Ngày thứ hai (21-01-2019) – Trang suy niệm

20/01/2019

Lời Chúa Hôm Nay

Thứ Hai Tuần II Mùa Thường Niên Năm lẻ

BÀI ĐỌC I: Dt 5, 1-10

“Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã học vâng phục do những đau khổ Người chịu”.

Trích thư gửi tín hữu Do-thái.

Tất cả các vị Thượng tế được chọn giữa loài người, nên được đặt lên thay cho loài người mà lo việc Chúa, để hiến dâng lễ vật và hy lễ đền tội. Người có thể thông cảm với những kẻ mê muội và lầm lạc, vì chính người cũng mắc phải yếu đuối tư bề. Vì thế cũng như người phải dâng lễ đền tội thay cho dân thế nào, thì người dâng lễ đền tội cho chính mình như vậy. Không ai được chiếm vinh dự đó, nhưng phải là người được Thiên Chúa kêu gọi, như Aaron. Cũng thế, Đức Kitô không tự dành lấy quyền làm thượng tế, nhưng là Đấng đã nói với Người rằng: “Con là Con Cha, hôm nay Cha sinh ra Con”. Cũng có nơi khác Ngài phán: “Con là Tư tế đến muôn đời theo phẩm hàm Menkixêđê”. Khi còn sống ở đời này, Chúa Kitô đã lớn tiếng và rơi lệ dâng lời cầu xin khẩn nguyện lên Đấng có thể cứu Mình khỏi chết, và vì lòng thành kính, Người đã được nhậm lời. Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã học vâng phục do những đau khổ Người chịu, và khi hoàn tất, Người đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho tất cả những kẻ tùng phục Người. Người được Thiên Chúa gọi là Thượng tế theo phẩm hàm Menkixêđê. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 109, 1. 2. 3. 4.

Đáp: Con là Thượng tế tới muôn đời theo phẩm hàm Menkixêđê (c. 4bc).

Xướng: 1) Thiên Chúa đã tuyên bố cùng Chúa tôi rằng: “Con hãy ngồi bên hữu Ta, cho tới khi Ta bắt quân thù làm bệ kê dưới chân Con”. – Đáp.

2) Đức Thiên Chúa từ Sion sẽ phô bày vương trượng quyền bính của Ngài, rằng: “Con hãy thống trị giữa quân thù”. – Đáp.

3) Các thủ lãnh cùng hiện diện bên Con, ngày Con giáng sinh trong thánh thiện huy hoàng: trước rạng đông, tựa hồ sương sa, Ta đã sinh hạ ra Con”. – Đáp.

4) Đức Thiên Chúa đã thề và không hối hận rằng: “Con là Thượng tế tới muôn đời theo phẩm hàm Menkixêđê”. – Đáp.

ALLELUIA: Tv 144, 13cd -Chúa trung thành trong mọi lời Chúa phán, và thánh thiện trong mọi việc Chúa làm. – Alleluia.

PHÚC ÂM: Mc 2, 18-22

“Tân lang còn ở với họ”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, môn đồ của Gioan và các người biệt phái ăn chay, họ đến nói với Chúa Giêsu rằng: “Tại sao môn đồ của Gioan và các người biệt phái ăn chay, còn môn đồ Ngài lại không ăn chay?” Chúa Giêsu nói với họ: “Các khách dự tiệc cưới có thể ăn chay khi tân lang còn ở với họ không? Bao lâu tân lang còn ở với họ, thì họ không thể ăn chay được. Nhưng sẽ đến ngày tân lang bị đem đi, bấy giờ họ sẽ ăn chay. Không ai lấy vải mới mà vá áo cũ, chẳng vậy, miếng vải vá sẽ rút lại mà kéo áo cũ, và chỗ rách lại tệ hơn. Cũng không ai đổ rượu mới vào bầu da cũ, chẳng vậy, rượu sẽ làm vỡ bầu da, và rượu đổ, bầu da hư. Nhưng rượu mới phải để trong bầu da mới”. Đó là lời Chúa.

(thanhlinh.net)

++++++++++++++++++

21/01/2019THỨ HAI TUẦN 2 TN

Th. A-nê, trinh nữ, tử đạo

Mc 2,18-22

Ý NGHĨA ĐÍCH THỰC CỦA VIỆC ĂN CHAY

“Tại sao môn đệ ông lại không ăn chay?” (Mc 2,18)

Suy niệm: Ăn chay là việc đạo đức truyền thống trong đạo Do Thái. Việc này phát xuất từ luật dạy, từ tâm tình thống hối ăn năn vì tội lỗi cá nhân hoặc tập thể, từ lòng tự nguyện để khấn xin điều gì tốt đẹp hơn, hay bày tỏ lòng chờ mong Đấng Cứu thế ngự đến. Khi thiết lập đạo mới, Chúa Giê-su không từ bỏ thói quen đạo đức tốt lành này, vì chính Ngài cũng ăn chay 40 đêm ngày trong hoang địa trước khi khởi sự rao giảng Nước Trời. Thế nhưng, Ngài đặt việc ăn chay đúng vị trí của nó: Nước Trời được ví như bữa tiệc cưới vui vẻ mà chú rể là Chúa Giê-su; khi Ngài còn hiện diện giữa họ, các phù rể – các môn đệ – không thể ăn chay, họ mừng vui vì sự hiện diện của Ngài, họ không thể ủ dột buồn bã, vì Chúa chính là nguồn vui đích thực của đời họ.

Mời Bạn: Ki-tô giáo là đạo của niềm vui, niềm vui vì có Chúa đồng hành với ta trong cuộc đời, hạnh phúc vì được Chúa yêu thương, chăm sóc. Sống trong Nước Trời của Chúa, niềm vui luôn được bày tỏ nơi khuôn mặt bạn, trong cách hành xử, cung cách chọn lựa. Tuy nhiên, để có niềm vui ấy, bạn phải chấp nhận tinh thần chay tịnh, chay tịnh trong việc sửa đổi các thói hư tật xấu, chay tịnh trong lời ăn tiếng nói… 

Sống Lời Chúa: Không nên chất vấn khắt khe người khác khi thấy họ không thực hành một số việc đạo đức giống mình, không hỏi ai đó “tại sao” khi không cần thiết.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin dạy con biết sống quảng đại với Chúa và anh chị em, vì sống như thế, con sẽ biết phải làm thế nào trong mỗi hành vi ứng xử của mình. Amen.

(5 Phút Lời Chúa)

++++++++++++++++++

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

21 THÁNG GIÊNG

Những Người Thất Nghiệp – Mối Ưu Tư Nặng Trĩu Lòng Tôi

Tôi đặc biệt cảm thông tận đáy lòng mình hoàn cảnh của vô số anh chị em thất nghiệp. Họ muốn làm việc, nhưng không thể kiếm được một chỗ làm. Nhiều trường hợp, đó bởi vì nạn kỳ thị tôn giáo, giai cấp, chủng tộc, hay ngôn ngữ. Không có việc làm hay thiếu việc làm – tình trạng ấy gây ra nỗi chán chường và dễ làm cho người ta tự cảm thấy mình thừa thãi. Đó là nguyên nhân của nhiều xung đột trong các gia đình và thường dẫn đến bao phiền não lắm khi không thể tả xiết. Tình trạng ấy vừa làm suy yếu cấu trúc xã hội, vừa đe dọa chính phẩm giá của người ta, nam cũng như nữ, trong các gia đình.

Chúng ta cần có những sáng kiến mới mẻ để giải quyết vấn đề rất hệ trọng này. Những sáng kiến ấy sẽ đòi hỏi sự cộng tác trên bình diện quốc gia và quốc tế. Điều cực kỳ quan trọng, đó là những chương trình được phác họa để giải quyết vấn đề thất nghiệp phải thúc đẩy lòng tôn trọng và cảm thông giữa những người chủ việc và những người lao động đang tìm kiếm một chỗ làm.

– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –

Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác

LIFT UP YOUR HEARTS

Daily Meditations by Pope John Paul II

+++++++++++++++++

Lời Chúa Trong Gia Đình

NGÀY 21/1

Thánh Anê, trinh nữ, tử đạo

Dt 5, 1-10; Mc 2, 18-22.

LỜI SUY NIÊM: “Bấy giờ các môn đệ ông Gioan và các người Pharisêu đang ăn chay, có người đến hỏi Đức Giêsu: ‘Tại sao các môn đệ ông Gioan và các môn đệ người Pharisêu ăn chay, mà môn đệ ông lại không ăn chay’. Đức Giêsu trả lời: ‘Chẳng lẽ khách dự tiệc cưới lại có thể ăn chay. Bao lâu chàng rể còn ở với họ, họ không thể ăn chay’”

          Chúa Giêsu không bao giờ chối bỏ việc ăn chay, Điều này đã minh chứng trước khi Người đi vào đời sống công khai: mạc khải về Chúa Cha và Nước Trời, Người đã ăn chay trọn bốn mươi đêm ngày trong sa mạc. Nhưng khi các môn đệ của ông Gioan, và môn đệ của người Pharisêu đang ăn chay mà các môn đệ của Người không ăn chay. Đến hỏi Người; thì Người lại cho họ biết, vì các môn đệ của Người đang được ở trong một thời gian của niềm vui của một lễ cưới, mà chính Người là chú rể. Và Người cho họ biết, khi không còn sự hiện diện của Người họ mới ăn chay.

          Lạy Chúa Giêsu, ăn chay là một phương thế sám hối về những điều đã sai phạm làm mất lòng Chúa, mất lòng người, đã lâm vào hoàn cảnh cách xa Chúa và cách xa người anh em. Xin cho chúng con luôn dùng phương thế ăn chay và cầu nguyện để luôn làm mới lại đời sống của chúng con để được cùng vui sống với Chúa và với hết mọi người.

Mạnh Phương

+++++++++++++++++

Gương Thánh Nhân

Ngày 21-01: Thánh ANÊ

Đồng trinh Tử đạo (khoảng + 304)

Một cuộc đời được gặt bởi gươm đao. Đó là tất cả. Không có nhiều việc, không có nhiều chuyện, nhưng danh tiếng đã nên lẫy lừng.

Một sử gia đã chân nhận như thế theo những lời truyền khẩu. Người ta biết rằng: Anê qua đời khoảng năm 12 tuổi. Cuộc khảo sát xương sọ cho biết như vậy. Người ta còn biết được rằng, theo thánh Ambrosiô, vào năm 375 đã cử hành các lễ kính thánh nữ và vị thánh trẻ trung này được trình bày như vị thánh tử đạo sau khi đã chiến đấu để giữ mình đồng trinh.

Người ta yêu cái tên của Ngài, Anê theo tiếng la-tinh có nghĩa là con chiên, theo tiếng Hy Lạp có nghĩa là trong trắng. Người ta muốn rằng Ngài có nét đẹp duyên dáng quyến rũ và thuộc gia đình quý phái. Các cô gái lập gia đình sớm. Trong số những chàng trai ngưỡng mộ Ngài, có con trai một vị tổng trấn, nhưng Anê tự cởi lòng đã chọn lựa vị hôn phu của mình.

Ngài đã nghe về Chúa Giêsu, đã trở thành Kitô hữu và đã tận hiến vĩnh viễn cho Chúa Kitô. Các trẻ em thời này hay có tư tưởng anh hùng vì đã được thấy dòng máu của những vị tử đạo tuôn đổ. Anê từ khước lời cầu hôn của người thanh niên lương dân và bị tố giác trước quan tổng trấn.

Theo một trong các cuộc đối chất tuyệt vời mà cả trăm nghìn Kitô hữu cho là chính xác, các lời hứa hẹn với những đe dọa chẳng có nghĩa lý gì đối với đức tin và lòng can đảm của thánh nữ. Người thiếu nữ từ chối không thờ lạy thần Minerva. Một ý tưởng quỷ quái nảy ra trong đầu óc quan tổng trấn. Ông truyền dẫn thiếu nữ đến xóm bất lương mặc cho bọn say mê nàng xâm phạm. Ngài bị lột hết y phục. Nhưng tóc dài phủ kín người Ngài. Hơn nữa nguồn sáng bởi trời bao quanh Ngài làm thành một chiếc áo trắng diệu kỳ. Con của vị tổng trấn định cả gan xâm phạm tới Ngài nhưng bị ngã chết như bị sét đánh. Anê đầy thương cảm đã xin thiên thần cứu sống anh và anh sẽ trở lại đạo.

Điều kỳ diệu không có giới hạn và mọi sự đều có thể cả. Bị đưa vào lò lửa, nhưng người thiếu nữ bất khuất không bị thiêu sống. Thánh Ambrôsiô nói: – Ngài đi chịu khổ hình một cách vui vẻ còn hơn một người đi vào loan phòng của mình, vì Ngài không đi đến cái chết nhưng đi vào bất tử, Ngài được trang điểm không phải bằng những trân châu ngọc báu, nhưng bằng ánh sáng siêu nhiên.

Các ngọn lửa vây kín mà không thiêu đốt Anê. Vậy Ngài phải bị chém đầu mới được. Và người ta thấy một thiếu nữ yếu ớt khuyến khích người lý hình tay chân run rẩy: – Chặt đi đừng sợ gì, để tôi sớm đến được với Đấng lòng tôi yêu mến.

Tường thuật đã được tiểu thuyết hoá và làm say mê lòng đạo đức của các tín hữu, nhưng sẽ không đủ để tên Ngài được quí trọng như vậy, nếu không chắc chắn rằng Anê là thánh trẻ tử đạo mà đức tin, đức mến và lòng ái mộ đức khiết trinh còn mạnh mẽ hơn cả sự chết.

Lịch sử thánh Anê còn được phép thêm bằng qua lời truyền khẩu về Emêrentiana, người chị em cùng một vú nuôi với Ngài. Vài ngày sau khi Anê tử đạo, dân ngoại bắt gặp Emêrentiana với các tín hữu khác cầu nguyện bên mộ Ngài.

Các Kitô hữu chạy trốn nhưng Emêrentina ở lại và bị ném đá. Cha mẹ Anê chôn cất nàng bên mộ con gái mình. đêm sau họ thức cầu nguyện và thấy Anê ở giữa các thánh nữ đồng trinh, với con chiên trắng hơn tuyết bên phải.

Thánh Anê nói với cha mẹ: – Đùng khóc vì con phải chết, trái lại cha mẹ hãy vui mừng vì con được hiệp nhất ở trên trời với Đấng con đã yêu mến hết lòng khi ở dưới đất.

Để nhớ đoạn lịch sử này, ngày 21 tháng giêng, sau thánh lễ cử hành trên mộ xác thánh Anê, người ta dẫn tới hai con chiên, lông kết sao vàng và đeo nải trắng một con, đỏ một con. Hai con chiên được đặt trên bàn thờ trong một giỏ mây, được chúc lành và dâng cho Đức Thánh Cha, sau đó được gởi về tu viện thánh Cêcilia.

Nơi đây các nữ tu nuôi chúng lớn lên, lông chúng dùng để dệt các “Pallium”, phẩm phục dệt bằng len trắng, có thêu thánh giá đen, mà Đức giáo hoàng gửi cho các Đức Tổng giám mục mặc trên áo choàng ngoài, như dấu hiệu tỏ sự kính trọng.

(daminhvn.net)

+++++++++++++++++

21 Tháng Giêng

 Chiếc Khăn Tay Vấy Mực  

Ruskin là một nghệ sĩ, phê bình nghệ thuật kiêm xã hội học người Anh sống vào cuối thế kỷ 19.

 Một hôm, có một người đàn bà quý phái mang đến cho ông xem một chiếc khăn tay đắt tiền đã bị vấy mực. Bà ta xuýt xoa tiếc rẻ vì chiếc khăn tay đã hoàn toàn mất giá trị của nó. 

Ruskin không nói gì, ông chỉ xin cho ông mượn chiếc khăn tay trong một ngày. Ngày hôm sau, ông trao lại chiếc khăn tay cho người đàn bà mà cũng không nói một lời nào. Nhưng khi trải chiếc khăn tay ra, người đàn bà hết sức ngạc nhiên, bởi vì từ một vết mực trong góc của chiếc khăn, nhà nghệ sĩ đã biến thành một bức tranh tuyệt mỹ.

 Chiếc khăn tay có vấy mực tưởng đã bị vứt đi, nay đã trở thành một tác phẩm nghệ thuật để đời.

 Những người có niềm tin vào cuộc sống không bao giờ bỏ cuộc trước những thất bại. Họ luôn biết biến những thất bại ấy thành khởi đầu của một thành công vĩ đại hơn. 

Người có niềm tin vào Thiên Chúa cũng luôn nhìn vào thất bại, rủi ro, đau khổ trong cuộc sống như cơ may của một ân phúc cao cả và dồi dào hơn.

 Dạo tháng 6 năm 1990, mục sư Anh giáo Michael Lapsley, người Zimbabwe bên Phi Châu, vì là mục sư Tuyên úy của tổ chức Quốc đại Châu Phi bao gồm các lực lượng tranh đấu cho quyền lợi của người da đen Nam Phi, đã bị quân khủng bố đặt chất nổ khiến ông bị cụt hai tay, mù một mắt và hỏng lỗ tai. Trong một tuyên ngôn công bố sau đó, ông đã viết như sau: “Họ đã lấy mất đôi tay của tôi. Nhưng tôi không buồn, bởi vì tôi không dùng đến võ khí để cần phải có đôi tay. Họ đã lấy mất một phần đôi mắt của tôi và thính giác của tôi, nhưng tôi vẫn còn có thể dâng hiến lời nói để tiếp tục rao giảng một cách xác tín và mạnh mẽ hơn”.

 Người ta vẫn thường nói: Yêu là chết trong lòng một ít. Tình yêu đích thực luôn luôn đòi hỏi hy sinh, mất mát. Nhưng chỉ có đôi mắt tình yêu mới nhận ra giá trị của những mất mát ấy.

 Qua cái chết trên thập giá như một tiêu hao hoàn toàn, Chúa Giêsu đã bày tỏ Tình Yêu của Thiên Chúa cho nhân loại, ánh sáng của Tình Yêu đã chiếu sáng qua sự mất mát ấy. Qua những hao mòn trong từng ngày của cuộc sống Mẹ Maria, Tình Yêu của Thiên Chúa cũng được tiếp tục bày tỏ. Có cái chết độc ác, tức tưởi của Chúa Giêsu trên thập giá, thì cũng có cái chết âm thầm từng ngày của Mẹ Maria. Ngày nay, tình Yêu của Thiên Chúa cũng cần có những mất mát, hao mòn khác của người Kitô để được tiếp tục bày tỏ cho con người, bởi vì sứ mệnh của người Kitô chính là bổ túc cho những gì còn thiếu sót trong cuộc tử nạn của Ðức Kitô.

(Lẽ Sống)

++++++++++++++++++

Lời Chúa Mỗi Ngày

Thứ Hai Tuần II TN, Năm lẻ

Bài đọc: Heb 5:1-10; Mk 2:18-22.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Cũ và mới

Xung đột giữa cái cũ và cái mới thường xảy ra ở mọi nơi và mọi thời: các chính thể, tôn giáo, cách cư xử, thời trang và vóc dáng. Ví dụ: Phong trào canh tân của Nhóm Tự Lực Văn Đòan vào đầu thế kỷ 20, điển hình trong tác phẩm Đọan Tuyệt của Khái Hưng. Chúa Giêsu và các môn đệ cũng phải đương đầu với người Do-Thái khi mang ra những mặc khải mới của Thiên Chúa đến cho con người. Câu hỏi đặt ra: Cái nào tốt hơn?

Các Bài Đọc hôm nay cũng xoay quanh sự xung đột giữa cũ và mới. Trong Bài Đọc I, tác giả Thư Do-Thái dùng tiêu chuẩn cũ để chứng minh Đức Kitô là Thượng Tế mới có khả năng đem Thiên Chúa đến cho con người và đem con người về cho Thiên Chúa; vì Ngài vừa có kinh nghiệm của Thiên Chúa, vừa có kinh nghiệm của con người. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu dùng câu hỏi của những người thuộc thời đại cũ để giúp họ nhận ra thời đại mới đã bắt đầu; họ cần có tâm hồn mới để lãnh nhận giáo lý mới của Ngài mang đến.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Chúa Giêsu là Thượng Tế. Bản văn chúng ta nghiên cứu hôm nay, Heb 5:1-10, được tác giả sắp xếp theo cấu trúc hình nón, với chóp đỉnh là Thượng Tế Aaron của Cựu Ước. Mục đích của tác giả là chứng minh Chúa Giêsu là Thượng Tế của Tân Ước. Để làm điều này, tác giả dùng một tam đọan luận: trước tiên, tác giả liệt kê 3 đặc tính của chức Thượng Tế; sau đó, tác giả chứng minh Chúa Giêsu hội đủ 3 điều kiện này; cuối cùng, tác giả kết luận: “Thiên Chúa tôn xưng Chúa Giêsu là Thượng Tế theo phẩm trật Melkisedech.”

1.1/ Ba đặc tính của Thượng Tế:

(1) Thượng Tế đại diện cho con người: “Quả vậy, thượng tế nào cũng là người được chọn trong số người phàm, và được đặt lên làm đại diện cho loài người, trong các mối tương quan với Thiên Chúa, để dâng lễ phẩm cũng như tế vật đền tội.”

(2) Thượng Tế phải cảm thông với con người: “Vị ấy có khả năng cảm thông với những kẻ ngu muội và những kẻ lầm lạc, bởi vì chính người cũng đầy yếu đuối; mà vì yếu đuối, nên người phải dâng lễ đền tội cho dân thế nào, thì cũng phải dâng lễ đền tội cho chính mình như vậy.”

(3) Thượng Tế phải được Thiên Chúa gọi: “Không ai tự gán cho mình vinh dự ấy, nhưng phải được Thiên Chúa gọi, như ông Aaron đã được gọi.”

1.2/ Chúa Giêsu là Thượng Tế:

(1) Chúa Giêsu được chọn làm Thượng Tế: “Cũng vậy, không phải Đức Kitô đã tự tôn mình làm Thượng Tế, nhưng là Đấng đã nói với Người: Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con, như lời Đấng ấy đã nói ở một chỗ khác: Muôn thuở, Con là Thượng Tế theo phẩm trật Melkisedech.”

(2) Chúa Giêsu cảm thông với con người: “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết. Người đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính. Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục.”

(3) Chúa Giêsu đại diện cho con người: “và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người, vì Người đã được Thiên Chúa tôn xưng là Thượng Tế theo phẩm trật Melkisedech.”

2/ Phúc Âm: Chúa Giêsu bảo vệ môn đệ của mình.

2.1/ Tại sao môn đệ Chúa Giêsu không ăn chay? “Bấy giờ các môn đệ ông Gioan và các người Pharisees đang ăn chay; có người đến hỏi Đức Giêsu: “Tại sao các môn đệ ông Gioan và các môn đệ người Pharisees ăn chay, mà môn đệ ông lại không ăn chay?”

Giao thời giữa Cựu và Tân Ước là thời gian người Do-Thái gia tăng việc chay tịnh và khổ chế, không những chỉ có trong những giáo phái, mà còn phổ thông trong dân như các việc đạo đức. Chay tịnh, cùng với cầu nguyện và làm phúc, được coi là ba trụ chính của đời sống đạo đức (Tob 12:8). Sách Judith coi chay tịnh là cách để xin ơn lành từ Thiên Chúa (Jdt 4:9). Lối sống chay tịnh và khổ chế của Gioan Tẩy Giả trong sa mạc là muốn đề cao lối sống đơn giản và sự tùy thuộc hòan tòan vào Thiên Chúa.

2.2/ Câu trả lời của Chúa Giêsu nhấn mạnh đến 2 điểm chính:

(1) Lý do ăn chay: Ăn chay phải có mục đích rõ ràng. Chúa cho biết lý do tại sao các môn đệ của Ngài chưa ăn chay: “Chẳng lẽ khách dự tiệc cưới lại có thể ăn chay, khi chàng rể còn ở với họ? Bao lâu chàng rể còn ở với họ, họ không thể ăn chay được.” Chúa Giêsu nhận Ngài chính là chàng rể, và khách dự tiệc cưới, bạn hữu của chàng rể là các môn đệ.

(2) Thời gian ăn chay: Chay tịnh có lúc của nó, không phải lúc nào cũng ăn chay. Chúa Giêsu cho biết khi nào các môn đệ của Ngài sẽ ăn chay: “Nhưng khi tới ngày chàng rể bị đem đi rồi, bấy giờ họ mới ăn chay trong ngày đó.”

2.3/ Phải có tâm hồn mới để lãnh nhận đạo lý mới: Chúa Giêsu là mốc thời gian để phân biệt giữa cái cũ và mới. Những người Pharisees và môn đệ của Gioan đại diện cho lớp người cũ, các môn đệ của Chúa Giêsu đại diện cho lớp người mới. Để có thể lãnh nhận những đạo lý mới được giảng dạy bởi Đức Kitô, một người cần có tâm hồn mới: rộng đủ để nhận ra những bất tòan của đạo lý cũ; đồng thời biết đón nhận những đạo lý mới để làm cho con người ngày càng tòan hảo hơn. Nếu không có tâm hồn mới, con người sẽ ngoan cố thủ cựu những điều cũ; đồng thời họ sẽ khước từ những giáo lý mới của Đức Kitô.

Để giúp họ nhận ra sự quan trong của một tâm hồn mới, Chúa Giêsu dùng 2 ví dụ rất quen thuộc với khán giả:

(1) Áo và miếng vá: “Chẳng ai lấy vải mới mà vá áo cũ, vì như vậy, miếng vá mới đã vá vào sẽ kéo vải cũ, khiến chỗ rách lại càng rách thêm.”

(2) Rượu và bầu da: “Cũng không ai đổ rượu mới vào bầu da cũ, vì như vậy, rượu sẽ làm nứt bầu, thế là rượu cũng mất mà bầu cũng hư. Nhưng rượu mới, bầu cũng phải mới!”

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Chúa Kitô là Thượng Tế mới của giao ước mới hòan hảo hơn. Chúng ta hãy chạy đến với Ngài để học hỏi những mặc khải mới của Thiên Chúa; và mời Ngài đồng hành với chúng ta.

– Chúng ta cần mở rộng tâm hồn để đón nhận những điều mới lạ từ Thiên Chúa và tha nhân. Một tâm hồn khép kín và thái độ hay chỉ trích sẽ không làm cho chúng ta tiến xa được. 

– Dĩ nhiên chúng ta không đón nhận tất cả các cái mới và lọai bỏ các cái cũ; nhưng biết dùng trí khôn để thích ứng với hòan cảnh: giữ lại những gì tốt, thâu nhận những gì mới, và cải tiến để làm cho tốt hơn.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

****************