Ngày thứ bảy (14-08-2021) – Trang suy niệm

13/08/2021

Lời Chúa Hôm Nay

Thứ Bảy Tuần XIX Mùa Thường Niên Năm lẻ

BÀI ĐỌC I: Gs 24, 14-29

“Hôm nay các ngươi hãy tuỳ ý chọn phải tôn thờ ai hơn”.

Trích sách ông Giosuê.

Trong những ngày ấy, Giosuê nói với dân chúng rằng: “Giờ đây, các ngươi hãy kính sợ Chúa và tôn thờ Người với tâm hồn thiện hảo và chân thành. Hãy loại bỏ những thần cha ông các ngươi đã tôn thờ trong xứ Mêsôpôtamia và ở Ai-cập, mà tôn thờ Chúa. Còn nếu các ngươi không muốn tôn thờ Thiên Chúa, thì cho các ngươi lựa chọn: hôm nay, các ngươi hãy tùy ý chọn phải tôn thờ ai hơn: hoặc là các thần cha ông các ngươi đã tôn thờ ở Mêsôpôtamia, hoặc các thần của người xứ Amôrê, nơi các ngươi đang ở. Phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ tôn thờ Chúa”.

Dân trả lời rằng: “Không thể có chuyện chúng tôi bỏ Chúa mà tôn thờ những thần ngoại. Chúa là Thiên Chúa chúng tôi, chính Người đã dẫn chúng tôi và cha ông chúng tôi ra khỏi Ai-cập, khỏi nhà nô lệ. Người đã làm những việc kỳ diệu cả thể trước mắt chúng tôi và đã gìn giữ chúng tôi suốt con đường chúng tôi đã đi, giữa tất cả mọi dân chúng tôi đã đi qua. Chúa đã trục xuất tất cả những dân đó cũng như người Amôrê trên phần đất chúng tôi đã tiến vào. Vậy chúng tôi sẽ tôn thờ Chúa, vì chính Người là Thiên Chúa chúng tôi”.

Bấy giờ Giosuê nói với dân chúng rằng: “Các ngươi không thể tôn thờ Chúa được, vì Người là Thiên Chúa chí thánh, Thiên Chúa ghen tương, sẽ không tha thứ những tội ác và lỗi lầm của các ngươi. Nếu các ngươi bỏ Chúa mà tôn thờ các thần ngoại, Người sẽ trở lại giáng hoạ trên các ngươi và tiêu diệt các ngươi, sau khi đã thi ân cho các ngươi”.

Dân chúng thưa với Giosuê rằng: “Không phải như ông nói đâu, nhưng chúng tôi sẽ tôn thờ Chúa”. Giosuê liền bảo dân chúng rằng: “Vậy các ngươi hãy tự làm chứng rằng: chính các ngươi đã chọn Chúa để tôn thờ Người”. Họ đáp: “Chúng tôi xin làm chứng”. Ông nói: “Vậy thì hãy loại bỏ những thần ngoại ra khỏi các ngươi và hướng lòng về Chúa là Thiên Chúa Israel”. Dân chúng thưa với Giosuê rằng: “Chúng tôi sẽ tôn thờ Chúa là Thiên Chúa chúng tôi, và sẽ tuân phục các mệnh lệnh của Người”.

Hôm ấy, Giosuê lập giao ước, ấn định quy chế và luật lệ cho dân ở Sikem. Giosuê ghi chép các lời đó vào sách Luật của Chúa, rồi lấy một tảng đá thật lớn và dựng lên dưới cây sồi ở trong nơi thánh của Chúa, và nói với toàn dân rằng: “Đây, tảng đá này sẽ làm chứng cho các ngươi, vì nó đã nghe mọi lời Chúa phán với các ngươi, kẻo sau này các ngươi chối bỏ và lừa dối Chúa là Thiên Chúa các ngươi”. Sau đó, Giosuê giải tán dân chúng và ai nấy trở về với phần đất của mình. Sau những sự việc đó, Giosuê, con ông Nun, tôi tớ Chúa, qua đời, hưởng thọ một trăm mười tuổi. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 15, 1-2a và 5. 7-8. 11

Đáp: Lạy Chúa, Chúa là phần gia nghiệp của con (x. c. 5a).

Xướng:

1) Xin bảo toàn con, lạy Chúa, vì con tìm nương tựa Chúa. Con thưa cùng Chúa: Ngài là Chúa tể con! Chúa là phần gia nghiệp và phần chén của con; chính Ngài nắm giữ vận mạng của con. – Đáp.

2) Con chúc tụng Chúa vì đã ban cho con lời khuyên bảo. Đó là điều lòng con tự nhủ, cả những lúc đêm khuya. Con luôn luôn đặt Chúa ở trước mặt con, vì Chúa ngự bên hữu con, con sẽ không nao núng. – Đáp.

3) Chúa sẽ chỉ cho con biết đường lối trường sinh, sự no đầy hoan hỉ ở trước thiên nhan, sự khoái lạc bên tay hữu Chúa tới muôn muôn đời. – Đáp. 

ALLELUIA: Tv 118, 18

Alleluia, alleluia! – Lạy Chúa, xin mở rộng tầm con mắt con, để con tuân cứ luật pháp của Chúa và để con hết lòng vâng theo luật đó. – Alleluia. 

PHÚC ÂM: Mt 19, 13-15

“Đừng ngăn cấm các trẻ nhỏ đến với Ta, vì Nước Trời là của những người giống như chúng”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, người ta đem những trẻ nhỏ đến cho Chúa Giêsu để Người đặt tay và cầu nguyện cho chúng. Các môn đệ liền quở trách chúng, nhưng chúa Giêsu bảo: “Hãy để các trẻ nhỏ đến với Ta, và đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Trời là của những người giống như chúng”. Sau khi Người đặt tay trên chúng, thì Người đi khỏi nơi đó. Đó là lời Chúa.

(thanhlinh.net)

++++++++++++++++++

14/08/2021 – THỨ BẢY TUẦN 19 TN

Th. Mắc-xi-mi-li-a-nô Kôn-bê, linh mục, tử đạo

Mt 19,13-15

TRỞ NÊN TRẺ THƠ

“Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Trời là của những ai giống như chúng.” (Mt 19,14)

Suy niệm: Triết gia Kierkegaard đượm vẻ tiếc nuối khi nói về trẻ thơ: “Chiêm ngắm tuổi thơ giống như quay trở về chiêm ngắm một vùng đất xinh đẹp; người ta thực sự nhận thức được vẻ đẹp đó vào đúng lúc, vào chính khoảnh khắc nó bắt đầu biến mất.” Vẻ đẹp của trẻ thơ: sự ngây thơ hồn nhiên, đơn sơ phó thác, nụ cười vô tư lự, ánh mắt trong trắng, không mưu mô tính toán,… lôi kéo người ta trở về hoài niệm một thiên đàng đã mất, “thuở A-đam chưa phạm tội”. Chúa Giê-su đặt tay chúc lành cho trẻ em và nói Nước Trời thuộc về những người giống như chúng, Ngài muốn chúng ta rũ bỏ cái quá khứ ảm đạm của tội lỗi, và chọn sống những giá trị đó của trẻ thơ để có thể đạt tới Nước Trời dành sẵn cho chúng ta.

Mời Bạn: Nước Trời không còn ở một nơi xa xôi nào đó, mà hiện thực ở đây ngay lúc này, mỗi khi con người để cho mình thuộc về Chúa, phó thác trọn vẹn cuộc đời cho tình yêu quan phòng của Người, “như trẻ thơ nép mình lòng mẹ” (Tv 131,2). Dẫu cho nghịch cảnh trong cuộc đời vẫn còn đó, chúng ta được mời gọi sống như trẻ thơ trước mặt Chúa, trọn niềm tin tưởng vào Chúa, và thực thi thánh ý Ngài, chúng ta cũng được Chúa đặt tay chúc lành và dành sẵn cho chúng ta phần thưởng Nước Trời.

Sống Lời Chúa: Dành ít phút thinh lặng bình tâm trước nhan Chúa, dâng lên Ngài lời nguyện: “Lạy Chúa, toàn thân con thuộc về Chúa. Con xin phó thác mọi sự của con trong tay Chúa.”

Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin ban cho con một tâm hồn trẻ thơ, để con luôn xác tín rằng Chúa vẫn luôn ở bên con, che chở và phù trợ con.

(5 Phút Lời Chúa)

++++++++++++++++++

Suy niệm và cầu nguyện

Suy niệm:

Bàn tay con người thật là cao quý.
Trong Cựu Ước, Đức Chúa muốn ông Môsê đặt tay trên ông Giosuê
để chia sẻ cho ông này quyền lãnh đạo dân (Ds 27, 18. 23).
Cụ Giacóp đã chúc phúc cho hai đứa cháu là Épraim và Mơnase
bằng cách đưa hai tay đặt trên đầu chúng (St 48, 14).
Cử chỉ đặt tay trên cũng thường thấy trong Giáo Hội thuở ban đầu.
Chúa Thánh Thần được trao ban qua việc đặt tay (Cv 8, 17-19; 19, 6).
Qua đặt tay, bảy phó tế đầu tiên lãnh nhận sứ vụ (Cv 6, 6).
Bácnaba và Saolô cũng được đặt tay sai để sai đi truyền giáo (Cv 13, 3).

Bàn tay Thiên Chúa là khí cụ che chở, đỡ nâng.
“Ngài bao bọc con cả sau lẫn trước,
bàn tay của Ngài, Ngài đặt trên con (Tv 138, 5).

Bàn tay của Đức Giêsu đóng vai trò lớn trong sứ vụ.
Ngài chữa anh mù bằng cách đặt tay trên mắt anh (Mc 8, 25).
Ngài cũng chữa bà còng lưng theo cách tương tự (Lc 13, 13).
Người ta xin Ngài đặt tay để chữa một anh điếc và ngọng (Mc 7, 32),
thậm chí đặt tay để hoàn sinh một em gái mới chết (Mt 9, 18).
Trong bài Tin Mừng hôm nay,
Cha mẹ của các em đã đưa các em đến với Đức Giêsu,
để được Ngài đặt tay trên chúng và cầu nguyện (c. 13).
Họ tin phúc lành đến với con cái họ qua cử chỉ ấy.
Cuối cùng, Đức Giêsu đã đặt tay trên các em nhỏ và cầu nguyện,
trước khi tiến về Giêrusalem để chịu khổ nạn (c. 15).

Nhưng các môn đệ lại bực bội và la rầy cha mẹ của các em.
Có lẽ đối với họ, Thầy Giêsu còn nhiều việc lớn lao để làm
hơn là mất thì giờ để chúc lành cho mấy em bé.
Đức Giêsu hoàn toàn không đồng ý với thái độ coi thường này.
Ngài nói thẳng: “Hãy để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng.”
Đến với Thầy Giêsu là quyền lợi của mọi trẻ em,
người lớn không được phép xâm phạm.
Ngài đưa ra lý do khiến các môn đệ phải tôn trọng trẻ em:
“vì Nước Trời là của những ai giống như chúng” (c. 14).
Như thế trẻ em, tuy không có chỗ cao trong xã hội,
nhưng lại có chỗ vững chãi trong Nước Trời.
Trẻ em có chỗ vì chúng hồn nhiên sống lệ thuộc vào cha mẹ,
và đón nhận mọi sự từ người khác với lòng biết ơn.
Những người lớn muốn vào Nước Trời phải nên giống chúng.
Đây là một tiến trình khó khăn và lâu dài,
vì người lớn phải quay lại, phải hoán cải để trở nên đơn sơ như trẻ thơ,
phải tự hạ mình xuống, bỏ đi những tự hào, tự mãn về mình (Mt 18, 3-4).
mở lòng đón lấy Nước Trời như quà tặng nhưng không.
Như thế trẻ thơ lại là mẫu mực cho các môn đệ của Thầy Giêsu.
Nước Trời dành cho trẻ thơ và những ai trở nên giống chúng.

Trẻ em có chỗ trong Nước Trời và trong Giáo Hội tại thế.
Các em cũng là thành viên trong cộng đoàn đức tin.
Lời dạy của Đức Giêsu vẫn mãi âm vang nơi chúng ta:
“Hãy để trẻ em đến với tôi, đừng ngăn cấm chúng.”
Chúng ta đã làm gì để đưa các em đến với Giêsu?

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu, vì con bé nhỏ,
nên xin yêu ngài bằng khả năng bé nhỏ của con.

Cho con biết yêu
những công việc bé nhỏ mỗi ngày,

những công việc âm thầm,
những bổn phận mà con làm vì yêu mến.

Cho con biết yêu những hy sinh bé nhỏ mỗi ngày,
vui lòng đón nhận những thánh giá tuy nhỏ,
nhưng làm tim con đau đớn.

Cho con biết yêu tinh thần bé nhỏ của trẻ thơ,
đơn sơ thú nhận mình yếu đuối và bất lực,
sung sướng nương tựa vào duy một mình Chúa.

Hơn nữa, xin cho con can đảm,
dám chọn những gì giúp con trở nên bé nhỏ hơn,
nhờ đó con vui tuoi phục vụ mọi người
và hạnh phúc khi thấy Chúa lớn lên trong con.

Mỗi lần bị cám dỗ tự cao,
xin cho con biết ngắm nhìn con đường Chúa đã đi,
con đường bé nhỏ và khiêm hạ.

Ước gì con được làm bạn của Chúa
trên đường từ Bêlem đến Núi Sọ,
và được ở bên Chúa trong Nước Trời. Amen.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

(phutcaunguyen.net)

++++++++++++++++++

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

14 THÁNG TÁM

Mục Đích Phổ Quát Của Con Người Trong Kế Hoạch Của Thiên Chúa

Tuy nhiên, Công Đồng không nhắm mắt trước những vấn đề ngổn ngang mà con người đối mặt khi phát triển trái đất, cả những vấn đề trong chính mình lẫn những vấn đề trong cuộc sống với người khác. Sẽ là thiếu thành thật nếu phớt lờ những vấn đề ấy; cũng vậy, sẽ là một sai lầm nếu trình bày các vấn đề ấy một cách không đúng đắn và không phù hợp qua việc không qui chiếu đến sự quan phòng và ý định của Thiên Chúa.

Công Đồng nói: “Ngày nay, tuy đã tự hào trước những khám phá và quyền lực mình, nhân loại vẫn thấy lo lắng thắc mắc về sự tiến hóa hiện nay của thế giới, về chỗ đứng và phận vụ của con người trong vũ trụ, về ý nghĩa của những cố gắng cá nhân cũng như tập thể, và sau hết về cùng đích của con người và muôn loài” (MV 3).

Rồi Công Đồng tiếp tục giải thích: “Cũng như trong bất cứ cơn khủng hoảng tăng trưởng nào, sự biến đổi này kéo theo những khó khăn không nhỏ. Chẳng hạn như đang khi bành trướng quá rộng quyền lực của mình, không phải lúc nào con người cũng có thể bắt nó phục vụ mình. Cố gắng đi sâu hơn vào thâm tâm mình, con người nhiều khi lại tỏ ra hoang mang hơn về chính mình. Dò dẫm tìm hiểu rõ hơn những luật lệ của đời sống xã hội, con người lại do dự không dám định đoạt hướng đi cho mình” (MV 4).

Một cách rất ấn tượng, Công Đồng nói về “những mâu thuẫn và chênh lệch” là hệ lụy của sự thay đổi “nhanh chóng và lộn xộn” trong các điều kiện kinh tế xã hội, trong tập quán, trong văn hóa, trong suy nghĩ và trong lương tâm con người, trong gia đình, trong các mối quan hệ xã hội, trong quan hệ giữa các nhóm, các cộng đồng và các quốc gia. Điều này gây ra “những ngờ vực và thù nghịch nhau, những xung đột và thống khổ mà chính con người là nguyên nhân và nạn nhân.” (MV 8-10).

Cuối cùng, Công Đồng vạch ra gốc rễ của vấn đề nói trên khi tuyên bố: “Những chênh lệch dày vò thế giới ngày nay gắn kết với một chênh lệch căn bản hơn phát xuất từ đáy lòng con người” (MV 10).

– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –

Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác

LIFT UP YOUR HEARTS

Daily Meditations by Pope John Paul II

+++++++++++++++++

Lời Chúa Trong Gia Đình

NGÀY 14/8

Thánh Maximilianô Maria Kolbê, linh mục tử đạo

Gs 24, 14-29; Mt 19, 13-15.

LỜI SUY NIỆM:  “Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Trời là của những ai giống như chúng.”

          Trong đoạn Tin Mừng: “Chúa Giêsu và trẻ em”. Giúp cho mỗi người lớn trong gia đình luôn cần dẫn đưa các trẻ em đến gần Chúa, qua mọi thánh lễ và kinh nguyện, mọi sinh hoạt theo lứa tuổi của các em, nhờ đó các em có thêm niềm vui, gần gủi với cộng đoàn, được học hỏi thêm về giáo lý; để mai ngày được trưởng thành trong đức tin.

          Lạy Chúa Giêsu. Chúa đã nói với các Tông Đồ của Chúa: “Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Trời là của những ai giống như chúng.”. Xin cho tất cả chúng con luôn biết yêu mến và học hỏi nơi các trẻ nhỏ, vì nơi các em có sự đơn sơ, trong sạch.

Mạnh Phương

+++++++++++++++++

Gương Thánh Nhân

Ngày 14 tháng 8
THÁNH MAXIMILIANÔ MARIA KOLBE
(1894-1941)

1. ĐÔI DÒNG TIỂU SỬ

Cha Maximilianô Kolbe sinh tại Zdusnka Wola, nước Balan, ngày 8-1-1894. Năm 1907, nhập học tại chủng viện dòng Phanxicô, được gởi qua học ở Roma. Ngày 28-04-1918, thụ phong linh mục. Là một tông đồ nhiệt thành về lòng sùng kính thánh mẫu Maria, Cha Kolbe đã tích cực cổ võ lòng tôn sùng ấy đặc biệt bằng báo chí (Nguyệt san “Người hiệp sĩ của Đức Mẹ Vô Nhiễm”) phát hành một lần tới một triệu số năm 1938) và bằng một trung tâm thánh mẫu. Năm 1930, cha qua Nhật và thành lập một trung tâm tương tự. Năm 1936, cha trở về Balan.

Ngày 1-9-1939, quân đội Đức của Hitler tấn công Balan, mở đầu cho cuộc thế giới chiến tranh thứ II.

Mười ngày sau, mật vụ Đức bắt giam cha Maximilianô Kolbe gần ba tháng. Được trả tự do, cha trở lại đời sống hoạt động tông đồ cho đến ngày 17-2-1941, thì bị bắt lại. Và lần này cha bị giam ở trại tập trung Auschwitz, nơi đã từng tiêu diệt 6 triệu người Do Thái và vô số những người khác trong các phòng hơi ngạt. Cha Kolbe cũng chết tại đó.

30 năm sau, ngày 17-10-1971 tại thánh đường Phêrô, Đức Giáo Chủ Phaolo VI đã long trọng phong cha lên hàng chân phước. Tại buổi lễ này người ta thấy có sự hiện diện của cụ Giasowniczek, người mà trước kia cha Maximilianô Kolbe đã chết thay cho.

Rồi ngày 10-10-1982 Đức Gioan Phaolô II đã phong Ngài lên bậc hiển thánh.

2. CHỨNG NHÂN ANH DŨNG

“Hôm ấy là ngày 30/7/1941, trong nhà giam số 14 tại trại tập trung Auschwitz, nơi mấy tháng trước đó, một nhóm tù nhân vừa được dẫn tới, trong đó có cha Maximilianô Kolbe, tu sĩ dòng Phanxicô Balan. Hôm ấy thiếu mất một tù nhân. Các tử tù biết rằng cứ một tù nhân đào thoát là hai mươi tù cùng trại phải nhịn ăn cho đến chết. Đêm ấy không ai trong khu nhà giam chợp mắt được. Mọi người đều sợ hãi, mặc dù nhiều lúc họ vẫn mong chờ cái chết đến để giải thoát họ.

Chết dưới làn đạn, có lẽ còn chịu được, nhưng chết đói chết khát thật là một cái chết kinh sợ nhất. Từ căn nhà hành hình, phát ra những tiếng la rú rùng rợn. Đêm ấy, cha Kolbe lo an ủi đồng bạn và giải tội cho những ai cần.

Sáng hôm sau khi điểm danh, tên cai ngục đã báo tin người ta đã không tìm lại được kẻ đào thoát. Cả trại 14 đứng im như  trời trồng và hồi hộp chờ án lệnh. Viên cai ngục dừng lại trước hàng những tù nhân và tuyên bố: “Mười đứa trong tụi bay sẽ chết thay nó. Lần sau sẽ là 20 đứa”. Tuyên bố xong hắn ta chậm rãi đi ngang qua hàng đầu, có vẻ suy nghĩ, rồi nói : “Tên này… tên này… tên này. Tất cả 10 người. 10 người bị tử hình”. Lúc đó một trong số những người ấy kêu lên: “Ôi vợ tôi, các con tôi!”. Những người còn đứng trong hàng ngũ thở ra nhẹ nhõm.

Nhưng rồi một chuyện bất ngờ xảy ra: Có một người tù không thuộc nhóm những người bị chỉ định, mạnh dạn bước ra khỏi đám người đang xếp hàng im lặng trong sợ hãi, nhìn thẳng vào người cai ngục. Tên này kinh ngạc lùi lại một chút rồi hô to: “Đứng lại!”

Cha Maximilianô Kolbe dừng lại trước mặt y. Thế rồi một cuộc đối thoại chưa từng nghe đã diễn ra. Một cuộc đối thoại điên khùng mà những người sống sót đã kể lại thật chính xác:

– Xin ông cho phép tôi được chết thay cho một trong những người bị lên án này!

Viên cai tù kinh ngạc nhìn cha.

– Anh là ai ?

– Là một linh mục công giáo.

– Anh muốn chết thế cho ai?

– Người này. Cha Kolbe chỉ vào người vừa mới la khóc.

– Tại sao?

– Bởi vì đời tôi không còn giúp ích gì mấy. Trong khi ông này còn có gia đình.

Viên cai trại suy nghĩ, rồi đưa tay ra hiệu đồng ý. Cha Kolbe nhập bọn với đám tử tội.

Một phút im lặng. Không ai hiểu rõ sự việc vừa xảy ra.

Các tù nhân bị lột hết quần áo, nhốt vào một căn hầm. Kể từ giây phút đó, người tù không còn gì để ăn và điều kinh khủng là không có gì để uống gì nữa.

Trước kia căn nhà hầm này luôn vang lên những tiếng kêu la thảm thiết. Thật là một địa ngục nhỏ. Nhưng lần này có cái gì đã thay đổi. Mấy người lính Đức quốc xã rất đỗi ngạc nhiên. Đám tử tù cầu nguyện và ca hát. Vẫn có tiếng rên rỉ, nhưng không còn là những tiếng kêu tuyệt vọng nữa.

Ngày thứ 12, tức ngày 14-08-1941 cửa phòng giam đói được mở ra. Mọi người  đều đã chết, trừ một mình cha Kolbe, với đôi mắt vẫn sáng dù thân mình tàn rũ. Cha ngồi giữa đất, đầu tựa vào tường, thân mình ngay thẳng và khuôn mặt rạng rỡ.  Viên cai ngục bắt ngài đưa tay ra và  chích cho một mũi thuốc độc ân huệ. Vị linh mục chết ngay. Họ đưa xe  đến  xúc xác ngài và các bạn tù  đem đi. Như bao nhiêu người khác, xác cha bị hoả thiêu trong lò và nắm tro tàn bị ném tung trong gió bốn phương.

3. THAY CHO LỜI KẾT

Đây là lời của Đức thánh Cha Phaolô VI

“Lịch sử sẽ không thể quên được trang sử ghê tởm này (của thời Đức quốc xã) nhưng giữa sự kinh hãi, người ta vẫn không thể không nhận ra những tia sáng tố giác bóng tối và đồng thời lướt thắng bóng tối. Một trong những tia sáng ấy, và có lẽ là tia sáng rực rỡ hơn hết, được ban cho chúng ta trong khuôn mặt tiều tụy và bình thản của cha M. Kolbe, vị anh hùng luôn bám chắc vào một niềm hy vọng nghịch lý nhưng có suy nghĩ. Tên tuổi Ngài mãi mãi lớn lao và sẽ nhắc nhở cho ta thấy rằng giữa những con người khốn khổ, vẫn có thể tồn tại những năng lực và giá trị luân lý phong phú biết bao !” (Bài giảng của Đức Phaolô VI…)

Và đây là những lời của Đức Hồng Y Wojtyla sau này là Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II tại phòng họp báo toà thánh Vatican ngày 14-10-1971

“Chân phước Maximilianô Kolbe không biết đến hận thù là gì. Trong nhà tù Pawiak, ở Vacsava, trong trại tập trung Auschwitz Ngài nhìn những người hành hình cũng như những kẻ bị hành hình với cùng một cái nhìn trong sáng đến nỗi những kẻ tàn bạo nhất cũng phải quay mặt đi : “Đừng nhìn bọn tao như thế”. Con người mang bản số 16670 ấy đã dành được một cuộc chiến thắng khó khăn nhất: ấy là cuộc chiến của tình yêu biết xá tội, biết thứ tha. Ngài đã đi vào trong cái vòng luẩn quẩn hiểm ác của hận thù với một cõi lòng nóng bỏng tình yêu và lập tức cái “ngón trù ếm” quỉ quái của nó bị giải độc. Tình yêu đã mạnh hơn sự chết.

(tgpsaigon.net)

+++++++++++++++++

14 Tháng Tám

Còn Tình Nào Cao Quý Hơn 

Vào khoảng cuối tháng 7/1941, một tù nhân đã trốn khỏi trại tập trung Auschwitz. Theo quy định của những người Ðức quốc xã đang điều khiển trại, cứ một tù nhân đào thoát, thì 10 người khác phải thế mạng.

Duyệt qua khu biệt giam, viên chỉ huy Fritsch trỏ tay vào hàng rào các tù nhân và ông đếm từ 1 đến 10. Mười người bị tử thần chiếu cố đã lần lượt tiến đến trước mặt người đồ tể. Người thứ mười đứng cạnh cha Maximiliano Kobel chợt la lên thảm thiết: “Vợ tôi, con tôi, trời ơi! Tôi sẽ không bao giờ gặp được vợ con tôi”. Cha Maximiliano Kobel đã kéo người tử tội thứ mười đó lại và ngài tiến ra đứng thế chỗ cho anh…

Sau này, Francis Gajownizcek, người đàn ông đã được cha Maximiliano Kobel chết thế đã kể lại: Tinh thần trong trại thay đổi hẳn. Sự kiện này đã tạo ra một ấn tượng cao đẹp vàsâu xa… Vị linh mục dòng Fanxico đó không những chỉ chia sẻ cho các bạn tù một mẩu bánh, vài muỗng xúp, nhưng là chính mạng sống của mình để chuộc mạng cho người khác…

Liên tiếp trong hai tuần, cha Maximiliano Kobel đã phải nhịn đói, nhịn khát để chờ chết. Cơn hấp hối kéo dài quá lâu khiến những người Ðức quốc xã không thể chờ đợi được. Sau cùng, viên lý hình đã kết thúc cuộc đời của cha bằng một mũi thuốc độc.

Thân xác của cha đã được hỏa táng và tro tàng đã được rắc trên đồng lúa như phân bón. Nguyện ước lúc thiếu thời của cha đã được thành tựu: “Tôi ước ao được hóa thành tro bụi vì Ðức Trinh Nữ Vô Nhiễm nguyên tội. Ước gì tro đó được reo rắc khắp nơi trên thế giới để không còn một mảnh thi hài nào còn sót lại…”.

Nhà tù nào cũng có thể là một hỏa ngục: hỏa ngục của hận thù, của ích kỷ, của phản bội. Có lẽ nhiều người Việt Nam đã và đang trải qua những hành hạ dã man gấp bội phần những gì đã diễn ra trong các trại tập trung thời Ðức quốc xã…

Nhà tù có thể là hỏa ngục, nhưng cũng có thể là Thiên Ðàng: Thiên Ðàng của hy sinh, nhẫn nhục, yêu thương, tha thứ, quảng đại… Biết bao nhiêu hoa thơm đã chớm nở trong cảnh khốn cùng ấy. Khốn khổ càng nhiều, hy sinh càng cao.
“Không có tình yêu nào cao quý bằng tình yêu của người thí mạng sống vì người mình yêu”. Chúa Giêsu đã tuyên bố như thế và Ngài đã đi đến cùng cam kết của Ngài. Cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá không những là sự thể hiện của sự độc ác dã man của con người, nó còn là dấu chỉ của mối tình của một người đã yêu và yêu cho đến cùng…

Cái chết hy sinh vì người khác, Chúa Giêsu muốn luôn được tiếp tục qua cuộc sống của người Kitô. Ðã có rất nhiều người đã lập lại cái chết đó qua suốt lịch sử của Giáo Hội và hiện nay, còn biết bao nhiêu người vẫn còn tái diễn cái chết đó qua những hy sinh hằng ngày của mình…

Hôm nay, chúng ta kính nhớ thánh Maximiliano Kobel, ngươòi đã chết thay cho một người bạn tù. Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã phong thánh cho ngài ngày 10/10/1982 và đặt ngài làm quan thầy của thời đại khó khăn. Kinh nghiệm của ngài chắc chắn đang tái diễn hằng ngày trong xã hội chúng ta, trong đó người Kitô không ngừng được mời gọi để quên mình và sống cho người khác.

(Lẽ Sống)

++++++++++++++++++

Lời Chúa Mỗi Ngày

Thứ Bảy – Tuần 19 – TN1

Bài đọc: Jos 24:14-29; Mt 19:13-15.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Cần đặt niềm tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa.

Giới răn đầu tiên của Thập Giới là giới răn nền tảng và quan trọng nhất. Nền tảng vì nó đặt nền cho tất cả các giới răn khác, nếu một người không biết kính sợ Thiên Chúa, họ cũng chẳng thực thi các giới răn của Ngài. Quan trọng vì nó xác định tương lai của con người có được hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa hay không.

Các bài đọc hôm nay muốn nêu bật tầm quan trọng của việc con người phải đặt niềm tin tưởng tuyệt đối nơi Thiên Chúa. Trong bài đọc I, thủ lãnh Joshua cũng giống như ông Moses, trước khi lìa đời, ông tập họp dân chúng lại để cắt nghĩa tầm quan trọng của việc tin yêu Thiên Chúa; sau đó ông truyền cho họ cam kết lời thề và ký kết lại giao ước giữa họ với Thiên Chúa là họ sẽ thành tâm tin tưởng Thiên Chúa và bước đi trong đường lối của Ngài. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu la rầy các môn đệ vì họ ngăn cản các trẻ nhỏ không cho chúng đến với Ngài. Chúa Giêsu tuyên bố: “Nước Trời là của những ai giống như chúng.”

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Trách nhiệm của mỗi người về hành động mình làm.

1.1/ Đối thoại giữa thủ lãnh Joshua và con cái Israel: Những nhà lãnh đạo khôn ngoan biết đâu là cốt tủy và nền tảng của cuộc sống của dân chúng. Giống như ông Moses trong bài đọc hôm qua, thủ lãnh Joshua biết việc tin yêu và giữ các giới răn là điều sống còn cho cuộc sống của con cái Israel, nên trước khi chết, ông tập họp tất cả dân chúng lại trước tôn nhan Thiên Chúa để lặp lại lời thề. Thủ lãnh Joshua nói: “Bây giờ anh em hãy kính sợ Đức Chúa, hãy chân thành và trung tín phụng thờ Người. Anh em hãy vất bỏ các thần cha ông anh em đã phụng thờ bên kia Sông Cả và ở Ai-cập, và hãy phụng thờ Đức Chúa. Về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Đức Chúa.”

Dân chúng có tự do để làm quyết định: “Nếu anh em không bằng lòng phụng thờ Đức Chúa, thì hôm nay anh em cứ tuỳ ý chọn thần mà thờ hoặc là các thần cha ông anh em đã phụng thờ bên kia Sông Cả, hoặc là các thần của người Emorites mà anh em đã chiếm đất để ở. “

Con cái Israel đáp lại: “Chúng tôi không hề có ý lìa bỏ Đức Chúa để phụng thờ các thần khác!” Họ nêu ra những lý do đàng sau quyết định của họ: (1) Vì chính Đức Chúa, Thiên Chúa của chúng tôi, đã đem chúng tôi cùng với cha ông chúng tôi lên từ đất Ai-cập, từ nhà nô lệ, đã làm trước mắt chúng tôi những dấu lạ lớn lao; (2) Ngài đã gìn giữ chúng tôi trên suốt con đường chúng tôi đi, giữa mọi dân tộc chúng tôi đã đi ngang qua; và (3) Đức Chúa đã đuổi cho khuất mắt chúng tôi mọi dân tộc cũng như người Emorites ở trong xứ. Họ kết luận: “Về phần chúng tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Đức Chúa, vì Người là Thiên Chúa của chúng tôi.”

1.2/ Hậu quả phải chịu nếu họ phản bội Thiên Chúa: Tiếp đến, ông Joshua làm 3 việc:

(1) Liệt kê hậu quả phải chịu: “Anh em sẽ không thể phụng thờ Đức Chúa, vì Người là Thiên Chúa thánh thiện, Thiên Chúa ghen tương; Người sẽ không dung thứ tội phản nghịch cũng như tội lỗi của anh em đâu. Nếu anh em lìa bỏ Đức Chúa để phụng thờ các thần ngoại, Người sẽ quay lại chống anh em, giáng hoạ xuống anh em và tiêu diệt anh em, dù trước đây Người đã giáng phúc cho anh em.”

(2) Cam kết trước Thiên Chúa: Ông Joshua nói với dân: “Anh em hãy cam đoan với chính mình là anh em đã chọn Đức Chúa để phụng thờ.” Họ nói: “Xin cam đoan!” Hai điều dân chúng xin cam kết là: “Chúng tôi sẽ phụng thờ Đức Chúa, Thiên Chúa của chúng tôi, và chúng tôi sẽ nghe lời Người.”

(3) Ký kết giao ước: Trong ngày ấy, ông Joshua thay mặt dân kết giao ước, ông đưa ra quy luật và điều luật ở Shechem. Ông Joshua viết những lời đó trong Sách Luật của Thiên Chúa. Ông lấy một tảng đá lớn và dựng ở đó, dưới cây sồi trong nơi thánh của Đức Chúa. Ông Joshua nói với toàn dân: “Đây, tảng đá này sẽ làm chứng về những điều chúng ta đã cam đoan, vì nó đã nghe mọi lời Đức Chúa phán với chúng ta. Nó sẽ làm chứng về những điều anh em đã cam đoan, kẻo anh em chối bỏ Thiên Chúa của anh em.”

2/ Phúc Âm: Nước Trời là của những người giống như con trẻ?

2.1/ Tại sao các môn đệ la rầy trẻ nhỏ? Trẻ em thường ồn ào và chạy nhảy lung tung làm chia trí cuộc đàm thọai hay cần được nghỉ ngơi của người lớn. Các môn đệ thấy Thầy mình bận rộn tối ngày, hết giảng dạy rồi lại chữa bệnh, xuất hiện ở đâu cũng kéo theo một đám đông ồn ào chen lấn, nên các ông có lý do để la rầy và ngăn cản không cho chúng đến. Hiểu ý hướng tốt lành của họ nên Chúa Giêsu không trách các ông, Ngài chỉ nói: Cứ để trẻ em đến với Thầy! Đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Trời là của những ai giống như chúng.” Người đặt tay trên chúng, rồi đi khỏi nơi đó.

Qua bài học này, Chúa Giêsu dạy cho những người lãnh đạo một bài học quan trọng để có thể đối đầu với đòi hỏi của đám đông. Khi chọn xuất hiện nơi công cộng là chọn để cho đám đông đến với mình, đừng khinh thường và trốn tránh họ vì sứ vụ và thành công của mình phần lớn cũng liên quan tới họ. Có những người sau khi đã nổi tiếng tìm cách bảo vệ mình và xa lánh đám đông nên họ cũng từ từ rơi vào quên lãng. Tuy nhiên, Chúa cũng không dạy dành hết thời giờ cho đám đông mà quên đi việc nghỉ ngơi bồi dưỡng. Chúa đã từng nhắc nhở các môn đệ: “Các con hãy lui vào nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi” (Mk 6:31); hay Chúa bảo các ông xuống thuyền và chèo qua bờ bên kia trong khi Chúa giải tán đám đông đang muốn tuyên xưng Chúa làm vua cai trị họ (Mt 14:22). Và rất nhiều lần, Ngài đã bỏ đám đông và các môn đệ để lên núi cầu nguyện một mình (Mt 14:23, Lk 9:18, Jn 6:15). Chúa biết cách làm chủ thời gian và xử thế trong mọi trạng huống xảy ra cho Ngài.

2.2/ Người lớn cần trở nên giống trẻ về phương diện nào? Chắc chắn Chúa không đòi chúng ta trở nên trẻ nhỏ về mọi phương diện vì chúng cũng có những điều cần phải học để trưởng thành hơn, nhưng một số các đặc tính của trẻ rất cần cho mối liên hệ giữa chúng ta với Thiên Chúa như:

(1) Trẻ thơ tuyệt đối tin tưởng nơi cha mẹ chứ không nơi chúng hay người ngòai, chúng ta cũng phải tuyệt đối tin tưởng nơi Thiên Chúa chứ không nơi bất cứ quyền lực nào khác, ngay cả chính mình.

(2) Cha mẹ dạy sao nghe vậy, chúng chưa biết bướng bỉnh cãi lại; chúng ta cũng cần có thái độ như vậy khi tiếp cận các giới răn của Chúa, đừng lý sự để tìm cách biện minh cho các hành động sai trái của mình.

(3) Trẻ thơ cần gì xin đấy, hết rồi lại xin thêm, chúng không biết tích trữ phòng hờ; Chúa cũng đòi chúng ta như thế, lương thực này nào đủ cho ngày đó chứ không lo tích trữ cho cả một đời trong khi biết bao người cần có của ăn hằng ngày.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Mỗi người phải chịu trách nhiệm về các hành động và cuộc đời mình. Chúng ta đừng đổ tội cho tiền nhân cũng đừng tùy thuộc vào công đức của hậu thế.

– Chúng ta cần có một niềm tin vững vàng nơi Thiên Chúa như con trẻ tin vào cha mẹ chúng; đừng để những bon chen của cuộc sống làm chúng ta mất đi niềm tin này. 

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

****************