Ngày thứ ba (04-07-2023) – Trang suy niệm

03/07/2023

Lời Chúa Hôm Nay

Thứ Ba tuần 13 Thường Niên – Năm A

BÀI ÐỌC I: St 19, 15-29

“Chúa cho mưa sinh diêm và lửa xuống trên thành Sôđôma và Gômôra”.

Bài trích sách Sáng Thế.

Trong những ngày ấy, các thiên thần hối thúc ông Lót rằng: “Hãy chỗi dậy đem vợ và hai con gái của ngươi đi, kẻo chính ngươi cũng phải chết lây vì tội của thành Sôđôma!” Khi ông Lót còn đang do dự, các thiên thần nắm tay ông cùng vợ ông và hai con gái ông, vì Chúa muốn cứu thoát ông. Các thiên thần kéo ông ra ngoài thành và nói: “Ngươi muốn sống thì hãy chạy đi, đừng nhìn lại phía sau; cũng đừng dừng lại nơi nào cả trong miền quanh đây, nhưng hãy trốn lên núi, để khỏi chết lây!” Ông Lót thưa: “Lạy Chúa tôi, tôi van xin Ngài: Tôi tớ Chúa đã được Chúa thương yêu, và Chúa đã tỏ lòng khoan dung đại độ gìn giữ mạng sống tôi. Tôi không thể trốn lên núi kẻo gặp sự dữ mà chết mất. Gần đây có một thành phố nhỏ, tôi có thể chạy tới đó và thoát nạn. Thành đó chẳng nhỏ bé sao, xin cho tôi ẩn tránh tại đó để được sống”. Thiên thần nói: “Thôi được, ta cũng chiều ý ngươi xin mà không tàn phá thành ngươi đã nói tới. Ngươi hãy mau mau trốn thoát tới đó, vì ta chẳng làm được gì trước khi ngươi đi tới đó”. Bởi đó đã gọi tên thành ấy là Sêgor. Mặt trời vừa mọc lên thì ông Lót vào đến thành Sêgor. Vậy Thiên Chúa cho mưa sinh diêm và lửa từ trời xuống trên thành Sôđôma và Gômôra. Người huỷ diệt các thành này, cả miền chung quanh, toàn thể dân cư trong thành cùng các giống xanh tươi trên đất. Bà vợ ông Lót nhìn lại phía sau, nên đã biến thành tượng muối. Sáng sớm (hôm sau) ông Abraham thức dậy, đi đến nơi ông đã đứng hầu Chúa trước đây, ông nhìn về phía thành Sôđôma, và Gômôra và cả miền ấy, ông thấy khói từ đất bốc lên cao như khói một lò lửa hồng. Khi Chúa phá huỷ các thành trong miền ấy, Người đã nhớ đến Abraham mà cứu ông Lót thoát cảnh tàn phá tại các thành mà ông đã cư ngụ.

Ðó là lời Chúa.

ÐÁP CA: Tv 25, 2-3. 9-10. 11-12

Ðáp: Lạy Chúa, con nhìn xem tình thương Ngài trước mắt (c. 3a).

1) Lạy Chúa, xin hãy thăm dò và thử thách con, xin Ngài luyện lọc thận tạng và tâm can. Vì con nhìn xem tình thương Ngài trước mắt, và con sống theo chân lý của Ngài.

2) Xin đừng cất linh hồn con cùng linh hồn người tội lỗi, đừng cất mạng sống con cùng mạng sống kẻ sát nhân; bọn người này nắm chặt tội ác trong tay, và tay hữu chúng ôm đầy lễ vật.

3) Phần con, con vẫn sống tinh toàn, xin Ngài giải thoát và xót thương con. Chân con đứng vững trong đường bằng phẳng, trong các buổi hội họp, con sẽ chúc tụng Chúa.

ALLELUIA: 1 Sm 3, 9

All. All.- Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe; Chúa có lời ban sự sống đời đời. – All.

PHÚC ÂM: Mt 8, 23-27

“Người chỗi dậy, truyền lệnh cho gió và biển, và biển yên lặng như tờ”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu xuống thuyền, có các môn đệ theo Người. Và đây biển động dữ dội, đến nỗi sóng phủ lên thuyền, thế mà Người vẫn ngủ. Các môn đệ lại gần đánh thức Người dậy mà rằng: “Lạy Thầy, xin cứu lấy chúng con kẻo chết mất!” Chúa phán: “Hỡi những kẻ yếu lòng tin! Sao các con nhát sợ?” Bấy giờ Người chỗi dậy, truyền lệnh cho gió và biển. Và biển yên lặng như tờ! Cho nên những người ấy kinh ngạc mà rằng: “Ông này là ai mà gió và biển đều vâng phục?”

Ðó là lời Chúa.

(Nguồn: UBPV/HĐGMVN, ấn bản 1973)

++++++++++++++++++

04/07/2023 – THỨ BA TUẦN 13 TN

Th. Ê-li-sa-bét Bồ Đào Nha

Mt 8,23-27

CẦU XIN TRONG NIỀM TIN

Đức Giê-su xuống thuyền, các môn đệ theo Người. Bỗng nhiên biển động mạnh… Các môn đệ nói: “Xin Ngài cứu chúng con, chúng con chết mất.” Chúa Giê-su nói: “Sao nhát gan thế, hỡi những người kém lòng tin!” Rồi Người trỗi dậy, ngăm đe gió và biển: biển liền im lặng như tờ. (Mt 8,23.25-26)

Suy niệm: Với người Do thái, biển là biểu trưng cho thế lực của ma quỉ, tà ác. Các tông đồ đã hoảng sợ khi đối mặt với cơn phong ba trên biển. Lời kêu cứu của họ “xin cứu chúng con, chúng con chết mất” bộc lộ tâm trạng khiếp sợ, tuyệt vọng trước sự thắng thế của ác thần. Chúa coi thái độ sợ hãi đó như một dấu hiệu thiếu lòng tin. Chính vì thế, việc Chúa tỏ uy quyền của Ngài trên thiên nhiên bằng việc dẹp yên sóng gió, Chúa không chỉ cứu các tông đồ thoát khỏi một cuộc đắm tàu trong đường tơ kẽ tóc, mà Ngài còn vực dậy niềm tin yếu kém của họ đang mấp mé trên bờ vực thẳm.

Mời Bạn: Chạy đến với Chúa và kêu cầu Ngài là một hành vi chính đáng khi người ta nhận thức được giới hạn của thân phận con người. Lời cầu xin đúng đắn không thể là một hành vi trục lợi chỉ nhằm được tai qua nạn khỏi, mà phải là một lời tuyên xưng niềm tin mãnh liệt vào quyền năng của Thiên Chúa và sự tất thắng của Đấng làm chủ mọi loài. Bạn đã bao giờ cầu xin thực sự chưa? Nói cách khác, bạn có cầu xin với niềm tin yêu phó thác chứ không phải sợ hãi hay trục lợi? Với niềm tin như thế, việc cầu xin mới là đích thực và không làm hạ giá con người nhưng góp phần tôn vinh Thiên Chúa.

Sống Lời Chúa: Bạn hãy tha thiết cầu xin Chúa ban cho một ai đó được ơn mà người đó đang cần.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin ban thêm lòng tin cho chúng con. (Hoặc đọc kinh Tin).

(5 Phút Lời Chúa)

++++++++++++++++++

Suy niệm và cầu nguyện

Suy Niệm

Nếu mức nước biển dâng lên thêm một mét do nạn toàn cầu ấm lên,

nhiều vùng đất của nước Việt Nam sẽ bị chìm dưới mặt nước.        

Bão lụt, hạn hán, động đất, núi lửa, vẫn là những thảm họa cho con người.

Ngày nay người ta biết rằng phần lớn thiên tai không do Trời,

nhưng do con người phá hoại trái đất là công trình tốt đẹp của Trời cao.

Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy uy quyền của Đức Giêsu,

không phải trên ma quỷ hay bệnh tật, nhưng trên thiên nhiên.

Ngài đã dùng quyền đó để bảo vệ các môn đệ khỏi bị dập vùi bởi sóng gió.

Thầy Giêsu đã ra lệnh cho họ qua bên kia hồ (Mt 8, 18).

Ngài xuống thuyền trước, các môn đệ theo sau (c. 23).

Đi theo Thầy Giêsu, trên cùng một con thuyền, đâu hẳn được bình an.

Cơn bão lớn ngoài biển đến thật bất ngờ,

khiến con thuyền của Thầy trò chao đảo vì sóng gió.

Giữa cơn cuồng nộ của biển cả, giữa sự kinh hoàng nhốn nháo của các môn đệ,

Thầy Giêsu vẫn ngủ yên.

Dường như chẳng có gì khuấy động được giấc ngủ bình an của Thầy.

“Thưa Ngài, xin cứu, chúng con chết mất” (c. 25).

Lời đánh thức vội vã, hối thúc, khi cái chết đã gần kề.

Nhưng Thầy Giêsu lại chẳng có vẻ gì vội vã.

Giữa tiếng thét gào của sóng gió và sự chòng chành của con thuyền,

Thầy Giêsu đã quở trách các môn đệ vì sự cuống cuồng sợ hãi của họ,

hậu quả của việc thiếu lòng tin (c. 26).

Thầy đã không làm cho biển lặng sóng yên ngay lập tức,

vì tập bình an giữa sóng gió là điều khó và cần hơn nhiều.

Lắm khi chúng ta không hiểu tại sao thuyền đời chúng ta gặp bão,

dù có Thầy trong thuyền, dù chúng ta đã theo Thầy nghiêm túc.

Chúng ta lại càng không hiểu tại sao Thầy có thể ngủ được bình an,

khi chúng ta gặp muôn vàn thử thách và rơi vào tuyệt vọng.

Nhưng Thầy Giêsu cũng không hiểu tại sao chúng ta lại sợ đến thế (c. 26).

Tại sao chúng ta lại sợ thuyền chìm hay sợ chết ?

Nếu có đức tin vào Thầy thì sóng gió đâu nhận chìm được chúng ta.

“Thiên Chúa ngủ” mãi mãi là điều khó hiểu và khó chịu.

Đừng ngại đánh thức Ngài và kêu cứu.

Đừng ngại la to át tiếng sóng, để làm cho Ngài nghe được.

Nhưng cũng nên nhìn Ngài ngủ bình an, để khỏi bị hốt hoảng.

Không hẳn là Ngài sẽ trỗi dậy ngay và dẹp tan bão tố.

Không hẳn là chúng ta sẽ được giải thoát ngay khỏi mọi nỗi hiểm nghèo.

Điều quan trọng là lòng ta được bình an,

vì biết Ngài vẫn bình an ở lại trong con thuyền đời ta.

 

Cầu Nguyện

 

Lạy Chúa Giêsu,

con chẳng dám xin đi trên mặt nước như Phêrô,

nhưng nhiều khi con cảm thấy

sống đức tin giữa lòng cuộc đời

chẳng khác nào đi trên mặt nước.

Có bao thứ sóng gió đẩy đưa và lôi cuốn.

Có bao cám dỗ muốn hút con vô vực sâu.

Cả sự nặng nề của thân xác con

cũng kéo ghì con xuống.

Đi trên mặt nước cuộc đời chẳng mấy dễ dàng.

Nhiều khi con thấy mình bàng hoàng sợ hãi.
Xin cứu con khi con hầu chìm.

Xin nắm lấy tay con khi con quỵ ngã.

Xin nâng đỡ niềm tin yếu ớt của con,

để con trở nên nhẹ tênh

mà bước những bước dài hướng về Chúa. Amen.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

(phutcaunguyen.net)

++++++++++++++++++

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

4 THÁNG BẢY

Biến Cái Hỗn Mang Thành Trật Tự

Trong nhiều bản văn, Thánh Kinh ca ngợi sự quan phòng thần linh như là quyền bính tối cao của thế giới, quyền bính đầy quan tâm đối với mọi tạo vật, nhất là đối với con người. Thiên Chúa, trong tư cách là chủ nhân đầy tình yêu thương đối với tất cả những gì mà Ngài đã tạo dựng, vẫn luôn luôn làm việc trong mọi sự.

Thiên Chúa, bằng sự khôn ngoan đầy sức sáng tạo của Ngài, dự liệu mọi sự và làm việc trong mọi sự. Sự khôn ngoan của Thiên Chúa vượt xa sự khôn ngoan và cẩn trọng của con người. Thật vậy, Thiên Chúa – Đấng siêu việt trên mọi sự – làm cho thế giới có thể biểu hiện trật tự lạ lùng theo ý Ngài ở nhiều cấp độ khác nhau.

Chính sự quan phòng và khôn ngoan này của Đấng Tạo Hóa làm cho thế giới có thể vận hành như một vũ trụ có hệ thống và trật tự chứ không phải như một mớ hỗn mang. “Chúa đã sắp xếp có chừng có mực, đã tính toán và cân nhắc cả rồi” (Kn 11,20). Thánh Kinh trầm trồ về sự khôn ngoan sáng tạo của Thiên Chúa.

– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –

Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác

LIFT UP YOUR HEARTS

Daily Meditations by Pope John Paul II

+++++++++++++++++

Lời Chúa Trong Gia Đình

Ngày 04-7

Thánh Êlisabeth Bồ Đào Nha

St 19, 15-29; Mt 8, 23-27.

Lời suy niệm: “Thưa Ngài, xin cứu chúng con, chúng con chết mất! Đức Giêsu nói: Sao nhát thế, hỡi những kẻ kém lòng tin! Rồi Người chỗi dậy, ngăm đe gió và biển; biển liền lặng như tờ.”

          Trong câu chuyện Chúa Giêsu ngăm đe gió và biển; biển liền lặng như tờ. Chúa đang gởi sứ điệp của Người đến với mỗi người trong chúng ta, đó là: Mỗi người chúng ta hãy vững tin vào Chúa, dù trong cuộc sống  có gặp sóng gió làm chao đảo đời sống thân xác, hay đức tin. Đều có sự hiện diện của Chúa; và chính Người sẽ dẹp yên mọi sóng gió đó, để đem lại sự bình an thể xác và tâm hồn của chúng ta.

          Lạy Chúa Giêsu. trong cuộc sống của chúng con cũng có lắm phong ba bão táp, đặc biệt trong đời sống đức tin của chúng con. Xin Chúa cho chúng con niềm tin: Tin có sự hiện diện của Chúa và chính tình thương của  Chúa sẽ cứu chúng con. Amen.

Mạnh Phương

+++++++++++++++++

Gương Thánh Nhân

Ngày 04-07: Thánh ELISABETH LUSITANIA

(1271 – 1336)

Thánh Elisabeth là con vua Phêrô III nước Aragon, và là cháu vua Giacôbê I. Ngài sinh ra năm 1271 và được đặt tên là Elisabeth, để kính nhớ thánh nữ Elisabeth, hoàng hậu nước Hungari là dì của cha Ngài, mới được đức giáo hoàng Grêgôriô IX tuyên thánh 40 năm trước. Elisabeth ra đời như sứ giả hòa bình, vì khi Ngài sinh ra cha Ngài và ông nội Ngài làm hoà với hau.

Vua Giacôbê muốn tự mình giáo huấn đứa cháu gái. Elisabeth lên sáu tuổi thì ông nội từ trần. Nhưng những chỉ dẫn thánh thiện của ông nội lẫn gương sáng của bà nội đã in sâu trong tâm hồn thánh nữ. Nhận xét về đứa cháu gái của mình. Có lần nhà vua thánh thiện Giacôbê đã nói: – Đây là viên ngọc xứ Aragon.

Lên tám, Elisabeth đã tỏ ra là người trưởng thành. Vào tuổi này Ngài đã bắt đầu đọc kinh nhật tụng và sẽ trung thành đến phút cuối đời. Dầu thân xác yếu đuối, Ngài vẫn sống đời khắc khổ. Ngày áp lễ Đức Mẹ thánh nữ thường giữ chay nhiệm nhặt để dọn mình, không thích chưng diện sang trọng, Ngài sống khiêm tốn hiền hậu. Mọi người trong triều đình coi Ngài như một thiên thần được Thiên Chúa gởi xuống. Cha Ngài cũng phải nhìn nhận rằng: chính lòng đạo đức của con gái mình đã kéo ơn phúc lành từ trời cao xuống cho vương quốc.

Vào tuổi 12, Elisabeth được nhiều hoàng tử chú ý. Sau hai lần từ khước lời cầu hôn của hoàng tử nước Anh và của hoàng tử nước Ý, thánh nữ nhận lời thành hôn với hoàng tử Denis nước Bồ Đào Nha. Trở thành hoàng hậu, Elisabeth vẫn luôn hướng lòng về Thiên Chúa. Ngài dốc toàn lực để chu toàn phận vụ của một hoàng hậu. Nhưng ưu tư quan yếu của Ngài là trang hoàng các thánh đường và cung ứng của ăn áo mặc cho người nghèo. Đối với những ai biết được cuộc sống nhiệm nhặt âm thầm của thánh nữ mà muốn khuyên Ngài giảm bớt, Ngài nói: – Ở đâu cần hy sinh hãm mình hơn là ở trong triều đình là nơi có nhiều nguy hiểm lớn lao.

Ngài thường nói: – Thiên Chúa đặt tôi lên ngai là để tôi làm việc lành cho những người bất hạnh.

Mọi người đau khổ đều được Ngài săn sóc, nhưng Ngài quan tâm hơn tới trẻ mồ côi, nhưng người thiếu nữ cô độc và khốn khổ. Ngài còn tiếp đón khách hành hương, săn sóc các bệnh nhân. Mỗi ngày thứ sáu trong mùa chay, Ngài rửa chân cho 13 người hành khất. Lần kia, hoàng hậu rửa sạch, băng bó vết thương nơi chân một bệnh nhân, rồi âu yếm hôn lên vết thương ấy. Hành động anh hùng này đã được ân thưởng: vết thương được lành.

Đối với những người nghèo khổ mà mắc cỡ, thánh nữ mang của bố thí đến cho họ. Vào một ngày mùa đông, Ngài giấu đồ cứu trợ trong áo. Chồng Ngài bắt gặp và lên tiếng hỏi. Thấy chồng giận dữ, Ngài không dám trả lời. Nhà vua giật áo Ngài ra. Và lạ lùng nhà vua chỉ thấy toàn là hoa hồng. Để ghi nhớ phép lạ này, một cửa vào tu viện thánh Clara do thánh nữ thiết lập được đặt tên là hoa hồng.

Đức bác ái của thánh Elisabeth còn lan rộng tới những miền xa xôi khác nữa, hoà giải các gia đình và các dân tộc lại với nhau. Ngài đã hòa giải vua miền Aragon với vua miền Castille, rồi vua miền Castilia với vua Bồ đào Nha. Như thế Ngài đã dập tắt được nhiều cuộc chiến.

Trong khi mang hạnh phúc đến cho mọi người, thánh nữ lại là người chịu bao nhiêu cay đắng. Denis, chồng Ngài là một nhà cai trị có khả năng, nhưng lại là một người chồng thất tín. Chúng ta nhớ rằng: cuộc hôn nhân của Ngài là một cuộc dàn xếp chính trị và các vua mà giữ được sự tinh khiết thì quả là đặc biệt. Elisabeth không những đã nhẫn nhục và êm đềm chịu đựng sự bất trung của chồng mà còn tận tâm săn sóc những đứa con ngoại hôn của chồng với trọn tình mẫu tử. Dần dần những nhẫn nại và thùy mị đã cảm hóa được Denis.

Câu chuyện sau đây là một ví dụ: Hoàng hậu Elisabeth đã chọn một tiểu đồng nhân đức là Alonsô để phân phát của bố thí. Ghen tức Alonsô, một tiểu đồng khác đã vu cáo là Alonsô có những liên hệ tội lỗi với hoàng hậu. Nhà vua tin lời. Ong ra lệnh cho một chú lò vôi: – Khi một tiểu đồng đến hỏi rằng: “Lệnh nhà vua đã được thi hành chưa ?” thì cứ túm lấy cổ nó mà ném vào lò cho chết.

Hôm sau vua sai Alonsô đi hỏi như trên. Dọc đường anh vào nhà thờ dự ba thánh lễ liền. Còn nhà vua thì nóng lòng, sai tên vu cáo đi dò hỏi sự việc. Hắn tới và bị túm cổ ném vào lò vôi. Hết lễ Alonsô đến hỏi chủ lò vôi rồi về tường trình sự việc cho vua. Nhà vua ngạc nhiên và nhận biết sự vô tội của Alonsô. Ong hối cải và quyết tâm sống xứng đáng với người vợ thánh thiện của mình.

Nhưng rồi một thảm họa đã xảy ra. Hoàng tử Alfonsô nổi loạn. Hoàng hậu Elisabeth rất đau lòng. Ngài thêm lời cầu nguyện, sám hối và bố thí, Ngài đã thành công khi cỡi ngựa vào giữa trận địa, tay cầm thánh giá để ngăn cho khỏi xẩy ra việc đổ máu. Tại Lisbonne vẫn còn tấm đá cẩm thạch ghi dấu sự kiện này. Lợi dụng thời cơ bọn nịnh thần xúi giục nhà vua tin rằng: chính hoàng hậu đã thông đồng với con để khởi loạn. Elisabeth bị giam trong pháo đài Alamquer: nhưng hoàng hậu vẫn nhân từ, Ngài không chống đối theo lời khuyên của các lãnh Chúa mà còn làm cho họ trung thành hơn với vương quyền. Denis nhờ đó nhận biết sự lầm lẫn của mình. Ông công khai hối hận. Năm 1325 Denis từ trần cách thánh thiện sau một cơn bệnh lâu dài và đau đớn, dưới sự săn sóc tận tình của người vợ.

Từ đây Elisabeth cởi bỏ mọi y phục sang trọng, cắt tóc ngắn và nhập dòng ba Phanxicô. Ngài mặc áo dòng và đã sống trong một ngôi nhà cạnh dòng thánh Clara mà Ngài đã thiết lập ở Coimbra. Đời sống Ngài là một gương mẫu cho các nữ tu.

Năm 1336, con Ngài là vua Alphonsô gây chiến với vua miền Castille, người đã xử tệ với vợ mình, là con gái vua Alfonsô. Dầu đã yếu đau, thánh Elisabeth đã đuổi theo và gặp được đoàn quân ở Estremoz. Ngài đã thành công trong việc hòa giải hai nhà vua.

Trong cơn bệnh cuối đời của Ngài, có cả con và cháu hiện diện, Ngài còn được ơn an ủi đặc biệt và được Đức Mẹ đến đón trong lúc hơi thở cuối cùng. Ngài qua đời ngày 4 tháng 7 năm 1336. Đức giáo hoàng Urbanô đã suy tôn Ngài lên bậc hiển thánh.

(daminhvn.net)

+++++++++++++++++

04 Tháng Bảy

Củ Cà Rốt Của Tôi 

Một lão bà nọ qua đời, được các Thiên Thần mang đến tòa phán xét. Trong khi duyệt xét các hành động của bà lúc còn sống, Ðấng phán xét đã không tìm thấy bất cứ một hành động bác ái nào, ngoại trừ có một lần bà đã cho người ăn mày một củ cà rốt. Tuy nhiên, Ðấng phán xét tối cao đầy lòng nhân từ cũng xem hành động ấy có đủ sức để mang người đàn bà lên Thiên Ðàng. Dĩ nhiên, củ cà rốt sẽ được dùng như sợi xích vững để người đàn bà bám vào và leo lên các bậc trong chiếc thang dẫn về Thiên Ðàng.

Người ăn mày cũng chết vào khoảng trong thời gian ấy. Anh cũng được diễm phúc bám vào gấu áo của người đàn bà để được đưa lên Thiên Ðàng.

Một người khác cũng qua đời vào ngày hôm đó. Người này cũng níu lấy chân của người hành khất. Không mấy chốc, chiếc thang bắt đầu từ củ cà rốt mỗi lúc một dài ra đến gần như vô tận: mọi người đều níu kéo nhau để lên Thiên Ðàng. Nhưng từ trên đỉnh thang nhìn xuống, người đàn bà bỗng châu mày khó chịu. Bà thấy sợi dây mỗi lúc một dài, bà sợ nó sẽ căng ra rồi đứt chăng. Cho nên trong cơn bực tức, bà cố gắng dành riêng cho mình củ cà rốt và la lên: “Các người giang ra, đây là củ cà rốt của tôi”.

Người đàn bà cố gắng giữ củ cà rốt cho riêng mình cho nên sợi dây tạo nên chiếc thang bắc lên Trời bị đứt. Bà rơi nhào xuống đất và cả đoàn người bám víu vào sợi dây ấy cũng rơi theo.

Một tác giả nào đó đã nói như sau: “Nguyên nhân của tất cả các sự dữ trên trần gian đều bắt đầu từ câu nói điều này thuộc về tội, điều kia thuộc về tôi”.

Khi con người muốn chiếm giữ cho riêng mình là lúc con người cũng muốn chối bỏ và loại trừ người khác. Nhưng càng muốn chiếm giữ cho riêng mình, con người không những chối bỏ người khác mà cũng đánh mất chính bản thân mình. Tình liên đới là điều thiết yếu cho sự thành toàn của bản thân chúng ta. Càng ra khỏi chính mình để sống cho người khác, chúng ta càng gặp lại bản thân, chúng ta càng lớn lên trong tình người. Ðó là nghịch lý mà Chúa Giêsu đã nói với chúng ta: “Ai mất mạng sống mình, người đó sẽ tìm gặp lại bản thân”. Hạnh phúc của bản thân chính là làm sao cho người khác được hạnh phúc.

(Lẽ Sống)

++++++++++++++++++

Lời Chúa Mỗi Ngày

Thứ Ba – Tuần 13 – TN1 – Năm lẻ

Bài đọc: Gen 19:15-19; Mt 8:23-27.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Niềm tin là món quà quí giá nhất của cuộc đời.

Con người lo âu sợ hãi khi phải đương đầu với những thiên tai và đau khổ của cuộc sống. Biết được yếu điểm này, ma quỉ và thế gian dùng nó để đe dọa con người không dám sống theo sự thật. Con người cần tập luyện để có một niềm tin vững mạnh nơi Thiên Chúa; chỉ như thế họ mới có thể đương đầu với cám dỗ và những phong ba của cuộc đời, để sống cho sự thật.

Các Bài Đọc hôm nay liệt kê những hoàn cảnh sợ hãi và lo âu của con người. Trong Bài Đọc I, ông Lot và gia đình lo âu và sợ hãi khi nhìn thấy hai thành Sodom và Gomorrah bị thiêu hủy bởi lửa diêm sinh; mặc dù đã được Đức Chúa cứu thoát và chỉ đường cho chạy trốn. Trong Phúc Âm, các môn đệ lo âu và sợ hãi khi phải đương đầu với sóng gió của Biển Hồ. Chúa Giêsu thức dậy và dẹp tan sóng gió. Ngài mắng các ông là những kẻ hèn tin.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Án phạt của Thiên Chúa trên hai thành Sodom và Gomorrah

1.1/ Đức Chúa cứu gia đình ông Lot khỏi bị tàn sát:

(1) Lý do Sodom bị tàn sát: Hai sứ thần của Đức Chúa nhận lời mời và vào nhà ông Lot để tá túc qua đêm. Tối hôm ấy, nhiều nam nhân trẻ cũng như già trong vùng đến đập cửa nhà ông Lot, để đòi ông mang hai người khách ra cho họ phạm tội “sodomy, có nghĩa nam nhân ăn ở với nam nhân trước mặt mọi người.” Ông Lot năn nỉ chuộc bằng hai cô con gái; nhưng họ nhất định không chịu. Hai sứ thần của Thiên Chúa nghe những lời phạm thượng của họ từ trong nhà, nên đã quyết định số phận của thành Sodom.

(2) Sứ thần cứu gia đình ông Lot: Khi hừng đông ló rạng, các sứ thần giục ông Lót rằng: “Đứng lên! Đưa vợ và hai con gái ông đang ở đây đi đi, kẻo ông phải chết lây khi thành bị phạt.”

Ông còn đang chần chừ thì hai người khách nắm lấy tay ông, tay vợ ông và tay hai người con gái ông, vì Đức Chúa muốn cứu ông; các ngài đưa ông ra và để bên ngoài thành.”

Một điều kỳ lạ làm chúng ta phải suy nghĩ: Sống trong một nơi nguy hiểm và tội lỗi như vậy, mà ông Lot vẫn quyến luyến. Ông đã không có can đảm từ chối những cám dỗ vật chất để đưa gia đình ra khỏi nơi đó, để tìm một môi trường lành mạnh và thánh thiện hơn. Điều này hoàn toàn là do ý riêng của ông ngay từ đầu, khi Abraham để cho ông tự do lựa chọn. Nếu hai sứ thần không quyết liệt cầm tay lôi gia đình ông đi, mà để tùy ông lựa chọn, ông đã chung số phận với dân thành tội lỗi đó.

(3) Lệnh truyền của sứ thần: Khi đưa ông ra ngoài rồi, một vị nói: “Ông hãy trốn đi để cứu mạng sống mình! Đừng ngoái lại đằng sau, đừng dừng lại chỗ nào cả trong cả vùng. Hãy trốn lên núi kẻo bị chết lây.”

1.2/ Ông Lot thương lượng với sứ thần: Không biết vì tiếc nuối tài sản đã gầy dựng được, hay sợ cuộc sống trên núi, ông Lót nói với hai người khách: “Thưa ngài, xin miễn cho! Này, tôi tớ ngài đây đã được đẹp lòng ngài, và ngài đã tỏ lòng thương lớn lao của ngài đối với tôi khi để cho tôi sống. Nhưng tôi không trốn lên núi được đâu, tai ương sẽ đuổi kịp, và tôi chết mất!”

Trước hết, ông Lot không có niềm tin nơi Thiên Chúa như Abraham, cậu ông. Chết đến nơi rồi mà ông vẫn thương lượng với sứ thần. Ông không tin Thiên Chúa có thể lo cho cuộc sống tương lai của gia đình ông trên núi, nên ông thương lượng với sứ thần để xin vào tị nạn trong thành nhỏ Zoar gần đó.

Bà vợ của ông Lot, không biết vì quá tiếc của hay vì tò mò, Bà bất tuân lệnh sứ thần và ngoái lại nhìn, lập tức Bà hóa thành tượng muối. Biến cố này phải giúp chúng ta đặt trọn vẹn niềm tin nơi Thiên Chúa, và cẩn thận giữ các điều Ngài truyền. Con người chúng ta không biết trước tương lai, cũng không sáng suốt đủ để biết những gì có lợi cho mình; vì thế, chúng ta cần phải tuyệt đối vâng lời và làm theo thánh ý của Thiên Chúa.

2/ Phúc Âm: “Sao nhát thế, hỡi những người kém lòng tin!”

2.1/ Hai phản ứng khi phải đương đầu với sóng gió:

(1) Phản ứng của Chúa Giêsu: Tin Mừng tường thuật: “Biển động mạnh đến độ sóng nước ập vào thuyền, nhưng Người vẫn ngủ!” Tại sao Chúa Giêsu có thể ngủ được khi sóng biển động mạnh như thế? Thưa có hai lý do: Thứ nhất, Ngài không sợ hãi chi cả. Chỉ một người không biết sợ là gì mới có tâm hồn bình an như vậy; như chúng ta thường khôi hài chọc nhau: “Điếc không sợ súng!” Nếu một người không nghe thấy tiếng súng, người ấy sẽ không sợ súng đạn. Thứ hai, mọi quyền lực thế gian phải sợ Ngài. Khi các môn đệ hoảng hốt đánh thức Chúa dậy, “Người chỗi dậy, ngăm đe gió và biển: biển liền lặng như tờ.”

(2) Phản ứng của các môn đệ: Có ngư phủ nào mà không sợ sóng gió, vì họ biết sóng gió chẳng những đe dọa, mà có thể lấy đi mạng sống của họ bất cứ lúc nào. Truyền thống ngư phủ có thói quen cầu trời khấn Phật bắt đầu mùa tôm cá và trước khi ra khơi, để xin Trời Phật phù hộ cho qua khỏi những cơn sóng gió lúc nào cũng đe dọa. Nếu đã cầu xin, họ phải tin tưởng sự phù hộ của Trời Phật; nhưng phản ứng sợ hãi khi sóng gió xảy đến chứng tỏ họ không tin, hay đức tin của họ còn yếu kém như Chúa mắng các môn đệ hôm nay. Các môn đệ đã từng nhìn thấy Chúa Giêsu làm các phép lạ mà sức con người không thể làm nổi; vả lại, các ông đang có Chúa Giêsu quyền năng trong thuyền, thế mà các ông vẫn lo sợ sóng gió!

2.2/ Niềm tin cần thiết để con người chống chọi với sóng gió của cuộc đời: Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Sao nhát thế, hỡi những người kém lòng tin!” Đức tin có thể ví như kinh nghiệm mà một người sở hữu trong đời. Cả hai đều cần phải được thử thách. Người đã có kinh nghiệm hay từng trải không dễ sợ hãi như người mới ra trường, chưa có kinh nghiệm. Cũng vậy, người đã có đức tin vững mạnh, sẽ không sợ hãi trước những đe dọa và bắt bớ của các quyền lực thế gian, ngay cả việc chấp nhận cái chết để làm chứng cho Đức Kitô.

Khi con người không sợ hãi ngay cả cái chết, họ bắt đầu sống và sống tròn đầy. Khi con người không sợ hãi các quyền lực thế gian, thế gian phải sợ hãi họ. Chúng ta có thể thấy điều này nơi các môn đệ của Đức Kitô: Trước khi Ngài về trời, các môn đệ là những người nhát sợ khi phải đương đầu với quyền lực thế gian, nên các ông chạy trốn Chúa và Phêrô đã chối Ngài 3 lần; nhưng khi đã thấy Chúa sống lại từ cõi chết, các ông không còn sợ hãi chi cả. Tại sao vậy? Vì các ông biết rằng quyền lực thế gian có thể lấy đi sự sống thể lý, nhưng Đức Kitô sẽ cho các ông sống lại; và không một quyền lực thế gian nào có thể động tới linh hồn của các ông. Vì thế, sau khi được Thánh Thần tác động, các ông mở tung cửa để vào đời làm chứng cho Đức Kitô. Những người trong Thượng Hội Đồng phải ngạc nhiên, vì thấy các ông không còn sợ hãi họ nữa. Các ông tranh luận với họ cách công khai và họ không thể đối đầu với các ông. Thay vì thẳng tay đàn áp như trước, giờ đây họ sợ phải đàn áp các ông. Lý do không phải họ không còn quyền, nhưng vì họ sợ dân chúng ném đá họ khi dân chúng đã nhận ra sự giả hình của họ.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Chúng ta sống trên đời này là để lo làm sao đạt được đích điểm của cuộc đời; chứ không phải để kiếm tiền hay hưởng thụ. Vì thế, chúng ta phải có can đảm quyết định và tránh xa những nơi ngăn cản không cho cá nhân hay gia đình đạt tới đích.

– Chúng ta cần đào tạo để có một niềm tin vững mạnh nơi sự quan phòng của Thiên Chúa, thì mới có thể đương đầu với những phong ba bão táp của cuộc đời. Nếu không, chúng ta sẽ dễ dàng rơi vào cám dỗ của ba thù và bị tiêu diệt với chúng.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

****************