Ngày thứ ba (05-06-2018) – Trang suy niệm

04/06/2018

Lời Chúa Hôm Nay

Thứ Ba Tuần IX Mùa Thường Niên Năm chẵn

BÀI ĐỌC I: 2 Pr 3, 12-15a. 17-18

“Chúng ta mong đợi trời mới đất mới”.

Trích thư thứ hai của Thánh Phêrô Tông đồ.

Anh em thân mến, anh em hãy mong chờ và hối thúc ngày Chúa đến, ngày mà các tầng trời bốc cháy tiêu tan, và ngũ hành bị thiêu rụi. Nhưng theo lời Người hứa, chúng ta mong đợi trời mới đất mới, trong đó công lý sẽ ngự trị.

Anh em thân mến, bởi thế, trong lúc chờ đợi, hãy gắng sao nên vô tì tích trước nhan Người, trong bình an. Và anh em hãy coi lòng khoan dung của Thiên Chúa như là phương thế cứu rỗi.

Vậy, anh em thân mến, được biết trước như thế, anh em hãy giữ mình, kẻo bị lôi cuốn theo sự lầm lạc của những kẻ vô luân mà sa đoạ, mất lòng trung kiên của anh em. Anh em hãy lớn lên trong ân sủng và trong sự hiểu biết Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Rỗi và là Chúa chúng ta. Nguyện (chúc) vinh quang cho Người bây giờ và đến muôn đời. Amen! Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 89, 2. 3-4. 10. 14 và 16

Đáp: Thân lạy Chúa, Chúa là chỗ chúng con dung thân, từ đời nọ trải qua đời kia (c. 1).

Xướng: 1) Ôi Thiên Chúa, trước khi núi non sinh đẻ, trước khi địa cầu và vũ trụ nở ra, tự thuở này qua thuở kia, vẫn có Ngài.  – Đáp.

2) Thực ngàn năm ở trước thiên nhan, tựa hồ như ngày hôm qua đã khuất, như một đêm thức giấc cầm canh. Chúa khiến con người trở về bụi đất, Ngài phán: “Hãy trở về gốc, hỡi con người!”  – Đáp.

3) Thọ kỳ của chúng con số niên bảy chục, nếu khoẻ mạnh ra thì được tám mươi, nhưng đa số là những năm lầm than và phù phiếm, bởi chúng mau qua và chúng con cũng bay theo. – Đáp.

4) Xin cho chúng con sớm được no phỉ ân tình của Chúa, để chúng con mừng rỡ hân hoan trọn đời sống chúng con. Xin cho các bầy tôi nhìn thấy sự nghiệp của Chúa, và cho con cháu họ được thấy vinh quang Ngài. – Đáp.

ALLELUIA: 1 Pr 1, 25

Alleluia, alleluia! – Lời Chúa tồn tại muôn đời, đó là lời Tin Mừng đã rao giảng cho anh em. – Alleluia. 

PHÚC ÂM: Mc 12, 13-17

“Các ông hãy trả cho Cêsarê cái gì thuộc về Cêsarê, và trả cho Thiên Chúa cái gì thuộc về Thiên Chúa”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô. 

Khi ấy, người ta sai mấy người thuộc nhóm biệt phái và đảng Hêrôđê đến Chúa Giêsu để lập mưu bắt lỗi Người trong lời nói. Họ đến thưa Người rằng: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật không vị nể ai, vì Thầy chẳng xem diện mạo, một giảng dạy đường lối Thiên Chúa cách rất ngay thẳng. Vậy chúng tôi có nên nộp thuế cho Cêsarê không? Chúng tôi phải nộp hay là không?” Nhưng Người biết họ giả hình, nên bảo rằng: “Sao các ông lại thử Ta? Hãy đưa Ta xem một đồng tiền”. Họ đưa cho Người một đồng tiền và Người hỏi: “Hình và ký hiệu này là của ai?” Họ thưa: “Của Cêsarê”. Người liền bảo họ: “Vậy thì của Cêsarê, hãy trả cho Cêsarê; của Thiên Chúa, hãy trả cho Thiên Chúa”. Và họ rất đỗi kinh ngạc về Người. Đó là lời Chúa.

(thanhlinh.net)

++++++++++++++++++

05/06/2018 – THỨ BA TUẦN 9 TN

Th. Bô-ni-phát, giám mục, tử đạo

Mc 12,13-17

TRẢ LẠI CÔNG BẰNG CHO CHÚA

Đức Giê-su bảo họ: “Của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa.” (Mc 12,17)

Suy niệm: Là công dân một nước, người tín hữu phải chu toàn nghĩa vụ của người công dân; còn nghĩa vụ đối với Thiên Chúa thuộc bình diện khác và có tính tuyệt đối. Lập trường của Chúa Giê-su thật rõ ràng và dứt khoát: của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa. Ngài yêu mến quê hương, nhưng Ngài không hề kêu gọi nổi dậy chống lại Phi-la-tô, Hê-rô-đê, hay Xê-da. Vì: “Nước Ngài không thuộc về thế gian này” (Ga 18,36). Tuy nhiên, Ngài đòi hỏi- và có quyền đòi hỏi như thế, vì Ngài là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa- phải trả lại sự công bằng cho Thiên Chúa, là “Vua muôn vua, Chúa các chúa”. Ngài phải được tôn thờ, tôn trọng và suy phục như Ngài là, như là Thiên Chúa, chủ tể muôn loài muôn vật.

Mời Bạn: Thế giới và con người hôm nay đang ngày càng “cướp ngôi, cướp quyền và cướp công” của Thiên Chúa. Họ làm như vậy để “xóa tên” Ngài và tôn vinh chính họ “lên ngôi” – là Thượng Đế cho riêng  mình. “Cướp ngôi” khi chúng ta tự phong mình là Ông Chủ của tất cả, khi “hạ bệ” Thiên Chúa và thần thánh khỏi mọi bàn thờ. “Cướp quyền” khi chúng ta tự cho mình hủy diệt sự sống, như phá thai, nạo thai…, nhân danh một thứ tự do vô luân, vô đạo. “Cướp công” khi chúng ta tự mãn: “bàn tay ta làm nên tất cả, có sức người, sỏi đá cũng thành cơm”. Không! ngàn lần không! Không có Chúa, ta chẳng làm được gì!

Sống Lời Chúa: Từ nay, đọc kinh TIN KÍNH sốt sắng hơn.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin đừng để con quá mải mê việc đời mà quên mất Chúa; đừng vì lợi lộc, địa vị mà bôi nhọ hoặc chối bỏ danh Ki-tô hữu. Amen.

(5 Phút Lời Chúa)

++++++++++++++++++

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

5 THÁNG SÁU

Mạc Khải Và Thuyết Tiến Hóa

Trong thời hiện đại của chúng ta, giáo thuyết mạc khải rằng con người được tạo dựng như một hữu thể gồm cả hồn lẫn xác đã gặp một khó khăn đặc biệt do thuyết tiến hóa dấy lên. Nhiều nhà khoa học nghiên cứu nguồn gốc con người chủ trương rằng không những có một mối liên kết giữa con người và toàn bộ thế giới tự nhiên mà, hơn nữa, con người đã tiến hóa từ các động vật thượng đẳng. Vấn đề nguồn gốc con người đã taọ ra sự tranh luận công khai và rộng rãi. Nó đã trở thành mối quan tâm chủ yếu của nhiều nhà khoa học trong hơn một thế kỷ nay.

Câu trả lời của huấn quyền được tìm thấy trong Thông Điệp Humani generis (1950) của Đức Piô XII: “Huấn quyền Giáo Hội không có gì chống lại học thuyết tiến hóa, trong mức độ mà thuyết tiến hóa tìm kiếm nguồn gốc của thân xác con người nơi một chất thể sống động và hiện hữu trước – vì đức tin Công Giáo khẳng định rằng linh hồn người ta do Thiên Chúa trực tiếp tạo dựng…” (DS 3896).

Vì thế, từ quan điểm giáo thuyết, không có gì trở ngại để tin rằng thân xác con người đã tiến hóa từ các loài động vật thượng đẳng. Song cũng cần phải nhớ rằng thuyết tiến hóa cũng chỉ là một giả thuyết. Nó nêu lên một khả tính rằng một điều gì đó có thể đúng. Nó không phải là một sự chắc chắn về mặt khoa học. Đàng khác, giáo huấn đức tin dạy chúng ta một cách chắc chắn rằng linh hồn thiêng liêng của con người được Thiên Chúa trực tiếp tạo dựng.

Nói vậy có nghĩa là thân xác con người có thể đã được chuẩn bị từng bước cho con người, theo một thứ tự do Đấng Tạo Hóa vạch định. Nhưng, linh hồn con người không thể phát xuất từ vật chất, vì linh hồn có bản tính thiêng liêng. Và chính linh hồn là yếu tố quyết định định mệnh cuối cùng của con người.

– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –

Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác

LIFT UP YOUR HEARTS

Daily Meditations by Pope John Paul II

+++++++++++++++++

Lời Chúa Trong Gia Đình

Ngày 05/ 6

Thánh Bônifaciô, giám mục tử đạo

2Pr 3, 12-15a.17-18; Mc 12, 13-17.

Lời suy niệm: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật, Thầy chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta, nhưng theo sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa. Vậy có được phép nộp thuế cho Xêda hay không? Chúng tôi phải nộp hay không phải nộp?”

            Đối với những người Pharisêu và mấy người thuộc phe Hêrôđê họ đã dùng những lời ca tụng này để ca tụng Chúa Giêsu, quả thật là chính xác, nhưng bên trong đó họ lại đang gài bẩy Người, để tìm cớ bắt Người: “Có được nộp thuế cho Xêda hay không? Chúng tôi phải nộp hay không phải nộp.” Đây là một bài học cảnh báo cho mỗi người trong chúng ta khi sống chung với nhau, là cần có sự trung thực trong lời nói đi đôi với tâm hồn của mình, để nâng đỡ và học hỏi với nhau giúp nhau thăng tiến đời sống đạo đức của mình.

            Lạy Chúa Giêsu. Xin cho mỗi người trong chúng con nhận ra những gì thuôc về Thiên Chúa và những gì thuộc về thế gian này, để chúng con biết tuân theo lời dạy bảo của Chúa: “Của Xêda, trả về Xêda, của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa”

Mạnh Phương

+++++++++++++++++

Gương Thánh Nhân

Ngày 05-06: Thánh BÔNIFACIÔ

Giám Mục Tử Đạo (673 – 754)

Thánh Bônifaciô có tên sơ khởi là Winfrid. Ngài là người Saxon miền nam, sinh ở Creditôn gần Exêter, năm 673, thời đó, phong trào truyền giáo rất mạnh mẽ ở nước Anh. Gia đình Ngài thường là nơi dừng chân của rất nhiều nhà truyền giáo. Winfrid rất thích gần gũi ở những con người thánh thiện này và không bỏ mất một lời nào các Ngài kể lại và năng hỏi thăm về những chân lý các Ngài rao giảng. Một ngày kia Winfrid hỏi các Ngài phải làm gì để được cứu rỗi ? Các vị thừa sai trả lời: – Phải nỗ lực để nên tốt lành với mọi người và đừng nghĩ đến mình.

Nghe những lời này, Winfrid muốn lên đường ngay để rao giảng Tin Mừng cho lương dân. Ngài đã xin cha đi tu nhưng cha Ngài đã từ chối. Ngài ngã bệnh khiến cha Ngài hốt hoảng và đã chấp nhận.

Winfrid nhập dòng ở Exeter và vì thiện chí học hỏi của Ngài, người ta gởi Ngài tới Nursling để học kinh thánh, thơ văn và văn phạm, năm 717, Winfrid đã trở thành một giáo sĩ nổi bật của miền nam Saxon và được đề nghị làm tu viện trưỏng tu viện Nursling. Nhưng Ngài đã quyết định gia nhập nhóm truyền giáo. Angle-saxon lên đường tới Frisia. Vẫn quan tâm đến các công việc của nước Anh cho đến hết đời, Ngài giữ liên lạc thư từ rất thường xuyên nhưng không hề viếng nước Anh lần nào nữa.

Miền đất Winfrid muốn đến rao giảng Tin Mừng là một vùng thuộc nước Đức và nằm giữa hai giòng sông Rhin và Danube. Cả người Rôma lẫn người Pháp đã không thuần hoá được dân chúng hung dữ của miền này. Nhưng một cuộc chiến bùng nổ giữa bá ước Ratborol và Charles Martel, khiến Ngài không cập bến được. Ngài hướng về Roma với một nhóm hành hương và xin sự chẩn nhận của Đức giáo hoàng. Đức Thánh cha Grêgoriô II đã chúc lành cho tu sĩ này và ban cho mọi người quyền hạn để mang Nước Chúa đến cho dân Đức còn đang thờ ngẫu tượng.

Rời Rôma, Người rảo qua các miền Lombardie, Baviere và Thuringia học hiểu ngôn ngữ và giữ các phong tục địa phương của đám dân. Ngài muốn truyền bá Tin Mừng. Ngài đã đến Frisia, đến giữa nước Đức, và lập được nên một nhà nguyện, một tu viện ở Hambourg. Thành quả này làm phấn khởi cũng như thúc đẩy tình yêu nơi vị tông đồ. Những cuộc trở lại đạo này ngày một nhiều.

Năm 722 Đức giáo hoàng gọi Winfrid về Roma và tấn phong Ngài làm giám mục. Đức Giáo hoàng nói: – Từ nay con sẽ mang tên là Bônifaciô, nghĩa là “người thi ân”. Đây là lần đầu tiên một tòa giám mục ở xa đã theo thực hành địa phương của Italia và đã tỏ bày sự tuân phục đối với Đức Giáo hoàng .

Bônifaciô lại lên đường truyền giáo với tư cách giám mục. Ngài sẽ không ở Frisia dưới quyền Willibord, nhưng muốn mở ra một lãnh địa mới ở Tây Đức. Ngài đã bắt đầu ở Hesse miền Thuringia là nơi Ngài đã đến đốn một cây sồi cổ thụ. Dân chúng đặt tên cho cây sồi này là “sức mạnh thần Jupiter”. Thánh nhân đã triệt hạ cây cổ thụ cách dễ dàng lạ lùng rồi dùng cây dựng nhà thờ kính thánh Phêrô. Dân chúng thờ ngẫu thần đã giận dữ vì sợ bị thần minh oán phạt. Họ tuốn đến đe dọa thánh nhân. Nhưng khi nghe Ngài nói rất hay và đầy tình đầy nghĩa, nhiều người đã trở lại đạo.

Charles Martel lúc ấy sẵn sàng đem binh lực phục vụ Kitô giáo. Tuy nhiên Đức Giám mục Bônifacio đã không muốn cậy dựa vào sức mạnh mà chỉ dùng tình thương để cải hóa các tâm hồn. Ngài đã thiết lập nhiều tu viện và kêu gọi sự trợ giúp từ nước Anh gởi tới. Đã có nhiều linh mục, nghệ sĩ, văn sĩ, tới góp công và nhiều người khác đóng góp của cải cho việc truyền giáo. Cứ như thế mà thánh Bônifacio đã có thể trao phó cộng đoàn nhỏ bé và mới mẻ cho các tu sĩ coi sóc rồi lại lên đường tiếp tục mở mang nước Chúa.

Đức giáo hoàng Gregoriô III phong đức Bônifacio lên chức Tổng giám mục và trao cho trách nhiệm thiết lập các toà giám mục ở nước Đức. Sau cuộc viếng thăm Rôma lần thứ ba, Ngài nhận sứ mệnh tổ chức Giáo hội ở hữu ngạn sông Rhin. Suốt 7 năm đi rao giảng Tin Mừng ở Hesse, Ngài đi vào khu rừng phân cách Hesse và Thuringia. May mắn, nhà truyền giáo được hứơng dẫn tiến về thung lũng Fuloda. Cùng với các tu sĩ, Ngài phá rừng đào đất và xây dựng tu viện Fulda. Tu viện này sẽ trở nên thành trì của đời sống tôn giáo trí thức của dân man rợ thời Trung Cổ.

Đức Tổng giám mục Bônifacio chọn Mayence làm toà tổng giám mục. Carlôan con của Charles martel chọn đời sống tu trì và nhường quyền kế vị cho Pépin. Ông này muốn được một đức giám mục lớn phong vương. Trong một lễ nghi long trọng ở Soissons, vị tông đồ đã đặt vương miện lên đầu Pépin le Brej. Sau đó không kể gì đến tuổi già, Ngài lại lên đường truyền giáo.

Ngài xuống thuyền với 50 người tùy tùng gồm có các linh mục, tu sĩ và các sinh viên. Đoàn thuyền tới giữa các cánh đồng lầy lội. Cư dân của vùng này còn sống rất hoang dại. Các nhà truyền giáo rao giảng Tin Mừng cho họ. Đức cha Bônifacio hẹn các tân tòng ở Dokum, gần bờ bể, ngày 5 tháng 6 năm 756, hôm ấy là lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Lúc vừa cử hành thánh lễ thì một đoàn người mang khí giới xông tới, Bônifacio quay về với các bạn và nói: – Can đảm lên, khí giới này không làmgì được linh hồn.

Các lương dân xông vào sát hại các nhà truyền giáo. Một nhát búa bổ xuống Đức Tổng giám mục và cuốn Phúc âm Ngài đang cầm trong tay.

Xác thánh nhân được đưa về chôn cất ở nhà thờ chánh tòa Fulda. Thư viện còn lưu giữ được cuốn sách bị chặt đứt của thánh nhân.

(daminhvn.net)

+++++++++++++++++

05 Tháng Sáu

Hãy Cho Một Nụ Cười

Một bệnh nhân nọ được đưa vào một bệnh viện do các tu sĩ điều khiển. Người ta không để cho anh nằm điều trị trong một căn phòng riêng rẽ mà lại đặt anh nằm chung với các bệnh nhân khác trong một phòng lớn. Vừa mới được khiêng vào căn phòng, người đàn ông đã bị các bệnh nhân khác tuôn đến bao xung quanh. Người thì kéo chăn, kẻ nắm áo, kẻ bứt tóc. Không mấy chốc, anh bị quăng xuống khỏi giường giữa những tiếng cười đùa của các bệnh nhân khác.

Không chịu đựng nổi trò chơi quái ác của các bệnh nhân, người đàn ông mới la hét để kêu cầu vị phụ trách. Anh trình như sau: “Tại sao ông lại đưa tôi vào đây. Tất cả các bệnh nhân xung quanh tôi đều cười đùa, nghịch ngợm như một đám con nít. Hẳn họ không đau yếu như tôi”.

Vị phụ trách mỉm cười đáp: “Họ còn đau yếu hơn cả anh. Nhưng tất cả đều khám phá ra một bí quyết, một bí quyết mà ít người ngày nay biết đến hoặc có biết đến, họ cũng không tin”.

Người đàn ông muốn biết bí quyết ấy. Vị phụ trách bệnh viện mới lấy một cái cân có hai đĩa ở hai đầu. Ngài lấy một hòn đá đặt vào một đĩa cân, đĩa cân ở đầu bên kia liền được nhắc lên… Ngài giải thích như sau: Tôi vừa trình bày cho ông một bí quyết của các bệnh nhân ở đây. Chiếc cân này là biểu trưng của tình liên đới giữa con người với nhau. Hòn đá biểu hiện cho nỗi đau khổ của ông. Khi đau khổ đè nặng trên ông, thì ở đầu cân bên kia, niềm vui có thể đến với một người nào đó. Niềm vui và nỗi khổ thường sánh vai với nhau. Nhưng nỗi khổ cần phải được đón nhận và dâng hiến, chứ không phải để giữ riêng cho mình. Hãy làm cho những người khác trở thành trẻ thơ, hãy làm cho nụ cười được chớm nở trên môi của người khác cho dẫu ta đang hấp hối”.

Cái chết của Ðức Kitô là cái chết của một người cho tất cả mọi người. Ðó là Tình Yêu được dâng hiến cho tất cả mọi người. Ðó là Hy Sinh cho tất cả mọi người. Ðó là Lý Tưởng của một người sống và chết cho mọi người.

Nhìn ngắm Ðức Kitô trên thập giá, chúng ta thấy được định nghĩa đích thực về con người: con người chỉ có thể thể hiện được trọn vẹn tính người khi sống cho người khác. Càng sống cho tha nhân, con người càng tìm lại được chính bản thân. Càng chia sẻ với người khác, con người càng trở nên phong phú…

Có của cải, có thì giờ, có niềm vui để chia sẻ đã đành, nhưng con người còn có cả một kho tàng khác để chia sẻ cho người khác: đó là nỗi đau khổ, sự bất hạnh, những hy sinh âm thầm của mình. 

Âm thầm đón nhận một đau khổ mà không than trách, không phàn nàn, nhưng luôn để lộ trên khuôn mặt sự vui tươi, tinh thần lạc quan: đó là một trong những chia sẻ cao độ nhất mà chúng ta có thể dành cho người khác.

Vác lấy khổ đau để trở thành gánh nặng cho người khác: đó là một trong những chia sẻ cao quý nhất mà chúng ta có thể dành cho người khác.

Dâng từng khổ đau, hy sinh và âm thầm phục vụ từng ngày để cầu nguyện cho tha nhân: đó là một trong những chia sẻ cao đẹp nhất, bởi vì chỉ có Chúa mới thấy được giá trị của sự chia sẻ ấy.

(Lẽ Sống)

++++++++++++++++++

Lời Chúa Mỗi Ngày

Thứ Ba Tuần 9 TN2, Năm Chẵn

Bài đọc: 2 Pet 3:12-15a, 17-18; Mk 12:13-17.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hãy làm cho Nước Thiên Chúa mau đến bằng cách sống thật.

Nhiều người sai lầm khi nghĩ nếu một chính phủ không đáp ứng những gì các tín hữu mong muốn, họ phải nhân danh Giáo Hội tranh đấu đến cùng và sẵn sàng đổ máu để đạt được những nguyện vọng đó.

Các bài đọc hôm nay giúp chúng ta nhận ra những điều người tín hữu phải làm và những gì không nên làm. Trong bài đọc I, tác giả Thư Phêrô II nhắc nhở cho các tín hữu biết thế giới này sẽ tan biến đi cùng với tất cả các phù hoa của nó. Điều quan trọng hàng đầu các tín hữu cần phải làm là hãy lo sống làm sao cho mình và mọi người được hưởng ơn cứu độ. Trong Phúc Âm, một số các “chính trị gia,” những người Pharisees giả hình và những người thuộc phe Herod, nhân danh việc đi tìm sự thật để giăng bẫy bắt Chúa Giêsu. Họ hỏi: “Có được phép nộp thuế cho Caesar hay không? Biết rõ mưu đồ của họ, Chúa cho họ câu trả lời chẳng những họ không làm gì được Chúa mà còn mời gọi họ suy nghĩ về lối làm chính trị “sai sự thật” của họ: “Của Caesar, trả về Caesar; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa.”

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Anh em hãy coi chừng kẻo bị những kẻ phạm pháp và lầm lạc lôi cuốn!

Một điều Chúa Giêsu và các tông đồ luôn cảnh cáo các tín hữu là đề phòng những kẻ rao giảng sự sai lạc làm các tín hữu nghi ngờ sự thật các Ngài rao giảng và từ từ bỏ đạo. Chúa Giêsu gọi họ là “chó sói” đội lốt người chăn chiên để cắn xé đoàn chiên (Jn 10:12). Thánh Gioan gọi họ là những kẻ “phản Đức Kitô,” và nguy hiểm hơn nữa họ là chiên ở ngay giữa đoàn chiên (I Jn 2:18-19). Thánh Phaolô khuyên nhủ rất nhiều lần môn đệ Timothy và Titus phải đề phòng những người này: “Anh hãy biết điều này: vào những ngày sau hết sẽ có những lúc gay go. Quả thế, người ta sẽ ra ích kỷ, ham tiền bạc, khoác lác, kiêu ngạo, nói lộng ngôn, không vâng lời cha mẹ, vô ân bạc nghĩa, phạm thượng, vô tâm vô tình, tàn nhẫn, nói xấu, thiếu tiết độ, hung dữ, ghét điều thiện, phản trắc, nông nổi, lên mặt kiêu căng, yêu khoái lạc hơn yêu Thiên Chúa; hình thức của đạo thánh thì họ còn giữ, nhưng cái chính yếu thì đã chối bỏ. Anh hãy xa lánh cả những người ấy”

(2 Tim 3:1-5). Trình thuật của Thư Phêrô II muốn nêu bật cho các tín hữu hiểu hai điều:

1.1/ Ngày của Thiên Chúa sẽ đến: Chúa Giêsu bảo đảm: Ngày ấy chắc chắn sẽ đến, còn khi nào xảy ra không ai biết được trừ một mình Chúa Cha. Tác giả nhắc các tín hữu hai khía cạnh của Ngày này: thứ nhất, vũ trụ sẽ bị hủy diệt qua câu “các tầng trời sẽ bị thiêu huỷ và ngũ hành sẽ chảy tan ra trong lửa hồng; thứ hai, “Ngày bắt đầu trời mới đất mới, nơi công lý ngự trị” đúng theo lời Thiên Chúa hứa. Ngày đó, mọi người sẽ ra trước Thiên Chúa để chịu phán xét. Chỉ lúc đó mọi người sẽ nhìn thấy sự công thẳng của Thiên Chúa.

Không ai biết được khi nào Ngày ấy đến, nhưng theo lời Sách Thánh, các tín hữu có thể làm cho Ngày ấy mau đến bằng những phương thế sau đây:

+ Cầu nguyện: Trong kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu dạy các môn đệ cầu nguyện: “Xin cho Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.”

+ Rao giảng Tin Mừng: Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ: Hãy đi khắp thế gian mà rao giảng Tin Mừng. Điều này có thể hiểu: Khi Tin Mừng được loan báo đến mọi người, Nước Chúa sẽ đến.

+ Thống hối và vâng lời Thiên Chúa: Điều này quan trọng hơn cả. Như một người Cha mong cứu thoát tất cả con cái của mình, Thiên Chúa sẽ chọn Ngày nào mà cứu được tất cả hay nhiều con nhất. Thánh Phêrô nói: “Chúa tỏ lòng kiên nhẫn chính là để anh em được cứu độ.” Ngày đó chưa xảy ra vì còn quá nhiều người phải hư mất. Thánh Phaolô cũng nói cách tương tự: Khi dân tộc Do-thái tin vào Đức Kitô, Ngày ấy sẽ đến. Vì thế, nỗ lực của hết mọi tín hữu hãy đặt điều này trên hết tất cả mọi điều nếu họ mong cho Nước Chúa mau trị đến.

1.2/ Đừng bị lung lay bởi các lạc thuyết: Có quá nhiều lạc thuyết trong thế gian mà các tín hữu chỉ có thể chống trả bằng cách học biết sự thật. Một trong những lạc thuyết đó là lối sống của những kẻ không tin có sự sống đời sau. Vì không tin sự sống đời đời nên họ dành hết thời gian, mọi cố gắng để xây dựng cuộc sống đời này. Chúa Giêsu và các tông đồ kêu gọi các tín hữu luôn phải hướng lòng về trời vì đó là mới là quê hương đích thực của các tín hữu. Chúng ta chỉ là những người ngoại quốc hay những người tạm trú của thế giới này mà thôi. Chính Chúa Giêsu cũng trả lời cho Pilate: “Nước tôi không thuộc chốn này” (Jn 18:36). Lối sống của các tín hữu không được giống như những người không tin có cuộc sống đời sau. Tác giả khuyên: trong khi mong đợi ngày đó, các tín hữu phải cố gắng sao cho Người thấy họ càng ngày càng phải trở nên tinh tuyền, không chi đáng trách và sống bình an. Họ phải lớn lên trong ân sủng và trong sự hiểu biết Đức Giêsu Kitô là Chúa và là Đấng Cứu Độ.

2/ Phúc Âm: “Của Caesar, trả về Caesar; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa.”

2.1/ Bẫy giăng để hại Chúa Giêsu: Trình thuật Marcô nói rõ nguồn gốc, mục đích, và cách thức để gài bẫy Chúa Giêsu: Các người trong Thượng Hội Đồng là những người sai mấy người Pharisees và mấy người thuộc phe Herode đến. Mục đích là để Người phải lỡ lời mà mắc bẫy. Cách gài là khen những lời đãi bôi để đánh lạc hướng Chúa, để Chúa nhận ra họ là những người thành thật muốn tìm hiểu chân lý. Họ nói: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật. Thầy chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta, nhưng theo sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa. Vậy có được phép nộp thuế cho Caesar hay không? Chúng tôi phải nộp hay không phải nộp?” Lý do họ sai hai nhóm người này là cho mục đích chính trị của họ:

(1) Phe Pharisees: chủ trương người Do-thái phải được cai trị bởi người Do-thái (Deut 17:15). Họ chống mọi thế lực ngoại bang và việc nộp thuế cho đế quốc Rôma. Nếu Chúa trả lời “Phải!” họ sẽ xui giục dân chúng chống Chúa vì toa rập với thế lực nước ngoài.

(2) Phe Herode: chủ trương hòa đồng với Rôma để được “tốt đạo đẹp đời.” Họ nại cớ biết bao điều tốt lành đến từ việc cai trị của Roma trong thời các vua Herod cai trị. Vì thế, họ thuyết phục những người Do-thái: Cứ để cho đế quốc cai trị bao lâu hoàng đế đừng can thiệp vào nội bộ tôn giáo của Do-thái. Nếu Chúa trả lời “Không!” họ sẽ nộp Chúa cho quân đội Roma vì xui giục dân phản chính quyền.

Cả hai cùng hợp lại để làm điều ác: có lý do để bắt Chúa và tiêu diệt người lành. Họ nghĩ Chúa trả lời cách nào cũng không thoát mưu mô của họ.

2.2/ Câu trả lời của Chúa Giêsu: Đức Giêsu biết họ giả hình, nên Người nói: “Tại sao các người lại thử tôi? Đem một đồng bạc cho tôi xem!” Họ liền đưa cho Người. Người hỏi: “Hình và danh hiệu này là của ai đây?” Họ đáp: “Của Caesar.” Đức Giêsu bảo họ: “Của Caesar, trả về Caesar; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa.” Và họ hết sức ngạc nhiên về Người.

(1) Chúa phân biệt chính trị ra khỏi tôn giáo: Hai mục đích của hai bên khác nhau: mục đích của tôn giáo là đưa con người tới Thiên Chúa, mục đích của chính trị là lo cho con người được no cơm ấm áo ở đời này. Ba bổn phận của các nhà lãnh đạo tôn giáo là dạy dỗ con người biết đạo lý Chúa dạy để khỏi những lầm lạc, ban các bí tích để mang ơn thánh xuống cho con người, và điều hành dân chúng trong lãnh vực tôn giáo. Bổn phận của những người lãnh đạo quốc gia là lo cho nền an ninh quốc gia, no cơm ấm áo cho người dân, và bảo vệ trật tự trong nước.

(2) Người dân có nhiệm vụ đóng góp để bảo vệ lợi ích chung: Việc đóng thuế cho chính phủ là bổn phận của người dân để chính phủ có quĩ điều hành mà lo cho các nhu cầu của dân chúng. Ngoài ra người dân còn phải đóng góp công sức và tài năng trong việc phát triển và bảo vệ xã hội. Chúa Giêsu đã từng khuyên Phêrô phải kiếm tiền nộp thuế cho ông và cho Ngài. Các tông đồ vẫn khuyến khích dân vâng lời những nhà cầm quyền tốt. Nếu chính phủ tham nhũng không biết lo cho dân, người dân có quyền đứng lên tranh đấu để xây dựng một chính phủ biết lo cho dân hơn.

(3) Đừng quên trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Ngài: Chúa mời gọi những kẻ được sai đến và chúng ta suy nghĩ cẩn thận về việc trả lại cho Thiên Chúa những gì thuộc về Ngài:

+ Con người chúng ta được dựng nên giống hình ảnh của Thiên Chúa, chúng ta thuộc về Ngài. Chúng ta không có quyền muốn làm gì thì làm; nhưng phải sống theo những gì Thiên Chúa đã tiên định để rồi chúng ta sẽ được sống hạnh phúc với Ngài muôn đời. Lấy danh nghĩa tự do để cãi lời Thiên Chúa chỉ dẫn chúng ta đến chỗ diệt vong.

+ Mọi quyền bính trên thế gian đều đến từ Thiên Chúa, Ngài trao cho con người để cùng thông phần vào sự điều khiển với Ngài. Ngài trao cho Caesar quyền cai trị người Do-thái và Caesar phải trả lời với Thiên Chúa về quyền cai trị của ông. Nhiều lúc sức con người không thể hiểu về sự quan phòng của Thiên Chúa. Người Do-thái nhiều lần thắc mắc tại sao Thiên Chúa lại trao quyền cai trị dân Chúa cho những người ngoại đạo? Lịch sử trả lời vì họ đã không chịu nghe lời Thiên Chúa cảnh cáo qua các ngôn sứ. Chúa trao quyền hành mà không biết dùng Chúa lại lấy đi. Chúa dùng Babylon là cái roi để sửa phạt dân rồi lại bẻ gẫy cây roi bằng cách trao vua Babylon cho vua Persia. Quyền hành trong thế giới luôn thay đổi theo sự quan phòng của Thiên Chúa. Nếu Chúa muốn cất đi không ai có thể chống cự nổi; nếu Chúa muốn giữ quyền hành lại không ai thay đổi được. Dĩ nhiên khi trao quyền hành, Ngài muốn con người phải biết xử dụng để sinh ích lợi chung; nhưng lòng con người thay đổi và khó dò: khi chưa có quyền hành trong tay thì hứa hẹn đủ điều; đến khi nắm quyền hành thì lại tham nhũng bất công nhiều khi còn hơn chế độ hay người đi trước. Có lẽ vì thế mà quyền hành cứ phải thay đổi mãi; chỉ khi nào chúng ta vào Nước Thiên Chúa và được Chúa Giêsu, Vua công chính cai trị, chúng ta mới hưởng nhận được bình an. Bao lâu sông trong thế giới bất toàn, nhiệm vụ của chúng ta là nghe theo, chứ không chống lại ý định của Thiên Chúa, vì chúng ta tin tưởng Ngài đang quan phòng thế giới cách khôn ngoan và uy quyền.

+ Quyền sở hữu tài sản nói cho cùng cũng không thuộc Caesar hay thuộc bất cứ ai, vì Chúa dựng nên mọi sự cho con người xử dụng. Con người chỉ là người quản lý và phải trả lời với Thiên Chúa về việc dùng tài sản.

+ Sự sống là của Thiên Chúa, thời gian và tài năng là của Ngài ban cho. Con người không được tiêu hủy sự sống từ lúc mới sinh cho đến khi giã từ cuộc đời. Con người không được lãng phí thời gian vào những việc vô ích, nhưng phải biết dùng thời gian để sinh ích cho mình và cho mọi người. Nhiều người đã lãng phí tài năng Chúa ban qua việc dùng thuốc, chơi bài bạc, và một cuộc sống vô độ. Họ đã phải trả giá cho việc lợi dụng tự do để muốn làm gì thì làm. Nếu suy nghĩ cho cùng, con người phải chấp nhận: mọi sự là của Thiên Chúa. Con người chỉ có quyền dùng, và phải dùng cách khôn ngoan để sinh lợi ích cho mình, cho tha nhân, và cho việc mở mang Nước Chúa.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Chúng ta phải biết khiêm nhường nhìn nhận chúng ta không khôn ngoan hơn Thiên Chúa. Hãy biết vâng lời làm theo những gì Ngài truyền dạy.

– Điều quan trọng hơn cả là phải lo cho mình và tha nhân được hưởng ơn cứu độ; mọi sự khác đều phụ thuộc và chỉ cần thiết ở đời này.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

****************