Ngày thứ hai (31-07-2023) – Trang suy niệm

30/07/2023

Lời Chúa Hôm Nay

Thứ Hai. Thánh Inhaxiô Loyola

BÀI ĐỌC I: Xh 32, 15-24. 30-34

“Dân này đã phạm tội nặng nề, và họ đúc bò vàng”.

Bài trích sách Xuất Hành.

Trong những ngày ấy, Môsê từ trên núi trở xuống, Tay cầm bia đá có khắc chữ cả hai mặt; và đó là công trình của Thiên Chúa tác tạo, vì chính Chúa đã khắc chữ vào hai bia đá đó. Bấy giờ Giosuê nghe tiếng dân chúng la lối om sòm, nên thưa cùng Môsê rằng: “Có tiếng la giao chiến trong trại”. Môsê đáp: “Đó không phải là tiếng kêu la giao chiến, cũng không phải tiếng kêu la thất trận, nhưng tôi nghe tiếng người ta ca hát”. Khi đến gần trại, người thấy con bê đực và những người múa. Người quá tức giận, liền ném hai bia đá xuống chân núi và nó bể nát ra. Người đem đốt con bê chúng đã đúc, rồi tán ra thành tro, bỏ vào nước, bắt con cái Israel phải uống. Người nói cùng Aaron rằng: “Dân này đã nói gì với ông mà ông để nó phạm tội nặng nề như thế?” Aaron thưa: “Xin ngài chớ tức giận, nào ngài không biết dân này hay hướng chiều về đàng tội đó sao? Chúng đã nói với tôi rằng: “Xin ông hãy đúc cho chúng tôi những vị thần để dẫn dắt chúng tôi đi, vì ông Môsê, người dẫn chúng tôi ra khỏi đất Ai-cập, chúng tôi không biết chuyện gì đã xảy đến cho ông”. Tôi liền nói với họ: “Ai trong các ngươi có vàng, hãy mang đến cho tôi. Họ mang đến, tôi quăng vàng vào lửa và đúc nên con bê này”. Hôm sau Môsê nói với dân: “Các ngươi đã phạm một tội rất lớn, nhưng bây giờ ta sắp lên với Giavê: có lẽ ta sẽ xin được Người xá tội cho các ngươi!” Môsê trở lại với Giavê và nói: “Phải! dân này đã phạm một tội rất lớn, chúng đã làm cho mình những thần bằng vàng! Nhưng bây giờ, ước gì Người miễn chấp tội chúng. Bằng không, xin Người hãy xoá con đi khỏi sách Người đã viết”. Giavê phán với Môsê: “Ai phạm tội chống lại Ta, Ta sẽ xoá nó khỏi sách của Ta! Còn bây giờ, ngươi hãy đi, hãy dẫn dân đến nơi Ta đã phán với ngươi! Này thần sứ của Ta sẽ đi trước ngươi, và đến ngày truy phạt của Ta, Ta sẽ trừng phạt chúng vì tội của chúng”.

Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 105, 19-20. 21-22. 23

Đáp: Hãy ca tụng Chúa, bởi Người nhân hậu (c. 1a).

1) Dân chúng đúc hình bò con tại Horéb, và lễ bái thần tượng đã đúc bằng vàng. Họ đem vinh quang của mình đánh đổi lấy hình tượng con bò ăn cỏ. (2) Họ đã quên Thiên Chúa là Đấng cứu độ mình, Đấng đã làm những điều trọng đại bên Ai-cập, Đấng đã làm những điều kỳ diệu trên lãnh thổ họ Cam, và những điều kinh ngạc nơi Biển Đỏ. (3) Chúa đã nghĩ tới tiêu diệt họ cho rồi, nếu như Môsê là người Chúa chọn, không đứng ra cầu khẩn với Ngài, để Ngài nguôi giận và đừng tiêu diệt họ.

ALLELUIA: Ga 17, 17b và a

All. All. – Lạy Chúa, lời của Chúa là chân lý, xin hãy thánh hoá chúng con trong sự thật. – All.

PHÚC ÂM: Mt 13, 31-35

“Hạt cải trở thành cây đến nỗi chim trời đến nương náu nơi ngành nó”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán một dụ ngôn khác cùng dân chúng rằng: “Nước trời giống như hạt cải người kia gieo trong ruộng mình. Hạt ấy bé nhỏ hơn mọi thứ hạt giống, nhưng khi mọc lên, thì lớn hơn mọi thứ rau cỏ, rồi thành cây, đến nỗi chim trời đến nương náu nơi ngành nó”. Người lại nói với họ một dụ ngôn khác nữa mà rằng: “Nước trời giống như nắm men người đàn bà kia lấy đem trộn vào ba đấu bột, cho đến khi bột dậy men”. Chúa Giêsu dùng dụ ngôn mà phán những điều ấy với dân chúng. Người không phán điều gì với họ mà không dùng dụ ngôn, để ứng nghiệm lời tiên tri đã chép rằng: “Ta sẽ mở miệng nói lời dụ ngôn: Ta sẽ tỏ ra những điều bí nhiệm từ lúc dựng nên thế gian”.

Đó là lời Chúa.

(Nguồn: UBPV/HĐGMVN, ấn bản 1973)

++++++++++++++++++

31/07/2023 – THỨ HAI TUẦN 17 TN

Th. I-nha-xi-ô Lôi-ô-la, linh mục

Mt 13,31-35

LÀ MEN CHO ĐỜI

“Nước Trời cũng giống như chuyện nắm men bà kia lấy vùi vào ba đấu bột, cho đến khi tất cả bột dậy men.” (Mt 13,33)

Suy niệm: “Bạn có thể làm mọi sự nếu có lòng nhiệt tình. Lòng nhiệt tình ấy là men làm cho hy vọng của bạn soi sáng đến cả các vì sao” (H. Ford). Là người Ki-tô hữu, ta không thể bằng lòng với việc chỉ thực hành đức tin một lần vào Chúa Nhật, hay lối sống đạo tiêu cực giữ đạo cho riêng mình. Chúa Giê-su mời gọi ta hôm nay nhiệt thành trở thành men làm cho đám đông chung quanh được dậy men các giá trị Tin Mừng. Ta hình dung chỉ với nắm men nhỏ xíu, vậy mà có thể làm cho ba đấu bột tương đương 50kg bột dậy men, nghĩa là một hoạt động tuy âm thầm, lặng lẽ, nhưng tác động rất lớn lao. Cũng vậy, đời sống đức tin của bạn, với việc thờ phượng Chúa + những nghĩa cử yêu thương bác ái + tông đồ giáo dân = loan báo Tin Mừng sâu đậm, hiệu quả.

Mời Bạn: Quá trình dậy men đòi phải có thời gian, để nắm men có thể tác động không ngừng với thúng bột. Nước Thiên Chúa đang âm thầm lớn lên trên thế giới, dưới tác động liên lỉ của men Thánh Thần. Bạn cũng được mời gọi làm chứng cho men Thánh Thần ấy, khi chính bạn cũng là men, kiên nhẫn hoạt động trong Hội thánh, lạc quan giữa khó khăn, thất bại, kiên trì trong hy vọng, dù rất lâu vẫn chưa thấy tia sáng cuối đường hầm.

Sống Lời Chúa: Tôi chọn một hoạt động tông đồ (thăm viếng, giúp đỡ, an ủi, khuyên nhủ…) để làm men cho khối bột tha nhân chung quanh. Tôi cũng tập kiên trì khi chưa thấy kết quả nào từ hoạt động tông đồ giáo dân ấy.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, con cảm tạ Chúa tín nhiệm chọn con làm men cho khối bột thế giới này. Xin cho con luôn xác tín mình phải hoạt động tích cực hơn trong đời sống đức tin. Amen.

(5 Phút Lời Chúa)

++++++++++++++++++

Suy niệm và cầu nguyện

Suy niệm

Hội nhập văn hóa là việc mà nhà truyền giáo thời nay quan tâm.
Làm sao đưa Tin Mừng vào nền văn hóa của người bản xứ ?
Làm sao đưa những nét đẹp của nền văn hóa bản xứ vào việc sống Tin Mừng?
Làm sao để Kitô giáo vừa mang nét mới mẻ của ơn cứu độ có tính phổ quát,
vừa mang tinh túy của từng vùng, từng nền văn hóa, tôn giáo, xã hội ?
Đó là một nỗ lực đòi hỏi nhiều thời gian, trí tuệ và tình yêu.

Nhân dịp kỷ niệm 400 năm ngày qua đời của cha Matteo Ricci (1552-1610),
Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI đã đề cao gương của vị tu sĩ Dòng Tên này.
Với thiện cảm sâu xa đối với văn hóa và tôn giáo của người Trung Hoa,
cha Matteo đã đem Tin Mừng đến để bổ sung những truyền thống tốt đẹp.
Cha hiểu biết về Khổng giáo như một nho gia uyên thâm,
và chấp nhận việc cúi mình để tôn kính Khổng Tử và các bậc tổ tiên.
Dùng kiến thức về khoa học của mình để phục vụ,
Cha là người vẽ bản đồ thế giới đầu tiên với nước Trung Hoa nằm ở giữa.
Mười năm cuối đời sống ở Bắc Kinh, cha viết sách biện giáo,
quen biết với nhiều học giả trong triều đình và đưa họ vào Kitô giáo.

Cách truyền giáo của cha Matteo khiến ta nghĩ đến dụ ngôn men và bột.
Người phụ nữ đã trộn men vào một lượng bột rất lớn.
Ba đấu bột bằng khoảng 50 ký bột, làm bánh đủ cho cả trăm người ăn.
Điều đáng ta để ý ở đây là chuyện trộn men vào bột.
Một lượng men nhỏ được người phụ nữ trộn đều với khối bột lớn.
Đây là một công việc vất vả, làm bằng tay.
Khi được trộn nhuyễn, ta không còn phân biệt được men với bột
ui trình lên men đòi hỏi thời gian.
Men phát huy sức mạnh tiềm ẩn của nó, khi làm cả khối bột lên men, nở ra.
Bấy giờ ta mới nhận ra sự hiện diện ẩn dấu và tác động của men trong bột.
Khi ăn những tấm bánh thơm, chẳng ai thấy men, vì men đã thành bánh rồi.
Nhưng không có men thì cũng chẳng có bánh.
Đức Giêsu dùng dụ ngôn này để nói về Nước Trời.
Khởi đầu chỉ là một số lượng nhỏ bé,
nhưng với thời gian sẽ gây được một ảnh hưởng lớn lao và tốt lành.

Tỷ lệ người Công giáo tại Việt Nam không đông, một lượng men nhỏ.
Nhưng nếu chúng ta khiêm tốn có mặt và phục vụ giữa lòng dân tộc,
tôn trọng những giá trị văn hóa và tâm linh của đồng bào,
chúng ta có hy vọng làm cho khuôn mặt của Công giáo
trở nên phong phú hơn, dễ mến hơn và hấp dẫn hơn.
Phải chấp nhận như men bị chôn vùi, biến mất trong đống bột.
Phải có mặt ở mọi nơi, mọi ngành nghề, mọi lãnh vực nghiên cứu.

Nếu chúng ta chẳng làm cho đất nước này thành tấm bánh thơm ngon,
nếu môi trường chúng ta đang sống, đang làm việc chẳng có gì tiến bộ,
chẳng công bằng hơn, huynh đệ hơn, hạnh phúc hơn, trong sạch hơn…
thì có khi chúng ta phải tự hỏi xem mình có còn là thứ men tốt không.

Lời nguyện

Lạy Chúa GiêSu, vị tử đạo tuyệt vời
Chúa đưa chúng con vào thế giằng co liên tục.
Chúa vừa chọn chúng on ra khỏi trần gian
lại vừa sai chúng con vào trong thế gian đó
Thế gian này vàng thau lẫn lộn
Có khi vàng chỉ là lớp mạ bên ngoài

Xin cho chúng con giữ được bản lãnh của mình,
giữ được vị mặn của muối,
và sức tác động của men,
để đem đến cho thế gian
một linh hồn, một sức sống.
Chúng con chẳng sợ mình bỏ đạo,
chỉ sợ mình bỏ sống đạo
vì bị quyến rũ bởi bao thú vui trần thế.

Xin cho chúng con đừng bao giờ quên rằng
chúng con mang dòng máu của các vị tử đạo,
những người đã đặt Chúa lên trên mạng sống.

Lạy Chúa GiêSu, nếu thế gian ghét chúng con,
thì xin cho chúng con cảm thấy nềim vui
của người được diễm phúc nên giống Chúa. Amen

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

(phutcaunguyen.net)

++++++++++++++++++

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

31 THÁNG BẢY

Ngay Cả Sự Chết Cũng Phục Vụ Cho Sự Sống

Chúng ta nhận thấy Cựu Ước – trong khi nhìn nhận sự có mặt của nhiều loại sự dữ và đau khổ trong đời – đã làm chứng hùng hồn rằng sự khôn ngoan và lòng từ ái của Thiên Chúa (biểu hiện qua sự quan phòng thần linh của Ngài) tất thắng trên mọi sự dữ và đau khổ.

Cảm nhận này được trình bày trong Sách Gióp, cuốn sách xoáy trọn vào chủ đề sự dữ và tiếng kêu ai oán thất vọng. Cuốn sách quan trọng này (về chủ đề sự dữ) đôi khi được thấy như một kiểm nghiệm hùng hồn ‘đo lòng’ người công chính. Nhưng đây chỉ là một khía cạnh phụ thuộc của quyển sách mà thôi. Cốt lõi của quyển sách chính là sự đúc kết vừa rõ ràng vừa công phu của tác giả rằng Thiên Chúa là Đấng tốt lành. Qua Sách Gióp, chúng ta nắm bắt những giới hạn và bản chất phù du của mọi tạo vật. Chúng ta nhận ra rằng một số hình thức của sự dữ thể lý có thể là do bản chất sa ngã của thế giới gây ra.

Chúng ta cũng ý thức rằng tất cả những gì thuộc vật chất đều ở trong một mối quan hệ hỗ tương gần gũi nhau – như câu nói xưa: “Đây chết thì kia sống”. Như vậy, xét một mức nào đó, ngay cả sự chết cũng phục vụ cho sự sống. Qui luật này cũng không loại trừ con người – vì con người vừa là xác thịt vừa là tinh thần, vừa khả diệt vừa bất tử.

Trong chiều hướng này, những ý tưởng của Thánh Phao-lô càng vén mở các chân trời rộng hơn nữa: “Dù con người bên ngoài chúng tôi có tiêu tan đi, thì con người bên trong của chúng tôi ngày càng đổi mới” (2Cr 4,16). Rồi ngài nói thêm: “Thật vậy, một chút gian truân tạm thời trong hiện tại sẽ mang lại cho chúng ta cả một khối vinh quang vô tận, tuyệt vời” (2Cr 4,17).

– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –

Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác

LIFT UP YOUR HEARTS

Daily Meditations by Pope John Paul II

+++++++++++++++++

Lời Chúa Trong Gia Đình

Ngày 31-7

Thánh Ignatiô Loyôla, linh mục

Xh 32, 15-2.30-34; Mt 13, 31-35.

Lời suy niệm: “Nước Trời cũng giống như chuyện hạt cải người nọ lấy gieo trong ruộng mình. Tuy nó là hạt nhỏ nhất, nhưng khi lớn lên, thì lại là cây lớn nhất; nó trở thành cây, đến nỗi chim trời tới làm tổ trên cành được.”

          Chúa Giêsu đang giới thiệu với mỗi người về Nước Trời, và Người đưa ra dụ ngôn về hạt cải. Cho chúng ta thấy Nước Trời không phải là vô hình, nó chi nằm trong tư tưởng của con người, hay trí tưởng tượng. Nước Trời rất là hữu hình, và cụ thể như “hạt cải”. Mỗi người đều nhìn thấy và có thể đụng chạm được “hạt cải”; Nó được chính Thiên Chúa gieo vào giữa thế gian này, nó được đâm rễ sâu vào lòng đất; nó được lớn lên và trở thành cây “cây lớn nhất”. Nó là nơi con người tìm đến trú ẩn và làm tổ để truyền sinh. “Chim trời tới làm tổ trên cành được.”

          Lạy Chúa Giêsu. Nước Trời càng ngày càng được lớn mạnh trong thánh ý của Chúa. Xin cho chúng con được cọng tác đời mình vào công việc của Nước Trời để đem lại hạnh phúc cho mình và nhiều người khác Amen.

Mạnh Phương

+++++++++++++++++

Gương Thánh Nhân

Ngày 31-07: Thánh IGNATIÔ LOYOLA

Linh Mục (1491 – 1556)

Don Inigo Lopez de Recalde sinh khoảng năm 1481 tại miền đồi núi Basque gần làng Azpeytia. Ngài là con út trong số 11 người con của một gia đình quí tộc. Được rửa tội với tên Inigo, một vị thánh Tây Ban Nha dòng thánh Bênêdictô, nhưng sau này Ngài thường dùng tên Ignatiô thành Antiokia. Hồi còn niên thiếu, người giúp việc cho một người bạn quí tộc của một gia đình là Giuan Velasquez. Sau khi Velasquez từ trần, Ngài lại phục vụ bá tước Najera, phó vương miền Navarre. Ngài được giáo dục một cách hời hợt. Thời đó, Ngài chỉ ham chơi, thích những chuyện hào hùng, nhất là những ngày lễ duyệt binh.

Trong cuộc chiến Pháp, Tây Ban Nha tháng năm 1521 quân đội pháp đã vượt núi Pyrênê và tới phong tỏa Pampeluna. Nhiều người đã tính chuyện đầu hàng, nhưng Ignatiô quyết cầm cự. Trong cơn bão tố tại pháo đài Ignatiô bị trúng đạn pháo ở đùi, Ngài được chuyển về lâu đài ỏ Loyola. Nơi dây người ta khám phá ra rằng xương đùi đã bị xếp trật, phải mổ ra và sắp xếp lại. Ngài đã can đảm chịu đựng cơn đau.

Thời gian dưỡng bệnh lâu dài tiếp theo sau đó, không có sách vở gì khác, Ignatiô dùng thời gian để đọc hạnh các thánh. Gương mẫu đời sống các thánh làm mủi lòng Ignatiô. Ngài nói: – Tôi có phải thực hiện điều mà thánh Phaxicô và Dominico đã làm chăng ?

Năm 1522, sau khi bình phục, Ngài đi hành hương kính Đức bà Montserrat. Nơi đây Ngài đã thực hiện cuộc xưng tội trong ba ngày, trao tặng đồ hiệp sĩ cho một kẻ ăn xin, đặt gươm trên bàn thờ Đức Mẹ và tới thành Manresa kế cận để phục vụ trong một nhà thương. Đã một thời Ngài bị nguy hiểm rơi vào một cuộc khổ hạnh quá độ. Ngài Ngài đã thoát hiểm nhờ sự vâng phục hoàn tòan đối với cha giải tội. Chính tại Manresa, Ngài được Thiên Chúa soi sáng, sự soi sáng hứơng dẫn trọn những ngày còn lại của cuộc đời Ngài. Ngài viết cuốn linh thao, trong đó vạch ra những nguyên tắc mà một người công giáo phải theo để “điều khiển đời sống mình” một đời sống nhằm ca tụng Chúa, tôn kính và phụng sự Ngài, để được cứu rỗi. Ngài phác họa một giáo thuyết của mình về sự chọn lựa và đòi hỏi để làm mọi sự để “vinh danh Chúa” (Ad Majorem dei gloriam)

Thánh nhân ở lại Manresa khoảng một năm và từ đó hành hương đi Palestina, trên đường đi có dừng lại ở Roma. Sau khi đã kính viếng các nơi thánh ở Palestina, Ngài trở về Barcelona. Nơi đây, dầu đã 30 tuổi, Ngài vẫn đến trường, ngồi chung ghế với các em nhỏ, để sữa chữa lại kẽ hở trong việc học hành, cho tới khi Ngài có thể dự lớp tại đại học Alcala và Salamanca. Tại cả hai nơi này, đã Ngài bị truy tố ra tòa án tôn giáo và bị tống giam ít ngày. Nhưng cuối cùng giáo thuyết của Ngài đã thắng.

Năm 1528, Ngài bỏ Salamanca đi Paris và Sorbonne. Ngài ở Paris 7 năm, nơi đây Ngài tụ họp được sáu môn sinh đầu tiên. Vào ngày lễ Mông Triệu năm 1534 bảy anh em đã long trọng hiến thân phụng sự Thiên Chúa, khấn giữ đức nghèo khó và trong sạch, tại đền thờ thánh Denis tại Montmartre. Lúc đó, họ dự định đi Giêrusalem và hiến thân cho việc cứu rỗi các linh hồn trong các miền còn ngoại giáo.

Ignatiô trở về Tây Ban Nha. Năm 1535, tu hội đã lên tới 10 người. Họ gặp nhau ở Venitia, định cùng đáp tàu đi hành hương thánh địa. Nhưng tình hình miền Đông Địa Trug Hải không cho phép. Bù lại một số đi Roma, để Ignatiô tại Venitia. Đức giáo hoàng Phaolô III ưu ái tiếp họ. Trở lại Ventia, họ mang theo phép của Đức Giáo hoàng cho Ignatiô và 6 anh em được thụ phong linh mục.

Một năm sau, thấy rằng: không thể tới thánh địa được, Ignatiô kết luận rằng ý Chúa không muốn cuộc hành hương này. Thay vào đó, Ngài đặt tu hội dưới danh hiệu “dòng Chúa Giêsu” dưới quyền xử dụng của toà thánh. Họ đi Roma và Ignatiô dâng thánh lễ đầu tiên ở đầu vào dịp lễ Giáng sinh năm 1538 tại đền thờ Đức Bà cả, Ngài soạn thảo hiến pháp của dòng mới và đến trình diện Đức giáo hoàng Phaolô III. Đức giáo hoàng đã phát biểu khi gặp họ: – Đây là bàn tay Thiên Chúa.

Và trong sắc lệnh Regimini Militantis Ecclesioe, ban hành tháng 9 năm 1540 Ngài đã chính thức công nhận hội dòng. Hội dòng thêm vào đó 3 lời khấn: nghèo khó, vâng lời, trong sạch, lời khấn đặc biệt vâng phục Đức giáo hoàng.

Trong hiến pháp đầu tiên, hội dòng giới hạn con số có 60 tu sĩ. Ignatiô được đồng thanh bầu làm bề trên ngày 7 tháng 4 năm 1541. Luật hạn định tu sĩ vào số 60 được rút lại bởi sắc lệnh của Đức giáo hoàng ngày 15 tháng 3 năm 1543.

Ignatiô khó rời bỏ Roma cho đến cuối đời. Nhưng hội dòng đã lan rộng tới mọi miền trên thế giới, dưới quyền hướng dẫn của Ngài như một phép lạ, khi Ngài từ trần vào ngày 3 tháng 7 năm 1556, hội dòng đã có 12 tỉnh dòng với 101 nhà và gần 1000 phần tử.

Thánh Ignatiô được suy tôn hiển thánh ngày 12 tháng 3 năm 1622.

(daminhvn.net)

+++++++++++++++++

31 Tháng Bảy

Tiếng Kêu Của Ếch 

Một vị ẩn sĩ đạo đức nọ nổi tiếng là người có thể sai khiến được thú vật.

Một buổi tối nọ, ông đang tịnh niệm cầu nguyện, một con ếch không biết từ đâu cất tiếng kêu lên inh ỏi. Vị ẩn sĩ cố gắng tập trung ý chí vào lời cầu nguyện để không còn nghe tiếng ếch kêu nữa. Nhưng ông càng cố gắng, tiếng ếch càng kêu to. Không còn tự chế được nữa, vị ẩn sĩ quát lên: “Hãy câm miệng cho ta cầu nguyện được không?”.

Mệnh lệnh đầy uy lực của nhà ẩn sĩ đã bịt miệng được chú ếch. Thinh lặng trở lại với không gian. Nhưng cũng chính lúc đó, nhà ẩn sĩ như nghe vang vọng trong tâm hồn ông một tiếng kêu khác. Ông nghe như có người nói với ông rằng: “Có lẽ Chúa cũng ưa thích tiếng kêu của ếch như lời cầu kinh của ngươi”. Vị ẩn sĩ hỏi vặn lại: “Tiếng kêu của ếch mà cũng làm cho lỗ tai của Chúa vui được sao?”. Tiếng kêu trong tâm hồn ông đáp trả: “Vậy thì ngươi có biết tại sao Chúa tạo ra âm thanh không?”.

Vị ẩn sĩ chợt hiểu được bài học từ trong nội tâm… Ông đến bên cửa sổ và ra lệnh cho chú ếch: “Nào, hãy hát lên đi”. Tiếng kêu của chú ếch vang lên, mấy chú ếch xung quanh cũng hòa theo một nhịp tạo thành một bài ca lúc trầm lúc bổng, lúc dặt dìu, lúc tha thiết… Ðêm vắng bỗng trở nên vui hơn.

Với sự khám phá trên đây, trái tim của nhà ẩn sĩ bỗng trở nên hài hòa với vũ trụ và lần đầu tiên trong đời, ông hiểu được thế nào là cầu nguyện.

Sự cầu nguyện thường cần phải có một khung cảnh thích hợp. Có một không gian đặc biệt dành cho cầu nguyện, có một quãng thời gian đặc biệt dành cho cầu nguyện, có một bầu khí đặc biệt dành cho cầu nguyện. Ðó là điều thiết yếu dành cho cuộc sống con người… Ðó là lý do hiện hữu của một bàn thờ nhỏ trong nhà, đó là mục đích của các ngôi thánh đường.

Tuy nhiên, sự cầu nguyện sẽ đánh mất của nó, nếu con người đóng khung nó trong một khung cảnh và bầu khí đặc biệt. Cầu nguyện là một gặp gỡ với Chúa và đồng thời cũng là một giao kết với tha nhân. Thiên Chúa, chúng ta không thể đóng khung trong bốn bức tường vắng lặng của nhà thờ. Con người, chúng ta phải gặp gỡ ngay trên chợ đời.

Thành ra, lời cầu nguyện đích thực phải là lời cầu nguyện mà con người có thể dâng lên Thiên Chúa trong bất cứ hoàn cảnh nào, trong bất cứ lúc nào, bằng tất cả cuộc sống. Lời cầu nguyện đích thực là lời cầu nguyện được thốt lên trong thời thuận tiện cũng như không thuận tiện. Lời cầu nguyện đích thực là cả một cuộc sống tuân phục ý Chúa, một cuộc sống hài hòa với tha nhân, một cuộc sống “xin vâng” trong từng phút giây.

(Lẽ Sống)

++++++++++++++++++

Lời Chúa Mỗi Ngày

Thứ Hai – Tuần 17 – TN1 – Năm lẻ

Bài đọc: Exo 32:15-24, 30-34; Mt 13:31-35.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Đức tin vững mạnh cần thiết để vượt qua gian khổ cuộc đời.

Trong thực tế, biết bao ví dụ đã chứng minh: càng sung sướng hạnh phúc bao nhiêu, con người càng dễ dàng quay lưng lại với Thiên Chúa và chạy theo những cám dỗ của ba thù bấy nhiêu. Vì thế, con người cần học hỏi để biết làm chủ vật chất, trước khi đương đầu với sự thành đạt cuộc đời. Một khí cụ tối cần thiết để con người có thể làm chủ cuộc đời là sự vững mạnh của đức tin và cuộc sống kết hợp mật thiết với Thiên Chúa.

Các Bài Đọc hôm nay dẫn chứng cho chúng ta thấy sự cần thiết của đức tin trong việc đối đấu với những chước cám dỗ. Trong Bài Đọc I, con cái Israel bỏ quên Thiên Chúa để tự tạo cho mình một con bê bằng vàng để thờ lạy, đang khi Thiên Chúa và ông Moses vất vả để thiết lập Thập Giới cho họ. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đưa ra hai dụ ngôn để dẫn chứng sự cần thiết phải làm cho đức tin vững mạnh.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Các ngươi không được thờ thần nào khác ngoại trừ Ta.

1.1/ Con cái Israel tự tạo cho mình một thần bê vàng để thờ lạy.

(1) Thiên Chúa quan tâm dạy dỗ dân qua Thập Giới: Đã dùng cánh tay uy hùng để đưa dân ra khỏi đất nô lệ cho người Ai-cập, Thiên Chúa còn thân hành dạy dỗ bằng cách ban Thập Giới cho con cái Israel qua vị lãnh đạo là ông Moses. Sau khi đã nhận lãnh Thập Giới từ Thiên Chúa, trình thuật kể: “Ông Moses từ núi trở xuống, tay cầm hai tấm bia Giao Ước; những bia ấy có viết cả hai mặt, mặt trước cũng như mặt sau. Những bia ấy là do Thiên Chúa làm ra, chữ là chữ của Thiên Chúa, khắc trên các bia.”

Khi tiến đến gần chân núi, hai ông nghe tiếng dân reo hò. Ông Joshua nói với ông Moses: “Có tiếng giao tranh trong trại!” Nhưng ông Moses nói: “Tôi nghe không phải tiếng ca chiến thắng, không phải lời than bại trận mà là tiếng ca đối đáp!” Và khi đến gần trại, ông thấy con bê và những bọn người đang nhảy múa: “Ông tức giận và ném các tấm bia đang cầm trong tay và đập vỡ dưới chân núi. Ông lấy con bê họ đã làm, đốt đi, tán nhuyễn ra, rắc lên mặt nước, rồi bắt con cái Israel uống.”

Ông Moses có ít nhất hai lý do để nổi giận với dân: Thứ nhất, con cái Israel đã mù quáng quay lưng lại với tình yêu của Thiên Chúa: thay vì phải kính mến yêu thương Người đã làm biết bao điều tốt lành cho mình lại chạy theo thờ phượng một con bò vô tri vô giác. Thứ hai, con cái Israel đã quá ngu dốt: trong khi Thiên Chúa đang lo lắng xây đắp một tương lai huy hoàng và vinh quang cho dân, họ lại chạy theo một bức tượng do bàn tay con người nhào lặn nên, chẳng có tí quyền năng gì cả.

(2) Lý do thờ bê vàng: Ông Moses hỏi ông Aaron, người đã ở lại với dân khi ông lên núi gặp gỡ Chúa: “Dân này đã làm gì ông mà ông đưa họ tới chỗ phạm một tội lớn như thế?” Ông Aaron nói: “Xin ngài chớ bừng bừng nổi giận; chính ngài biết dân này có khuynh hướng xấu. Họ nói với tôi: Xin ông làm cho chúng tôi một vị thần để dẫn đầu chúng tôi, vì chúng tôi không biết chuyện gì đã xảy ra cho cái ông Moses này, là người đã đưa chúng tôi lên từ đất Ai-cập. Tôi nói với họ: Ai có vàng? Họ đã gỡ đồ vàng đeo tai và đưa cho tôi; tôi ném vào lửa, và đã ra con bê này.”

Tục ngữ Việt-nam có câu rất thích hợp cho trường hợp này: “no cơm rửng mỡ.” Khi con người sống sung sướng hạnh phúc quá, họ bắt đầu làm chuyện đồi bại. Ngược lại, khi con người phải vất vả làm ăn và nghèo khó, họ biết thờ phượng, kính mến, và năng chạy đến với Chúa để kêu xin. Nhiều người lấy làm lạ tại sao trong hoang địa, không có dụng cụ luyện kim, mà ông Aaron có thể tạo thành con bê vàng này? Mục đích của tác giả không phải ở chỗ làm sao có con bê vàng; nhưng ở chỗ muốn chứng minh khuynh hướng sai lạc của con người khi đã có đầy đủ vật chất.

1.2/ Phạm tội phải đền tội:

(1) Ông Moses bầu cử cho dân: Tuy rất cương nghị trong khi sửa phạt con cái Israel; nhưng ông Moses rất có lòng thương họ. Ngày hôm sau, ông Moses nói với dân: “Anh em đã phạm một tội lớn, nhưng giờ đây tôi sắp lên gặp Đức Chúa; may ra tôi sẽ xin được Người xá tội cho anh em.” Đây phải là đức tính của những người lãnh đạo trong Giáo Hội và các bậc làm cha mẹ: vừa phải dứt khoát theo sự thật khi giáo dục, vừa phải thương yêu và tha thứ khi họ đã nhận ra lỗi lầm. Ông Moses trở lại với Đức Chúa và thưa: “Than ôi, dân này đã phạm một tội lớn! Họ đã làm cho mình một tượng thần bằng vàng! Nhưng giờ đây, ước gì Ngài miễn chấp tội họ! Bằng không, thì xin Ngài xoá tên con khỏi cuốn sách Ngài đã viết.” Ông Moses sẵn sàng hy sinh chết để toàn dân được sống.

(2) Thiên Chúa công bằng: Đức Chúa phán với ông Moses: “Kẻ nào phạm tội làm mất lòng Ta, Ta sẽ xoá tên nó khỏi cuốn sách của Ta. Bây giờ, ngươi hãy đi, đưa dân tới nơi Ta đã chỉ cho ngươi. Này thiên sứ của Ta sẽ đi trước mặt ngươi; nhưng đến ngày Ta trừng phạt, Ta sẽ trừng phạt chúng vì tội đã phạm.” Tội của ai, người ấy chịu; ông Moses không được phép gánh lấy các hình phạt của dân. Thiên Chúa sẽ sửa phạt họ, nhưng Ngài vẫn cho họ có cơ hội để ăn năn và sửa chữa các khuyết điểm. Nếu cứ ngoan cố trong tội lỗi, họ sẽ tự cách biệt họ khỏi Thiên Chúa ngay từ đời này, chứ chưa cần phải đợi tới đời sau. Con cái Israel bị rắn lửa cắn chết là một điển hình.

2/ Phúc Âm: Phải làm sao cho đức tin lớn mạnh.

2.1/ Dụ ngôn hạt cải: Đức Giêsu còn trình bày cho họ nghe một dụ ngôn khác về sự cần thiết của Lời Chúa trong tiến trình tăng trưởng của đức tin. Người nói: “Nước Trời cũng giống như chuyện hạt cải người nọ lấy gieo trong ruộng mình. Tuy nó là loại nhỏ nhất trong tất cả các hạt giống, nhưng khi lớn lên, thì lại là thứ lớn nhất; nó trở thành cây, đến nỗi chim trời tới làm tổ trên cành được.”

+ Hạt cải của Palestine có thể trở thành cây: chứ không giống như hạt rau cải của Việt-nam. Nó có thể cho trở thành cây cao rợp bóng cho chim trời đến trú ngụ.

+ Đức tin là quà tặng Thiên Chúa ban cho con người khi họ lãnh nhận Bí-tích Rửa Tội, tuy bắt đầu nhỏ bé; nhưng con người có thể làm cho đức tin trở nên vững mạnh để sinh ích cho mình và cho người khác.

2.2/ Dụ ngôn nắm men: Người còn kể cho họ một dụ ngôn khác: “Nước Trời cũng giống như chuyện nắm men bà kia lấy vùi vào ba thúng bột, cho đến khi tất cả bột dậy men.”

+ Men cũ: là chút bột lấy từ lần làm bánh trước; tuy nhỏ nhưng có khả năng làm dậy tới ba thúng bột.

+ Đức tin của con người cũng thế, các tín hữu phải làm sao cho đức tin tăng trưởng và thấm nhập mọi khía cạnh của cuộc sống; để không những sinh ích cho bản thân, mà còn lan rộng đến những người trong gia đình, trong cộng đoàn giáo xứ, và toàn thế giới.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Chúng ta luôn luôn phải đương đầu hằng ngày với những cám dỗ của cuộc sống; nếu không có một đức tin vững mạnh, chúng ta dễ bỏ Thiên Chúa để chạy theo cám dỗ của ba thù.

– Đức tin vững mạnh chúng ta có được là do sự luyện tập mỗi ngày qua việc cầu nguyện, tham dự Thánh Lễ, và học hỏi Kinh Thánh để biết về Thiên Chúa và thực hành mỗi ngày. 

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

****************