anh nhà giàu.
Anh hãy đi, bán, cho, rồi trở lại và theo tôi (Mc 10,21).
Ngài mời anh nhà giàu theo Ngài làm môn đệ,
nhưng anh không buông bỏ được của cải để theo.
Giờ đây Đức Giêsu cũng bảo anh mù hãy đi, 
nhưng không thấy Ngài mời anh theo làm môn đệ.
Vậy mà ngay sau khi được sáng mắt, 
anh đã đi theo Ngài lên Giêrusalem.
Anh không ngồi ở vệ đường nữa, 
nhưng nhập với đám đông theo Ngài trên đường.
Có một cuộc đổi đời chỉ sau một lần gặp gỡ.

Không rõ sau này anh có vào nhóm  của Thầy không,
có theo Thầy Giêsu đến hết cuộc Khổ nạn không.
Điều quý nơi anh là lòng khao khát muốn gặp Thầy.
Xưa nay chẳng ai gặp được Thầy mà không cần nỗ lực.
Ông Dakêu đã phải chạy và phải leo lên cây.
Anh mù phải kêu to, át tiếng đám người quát nạt.
Xin cho mắt và lòng tôi bừng sáng, nhờ gặp được Giêsu.

LỜI NGUYỆN

Lạy Chúa Giêsu,
Ai trong chúng con cũng có những điểm mù,
những vùng tối, nơi chúng con không thấy về mình,
nhưng người khác lại thấy rõ.
Chính vì thế chúng con cần nhau để ra khỏi sự mù lòa,
cần lắng nghe để biết về mình nhờ người khác, 
cần cởi mở để cho người khác biết về mình.

Lạy Chúa Giêsu là Ánh sáng,
Chẳng ai trong chúng con muốn mình bị khiếm thị,
nhưng chúng con vẫn hay ở lại trong bóng tối,
vì bóng tối cho chúng con sự yên ổn,
và che giấu điều chúng con không muốn thấy nơi mình.
Xin cho chúng con dám mở ra để gặp ánh sáng
nơi những người khác ý kiến, khác lập trường,
nhờ đó những góc khuất được vén mở.

Lạy Chúa Giêsu,
xin cho chúng con khát mong ánh sáng của sự thật
hơn người mù mong sáng mắt. 
Xin cho chúng con cùng nhau tìm kiếm ánh sáng Chúa
với trọn cả tâm hồn,
để ánh sáng Chúa giải phóng chúng con.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

(phutcaunguyen.net)

++++++++++++++++++

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

27 THÁNG MƯỜI

Vinh Quang Của Việc Khiêm Tốn Phục Vụ Tha Nhân

Mối hiệp nhất do đức tin và Phép Rửa phản chiếu đặc biệt vinh quang của Thiên Chúa, vinh quang mà Thiên Chúa Cha từ đời đời đã ban cho Chúa Con, vinh quang mà Ngài đã ban cho Chúa Con trên mặt đất này, nhất là khi Ngài bị treo trên cây thập giá. Vì thế, tiếng gọi chia sẻ vinh quang này sẽ làm lan tỏa khát vọng hiệp nhất. Chúa Giêsu đã cầu nguyện cùng Chúa Cha: “Con đã ban cho họ vinh quang mà Cha đã ban cho Con, để họ được nên một, như chúng ta là một” (Ga 17,22).

Vậy đâu là vinh quang mà Chúa Cha đã ban cho Chúa Con? Đó là vinh quang của việc phục vụ người khác cách khiêm tốn, vinh quang của việc thi hành thánh ý Cha trong mọi sự, vinh quang tột đỉnh nơi thái độ tự do chấp nhận cái chết trên thập giá, nơi hy tế cứu chuộc hết thảy trần gian. Vinh quang của Đức Kitô là như thế.

Đó cũng là con đường vinh quang được tiếp bước bởi các môn đệ Đức Kitô. Phương thế tuyệt hảo nhất để tôn vinh Thiên chúa là theo gương mẫu của Đức Giêsu, Đấng đã nói: “Nếu ai muốn theo Tôi, hãy bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Tôi” (Lc 9,23). Bất cứ ai tôn vinh Thiên Chúa bằng cách này đều thông dự vào sự hiệp nhất của Thiên Chúa và nên một với Ngài, như Chúa Cha và Chúa Con là một.

Hiệp nhất là một ân huệ của Thiên Chúa, Đấng duy nhất trong Ba Ngôi thần linh. Ở đâu ân sủng này được đón nhận trong đức tin, ở đó sẽ có các hoa quả của Thánh Thần: “Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà và tiết độ” (Gl 5,22). Vâng, Thiên Chúa giúp chúng ta vượt qua những chia rẽ và tái khám phá sự hiệp nhất trong Ngài. Ngài ban cho chúng ta ánh sáng chân lý và ân sủng cần thiết để chúng ta đổi mới tâm hồn. Ngài giải thoát ta khỏi sự ngu muội, khỏi lầm lạc, và khỏi tội lỗi – khỏi tất cả những nguyên do gây chia rẽ trong chính bản thân mình và trong các mối quan hệ với người khác. Chúa Thánh Thần luôn ở gần những kẻ kêu cầu Ngài. Ngài ban tặng chúng ta mối hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa và giúp chúng ta hoà giải với anh chị em mình.

Mạnh Phương

+++++++++++++++++

27 Tháng Mười

Bất Ngờ

Như một chuyện khó tin mà có thật: đó là chuyện của một chàng thanh niên Tây Ðức một mình lái chiếc Cessna cánh quạt nhỏ, vượt qua hành lang 400 dặm trên lãnh thổ Liên Xô, rồi an toàn đáp xuống Quảng Trường Ðỏ, gần điện Cẩm Linh… Trước khi đáp xuống vào lúc 7 giờ tối, phi cơ còn lượn 3 vòng chung quanh mộ của chủ tịch Lênin.

Người thanh niên Tây Ðức tên là Matthias Rust này đã điềm tĩnh bước ra khỏi phi cơ, ký sổ lưu niệm cho một số khách hiếu kỳ và khâm phục. Sau đó, công an Liên Xô đã đến tóm cổ anh đưa đi mất.

Trong suốt một cuộc hành trình dài, anh chỉ bị phi cơ tuần thám của Liên Xô theo dõi mà không làm cản trở. Có thể họ cho phi cơ của anh định làm chuyện kỳ lạ khác người cho nên không bắt anh đáp xuống nửa đường. Phi cơ lại bay rất thấp cho nên đã tránh được sự kiểm soát của các dàn Radar. Dù sao đây cũng là một chuyện khó tin chưa từng xảy ra trên một lãnh thổ có một hệ thống phòng thủ chặt chẽ như Liên Xô.

Sự thành công của chiếc phi cơ nhỏ này đã khiến cho nhà cầm quyền Liên Xô e ngại và giật mình về sự phòng thủ sơ sót của mình. Sau một cuộc họp khẩn cấp của Bộ Chính Trị, Tổng Trưởng Quốc Phòng và Bộ Trưởng Không Quân đã bị cách chức. Trong khi đó thì chủ tịch Gorbachov lại nói một câu khôi hài như sau: “Chúng ta phải cám ơn anh chàng Tây Ðức này vì nhờ có anh ta mà chúng ta mới cải tổ hệ thống phòng thủ của chúng ta chặt chẽ và cẩn thận hơn”.

Nhiều người đã xem lời phát biểu trên đây phản ánh tinh thần phục thiện và cởi mở của chủ tịch Gorbachov.

Sự thành công của chàng thanh niên Matthias Rust khi đáp xuống Quảng trường Ðỏ có thể được xem như một tai nạn trong hệ thống phòng thủ của Liên Xô.

Tai nạn là một bất ngờ mà con người không bao giờ lường trước được… Không ai học được chữ ngờ trong cuộc sống. Có một cái gì đó luôn ở ngoài tầm tay, ở ngoài khả năng của con người. Bài học thông thường nhất mà ai cũng có thể học được từ một tai nạn: đó là không ai làm chủ được chính sự sống của mình.

Người Kitô luôn được mời gọi để tìm ra ý nghĩa của các biến cố. Biến cố nào xảy đến trong cuộc sống cũng là một lời ngỏ của Thiên Chúa đối với con người. Ngài nhắc nhở cho con người biết rằng Chủ Tế của sự sống chính là Ngài. Ngài kêu mời con người luôn sẵn sàng để đến với Ngài trong cuộc gặp gỡ tối hậu. Ngài cho con người thấy những giới hạn của mình để biết hướng về Ngài với tất cả tin tưởng phó thác.

(Lẽ Sống)

++++++++++++++++++

Lời Chúa Mỗi Ngày

Chúa Nhật 30 – Năm B – Thường Niên

Bài đọc: Jer 31:7-9; Heb 5:1-6; Mk 10:46-52.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thiên Chúa yêu thương và chữa lành những yếu đuối của con người.

Thiên Chúa yêu thương con người và mong muốn con người được sống hạnh phúc bên Ngài mãi mãi; nhưng nhiều người lại mù quáng chạy theo những tình yêu ảo ảnh của thế gian. Để đưa con người về, Thiên Chúa phải dùng đau khổ. Khi con người phải đương đầu với đau khổ, họ nhận ra họ không thể sống mà không có Thiên Chúa.

Các Bài Đọc hôm nay biểu lộ tình yêu Thiên Chúa dành cho con người qua những trường hợp khác nhau. Trong Bài Đọc I, khi con cái Israel không chịu nghe lời các ngôn sứ để quay trở về với Thiên Chúa, Ngài để mặc họ cho ngoại bang giày xéo. Kết quả là con cái Israel bị mất nước và bị mang đi lưu đày. Nhưng tình yêu Thiên Chúa không bao giờ cạn cho con cái Israel, Ngài sai các ngôn sứ tới để khuyên bảo dân hãy giữ vững niềm trông cậy, vì Ngài sẽ giải thoát và đưa họ về quê hương làm lại cuộc đời. Trong Bài Đọc II, tình yêu Thiên Chúa được biểu lộ qua việc Ngài chọn và gởi các thượng tế đến để làm trung gian giữa Thiên Chúa và con người; vị Thượng Tế cao cả nhất là chính Người Con Một của Ngài. Các thượng tế thay Thiên Chúa lo lắng và chăm sóc phần hồn cho dân qua mọi thời đại. Trong Phúc Âm, Đức Kitô đã chữa lành cho một người mù thành Jericho, khi anh mạnh dạn vượt qua mọi trở ngại để xin Ngài cho anh được thấy.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Ta sẽ đưa chúng từ đất Bắc trở về, quy tụ chúng lại từ tận cùng cõi đất.

1.1/ Thiên Chúa thương xót sau khi sửa phạt Israel: Như một người cha yêu thương con cái, nhưng phải sửa phạt khi chúng lầm lỗi, Thiên Chúa cũng phải sửa phạt vì sự cứng lòng của con cái Israel. Thiên Chúa để họ bị rơi vào tay vua Assyria và bị lưu đày vào khoảng năm 721 BC. Tuy nhiên, Ngài luôn hứa với dân qua các tiên-tri là Ngài sẽ cứu số còn sót lại của Israel sau thời kỳ lưu đày. Lời hứa của Thiên Chúa được hiện thực khi vua Ba-tư là Cyrus phóng thích cho dân chúng trở về Jerusalem vào năm 538 BC, để xây dựng lại quê hương và tái thiết Đền Thờ.

Trình thuật của ngôn sứ Jeremiah hôm nay là một ví dụ điển hình cho lời hứa của Thiên Chúa với dân: “Vì Đức Chúa phán thế này: Reo vui lên mừng Jacob, hãy hoan hô dân đứng đầu chư dân! Nào loan tin, ca ngợi và công bố: “Đức Chúa đã cứu dân Người, số còn sót lại của Israel!” Này Ta sẽ đưa chúng từ đất Bắc trở về, quy tụ chúng lại từ tận cùng cõi đất. Trong chúng, có kẻ đui, người què, kẻ mang thai, người ở cữ: tất cả cùng nhau trở về, cả một đại hội đông đảo.”

1.2/ Thiên Chúa luôn yêu thương Israel với tình yêu của người cha: Con cái Israel có thể dùng tự do để xa lìa Thiên Chúa; nhưng Ngài luôn trung thành yêu thương và bảo vệ họ. Để giúp con cái Israel nhận ra tình thương Thiên Chúa và quay trở về, đau khổ là phương thuốc cần thiết cho họ. Chính tư tế Ezra sau khi đã nhận ra kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện qua vua dân ngoại Cyrus đã phải đau đớn và xấu hổ thốt lên: tất cả chúng con đều đã xúc phạn đến Ngài, tổ tiên của chúng con cũng như tất cả những người đương thời; và đau khổ chúng con phải chịu là xứng đáng với tội lỗi của chúng con.

Một khi con người nhận ra và quay trở về với tình yêu đích thực, Thiên Chúa lại tiếp tục săn sóc và bảo vệ họ, như lời sấm của tiên-tri Jeremiah: “Chúng trở về, nước mắt tuôn rơi, Ta sẽ an ủi và dẫn đưa chúng, dẫn đưa tới dòng nước, qua con đường thẳng băng, trên đó chúng không còn vấp ngã. Vì đối với Israel, Ta là một người Cha, còn đối với Ta, Ephraim chính là con trưởng.”

2/ Bài đọc II: Thượng tế được đặt lên để làm trung gian giữa Thiên Chúa và con người.

2.1/ Vị thượng tế loài người: Tác giả Thư Do-thái nhấn mạnh đến ba đặc tính của thượng tế trong Cựu Ước, để dẫn đến Vị Thượng Tế cao cả nhất của Tân Ước.

(1) Thượng tế được chọn trong số người phàm: ”Quả vậy, thượng tế nào cũng là người được chọn trong số người phàm, và được đặt lên làm đại diện cho loài người, trong các mối tương quan với Thiên Chúa, để dâng lễ phẩm cũng như tế vật đền tội.” Vai trò của vị thượng tế là để đại diện cho loài người trong các mối tương quan với Thiên Chúa; chẳng hạn, vị thượng tế vào trong cung Cực Thánh mỗi năm một lần vào ngày “Xá Tội” để dâng hy lễ toàn thiêu đền tội cho mình và cho mọi người.

(2) Thượng tế cũng là con người yếu đuối: Thượng tế không phải là thiên thần hay là thánh, họ cũng mang trong mình những khuyết điểm như dân chúng. Khi dâng của lễ đền tội, họ cũng phải dâng của lễ đền tội cho mình trước khi dâng của lễ đền tội cho dân. Vị thượng tế phải biết cảm thông với những kẻ ngu muội và những kẻ lầm lạc, bởi vì chính người của họ cũng đầy yếu đuối. Họ không được kiêu hãnh vì chức vụ của mình để khinh thị hay nóng nảy với dân chúng.

(3) Thượng tế được chọn bởi chính Thiên Chúa: Tác giả Thư Do-thái rất rõ ràng về điều này: “Không ai tự gán cho mình vinh dự ấy, nhưng phải được Thiên Chúa gọi, như ông Aaron đã được gọi.”

2.2/ Chức vụ Thượng tế của Đức Kitô: Tác giả Thư Do-thái cũng dùng 3 đặc tính này để áp dụng vào chức vụ tư tế của Đức Kitô.

(1) Ngài được chọn và thánh hiến bởi Thiên Chúa: “Cũng vậy, không phải Đức Kitô đã tự tôn mình làm Thượng Tế, nhưng là Đấng đã nói với Người: Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con, như lời Đấng ấy đã nói ở một chỗ khác: Muôn thuở, Con là Thượng Tế theo phẩm trật Melchizedek.” Để hiểu “Thượng Tế theo phẩm trật Melchizedek,” chúng ta phải trở về với trình thuật trong Sách Sáng Thế Ký, khi tư tế Melchizedek ra đón và chúc lành cho Abram khi ông thắng trận trở về (Gen 14:18-20), và Abram đã trao lại cho tư tế này một phần mười các chiến lợi phẩm.

(2) Đức Kitô đồng cảm với con người vì Ngài cũng đã trải qua những đau khổ như con người; nên Ngài có thể giúp họ vượt qua các đau khổ trong cuộc sống. Tác giả Thư Do-thái nói rõ về Đức Kitô: “Bởi thế, Người đã phải nên giống anh em mình về mọi phương diện, để trở thành một vị Thượng Tế nhân từ và trung tín trong việc thờ phượng Thiên Chúa, hầu đền tội cho dân.

Vì bản thân Người đã trải qua thử thách và đau khổ, nên Người có thể cứu giúp những ai bị thử thách” (Heb 2:17-18).

(3) Đức Kitô là trung gian giữa Thiên Chúa và loài người: Ngài hòa giải con người với Thiên Chúa bằng cách thanh tẩy con người khỏi mọi tội lỗi.

Sau khi hoàn tất nhiệm vụ trên trần gian, Đức Kitô đã thiết lập thiên chức linh mục để họ tiếp tục sứ vụ của Ngài trên trần gian. Một người đã quảng diễn vai trò trung gian của linh mục như sau: Linh mục là người cầu nguyện và kết hợp với Thiên Chúa trong tuần, để rồi chuyển thông cho dân những gì Thiên Chúa muốn họ làm trong những thánh lễ cuối tuần; vì dân chúng quá bận rộn để mưu kế sinh nhai. Sự hiện diện của linh mục giúp con người nhận ra tình yêu vô biên của Thiên Chúa dành cho con người.

3/ Phúc Âm: “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!”

3.1/ Niềm tin vững mạnh của anh mù: Đức Giêsu và các môn đệ đến thành Jericho. Khi Đức Giêsu cùng với các môn đệ và một đám người khá đông ra khỏi thành Jericho, thì có một người mù đang ngồi ăn xin bên vệ đường, tên anh ta là Bartimê, con ông Timê.

(1) Anh mù chứ không điếc: Anh đã được nghe người ta nói về Đức Giêsu Nazareth. Anh tin vào Ngài. Anh không chút e ngại và biết nắm lấy cơ hội để cầu xin với Ngài: “Lạy ông Giêsu, Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!”

(2) Anh vượt qua sự ngăn cấm của con người: Nhiều người quát nạt bảo anh ta im đi, nhưng anh ta càng kêu lớn tiếng: “Lạy Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!” Họ quát nạt anh có thể vì anh làm chia trí họ không nghe được những lời dạy dỗ của Đức Kitô, hay khinh thường anh vì anh chỉ là người ăn xin bên đường.

Khát vọng mãnh liệt của anh mù được đối diện với Thiên Chúa đã giúp anh vượt qua mọi trở ngại để được gặp Ngài. Chúng ta có một khát vọng mãnh liệt được gặp Chúa Giêsu như anh không? Chúng ta có sẵn sàng vượt mọi trở ngại trong cuộc đời để được đối diện với Ngài?

3.2/ Cuộc đối thoại giữa Chúa và anh mù: Thấy niềm tin vững mạnh của anh, Đức Giêsu đứng lại và nói: “Gọi anh ta lại đây!” Người ta gọi anh mù và bảo: “Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy!”

(1) Phản ứng của anh mù rất rõ ràng và quyết liệt qua sự diễn tả của Marcô: Khi được biết Chúa Giêsu cho gọi anh, “anh mù liền vất áo choàng lại, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giêsu.” Anh không muốn bất cứ sự gì ngăn cản anh trong việc đến với Chúa. Khi nghe Chúa Giêsu hỏi: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” Anh mù đáp không chút do dự: “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được.”

(2) Lòng thương xót của Chúa Giêsu: Người nói: “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!” Tức khắc, anh ta nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Đau khổ xảy ra khi con người lìa xa Thiên Chúa để chạy theo những ảo ảnh của thế gian; để sống hạnh phúc, chúng ta cần phải quay trở về với Thiên Chúa, Người Cha yêu thương chúng ta thực sự.

– Tình yêu Thiên Chúa được biểu lộ qua việc Thiên Chúa chọn các thượng tế giữa con người để họ làm trung gian hòa giải, cầu nguyện, và ban ơn lành của Thiên Chúa cho con người.

– Vị Thượng Tế khôn ngoan, trung thành, và yêu thương chúng ta nhất là Đức Kitô. Chúng ta hãy mạnh dạn chạy đến với Ngài để được tha tội, chữa lành, và lãnh nhận mọi ơn cần thiết cho cuộc sống.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

****************