Ngày thứ hai (01-05-2023) – Trang suy niệm

30/04/2023

Lời Chúa Hôm Nay

Thứ Hai tuần 4 Phục Sinh. Thánh Giuse Thợ

BÀI ĐỌC I: Cv 11, 1-18

“Thiên Chúa cũng ban cho dân ngoại ơn ăn năn sám hối để được sống”.

Bài trích sách Tông đồ Công vụ.

Trong những ngày ấy, các tông đồ và anh em ở Giuđêa nghe tin rằng cả dân ngoại cũng đã đón nhận lời Thiên Chúa. Khi Phêrô lên Giêrusalem, các người đã chịu cắt bì trách móc người rằng: “Tại sao ngài vào nhà những kẻ không chịu cắt bì và ăn uống với họ?” Phêrô trình bày cho họ sự việc từ đầu đến cuối theo thứ tự sau đây: “Tôi đang ở tại thành Gióp-pê, lúc cầu nguyện, trong một thị kiến, tôi thấy một vật gì giống chiếc khăn lớn túm bốn góc, từ trời thả xuống sát bên tôi. Tôi chăm chú nhìn và thấy những con vật bốn chân, những mãnh thú, rắn rết và chim trời. Tôi nghe tiếng phán bảo tôi: “Phêrô, hãy chỗi dậy giết mà ăn”. Tôi thưa: “Lạy Chúa, không được, vì con không khi nào bỏ vào miệng con những đồ dơ nhớp hay bẩn thỉu”. Tiếng từ trời nói lần thứ hai: “Vật gì Thiên Chúa cho là sạch, ngươi đừng nói là dơ nhớp”. Ba lần xảy ra như thế, và mọi sự lại được kéo lên trời.

“Và ngay lúc đó, ba người từ Cêsarêa được sai đến nhà tôi ở. Thánh Thần truyền dạy tôi đừng ngần ngại đi với họ. Sáu anh em cùng đi với tôi, và chúng tôi vào nhà một người. Anh thuật lại cho chúng tôi biết: anh đã thấy thiên thần hiện ra thế nào; thiên thần đứng trong nhà anh và nói với anh rằng: “Hãy sai người đến Gióp-pê tìm Simon có tên là Phêrô; người sẽ dạy ngươi những lời có sức làm cho ngươi và cả nhà ngươi được cứu độ”. Lúc tôi bắt đầu nói, Thánh Thần ngự xuống trên họ như ngự trên chúng ta lúc ban đầu. Bấy giờ tôi nhớ lại lời Chúa phán: “Gioan đã rửa bằng nước, còn các con, các con sẽ được rửa bằng Thánh Thần”. Vậy, nếu Thiên Chúa ban cho họ cũng một ơn như đã ban cho chúng ta, là những kẻ tin vào Chúa Giêsu Kitô, thì tôi là ai mà có thể ngăn cản Thiên Chúa?”

Nghe những lời ấy, họ thinh lặng và ca tụng Thiên Chúa rằng: “Vậy ra Thiên Chúa cũng ban cho dân ngoại ơn ăn năn sám hối để được sống”.

Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 41, 2. 3; 42, 3. 4

Đáp: Hồn con khát Chúa Trời, Chúa Trời hằng sống.

1) Như nai rừng khát mong nguồn nước, hồn con khát Chúa, Chúa Trời ôi.

2) Hồn con khát Chúa Trời, Chúa Trời hằng sống; ngày nào con được tìm về ra mắt Chúa Trời!

3) Xin chiếu giãi quang minh và chân thực của Chúa, để những điều đó hướng dẫn con, đưa con lên núi thánh và cung lâu của Ngài.

4) Con sẽ tiến tới bàn thờ Thiên Chúa, đến cùng Thiên Chúa làm cho con được hoan hỉ mừng vui. Với cây cầm thụ, con sẽ ca ngợi Chúa, ôi Chúa là Thiên Chúa của con.

ALLELUIA:

All. All. – Chúng con biết rằng Đức Kitô đã thật sự sống lại từ cõi chết: Lạy Vua chiến thắng, xin thương xót chúng con. – All.

PHÚC ÂM: Ga 10, 11-18

“Mục tử tốt lành thí mạng sống vì chiên”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán: “Ta là mục tử tốt lành. Mục tử tốt lành thí mạng sống vì chiên. Kẻ làm thuê không phải là chủ chiên, và các chiên không phải là của người ấy, nên khi thấy sói đến, nó bỏ chiên mà trốn. Sói sẽ bắt chiên và làm chúng tản mát. Kẻ chăn thuê chạy trốn, vì là đứa chăn thuê, và chẳng tha thiết gì đến đàn chiên. Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta, và các chiên Ta biết Ta. Cũng như Cha biết Ta và Ta biết Cha, và Ta thí mạng sống vì đàn chiên. Ta còn những chiên khác không thuộc đàn này; cả những chiên đó Ta cũng phải mang về đàn; chúng sẽ nghe tiếng Ta. Và sẽ chỉ có một đàn chiên và một chủ chiên. Vì lẽ này mà Cha yêu mến Ta, là Ta thí mạng sống để rồi lấy lại. Không ai cất mạng sống khỏi Ta, nhưng tự Ta, Ta thí mạng sống. Ta có quyền thí mạng sống và cũng có quyền lấy lại. Đó là mệnh lệnh Ta đã nhận nơi Cha Ta”.

Đó là lời Chúa.

********************

Lễ Thánh Giuse Thợ

BÀI ĐỌC I: St 1,26 – 2,3

“Hãy sinh sôi nảy n cho nhiu đầy mt đất, và thng tr nó”.

Bài trích sách Sáng Thế.

Thiên Chúa phán: “Chúng ta hãy dựng nên con người theo hình ảnh giống như Ta, để chúng làm chủ cá biển, chim trời, dã thú khắp mặt đất, và tất cả loài bò sát di chuyển trên mặt đất”. Vậy Thiên Chúa đã tạo thành con người giống hình ảnh Chúa. Người tạo thành con người giống hình ảnh Thiên Chúa. Người tạo thành họ có nam có nữ. Thiên Chúa chúc phúc cho họ và phán rằng: “Hãy sinh sôi nảy nở cho nhiều đầy mặt đất, và thống thị nó, hãy bá chủ cá biển, chim trời và toàn thể sinh vật di chuyển trên mặt đất”.

Thiên Chúa phán: “Ðây Ta ban cho các ngươi làm thức ăn mọi thứ cây cỏ mang hạt giống trên mặt đất, và toàn thể thảo mộc sinh trái có hạt tuỳ theo giống. Ta ban mọi thứ cây cỏ xanh tươi làm thức ăn cho mọi dã thú trên mặt đất, chim trời và toàn thể sinh vật di chuyển trên mặt đất”. Và đã xảy ra như vậy. Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm rất tốt đẹp. Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ sáu. Thế là trời đất và mọi vật trang điểm của chúng đã hoàn thành.

Ngày thứ bảy, Thiên Chúa đã hoàn tất công việc Người đã làm. Và sau khi hoàn tất công việc Người đã làm, thì ngày thứ bảy Người nghỉ ngơi. Người chúc phúc và thánh hoá ngày thứ bảy, vì trong ngày đó Người nghỉ việc tạo thành.

Ðó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 89, 2. 3-4. 12-13. 14 và 16

Ðáp: Lạy Chúa, xin củng cố sự nghiệp tay chúng con làm ra (c. 17c).

1) Ôi Thiên Chúa, trước khi núi non sinh đẻ, trước khi địa cầu và vũ trụ nở ra, tự thuở này qua thuở kia, vẫn có Ngài.

2) Thực ngàn năm ở trước thiên nhan, tựa hồ như ngày hôm qua đã khuất, như một đêm thức giấc cầm canh. Chúa khiến con người trở về bụi đất, Ngài phán: “Hãy trở về gốc, hỡi con người”.

3) Xin dạy chúng con biết đếm ngày giờ, để chúng con luyện được lòng trí khôn ngoan. Lạy Chúa, xin trở lại, chứ còn để tới bao giờ? Xin tỏ lòng xót thương tôi tớ của Ngài!

4) Xin cho chúng con sớm được no phỉ ân tình của Chúa, để chúng con được mừng rỡ hân hoan trọn đời sống chúng con. Xin cho các bầy tôi nhìn thấy sự nghiệp của Chúa, và cho con cháu họ được thấy vinh quang Ngài.

ALLELUIA: Tv 67, 20

All. All. – Chúc tụng Chúa trong mọi ngày, Thiên Chúa là Ðấng Cứu Ðộ chúng ta, Người vác lấy gánh nặng của chúng ta. – All.

PHÚC ÂM: Mt 13, 54-58

“Ông ta không phải là con bác phó mc sao?”

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu trở về quê nhà, giảng dạy dân chúng trong hội đường, họ bỡ ngỡ và nói rằng: “Bởi đâu ông này khôn ngoan và tài giỏi như thế? Ông không phải là con bác thợ mộc ư? Mẹ ông không phải là bà Maria? và Giacôbê, Giuse, Simon và Giuđa không phải là anh em của ông sao? Và tất cả chị em của ông không phải ở nơi chúng ta đó sao? Vậy bởi đâu ông được mọi điều ấy như thế?” Và họ lấy làm gai chướng về Người. Nhưng Chúa Giêsu nói với họ: “Không có tiên tri nào được vinh dự nơi quê hương và nơi nhà mình”. Và Người không làm nhiều phép lạ tại đó, vì họ cứng lòng tin.

Ðó là lời Chúa.

(Nguồn: UBPV/HĐGMVN, ấn bản 1973)

++++++++++++++++++

01/05/2023 – THỨ HAI TUẦN 4 PS

Th. Giu-se thợ

Mt 13,54-58

BÁC THỢ VÀ CON BÁC THỢ

Họ sửng sốt và nói: “Bởi đâu ông ta được khôn ngoan và làm được những phép lạ như thế? Ông ta không phải là con bác thợ sao?” (Mt 13,54-55)

Suy niệm: Những người đồng hương với Chúa Giê-su sửng sốt và ghen tỵ vì người “con bác thợ” lại có thể làm những phép lạ lớn lao và giảng dạy những lời khôn ngoan như thế. Nhưng ‘bác thợ cha’ Giu-se không chỉ dạy cho ‘bác thợ con’ Giê-su cái nghề ‘thợ đụng’ ‘gia truyền’ mà thôi. Phải chăng sứ mạng của thánh Giu-se còn là tỏ cho Đức Giê-su biết phải làm “công việc của Cha trên trời” như thế nào? Phải chăng nhờ sự im lặng của thánh cả, Chúa Giê-su “lên mười hai tuổi” hiểu rằng đây chưa phải lúc, cũng không phải cách để “làm bổn phận ở nhà của Cha” (x. Lc 2,41tt). Trái lại, phải trải qua bấy nhiêu năm ẩn dật tại Na-da-rét, để “học biết thế nào là vâng phục” (Hr 5,8) bên người cha nuôi dưới thế, thì giờ đây, Đức Giê-su mới toàn tâm toàn ý “làm việc của Cha trên trời” (x. Ga 5,17.36), cho tới khi có thể nói từ trên cây thập giá: “Mọi sự đã hoàn tất” (x. Ga 19,28-30).

Mời Bạn: Người ta nói: “Cha nào con nấy.” Đảo lại, có thể chiêm ngắm Đức Giê-su để nhận ra gương thánh cả Giu-se. Việc của người thợ không phải là nói mà là làm. Thánh Giu-se còn dạy phải làm lúc nào và cách nào cho đúng thánh ý của Thiên Chúa. Ham hố thể hiện, hành động nôn nóng là những cách khiến bạn khó nhận biết và thi hành thánh ý Chúa. Trái lại, noi gương thánh cả, bạn luôn cầu nguyện trước khi hành động và hành động thì ưa chuộng âm thầm khiêm tốn.

Sống Lời Chúa: Suy niệm Lời Chúa hằng ngày để nhận biết và thi hành thánh ý Chúa đúng giờ và đúng cách.

Cầu nguyện: Lạy thánh cả Giu-se, xin dạy con nhận biết thánh ý Chúa và thi hành cách mau mắn và khiêm tốn.

(5 Phút Lời Chúa)

++++++++++++++++++

Suy niệm và cầu nguyện

Suy Niệm

Sau khi đã chịu phép Rửa, vào hoang địa để cầu nguyện, ăn chay,
có một ngày nào đó, Đức Giêsu chia tay Đức Mẹ để lên đường.
Lên đường là bỏ lại ngôi làng Nazareth dấu yêu với bao kỷ niệm.
Chính tại đây Ngài đã sống hơn ba mươi năm trong bầu khí gia đình.
Chính tại nơi này, Ngài đã lớn lên quân bình về thân xác, trí tuệ, tâm linh.
Nazareth như một ngôi trường lớn, chuẩn bị cho Ngài chững chạc đi sứ vụ.

Tại đây, Đức Giêsu đã là con bác thợ Giuse (c. 55),
và đã trở thành thợ theo truyền thống cha truyền con nối.
Ngài đã được dạy nghề và hành nghề để kiếm sống cho bản thân và gia đình.
Đức Giêsu là một người thợ tại Nazareth, phục vụ cho nhu cầu dân làng.
Ngài biết đến cái vất vả của công việc chân tay nặng nhọc.
Đức Giêsu không thuộc giới trí thức, thượng lưu, quyền quý.
Lao động làm Ngài gần với người nghèo và thấy sự đơn sơ của tâm hồn họ.
Cũng tại Nazareth, đời sống cầu nguyện của Đức Giêsu được nuôi dưỡng.
Ngài học được lối cầu nguyện một mình ở nơi vắng vẻ.
Đức Giêsu có khả năng thấy sự hiện diện yêu thương của Cha nơi mọi sự,
nơi một bông hoa, nơi chim trời, nơi ánh nắng và cơn mưa.
Tình thân của Con đối với Cha ngày càng trở nên sâu đậm.
Ngài tìm ý Cha mỗi lúc và để Cha chi phối trọn vẹn đời mình.

Hôm nay Đức Giêsu trở về làng cũ sau một thời gian đi sứ vụ.
Ngài vào lại hội đường quen thuộc, gặp lại những khuôn mặt đồng hương.
Không rõ trước đây có lần nào bác thợ Giêsu được mời giảng ở đây chưa.
Nhưng lần này, khi trở về với tiếng tăm từ những phép lạ làm ở nơi khác,
Đức Giêsu đã khiến dân làng sửng sốt vì sự khôn ngoan trong lời giảng dạy.
Hai lần họ đặt câu hỏi: Bởi đâu ông ta được như thế? (cc. 54. 56).
Một câu hỏi rất hay, nếu được tìm hiểu một cách nghiêm túc.
Câu hỏi này có thể đưa họ đi rất xa, để gặp được căn tính của Đức Giêsu.

Tiếc thay, dân làng Nazareth lại không quên được nghề nghiệp của cha Ngài.
Họ nhớ rất rõ họ hàng gần xa của Ngài là mẹ và các anh chị.
Họ có thể kể tên từng anh chị em của Ngài, vì đều là bà con lối xóm (c. 55).
Đức Giêsu là người mà họ biết quá rõ từ thuở ấu thơ.
Làm sao con người bình thường, ít học đó lại có thể là một vị ngôn sứ?
Làm sao từ ngôi làng Nazareth vô danh này lại xuất hiện ngôn sứ được?
Và họ vấp ngã vì Đức Giêsu, nghĩa là họ đã không tin vào Ngài.
Cái biết gần gũi của họ về Ngài lại trở nên thành kiến
khiến họ không thể tiến sâu hơn vào mầu nhiệm con người Đức Giêsu.
Người đồng hương của Ngài đã không trả lời được câu hỏi: Bởi đâu…?

Mỗi con người là một mầu nhiệm mà ta phải khám phá mãi.
Có những mầu nhiệm lớn ẩn trong lớp áo tầm thường.
Dân làng Nazareth đã không nhận ra hồng phúc mà họ đang hưởng.
Chúng ta cũng cần được giải thoát khỏi những cái biết hẹp hòi,
để thấy mình hạnh phúc khi sống với người khác gần bên.

 

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu,
dân làng Nazareth đã không tin Chúa
vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công.
Các môn đệ đã không tin Chúa
khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự.
Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa
chỉ vì Chúa sống như một con người,

Cũng có lúc chúng con không tin Chúa
hiện diện dưới hình bánh mong manh,
nơi một linh mục yếu đuối,
trong một Hội thánh còn nhiều bất toàn.

Dường như Chúa thích ẩn mình
nơi những gì thế gian chê bỏ,
để chúng con tập nhận ra Ngài
bằng con mắt đức tin.

Xin thêm đức tin cho chúng con
để khiêm tốn thấy Ngài
tỏ mình thật bình thường giữa lòng cuộc sống.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

(phutcaunguyen.net)

++++++++++++++++++

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

1 THÁNG NĂM

Sự Đảm Bảo Của Thiên Chúa

Để hiểu dụ ngôn về Người Mục Tử Tốt Lành, chúng ta cần xác tín khả năng quán thông trước mọi sự của Thiên Chúa và giá trị vô hạn của chúng ta trước mặt Ngài: “Chúng sẽ không bao giờ hư mất. Không ai cướp được chúng khỏi tay tôi … Không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha” (Ga 10, 28 – 29). Lời khẳng định thật mạnh mẽ. Có thể nói, toàn bộ tấn kịch cứu độ được phản ảnh trong những lời này.

Đức Kitô nói rõ: “Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì cao trọng hơn tất cả … Tôi và Chúa Cha là một” (Ga 10, 29 – 30). Xuyên qua Thập Giá và Phục Sinh, mối hiệp nhất thần linh của Chúa Cha và Chúa Con được bày tỏ trọn vẹn. Mối hiệp nhất này được diễn tả trong công cuộc sáng tạo con người, trong sự quan phòng cứu độ của Thiên Chúa, và trong hành động cứu chuộc của Ngài.

Trong hành động cứu chuộc, một cách nào đó, Thiên Chúa dấn mình trọn vẹn để đảm bảo rằng những gì mà Ngài đã tạo nên theo hình ảnh Ngài và giống như Ngài sẽ không bị tước mất khỏi Ngài. Thiên Chúa đảm bảo rằng hành động cứu độ của tình yêu vĩnh cửu ấy sẽ được hoàn tất nơi con người.

Giáo Hội là chứng nhân của tình yêu ấy. Giáo Hội là chứng nhân của công cuộc cứu độ con người được thực hiện nơi Đức Kitô. Giáo Hội là chứng nhân của Mầu Nhiệm Phục Sinh – qua cuộc phục sinh này, sứ mạng của Đấng Mục Tử Tốt Lành đã được thực hiện với tầm mức sâu xa nhất. Trong Sách Công Vụ Tông Đồ, chúng ta nhận được cùng một lời chứng ấy khi Phao-lô và Barnaba nhắc lại những lời trong Sách Ngôn Sứ Isaia: “Ta sẽ đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ đến tận cùng cõi đất” (Cv 13, 47).

– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –

Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác

LIFT UP YOUR HEARTS

Daily Meditations by Pope John Paul II

+++++++++++++++++

Lời Chúa Trong Gia Đình

Ngày 01/5

Lễ Thánh Giuse Thợ

Cv 11, 1-8;  Ga 10, 11-18.

Lời Suy niệm: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi thì biết tôi, như Chúa Cha biết tôi, và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.”

          Trong tuần lễ Chúa Chiên Lành, mỗi người chúng ta đều được Giáo Hội nhắc lại cho chúng ta nhớ về Chúa Giêsu và Giáo Hội Người thiết lập vì sự sống của toàn thể nhân loại. Chúa Giêsu đã công khai tuyên bố: “Tôi là cửa để đàn chiên ra vào và được sống” Ngay lúc này đây chúng ta cũng được nghe Chúa nói: “Tôi là Mục Tử nhân lành” và Người còn xác nhận: “Tôi biết chiên của tôi, và chiên tôi biết tôi” Và Người còn nói rõ: “Tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” Để bảo vệ sự sống cho những ai thuộc về Người. Và cần đến Người.

          Lạy Chúa Giêsu. Được Chúa chăn dắt, bảo vệ và nuôi sống, là niềm vinh dự, hạnh phúc và vui sướng của chúng con. Xin cho chúng con luôn biết và thuộc về Chúa, để chúng con được vui sống bình an, hạnh phúc ngay trong hiện tại. Amen.

Mạnh Phương

+++++++++++++++++

Gương Thánh Nhân

Ngày 01-05: Thánh GIUSE THỢ

Thánh Giuse. Cả hai bản của thánh Mathêu và thánh Luca, đều nói rằng: Ngài thuộc giòng họ David. Nhưng vào thời khởi đầu công nguyên, miêu duệ cùng giòng giống vương giả này chẳng còn danh giá và giàu có gì. Vài điều chúng ta biết được về thánh Giuse qua việc dâng Chúa Giêsu vào đền thờ (Lc 2,24), cho biết rằng Ngài là một người nghèo khó, không có đặc quyền nào. Gia đình Ngài vốn thuộc về Belem đất Giudêa, nhưng đã dời về Nazareth đất Galilea nơi Ngài sinh sống bằng nghề thợ mộc (Mt 13,55).

Con người bình thường được nhắc tới với một chút khinh thường như “bác thợ mộc” ấy lại là gương mẫu cho mọi Kitô hữu và cách riêng cho những Kitô hữu sống nghề lao động tay chân. Ngài thật là người công chính như một dụng cụ nhẫn nại của Thiên Chúa, thực hiện mọi điều Chúa đòi hỏi với một đức tin không nghi nan. Ngài sốt sắng tuân giữ luật Do thái, trung thành bảo vệ gia đình, Ngài có trách nhiệm, chấp nhận mọi khó khăn mau mắn vâng theo lệnh truyền, vững chí dưới cơn thử thách, luôn lặng lẽ đáng kính phục. Nhân tính hấp dẫn của Chúa Kitô với tính cương trực, lòng can dảm và đức bác ái sâu xa, chắc chắn đã được phát triển theo gương mẫu và sự nuôi dưỡng Người nhận được từ Thánh cả Giuse.

Dầu vậy, sự cao cả của thánh nhân ở một mức độ sâu xa hơn từ ngữ vẫn áp dụng cho Người là “Cha nuôi Chúa Giêsu”. Từ ngữ này gợi lên một liên hệ bóng gió nào đó với Chúa Kitô. Đúng hơn có lẽ phải nói rằng thánh Giuse là Cha của Chúa Giêsu như các sách Tin Mừng đã là ngần ngại nói như vậy, Chúa Giêsu thực là hoa quả của cuộc hôn nhân mà thánh Giuse giữ vai trò thiết yếu. Nếu tình phụ tử của Ngài là trinh khiết thì không phải vì thế mà mối tình ấy thấp hèn hơn tình phụ tử về thể xác. Liên hệ của người cha trinh khiết với Chúa Giêsu cũng tương tự như mối liên hệ của Người Mẹ Trinh khiết đối với Người. Cả Đức Mẹ và thánh Giuse đều góp phần hoàn hảo của mình vào mầu nhiệm nhập thể. Phần đóng góp này còn mở rộng tới thân thể mầu nhiệm của Ngôi Lời hoá thành nhục thể là Giáo hội. Thánh Giuse vẫn tiếp tục vai trò của mình trong việc nuôi dưỡng bảo vệ và hướng dẫn Giáo hội.

Bởi đó năm 1870, Đức Giáo Hoàng Piô IX tuyên xưng thánh Giuse là Đấng bảo trợ của cả Hội Thánh khắp hoàn cầu. Và đặt lễ kính vào ngày 19 tháng 3 mỗi năm.

Từ vai trò đặc biệt của thánh Giuse đối với toàn thể Hội Thánh, thánh nhân chắc chắn cũng liên hệ đến từng người trong thân thể mầu nhiệm này. Thánh nhân đã thi hành sứ mạng của mình trong cuộc sống lao động như người thợ. Do đó, Ngài có một mối liên hệ đặc biệt với lớp người đông đảo sống bằng sức lao động chân tay của mình. Năm 1955, Đức Piô XII đã lập nên lễ thánh Giuse và đặt ngày kính nhớ vào mồng 1 tháng 5, ngày mà nhiều nước chọn cử hành lễ lao động. Niên biểu không hoàn toàn phổ quát nên lễ thánh Giuse Thợ cũng được để tự do.

Tuy nhiên, chính Đức Giáo Hoàng đã nói tới ý nghĩa của lễ này: – “Chắc hẳn chúng ta phải hân hoan vì Người thợ vô danh ở Nazareth chẳng những là hiện thân cho giá trị lao động tay chân trước mặt Chúa và Giáo hội mà còn là vị Giám hộ mẫn tiệp của mọi người và của các gia đình các bạn lao động nữa”.

Để nói về quyền năng của Đấng bảo trợ, Ngài tiếp: – “Không có Vị Giám hộ nào có đủ khả năng Linh nghiệm truyền thông Phúc âm cho đời sống thợ thuyền hơn bằng thánh Giuse thợ”

Mừng lễ thánh Giuse thợ, chúng ta hãy nhớ lời vị Cha chung, Đức Piô XII nhắn nhủ, trong bài diễn văn đọc vào ngày lễ thánh Giuse thợ đầu tiên này: – “Nếu các con muốn được gần Chúa Kitô, Cha nhắc nhớ các con hôm nay : Ite ad Joseph – Hãy đến với Giuse” (St 41,55)

(daminhvn.net)

+++++++++++++++++

01 Tháng Năm

Giuse Trong Xóm Nhỏ Ðiêu Tàn 

Giuse trong xóm nhỏ điêu tàn…”

Có lẽ không một người công giáo Việt Nam nào mà không thuộc nằm lòng bài thánh ca trên đây của cố linh mục Ðạo Minh, dòng thánh Giuse… Tác giả đã sáng tác ca khúc trong giai đoạn đau thương của đất nước giữa hai thập niên 40 – 50 và cũng như thánh Giuse, đã ra đi âm thầm trong một cái chết vô cùng bí ẩn sau ngày thay đổi chế độ.

Lời ca đơn sơ xuất phát từ cuộc sống lam lũ qua mọi thời đại của người Việt Nam. Nhưng tâm tình đó lại càng hợp với hoàn cảnh sống của người Việt Nam hơn bao giờ hết. Với khẩu hiệu lao động là vinh quang… dường như sau năm 1975, người Việt Nam nào cũng đã hơn một lầm mồ hôi nhễ nhại với cây cuốc, cái cày hoặc còng lưng trên chiếc xích lô đạp…

Trong cảnh sống đó, có lẽ ai trong chúng ta cũng cảm thấy gần gũi với thánh Giuse, vị thánh được mệnh danh là người công chính, nhưng đồng thời cũng là con người thinh lặng nhất trong Phúc Âm. Có rất nhiều thứ thinh lặng. Thinh lặng của những người câm điếc, bị trói buộc trong bất lực tự nhiên của mình. Thinh lặng trong cô đơn buồn chán. Thinh lặng trong căm thù oán ghét. Thinh lặng trong khép kín ích kỷ. Thinh lặng trong kiêu hãnh trước đe dọa, thử thách…

Thánh Giuse đã thinh lặng trong tinh thần chấp nhận và chiêm niệm. Trong cuộc sống âm thầm tại Nagiaréth, thánh Giuse đã thinh lặng để chiêm ngưỡng mầu nhiệm nhập thể kỳ diệu trong con người của Chúa Giêsu. Cuộc đời của thánh Giuse đã bắt đầu bằng một giấc mơ để rồi tiếp tục trong một giấc mơ triền miên. Nhưng đây không phải là một giấc mơ của mộng ảo phù du, mà là một giấc mơ trong chiêm niệm về hiện thực…
Trong sự thinh lặng chiêm niệm ấy, từng biến cố nhỏ của cuộc sống đã mang nặng sự hiện diện và tác động của Thiên Chúa.

Hôm nay là ngày lao động Quốc tế. Ngày lao động Quốc tế này gợi lại cả một quá trình tranh đấu của giới thợ thuyền của Âu Châu vào đầu thế kỷ vừa qua. Từ những bất công xã hội, cuộc đấu tranh của giới thợ thuyền đã làm trồi dậy phẩm giá của con người và giá trị của sự cần lao… 

Ðối với người Kitô, ngày Quốc tế lao động này gắn liền với con người của Thánh cả Giuse, quan thầy và gương mẫu của giới cần lao. Do đó ngày hôm nay đối với chúng ta phải là một ngày của suy tư và cầu nguyện. Suy tư về ý nghĩa và giá trị những công việc hằng ngày của chúng ta. Cầu nguyện cho mọi người biết nhận ra sự hiện diện và tác động và lời kêu mời của Chúa trong cuộc sống…

(Lẽ Sống)

++++++++++++++++++

Lời Chúa Mỗi Ngày

Thứ Hai – Tuần IV – PS

Bài đọc: Acts 11:1-18; Jn 10:1-10.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Con người phải vâng theo Kế Hoạch của Thiên Chúa.

Có hai giai đọan trong Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa: Trong giai đoạn thứ nhất, Ngài chọn dân Do-thái để chuẩn bị cho Đấng Thiên Sai tới; sau đó, đến giai đọan thứ hai, Tin Mừng Cứu Độ được loan báo cho tất cả mọi người. Nhiều người Do-thái chỉ dừng lại ở giai đọan thứ nhất. Họ tin chỉ có họ mới là con Thiên Chúa và xứng đáng được hưởng ơn Cứu Độ; Dân Ngoại không phải là con Thiên Chúa, họ xứng đáng để chịu hình phạt và bị hư mất.

Các Bài Đọc hôm nay xoay quanh tình thương Thiên Chúa và Kế Hoạch Cứu Độ dành cho mọi người. Trong Bài Đọc I, Sách CVTĐ mô tả sự xung đột giữa các môn đệ về việc giao tiếp và chấp nhận Dân Ngoại vào đạo thánh Chúa. Phêrô phải dùng thị kiến chiếc lưới từ trời và kinh nghiệm mục vụ để thuyết phục họ: Trong Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa, Dân Ngoại cũng được lãnh nhận Thánh Thần và ơn sám hối để được sự sống đời đời. Loài người chúng ta không thể ngăn cản Kế Hoạch của Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu tuyên bố Ngài là Mục Tử Tốt Lành đến để qui tụ tất cả các chiên và cho chúng được sống dồi dào.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Ơn Cứu Độ được Thiên Chúa ban cho tất cả mọi người.

1.1/ Xung đột xảy ra giữa người Do-thái và ông Phêrô: Theo truyền thống Do-thái, họ sống cách biệt với các dân tộc khác, và không bao giờ vào nhà của Dân Ngoại. Các người Do-thái chỉ trích Phêrô đã giao tiếp với Dân Ngoại, vào nhà những kẻ không cắt bì, và ăn uống với họ. Bấy giờ ông Phêrô trình bày cho họ biết thị kiến mà ông đã chứng kiến, ông nói: Tôi đang cầu nguyện tại thành Joppa, trong lúc xuất thần, tôi thấy thị kiến này: Có một vật gì sà xuống, trông như một tấm khăn lớn buộc bốn góc, từ trời thả xuống đến tận chỗ tôi. Nhìn chăm chú và xem xét kỹ, tôi thấy các giống vật bốn chân sống trên đất, các thú rừng, rắn rết và chim trời. Và tôi nghe có tiếng phán bảo tôi: “Phêrô, đứng dậy, làm thịt mà ăn!” Tôi đáp: “Lạy Chúa, không thể được, vì những gì ô uế và không thanh sạch không bao giờ lọt vào miệng con!” Có tiếng từ trời phán lần thứ hai: “Những gì Thiên Chúa đã tuyên bố là thanh sạch, thì ngươi chớ gọi là ô uế! Việc ấy xảy ra đến ba lần, rồi tất cả lại được kéo lên trời.”

Thị kiến này đòi Phêrô phải xét lại truyền thống Do-thái của mình: Vì tất cả những gì Thiên Chúa dựng nên đều tốt lành và thanh sạch, ông không thể giữ thái độ khinh thường Dân Ngoại, coi họ là dân không cắt bì, nô lệ, hay không thanh sạch.

1.2/ Thiên Chúa cũng ban cho các Dân Ngoại ơn sám hối để được sự sống!

(1) Tin Mừng được rao truyền cho Dân Ngoại: Phêrô tiếp tục kể: “Ngay lúc đó, có ba người đến nhà chúng tôi ở: họ được sai từ Caesarea đến gặp tôi. Thần Khí bảo tôi đi với họ, đừng ngần ngại gì. Có sáu anh em đây cùng đi với tôi. Chúng tôi đã vào nhà ông Cornelius. Ông này thuật lại cho chúng tôi nghe việc ông đã thấy thiên sứ đứng trong nhà ông và bảo: “Hãy sai người đi Joppa mời ông Simon, cũng gọi là Phêrô. Ông ấy sẽ nói với ông những lời nhờ đó ông và cả nhà ông sẽ được cứu độ.” Cornelius là viên Đại Đội Trưởng Roma, tuy là Dân Ngoại, nhưng ông đối xử rất tốt với người Do-thái. Nhân cơ hội đó, Phêrô đã rao giảng Tin Mừng về Đức Kitô cho tất cả những người trong gia đình Cornelius. Điều đáng chú ý là Thiên Chúa hoạt động trong biến cố này: Ngài gởi thiên sứ tới báo tin cho Cornelius, đồng thời dùng Thần Khí tác động trên Phêrô, để thúc đẩy ông cùng đi với 3 sứ giả của Cornelius.

(2) Không ai có thể ngăn cản Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa: Tôi vừa mới bắt đầu nói, thì Thánh Thần đã ngự xuống trên họ, như đã ngự xuống trên chúng ta lúc ban đầu. Tôi sực nhớ lại lời Chúa nói rằng: “Ông Gioan thì làm phép rửa bằng nước, còn anh em thì sẽ được rửa trong Thánh Thần. Vậy, nếu Thiên Chúa đã ban cho họ cùng một ân huệ như Người đã ban cho chúng ta, vì chúng ta tin vào Chúa Giêsu Kitô, thì tôi là ai mà dám ngăn cản Thiên Chúa?” Phêrô nhắc lại biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các Tông-đồ trong ngày Lễ Ngũ Tuần; và nhờ biến cố này, Phêrô nhận ra Thiên Chúa ban Thánh Thần cho tất cả mọi người, chứ không riêng gì những người Do-thái. Sau đó, Phêrô làm Phép Rửa cho tất cả gia đình ông Cornelius.

Nghe Phêrô trình bày đầu đuôi, người Do-thái mới hiểu ra. Họ tôn vinh Thiên Chúa và nói: “Vậy ra Thiên Chúa cũng ban cho các Dân Ngoại ơn sám hối để được sự sống!”

2/ Phúc Âm: Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào.

2.1/ Chúa Giêsu là Cửa chuồng chiên: Trong các làng mạc của Do-thái, họ có chỗ chung để nhốt tất cả các chiên trong làng ban đêm. Chỗ nhốt này chỉ có một cửa duy nhất có khóa, và chìa khóa chỉ người giữ cửa mới có. Người giữ cửa biết tất cả các người chăn chiên, và chỉ mở cửa cho những người này. Tuy nhiên, cũng có những người chăn chiên không vào làng, nhưng giữ chiên ngoài cánh đồng như tại Bethlehem. Trong trường hợp này, người chăn chiên sẽ tìm những hang đá mà chỉ có một ngõ ra vào. Đêm đến, họ sẽ lùa chiên vào trong hang đá, và họ sẽ nằm ngủ ngay cửa ra vào. Trong trình thuật hôm nay, Chúa Giêsu đề cập đến cả hai trường hợp:

(1) “Thật, tôi bảo thật các ông: Ai không đi qua cửa mà vào ràn chiên, nhưng trèo qua lối khác mà vào, người ấy là kẻ trộm, kẻ cướp. Còn ai đi qua cửa mà vào, người ấy là mục tử. Người giữ cửa mở cho anh ta vào, và chiên nghe tiếng của anh; anh gọi tên từng con, rồi dẫn chúng ra.”

(2) “Thật, tôi bảo thật các ông: Tôi là Cửa cho chiên ra vào. Mọi kẻ đến trước tôi đều là trộm cướp; nhưng chiên đã không nghe họ. Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ.”

2.2/ Liên hệ giữa mục tử và chiên: Có một sự liên hệ mật thiết giữa mục tử và đàn chiên. Người mục tử biết tất cả các chiên của mình và thói quen của từng con một; nhiều mục tử còn đặt tên riêng cho mỗi con như “vằn” nếu con nào có những vằn quanh như sóng trên người, “trắng,” “đen,” “khoang”… Đồng thời, các con chiên cũng biết đánh hơi, hay nhận ra chủ của chúng nhờ tiếng gọi đặc biệt, hay tiếng chuông, tiếng kèn, tiếng sáo mà người mục tử đeo trên mình. Đó là lý do tại sao Chúa nói: “Khi đã cho chiên ra hết, anh ta đi trước và chiên đi theo sau, vì chúng nhận biết tiếng của anh. Chúng sẽ không theo người lạ, nhưng sẽ chạy trốn, vì chúng không nhận biết tiếng người lạ.”

Chúa cũng đề cập đến sự khác biệt giữa Mục Tử và trộm cướp: “Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá huỷ. Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào.” Người chăn chiên thật phải chịu trách nhiệm về đàn chiên của mình với chủ; nếu chiên bị ăn thịt, anh phải có bằng chứng rõ ràng để trình cho chủ. Người chăn chiên đích thực phải chăm sóc bằng cách tìm những đồng cỏ xanh và nước trong lành cho chiên ăn uống. Anh phải bảo vệ chiên khỏi mọi nguy hiểm như: chó sói, sư tử, kẻ trộm, kẻ cướp… Qua hình ảnh thân thương này, Chúa Giêsu muốn ví Ngài như Mục Tử Tốt Lành và các tín hữu được ví như đàn chiên. Ngài đến để cho chúng ta được sống, và sống dồi dào.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Tất cả mọi người đều có thể nhận được ơn Cứu Độ trong Kế Hoạch của Thiên Chúa, và Tin Mừng cần được loan báo cho mọi dân tộc.

– Để được hưởng ơn Cứu Độ, chúng ta cần biết lắng nghe và tin tưởng vào Đức Kitô, Người Mục Tử Tốt Lành mà Thiên Chúa gởi tới con người.

– Người mục tử tốt lành là người phải vào qua Cửa là Đức Kitô: họ phải nhân danh Đức Kitô giảng dạy, chữa lành; và bắt chước Đức Kitô để săn sóc và bảo vệ đòan chiên của mình.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

****************