Ngày thứ ba (20-08-2019) – Trang suy niệm

19/08/2019

Lời Chúa Hôm Nay

Thứ Ba Tuần XX Mùa Thường Niên Năm lẻ

Thánh Bênađô, Viện Phụ

BÀI ĐỌC I: Tl 6, 11-24a

“Hỡi Giêđêon, hãy đi giải thoát Israel: ngươi biết Ta thương xót ngươi”.

Trích sách Thủ Lãnh.

Trong những ngày ấy, Thiên thần Chúa đến ngồi dưới gốc cây sồi ở đất Êphra, thuộc sở hữu của ông Gioas, tổ gia tộc Abiêzer. Khi ấy, Giêđêon, con trai của ông, đang đập và rê lúa trong nhà ép nho để tránh mắt quân Mađian, thì Thiên thần Chúa hiện ra với ông và nói rằng: “Hỡi người dũng sĩ, Chúa ở cùng ngươi”. Giêđêon thưa lại rằng: “Thôi, xin Ngài, nếu Chúa ở cùng chúng tôi, tại sao chúng tôi phải chịu tất cả những sự này? Nào đâu những việc kỳ diệu của Chúa mà cha ông chúng tôi đã kể lại cho chúng tôi mà rằng: ‘Chúa đã dẫn chúng ta ra khỏi Ai-cập’? Nhưng nay Chúa lại bỏ rơi chúng tôi và trao chúng tôi vào tay quân Mađian”. Chúa nhìn ông mà phán rằng: “Ngươi hãy mạnh mẽ tiến đi mà giải thoát Israel khỏi tay quân Mađian: chính Ta sai ngươi đó”. Ông thưa lại rằng: “Thôi, xin Chúa, con dựa vào đâu mà giải thoát Israel? Đây gia đình con là gia đình rốt hết trong chi tộc Manassê, và con là con út trong nhà cha con”. Chúa phán cùng ông rằng: “Ta sẽ ở cùng ngươi: ngươi sẽ đánh ngã quân Mađian như đánh một người vậy”. Ông thưa rằng: “Nếu con đẹp lòng Chúa, thì xin Chúa ban cho con một dấu chứng rằng chính Chúa phán dạy con. Xin Chúa chớ lìa khỏi nơi đây cho đến khi con trở lại cùng Chúa, mang theo của lễ dâng lên Chúa”. Chúa đáp lại rằng: “Ta sẽ đợi ngươi trở lại”.

Vậy Giêđêon vào nhà làm thịt một con dê đực, lấy một đấu bột làm bánh không men: để thịt vào giỏ, đổ nước thịt vào nồi, mang các món đó đến dưới cây sồi mà dâng cho Chúa. Thiên thần Chúa bảo ông rằng: “Ngươi hãy đem thịt và bánh không men đặt trên tảng đá kia, rồi đổ nước thịt lên trên”. Khi ông làm như vậy, thì Thiên thần Chúa giơ cây gậy Người cầm trong tay lên và chạm đến thịt và bánh không men, tức thì có lửa từ tảng đá bốc lên thiêu đốt thịt và bánh không men. Thiên thần Chúa liền biến đi khuất mắt ông. Giêđêon nhận biết đó là Thiên thần Chúa, liền thưa rằng: “Ôi, lạy Chúa là Thiên Chúa của con, con đã nhìn thấy Thiên thần Chúa nhãn tiền”. Chúa phán cùng ông rằng: “Bình an cho ngươi. Đừng sợ, ngươi không chết đâu”. Giêđêon liền dựng một bàn thờ dâng kính Chúa, và gọi bàn thờ đó là “Bình an của Chúa”. Đó là lời Chúa. 

ĐÁP CA: Tv 84, 9. 11-12. 13-14

Đáp: Chúa phán bảo về sự bình an cho dân tộc Người (x. c. 9).

Xướng:

1) Tôi sẽ nghe Chúa là Thiên Chúa của tôi phán bảo điều chi? Chắc hẳn Người sẽ phán bảo về sự bình an, bình an cho dân tộc và các tín đồ của Chúa, và cho những ai thành tâm trở lại với Người. – Đáp.

2) Lòng nhân hậu và trung thành gặp gỡ nhau, đức công minh và sự bình an hôn nhau âu yếm. Từ mặt đất, đức trung thành sẽ nở ra, và đức công minh tự trời nhìn xuống. – Đáp.

3) Vâng Chúa sẽ ban cho mọi điều thiện hảo, và đất Nước chúng tôi sẽ sinh bông trái. Đức công minh sẽ đi trước thiên nhan Chúa, và ơn cứu độ theo sau lốt bước của Ngài. – Đáp. 

ALLELUIA: Tv 118, 36a và 29b

Alleluia, alleluia! – Lạy Chúa, xin nghiêng lòng con theo lời Chúa răn bảo, và xin rộng tay ban luật pháp của Chúa cho con. – Alleluia. 

PHÚC ÂM: Mt 19, 23-30

“Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Trời”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Thầy bảo thật các con: Người giàu có thật khó mà vào Nước Trời. Thầy còn bảo các con rằng: Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Trời”. Các môn đệ nghe vậy thì bỡ ngỡ quá mà thưa rằng: “Vậy thì ai có thể được cứu độ?” Chúa Giêsu nhìn các ông mà phán rằng: “Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì mọi sự đều có thể được”. Bấy giờ Phêrô thưa Người rằng: “Này đây chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy, vậy chúng con sẽ được gì?” Chúa Giêsu bảo các ông rằng: “Thầy bảo thật các con: Các con đã theo Thầy, thì trong ngày tái sinh, khi Con Người ngự trên toà vinh hiển, các con cũng sẽ ngồi trên mười hai toà mà xét xử mười hai chi tộc Israel. Và tất cả những ai bỏ nhà cửa, anh chị em, cha mẹ, vợ con, ruộng nương vì danh Thầy, thì sẽ được gấp trăm và được sự sống đời đời. Nhưng có nhiều kẻ trước hết sẽ nên sau hết, và kẻ sau hết sẽ nên trước hết”. Đó là lời Chúa.

(thanhlinh.net)

++++++++++++++++++

20/08/19 – THỨ BA TUẦN 20 TN

Th. Bê-na-đô, viện phụ, tiến sĩ HT

Mt 19,23-30

THEO CHÚA SẼ ĐƯỢC GÌ?

Bấy giờ ông Phê-rô lên tiếng thưa Người: “Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy. Vậy chúng con sẽ được gì?” (Mt 19,27)

Suy niệm: Trước khi bắt tay làm công việc gì, theo lẽ tự nhiên chúng ta thường phân định sự thiệt hơn, được thua thế nào rồi mới quyết định làm. Nếu không có sự tính toán như thế, chúng ta chẳng khác gì người xây tháp mà không tính trước phí tổn, hay như người đi giao chiến mà không biết rõ nguồn lực của mình như thế nào (x. Lc 14,28-32). Phê-rô và các bạn tông đồ hẳn cũng tính toán nhưng là mới nửa vời. “Đã bỏ mọi sự mà theo Thầy” rồi, nhưng e rằng “cụt vốn”: các ông  theo Chúa đã lâu mà chưa thấy “nên cơm cháo” gì. Có lẽ Phê-rô chỉ nhìn thấy những cái “mất”, tức là những gì ông phải từ bỏ mà chưa thấy “được” điều gì cả. Tuy nhiên, Chúa khẳng định rằng: những người đó “sẽ nhận được gấp bội, và còn được sự sống vĩnh cửu làm gia nghiệp.”

Mời Bạn: Chúa mời gọi chúng ta “ngồi xuống bàn tính” với Chúa (x. Lc 14,31), để làm một bản liệt kê chúng ta “được-mất” những gì khi trở thành Ki-tô hữu, trở thành môn đệ của Ngài. Bạn sẽ nhận ra rằng những gì Ngài yêu cầu chúng ta từ bỏ thực ra chính là những điều Chúa đã ban tặng. Và khi từ bỏ chúng, Ngài còn ban lại gấp bội cho chúng ta cùng với “sự sống vĩnh cửu làm gia nghiệp.” Theo lối nhìn của thế gian, bạn có vẻ như “mất” hết, nhưng theo cái nhìn vĩnh cửu, bạn đang “được” tất cả.

Sống Lời Chúa: Nguyện tắt: “Lạy Chúa, Chúa đã cho con tất cả, con xin dâng lại cho Chúa tất cả.”

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, xin cho con hoàn toàn tín thác vào Chúa để con không tìm kiếm điều gì khác ngoài phần thưởng Nước Trời. Amen.

(5 Phút Lời Chúa)

++++++++++++++++++

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

20 THÁNG TÁM

Hiệp Nhất: Sứ Mạng Cốt Thiết Của Giáo Hội

Công Đồng xác nhận những xác tín của các tín hữu khi tuyên bố rằng Giáo Hội nhìn nhận tất cả những điều thiện hảo có thể được tìm thấy trong trật tự xã hội ngày nay: nhất là, khát vọng hiệp nhất, sự phát triển của công cuộc “xã hội hóa y tế“ giữa các dân tộc, và một sự nhấn mạnh về “sự liên đới kinh tế và dân sự”. Thật vậy, “sự thăng tiến hiệp nhất tương ứng với sứ mạng cốt thiết của Giáo Hội, bởi trong Đức Kitô, Giáo Hội có sứ mạng trở thành một bí tích và một dấu chỉ của sự hiệp nhất với Thiên Chúa và của sự hiệp nhất toàn thể nhân loại… Năng lực mà Giáo Hội đóng góp cho xã hội con người hiện đại là năng lực đức tin và tình yêu được sống cụ thể, chứ không phải năng lực của một thế lực bên ngoài xuyên qua duy chỉ những phương tiện của con người” (MV 42).

Vì những lý do này, một mối gắn kết sâu sắc và thậm chí một sự đồng nhất nào đó được ghi nhận giữa -một đàng – sự phát triển và tiến bộ của con người trong xã hội và – đàng khác – lịch sử cứu độ. Kế hoạch cứu độ có gốc rễ của nó trong những ước vọng thực và trong những mối quan tâm sâu thẳm nhất của con người. Tiếng gọi đón nhận ơn cứu chuộc không ngừng được loan báo cho con người trong thế giới. Vì Giáo Hội luôn luôn đứng trước thế giới khi Giáo Hội đặt mình trước những ước vọng và những ưu tư của con người.

Vâng, lịch sử cứu độ diễn ra giữa lòng lịch sử thế giới, nhận lấy lịch sử thế giới làm lịch sử của chính mình theo một nghĩa nào đó. Nếu nói ngược lại cũng đúng. Những thành tựu vĩ đại của con người và những chiến thắng thật sự của lịch sử cũng chính là nền móng của triều đại Thiên Chúa trên trái đất này. Hiệp nhất chính là mục đích của kế hoạch Thiên Chúa, Đấng vừa vượt trên mọi sự vừa ở trong mọi sự.

– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –

Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác

LIFT UP YOUR HEARTS

Daily Meditations by Pope John Paul II

+++++++++++++++++

Lời Chúa Trong Gia Đình

NGÀY 20/8

Thánh Bênarđô, viện phụ, tiến sĩ Hội Thánh

Tl 6, 1-24; Mt 19, 23-30.

LỜI SUY NIỆM: Bấy giờ Đức Giêsu nói với các môn đệ của Người: “Thầy bảo thật anh em, người giàu có khó vào Nước Trời. Thầy còn nói cho anh em biết: con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa.”

          Chúa Giêsu đang cảnh tỉnh những người giàu có, đồng thời Người cũng muốn con cái của Người tránh thoát những cái tính của người giàu thường mắc phải, đó là: Người giàu họ ỷ vào của cải của họ, họ có khuynh hướng nghĩ rằng tự họ có thể giải quyết mọi sự, mọi cảnh ngộ sẽ xãy ra cho họ. Người giàu có họ bị ràng buộc bởi của cải thế gian, trở nên nô lệ tiền bạc và các thế lực đen tối của xã hội. Người giàu có họ còn tự giam mình trong sự ích kỷ, chỉ biết lợi ích riêng cho mình, ngày càng muốn giàu có hơn. Trong lúc đó họ dững dưng và thờ ơ đối với tất cả cảnh vật và con người chung quanh họ.

          Lạy Chúa Giêsu. Chúa rất yêu thương chúng con, Chúa muốn cứu độ chúng con. Xin Chúa cho chúng con luôn luôn nhớ lời Chúa dạy: “Của cải ngươi ở đâu thì lòng ngươi ở đó”. Để chúng con có sự chuẩn bị cho đời sống mai sau.

Mạnh Phương

+++++++++++++++++

Gương Thánh Nhân

Ngày 20-08

Thánh BERNADÔ

Tu Viện Trưởng, Tiến Sĩ Hội Thánh (1090 – 1153)

Bernađô sinh năm 1090, tại lâu đài Phontaine gần Dijon. Cha Ngài là hiệp sĩ Tescelin khôn ngoan và đạo đức. Mẹ Ngài là bà Aleth Thánh thiện. Một đêm kia bà mơ thấy Bernađô đang nô đùa bỗng hoá thành con chó sủa vang. Giấc mơ này tiên báo Bernađô sẽ trở thành tông đồ, thành nhà giảng thuyết đại tài. Bernađô luôn luôn khẩn cầu Thiên Chúa cho lòng mình khỏi vướng tội nhơ. Một lần lỡ nhìn người phụ nữ, Ngài đã dìm mình xuống hồ giá lạnh cho tới tận cổ.

Năm 22 tuổi, cả một tương lai sáng mở ra rước mắt, tại triều đình, nơi quân ngũ, trong toà án, mỗi nơi có thể ao ước, Ngài đều có thể thành công. Nhưng một đêm Giáng sinh, Ngài được thị kiến thấy Chúa Giêsu âu yếm ẵm lấy Ngài, kỷ niệm này in dấu sâu đậm suốt đời Ngài. Một ngày khác vào thánh đường, tha thiết cầu xin Chúa cho Ngài biết thánh ý Chúa, cũng như xin Chúa ban ơn can đảm thi hành thánh ý ấy. Chỗi dậy, Ngài quyết định gia nhập dòng Citeax, một dòng tu nổi tiếng khắc khổ. Thế là giã từ danh vọng thế gian và các niềm vui giả tạo.

Một hiệp sĩ trẻ trung sắp chôn vùi đời mình trong tu viện. Sẽ hiến mình cầu nguyện liên lỉ, làm việc cực nhọc và hãm mình hết mực. Điều đặc biệt là Ngài đã chọn một tu viện xa nhà và nghèo khổ thay vì những tu viện Bênêdictô mà tặng vật và ảnh hưởng của gia đình có thể bảo đảm cho Ngài những chức vụ sáng giá.

Bernađô trình bày ý định với cha, Ngài đã bị phản đối, anh em trong gia đình cũng không chấp nhận được ý kiến này. Ngài nói: – Này hãy tin tôi đi, cuộc chinh phục linh hồn không được đáng giá sao ?

Cương quyết và nhiệt tình, Bernađô không những đã làm cho cha mẹ và anh em nhượng bộ, lại còn lôi cuốn họ vào dòng theo chân mình nữa. Lần kia em út Nivard đang ngồi chơi, Guy người anh cả nói: – Giã từ em nhé. Tất cả sản nghiệp thuộc về em, bằng lòng chứ ?

Người em út nói lớn: – Sao ? Trời cho các anh, còn đất cho em, phân chia chẳng đồng đều tý nào.

Rồi người em út cũng theo cha và các anh vào dòng. Ngoài ra ông cậu và các bạn của Bernađô, cả thẩy trên 30 người đã theo chân Ngài vào dòng.

Sự gia nhập đông đảo này đã tiêm một nhiệt huyết mới vào dòng Citeaux. Thái độ của Bernađô và của các bạn còn được một số đông các bạn trẻ noi theo. Đức viện phụ của dòng lúc ấy là thánh Têphanô Harding, một người gốc Anh, thánh hiện, khôn ngoan và uyên bác. Ngài sai từng nhóm nhỏ đi lập các tu viện mới rập theo khuôn mẫu của nhà mẹ. Ba năm sau, tới phiên Bernađô, Ngài dẫn đầu một nhóm tu sĩ 12 người đến một thung lũng gần Langres. Họ dựng chòi một nhà nguyện, nhà ăn, làm những cái hòm giống như quan tài để ngủ. Sự thánh thiện của các tu sĩ cũng như vùng thung lũng trở thành thung lũng ánh sáng hay là Claivaux.

Thánh Bernađô sẽ là đan viện phụ của tu viện này cho đến hết đời. Lúc đầu Ngài tỏ ra đòi hỏi gắt gao. Nhưng rồi về sau, Ngài đã hiểu và nhân hậu hơn. Danh tiếng Ngài lan rộng. Nhiều người từ xa đến xin Ngài giúp đỡ, hay xin Ngài phân xử cho những vụ tranh chấp. Việc này không được mọi người bằng lòng, vì Ngài không biết sợ ai cả. Ngày kia người nhận được một lá thư ngắn ngủi từ Roma, dạy đừng xen mình vào chuyện đời. Không gì làm Ngài vui mừng bằng được ở yên trong tu viện. Nhưng vì cảm thấy mình có liên hệ tới lợi ích của Giáo hội nên đã không ngại viết một lá thư hồi âm rất can đảm nhiệt tình.

Ngài là người ủng hộ nhiệt liệt cho những cải cách Hildebrand, nhưng Ngài nghĩ rằng: sự tập quyền trong Giáo hội đã đi quá xa. Khi nâng đỡ cho những đòi hỏi của toà thánh, Ngài không tin là phải phỉnh nịnh Đức giáo hoàng. Nhưng khi sự phân rẽ đe dọa làm rạn nứt Giáo hội, Ngài được triệu vời đến. Một cách rạng rỡ, Ngài đã đánh bại vị phản giáo hoàng. Lúc này danh tiếng Ngài lan rộng khắp Châu Au. Cả thế giới đều như muốn quay về Ngài để tìm ý kiến giúp đỡ. Không đến với Ngài được người ta viết thư và Ngài đã quyết hồi âm cho tất cả mọi người. Một phần nhỏ trong số thư tín khổng lồ này con sót lại, nhưng cũng là một trong những nguồn tài liệu lịch sử chính yếu về thời đó.

Như nhà dẫn đầu trong cuộc cải tổ dòng Citeaux, Ngài tranh luận với các tu sĩ dòng Bênêdictô thuộc cộng đoàn chung. Rất tôn trọng cách sống của họ, Ngài không thể tha thứ cho những lạm dụng đang thịnh hành trong một vài nhà dòng. Dầu vậy đối với Đan viện phụ Cluny, cha đáng kính Phêrô, Ngài vẫn giữ được một tình bạn nghĩa thiết. Nhưng sự chống đối của thánh Bernađô với Phêrô Abelardô mới thật nổi bật. Không những chống lại các chủ trương của ông, Ngài còn chống lại cả cách thức ông kiêu hãnh tranh luận về các vấn đề thánh nơi chợ búa. Thánh Bernađô luôn nghĩ tới đức tin của những người dân đơn sơ và đứng về phái bảo thủ, nhưng vẫn là bạn của người học thức đỡ đầu cho các học giả như Robertô Pullen và Gioan miền Sabisbury.

Đối với Đức Maria, thánh Bernađô có một lòng sùng kính đặc biệt. Một ngày kia tại nhà thờ chính tòa Sprine, khi nghe hát Kinh Lạy Vữ Vương, Ngài đã nhiệt tình thêm vào:
– Ôi khoan thay, nhân thay, dịu thay, Thánh Maria trọn đời đồng trinh.

Chính Ngài cũng Ngài viết thánh thư cảm động: Ave Maria Stella. Dường như Ngài cũng là tác giả kinh “Hãy nhớ” nữa.

Suốt thời gian làm đan viện phụ của thánh Bernađô dòng Clairvaux phát triển mạnh và sinh ra 60 nhà khác nữa rải rác khắp Âu Châu. Rất bận rộn công việc, Ngài không sao lãng việc chăm sóc cho các tu sĩ của mình. Suốt đời, Ngài là một tu sĩ và là một nhà thần bí. Ngài trước tác những bài chú giải sách Nhã Ca và nhiều tác phẩm thần học và thần bí khác nữa.
Những năm cuối cùng đời Ngài bị phủ mờ vì sự thất bại của đạo binh thánh giá thứ nhì. Đức giáo hoàng cậy Ngài cổ động cho đạo binh này. Nghe lời Ngài toàn Au Châu cầm khí giới lên đường. Nhưng khi xa khỏi ảnh hưởng của Ngài, các nghĩa binh thánh giá đã quên hẳn lý tưởng cao cả của mình mà làm vỡ cuộc viễn chinh vì đánh phạt nhau và vì các việc làmbất xứng với danh hiệu Kitô hữu.

Dầu không thể quy trách được cho thánh Bernađô, nhưng như các thánh nhân khác và như chính Chúa Kitô, Ngài đã qua đời ngày 20 tháng năm 1153, dưới bóng mây mù vì thất bại đã quá rõ ràng. Ngài nói với con cái Ngài : – Cha không phải giải quyết thế nào. Tình thương yêu con cái đời cha ở lại nhưng tình yêu Thiên Chúa kéo cha lên cao.

Cả Âu Châu thương tiếc Ngài. 21 năm sau, Đức Alexander III phong Ngài lên bậc hiển thánh. Năm 1830, Ngài được đặt làm tiến sĩ Hội Thánh. Ngài đã sống trước khi hình thành thuyết kinh viện và bởi vì giáo huấn của Ngài còn nằm trong truyền thống các giáo phụ, người ta thường coi Ngài là thánh giáo phụ cuối cùng.

(daminhvn.net)

+++++++++++++++++

20 Tháng Tám

Hai Vì Sao Mỉm Cười

Một vị ẩn sĩ nọ tịnh niệm và chay tịnh đến suốt ngày không động đến thức ăn và nước uống.Từ trên đỉnh núi cao, ai ai cũng thấy có một ngôi sao xuất hiện giữa ban ngày: đó là dấu hiệu trời cao chấp nhận của lễ hy sinh của ông.

Ngày nọ, vị ẩn sĩ quyết định leo lên núi cao. Ông muốn vươn lên cao hơn trong sự khổ chế. Vừa lúc ông đương leo núi, thì một cô bé trong làng chạy tới xin đi theo. Không thể từ chối được, vị ẩn sĩ đành để cho cô bé đi theo. Họ ra đi khi mặt trời vừa lên. Nhưng không mấy chốc, ánh nắng mỗi lúc một chói chang, cả vị ẩn sĩ lẫn cô bé gái đều cảm thấy khát nước. Vị ẩn sĩ vẫn cố gắng khắc phục cơn khát của mình, nhưng ông lại giục cô gái hãy uống nước. Cuối cùng, không ai chạm đến nước. Vị ẩn sĩ không uống nước vì lời thề của mình, còn cô gái không nỡ uống một mình. 

Họ càng đi, cơn khát càng dằn vặt. Ðến một lúc, vị ẩn sĩ không nỡ nhẫn tâm nhìn thấy cô bé phải quằn quại trong cơn khát. Cuối cùng, ông đành lỗi lời thề. Ông cầm lấy nước đưa lên miệng và lúc bấy giờ cô bé gái cũng mỉm cười uống nước với ông. Sau khi đã uống nước, vị ẩn sĩ không dám nhìn lên trời cao nữa. Ông cứ đinh ninh rằng vì sao hiện ra mỗi ngày như một chứng giám cho sự khổ chế của ông, giờ đây có lẽ đã biến mất. Thế nhưng, trước sự ngạc nhiên vỡ lở của ông, khi ông ngước mắt nhìn lên đỉnh núi, ông thấy có hai vì sao lấp lánh như đang mỉm cười với ông.

Ðể mặc khải cho chúng ta bộ mặt thông cảm, nhân từ, yêu thương của Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã không ngần ngại đến ngồi đồng bàn với những người thu thuế, những kẻ tội lỗi. Phúc Âm ghi lại rằng, khi đi qua dãy bàn thu thuế, Ngài đã nhìn thấy Matthêô. Ngài đã chọn ông vào số các tông đồ của Ngài. Trong bữa tiệc do Matthêô khoản đãi, những người bạn của ông ngồi cùng bàn với Chúa Giêsu. Thấy thế, những người biệt phái đã tỏ ra khó chịu. Chúa Giêsu đã nói với họ như sau: “Không phải những kẻ khỏe mạnh cần đến thầy thuốc, mà chính là những người đau ốm. Hãy đi học hiểu câu nói: Ta muốn lòng nhân từ chứ không phải của lễ”.

Qua thái độ và lời phát biểu trên đây, Chúa Giêsu muốn cho chúng ta thấy rằng cốt lõi của Tin Mừng, cốt lõi của Ðạo chính là tình thương. Thực thi bác ái là việc ăn chay có giá trị nhất, là của lễ cao đẹp nhất mà con người có thể dâng lên Thiên Chúa. Nếu chỉ có một vì sao mọc lên để chứng giám cho một hành động khổ chế, thì sẽ có hai vì sao hiện ra để xác nhận cho một hành động bác ái. Thật ra, bác ái đích thực cũng là một hành động khổ chế, bởi vì nó đòi hỏi con người phải chết cho bản thân, phải ra khỏi chính mình để đến với người khác. Một hành động bác ái đích thực phải là một cái chết dần chết mòn trong chính bản thân.

Nói như mẹ Têrêxa Calcutta: “Khi tôi chia sẻ, khi tôi trao ban cho người một điều gì làm tôi cảm thấy mát mát, đau khổ, thì sự chia sẻ của tôi mới có giá trị. Tôi không chia sẻ và trao ban của dư thừa, mà chính là trao ban chính tôi.

Khi tôi cố gắng chào hỏi một người tôi ghét cay ghét đắng, đó mới thật sự là một hành động bác ái. Khi tôi có thể đến sống nghèo, chia sẻ kiếp sống nghèo của người khác, đó mới là một hành động bác ái. Khi tôi có thể tha thứ cho những người xúc phạm đến tôi, đó mới là một hành động bác ái thực sự. Tôi đã chết đi một phần và cái chết ấy sẽ được Thiên Chúa của lòng nhân từ đón nhận như là lễ hy sinh đích thực”.

(Lẽ Sống)

++++++++++++++++++

Lời Chúa Mỗi Ngày

Thứ Ba Tuần 20 TN1, Năm lẻ

Bài đọc: Judg 6:11-24a; Mt 19:23-30.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thiên Chúa chọn những kẻ khiêm cung, khó nghèo.

Tiêu chuẩn chọn lựa của Thiên Chúa khác hẳn tiêu chuẩn chọn lựa của thế gian. Trong khi thế gian chọn những kẻ tài giỏi, khỏe mạnh, giầu có; Thiên Chúa lại chọn kẻ ít tài, yếu đuối và nghèo khó. Hơn nữa, Đức Kitô còn mặc khải tiêu chuẩn chọn lựa của Thiên Chúa trong Ngày Phán Xét: “Nhiều kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót, và nhiều kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu.”

Các Bài Đọc hôm nay dẫn chứng cách chọn lựa của Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, Thiên Chúa chọn Gideon làm Thủ Lãnh, một người trẻ nhất trong gia đình, thuộc một chi tộc nhỏ nhất của Israel, chi tộc Manasseh, để giải phóng dân chúng khỏi tay những người Midian. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu chọn 12 tông-đồ: đa số là nghèo khó, yếu đuối và thất học; để huấn luyện các ông trở nên những người rao giảng Tin Mừng. Tiêu chuẩn chọn lựa này chứng tỏ: tất cả thành công hay vinh quang con người có được là do sức mạnh và uy quyền của Thiên Chúa, chứ không đến từ con người.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Thiên Chúa chọn Gideon là Thủ Lãnh cứu dân khỏi tay quân thù Midian.

1.1/ Thiên Chúa chọn ông Gideon: Khi con cái Israel quay lưng lại với Thiên Chúa và chạy theo thờ phượng các thần ngoại bang; nên Thiên Chúa không bảo vệ họ nữa, và để cho quân thù Midian bắt họ làm nô lệ cực khổ. Nhưng vì tình yêu trung thành, Thiên Chúa muốn chọn một vị Thủ Lãnh, để lãnh đạo và giải phóng con cái Israel khỏi ách nô lệ của quân thù.

Sách Thủ Lãnh kể: Sứ Thần của Đức Chúa đến và ngồi dưới cây tùng ở Ophrah. Cây này là của ông Joash, thuộc gia đình Abiezrite. Con ông là Gideon bấy giờ đang đập lúa trong bồn đạp nho để tránh mặt người Midian. Sứ Thần Đức Chúa nói với Gidion: “Chào chiến sĩ can trường! Đức Chúa ở với ông.” Ông Gideon thưa với Sứ Thần: “Ôi, thưa Ngài, nếu Đức Chúa ở với chúng tôi, thì sao chúng tôi đến nông nỗi này? Đâu cả rồi những kỳ công mà cha ông đã kể lại cho chúng tôi nghe, rằng: chẳng phải Đức Chúa đã đưa chúng ta lên khỏi Ai-cập sao? Thế mà bây giờ Đức Chúa đã bỏ rơi chúng tôi, trao chúng tôi vào tay người Midian.” Ông Gideon có lý do để nghi ngờ vì ông chỉ nghe thế hệ cha ông nói về những gì Thiên Chúa đã làm cho con cái Israel; nhưng chưa bao giờ ông chứng kiến Thiên Chúa tỏ uy quyền, mà chỉ thấy trước mắt cảnh dân Israel phải làm nô lệ cho người Midian.

Sứ thần Đức Chúa quay lại nhìn ông và nói: “Hãy mạnh bạo lên đường cứu Israel khỏi tay quân Midian. Không phải chính Ta sai ngươi sao?” Ông Gideon tỏ vẻ nghi ngờ: “Ôi, thưa Ngài, con lấy gì mà cứu Israel? Này giòng họ con thấp kém nhất trong chi tộc Manasseh, mà con lại nhỏ nhất trong nhà cha con.” Đức Chúa phán với ông: “Ta sẽ ở với ngươi, và ngươi sẽ đánh quân Midian như đánh có một người.”

1.2/ Ông Gideon xin sứ thần một dấu chỉ để biết chắc chắn sự chọn lựa của Thiên Chúa.

Ông Gideon thưa với Sứ Thần: “Nếu Ngài thương con thì xin cho con một dấu chứng tỏ Ngài đang nói với con. Xin Ngài đừng rời khỏi đây cho tới khi con trở lại, mang theo của lễ đặt trước nhan Ngài.” Người phán: “Ta sẽ ở lại cho tới khi ngươi trở về.”

Ông Gideon đi bắt một con dê non làm thịt, và lấy hai thùng bột làm mấy chiếc bánh không men. Thịt thì ông để trong một cái rổ, còn nước cốt thì đựng trong một cái thố. Rồi ông mang đến cho Người ở dưới cây tùng. Khi ông đến gần, thì Sứ Thần Thiên Chúa nói với ông: “Hãy lấy thịt và bánh không men đặt trên tảng đá này và rưới nước cốt lên.” Ông đã làm như thế.

Sứ thần của Đức Chúa giơ đầu gậy đang cầm trong tay đụng vào thịt và bánh không men, lửa liền từ tảng đá bốc lên, đốt cháy hết thịt cùng bánh không men. Sứ Thần Đức Chúa biến khỏi mắt ông. Khi ông Gideon nhận ra đó chính là Thần sứ Đức Chúa, ông kêu lên: “Chết tôi rồi, lạy Đức Chúa là Chúa Thượng của tôi, vì tôi đã thấy Thần sứ Đức Chúa nhãn tiền!” Nhưng Đức Chúa phán với ông: “Bình an cho ngươi! Đừng sợ: ngươi không chết đâu.”

2/ Phúc Âm: Đối với Thiên Chúa, mọi sự đều có thể được.

2.1/ Người giầu có khó vào nước Thiên Chúa: Trình thuật của Matthew hôm nay tiếp nối cuộc đàm đạo của Chúa Giêsu với chàng thanh niên giầu có. Khi chàng thanh niên buồn bã bỏ đi rồi, bấy giờ Chúa Giêsu nói với các môn đệ của Người: “Thầy bảo thật anh em, người giàu có khó vào Nước Trời. Thầy còn nói cho anh em biết: con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa.” Nghe nói vậy, các môn đệ vô cùng sửng sốt và nói: “Thế thì ai có thể được cứu?”

Các môn đệ ngạc nhiên vì các ông đã quá quen tiêu chuẩn chọn lựa của thế gian. Có lẽ vì các môn đệ nghĩ rằng: giầu có được Thiên Chúa chúc phúc, nên mới sửng sốt khi Chúa Giêsu tuyên bố như vậy. Chúng ta cần hiểu quan niệm về sự sống đời sau của người Do-thái thời đó chưa rõ nét cho lắm. Nhiều người Do-thái quan niệm hạnh phúc cho những người tuân giữ luật pháp của Thiên Chúa được sống lâu, con đàn cháu đống, và được sung túc về của cải chỉ ở đời này. Phải đợi tới khoảng thế kỷ thứ hai trước Chúa Giêsu, chúng ta mới thấy nói về sự sống đời sau qua Sách Daniel và Maccabees. Khi Chúa Giêsu đến, Ngài mặc khải cho các môn đệ cách rõ ràng về sự sống đời sau và điều kiện để được vào Nước Trời.

Tại sao Chúa Giêsu dạy “người giàu có khó vào Nước Trời.” Chúng ta có thể dẫn chứng những lý do sau đây:

(1) Người giầu có tin ở mình: thay vì họ phải tin ở tình yêu và sức mạnh của Thiên Chúa.

(2) Người giầu có không khôn ngoan: họ yêu của cải hơn Đấng dựng nên của cải.

(3) Người giầu có không biết tiêu chuẩn để được vào Nước Trời: hoàn toàn là do tình thương và ơn thánh của Thiên Chúa, chứ không do cố gắng của con người, như Đức Giêsu tuyên bố với các môn đệ: “Đối với loài người thì điều đó không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa, thì mọi sự đều có thể được.”

2.2/ Phần thưởng Chúa Giêsu hứa ban cho các môn đệ: Bấy giờ ông Phêrô lên tiếng thưa Người: “Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy. Vậy chúng con sẽ được gì?” Đức Giêsu đáp: “Thầy bảo thật anh em: anh em là những người đã theo Thầy, thì đến thời tái sinh, khi Con Người ngự toà vinh hiển, anh em cũng sẽ được ngự trên mười hai toà mà xét xử mười hai chi tộc Israel. Và phàm ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái hay ruộng đất, vì danh Thầy, thì sẽ được gấp bội và còn được sự sống vĩnh cửu làm gia nghiệp.”

Mục đích của Thiên Chúa khi cho chúng ta vào cuộc đời này không phải để nỗ lực làm giầu; nhưng biết sống làm sao để đạt tới Nước Trời và giúp cho tha nhân cũng đạt được mục đích đó.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Chúng ta cần tập làm quen và sống theo những tiêu chuẩn chọn lựa của Thiên Chúa, thay vì sống theo các tiêu chuẩn chọn lựa của thế gian.

– Vào Nước Trời không do nỗ lực và công lao của con người; nhưng do tình yêu và ơn thánh Chúa ban. Chúng ta cần biết khiêm nhường đón nhận và sống theo sự chỉ dạy của Chúa.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

****************