Ngày thứ ba (23-03-2021) – Trang suy niệm

22/03/2021

Lời Chúa Hôm Nay

Thứ Ba Tuần V Mùa Chay Năm lẻ

BÀI ĐỌC I: Ds 21, 4-9

“Kẻ nào bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, thì được sống”.

Trích sách Dân Số.

Trong những ngày ấy, các người Do-thái rời bỏ núi Hor, theo con đường về phía Biển Đỏ, để vòng quanh xứ Eđom. Dân chúng đi đường xa mệt nhọc, nên nản chí, kêu trách Chúa và Môsê rằng: “Tại sao các người dẫn chúng tôi ra khỏi Ai-cập, cho chúng tôi chết trong hoang địa. Không bánh ăn, không nước uống, chúng tôi đã ngán thức ăn nhàm chán này”.

Bởi đó Chúa cho rắn lửa bò ra cắn chết nhiều người, họ chạy đến cùng Môsê và thưa rằng: “Chúng tôi đã phạm tội, vì chúng tôi nói những lời phản nghịch Chúa và phản nghịch ông. Xin ông cầu nguyện để Chúa cho chúng tôi khỏi rắn cắn”. Môsê cầu nguyện cho dân. Và Chúa phán cùng Môsê rằng: “Ngươi hãy đúc một con rắn đồng và treo nó lên làm dấu; kẻ nào bị rắn cắn mà nhìn lên rắn đồng, thì được sống”. Môsê đúc một con rắn đồng, treo nó lên làm dấu, và kẻ nào bị rắn cắn mà nhìn lên rắn đồng, thì được chữa lành. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 101, 2-3. 16-18. 19-21

Đáp: Lạy Chúa, xin nhậm lời con cầu nguyện, và cho tiếng con kêu lên tới Chúa (c. 2).

Xướng:

1) Lạy Chúa, xin nhậm lời con cầu nguyện, và cho tiếng con kêu lên tới Chúa. Xin Chúa đừng ẩn giấu thánh nhan, trong ngày con phải phiền muộn. Xin Chúa lắng tai nghe con, khi con cầu nguyện, Chúa mau nhậm lời. – Đáp.

2) Lạy Chúa, muôn dân sẽ kính tôn danh thánh Chúa, và mọi vua trên địa cầu sẽ quý trọng vinh quang Ngài; khi Chúa sẽ tái lập Sion, Ngài xuất hiện trong vinh quang xán lạn; Ngài sẽ đoái nghe lời nguyện kẻ túng nghèo, và không chê lời họ kêu van.- Đáp.

3) Những điều này được ghi lại cho thế hệ mai sau, và dân tộc được tác tạo sẽ ca tụng Thiên Chúa. Từ thánh điện cao sang Chúa đã đoái nhìn, từ trời cao Chúa đã ngó xuống trần thế, để nghe tiếng than khóc của tù nhân, để giải thoát kẻ bị lên án tử. – Đáp.

CÂU XƯỚNG TRƯỚC PHÚC ÂM: Tv 94, 8ab

Hôm nay các ngươi đừng cứng lòng, nhưng hãy nghe tiếng Chúa phán. 

PHÚC ÂM: Ga 8, 21-30

“Khi nào các ông đưa Con Người lên cao, các ông sẽ nhận biết Ta là ai”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu nói với những người biệt phái rằng: “Ta ra đi, các ông sẽ tìm kiếm Ta và sẽ chết trong tội của các ông. Nơi Ta đi các ông không thể tới được”.

Người Do-thái nói với nhau rằng: “Ông ta sắp tự vẫn hay sao mà lại nói ‘Nơi Ta đi các ông không thể tới được’?”

Chúa Giêsu nói tiếp: “Các ông thuộc về hạ giới; còn Ta, Ta bởi trời cao. Các ông thuộc về thế gian này; còn Ta, Ta không thuộc về thế gian này. Ta đã nói: Các ông sẽ chết trong tội các ông. Vì, nếu các ông không tin Ta, các ông sẽ chết trong tội của các ông”.

Vậy họ liền hỏi: “Ông là ai?” Chúa Giêsu trả lời: “Là Nguyên thuỷ đang nói với các ông đây! Ta có nhiều điều phải nói và đoán xét về các ông, nhưng Đấng đã sai Ta là Đấng chân thật, và điều Ta nói ra trong thế gian đây, chính là điều Ta đã nghe biết ở Ngài”.

Nhưng họ không hiểu là Người nói về Chúa Cha, vì thế Chúa Giêsu nói: “Khi nào các ông đưa Con Người lên cao, các ông sẽ nhận biết Ta là ai. Ta không tự mình làm điều gì. Điều Ta nói, chính là điều Chúa Cha đã dạy Ta. Đấng đã sai Ta đang ở với Ta; Ngài không để Ta một mình, bởi vì Ta luôn luôn làm điều đẹp lòng Ngài”. Khi Người nói những điều ấy thì có nhiều kẻ tin vào Người. Đó là lời Chúa.

(thanhlinh.net)

++++++++++++++++++

23/03/21 – THỨ BA TUẦN 5 MC

Th. Tu-ri-bi-ô Mông-rô-vê-khô, giám mục

Ga 8,21-30

LỜI CẢNH BÁO TỐI HẬU

“Nếu các ông không tin là Tôi Hằng Hữu, các ông sẽ mang tội mình mà chết.” (Ga 8,24)

Suy niệm: Khi đưa ra lời cảnh báo nghiêm trọng này “Nếu các ông không tin… các ông sẽ chết trong tội của các ông,” Chúa đâu có muốn ‘‘doạ nạt’’ chúng ta, mà chính vì thời điểm quyết liệt đã tới. Đã đến giờ Con Người phải ra đi. Và họ, ‘‘những người Do Thái’’ sẽ tìm Ngài mà không gặp. Có những cơ hội để gặp gỡ và đón nhận Đức Ki-tô là Đấng Cứu Chuộc nhưng những cơ hội đó đến và có thể bị từ chối rồi qua đi và không bao giờ trở lại. Và từ chối đón nhận Đấng Hằng Hữu cũng đồng nghĩa với việc chuốc lấy cái chết, ‘cái chết trong tội lỗi’ của chính mình, chết vì đã không tin vào Đấng là Sự Sống.

Mời Bạn: Mùa Chay là thời điểm thích hợp để từ bỏ ‘cái chết trong tội’ mà quay trở về đón nhận Đức Ki-tô, tuyên xưng lòng tin vào Đấng Hằng Hữu, là hoán cải đời sống, sống như những người con ngoan của Thiên Chúa. Hôm nay, nếu các bạn nghe tiếng Người, các bạn đừng cứng lòng, vì đây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ.

Sống Lời Chúa: Mùa Chay, chắc hẳn bạn có đi ‘‘xưng tội’’? Nhưng xin bạn đừng xưng tội như người ta đổ một cái thùng rác, để có chỗ trút vào những thứ rác rưởi mới. Trái lại bạn hãy nhận ra đây là thời điểm thuận tiện nhất dành cho bạn để hoán cải sâu xa và bày tỏ lòng tin mạnh mẽ vào Đức Ki-tô, Đấng Hằng Hữu.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, vì tội lỗi con mà Chúa là Đấng Hằng Hữu phải chết. Xin cho con thực lòng ăn năn ghét tội, để con được cùng sống với Chúa muôn đời. Amen.

(5 Phút Lời Chúa)

++++++++++++++++++

Suy niệm và cầu nguyện

Suy niệm:

“Khi các ông giương cao Con Người lên…” (c. 28).
Đó là cách diễn tả về cái chết của Đức Giêsu trong Tin Mừng Gioan.
Cái chết trên thập giá đúng là một sự giương cao nhục nhã, đau đớn.
Đức Giêsu bị treo lên cây gỗ như một kẻ bị Thiên Chúa nguyền rủa.
Những kẻ giương cao Ngài lên là các ông, các nhà lãnh đạo Do-thái.
Họ đã giết Đức Giêsu vì nhiều lý do.
Lý do lớn nhất là vì Ngài đã dám sống trọn vẹn cho Cha và cho con người.
Sống công chính đã khiến Ngài trở nên nạn nhân cho cái chết bất công.
Cái chết của Đức Giêsu gắn kết Ngài với muôn triệu cái chết khác
của những người vô tội trong suốt dòng lịch sử.

Nhưng cái chết của Đức Giêsu còn nằm trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa.
Thiên Chúa đã biến cái chết ghê rợn của Con Ngài thành dấu chỉ của tình yêu.
Nhìn lên thánh giá, chúng ta thấy tình yêu của Cha tặng trao cho nhân loại.
Cha đã tặng tình yêu lớn nhất là chính Con Một của mình.
Vì thế có thể nói chính Cha đã giương cao Con mình trên thánh giá.
“Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc,
Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy” (Ga 3, 14).
Đức Giêsu được giương cao bởi chính Thiên Chúa qua cái chết của Ngài.
Như dân Do thái xưa đã nhìn lên con rắn bằng đồng để được sống,
ai nhìn lên thánh giá và tin vào tình yêu, người ấy sẽ được cứu độ.
Thập tự giá không còn là dấu hiệu của cái chết bất lực của một nạn nhân.
Nó đã trở nên thánh giá với sức mạnh phi thường.
“Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất,
tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12, 32).

Qua việc giương cao này, sức thu hút mạnh mẽ của thánh giá được bày tỏ.
Cả nhân loại được nâng lên khỏi cái nặng nề tội lỗi của chính mình.
Đấng chịu đóng đinh vẫn lôi kéo cả vũ trụ này mãi cho đến tận thế.

Cuối cùng, có thể nói chính Đức Giêsu đã tự giương cao mình trên thánh giá.
“Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được,
nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình” (Ga 10, 18).
Cái chết là kết quả tất yếu của một cuộc sống dám để Cha chi phối trọn vẹn.
“Tôi không tự mình làm bất cứ điều gì…
Chúa Cha dạy tôi thế nào thì tôi nói như vậy…
Tôi luôn luôn làm những điều đẹp ý Người” (cc. 28-29).

Đức Giêsu đã sống trung tín như một Người Con, người được Cha sai.
Cha lúc nào cũng ở với Ngài, nên Ngài không biết đến cô đơn (c. 29).
Mỗi Kitô hữu cũng được giương cao trên thánh giá riêng của đời mình.
Và khi tôi gắn thánh giá của tôi với thánh giá của Giêsu,
thánh giá nhỏ bé ấy sẽ có sức kéo nhiều người lên với Giêsu.

 Cầu nguyện:

Lạy Cha, xin ban cho con điều khó hơn cả,
đó là ơn nhận ra Thánh giá của Con Cha
trong mọi nỗi khổ đau của đời con,
và ơn bước theo Con Cha trên đường Thánh giá,
bao lâu tùy ý Cha định liệu.

Xin đừng để con trở nên chua chát
nhưng được trưởng thành nhờ đón nhận đau khổ
với sự kiên nhẫn, quảng đại, nhân từ
và lòng khát khao nóng bỏng
có ngày sẽ được ở nơi không còn khổ đau.
Ngày đó, Cha sẽ lau khô mọi giọt lệ
của những người đã yêu mến Cha,
đã tin vào tình yêu Cha giữa nỗi thống khổ,
tin vào ánh sáng của Cha giữa đêm đen.

Nhờ Cha, ước gì đau khổ của con
nói lên lòng tin của con
vào những lời hứa của Cha,
lòng cậy của con vào tình yêu trung tín của Cha,
và lòng mến mà con dành cho Cha.

Lạy Cha, xin cho con yêu Cha hơn yêu bản thân,
và yêu Cha chỉ vì Cha,
chứ không mong phần thưởng.

Ước gì Thánh giá trở nên mẫu gương cho con,
là ánh sáng cho đêm tăm tối,
nhờ đó con không còn coi khổ đau
như một tai họa hay một điều vô lý,
nhưng như một dấu chỉ cho thấy
con đang thuộc về Cha mãi mãi.

(Karl Rahner)

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

(phutcaunguyen.net)

++++++++++++++++++

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

23 THÁNG BA

Chúng Tôi Rao Giảng Đức Kitô Chịu Đóng Đanh

Mùa Chay, Giáo Hội không chỉ đào sâu luật luân lý của Thập Giới. Cùng với Thánh Phao-lô, Giáo Hội còn rao giảng cho chúng ta “Đức Kitô chịu đóng đanh” trên Núi Can-vê.

Thuở xưa, người Do Thái đòi dấu lạ và người Hy Lạp tìm sự khôn ngoan – như một điều kiện để họ tin vào hành động cứu độ của Thiên Chúa (1Cr 1,22). Con người thời nay cũng có thái độ tương tự như người Do Thái và người Hy Lạp thời các Tông Đồ. Hay nói đúng hơn, đòi hỏi của con người thời nay còn xa hơn thế nữa. Đó đây đôi khi chúng ta gặp phải những chỉ trích và chống đối đối với các huấn lệnh của Thiên Chúa một cách phũ phàng hơn. Dù sao, Giáo Hội vẫn kiên trung với lời tuyên bố của Tông Đồ Phao-lô: “Chúng tôi rao giảng Đức Kitô chịu đóng đanh” (1Cr 1,23).

Nơi Đức Kitô, chúng ta tìm thấy câu trả lời cho mọi sự! Mọi chỉ trích và chống đối nhắm vào các huấn lệnh của Thiên Chúa đều bị hóa giải khi chúng đối diện với một Đức Kitô chịu đóng đanh. Thập giá Can-vê “thì khôn ngoan hơn loài người” và “mạnh mẽ hơn loài người” (1Cr 1,25).

– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –

Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác

LIFT UP YOUR HEARTS

Daily Meditations by Pope John Paul II

+++++++++++++++++

Lời Chúa Trong Gia Đình

NGÀY 23/3

Thánh Turibiô Môgrôvêjô, giám mục

Ds 21, 4-9; Ga 8, 21-30.

LỜI SUY NIỆM: “Đức Giêsu nói với họ: “Tôi ra đi, các ông sẽ tìm tôi, và các ông sẽ mang tội mình mà chết. Nơi tôi đi các ông không thể dến được.” Người Do-thái mới nói: “Ông ấy sẽ tự tử hay sao mà lại nói: ‘Nơi tôi đi, các ông không thể đến được.”

          Chúa Giêsu là Đấng đem chân lý của Thiên Chúa đến cho loài người. Nhưng đối với những người không tin vào Người, thì mọi lời của Người, họ liên tục không vâng lời, họ nghe lời Người bằng một thái độ đùa cợt, chế giễu.

          Lạy Chúa Giêsu. Mỗi người trong chúng con chỉ có một thời gian để sống trong trần thế này, chuẩn bị cho cuộc sống muôn đời ngày sau. Xin cho chúng con luôn tìm gặp Chúa ngay lúc này, tin vào Lời Chúa và sống Lời Chúa để chúng con được Chúa tha thứ mọi tội lỗi cùng những thiếu sót để ngày sau được gặp lại Chúa trong Nước Trời.

Mạnh Phương

+++++++++++++++++

Gương Thánh Nhân

Ngày 23-03: Thánh TURIBIÔ MONGRÔVEJO

Giám mục (1536 – 1606)

Có những trẻ em như đã biết Chúa làm gì, trong khi những người khác lo tìm kiếm. Những trẻ này biết an ủi và giúp đỡ người khác. Chẳng hạn dân Mayorga nước Tây Ban Nha, ngày kia, được thấy một em bé đến bên một phụ nữ đang giận dữ. Bà này mất một vật mà không mong tìm lại. Đứa trẻ nhã nhặn giải thích cho bà rằng: đừng nên làm như vậy bởi vì điều đó làm phiền lòng Thiên Chúa. Đứa trẻ tốt lành và tế nhị này tên là Turibiô, con thứ của lãnh chúa Mongrôvejô.

Ở trường Valladolid rồi ở Salamanca, Ngài thường nhịn ăn để giúp đỡ người nghèo, Ngài còn muốn thống hối thay cho các tội nhân đến nỗi Ngài bị buộc phải bỏ những hy sinh. Người ta có thể tiên đoán là người sẽ thành một tông đồ bởi Ngài đã biết sống đúng đắn.

Khi đã lớn đủ, cùng với sự khôn ngoan, thông hiểu khá vững chãi, Ngài được vua Philippê II đặt làm chánh án tòa án Granada. Khi địa phận Lima trống ngôi năm 1578, thật ngạc nhiên khi người được chỉ định là một giám mục lại là Turibinô một giáo dân. Nghe tin này, Turibinô khóc ròng, Ngài quì dưới chân thánh giá viết thư cho nhà vua, trong đó Ngài tự diễn tả như một kẻ thù tồi tệ của vua vì những bất xứng của mình. Nhưng các lý lẽ ấy đã không lay chuyển được ai. Ngài thụ phong linh mục rồi giám mục và nhậm địa phận năm 1581.

Địa phận dành cho Turibiô có những khó khăn đến nỗi có thể ngăn chận Ngài lại nếu Ngài không phải là một vị thánh. Địa phận có chu vi là sáu trăm dặm, gồm nhiều thành phố và làng mạc rải rác trên hai dãy núi Andes.

Người Tây Ban Nha khai phá tân thế giới, ức hiếp dân chúng cách man rợ. Muốn cải hóa bằng roi, họ bắt dân làm nô lệ và muốn khai hóa dân thì họ lại chỉ thông cho dân những tật xấu của mình. Nhìn dân da đỏ say sưa liên lỉ, Turibiô không thể cầm được nước mắt Ngài quở trách những người chinh phục vì những lạm dụng cướp bóc của họ và tuyên cáo rằng: những cớ vấp phạm ấy phải dừng lại cho chân lý và tình thương ngự trị.

Vị mục tử đi tìm kiếm mọi con chiên của mình. Sa mạc nóng cháy, núi cao tuyết phủ, thú rừng hung tợn, tất cả đều không làm Ngài nản chí, những người Tây ban Nha quyền thế trở thành phó vương, rồi đến vua Philippe II, do những báo cáo sai lầm đã trách cứ Ngài. Nhưng tất cả những lề luật nghiêm khắc đó đã không làm cho Ngài tháo lui. Ngài biện hộ rằng : Chính Chúa Kitô chứ không phải thế gian sẽ phán xét Ngài.

Turibiô học ngôn ngữ dân Peru, Ngài dạy dỗ dân da đỏ như một người cha nhân từ. Lòng bác ái nhân từ của Ngài đối với họ không có giới hạn. Khi Ngài tới một làng hẻo lánh, dân chúng đổ xô đến với Ngài. Trước hết Ngài thăm hỏi những người đau yếu và không chữa chạy cho họ được, Ngài dạy cho họ biết chết lành. Khi phân phát tình yêu Chúa Kitô, Ngài cũng tái lập sự công bình. Dần dần các thành phố và cả những nơi cô quạnh có người Kitô hữu cư ngụ đông đảo. Thánh Turibiô thiết lập các chủng viện, các viện cứu tế.

Trong hai mươi lăm năm, Ngài đi thăm viếng giáo phận rộng lớn và hoang dã của mình ba lần, mỗi lần phải mất tới bảy năm. Ngài kiên trì ngồi tòa mỗi sáng. Người ta nói rằng: khi cầu nguyện, Ngài tỏa chiếu từ khuôn mặt một tia sáng siêu nhiên. Mệt nhọc đã là một việc sám hối rồi, Ngài còn hy sinh và ăn chay thêm nữa. Khi có ôn dịch trong giáo phận, Ngài tăng gấp đôi lời cầu nguyện hãm mình, Ngài cũng tổ chức nhiều cuộc rước, khi tham dự chính Ngài rơi lệ uớt cả thánh giá cầm trong tay.

Trong khi bất dầu cuộc kinh lý mớí, Ngài đã ngã bệnh tại Santa, Ngài chỉ biết lập lại lời thánh Phaolô : “Tôi ao ước thoát khỏi những ràng buộc của thể xác để kết hiệp với Chúa Giêsu Kitô”.

Gần chết Ngài xin những người chung quanh hát lời thánh vịnh  : – Tôi vui mừng khi nghe nói cùng tôi : chúng ta đi về nhà Thiên Chúa

Thế là cái chết của Ngài được coi như một thánh lễ. Lời cuối cùng của Ngài là lời chính chúa Kitô  : – Lạy Chúa, con phó thác linh hồn con trong tay Chúa. Ngài tự đi tới thánh đường Santa để lãnh các bí tích cuối cùng và kết hiệp với Thánh Thể, Ngài qua đời năm 1606.

(daminhvn.net)

+++++++++++++++++

23 Tháng Ba

Cầu Xin và Cảm Tạ 

Một buổi sáng kia, một cô giáo dạy vườn trẻ chưng một bình hoa thủy tiên tuyệt đẹp trên chiếc bàn đặt ở giữa phòng. Khi các em bé nhỏ thơ ngây tung tăng tiến vào phòng học, có một em tròn xoe đôi mắt nhìn ngắm những chiếc hoa màu vàng lợt và em nói với cô giáo: “Có phải Chúa đã làm ra những bông này không, em muốn gọi dây nói để cảm ơn Chúa đã cho chúng ta những cái bông đẹp”.

Nếu đất với trời được nối kết với nhau bằng dây điện thoại, thiết nghĩ Thiên Chúa sẽ phải đặt ra hai đường dây: Một đường dây cho những kẻ cầu xin và một đường dây dành cho những lời cám ơn. Và người ta sẽ thấy một đường điện thoại luôn luôn bận rộn. Trong khi đường dây kia thỉnh thoảng mới được dùng đến như một chuyện ngụ ngôn kia thuật lại như sau:
Hai Thiên thần được sai xuống trần gian, môic vị mang theo một chiếc giỏ. Họ chia tay nhau đểđi khắp hang cùng ngõ hẻm, đến nhà các người giàu có cũng như những kẻ nghèo khổ, thăm các trẻ em cầu nguyện tại tư gia cũng như tất cả nam phụ lão ấu cầu nguyện tại các nhà thờ.

Sau một thời gian, hai Thiên thần gặp nhau đúng thời điểm đã hẹn để trở về trời. Chiếc giỏ của một thiên thần nặng như chì, còn chiếc giỏ của Thiên Thần kia có vẻ nhẹ như đựng toàn bông gòn.

“Ông mang gì mà nặng thế?”, một Thiên Thần hỏi. Thiên Thần mang giỏ nặng trả lời: “Tôi được sai đến để thu nhận tất cả những lời cầu xin của nhân loại. Còn ông, cái giỏ của ông xem ra nhẹ nhàng thế?”.

“À, tôi được sai đến để góp nhặt những lời cám ơn Thiên Chúa vì những ơn lành Ngài luôn ban cho họ”.

Sự thật về hai cái cân nặng nhẹ của những lời cầu xin và những lời cám ơn trên cũng được bài Tin Mừng về 10 người phong hủi được Chúa Giêsu chữa lành bệnh thuật lại như sau: Một trong bọn họ thấy mình được làm sạch, bèn quay trở lại lớn tiếng ngợi khen Thiên Chúa, rồi đến sấp mình dưới chân Chúa Giêsu và tạ ơn Người. Mà người ấy lại là người xứ Samaria. Nhưng Chúa Giêsu phán rằng: “Chớ thì không phải cả 10 người được làm sạch sao? Còn 9 người kia đâu? Sao không thấy ai trở lại tôn vinh Thiên Chúa mà chỉ có người ngoại bang này?”.

Ðể sống trọn lời Chúa, ước gì cuộc sống chúng ta được diễn ra hằng ngày theo lời khuyên sau đây: Hãy chỗi dậy với tâm hồn thư thái và hãy tạ ơn cho một ngày mới mình được yêu thương.

(Lẽ Sống)

++++++++++++++++++

Lời Chúa Mỗi Ngày

Thứ Ba Tuần V MC

Bài đọc: Num 21:4-9; Jn 8:21-30.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải biết nắm lấy cơ hội để được sống.

Để thành công trong thương trường, một người cần 4 yếu tố: con người, cơ hội, thời gian, và sản phẩm; điều quan trọng hơn cả là cơ hội. Cơ hội sẽ đến với mọi người, nhưng để có thể sinh lợi ích, con người phải nắm lấy cơ hội. Khi cơ hội đã qua, có thể chúng sẽ không bao giờ trở lại. Trong đời sống thiêng liêng cũng thế: con người không sống mãi, họ chỉ có nhiều nhất 100 năm để học hỏi và tin vào Thiên Chúa và vào Đức Kitô. Ngài sẽ ban cho mọi người có cơ hội để học biết và tin tưởng vào Đức Kitô. Họ phải biết lợi dụng thời gian và nắm lấy cơ hội để học biết Đức Kitô và tin vào những gì Ngài rao giảng. Nếu họ không biết dùng thời gian và bỏ lỡ cơ hội để học biết và tin vào Ngài, họ sẽ phải chịu trách nhiệm về cuộc đời của họ: được cứu độ hay phải hư đi.

Các Bài Đọc hôm nay xoay quanh việc con người phải biết nắm lấy cơ hội. Trong Bài Đọc I, Sách Dân Số tường thuật việc dân chúng không biết nắm lấy cơ hội luyện tập trong sa mạc. Họ kêu trách Thiên Chúa và Moses vì thiếu thức ăn hợp khẩu và nước uống. Hậu quả của việc kêu trách là họ bị rắn lửa tiêu diệt. Nhưng Thiên Chúa vẫn thương yêu và cho họ cơ hội thứ hai: ai bị rắn cắn mà nhìn lên rắn đồng mà Moses giương cao trên cây, sẽ được cứu sống. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu mặc khải cho người Do-thái ý nghĩa của biến cố trong Sách Dân Số: Họ phải tin vào Ngài, nếu không họ sẽ chết trong tội của họ. Nếu họ không tin vào Ngài khi còn sống, họ phải tin Ngài khi Ngài bị giương cao trên Thập Giá. Nếu họ bỏ lỡ cả hai cơ hội để tin vào Ngài, họ sẽ chết trong tội của họ.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Ông Moses giương cao “con rắn” trong sa mạc để cứu dân khỏi chết.

1.1/ Thiên Chúa thanh luyện dân 40 năm trong sa mạc: Mục đích của Thiên Chúa khi bắt dân phải lang thang trong sa mạc suốt 40 năm là để chuẩn bị cho dân trước khi vào Đất Hứa. Họ phải tuyệt đối tin tưởng vào Thiên Chúa bằng cách vượt qua những trở ngại trên đường đi: thức ăn, nước uống, khí hậu khắc nghiệt, mệt mỏi … Trong cuộc hành trình qua sa mạc, nhiều lần dân chúng Israel mất kiên nhẫn và kêu trách Thiên Chúa và Moses như trình thuật hôm nay. Họ kêu trách Thiên Chúa và ông Moses rằng: “Tại sao lại đưa chúng tôi ra khỏi đất Ai-cập, để chúng tôi chết trong sa mạc, một nơi chẳng có bánh ăn, chẳng có nước uống? Chúng tôi đã chán ngấy thứ đồ ăn vô vị này.” Bấy giờ Đức Chúa cho rắn độc đến hại dân. Chúng cắn họ, khiến nhiều người Israel phải chết.

Mỗi năm, Giáo Hội đều cử hành biến cố này bằng cách kêu gọi các tín hữu ăn chay, cầu nguyện, và làm các việc lành trong 40 ngày của Mùa Chay. Mục đích là để các tín hữu có cơ hội luyện tập con người để đừng quá lệ thuộc vào vật chất, biết dành thời giờ để định vị lại cuộc đời và trau dồi cho đời sống thiêng liêng, xét mình và thú tội để lãnh nhận ơn tha thứ, và biết chia sẻ của cải với các người thiếu thốn. Nếu các tín hữu biết lợi dụng cơ hội, họ sẽ có sức mạnh để chế ngự các tính hư nết xấu, và thăng tiến trên đường thiêng liêng.

1.2/ Thiên Chúa cứu dân khỏi chết bằng nhìn lên rắn đồng: Rắn được nhiều dân tộc thờ như thần, nhất là các quốc gia Á Châu và Cận Đông. Ngành khảo cổ tìm ra nhiều hình ảnh con rắn đồng khắc trên các tấm bia tại Timnah, gần Biển Chết. Timnah, nằm trong vùng sa mạc Sinai, là vùng có nhiều đồng nhưng cũng rất nhiều rắn lửa, thợ đến đây tìm đồng thường bị rắn cắn chết nên họ rất tin và thờ phượng thần rắn. Rắn được coi như biểu tượng của cả thần chết và chữa lành. Rắn độc cắn người và làm cho chết, nhưng nọc độc của rắn được dân tộc Ân-độ dùng để chữa lành nhiều bệnh như tục ngữ Việt-nam nói “lấy độc trị độc.” Rắn cuộn tròn trên cây cột đã trở thành biểu tượng của ngành y khoa từ lâu đời. Câu truyện rắn cám dỗ bà Evà phạm tội và trình thuật hôm nay có thể có ít nhiều liên hệ với lịch sử của lòai rắn.

Khi dân Israel bị rắn cắn và nhiều người tử thương, họ đến nói với ông Moses: “Chúng tôi đã phạm tội, vì đã kêu trách Đức Chúa và kêu trách ông. Xin ông khẩn cầu Đức Chúa để Người xua đuổi rắn xa chúng tôi.” Ông Moses khẩn cầu cho dân. Đức Chúa bảo ông: “Ngươi hãy làm một con rắn và treo lên một cây cột. Tất cả những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống.” Ông Moses vâng lời Đức Chúa, làm một con rắn bằng đồng và treo lên một cây cột. Và hễ ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, thì được sống.

2/ Phúc Âm: Chúa Giêsu chịu giương cao trên Thập Giá để cứu chuộc con người.

2.1/ Cơ hội lần đầu để tin vào Đức Kitô khi Ngài còn sống: Chúa Giêsu đối thọai với người Do-thái và thuyết phục họ tin vào Ngài, bằng cách mặc khải cho họ những điều sau:

(1) Những gì sẽ xảy ra cho Ngài và cho họ trong tương lai: Ngài sẽ trải qua Cuộc Thương Khó và sẽ sống lại về cùng Chúa Cha. Họ sẽ hối tiếc và tìm Ngài, nhưng quá muộn; vì họ không thể lên Trời với Ngài. Họ phải tin Ngài, tội của họ mới được tha; vì họ không tin Ngài, tội của họ vẫn còn. Người Do-thái không hiểu những gì Ngài mặc khải, họ nghĩ chỉ khi nào Ngài tự tử, họ mới không trông thấy Ngài; và theo truyền thống, những ai tự tử sẽ bị giam cầm dưới địa ngục; và như vậy câu Ngài nói “Nơi Tôi đi, các ông không thể đến được,” là đúng sự thật.

(2) Sự khác biệt giữa Ngài và họ: Ngài có nguồn gốc từ Trời, nguồn gốc của họ là ở thế gian này. Ngài không thuộc về thế gian này, nhưng họ thuộc về thế gian. Chúa Giêsu nhắc họ lần nữa: Họ phải tin Ngài để tội của họ được tha. Họ không hiểu những gì Ngài mặc khải, nên họ hỏi Người: “Ông là ai?”

(3) Sự liên hệ giữa Thiên Chúa và Ngài: Thiên Chúa Cha sai Ngài đến thế gian để chịu chết và gánh tội cho con người. Nếu họ không chịu tin vào Ngài, tội của họ vẫn còn, và họ sẽ chết trong tội của họ. Tất cả những điều này Thiên Chúa, Đấng Chân Thật, muốn Ngài loan báo cho họ, và Ngài đã loan báo; nhưng họ không tin vào lời Ngài.

2.2/ Cơ hội thứ hai để tin vào Đức Kitô khi Ngài bị giương cao: Ngài cho họ biết trước Ngài sẽ phải chết cách nào: Đây là lần thứ hai Chúa Giêsu nói cho dân chúng biết Ngài sẽ phải chết cách nào trong Tin Mừng Gioan. Lần đầu tiên, khi Chúa Giêsu đàm đạo với Nicodemus, Ngài gợi lại cho họ về biến cố rắn lửa cắn người Do-thái trong sa mạc Sinai như chúng ta đọc trong Sách Dân Số hôm nay: “Như ông Moses đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Jn 3:14-15). Trong trình thuật hôm nay, Người bảo họ: “Khi các ông giương cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết Tôi Hằng Hữu, và biết Tôi không tự mình làm bất cứ điều gì, nhưng Chúa Cha đã dạy Tôi thế nào, Tôi nói như vậy. Đấng đã sai Tôi vẫn ở với Tôi; Người không để Tôi một mình, vì Tôi hằng làm những điều đẹp ý Người.”

Chúa Giêsu muốn nói với người Do-thái: Tuy các ông không tin Tôi bây giờ; nhưng các ông phải tin Tôi khi nhìn thấy những gì Tôi đã nói với các ông xảy ra: cách chính xác, khi các ông giương Tôi cao trên Thập Giá. Lúc đó, các ông sẽ biết tất cả những gì Tôi nói với các ông là sự thật: sự liên hệ giữa Chúa Cha và Tôi, Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa, các ông phải tin Tôi thì tội của các ông mới được tha … Khi Đức Giêsu nói thế, thì có nhiều kẻ tin vào Người.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Chúng ta phải biết nắm lấy cơ hội để học hỏi và để tin tưởng vào Thiên Chúa và vào Đức Kitô; vì cơ hội có thể qua đi và không bao giờ đến nữa.

– Đừng bao giờ đợi đến khi về già, vì chúng ta không biết sẽ sống được bao năm; và có còn đủ trí khôn sáng suốt để hiểu, hay đủ nghị lực để học mà tin vào Ngài.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

****************