Lời Chúa Hôm Nay
Thứ Ba. Lễ Ban Sáng
BÀI ĐỌC I: 2 Sm 7, 1-5. 8b-12.16
“Vương quốc Ðavít sẽ tồn tại trước mặt Chúa đến muôn đời”.
Bài trích sách Samuel quyển thứ hai.
Khi ấy vua Ðavít ngự trong đền và khi Chúa cho ông được bằng yên tư bề, khỏi mọi quân thù chung quanh, thì vua nói với tiên tri Nathan rằng: “Ông thấy không? Ta ở trong nhà làm bằng gỗ bá hương, còn hòm bia Chúa thì để ở trong lều bằng da ư?” Nathan trả lời với vua rằng: “Ðiều gì vua nghĩ trong lòng, vua hãy đi thực hiện, vì Chúa ở với vua”. Nhưng xảy ra (là) đêm ấy có lời Chúa phán cùng Nathan rằng: “Hãy đi nói với Ðavít tôi tớ Ta rằng: “Chúa phán thế này: Có phải ngươi sẽ xây cất cho Ta một ngôi nhà để ở chăng?” Ta đã đem ngươi ra khỏi đồi cỏ lúc ngươi còn theo sau đoàn chiên, để ngươi trở nên thủ lãnh Israel dân Ta, và Ta đã ở cùng ngươi trong mọi nơi ngươi đi; Ta đã tiêu diệt mọi quân thù trước mặt ngươi. Và Ta sẽ làm cho danh ngươi nên cao trọng, như danh các bậc vĩ nhân trên mặt đất. Ta sẽ đặt chỉ một nơi cho Israel dân ta, và Ta sẽ vun trồng nó tại đó. Nó sẽ ở đó và sẽ không còn bị quấy rối nữa. Con cái sự dữ sẽ không còn đến đàn áp nó như xưa nữa, như ngày Ta thiết lập các vị Thẩm phán trên Israel dân Ta. Ta sẽ cho ngươi được bằng yên khỏi mọi quân thù. Và Chúa phán trước cho ngươi biết là Chúa sẽ tạo lập cho ngươi một nhà. Nhà của ngươi và triều đại ngươi sẽ vững chắc đến muôn đời trước mặt Ta; ngôi báu ngươi sẽ vững bền mãi mãi”.
Ðó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 88, 2-3. 4-5. 27 và 29
Ðáp: Lạy Chúa, con sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời (x. c. 2a).
1) Tôi sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời, qua mọi thế hệ miệng tôi loan truyền lòng trung thành Chúa, vì Ngài đã phán: “Tình thương của Ta đứng vững muôn đời”; trên cõi trời cao, Ngài thiết lập lòng trung tín.
2) Ta đã ký minh ước cùng người Ta tuyển lựa, Ta đã thề cùng Ðavít là tôi tớ của Ta rằng: “Cho tới muôn đời Ta bảo tồn miêu duệ của ngươi, và Ta thiết lập ngai báu ngươi qua muôn thế hệ”.
3) Chính người sẽ thưa cùng Ta: “Chúa là Cha con, là Thiên Chúa và Ðá Tảng cứu độ của con”. Ðời đời Ta sẽ dành cho người lòng sủng ái, và lời ước Ta ký với người sẽ được mãi mãi duy trì.
ALLELUIA:
All. All. – Lạy Ðức Thượng Trí của Ðấng Tối Cao, Ngài an bài mọi sự cách mạnh mẽ và dịu dàng, xin hãy đến dạy dỗ chúng con con đường khôn ngoan. – All.
PHÚC ÂM: Lc 1, 67-79
“Vầng đông từ cao thẳm tới viếng thăm chúng ta”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Giacaria, cha của Gioan, được đầy Thánh Thần, liền nói tiên tri rằng: “Chúc tụng Ðức Chúa là Thiên Chúa Israel, Người đã viếng thăm và cứu chuộc dân Người. Từ dòng dõi trung thần Ðavít, Người đã cho xuất hiện Vị Cứu Tinh quyền thế? để giúp ta, như Người đã dùng miệng các vị thánh ngôn sứ mà phán hứa tự ngàn xưa: Sẽ cứu ta thoát khỏi địch thù, thoát tay mọi kẻ hằng ghen ghét; sẽ trọn bề nhân nghĩa với tổ tiên, và nhớ lại lời xưa giao ước Chúa đã thề với tổ phụ Abraham: rằng sẽ giải phóng ta khỏi tay địch thù, và cho ta chẳng còn sợ hãi, để ta sống thánh thiện công chính trước nhan Người mà phụng thờ Người suốt cả đời ta. “Hài nhi hỡi, con sẽ mang tước hiệu là ngôn sứ của Ðấng Tối Cao: Con sẽ đi trước Chúa, mở lối cho Người, bảo cho dân Chúa biết: Người sẽ cứu độ, là tha cho họ hết mọi tội khiên. Thiên Chúa ta đầy lòng trắc ẩn, cho Vầng Ðông tự chốn cao vời viếng thăm ta, soi sáng những ai ngồi nơi tăm tối, và trong bóng tử thần, dẫn ta bước vào đường nẻo bình an”.
Ðó là lời Chúa
(Nguồn: UBPV/HĐGMVN, ấn bản 1973)
++++++++++++++++++
24/12/2024 – THỨ BA TUẦN 4 MV
Vọng Lễ Chúa Giáng Sinh
Lc 1,67-79
BẤT NGỜ VƯỢT MỌI BẤT NGỜ
Thiên Thần bảo họ: “Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em. Anh em cứ dấu này mà nhận biết Người: Anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ.” (Lc 2,10-12)
Suy niệm: Cố thi sĩ Bàng Bá Lân trước khi trở thành Ki-tô hữu, đã diễn tả tâm tình của mình trong đêm Giáng Sinh qua mấy vần thơ:
“Tôi không phải là người công giáo,
Thiếu niềm tin, không quỳ lạy cầu kinh.
Nhưng đêm nay lòng cảm thấy lung linh,
Và xao xuyến như tín đồ xao xuyến”.
Lung linh, xao xuyến không phải vì những cảnh xa hoa tráng lệ của ngày lễ No-en, mà là vì một điều siêu bất ngờ và vượt quá mọi bất ngờ. Thiên Chúa cao sang mà làm người phàm hèn mọn! Đấng Cứu Độ đến thiết lập một triều đại công lý và hòa bình, thế nhưng, dấu chỉ để nhận ra Ngài thì thật mong manh: “một hài nhi bọc tã, nằm trong máng cỏ,” Ngôi Lời Thiên Chúa nằm trong máng dành cho súc vật!
Mời Bạn: Hãy tự hỏi ‘vì ai’ mà Chúa chịu nông nỗi này: Vì ai Thiên Chúa chấp nhận bị thương tổn, bị quấy rầy, hạ mình sát đất đen? Vì ai nếu không phải vì bạn, vì chúng ta?
Sống Lời Chúa: Trong ngày mừng Chúa giáng sinh, bạn quyết sống vui vẻ với mọi người, tặng nụ cười cho tất cả những người bạn tiếp xúc để làm món quà mọn bạn dâng lên Chúa Hài Nhi.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, chúng con cảm tạ Chúa đã hạ mình làm người ở với chúng con, để cho chúng con sống hạnh phúc nơi Chúa. Xin biến lòng chúng con thành chiếc nôi đón nhận Chúa, biến miệng lưỡi, bàn tay thành máng cỏ đón nhận Mình Thánh Chúa. Amen.
(5 Phút Lời Chúa)
++++++++++++++++++
Suy niệm và cầu nguyện
Suy niệm:
Thiên Chúa vẫn cứ làm con người ngỡ ngàng.
Để cứu độ nhân loại, Thiên Chúa sai Con Ngài sinh bởi một phụ nữ,
làm người Do Thái, sống dưới thời đế quốc Rôma đô hộ (cc. 1-2).
Như thế Đấng Tuyệt Đối đã từ trời xuống,
chấp nhận thân phận hữu hạn của con người.
Ngài không khoác lớp áo người, nhưng là người trọn vẹn.
Ngài được cưu mang trong dạ mẹ, được sinh ra như mọi trẻ thơ.
Đêm Con Thiên Chúa chào đời là một đêm lạ lùng.
Ngài không được chào đời tại mái nhà thân yêu ở Nadarét.
Ngài cũng không được chào đời
nơi một căn phòng tử tế dành cho lữ khách ở Bêlem.
Đơn giản là vì không có chỗ (c. 7).
Nhưng tại sao lại không có, thì ta không rõ câu trả lời.
Ngài đã phải sinh ra nơi máng cỏ, nơi để đồ ăn cho súc vật.
Phải mất bao lâu Giuse mới tìm được chỗ này trong đêm?
Hãy hình dung khung cảnh âm thầm của máng cỏ ngày xưa.
Có một ngọn đèn nào để chiếu sáng không?
Có ngọn lửa nào để xua đi giá lạnh không?
Hãy cảm nếm nỗi lo sợ, vất vả, lúng túng của đôi vợ chồng trẻ.
Họ đang phải đối diện với những rắc rối lớn lao và bất ngờ.
Điều cần nhất là hoàn toàn tín thác nơi Thiên Chúa.
Khi tiếng khóc đầu tiên của Hài Nhi cất lên giữa đêm khuya,
ơn cứu độ đã mỉm cười với nhân loại.
Lạ lùng thay cách thức Con Thiên Chúa làm người!
Nhóm người chăn chiên, những kẻ sống bên lề xã hội,
chứ không phải là những nhà lãnh đạo tôn giáo hay trần thế,
mới là những người đầu tiên được sứ thần loan báo Tin Mừng.
Họ sống ngoài đồng, chia phiên nhau thức đêm để canh giữ đoàn vật.
Bất ngờ họ bị bao trùm bởi vinh quang rực rỡ của Thiên Chúa (c. 9).
“Hôm nay, Đấng Cứu độ, Đấng Kitô, Đức Chúa được sinh ra cho anh em.”
Đấng dân tộc anh em chờ mong từ lâu, nay đã đến.
Đây là Tin Mừng! Đây là Niềm Vui cho mọi người!
Nhưng dấu hiệu để nhận ra vị Tân Vương thuộc nhà Đavít
thì vừa bình thường: “một trẻ sơ sinh được quấn tã”,
vừa lạ thường: “nằm trong máng cỏ” (c. 12).
Đấng Mêsia mới được sinh ra không ngự nơi cung vua.
Dấu hiệu sứ thần cho ông Dacaria là bị câm.
Dấu hiệu sứ thần cho Maria là bà chị Êlisabét mang thai lúc đã già.
Dấu hiệu sứ thần cho các anh chăn chiên là trẻ thơ quấn tã nơi máng cỏ.
Các anh chăn chiên cần có đức tin để dám tin vào dấu hiệu ấy.
Thiên Chúa vẫn đến với con người bằng những nẻo đường bất ngờ.
“Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (c. 14).
Hoàng đế Augustô được ca ngợi là đấng cứu độ.
Ông được coi là người đem lại hòa bình,vì ông đã chấm dứt chiến tranh.
Hôm nay, Thiên Chúa muốn ban cho chúng ta bình an thật qua Đức Kitô.
Ngài muốn ban cho chúng ta Đấng Cứu Độ thật là Đức Giêsu.
Xin cầu cho hòa bình trên mặt đất, bình an trong lòng người.
Ước gì chúng ta biết được rằng mình là những người được Chúa thương.
Cầu nguyện:
Giữa giá rét của mùa đông,
xin cho con gặp Chúa.
Giữa những long đong
và bấp bênh của phận người,
xin cho con gần Chúa.
Giữa cảnh nghèo khó và trơ trụi,
xin cho con thấy Chúa đi với con và hiểu con.
Lạy Chúa Giêsu bé thơ nằm trong máng cỏ,
xin cho con cảm được sự bình an của Chúa,
ngay giữa những âu lo hằng ngày.
Xin cho con đón lấy cuộc đời con
với bao điều không như ý.
Và cuối cùng,
xin cho con dám sống như Chúa
vì Chúa đã dám sống như con.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
(phutcaunguyen.net)
++++++++++++++++++
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
24 THÁNG MƯỜI HAI
Được Chuộc Lại Bởi Đấng Cứu Độ
Mùa Vọng, một cách tự nhiên, đem đến cho môi miệng chúng ta lời cầu xin ơn cứu độ. Chúng ta nhìn lại nỗi thao thức mong chờ ơn cứu độ qua suốt giòng lịch sử Cựu Ước và tiếp tục vào giai đoạn Tân Ước. Thánh Phaolô nói: “Chúng ta đã được cứu trong lòng cậy trông” (Rm 8,24) “Vì qua Thánh Thần, nhờ đức tin, chúng ta mong đợi niềm hy vọng được nên công chính” (Gl 5,5). Ngay cả những lời cuối cùng của Thánh Kinh cũng là một tiếng kêu van xin Chúa Giêsu, Đấng Cứu Độ chúng ta, đến và tỏ hiện hoàn toàn: “Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến!” (Kh 22,20).
Ơn cứu độ! Đó là niềm khát vọng sâu xa của con người. Mọi trang Kinh Thánh đều làm chứng điều đó. Thánh Kinh mời gọi chúng ta khám phá nguồn gốc đích thực của ơn cứu độ. Thánh Kinh cho chúng ta biết Đấng Giải Thoát và Đấng Cứu Chuộc thực sự của mình là ai.
Kinh nghiệm nền tảng về ơn cứu độ mà Dân Thiên Chúa đã trải qua trong Cựu Ước là cuộc giải phóng khỏi ách nô lệ Ai cập. Thánh Kinh gọi đó là sự cứu chuộc, thục hồi, giải phóng, cứu độ. Đó là hình thức cứu chuộc đầu tiên mà dân Thiên Chúa kinh nghiệm một cách tập thể trong lịch sử. Hồi ức về ơn cứu độ này in sâu trong đức tin của Israel.
Biến cố cứu độ lớn thứ hai trong Thánh Kinh là sự giải phóng khỏi cuộc lưu đày Babylon. Cả hai biến cố ấy – giải phóng khỏi Aicập và khỏi Babylon – được đan kết với nhau trong các Sách Ngôn Sứ. Cuộc giải phóng khỏi tình trạng lưu đày bên Babylon là sự cứu chuộc thứ hai, hay đúng hơn đó là sự tiếp tục và hoàn thành cuộc cứu chuộc thứ nhất. Và tác nhân của cuộc cứu chuộc ấy vẫn chính là Thiên Chúa, Đấng Thánh của Israel, Đấng Giải Thoát và Đấng Cứu Chuộc của dân Người. Ngôn Sứ Giêrêmia nói: “Chúa phán, đây sắp tới ngày Ta sẽ hoàn tất lời Ta đã hứa với nhà Israel và nhà Giuđa” (Gr 33,14).
– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 24/12
Ban Sáng:
2Sm 7, 1-5. 8b-12. 14a. 16; Lc 1, 67-79.
Lời Suy Niệm: Bấy giờ người cha của em, tức là ông Dacaria, được đầy Thánh Thần, liền nói tiên tri rằng: “Chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa Ítraen, đã viếng thăm cứu chuộc dân Người. Từ dòng dõi trung thần Đa-vít. Người đã cho xuất hiện Vị Cứu Tinh quyền thế để giúp ta, như Người dùng miệng các vị thánh ngôn sứ mà phán hứa tự ngàn xưa, (Lc 1,67-70)
Sau khi ông Dacaria đã đặt tên cho con trai của mình là “Gioan” theo lời căn dặn của sứ thần Thiên Chúa, miệng lưỡi của ông đã được mở ra và ông đã cất lời ca tụng Thiên Chúa: “Benedictus”. Trong bài ca chúc tụng này cho mỗi người chúng ta thấy được Gioan Tẩy Giả là vị Tiền Hô trực tiếp của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, chính nhờ có Gioan Tẩy Giả đã giúp cho chúng con nhận biết Chúa là Chiên Thiên Chúa, là Đấng xoá bỏ tội trần gian. Điều này giúp cho mỗi người chúng con xác tín Mình Thánh Chúa trong Bí tích Thánh Thể là chính Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá bỏ tội cho chúng con, để được giao hoà trong ân sủng với Chúa. Amen.
Ban Chiều:
Vọng Chúa Giáng Sinh
Is 62, 1-5; Cv 13, 16-17. 22-25; Mt 1, 1-25.
Lời Suy Niệm: “Đây là Gia phả Đức Giêsu KiTô, con cháu vua Đavít, con cháu tổ phụ Ápraham” (Mt 1,1)
Thiên Chúa đã chọn gọi ông Ápraham làm tổ phụ dân riêng của Ngài, và qua dân riêng này, Ngài hứa sẽ ban Đấng Kitô, để cứu nhân loại. Gia phả được trình bày từ tổ phụ Ápraham đến Đức Giêsu Kitô. Trong lịch sử đó mang đầy dấu ấn đau khổ, lưu đày và tội lỗi, nhưng rồi cũng đầy sự quan tâm của Thiên Chúa với ân sủng của Ngài làm bừng lên những ánh sáng hy vọng tràn trề cho tương lai. Cuộc đời mỗi một người chúng ta cũng vậy. Mỗi người đều có một gia phả theo dòng họ của mình và cùng chịu sự liên đới. Trong gia phả ấy có sự bất toàn, nhưng cũng có những sự tốt đẹp, có những đau khổ nhưng cũng mang lấy nhiều hy vọng ở tương lai. Nhưng điều quan trọng hơn hết đó là chúng ta đang ở trong tình thương cứu độ của Thiên Chúa, là con cái của Ngài trong cùng một đức tin.
Lạy Chúa Giêsu, trong đêm vọng Chúa Giáng sinh. Xin ban cho mọi gia đình trong nhân loại, trong khi chuẩn bị mừng vui trong ngày đại lễ bên ngoài, cũng cần thấy mình có sự liên đới với ơn cứu độ của Chúa. Để niềm vui ngày đại lễ được gắn kết với đời sống của mình. Amen.
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
24 Tháng Mười Hai
Cặp Kính Lão
Tại một viện dưỡng lão nọ, ai ai cũng cảm thấy vui, vì ngày Giáng Sinh sắp đến. Lễ Giáng Sinh không những là lễ của nhận quà, mà còn là của tặng quà nữa. Cho nên, dù không dư dả, các lão ông lão bà cũng cặm cụi suốt ngày để chuẩn bị một món quà gửi tặng cho thân nhân, người quen.
Duy chỉ có một bà lão xem chừng như dửng dưng trước những rộn rịp xung quanh. Bà ngồi trong một góc nhà, gặm nhấm từng nỗi cô đơn của mình. Bà không còn một người thân nào trên trần gian này. Kỳ thực, bà còn một người con trai, nhưng người con ấy kể như đã chết với bà. Từ lâu, anh đã bị giam trong một trại khổ sai chung thân.
Dù vậy, đối với trái tim của một người mẹ, một đứa con, cho dù có đốn mạt đến đâu, vẫn là một người con. Cũng như những lão ông lão bà khác, người đàn bà đáng thương cũng đã có ý nghĩ gửi một món quà cho đứa con bạc phước của mình. Nhưng bà không có một đồng xu dính túi. Tất cả tài sản của bà chỉ là cặp kính lão còn đeo trên mắt… Người đàn bà ước ao được gửi cho người con của mình một gói thuốc lá. Một gói thuốc không là bao, nhưng gói trọn tình thương mà bà vẫn dành cho anh.
Bà đi trao đổi với các cụ già, nhưng không ai có gì để trao tặng bà. Cuối cùng, có một ông lão còn một gói thuốc lá, loại thuốc mà có lẽ con trai bà ưa thích. Nhưng trong viện dưỡng lão này, dường như ai cũng sống theo nguyên tắc “có qua có lại”. Lão ông chỉ trao cho bà gói thuốc với điều kiện bà cũng trao tặng cho ông một món quà nào đó.
Người đàn bà đành lấy cặp kính khỏi đôi mắt và trao cho ông lão. Gương mặt người đàn ông sáng rỡ lên vì ông đã có thể đọc được tỏ tường. Cuộc trao đổi chấm dứt. Người đàn bà gói bao thuốc lá lại thành một món quà Giáng Sinh quý giá để gửi tặng cho con.
Trở lại góc phòng của mình, người đàn bà làm một cử chỉ máy móc: bà đưa tay lên mắt để để sửa lại cặp kính lão. Nhưng cặp kính không còn nữa. Dù vậy, người đàn bà cảm thấy vui hơn bao giờ hết: bởi vì người con trai của bà nơi trại khổ sai sẽ vui vì nhận được quà Giáng Sinh, bởi vì lão ông trong viện dưỡng lão sẽ đọc được báo trong những ngày Giáng Sinh.
Quà tặng chỉ có ý nghĩa khi nó là biểu tượng của người tặng. Người tặng quà không chỉ gửi đi một cánh thiệp, một cái áo, một chiếc bánh, một món đồ chơi, mà gói ghém tất cả tình cảm, sự biết ơn, lòng ngưỡng mộ, tâm tình thương mến của mình. Một cách nào đó, khi tặng quà, chúng ta muốn trao tặng chính bản thân mình.
Do đó, sự trao tặng nào cũng là một mất mát: mất mát một chút tiền của, mất mát một ít thì giờ. Sự mất mát càng lớn, thì quà tặng càng có giá trị. Bà cụ trong viện dưỡng lão trên đây quả thực đã mất mát nhiều: bà đã mất đi một phần ánh sáng của mình. Nhưng bù lại, niềm vui của người con và niềm vui của người đồng viện của bà sẽ lớn hơn. Mất đi một chút ánh sáng để cho người khác được thấy, chấp nhận một chút đau khổ để cho người khác được vui, thua thiệt một phần để cho người khác được cười: đó là tất cả ý nghĩa của sự tặng quà đích thực.
Nhưng đó cũng là niềm vui đích thực, bởi vì niềm vui của người chính là niềm vui của ta. Mục đích của quà tặng là làm cho người khác được vui. Do đó, niềm vui của người khác phải là quà tặng đích thực mang lại niềm vui cho ta.
Ðó chính là nghịch lý của Kitô Giáo chúng ta. Càng trao ban, càng mất mát, chúng ta càng được nhận lãnh.
Chúng ta sẽ khám phá được nghịch lý ấy trong những ngày mừng lễ Giáng Sinh. Niềm vui của Thiên Chúa, Vinh Danh của Ngài, quà tặng cao cả nhất mà Ngài đã trao tặng cho chúng ta: đó là Người Con Một của Ngài. Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài.
Chúng ta đón nhận qùa tặng của Thiên Chúa với tất cả cảm mến tri ân. Nhưng mùa Giáng Sinh không chỉ là mùa của nhận quà, mà còn là mùa của tặng quà nữa. Chúng ta hãy dâng tặng Thiên Chúa tất cả con người của chúng ta.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Mỗi Ngày
Ngày 24 tháng 12 GS, Lễ Nửa Đêm
Bài đọc: Isa 9:1-3, 5-6; Tit 2:11-14; Lk 2:1-14.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Tin Mừng Giáng Sinh là tình yêu Thiên Chúa.
– Một cụ già 93 tuổi, được coi là khá thành công trong cuộc đời: có nhiều của cải, con đàn cháu đống gần 100 đứa. Về già, có nhiều thời gian nhìn lại và suy gẫm, cụ ngậm ngùi kết luận: Vất vả ngược xuôi cả cuộc đời cũng chẳng đến đâu, có tí của ăn nhưng nhìn lại đàn con đàn cháu thấy giật mình. Đứa thì gia đình tan nát, đứa thì bệnh họan, hầu hết con cháu đều xa Chúa, cố gắng khuyên lơn bảo ban nhưng chúng nó không chịu nghe. Nếu Chúa không thương đưa con cháu trở lại thì chết mất! Chẳng biết sau này Chúa cho gặp được bao nhiêu người? May mắn cho cụ già đã nhìn ra bóng tối đang vây bọc gia đình, nhưng làm sao để đưa các con cháu về lại với Thiên Chúa?
– Hòan cảnh của cụ già có lẽ cũng là hòan cảnh của hầu hết gia đình chúng ta. Khi được may mắn định cư nơi các cường quốc có nhiều cơ hội, chúng ta lăn xả vào đời để kiếm tiền sinh sống, mà không bao giờ chịu cân nhắc những thiệt hại của lối sống tư bản này. Nhiều cha mẹ đã không quản ngại hy sinh vất vả để cày 2,3 việc; với hy vọng cho con được tiến thân trong việc học hành, với hy vọng sau khi đã hy sinh cho con sẽ được chúng báo hiếu sau này, như mình đã từng thương yêu và báo hiếu cha mẹ. Sau hơn 30 năm vật lộn với cuộc sống nơi xứ lạ quê người, giờ có thời gian nhìn lại những cố gắng của mình như cụ già, chắc nhiều người chúng ta cũng không khỏi giật mình: gia đình có của nhưng con cái xa Chúa và xa mình vạn dặm. Con cái bác sĩ, dược sĩ, nha sĩ, làm rất nhiều tiền nhưng chẳng bao giờ nghĩ đến việc phải báo hiếu cha mẹ; dạy dỗ khuyên răn chúng khó chịu và chỉ để ngòai tai. Chúng ta cũng chép miệng thở than như cụ già: Hy sinh vất vả cả đời để giờ phải chấp nhận một thực tại chúng ta không ao ước!
– Câu hỏi được đặt ra: Chúng ta đã làm điều gì sai? Làm thế nào để cứu chúng ta và con cháu ra khỏi vùng bóng tối sự chết này?
– Câu trả lời: Chúng ta đã không đặt Thiên Chúa trên hết mọi sự. Chúng ta coi trọng tiền của nên đã dùng quá nhiều thời giờ vào việc kiếm tiền, mà quên đi Lời Chúa báo trước: “Các con không thể làm tôi cả Thiên Chúa lẫn tiền tài.” Chúng ta đã xao lãng trong việc trau dồi đời sống tâm linh mà chỉ chú trọng đến thức ăn của uống, mà quên đi Lời Chúa báo trước: “Người ta không chỉ sống nhờ cơm bánh, nhưng còn bởi mọi Lời do miệng Thiên Chúa phán ra.” Chúng ta đã chạy theo và thờ lạy những hào nhóang thế gian như danh vọng, quyền bính, khóai lạc; mà quên đi Lời Chúa sửa dạy ma quỉ: “Ngươi phải thờ phượng Thiên Chúa, chứ không phải Thiên Chúa thờ phượng ngươi.” Nói tóm, chúng ta đã không sống theo những gì Thiên Chúa muốn, nhưng sống hệt theo lối sống của ma quỉ đã cám dỗ Thiên Chúa. Nếu chính chúng ta không sống những gì Chúa dạy, làm sao chúng ta mong các con chúng ta biết sống? Nếu chúng ta đã không dạy cho con biết kính sợ Thiên Chúa, và gia đình đã không sống theo đường lối của Thiên Chúa; chúng sẽ sống theo kiểu của xã hội hiện nay: ích kỷ chỉ biết tới mình, tôn thờ vật chất, sống buông thả như không có ngày mai.
– Tin Mừng Giáng Sinh: Những Bài đọc đêm nay cung cấp cho chúng ta những tia sáng hy vọng. Trong Bài đọc I: Tiên-tri Isaiah tường thuật những lợi ích khi con người có được Đấng Cứu Thế: Ngài như ánh sáng soi cho con người đang sống trong vùng bóng tối của sự chết. Ngài giúp giải thóat con người khỏi làm nô lệ cho tội lỗi. Ngài ban cho con người khôn ngoan, sức mạnh, thương yêu, và bình an. Trong Bài đọc II, Thánh Phaolô dạy Titô, môn đệ của ngài: Ân sủng Cứu Độ dạy chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này. Chúa Giêsu đã tự hiến để cứu chuộc chúng ta cho thoát khỏi mọi điều bất chính, và để thanh luyện chúng ta, khiến chúng ta thành Dân Riêng của Người, một dân hăng say làm việc thiện. Trong Phúc Âm, Tin Mừng Giáng Sinh được loan báo cho con người: Con Thiên Chúa đã giáng sinh làm người trong hang đá khó nghèo. Chỉ có Mục đồng là những người đầu tiên được sứ Thần loan báo và nhận ra Tin Mừng Cứu Độ.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Ơn Cứu Độ được thực hiện qua Người Con.
1.1/ Sự khác biệt khi Đấng Cứu Thế đến: Ngay trong tuần thứ I Mùa Vọng, Giáo Hội đã mời gọi chúng ta suy xét để nhận ra sự khác biệt giữa người có và không có Thiên Chúa. Tiên-tri Isaiah hôm nay cũng mời gọi chúng ta suy xét để nhận ra tình trạng của mình và sự cần thiết của Đấng Cứu Thế trong cuộc đời mỗi người, qua 2 hình ảnh:
(1) Ánh sáng và bóng tối: “Dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi.” Tình trạng của dân Do-Thái thời Tiên-tri và tình trạng của con người trước khi Đấng Cứu Thế đến là hòan tòan bi quan và tăm tối. Hai vương quốc của Do-Thái sắp sửa bị quân thù Assyria và Babylon xâm chiếm và đem đi lưu đày. Con người bị bao quanh bởi bóng tối của sự không biết Thiên Chúa, không biết suy xét, và bao nhiêu tội lỗi lan tràn. Hậu quả tai hại nhất của việc sống trong bóng tối là con người chắc chắn sẽ phải chết.
Nhưng may mắn cho dân tộc Do-Thái và cho con người, Thiên Chúa đã ban cho họ một ánh sáng, Người Con của Ngài. Ánh sáng này sẽ làm cho con người được thấy, được thấu hiểu những Mầu Nhiệm của Thiên Chúa, và nhất là mang lại Ơn Cứu Độ cho con người, cho họ được sống đời đời.
(2) Vui mừng và đau khổ: Hình ảnh thứ hai Tiên-tri dùng là liên kết ánh sáng với vui mừng và bóng tối với đau khổ: “Vì Chúa đã gia tăng các quốc gia, đã tăng thêm nỗi vui mừng. Họ mừng vui trước nhan Ngài như thiên hạ mừng vui trong mùa gặt hái, như người ta hỷ hoan khi chia nhau chiến lợi phẩm. Vì cái ách đè lên cổ dân, cây gậy đập xuống vai họ, và ngọn roi của kẻ hà hiếp, Ngài đều bẻ gãy như trong ngày chiến thắng quân Median.”
Chúng ta có thể hiểu nỗi đau khổ của dân Do-Thái trong nơi lưu đày: mất quê hương, gia đình tan nát, Đền Thờ và sự hiện diện của Thiên Chúa không còn, cuộc sống thiếu thốn và khổ cực, bị đối xử tàn bạo bởi kẻ thù. Tất cả những đau khổ này sẽ được Thiên Chúa cất hết khi Ngài cho họ được trở về quê hương để tái thiết quốc gia và Đền Thờ. Tất cả những điều này là do Thiên Chúa làm, chứ không do sức lực của con người. Tiên-tri nhắc nhở cho dân nhớ lại chiến thắng tại Median, Thiên Chúa muốn Thủ-lãnh Gideon đuổi quân lính về hết, kẻo họ nghĩ rằng sở dĩ có chiến thắng là do sức mạnh của họ.
Thiên Chúa gia tăng các quốc gia và nỗi vui mừng bằng cách loan Tin Mừng cho Dân Ngọai và cho họ cũng được hưởng Ơn Cứu Độ. Cả dân Do-Thái cũng như Dân Ngọai không làm gì xứng đáng để được hưởng Ơn Cứu Độ, vì tất cả đều phạm tội. Sở dĩ tất cả đều được hưởng Ơn Cứu Độ là hòan tòan do Thiên Chúa.
1.2/ Con người Đấng Cứu Thế: “Vì một trẻ thơ đã được sinh ra cho chúng ta, một Người Con đã được ban tặng cho ta. Người đã lãnh nhận quyền cai trị (arché) trên vai, tên của Người sẽ được gọi là Cố Vấn kỳ diệu, Thiên Chúa uy quyền, Người Cha muôn thuở, Hòang Tử hoà bình.” Tên là người; những danh hiệu này cần được hiểu thấu đáo để chúng ta ước mong có được Người Con này trong cuộc đời:
(1) Cố Vấn kỳ diệu: Người cố vấn phải là người khôn ngoan, có khả năng nhìn thấy những gì người khác không nhìn thấy. Người Con này là người Cố Vấn kỳ diệu cho con người, vì Ngài là Thiên Chúa khôn ngoan: cố vấn cho mọi người và chẳng cần ai làm cố vấn cho Người. Nếu có người cố vấn như vậy trong cuộc đời, chúng ta sẽ không khiếp sợ ai nữa.
(2) Thiên Chúa uy quyền: Tuy dáng vẻ là con người yếu đuối, nhưng ẩn chứa quyền năng vô biên của Thiên Chúa. Người Con này làm được mọi sự, và không có gì là không thể đối với Ngài. Nếu chúng ta có Ngài trong đời, Ngài sẽ giúp chúng ta làm được mọi sự.
(3) Người Cha muôn thuở: Bản tính của người cha là yêu thương, dạy dỗ, và săn sóc cho con cái. Người Con này là Thiên Chúa, Người Cha muôn thuở của con người. Bằng việc nhập thể, chính Ngài vẫn tiếp tục yêu thương, dạy dỗ, và săn sóc từng người. Trong Cựu Ước, Thiên Chúa dùng các tiên tri để dạy dỗ; trong Tân Ước, chính Thiên Chúa dạy dỗ con người.
(4) Hòang Tử bình an: Để có bình an, người lãnh đạo phải yêu mến bình an, và phải có khả năng đem lại bình an. Người Con này có khả năng hòa giải giữa con người với con người, và giữa con người với Thiên Chúa. Chỉ khi nào con người có được Hòang Tử bình an này, con người mới thực sự có bình an.
1.3/ Triều đại của Đấng Cứu Thế: “Quyền cai trị của Ngài sẽ gia tăng, và hoà bình sẽ vô tận cho ngai vàng và vương quốc của vua David. Người sẽ làm cho vương quốc được kiên cố vững bền trên nền tảng công bình và chính trực, từ nay cho đến mãi muôn đời. Lòng nhiệt thành của Đức Chúa các đạo binh sẽ thực hiện điều đó.”
– Trong khi các vua chúa trần gian gia tăng quyền cai trị của họ bằng chiến tranh; Người Con gia tăng vương quốc của mình bằng hòa bình. Điều này, chúng ta có thể thấy được qua sự phát triển của Giáo-hội: con số những người tin vào Đức Kitô mỗi ngày một gia tăng, không bằng chiến tranh, nhưng bằng sự rao giảng Tin Mừng và sự làm việc bên trong của Chúa Thánh Thần. Vua chúa trần gian càng bách hại Đạo, số tín hữu càng gia tăng. Nước Thiên Chúa không còn giới hạn trong dân tộc Do-Thái, nhưng được lan rộng ra tới mọi dân tộc trên địa cầu.
– Tiên-tri Isaiah liên kết giữa triều đại của David và của Người Con. Như lời Thiên Chúa hứa qua các Tổ-phụ và các Tiên-tri, triều đại của Nhà David sẽ tồn tại muôn đời. Điều này chỉ thực hiện được qua Người Con thuộc giòng dõi David, Ngài sẽ làm cho triều đại David được tồn tại đến muôn đời.
– Trong khi các vua chúa trần gian củng cố vương quốc của mình bằng đàn áp và bạo lực, Người Con củng cố vương quốc bằng công bình và chính trực. Đàn áp và bạo lực chỉ có thể giữ dân chúng một thời gian; công bình và chính trực sẽ thu hút lòng dân đến muôn đời (Lk 1:32-33).
– Tác nhân chính của sự gia tăng là Thiên Chúa và lòng nhiệt thành yêu thương của Ngài, chứ không do đức độ, tài năng, hay sức mạnh của con người. Thiên Chúa yêu thương đến nỗi đã ban Người Con này cho con người (Jn 3:16); và trong Người Con này, mọi lời hứa được thực hiện.
2/ Bài đọc II: Ơn Cứu Độ thay đổi đời sống luân lý của các Kitô hữu
2.1/ Ơn Cứu Độ giúp con người biết sống: Con người làm bất cứ một việc gì đều có một mục đích. Khi các Kitô hữu biết rõ ràng mục đích của cuộc đời là “trông chờ ngày hồng phúc, ngày Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ chúng ta, xuất hiện vinh quang;” họ sẽ phải biết chuẩn bị xứng đáng cho ngày đó. Thánh Phaolô khuyên các Kitô hữu: (1) Cách tiêu cực: Họ phải từ bỏ lối sống thế gian và những đam mê trần tục; vì lối sống này ngăn cản không cho họ đạt tới mục đích của cuộc đời. (2) Cách tích cực: Họ phải biết sống chừng mực, công chính, và đạo đức ở thế gian này. Những nhân đức này sẽ giúp họ đạt được mục đích của cuộc đời.
2.2/ Ơn Cứu Độ giải thóat con người: Bằng Mầu Nhiệm Nhập Thể, Đức Kitô giải thóat con người: (1) cách tiêu cực: khỏi mọi điều bất chính (tội lỗi); cách tích cực: biến họ thành người hăng say làm việc thiện. Chính sự tích cực này làm con người xứng đáng thành Dân Riêng của Thiên Chúa.
3/ Phúc Âm: Hôm nay, Đấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta.
3.1/ Hòan cảnh sinh ra của Đấng Cứu Thế: Không giống như các biến cố khác của cuộc đời Chúa Cứu Thế, biến cố sinh ra chỉ được tường thuật bởi Thánh sử Luca cách vắn tắt như sau: “Thời ấy, Hoàng-đế Augusto ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ. Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, được thực hiện thời ông Quirinô làm tổng trấn xứ Syria. Ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi. Bởi thế, ông Giuse từ thành Nazareth, miền Galilee lên thành vua David tức là Bethlehem, miền Judah, vì ông thuộc giòng tộc vua David. Ông lên đó khai tên cùng với người đã thành hôn với ông là bà Maria, lúc ấy đang có thai. Khi hai người đang ở đó, thì bà Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ.”
Khỏang cách từ Nazareth đến Bethlehem là 80 dặm, và phương tiện di chuyển duy nhất thời đó là đi bộ hay dùng các thú vật như bò lừa. Bethlehem rất lạnh vào mùa Đông vì là một cánh đồng chỉ cách Jerusalem vài dặm và có rất nhiều các hang đá ẩn sâu trong lòng đất, vẫn còn tồn tại tới hôm nay. Các hang đá này là chỗ lý tưởng cho các người chăn chiên vì họ có thể giữ chiên trong đó an tòan và tránh lạnh mà không cần chuồng.
3.2/ Thiên Thần loan Tin Mừng trọng đại cho các mục-đồng.
Mục-đồng (Bedouins) vẫn còn tồn tại ở Do-Thái cho tới ngày nay. Họ không thích lối sống thành phố hay cố định ở một chỗ; nhưng thích lang thang khắp đó đây theo đòan vật, chỗ nào có cỏ và nước cho súc vật họ sẽ định cư tại đó. Họ bị các người Do-Thái khác khinh thường vì bẩn thỉu và không thể giữ các nghi thức thanh tẩy trước khi ăn.
Tại sao các mục đồng được diễm phúc là những người đầu tiên biết Tin Mừng Giáng Sinh của Hài Nhi Cứu Độ? Để trả lời, chúng ta cần hỏi câu hỏi ngược lại: Ai là người sẽ dễ đón nhận Tin Mừng Giáng Sinh nhất trong hòan cảnh này?
Mối Phúc thứ nhất: “Phúc cho những ai nghèo khó vì Nước Trời là của họ” sẽ giúp chúng ta trả lời. Thiên Chúa chọn cho con mình giáng sinh trong hòan cảnh nghèo khó, chứ không trong dinh thự giàu sang. Người muốn con mình cảm nhận thân phận cùng cực của kiếp người. Vì sinh ra trong hòan cảnh nghèo hèn như thế, chỉ có những người nghèo như các mục-đồng mới có thể nhận ra và cảm thông, vì Con Trẻ cùng một hòan cảnh như họ. Hơn nữa, người nghèo khổ là người biết trông cậy vào Thiên Chúa, chứ không cậy vào sức của họ; vì thế, dễ cho họ đón nhận Tin Mừng Giáng Sinh hơn. Lời ca của muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa rằng: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” cũng củng cố cách cắt nghĩa này. Thiên Chúa đóai thương và nhìn đến kẻ khó nghèo.
Tin Mừng Giáng Sinh được Sứ thần loan báo cho các mục-đồng: “Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua David, Người là Đấng Kitô Đức Chúa. Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Thiên Chúa đã quá yêu thương nhân lọai. Chúng ta phải cảm nhận được tình yêu của Thiên Chúa qua Mầu Nhiệm Nhập Thể. Mục đích của Mầu Nhiệm Nhập Thể là để gánh tội lỗi và mang Ơn Cứu Độ cho con người. Không có Mầu Nhiệm Nhập Thể, con người sẽ chết trong tội.
– Món quà Giáng Sinh quí giá nhất Thiên Chúa ban cho chúng ta là chính Chúa Giêsu; qua Người Con này, chúng ta sẽ không thiếu bất cứ ân huệ cần thiết nào của cuộc sống. Chúng ta phải đáp trả lại tình yêu Thiên Chúa bằng cách làm sao cho có và giữ được Chúa Giêsu trong cuộc đời.
– Ơn Cứu Độ phải trở thành đích điểm cho cuộc sống. Chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính, và đạo đức ở thế gian này.
– Thiên Chúa là Chủ Tể của vũ trụ, mà lại chọn sinh ra trong cảnh khó nghèo để dạy chúng ta một bài học: Sống đơn giản và nghèo khó làm chúng ta dễ dàng trông cậy vào Thiên Chúa và nhận ra những nhu cầu của tha nhân hơn.
– Mong sao cho Tin Mừng Giáng Sinh hôm nay giải thóat các gia đình chúng ta ra khỏi vùng bóng tối sự chết, và đưa chúng ta vào miền ánh sáng, bình an, và hoan lạc.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
****************