Chúa Nhật (30-04-2023) – Trang suy niệm

29/04/2023

Lời Chúa Hôm Nay

CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH – NĂM A

BÀI ĐỌC I: Cv 2, 14a. 36-41

“Thiên Chúa đã tôn Người làm Chúa và làm Đấng Kitô”.

Bài trích sách Tông đồ Công vụ.

Trong ngày lễ Ngũ Tuần, Phêrô cùng với mười một Tông đồ đứng ra, lên tiếng nói rằng: “Xin toàn thể nhà Israel hãy nhận biết chắc rằng: Thiên Chúa đã tôn Đức Giêsu mà anh em đã đóng đinh, lên làm Chúa và làm Đấng Kitô”.

Nghe những lời nói trên, họ đau đớn trong lòng, nói cùng Phêrô và các Tông đồ khác rằng: “Thưa các ông, chúng tôi phải làm gì?” Phêrô nói với họ: “Anh em hãy ăn năn sám hối, và mỗi người trong anh em hãy chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu Kitô để được tha tội; và anh em nhận lãnh ơn Thánh Thần. Vì chưng, đó là lời hứa cho anh em, con cái anh em, và mọi người sống ở phương xa mà Chúa là Thiên Chúa chúng ta sẽ kêu gọi đến”. Phêrô còn minh chứng bằng nhiều lời khác nữa, và khuyên bảo họ mà rằng: “Anh em hãy tự cứu mình khỏi dòng dõi gian tà này”. Vậy những kẻ chấp nhận lời ngài giảng, đều chịu phép rửa, và ngày hôm ấy có thêm chừng ba ngàn người gia nhập đạo.

Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 22, 1-3a. 3b-4. 5. 6

Đáp: Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi (c. 1).

1) Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi; trên đồng cỏ xanh rì, Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi; tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng.

2) Người dẫn tôi qua những con đường đoan chính, sở dĩ vì uy danh Người. (Lạy Chúa), dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con. Cây roi và cái gậy của Ngài, đó là điều an ủi lòng con.

3) Chúa dọn ra cho con mâm cỗ ngay trước mặt những kẻ đối phương; đầu con thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu con đầy tràn chan chứa.

4) Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi hết mọi ngày trong đời sống; và trong nhà Chúa, tôi sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu dài.

BÀI ĐỌC II: 1 Pr 2, 20b-25

“Anh em đã trở về cùng Đấng canh giữ linh hồn anh em”.

Bài trích thư thứ nhất của Thánh Phêrô Tông đồ.

Anh em thân mến, khi làm việc lành, nếu anh em phải nhẫn nhục chịu đau khổ, đó mới là ân phúc trước mặt Thiên Chúa. Anh em được gọi làm việc đó, vì Đức Kitô đã chịu đau khổ cho chúng ta, lưu lại cho anh em một gương mẫu để anh em theo vết chân Người. Người là Đấng không hề phạm tội, và nơi miệng Người không thấy điều gian trá. Bị phỉ báng, Người không phỉ báng lại; bị hành hạ, Người không ngăm đe; Người phó mình cho Đấng xét xử công minh; chính Người đã gánh vác tội lỗi chúng ta nơi thân xác Người trên cây khổ giá, để một khi đã chết cho tội lỗi, chúng ta sống cho sự công chính; nhờ vết thương của Người, anh em đã được chữa lành. Xưa kia, anh em như những chiên lạc, nhưng giờ đây, anh em đã trở về cùng vị mục tử và Đấng canh giữ linh hồn anh em.

Đó là lời Chúa.

ALLELUIA: Ga 10, 14

All. All. – Chúa phán: “Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta, và các chiên Ta biết Ta”. – All.

PHÚC ÂM: Ga 10, 1-10

“Ta là cửa chuồng chiên”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: “Thật, Ta bảo thật cùng các ngươi, ai không qua cửa mà vào chuồng chiên, nhưng trèo vào lối khác, thì người ấy là kẻ trộm cướp. Còn ai qua cửa mà vào, thì là kẻ chăn chiên. Kẻ ấy sẽ được người giữ cửa mở cho, và chiên nghe theo tiếng kẻ ấy. Kẻ ấy sẽ gọi đích danh từng con chiên mình và dẫn ra. Khi đã lùa chiên mình ra ngoài, kẻ ấy đi trước, và chiên theo sau, vì chúng quen tiếng kẻ ấy. Chúng sẽ không theo người lạ, trái lại, còn trốn tránh, vì chúng không quen tiếng người lạ”. Chúa Giêsu phán dụ ngôn này, nhưng họ không hiểu Người muốn nói gì. Bấy giờ Chúa Giêsu nói thêm: “Thật, Ta bảo thật các ngươi: Ta là cửa chuồng chiên. Tất cả những kẻ đã đến trước đều là trộm cướp, và chiên đã không nghe chúng. Ta là cửa, ai qua Ta mà vào, thì sẽ được cứu rỗi, người ấy sẽ ra vào và tìm thấy của nuôi thân. Kẻ trộm có đến thì chỉ đến để ăn trộm, để sát hại và phá huỷ. Còn Ta, Ta đến để cho chúng được sống và được sống dồi dào”.

Đó là lời Chúa.

(Nguồn: UBPV/HĐGMVN, ấn bản 1973)

++++++++++++++++++

30/04/2023 – CHÚA NHẬT TUẦN 4 PS

Chúa Chiên Lành. Cầu cho ơn Thiên Triệu

Ga 10,1-10

ĐỂ CHIÊN ĐƯỢC SỐNG DỒI DÀO

“Phần tôi, tôi đến để chiên được sống và sống dồi dào.” (Ga 10,10)

Suy niệm: Đức Giê-su không chỉ loan báo Tin Mừng, Ngài là chính Tin Mừng ấy. Ngài không chỉ ban Bánh hằng sống, Ngài nói: “Ta là Bánh hằng sống.” Ngài không chỉ chiếu sáng cho trần gian, nhưng là Ánh sáng ấy. Ngài chỉ cho ta cửa thiên đàng, nhưng Ngài cũng là cửa ấy. Ngài chỉ định các mục tử  coi sóc đoàn chiên, nhưng Ngài xác quyết: “Ta là Mục tử.” Ngài đến không phải chỉ để hướng dẫn đường đi, Ngài khẳng định: “Ta là con Đường, Sự thật, và Sự sống” (J. Baxter). Tin Mừng, Bánh hằng sống, Ánh sáng, con Đường, Sự thật ấy được vị Mục tử nhân lành hoàn tất trong cuộc Vượt qua, đem lại sự sống dồi dào, viên mãn cho đoàn chiên được cứu chuộc.

Mời Bạn: “Điều gì làm thay đổi đời bạn? Hãy bắt đầu bằng câu: “Chúa là Mục tử tôi” (M. Lucado). Có thể nhiều vị thần, lắm ngẫu tượng được bạn cấp giấy phép cho vào chăn dắt cuộc đời mình. Chúa nhật Chúa Chiên Lành hôm nay nhắc bạn nhìn lại sự chết mà các loại ngẫu tượng ấy đang tác hại trong đời mình, để rồi dành cho Chúa Giê-su vị trí Mục tử đích thật qua việc vâng nghe lời Ngài. Mong đời bạn sẽ thay đổi tích cực nhờ xác tín Chúa là Mục tử đời mình.

Sống Lời Chúa: Tôi nhìn ngắm Chúa Giê-su, vị Mục tử nhân lành của đời mình, quyết tâm để Ngài chăn dắt cuộc đời, vâng theo lời Ngài dạy.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, Chúa là Mục tử nhân lành chăn dắt đời con. Đi theo Chúa, con xác quyết mình có được mọi sự tốt đẹp của cuộc đời: hạnh phúc, niềm vui, an bình, ý nghĩa, và sự sống vĩnh cửu. Xin cho con luôn vâng nghe lời Chúa hướng dẫn mọi ngày. Amen.

(5 Phút Lời Chúa)

++++++++++++++++++

Suy niệm và cầu nguyện

Suy Niệm

Chiên là con vật quen thuộc đối với người Do-thái.
Người ta nuôi chiên thành từng đàn trên những đồng cỏ.
Chiên cho con người nhiều thứ cần dùng như sữa, thịt, len, da…
Người ta thương chiên vì thái độ hiền lành của chúng:
“như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông” (Is 53,7).

Ở Israel, chiên bao giờ cũng phải có người chăn,
Vì luôn có những hiểm nguy do chiên đi lạc đàn hay do dã thú.
Người mục tử ngày đêm lo cho sự an toàn và hạnh phúc của chiên.
Ngày phải đưa chiên đi tìm những đồng cỏ mới (1 Sbn 4,39-40),
Đêm phải thức để canh phòng cho chiên (Lc 2,8).
Tương quan giữa người mục tử và chiên thật thân thiết,
Đến nỗi gần như là tương quan giữa người với người (2 Sm 12,3).

Trong bài Tin Mừng hôm nay, ta cũng thấy tương quan thân thiết ấy.
Người mục tử đường đường chính chính đi qua cửa mà vào,
chứ không lén lút như kẻ trộm leo rào mà vào (Ga 10,1).
Anh được người giữ cửa mở cửa cho.
Trong ràn chiên có thể có mấy đàn chiên ở chung.
Anh gọi đàn chiên riêng của anh bằng giọng của anh,
gọi chúng bằng tiếng kêu mà chỉ chúng mới hiểu là tiếng của chủ.
Khi cả đàn chiên của anh nhận ra tiếng của người chăn,
chúng sẽ theo sự dẫn dắt của anh để ra khỏi ràn.
Anh đi trước, chúng theo sau.
Tiếng của anh, bóng của anh, là hướng để chúng đi tới.
Chúng an tâm vì biết mình đang đi theo ai.

Như thế đàn chiên trông có vẻ ngây ngô, ngờ nghệch,
nhưng lại có sự bén nhậy trong việc nhận ra mình nên đi theo ai.
Không phải ai gọi cũng theo đâu,
mà phải đúng tiếng gọi quen thuộc của chủ mình, với nét rất đặc biệt.
Người lạ đừng hòng đánh lừa chiên, đừng hòng nhái tiếng gọi của chủ.
Vì chiên chẳng những không theo, lại còn chạy trốn vì sợ (Ga 10,5).
Người lạ hay kẻ trộm kẻ cướp đều mưu tìm ích lợi cho mình,
Bằng cách ăn trộm, giết hại và phá hủy đàn chiên (Ga 10,10).
Đức Giêsu nhận mình là người mục tử nhân hậu.
Ngài phán: “Tôi đến để chiên có sự sống và có dồi dào” (Ga 10,10).
Ngài trao sự sống đó bằng cách hy sinh sự sống của chính mình.
Đức Giêsu cũng nhận mình là Cửa ràn chiên (Ga 10,7.9).
Nếu ai qua Cửa Giêsu mà vào thì sẽ được cứu.
Qua Cửa này mà đi vào thì được bảo đảm an toàn,
qua Cửa này mà đi ra thì sẽ gặp được đồng cỏ xanh non (Ga 10,9).

Thiên Chúa của dân Israel thường được ví như một mục tử,
vừa bổ sức, vừa dẫn dắt, lại vừa bảo vệ đoàn chiên (Tv 23; Is 40,11).
Đức Giêsu nhận mình là Mục tử tốt lành của đàn chiên (Ga 10,11),
và trong lần hiện ra bên bờ hồ Galilê sau phục sinh,
Ngài đã muốn Phêrô chăn dắt đàn chiên của Ngài (Ga 21,15-17).
Trong Chúa nhật thứ tư sau Lễ Phục sinh, Chúa nhật Chúa Chiên Lành,
Giáo Hội mời chúng ta cầu nguyện cho ơn thiên triệu linh mục tu sĩ.
Giáo Hội cần mục tử cho cánh đồng thế giới với 7 tỷ rưỡi con người.
Có những chiên ở trong ràn, và chiên ở ngoài ràn.
Cả chiên ở ngoài ràn cũng là chiên của Mục Tử Giêsu (Ga 10,16).
“Tôi phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng Tôi,
và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một người mục tử” (Ga 10,16).
Đó là ước mơ của Chúa Giêsu.
Chỉ mong chúng ta làm cho tròn ước mơ đó.

Cầu Nguyện

Xin hãy gọi tên con, lạy Chúa Giêsu,
xin hãy gọi tên con.

Những khi con tất bật vì bộn bề công việc,
xin hãy gọi tên con để nhắc nhở con,
như Chúa đã gọi tên chị Mác-ta đang dọn bữa.

Những khi con đi lạc đường mà không hay biết,
xin hãy gọi tên con và kêu con trở lại,
như Chúa đã gọi tên anh Sa-un
trên đường đi Đa-mát.

Những khi con khóc lóc và tìm kiếm Chúa,
xin hãy gọi tên con để con thấy Chúa ở ngay bên,
như Chúa đã gọi tên chị Maria đứng bên mộ.

Những khi con sa ngã vì quá tự hào,
xin hãy gọi tên con nhiều lần,
và hỏi con nhiều lần về tình yêu,
như Chúa đã gọi tên anh Simon bên hồ Galilê
trước khi trao cho anh sứ mạng.

Lạy Chúa Giêsu, xin hãy âu yếm gọi tên con,
như một con chiên trong đàn chiên của Chúa.
Và xin viết tên con trong lòng bàn tay.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

(phutcaunguyen.net)

++++++++++++++++++

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

30 THÁNG TƯ

Nghe Theo Tiếng Người Mục Tử

Sứ mạng của Đức Kitô bao gồm một sự hiểu biết cụ thể về những ai thuộc về Người. “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi. Tôi biết chúng” (Ga 10,27). Đây là một sự hiểu biết đến từ đức tin và sự tín nhiệm. Thực vậy, người mục tử là người duy nhất mà đàn chiên tín nhiệm. Đó là lý do tại sao chiên đi theo người ấy. Người ấy biết chính xác từng con chiên. Mỗi con chiên đều ở trong tâm tư của người ấy. Và chỉ người ấy mới có thể trả giá cho mỗi con chiên.

Giá ở đây, với Đức Kitô, là Thập Giá: “Người mục tử thí mạng mình vì chiên”. Đức Kitô biết rằng chiên của Người được định liệu để chia sẻ sự sống vĩnh cửu trong Người: “Chúng theo tôi. Và tôi ban cho chúng sự sống đời đời.” (Ga 10,27-28).

– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –

Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác

LIFT UP YOUR HEARTS

Daily Meditations by Pope John Paul II

+++++++++++++++++

Lời Chúa Trong Gia Đình

NGÀY 30/4

CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH

CHÚA CHIÊN LÀNH

Cv 2, 14a. 36-41; 1Pr 2, 20b-25; Ga 10, 1-10.

LỜI SUY NIỆM: Thật tôi bảo thật các ông: Ai không qua cửa mà vào ràn chiên, nhưng trèo qua lối khác mà vào, người ấy là kẻ trộm, kẻ cướp. Còn ai đi qua cửa mà vào, người ấy là mục tử.”

          Trong ngày Chúa Nhật Chúa Chiên Lành. Chúa Giêsu loan báo cho người tín hữu biết thế nào là một người mục tử nhân lành thực sự đang hiện diện giữa đàn chiên của mình.

          Trong Cựu Ước, qua các Thánh Vịnh cho chúng ta thấy được tình thương và sự chăm sóc của Thiên Chúa đối với dân của Ngài: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì, trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người.” (Tv 23,1-3)

          Lạy Chúa Giêsu. Chúa là Đấng chăn chiên lành, tất cả chúng con là những con chiên của Chúa, được Chúa luôn luôn hiện diện và theo dõi từng người trong chúng con, để yêu thương và bảo vệ khỏi các ác thần. Xin cho mỗi người trong chúng con luôn được sống với đàn chiên của Chúa, và đừng bao giờ làm cớ cho người anh em phải lạc xa đàn. Amen.

Mạnh Phương

+++++++++++++++++

Gương Thánh Nhân

Ngày 30-04

Thánh PIÔ V
Giáo Hoàng (1504 – 1572)

Thánh Piô V chào đời vào ngày lễ thánh Antôn năm 1504 tại Boscô, là con của ông Paolô và bà Đômen icaghisieri. Gia đình nghèo túng, Ngài phải đi chăn chiên. Khi một người láng giềng giàu có muốn trả giúp lệ phí học hành thì Ngài được gởi tới trường Đaminh ở Bôscô. Mười bốn tuổi Ngài nhập dòng và được mang tên là Micae. Năm 1528, thụ phong linh mục ở Ghenoa. Ngài đã dạy triết học và thần học một ít năm trong nhà dòng ở Pavia.

Năm 1543, khi ở nhà mẹ dòng Đaminh Ngài đã nỗ lực trong việc bảo vệ uy quyền của tòa thánh. Ngài được đặt làm ủy viên tòa án tôn giáo ở địa phận Pavia, rồi ở Bergamô và Cômô. Các hoạt động của Ngài ít được biết đến và bị chỉ trích nhiều. Một số lớn sách ủng hộ lạc giáo bị tịch thu để ở tại Milan và đưa về Rôma là nơi thánh nhân đã thắng cuộc và được Đức Hồng y Caraffa quí mến. Năm 1551, theo sự yêu cầu của Đức Hồng y, Ngài được Đức Giáo hoàng Giuliô III triệu về Rôma để làm Tổng Uy viên tòa án tôn giáo. Cùng năm này, Đức Hồng y Caraffa được bầu làm giáo hoàng.

Năm sau Đức tân giáo hoàng Phaolô IV đặt cha Micae Ghisleri làm giám mục Sutri và Nêpi. Ngài miễn cưỡng lãnh nhận trách nhiệm giám mục, chức vụ mà Đức Giáo hoàng nói là để “cột chân Ngài lại để Ngài khỏi trở lại tu viện”. Năm sau Ngài lại được cất nhắc lên làm Hồng y rồi làm đại Phán Quán. Bấy giờ Đức Giáo Hoàng trở nên gắt gỏng và vì Đai Phán Quan đôi khi bắt buộc phải chước giảm những chỉ thị quá khích của Ngài. Trái lại Đức Giáo Hoàng kế tiếp là Piô IV lại thiên về thế tục đến nỗi thánh nhân phải lui về địa phận thứ hai của Ngài là Mondovi ở Lombardi. Nhưng năm 1565 Đức Giáo Hoàng qua đời dưới ảnh hưởng của thánh Carôlô Bôrrômeô, Đức Hồng y Ghisleri được chọn làm Đức Giáo Hoàng trong một cuộc họp không bị những can thiệp từ bên ngoài, Ngài chọn danh hiệu là Piô V.

Việc tuyển chọn Đức Piô V ít được mong đọi và không được vua chúa Tây Ban Nha đồng ý và đã là một thắng lợi quyết liệt cho nhóm canh tân. Dầu mang tước vị nào đi nữa, Đức Piô V luôn sống như một người ăn xin trong mức độ có thể được. Chẳng hạn, Ngài chỉ giữ một số nhỏ người giúp việc, thích đi bộ hơn là đi ngựa, luôn nhận biết nguồn gốc khiêm tốn của mình.

Lúc đầu, Ngài ít được dân Rôma biết đến nhưng rồi sự chuyên chăm tham dự phụng vụ, sự thánh thiện cá nhân, thói quen đi bộ để viếng 7 thánh đường ở Rôma, nhóm người tùy tùng ít ỏi, sự từ chối không đề bạt những người trong gia đình, giải pháp phần lớn đoàn quân của giáo hoàng, việc bố thí rộng rãi. Tất cả đã góp phần tô điểm cho Ngài một khuôn mặt Đức Giáo Hoàng vừa bình dân vừa thân thịên.

Nhưng cuộc canh tân công đồng Tridentinô đòi hỏi đã được Đức Giáo Hoàng Piô V thực hiện ngay sau khi được tuyển chọn. Sách nguyện và sách lễ được duyệt xét lại đồng thời bản kinh thánh Phổ Thông và Tân ước tiếng Hy Lạp cũng đã được sửa lại, một ấn bản mới về các tác phẩm của thánh Tôma đã được chuẩn bị và cuốn giáo lý công đồng Tridentinô được phiên dịch sang nhiều thứ tiếng. Thánh nhân đã quan tâm nhiều đến việc thánh hóa hàng Giáo sĩ, khích lệ họ. Ngài diệt trừ thói buôn thần bán thánh và nghiêm khắc với những lạm dụng về luân lý. Ngoài ra Ngài cũng nhạy cảm với nghệ thuật. Chính Ngài bảo trợ việc soát lại Thánh nhạc.

Dầu không thông thạo việc trần thế, thánh nhân cũng đã gặt hái được nhiều thành quả trong lãnh vực chính trị. Trước sức tấn công ngày càng lớn mạnh của quân Thổ, Ngài được thành lập một liên minh với vua Tây Ban Nha, cộng hòa Vênêtia. Các Kitô hữu xuất trận dưới quyền chỉ huy của Don Giuan d’Autriche. Cuộc chiến diễn ra ở vịnh Lêpantê. Chính Đức Giáo Hoàng chạy đến phương thế thiêng liêng. Ngài kêu gọi các tín hữu gia tăng cầu nguyện.

Quận công Soliman nói: – Tôi sợ những lời cầu nguyện của Đức Giáo Hoàng hơn là những đoàn quân hùng hậu của các hoàng đế.

Cuộc chiến đã đưa tới thành công như một phép lạ. Quân Hồi đã bị đánh bại và không còn ngóc lên nổi nữa. Hôm ấy là ngày 07 tháng 10 năm 1571.

Đang hội họp với các hồng y Đức Giáo Hoàng đã ra cửa sổ nhìn về phía Lêpantê rồi quay lại loan báo tin vui chiến thắng, cùng với lời kêu gọi tạ ơn Chúa và Đức Mẹ.

Để kỷ niệm biến cố này, Ngài đã thêm lời cầu: “Đức Bà Phù hộ các giáo hữu, cầu cho chúng con” vào Kinh Cầu Đức Mẹ. Ngài cũng lập một lễ kính mẹ vào ngày 07 tháng 10, sau đổi thành lễ Đức Mẹ Mân Côi.

Cuộc chiến tại Lêpantê chấm dứt, Đức Giáo Hoàng Piô V cũng linh cảm thấy đời mình sắp chấm dứt. Thật vậy, Ngài đã ngã bệnh nặng, trong cơn đau đớn, Ngài đã cầu nguyện: – Lạy Chúa, xin cho con được chịu đau khổ nhiều hơn nhưng xin cũng thêm sức chịu đựng cho con.

Ngày 01 tháng 5 năm 1572, Đức Giáo Hoàng Piô V từ trần.

(daminhvn.net)

+++++++++++++++++

30 Tháng Tư

Tôi Xin Chấp Nhận

Tại một bệnh viện trong thành phố Hiroshima bên Nhật Bản, một người đàn bà bị phóng xạ nguyên tử từ 30 năm qua đang lên cơn hấp hối.
Bác sĩ chữa trị cho biết bà chỉ còn nhiều lắm là một hay vài giờ nữa là cùng. Theo thói quen tại Nhật Bản, người ta thông báo để người sắp chết cho biết ý muốn trong những giây phút cuối cùng.

Bác sĩ vào phòng bệnh nhân và nói nhỏ với bà: “Akiramé”.

Người đàn bà ngước nhìn vị bác sĩ và dùng ngón tay trỏ viết vào trong lòng bàn trái của bà câu: “Akiramé”, nghĩa là “Tôi xin chấp nhận”.

Với tất cả bình thản, người đàn bà đã biến những giờ phút hãi hùng nhất trong cuộc sống thành một biến cố tự nhiên và thanh thản.

Cuộc sống của chúng ta dường như được cấu tạo bằng nhiều vị khác nhau: đắng cay, chua xót, ngọt bùi… Gia vị là một điều cần thiết cho thức ăn. Người không thích cay đắng thì sẽ xem trái ớt, hạt tiêu là kẻ thù của khẩu vị. Người thích cay đắng thì lại tìm ra mùi vị thơm ngon của nó.

Hoa nào cũng có mật đắng. Nhưng loài ong khéo léo để chỉ hút mật ngọt.

Thiên Chúa ban cho chúng ta một cuộc sống với muôn màu sắc và hương vị khác nhau. Chúng ta phải là loài ong đi tìm mật ngọt trong vườn hoa cuộc sống ấy. Nếu chỉ nhìn thấy mật đắng, chúng ta sẽ bỏ cuộc đầu hàng trong chán nản. Nếu biết biến báo, chúng ta có thể tìm được mật ngọt và biến những đắng cay chua xót thành mật ngọt và hương thơm.

Sau khi đã đánh bại Ðức Quốc Xã và giải phóng Âu Châu, Churchill thủ tướng nước Anh đãtuyên bố: “Không gì buồn thảm cho bằng một chiến thắng”. Cảnh thu dọn chiến trường, cảnh kẻ khóc người cười, cảnh vợ mất chồng, cảnh cha mẹ mất con cái… Chiến thắng ngự trị trên tro tàn, đổ nát.
Dù vui với chiến thắng đến đâu, có ai mà không ngậm ngùi xót xa.

Hôm nay 30 tháng tư, đánh dấu một trong những biến cố đau thương nhất của lịch sử dân tộc. Mỗi năm chúng ta có dịp ôn lại ngày lịch sử ấy. Mỗi người một tâm tình. Nhưng dưới cái nhìn Ðức tin, người Kitô luôn được mời gọi để nhận ra bàn tay quan phòng của Chúa. Với tất cả bình thản và lạc quan, chúng ta hãy thốt lên như thánh nữ Têrêxa Hài Ðồng giữa cơn đau quằn quại trong thân xác và tâm hồn: “Tất cả đều là ơn Chúa”.

Tuyên xưng niềm tin vào Chúa Quan Phòng có nghĩa là chấp nhận mọi biến cố trong cuộc sống như một khởi đầu mới, một khởi đầu với những ơn sủng dồi dào hơn. Với những kẻ Thiên Chúa yêu thương, thì mọi sự đều quy về điều tốt…

Còn tâm tình nào đúng đắn hơn trong ngày lịch sử này là cảm tạ và phó thác. Cảm tạ Chúa vì qua mọi biến cố, Chúa Quan Phòng luôn gìn giữ chúng ta và hướng dẫn chúng ta trên đường ân phúc của Ngài. Phó thác cho Ngài bởi vì Ngài luôn có mặt trong cuộc sống để biến tất cả những thất bại, đau khổ, cay đắng trong cuộc sống thành khởi đầu của một cuộc sống tốt đẹp hơn.

(Lẽ Sống)

++++++++++++++++++

Lời Chúa Mỗi Ngày

Chúa Nhật IV – Năm A – Phục Sinh 

Bài đọc: Acts 2:14a, 36-41; 1 Pet 2:20b-25; Jn 10:1-10.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Làm sao có thể phân biệt sự thật từ sự gian tà?

Sống trong thế giới vàng thau lẫn lộn, không dễ gì để phân biệt vàng khỏi thau, sự thật từ những sự gian trá, và người yêu mình thực sự khỏi những người yêu vì lợi nhuận. Tuy vậy, nếu một người biết cẩn thận suy nghĩ và học hỏi, vẫn có những cách giúp họ khỏi bị lẫn lộn. Vàng đã có lửa, sự thật đã có những mặc khải của Đức Kitô, và người yêu thực sự cần có thời gian để thử xem họ có kiên trung làm việc lành và chịu đựng gian khổ hay không.

Các bài đọc hôm nay cung cấp cho chúng ta một số những tiêu chuẩn để nhận ra sự thật từ sự gian tà, người yêu thương chúng ta thật và những người chỉ lạm dụng để tiêu hủy chúng ta. Trong bài đọc I, Phêrô và các tông đồ vạch ra cho dân chúng tại Jerusalem biết họ đã nhầm lẫn nghe theo những nhà lãnh đạo gian dối của Thượng Hội Đồng để đóng đinh Đấng Thánh của Thiên Chúa. Trong bài đọc II, tác giả Thư Phêrô I chỉ cho thấy người tín hữu thật là người được ơn Thiên Chúa ban cho biết bắt chước gương Đức Kitô để làm việc lành, chịu đau khổ, và kiên tâm chịu đựng đến cùng mà không báo thù, vì biết Thiên Chúa sẽ phân xử cho họ. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu chỉ cho các tín hữu biết người lãnh đạo thực sự là những người phải đi ngang qua Ngài để chăm sóc chiên; tất cả những người đi lối khác đến với chiên đều là những kẻ trộm và kẻ cướp. Người mục tử thật giúp chiên sống dồi dào; trong khi kẻ làm thuê chỉ tìm cách tiêu diệt mạng sống của chiên.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Chúng tôi phải làm gì?

1.1/ Con người đã phạm tội khi tham dự vào việc đóng đinh Đức Kitô: Một trong những sứ điệp chính của việc làm chứng cho Chúa Giêsu bởi các tông đồ là thuyết phục mọi người tin Ngài chính là Đấng Thiên Sai của Thiên Chúa mà Lề Luật và Ngôn Sứ đã hằng nói tới. Trong trình thuật của CVTĐ hôm nay, ông Phêrô đứng chung với Nhóm Mười Một lớn tiếng nói với họ rằng: “Thưa anh em miền Judah và tất cả những người đang cư ngụ tại Jerusalem, xin biết cho điều này, và lắng nghe những lời tôi nói đây. Toàn thể nhà Israel phải biết chắc điều này: “Đức Giêsu mà anh em đã treo trên thập giá, Thiên Chúa đã đặt Người làm Đức Chúa và làm Đấng Kitô.”

1.2/ Hai điều kiện để được hưởng ơn cứu độ: Còn gì đau đớn hơn khi hết thế hệ này đến thế hệ khác mong đợi sự xuất hiện của Đấng Thiên Sai, đến khi Ngài xuất hiện thì lại từ chối và nhẫn tâm đối xử với Con Thiên Chúa còn thua kém một tên trộm cướp. Khi đã thấu hiểu tội của mình, các người Do-thái đau đớn trong lòng, và hỏi ông Phêrô cùng các Tông Đồ khác: “Thưa các anh, vậy chúng tôi phải làm gì?” Phêrô liệt kê cho họ hai điều phải làm.

(1) Hãy chịu phép Rửa nhân danh Đức Kitô: Phép Rửa mà Phêrô nói tới bao gồm hai phần chính: thứ nhất để được ơn tha tội, và thứ hai để được lãnh nhận ân huệ của Chúa Thánh Thần. Hai điều này đã được Thiên Chúa hứa từ ngàn xưa, và giờ đây được hiện thực trong con người Đức Kitô và công cuộc cứu độ của Ngài. Phép Rửa này được ban cho mọi người ở mọi nơi, chứ không chỉ giới hạn trong vòng dân tộc Israel mà thôi.

(2) Hãy tránh xa thế hệ gian tà: Nhìn lại cuộc đời Đức Kitô và cách thức con người đối xử với Ngài, mở mắt cho chúng ta nhìn thấy sự gian trá của ma quỉ, thế gian, và xác thịt. Chúng ta tự hỏi: Tại sao họ không nhận ra những sự thật mà Chúa Giêsu mặc khải? Tại sao các môn đệ đã từng được chứng kiến các phép lạ nhiệm mầu và tình yêu của Thầy Chí Thánh dành cho họ, lại có thể nhẫn tâm phản bội, chối từ, và chạy trốn để Ngài phải đương đầu với Cuộc Thương Khó một mình? Tại sao những người trong Thượng Hội Đồng, những con người tự nhận kính sợ Thiên Chúa và thông biết Lề Luật lại có thể gian dối luận tội Ngài phải chết như vậy? Tại sao nhà lãnh đạo tối cao như Philatô không đủ can đảm để phóng thích Chúa Giêsu, dẫu biết rằng chỉ vì ghen tức mà họ tìm cách giết Ngài?

Chúng ta không dám kết tội những người đương thời với Chúa Giêsu, vì chúng ta sợ không dám trả lời cho câu hỏi: “Tại sao giờ đây chúng ta đã thấu hiểu tình thương của Thiên Chúa, mà chúng ta vẫn tiếp tục phản bội Ngài qua việc tiếp tục làm nô lệ cho tội lỗi?” Chúng ta chỉ biết đấm ngực xét mình, và cố gắng tránh xa thế hệ gian tà bằng cách luyện tập và sống nhân đức hơn.

2/ Bài đọc II: Đức Kitô đã để lại một gương mẫu cho anh em dõi bước theo Người.

2.1/ Hãy bắt chước Chúa Giêsu kiên trung làm việc lành và chịu đau khổ: Ba điều quan trọng tác giả khuyên các tín hữu phải bắt chước Đức Kitô.

(1) Làm việc lành: Nhìn lại cuộc đời của Đức Kitô trên dương thế, Ngài không gây một thiệt hại nào cho dân chúng. Trái lại, đi tới đâu là Ngài thi ân giáng phúc tới đó: hết chữa bệnh, trừ quỉ, đến giảng dạy, mặc khải và rao giảng Tin Mừng. Đến độ Ngài có thể thách thức những kẻ muốn ném đá Ngài: Trong tất cả các việc Ta đã làm, đâu là việc các ngươi đã dựa vào để ném đá Ta? (Jn 10:32). Ngài không chỉ làm việc lành cho những người cùng thời; nhưng còn cho tất cả con người thuộc mọi thời đại đều được hưởng những công nghiệp của Ngài qua các bí tích.

(2) Phải chịu đau khổ: Tuy không gây đau khổ cho ai; nhưng hầu như mọi người đều gây đau khổ cho Ngài: Judah phản bội bán Thầy chỉ có 30 đồng; Phêrô, tông đồ trưởng chối Ngài ba lần trong cuộc Thương Khó; các tông đồ đều bỏ Ngài chạy trốn hết; những người trong Thượng Hội Đồng cáo gian để buộc tội Ngài; quân lính vả mặt, chế giễu, nhổ nước bọt, đội cho Ngài mão gai, đánh đòn, và đóng đinh Ngài trên Thập Giá; dân chúng đòi tha cho Barabba, một tên cướp, thay vì Người đã chuộc tội cho mình; và tất cả mọi người vẫn tiếp tục xúc phạm đến Ngài. Có thể nói được rằng không một ai trên đời này chịu đau khổ nặng hơn Ngài, dù chẳng phạm tội chi cả.

(3) Kiên tâm chịu đựng: Dù bị phản bội, tra tấn, nhục mạ, giết chết cách oan uổng, Chúa Giêsu vẫn không phản ứng, dù Ngài có uy quyền để phạt chết tất cả những kẻ gây đau khổ cho Ngài. Tác giả thư Phêrô I diễn tả sự chịu đựng của Chúa Giêsu: “Bị nguyền rủa, Người không nguyền rủa lại, chịu đau khổ mà chẳng ngăm đe; nhưng một bề phó thác cho Đấng xét xử công bình.” Đức Kitô có thể chịu đựng tất cả những bất công này là vì Ngài biết chắc Thiên Chúa sẽ dành cho Ngài phần chiến thắng. Tác giả kêu gọi các tín hữu noi gương Đức Kitô, vì “anh em được Thiên Chúa gọi để sống như thế.” Tuy nhiên, việc noi gương Đức Kitô để làm cả ba điều này là điều không dễ dàng. Ai làm được cả ba điều này là do ơn Thiên Chúa ban, và họ chắc chắn sẽ cùng được chiến thắng và thống trị với Đức Kitô.

2.2/ Lý do phải bắt chước Đức Kitô: Có ít nhất hai lý do khiến chúng ta phải bắt chước gương Đức Kitô kiên trung làm việc lành và chịu đau khổ.

(1) Vì chúng ta đã được hưởng hiệu quả những hy sinh của Đức Kitô: Tác giả viết: “Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá… Vì Người phải mang những vết thương mà anh em đã được chữa lành.” Nếu đã được hưởng những hiệu quả của cuộc Thương Khó và cái chết của Chúa, khi đến lượt chúng ta phải hy sinh cho tha nhân, chúng ta cũng phải làm như vậy để sinh lợi ích cho tha nhân.

(2) Sau khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính: Đức Kitô không chỉ chết cho tội của chúng ta, nhưng Ngài còn ban ơn thánh đầy đủ qua các bí-tích để chúng ta có thể sống cuộc đời công chính và nhân đức. Khi sống cuộc đời công chính, chúng ta sẽ không còn làm nô lệ cho tội nữa, mà thực sự sống tự do theo sự thúc đẩy của Thánh Thần. Nếu chúng ta không để ý tới khía cạnh phải sống nhân đức, chúng ta sẽ dễ dàng quay trở về với nếp sống cũ. Vì thế, tác giả khuyên: “Trước kia anh em chẳng khác nào những con chiên lạc, nhưng nay đã quay về với Vị Mục Tử, Đấng chăm sóc linh hồn anh em.”

3/ Phúc Âm: Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào.

Trình thuật cho ta hai dấu chính để nhận ra ai là người chăn chiên thật.

3.1/ Phải đi qua cửa chuồng chiên: Cửa là dấu chỉ cho người có được quyền được vào hay không. Người vào qua cửa mà vào là mục tử; người leo qua lối khác vào là kẻ trộm hay kẻ cướp. Phong tục của người Do-thái có hai cách để giữ chiên ban đêm: Nếu ở xa làng mạc, người mục tử sẽ kiếm những hang đá chỉ có một lối ra vào để lùa chiên vào đó, và người mục tử sẽ nằm ngủ ngay giữa cửa. Ai vào bắt chiên sẽ phải đi ngang qua anh. Nếu ở gần làng mạc, họ sẽ mang chiên tới gởi ở một nơi chung, và có người giữ cửa cho vào. Người giữ cửa biết rõ ai là mục tử và số chiên anh có.

Chúa Giêsu tự nhận Ngài là Cửa chuồng chiên: ai qua Ngài mà vào là người mục tử thật; ai không qua Ngài mà vào, là kẻ trộm kẻ cướp. Có ít nhất hai cách hiểu những lời này. Thứ nhất, ai nhân Danh Ngài mà chăn chiên, là mục tử thật; ngược lại là kẻ trộm cắp. Thứ hai, ai dạy những đạo lý của Ngài là mục tử thật; ai dạy những đạo lý của mình hay của người khác là mục tử giả hiệu.

3.2/ Phải lo cho tính mạng của đoàn chiên: Dấu hiệu thứ nhất không đủ để nhận ra người mục tử tốt lành, vì có những mục tử nhân danh Chúa vào cửa để tìm chiên không phải để lo cho tính mạng của chiên, nhưng là để tìm lông chiên và thịt chiên. Điều này đã được Thiên Chúa cảnh giác nhiều lần trong sách ngôn sứ Ezekiel.

Nghề chăn chiên bên Palestine rất khó và hao mòn sức lực, vì đồng cỏ và suối nước không có nhiều. Nếu người mục tử muốn cho chiên mạnh khỏe, anh phải chịu khó đi xa để tìm đồng cỏ màu mỡ và suối nước trong lành. Bên cạnh đó, địa thế cao nguyên của Palestine rất hiểm trở vì có nhiều núi đá dựng đứng, nếu trượt chân rớt xuống vực là mất mạng, bên cạnh đó, người chăn chiên còn phải bảo vệ đàn chiên mình khỏi nanh vuốt chó sói và tay của những kẻ trộm cướp.

Chúa Giêsu tuyên bố Ngài là Mục Tử Tốt Lành, Ngài đến để làm cho chiên được sống và sống dồi dào. Ngài đi tìm con chiên lạc, băng bó con bị thương, vỗ béo con gầy còm… Người mục tử chăm sóc phần hồn cho các tín hữu cũng phải noi gương Chúa Giêsu khi chăm sóc các tín hữu. Họ không thể chỉ để ý đến lông chiên, thịt chiên; nhưng phải lo lắng đi tìm các tín hữu đã bỏ đạo lâu năm, chữa lành những tâm hồn đau thương dập nát, và làm cho các tín hữu luôn sốt sắng trong việc thờ phượng và giữ đạo.

Tuy người mục tử đã làm hết cách để chăn chiên, thái độ của con chiên cần thiết cho sự chăm sóc và bảo vệ. Thái độ cần thiết nhất của chiên là phải nhận ra tiếng của chủ mình và đừng đi theo người lạ hay đi hoang, vì chủ chiên không thể bảo vệ những con chiên như thế. Thứ đến, chiên cũng cần biết tuân giữ những mệnh lệnh của chủ, chứ đừng chỉ làm theo ý mình; vì chiên chưa đủ khả năng để tự chăm sóc mình, và nhận ra những gì cần thiết cho cuộc đời mình.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Chúng ta hãy cố gắng học hỏi Kinh Thánh để nhận ra sự thật và tránh xa sự giả trá. Nếu không học hỏi Kinh Thánh, chúng ta sẽ không bao giờ có thể nhận ra sự gian trá của thế gian.

– Chúng ta hãy bắt chước Đức Kitô để kiên trung làm việc lành và chịu đau khổ cho tha nhân, để họ cũng được hưởng ơn cứu độ như Ngài đã làm cho chúng ta.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

****************