Ngày thứ hai (15-11-2021) – Trang suy niệm

14/11/2021

Lời Chúa Hôm Nay

Thứ Hai Tuần XXXIII Mùa Thường Niên Năm lẻ

BÀI ĐỌC I: 1 Mcb 1, 11-16. 43-45. 57-60. 65-67

“Dân Israel phải chịu một cơn thịnh nộ khủng khiếp”.

Trích sách Macabê quyển thứ nhất.

Trong những ngày ấy, bởi dòng các vua Hy-lạp sinh ra một mầm mống tội lỗi, là Antiôcô Êpiphan, con vua Antiôcô, trước kia bị bắt làm con tin tại Rôma; năm vương quốc Hy-lạp một trăm ba mươi bảy, ông lên ngôi vua.

Thời đó từ Israel cũng xuất hiện một số người bất lương mê hoặc được nhiều người, chúng nói rằng: “Này, ta hãy giao ước với các dân ở chung quanh chúng ta, vì từ ngày chúng ta đoạn giao với các dân ấy, chúng ta đã gặp nhiều tai hoạ”. Họ cho lời nói ấy là đúng. Một số trong dân chúng hối hả đi yết kiến nhà vua và được nhà vua cho phép tuân giữ các luật lệ của dân ngoại. Họ liền xây cất một thao trường ở Giêrusalem theo tập quán của dân ngoại; họ tìm cách huỷ bỏ vết tích của phép cắt bì, chối bỏ Giao Ước thánh để rồi giao ước với kẻ ngoại. Họ tự bán mình để làm sự dữ.

Vua Antiôcô ra chiếu chỉ khắp nước truyền cho mọi dân hợp thành một dân và mỗi dân phải bỏ tục lệ riêng mình; tất cả các dân ngoại đều tuân lệnh nhà vua. Nhiều người Israel cũng sẵn sàng theo việc phượng tự của nhà vua, họ liền hiến tế cho ngẫu tượng và phế bỏ ngày sabbat.

Ngày rằm tháng Kislêu, năm một trăm bốn mươi lăm, vua Antiôcô đặt một ngẫu tượng ghê tởm ngay trên bàn thờ dâng của lễ toàn thiêu. Người ta cũng lập nhiều bàn thờ khác trong các thành lân cận của Giuđa: người ta đốt hương cúng tế trước cửa nhà và ở các công trường. Hễ gặp thấy sách luật nào, họ xé nát và đem đốt đi. Nếu người ta bắt gặp sách giao ước trong nhà người nào hoặc bắt gặp kẻ nào giữ Luật Chúa, thì kẻ ấy sẽ bị xử tử theo đúng chiếu chỉ của nhà vua. Nhưng cũng có nhiều người Israel tỏ ra kiên quyết, và nhất định không ăn của gì dơ nhớp; họ thà chết chẳng thà làm cho mình ra ô uế bởi của ăn dơ và phạm đến Giao Ước thánh, và quả thực họ đã chết. Dân Israel phải chịu một cơn thịnh nộ khủng khiếp. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 118, 53. 61. 134. 150. 155. 158

A+B= Lạy Chúa, xin bảo toàn cho con sống, và con sẽ tuân giữ lời nghiêm huấn của Ngài (x. c. 88).

  1. A) Con nổi cơn uất hận vì những người tội lỗi, bọn chúng bỏ rơi luật pháp của Ngài.   
  2. B) Thừng chão bọn ác nhân đã trói buộc con, nhưng con chẳng lãng quên luật pháp của Ngài.    
  3. A) Xin Chúa cứu con khỏi người ta áp bức, để con tuân giữ các huấn lệnh của Ngài.  
  4. B) Những kẻ bách hại con cách độc ác đang tiến lại gần, bọn chúng sống xa pháp luật của Chúa.   
  5. A) Ơn cứu độ của Chúa xa bọn ác nhân, vì chúng chẳng lo giữ những thánh chỉ của Ngài.  
  6. B) Nhìn thấy những kẻ phản bội mà con chán nản, vì chúng không tuân giữ lời sấm của Ngài.

A+B= Lạy Chúa, xin bảo toàn cho con sống, và con sẽ tuân giữ lời nghiêm huấn của Ngài (x. c. 88).

ALLELUIA: Lc 16, 31 – Các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể xứng đáng đứng vững trước mặt Con Người. – Alleluia. 

PHÚC ÂM: Lc 18, 35-43

“Ngươi muốn Ta làm gì cho ngươi? – Lạy Ngài, xin cho tôi được xem thấy”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi Chúa đến gần thành Giêricô, thì có một người mù ngồi ăn xin bên vệ đường. Khi nghe tiếng đám đông đi qua, anh liền hỏi có chuyện gì đó. Người ta nói cho anh biết có Đức Giêsu Nazareth đang đi qua. Bấy giờ anh liền kêu lên rằng: “Lạy ông Giêsu con vua Đavít, xin thương xót tôi!” Những người đi trước mắng bảo anh nín đi, nhưng anh lại càng kêu lớn tiếng hơn: “Lạy con vua Đavít, xin thương xót tôi!” Vậy Chúa Giêsu dừng lại, truyền dẫn anh đến cùng Người. Khi anh đến gần bên Người, Người hỏi anh: “Ngươi muốn Ta làm gì cho ngươi?” Anh thưa: “Lạy Ngài, xin cho tôi được xem thấy”. Chúa Giêsu bảo anh: “Hãy nhìn xem, lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi”. Tức khắc anh thấy được và anh đi theo Người, và ca tụng Thiên Chúa. Thấy vậy toàn dân liền ca ngợi Thiên Chúa. Đó là lời Chúa.

(thanhlinh.net)

++++++++++++++++++

15/11/2021 – THỨ HAI TUẦN 33 TN

Th. An-be-tô Cả, giám mục, tiến sĩ HT

Lc 18,35-43

ĐIỀU CHÚA MUỐN

“Anh muốn tôi làm gì cho anh?” (Lc 18,40)

Suy niệm: Theo thói đời, người ta thường đánh giá người khác ở chỗ quyền cao chức trọng, giàu có, thế lực. Vì thế, những người nghèo hèn, tứ cố vô thân, hoặc bệnh hoạn tật nguyền, thường bị coi là cùng đinh mạt hạng, bị khinh dể, xua đuổi… như những người thừa trong xã hội. Anh mù trong Tin Mừng hôm nay là một người trong số đó. Vì bị mù anh sống nhờ sự bố thí của người khác. Đám đông vô cảm đến tàn nhẫn khi ngáng đường một người mù như anh; họ tự coi mình có quyền quát nạt anh khi anh kêu cứu: “Lạy ông Giê-su, xin thương xót tôi!” Nhưng Chúa Giê-su thì quan tâm đến anh, Ngài coi trọng và sẵn sàng đáp ứng điều anh khẩn cầu: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” Anh muốn được thấy. Thật may mắn cho anh: điều anh muốn cũng là điều Chúa muốn. Và anh đã được toại nguyện vì: “Lòng tin của anh đã cứu chữa anh.”

Mời Bạn: Điều Chúa muốn là bạn sống đúng phẩm giá của mình để bạn được hạnh phúc. Thiên Chúa không muốn ai bị loại trừ. Ngài luôn quan tâm chăm sóc, lắng nghe lời bạn cầu nguyện. Giữa sự xô bồ vô cảm của đám đông, Chúa vẫn thấy, vẫn nghe, vẫn cảm được lời nguyện cầu của bạn. Nhưng bạn có đang muốn điều Chúa muốn không? Bạn có thái độ quan tâm của Chúa đối với những người nghèo khổ, bệnh tật, những người yếu thế, bị đẩy ra ngoài lề trong cuộc sống xã hội này không?

Sống Lời Chúa: Nghĩ đến một người sống gần bạn và tự vấn: “Chúa muốn tôi làm gì cho người đó?”

Cầu nguyện: Lạy Chúa, mọi sự con có đều là do Chúa ban. Xin giúp con biết quan tâm chia sẻ với những anh chị em nghèo khổ, bất hạnh xung quanh mình.

(5 Phút Lời Chúa)

++++++++++++++++++

Suy niệm và cầu nguyện

Suy niệm:

Trong những năm hành đạo, Đức Giêsu đã chữa một số người mù.
Vào những ngày cuối đời, khi trên đường lên Giêrusalem lần cuối,
Ngài đã chữa cho anh mù ở Giêricô.
Giêricô được coi là thành phố cổ xưa nhất, không xa Giêrusalem,
nằm ở hạ lưu sông Giođan, thấp hơn mực nước biển 300 mét.
Anh mù ở Giêricô kiếm sống bằng cách ngồi bên vệ đường ăn xin.
Anh vừa bị tách biệt với người khác, vừa bị lệ thuộc vào người khác.

Mất khả năng nhìn, nhưng anh vẫn còn khả năng nghe và nói.
Để gặp được Đức Giêsu, anh đã tận dụng mọi khả năng còn lại.
Anh nghe tiếng đám đông đi qua, tiếng chân người rộn ràng (c. 36).
Anh tò mò hỏi xem chuyện gì vậy.
Khi biết là Đức Giêsu Nadarét đang đi ngang qua,
anh thấy ngay điều mình chờ đợi từ lâu, nay đã đến.
Vị ngôn sứ nổi tiếng này anh nghe đồn đã làm bao phép lạ lẫy lừng.
Ngay cả người mù bẩm sinh cũng được Ngài làm cho sáng mắt.
Cơ hội ngàn năm một thuở đã đến rồi.
Anh tự nhủ mình không thể nào để vuột mất.
Nhưng làm thế nào để Đức Giêsu lưu tâm đến anh?
Làm thế nào để cho Ngài dừng lại?

Vũ khí mạnh nhất và gần như duy nhất của anh, là tiếng kêu.
Chỉ tiếng kêu của anh mới lôi kéo được sự chú ý của Ngài,
và báo hiệu cho Ngài về sự hiện diện của anh.
Anh kêu thật to tên Ngài dù không biết Ngài ở đâu.
“Lạy ông Giêsu, Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi” (c. 38).
Hãy nghe tiếng kêu của anh giữa tiếng đám đông ồn ào cười nói.
Anh kêu tiếng kêu của trái tim, đầy tin tưởng, hy vọng, tha thiết.
Nhưng tiếng kêu ấy lại bị bắt phải im đi, có thể vì sợ gây phiền hà.
Anh mù chẳng những đã không vâng lời, lại còn kêu to hơn nữa.
Rồi tiếng kêu của anh cũng đến tai Đức Giêsu, khiến Ngài dừng chân.
Đức Giêsu muốn gặp người đã gọi tên mình để xin thương xót (c. 40).
Cuộc hạnh ngộ bắt đầu bằng câu hỏi anh mong từ lâu:
“Anh muốn tôi làm gì cho anh?” (c. 41).
Câu trả lời quá hiển nhiên: “Lạy Ngài, xin cho tôi được thấy.”
Khi được sáng mắt, anh không phải ngồi bên vệ đường như trước đây.
Anh đã nhập vào đám đông những người theo Chúa và đi trên đường.

Nếu hôm nay Chúa hỏi tôi: “Anh chị muốn tôi làm gì cho anh chị?”,
tôi sẽ trả lời Ngài ra sao? tôi sẽ xin Ngài điều gì?
Ơn biết mình mù và muốn thấy rõ chính mình, là một ơn lớn.
Có người mù, không biết mình mù, nên vẫn thản nhiên ở lại trong cảnh mù.
Người ấy có thể vô tội, nhưng có nguy cơ gây hại cho tha nhân (Mt 15, 14).
Lại có người cố ý không muốn thấy, cố ý mù để khỏi phải thay đổi.
Họ không thấy được cái xà trong mắt mình (Mt 7, 3).
Xin Chúa giúp chúng ta xóa những nguyên nhân gây mù,
đó là dục vọng của đôi mắt (1 Ga 2, 16), là thành kiến về người khác.
Xin Chúa giúp chúng ta nhờ đối thoại mà ra khỏi tình trạng mù xem voi,
và được Thánh Thần đưa vào sự thật trọn vẹn (Ga  16, 13).
Ước gì chúng ta khiêm tốn đến với Chúa Giêsu
mà “mua thuốc xức mắt để thấy được” (Kh 3, 18).

Cầu nguyện:

Như người mù ngồi bên vệ đường
xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy.

Xin cho con được thấy bản thân
với những yếu đuối và khuyết điểm,
những giả hình và che đậy.

Cho con được thấy Chúa hiện diện bên con
cả những khi con không cảm nghiệm được.

Xin cho con thực sự muốn thấy,
thực sự muốn để cho ánh sáng Chúa
chiếu giãi vào bóng tối của con.

Như người mù ngồi bên vệ đường
xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

(phutcaunguyen.net)

++++++++++++++++++

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

15 THÁNG MƯỜI MỘT

Đức Giêsu Trân Trọng Những Thực Tại Đời Thường

Tiệc cưới Cana trong Tin Mừng Gioan là một câu chuyện hùng hồn nổi bật trên bối cảnh giáo lý mạc khải. Ở đầu sứ vụ mêsia của Người, Đức Giêsu Na-da-rét xuất hiện ở Cana, xứ Galilê, để dự một đám cưới. Người không đến đó một mình. Mẹ Người và các môn đệ Người cùng có mặt với Người ở đó.

Điều ấy cho thấy tầm quan trọng mà Đức Giêsu gán cho biến cố này. Tuy nhiên, thoạt nhìn, chúng ta không khỏi ngạc nhiên. Cả bốn Sách Tin Mừng đều trình bày Đức Giêsu như một người dốc hết tâm lực để phụng sự Cha trên trời (Lc 2,49). Chính Người nói rằng sứ mạng của Người qui hướng vào việc thiết lập Nước Thiên Chúa, không phải một vương quốc trên cõi đời này.

Vì thế, việc Người tham dự một đám cưới có thể thoạt thấy như chẳng ăn nhập gì với tiếng gọi và với lối sống của Người. Nhưng sự thật không phải thế. Thầy Chí Thánh muốn dạy chúng ta biết cách định hướng các thực tại trần gian này qui hướng về Vương Quốc của Thiên Chúa. Đám cưới ở Cana là một biến cố nêu bật giáo huấn này. Đức Giêsu liên đới với các thực tại đời thường của cuộc sống con người để giúp chúng ta hiểu rằng những giá trị đích thực của con người có thể và phải phục vụ cho một định mệnh siêu vượt trên cuộc sống trần gian này.

– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –

Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác

LIFT UP YOUR HEARTS

Daily Meditations by Pope John Paul II

+++++++++++++++++

Lời Chúa Trong Gia Đình

NGÀY 15/11

Thánh Albertô Cả, giám mục

Tiến sĩ Hội Thánh

1Mcb 1, 10-15. 41-43. 54-57. 62-64; Lc 18, 35-43.

LỜI SUY NIỆM: “Lạy ông Giêsu, Con vua Đavít, xin rủ lòng thương tôi!” Những người đi đầu quát nạt, bảo anh ta im đi; nhưng anh càng kêu lớn tiếng: “Lạy Con vua Đavít, xin rủ lòng thương tôi!” Đức Giêsu dừng lại, truyền dẫn anh ta đến.

          Đây là tiếng kêu của người mù, ngồi ăn xin ở vệ đường thành Giêrịkhô khi biết được Chúa Giêsu đi ngang qua chỗ anh đang ngồi ăn xin. Tiếng kêu của người nghèo khổ, khi đến tai những người đi theo Chúa Giêsu, họ đã không đón nhận, mà còn bảo “câm đi” Trong khi đó, Chúa Giêsu đã nghe và Người đón nhận; và đã truyền dẫn anh mù đến với Người. Điều này, giúp cho mỗi người trong chúng ta phải xem lại thái độ của mỗi người chúng ta đối với những người nghèo khó; đặc biết những lời kêu cứu của họ; cần sự giúp đỡ của mình.

          Lạy Chúa Giêsu. Giáo Hội Chúa đang đang dành mọi ưu tiên cho người nghèo. Xin cho mỗi thành viên trong gia đình chúng con biết cọng tác vào công việc này bằng những hy sinh nhỏ mọn hằng ngày của mình, để Giáo Hội có thể thực hiện điều điều mà Giáo Hội đang mong muốn.

Mạnh Phương

+++++++++++++++++

Gương Thánh Nhân

Ngày 15/11: THÁNH ALBERTÔ CẢ

Gíam mục, Tiến Sĩ Hội Thánh (1206 – 1280)

Thánh Albertô là một người thuộc thế hệ đầu của dòng Đaminh, Dòng được thành lập năm 1216. Ngài góp phần lớn trong những tiến triển quan trọng về trí thức trong thế kỷ XIII và Đức giáo hoàng Piô XII năm1941 đã đặt Ngài làm thánh bảo trợ cho những ai say mê nghiên cứu các khoa học tự nhiên.

Ngài sinh ra tại Swabia có lẽ vào năm 1206, là con trưởng thuộc một gia đình quí phái trong binh nghiệp. Điều người ta biết rõ về người thiếu niên Đức này là lòng yêu thích nghiên cứu học hành và thiên nhiên. Khi thì Ngài học với các thầy dòng Benedictô, khi thì Ngài lạc lõng trong miền quê, say mê quan sát cây cỏ khám phá các loại cây và để cho năng khiếu chín mùi trước cảnh sắc của tạo hóa.

Cuối cùng Albertô đã bỏ rơi truyền thống hiệp sĩ của gia đình. Một người cậu đã dẫn Albertô tới Bologne để hoàn tất việc học hành. Ngài nghe một bài giảng của chân phước Giocdano (Jordain) miền Saxe thuộc dòng Đaminh và cảm thấy được Chúa gọi, Nhưng lại ngập ngừng vì mới 16 tuổi. Ông cậu muốn Albertô quên đi ý tưởng này. Nhưng ở Padua, Albertô gặp lại chân phước Giocđanô và sau một cuộc đàm thoại đã nói với Ngài:- Thưa thày ai đã tỏ lộ lòng con cho Ngài ?

Từ đây không ai ngăn cản nổi ơn kêu gọi của Albertô nữa. Ngài vào nhà tập dòng anh em giảng thuyết. Lời cầu nguyện của Ngài diễn tả một ước muốn sống tự thoát: – “Lạy Chúa Giêsu Kitô, con kêu lên Chúa, xin Chúa đừng để con bị quyến rũ bởi những lời hão huyền về danh giá gia đình, về uy thế của dòng tu, về sự lôi cuốn của khoa học”.

Dưới ánh sáng chân lý Ngài đã tuân theo, Albertô nhiệt thành nghiên cứu khoa học và trở thành tu sĩ thánh thiện, nhà tư tưởng lớn, giáo sư siêu việt, nhà sưu tầm bách khoa tài ba. Ngài có sự hiểu biết uyên bác đặc biệt như một số những nhà trí thức lớn thời Trung cổ.

Luôn luôn tìm gia tăng những hiểu biết, Albertô rảo qua khắp nước Đức, thu thập những ý niệm về các loại súc vật cây cỏ, trước tác những tác phẩm về khoa học tự nhiên. Ngài quan tâm tới các thuyết của Aristote và tìm cách Kitô hóa các lý thuyết đó. Ngài lần lượt dạy học tại Cvologne, Pribourg, Ratisbonne, Strasbourg, Ngài sẽ ảnh hửơng trọng yếu tới người học trò thiên phú này là “bò câm”, Ngài tiên báo rằng: tiếng rống của con bò này sẽ vang dội khắp nơi.

Khoảng năm 1240, Ngài tới Paris giữ ghế giáo sư tại đây. Các lớp học quá nhỏ không đủ để dung nạp hết các thính giả của Ngài, Ngài phải dạy họ tại công trường nay vẫn còn giữ tên Ngài: công trường Maubert hay Albertô cả. Lời Ngài có uy tín đến nỗi để chấm dứt cuộc tranh luận chỉ cần nói: “Thày Albertô đã nói vậy”.

Tài năng Ngài lan rộng tại đại học Paris, đạihọc danh tiếng nhất thế giới. Ngài trú ngụ tại nhà dòng thánh Giacobê, viết nhiều tác phẩm về nhiều đề tài khác nhau: thần học, toán học, luân lý, chính trị, triết học, hình học, điạ chất học. Người ta kể rằng: ngày kia một thày dòng Đaminh vô danh đến trước mặt thánh Albertô, tội nghiệp cho sự lao lực của Ngài và khuyên Ngài nghỉ ngơi lo lắng tới sức khỏe. Đây lại chẳng phải là một thần dữ mặc lốt thày dòng sao ? Để trả lời, thánh làm dấu thánh giá. Thế là hết các cám dỗ, satan trốn mất.

Vua thánh Luy (Louis) tỏ tình nghĩa với thày dòng thời danh này và trao cho Ngài nhiều kỷ vật quí báu trước khi nghe về Đức, bởi vì thánh Albertô được đặt làm giám tỉnh. Vâng lệnh đức giáo hoàng , Ngài giã từ căn phòng sách vở và học trò, suốt ba năm Ngài đi bộ, không tiền của, ăn xin để thăm các nhà dòng và lập nhiều nhà mới. Roma kêu mời Ngài để làm sáng tỏ cuộc tranh cãi giữa các giáo sĩ. Albertô được một thời an bình trong dòng để dạy học và viết lại những quan sát và suy tư của mình. Nhưng Đức giáo hoàng buộc Ngài nhậm chức Đức giám mục Ratisbonne, một trách vụ năng nề.

Trong trung tâm giàu có phồn thịnh này, người ta kể lại rằng: Đức giám mục không có lấy “một đồng tiền trong két, một giọt rượu trong hầm, một nhúm bột trong vựa”. Dầy vậy, thánh ALBERTO vẫn trả hết nợ và xây dựng một nhà thương. Khi đã hoàn thành công cuộc hết sưc có thể, Ngài xin từ chức để trở lại đời sống một tu sĩ đơn giản. Năm 1623 theo lệnh Đức giáo hoàng, Ngài đi kêu gọi nghĩa binh trong các làng quê nước Đức.

Một năm sau Đức giáo hoàng qua đời và Ngài ngừng công việc lại. Thánh Albertô thấy cần được hồi tâm. Ngài lui về tu viện Surtzbourg và đắm mình vào cuộc nghiên cứu và chỉ đi sửa lại những cuộc tranh luận cãi. Một lần nữa lại được rảo gọi qua các đô thị lớn nước Đức, Ngài thánh hiến các thánh đường, truyền chứa cho các giáo sĩ. Năm 1270 Ngài đến dạy tại Cologne. Ơ Công đồng Lyon, Ngài bênh vực Rodolphe I miền Habbsourg. Bảy năm sau, tức năm 1277, dầu đã già Ngài buộc phải đi Paris để bênh vực cho giáo thuyết học trò mình là Tôma Aqunô.

Albertô hoàn toàn già nua, Ngài chọn cho mình một phần mộ trong dòng và mỗi ngày đến đọc kinh nhật tụng cầu cho kẻ chết, để cầu cho chính mình. Dần dần Ngài đâm ra lú lẫn. Một lần có du khách hỏi thăm Ngài trả lời chắc nịch: – “Albertô không còn ở đây nữa, ông ta …”

Ngài qua đời êm ái tại phòng riêng giữa các anh em đầy chung quanh, Ngài được phong làm tiến sĩ Hội Thánh năm 1931.

(daminhvn.net)

+++++++++++++++++

15 Tháng Mười Một

Xuống Núi  

Có hai vị thiền sư vừa xuống núi. Họ đi vào trong một con đường lầy lội. Cơn mưa nặng hạt đã khiến một thiếu nữ xinh đẹp không thể băng qua ngã tư lầy lội được… Lập tức, một trong hai vị thiền sư đến bồng người thiếu nữ trên tay và đưa qua đường. Vị sư khác lấy làm khó chịu nên không mở miệng nói với bạn mình một lời. Mãi một lúc sau, không còn nhịn được nữa, ông ta mới lên tiếng: “Chúng ta là người tu hành, không được phép gần đàn bà, nhất là những cô gái đẹp. Sao anh lại bồng đàn bà trên tay?”.

Vị sư đã bồng người thiếu nữ trên tay mỉm cười đáp: “Tôi đã bỏ cô ta tại chỗ rồi. Còn anh sao cứ mãi mang cô ta tới đây”.

Chúa Giêsu đã nói: “Chính từ lòng người mới xuất phát mọi tội ác… Sự hoán cải đích thực chính là hoán cải nội tâm. Tất cả những thực hành đạo đức bên ngoài, nếu không đi cùng một ý hướng ngay lành và một tâm hồn sám hối thực sự, chỉ là trò giả hình…

(Lẽ Sống)

++++++++++++++++++

Lời Chúa Mỗi Ngày

Thứ Hai – Tuần 33 – TN1 – Năm lẻ

Bài đọc: I Mac 1:10-15, 41-43, 54-57, 62-63; Lk 18:35-43.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Lòng trung hiếu với Thiên Chúa.

Trong cuộc đời chúng ta thường gặp thấy hai mẫu người trái ngược nhau. Một mẫu người dễ dàng ”hễ thay ngôi là đổi chủ,” vì mục đích của họ là làm sao cho có lợi nhuận nhiều và không phải hy sinh chịu đau khổ. Đây cũng là loại người thích “bắt cá hai tay,” trên có bàn thờ Chúa Mẹ, dưới thì quàng thêm ông thần tài cho chắc ăn. Họ nghĩ lỡ không có Chúa Mẹ, hay các Ngài không ban, họ vẫn còn thần tài phù hộ. Ngược lại, một mẫu người có hướng đi rõ rệt, khi đã tin ai và đã hứa điều gì, họ nhất quyết sống theo niềm tin và giữ lời hứa; cho dù có phải chịu đau khổ và chấp nhận cái chết.

Các Bài Đọc hôm nay cho chúng ta thấy hai mẫu người tương phản trong cuộc đời. Trong Bài Đọc I, tác giả Sách Maccabees I trình bày hai mẫu người Do-thái: (1) Những người dựa vào lợi nhuận để thay đổi niềm tin; vì họ không thấy Thiên Chúa ban thưởng gì cho việc giữ Lề Luật cả, nên họ chạy theo lối sống của vua Hy-lạp và quay lưng lại với Thiên Chúa. (2) Những người nhất quyết thờ phượng Thiên Chúa và tuân giữ Lề Luật, họ sẵn sàng hy sinh chịu đau khổ và chịu chết, chứ không bao giờ phản bội Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, người mù thành Jericho nhất định xin Chúa Giêsu chữa lành; cho dù phải gặp bao ngăn cản của đám đông đang đi theo Chúa. Sau cùng, nhờ niềm tin vững mạnh, anh đã được như sở nguyện.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Họ thà chết chẳng thà để cho mình ra ô uế vì thức ăn và vi phạm Giao Ước thánh.

1.1/ Những người nông nổi, “gió chiều nào che chiều ấy:” Đây là thời kỳ đế quốc Hy-lạp cai trị người Do-thái, và những cám dỗ của nền văn minh Hy-lạp làm cho nhiều người Do-thái bỏ đạo và Lề Luật. Tác giả Sách Maccabees tường thuật: Lúc bấy giờ, từ trong Israel đã nảy sinh những đứa vô lại, chúng đã dụ dỗ nhiều người như sau: “Nào chúng ta đi ký kết giao ước với các dân tộc láng giềng, vì từ khi sống cách biệt họ, chúng ta gặp phải nhiều tai hoạ.” Nhiều người bị cám dỗ thấy lời này thật vừa lòng nên đã nghe theo.

Rồi vua Antiochus ra chiếu chỉ trong toàn vương quốc truyền cho mọi người phải nhập thành một dân duy nhất, và ai nấy phải bỏ tục lệ của mình. Mọi dân tộc đều chấp hành lệnh vua.

Trong dân Israel, có nhiều người hưởng ứng việc thờ phượng vua đã truyền; họ dâng lễ tế cho các ngẫu tượng, vi phạm luật Sabbath. Ngày mười lăm tháng Chislev, năm một trăm bốn mươi lăm, vua cho dựng đồ ghê tởm phạm thánh trên bàn thờ dâng lễ toàn thiêu và cho lập các bàn thờ trong các thành miền Judah chung quanh Jerusalem. Trước cửa nhà và ngoài quảng trường, người ta dâng hương. Gặp sách Luật ở đâu, thì đem xé và quăng vào lửa. Bắt gặp sách Giao Ước ở nhà ai và biết ai còn tuân giữ Lề Luật, thì đem ra xử tử theo phán quyết của vua.

Một số những lý do làm con người dễ thay ngôi đổi chủ: Thứ nhất, họ không tin những lời Thiên Chúa dạy dỗ và hứa ban. Thứ hai, vì họ không tin có cuộc sống đời sau, nên họ đặt tất cả niềm trông cậy vào cuộc sống đời này. Thứ ba, họ không có tình yêu đối với Thiên Chúa; một khi không có hay đã hết tình yêu, con người sẽ không còn sức mạnh để làm chứng cho Thiên Chúa. Nói tóm, khi con người không có ba nhân đức đối thần tin, cậy, mến; con người dễ chạy theo những cám dỗ của ba thù và không thể trung thành với Thiên Chúa.

1.2/ Những người nhất quyết trung thành giữ Luật Chúa: Lửa thử vàng, gian nan thử nhân đức. Nếu đã có những người khi gặp đau khổ đã phản bội Thiên Chúa; nhưng vẫn còn “nhiều người trong dân Israel vẫn kiên tâm vững chí, nhất định không ăn những thức ăn ô uế. Họ thà chết chẳng thà để cho mình ra ô uế vì thức ăn, vi phạm Giao Ước thánh. Cuối cùng họ đã chết.”

Những lý do giúp con người trung hiếu trọn đời với Thiên Chúa: Thứ nhất, họ tin Thiên Chúa, những gì Ngài dạy dỗ và hứa ban cho những ai trung thành. Thứ hai, niềm hy vọng vững vàng của họ vào cuộc sống mai sau. Họ biết Thiên Chúa sẽ trả lại sự sống cho những ai sẵn sàng hy sinh mạng sống làm chứng cho Ngài. Sau cùng là tình yêu của họ dành cho Thiên Chúa. Tình yêu có sức mạnh làm con người vượt qua mọi trở ngại để trung thành với Thiên Chúa. Khi con người đã có tình yêu Thiên Chúa, không gì có thể lay chuyển con người để họ phản bội Thiên Chúa.

2/ Phúc Âm: Chúa Giêsu chữa người mù thành Jericho.

2.1/ Lời cầu xin khẩn thiết của người mù: Việt-Nam có câu tục ngữ: “Có đau mắt thì mới biết thương người mù.” Vì không thấy đường nên tất cả thế giới đẹp đẽ đối với anh là một bóng đen, và công việc duy nhất anh có thể làm được là ngồi ăn xin lòng thương xót của người qua đường. Anh mù chứ không điếc nên khi nghe thấy đám đông đi qua, anh ta hỏi xem có chuyện gì. Họ báo cho anh biết là Đức Giêsu Nazareth đang đi qua đó. Chắc chắn anh đã nghe về Đức Kitô chuyên chữa lành bệnh nhân, nên anh không bỏ lỡ cơ hội, anh liền kêu lên (boa,w) rằng: “Lạy ông Giêsu, Con vua Đavít, xin thương xót tôi!”

Những người đi đầu quát nạt, bảo anh ta im đi. Không ai có thể hiểu nỗi đau khổ của anh; tất cả đều bận tâm với những toan tính riêng tư của họ. Những người quát nạt này có lẽ bực mình vì tiếng kêu cứu của anh làm họ không nghe rõ những gì Chúa Giêsu đang giảng giải. Nhưng anh mù không sờn lòng và càng kêu lớn tiếng hơn (kra,zw): “Lạy Con Vua Đavít, xin thương xót tôi!”

Việc anh kêu lớn tiếng hơn có thể anh sợ Chúa Giêsu chưa nghe thấy tiếng kêu nài của anh; nhưng cũng để biểu tỏ tấm lòng kiên trì kêu cầu của anh, không một sức mạnh nào có thể ngăn ngừa anh đừng trông cậy vào Thiên Chúa. Với bệnh tật của anh, anh nghĩ có lẽ đây là cơ hội ngàn năm một thuở anh có cơ hội được Chúa Giêsu chữa lành.

2.2/ Phản ứng của Chúa Giêsu, người mù, và đám đông: Làm sao Thiên Chúa của lòng thương xót không động lòng trước tiếng kêu bi thương của con cái mình? Ngài dừng lại, truyền dẫn anh ta đến. Khi anh đã đến gần, Người hỏi: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” Anh ta đáp: “Lạy Ngài, xin cho tôi nhìn thấy được.” Người mù không xin tiền, không xin bất cứ sự gì khác, nhưng xin cho được thấy, vì anh biết sự sáng quan trọng thế nào đối với anh. Đức Giêsu nói: “Anh nhìn thấy đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh.” Lập tức, anh ta nhìn thấy và theo Người, vừa đi vừa tôn vinh Thiên Chúa. Anh biết Chúa Giêsu có lòng thương xót, anh biết Chúa Giêsu là người duy nhất có thể chữa anh, và chính anh đã được Chúa Giêsu thương xót chữa lành; nên chuyện anh đi theo Ngài để ngợi khen Thiên Chúa là chuyện tự nhiên phải làm. Thấy vậy, toàn dân cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Cuộc sống với quá nhiều quyến dũ vật chất và hưởng thụ dễ làm cho trái tim con người ra chai đá, khiến chúng ta không còn nhạy cảm với tình thương Thiên Chúa. Chúng ta hãy làm sống lại tình yêu ban đầu của chúng ta dành cho Thiên Chúa, bằng cách năng nhớ lại những gì Ngài đã làm cho chúng ta, để biết ơn, để ca tụng, và biết sống xứng đáng với tình yêu của Ngài.

– Chúng ta hãy làm sống lại tình yêu ban đầu của chúng ta dành cho nhau; để luôn biết quí trọng và dễ tha thứ cho nhau. Những người dễ dàng phản bội tha nhân và thay người yêu như thay áo, chắc chắn sẽ phải chuốc lấy hậu quả của những sự phản bội này một khi đã hết thời hay khi lâm cảnh khốn khó.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

****************