Ngày thứ năm (01-06-2023) – Trang suy niệm

31/05/2023

Lời Chúa Hôm Nay

Thứ Năm đầu tháng. Thánh Giúttinô

BÀI ĐỌC I: Hc 42, 15-26

“Các công trình của Chúa đầy ánh vinh quang của Người”.

Bài trích sách Huấn Ca.

Tôi sẽ ghi nhớ công trình của Chúa, và sẽ thuật lại những điều tôi đã thấy. Nhờ lời Chúa mà Chúa đã thực hiện những kỳ công. Mặt trời chiếu soi vạn vật, và công trình của Chúa đầy ánh vinh quang của Người.

Nào Chúa đã không ban cho các thánh được cao rao các việc kỳ diệu của Người, những việc mà Chúa toàn năng đã củng cố trong vinh quang của Người sao?

Người dò xét vực thẳm và lòng con người, thấu biết những mưu chước của họ, vì Chúa thấu suốt mọi sự và theo dõi những dấu thời đại, tuyên bố những gì thuộc về dĩ vãng và hậu lai, tỏ bày những dấu vết các việc ẩn kín. Không một tư tưởng nào mà Người không biết, không một lời nào có thể giấu được Người.

Người sắp đặt những kỳ công sự khôn ngoan của Người. Người có trước muôn đời và tồn tại muôn thuở, không thêm không bớt, không cần đến vị cố vấn nào. Mọi công trình của Người thực đáng quý chuộng, và như những ánh lửa người ta có thể ngắm nhìn. Mọi vật ấy đều sống động và tồn tại muôn đời, và vâng phục Người trong mọi hoàn cảnh. Tất cả đều có từng đôi và cái này đối diện với cái nọ, và Người không làm chi khuyết điểm. Vật này làm nổi bật vẻ đẹp cho vật kia. Và ai có thể nhàm chán nhìn xem vinh quang của Người?

Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 32, 2-3. 4-5. 6-7. 8-9

Đáp: Do lời Chúa mà trời xanh được tạo thành (c. 6a).

1) Hãy ngợi khen Chúa với cây đàn cầm, với đàn mười dây, hãy xướng ca mừng Chúa. Hãy ca mừng Người bài ca mới, hát mừng Người với tiếng râm ran.

2) Vì lời Chúa là lời chân chính, bao việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu chuộng điều công minh chính trực, địa cầu đầy ân sủng của Chúa.

3) Do lời Chúa mà trời xanh được tạo thành, và mọi cơ binh chúng đều do hơi thở miệng Người. Chúa thu nước biển lại như để trong bầu, Người đặt những ngọn sóng trong kho chứa đựng.

4) Toàn thể địa cầu hãy tôn sợ Chúa, mọi người sống trong vũ trụ hãy kính nể Người. Vì chính Người phán dạy mà chúng được tạo thành, chính Người ra lệnh mà chúng trở nên thực hữu.

ALLELUIA: Tv 144, 13cd

All. All. – Chúa trung thành trong mọi lời Chúa phán, và thánh thiện trong mọi việc Chúa làm. – All.

PHÚC ÂM: Mc 10, 46-52

“Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu ra khỏi thành Giêricô cùng với các môn đệ, và một đám đông, thì có con ông Timê tên là Bartimê, một người mù ăn xin đang ngồi ở vệ đường. Khi anh ta nghe biết đó là Chúa Giêsu Nagiarét, liền kêu lên rằng: “Hỡi ông Giêsu con vua Đavít, xin thương xót tôi”. Và nhiều người mắng anh bảo im đi, nhưng anh càng kêu to hơn: “Hỡi con vua Đavít , xin thương xót tôi”.

Chúa Giêsu dừng lại và truyền gọi anh đến. Người ta gọi người mù và bảo anh: “Hãy vững tâm đứng dậy, Người gọi anh”. Anh ta liệng áo choàng, đứng dậy, đến cùng Chúa Giêsu. Bấy giờ Chúa Giêsu bảo rằng: “Anh muốn Ta làm gì cho anh”? Người mù thưa: “Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy”. Chúa Giêsu đáp: “Được, đức tin của anh đã chữa anh”. Tức thì anh ta thấy được và đi theo Người.

Đó là lời Chúa.

(Nguồn: UBPV/HĐGMVN, ấn bản 1973)

++++++++++++++++++

01/06/2023 – THỨ NĂM ĐẦU THÁNG TUẦN 8 TN

Th. Giút-ti-nô, tử đạo

Mc 10,46-52

XIN CHO TÔI ĐƯỢC THẤY

Chúa Giê-su hỏi: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” Anh mù đáp: “Xin cho tôi được thấy.” Người nói: “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh.” (Mc 10,51-52)

Suy niệm: Có bịt mắt lại để sống trong cảnh mù loà thử một ngày, bạn mới hiểu nỗi khổ tâm của người bị mất ánh sáng, và mới hiểu nổi nỗi khao khát cháy bỏng của anh mù trong Phúc Âm thánh Mác-cô: ước mong được thấy. Anh cất tiếng kêu gào át cả tiếng ồn của đám đông: “Lạy ông Giê-su, Con Vua Đa-vít, xin thương xót tôi.” Và khi nghe Chúa gọi, người hành khất mù loà vứt bỏ mọi sự, kể cả áo choàng là vật bất khả ly thân của anh từ bấy lâu nay, để chạy bổ về phía Chúa. Chúa hỏi anh muốn gì, anh đáp không do dự: “Xin cho tôi được sáng mắt.” Quả thật lòng tin của anh đã cứu chữa anh. Không những anh được sáng cặp mắt thể lý mà còn được sáng cả cặp mắt linh hồn nữa, anh đã trở thành môn đệ của Người: “Anh được thấy và đi theo Người.”

Mời Bạn: Bạn có cảm nhận được nỗi bi đát khốn cùng của mình mỗi khi lâm một căn bệnh mù loà thiêng liêng chưa và bạn đã kêu cầu Ngài cứu chữa mình với tất cả nỗi lòng khao khát chưa? Hãy lắng nghe tiếng gọi của Chúa và mau mau đáp lời.

Chia sẻ: Có hay không sự mù loà thiêng liêng nơi một số người thời đại ngày nay? Phải làm gì để “xoá mù” thiêng liêng cho mình và cho người khác?

Sống Lời Chúa: “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước” (Tv 118,105). Bạn chuyên cần đọc và suy niệm Lời Chúa hằng ngày để được soi sáng “xoá mù” trong đời sống thiêng liêng.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin mở cho con đôi mắt linh hồn để con biết Chúa, biết con, để con biết nhìn mình và nhìn anh em bằng con mắt của Chúa.

(5 Phút Lời Chúa)

++++++++++++++++++

Suy niệm và cầu nguyện

Suy niệm:

Bị mù mắt, thật là khổ.
Cả thế giới như khép lại trong toàn một màu đen.
Nhiều người thà chọn bị câm điếc còn hơn là mù.
Tuy vậy thế giới người mù cũng không bị hoàn toàn đóng kín.
Người mù còn có tai mở ra để nghe, miệng mở ra để nói.
Nếu biết tận dụng những gì mình có,
người mù cũng “thấy” được nhiều điều.

Có một người mù ngồi bên vệ đường, sống bằng nghề ăn xin.
Tai anh nghe thấy b3ước chân rộn rã
của một đoàn người khá đông, đang đi ra khỏi thành Giêricô.
Khi biết trong đoàn người này có Đức Giêsu Nadaret,
Đấng nổi tiếng về chữa bệnh và trừ quỷ,
anh mù thấy ngay cơ hội mình chờ đợi bấy lâu, nay đã đến.
Anh quyết sẽ không bỏ lỡ cơ hội ngàn năm một thuở này.
Tuy bị mù, nhưng anh còn có tiếng nói.
Anh sẽ tận dụng tiếng kêu của mình để ông Giêsu chú ý đến anh:
“Lạy ông Giêsu, Con Vua Đavít, xin thương xót tôi!”
Tiếc thay tiếng kêu của anh lại bị át đi bởi những tiếng nạt nộ.
Nhiều người bắt anh im đi để khỏi gây trở ngại cho cuộc hành trình.

Chẳng những không im, anh mù càng kêu lớn tiếng,
vì anh biết rằng chỉ cần làm cho Giêsu nghe được tiếng kêu của mình,
dù chỉ một lần, thì đời mình sẽ hoàn toàn thay đổi.
Anh mù cứ nhắc đi nhắc lại cùng một điệp khúc xin xót thương.
Giữa đám đông ồn ào náo động,
Đức Giêsu có nghe được tiếng anh mù gọi tên mình không?
Có, dù rất nhỏ, dù chỉ một lần.
Tiếng kêu ấy vừa thống thiết, quyết liệt, vừa đầy tin tưởng, cậy trông.
Tiếng kêu ấy báo hiệu về một sự hiện diện mà Ngài chưa rõ.
Tiếng kêu làm cho Ngài dừng lại (c. 49).
“Gọi anh ta lại đây.”

Lúc nãy anh gọi Giêsu, bây giờ Giêsu nhờ người ta gọi anh (c. 49).
Khi biết mình được gọi, anh mù nhảy cẫng lên,
vất cả áo choàng lại mà bước tới.
Nhưng anh vẫn cần có ai dắt anh đến gần Giêsu.
Ngài đã nghe anh xin Ngài thương xót, nhưng cụ thể anh muốn xin gì:
“Anh muốn tôi làm gì cho anh?” (c. 51).
Đức Giêsu muốn anh nói lên ước muốn của mình.
“Thưa Thầy, Rabbouni, xin cho tôi thấy lại được.”
Anh mù đã được thấy lại, anh lại thấy mặt trời và người xung quanh.
Anh thấy Giêsu, người anh tin nhưng chưa một lần gặp mặt.
Giêsu cho anh ánh sáng để anh khỏi phải ngồi ăn xin ở vệ đường.
Giêsu giải phóng anh khỏi bóng tối và trả cho anh phẩm giá anh vốn có.
Giêsu đã dừng lại, đã bắt cả đám đông phải dừng lại, chỉ vì anh.
Bây giờ anh muốn hòa mình với đám đông để theo Ngài trên đường (c. 52).

Dưới góc độ nào đó, chúng ta đều là những người mù.
Có khi ta biết mình mù và muốn thoát khỏi cảnh mù tối như Bác Timê.
Nhưng có khi ta mù mà không biết, nên vẫn vô tư ở lại trong cảnh mù.
Tệ hơn nữa, có khi ta sáng mắt, nhưng lại cố ý không muốn thấy.
Cố ý không muốn thấy một sự thật rành rành chỉ vì cố chấp hay tư lợi.
Không thấy xà trong mắt mình, nhưng lại thấy rác trong mắt anh em.
Chúng ta vẫn cần người khác để được sáng mắt,
cần có ai đó dẫn ta mù lòa đến với Giêsu.

Điều gì có thể khiến ta bị mù?
Một định kiến có thể khiến ta khép lại trước một sự thật lớn hơn nhiều.
Điều ta biết, dù đúng, cũng chỉ là một phần nhỏ của toàn bộ sự thật.
Một đam mê, dục vọng cũng có thể làm chúng ta bị mù (1 Ga 2, 16),
không muốn sáng mắt vì sợ phải từ bỏ điều mình gắn bó.
“Ta khuyên ngươi đến với Ta mà mua thuốc
để xức mắt cho ngươi nhìn thấy được” (Kh 3, 18).
Mong Giêsu chữa lành mắt ta mỗi ngày.

Cầu nguyện:

Như người mù ngồi bên vệ đường
xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy.

Xin cho con được thấy bản thân
với những yếu đuối và khuyết điểm,
những giả hình và che đậy.

Cho con được thấy Chúa hiện diện bên con
cả những khi con không cảm nghiệm được.

Xin cho con thực sự muốn thấy,
thực sự muốn để cho ánh sáng Chúa
chiếu dãi vào bóng tối của con.

Như người mù ngồi bên vệ đường
xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

(phutcaunguyen.net)

++++++++++++++++++

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

1 THÁNG SÁU

Hơi Thở Sự Sống

Bản văn Thánh Kinh trong Sách Sáng Thế cho phép chúng ta hiểu rõ rằng con người – được tạo thành như thế – khác hẳn với toàn thể thế giới hữu hình, nhất là khác hẳn với thế giới động vật. Chính “hơi thở sự sống” đã làm cho con người có thể biết các động vật, có thể đặt tên cho chúng – và có thể nhận ra mình khác với chúng (St 2, 18 – 20).

Mặc dù trình thuật Gia-vít về cuộc tạo dựng con người không nói đến “linh hồn”, ta vẫn dễ dàng nhận ra từ trình thuật này rằng sự sống con người là một sự sống siêu việt trên sự sống thuần túy chất thể của động vật, rằng sự sống vượt quá vật chất để vươn tới chiều kích tinh thần. Đây chính là nền tảng cốt yếu của “hình ảnh Thiên Chúa” mà bản văn Sáng Thế 1, 27 nói về.

– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –

Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác

LIFT UP YOUR HEARTS

Daily Meditations by Pope John Paul II

+++++++++++++++++

Lời Chúa Trong Gia Đình

Ngày 01/6

Thánh Justinô, tử đạo

Hc 42, 15-25; Mc 10, 46-52.

Lời Suy niệm: Đức Giêsu và các môn đệ đến thành Giêrikhô. Khi Đức Giêsu cùng các môn đệ và một nhóm người khá đông ra khỏi thành Giêrikhô, thì có một người mù đang ngồi ăn xin bên vệ đường, tên anh ta là Batimê, con ông Timê, Vừa nghe nói đó là Đức Giêsu Nadarét, anh liền bắt đầu kêu lên rằng: “Lạy ông Giêsu, con vua Đavít xin rủ lòng thương tôi.”

          Trong thời điểm Chúa Giêsu có mặt ở Giêrikhô, có rất nhiều người đi theo Chúa Giêsu để nghe giáo huấn của Người và để tận mắt thấy được những phép lạ người làm, bởi sự xôn xao này, mà anh mù Batimê lấy làm lạ, và đã đứng lên hỏi cho biết; và khi đã được biết chính là Chúa Giêsu đang hiện diện nơi chốn của anh, anh đã mạnh dạn kêu lớn tiêng:  “Lạy ông Giêsu, con vua Đavít xin rủ lòng thương tôi.”. Tiếng kêu của anh đã bị dám đông muốn dập tắt, nhưng anh lại càng kêu to hơn nữa, và Chúa Giêsu đã nghe và Người mời đem anh ta lại cho Chúa, và Chúa đã chữa lành cho anh được thấy.

          Lạy Chúa Giêsu. Xin cho mỗi người trong chúng con, học được nơi anh mù Batimê: Nhận ra Chúa đang ngang qua đời mình, mau mắn đứng dậy kêu xin Chúa một cách tích cực với sự chân thành, và khi được Chúa cho gặp thì sẵn sàng vất áo choàng của mình mà đi theo Chúa. Amen.

Mạnh Phương

+++++++++++++++++

Gương Thánh Nhân

Ngày 01-06: Thánh GIUSTINÔ

Tử Đạo (+165)

Thánh Giustinô tử đạo sinh tại Nablus, Samaria ở vào đầu thế kỷ thứ II. Sinh trưởng trong một gia đình ngoại giáo, nhưng Ngài luôn nuôi dưỡng nhiệt tình tìm kiếm Thiên Chúa chân thật. Với nhiệt tình này, Ngài đã tiếp xúc với mọi triết thuyết đương thời và không thoả mãn được các đòi hỏi của trí khôn.

Trong tác phẩm “Đối thoại với Tryphon” (Dialogus cum Tryphone), chính thánh Giustinô kể lại cuộc tìm kiếm của mình: – Trước hết, Ngài tin tưởng vào một người theo phái khắc kỷ. Những người này chẳng dạy gì về Thiên Chúa. Ông ta nói rằng sư hiểu biết ấy không cần thiết gì. Sau đó, Ngài đến với một người theo thuyết của Aristote. Ông này đòi thù lao quá cao, khiến sinh viên trẻ là Giustinô phẫn uất: người ta không rao bán triết học.

Một người theo lý thuyết của Pythagore hỏi Ngài: – Anh đã học âm nhạc, thiên văn và địa lý chưa ? Bởi vì để chiêm ngưỡng điều góp phần tạo nên hạnh phúc cần phải biết học giải thoát tâm hồn khỏi các đối tượng hữu hình để có thể tiếp nhận được những đối tượng trong trí khôn và cho phép thấy được sự thiện mỹ nội tại.

Giustinô chưa biết gì về những môn học, nhưng lại thấy mình bị thúc bách tìm kiếm Thiên Chúa hơn. Ngài gặp một người theo phái Platon Ngài nói: – Sau nhiều đàm luận, tôi hiểu được những điều vô hình ở mức độ cao hơn. Việc chiêm ngưỡng thế giới tư tưởng chấp cánh cho tinh thần của tôi.

Dầu vậy, không có gì làm cho Ngài thỏa mãn được cơn khát chân lý. Tại Ephesô, Giustinô gặp một cụ già đầy khôn ngoan. Ông trách Ngài đã thích lý sự về từ ngữ hơn sự kiện. Ông đã cho Ngài một lời khuyên cao cả là hãy tìm đọc kinh thánh: phải vượt qua những giới hạn của trí khôn, phải đi xa trong thời gian hơn các triết gia, phải nghe các tiên tri là những người nói bởi Chúa Thánh Thần, nhất là phải cầu nguyện vì: – Không ai có thể thấy hay nghe được những điều này nếu Thiên Chúa và đức Kitô không cho họ hiểu biết.

Theo lời khuyên này, Giustinô đã khám phá ra Kitô giáo bảo đảm hơn triết học nhiều. Từ đấy đức tin là qui luật xử thế và sự thánh thiện lý tưỏng của Ngài, Ngài mở một trường học tại Rôma và sống đời tông đồ đích danh. – Tôi sẽ nói sự thật, không một đắn đo sợ sệt, cả vào lúc bị phân thay thành trăm mảnh.

Gương mẫu của các thánh tử đạo đánh động ngài rất nhiều: – Thấy họ kiên vững trước cái chết, tôi thầm nói rằng: họ không thể sống trong sự dữ và ham mê các khoái lạc được nữa.

Ngài sẽ tìm được ở đâu sự thăng hoa cuộc sống lớn lao hơn là trong Kitô giáo ? Bởi vậy Ngài đã tìm mở rộng môi trường hoạt động ra ngoài ranh giới lớp học và những cuộc tranh luận, bằng việc viết nhiều tác phẩm để phổ biến tư tưởng tôn giáo. Ngày nay chúng ta chỉ còn giữ lại được hai cuốn: Đối Thoại Với Tryphone, và Hộ Giáo. Nhưng với hai tác phẩm ấy, thánh Giustinô cũng tỏ ra là một nhà minh giáo có thế giá được thế kỷ thứ II và là người đã phác họa ra nền thần học Kitô giáo.

Từ một đức tin vững chắc vào các chân lý Kitô giáo. Thánh Giustinô đã không ngần ngại tìm hết khả năng trổi vượt của trí khôn để hai lần viết thơ can ngăn các bạo vương. Lần thứ nhất vào năm 138. Ngài viết cho Antonin Le Pieux và lần thứ hai cho Marcô Aurelio. Cả hai lần Ngài cố gắng chỉ dẫn đến kết quả là bị kết án tử hình.

Giustinô và các bạn bị dẫn tới trước mặt tổng trấn Rusticus, một người theo triết thuyết Khắc Kỷ. Ngài lớn tiếng tuyên xưng đức tin. – Không ai có lương tri mà lại bỏ rơi chân lý để theo sự lầm lạc cả.

Thánh nhân từ chối không chịu tố giác nơi các kitô hữu hội họp. Sau cùng Ngài và các bạn bi đánh đòn rồi bị chém đầu. Tài liệu còn ghi lai nhiều chân lý mà thánh nhân đã phát biểu trong cuộc đối thoại với Rustisus, chẳng hạn: – Mọi nguyên tắc chính đáng mà các triết gia và các nhà lập luật khám phá được và trình bày cũng phải nhớ ở điều mà Ngôi lời đã diễn tả một phần.

Ngài còn nói: – Không ai tin Socrate đến độ chết vì điều ông ta dạy. Chính vì những lý do khác hẳn với lãnh vực văn chương mà bao nhiêu giáo phụ đã lấy máu mình để ký nhận các công trình của các Ngài, chính tình yêu Thiên Chúa nhập lòng các Ngài.

(daminhvn.net)

+++++++++++++++++

01 Tháng Sáu

Con Người Khờ Khạo 

Một cuốn phim Pháp với tựa đề “Gigot”, đã kể lại cuộc đời cao thượng nhưng vô cùng đáng thương của một người câm tên là Gigot. Ðúng như cái tên có thể gợi lên, Gigot là một người khờ khạo nhưng có một tâm hồn cao quí. Ngày ngày anh quét đường, kiếm từng đồng xu nhỏ để mua những mẩu bánh mì vụn sống qua ngày. Nơi trú ngụ của anh là một cầu thang bẩn thỉu nằm bên dưới một ngôi nhà. Những người bạn duy nhất của anh là các chú chó và một con mèo hoang. Hằng ngày, từ tiệm bánh mì đi ra, anh đều mang theo thức ăn cho chúng. Anh đi đâu, chúng quấn quít bên người đến đó… Những con thú thương anh như một người bạn, nhưng những người đồng bào của anh chỉ nhìn anh như trò đùa. Mỗi khi cần có một trận cười, người ta gọi Gigot đến cho anh uống rượu để anh có thể nhảy múa trong cơn say và làm trò hề cho họ.

Một đêm nọ, sau khi say túy lúy và làm đủ trò hề cho thiên hạ cười, Gigot đi ngã ngiêng về nhà giữa cơn mưa. Anh bắt gặp một người đàn bà và một đứa con gái nhỏ đang nằm co ro trong góc hè phố, mình mẩy ướt như chuột lột. Anh dìu hai mẹ con người đàn bà về nhà mình và dọn chỗ cho họ qua đêm. Trong những ngày kế tiếp, anh tìm đủ mọi cách để làm cho người đàn bà được hạnh phúc và cô bé được vui cười. Anh đưa cô bé đến nhà thờ và dùng thứ ngôn ngữ câm của mình để nói với nó về Chúa Giêsu… Một hôm, người mẹ muốn đi nơi khác vì không chịu nổi cảnh thiếu thốn trong căn nhà của anh. Người câm không biết làm gì hơn là đành phải đến hiệu bánh mì quen để đánh cắp một số tiền. Với số tiền ấy, anh có thể sắm sửa tươm tất cho hai mẹ con người đàn bà…

Thế nhưng, một hôm, khi thức giấc, anh không còn thấy người đàn bà trong căn gác của mình nữa. Anh đưa cô bé vào sâu trong cầu thang và làm trò đùa cho nó cười. Vô tình, căn gác đổ nát sụp xuống trên anh và đứa bé. Anh vừa mang đứa bé đến nhà thờ để xin cha sở chạy chữa, thì người ta cũng phát giác ra sự mất tích của nó… Người ta tri hô lên anh là thủ phạm bắt cóc đứa bé. Cuộc săn đuổi đã làm anh trượt té xuống một dòng sông… Một chiếc phà chạy qua. Chiếc mũ của anh trồi lên. Mọi người tưởng rằng anh đã chết chìm giữa dòng sông… Sự cảm thông và thương tiếc bỗng bừng dậy, người ta lấy chiếc mũ của anh, đặt lên một chiếc quan tài và cử hành nghi lễ tống táng. Người người sụt sùi khóc. Bao nhiêu bài điếu văn được đọc lên để ôn lại tấm lòng cao thượng của người quá cố… Nhưng từ một chòm cây trong nghĩa địa, Gigot lắng nghe tất cả, anh bật thành tiếng khóc, khóc vì sự cảm thông quá muộn màng của người đồng loại, mà có lẽ cũng khóc khi nghĩ đến thân phận của anh.

Hôm nay chúng ta bước vào tháng dành riêng để tôn kính Trái Tim Chúa Giêsu…. Có riêng một tháng để nhắc nhớ cho con người về Tình Yêu của Thiên Chúa, bởi lẽ con người không hiểu mà cũng dễ quên tình yêu của Thiên Chúa…

Thiên Chúa cũng giống như một người tình câm. Ngài làm mọi sự và tìm đủ mọi cách để cho con người hiểu được Tình Yêu của Ngài. Không còn ngôn ngữ nào nữa, Thiên Chúa đành phải dùng chính cái chết, bởi lẽ không có tình yêu nào trọng đại cho bằng mối tình của người chết vì người mình yêu…

“Chúng sẽ nhìn xem Ðấng chúng sẽ đâm thâu qua”. Qua cái chết của Ðức Kitô trên thập giá, con người mới có thể thấy được tình yêu của Thiên Chúa đối với mình. Cái chết là ngôn ngữ cuối cùng của Tình Yêu. Mối tình câm lặng nhất đã được bày tỏ…

(Lẽ Sống)

++++++++++++++++++

Lời Chúa Mỗi Ngày

Thứ Năm – Tuần 8 – TN1 – Năm Lẻ

Bài đọc: Sir 42:15-25; Mk 10:46-52.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sự quí trọng của con mắt.

Trong năm giác quan của con người, con mắt là quan năng cao trọng hơn cả; vì chúng cung cấp cho trí khôn những ảnh niệm để suy luận. Con mắt được dùng để nhìn và để đọc. Con người có thể dùng con mắt để nhìn thấy những kỳ công của Thiên Chúa tạo dựng, hay để đọc những gì hay mà người khác viết về Ngài. Con mắt luôn đi đôi với trí khôn suy luận. Con người có thể suy luận để biết có Thiên Chúa qua tất cả những gì con người nhìn thấy hay đọc được.

Các bài đọc hôm nay tập trung trong sự quan trọng của con mắt. Trong bài đọc I, tác giả Sách Huấn Ca dùng con mắt để chiêm ngưỡng những kỳ công Thiên Chúa tạo dựng, và dùng trí khôn để suy niệm sự quan phòng của Thiên Chúa, trước khi ông có thể tường thuật lại những gì Ngài làm để cho thế hệ tương lai được biết. Trong Phúc Âm, anh mù Bartimê đã cảm nghiệm được sự đau khổ của việc mù lòa, nên khi biết Đức Kitô đi ngang qua, anh nhất định la to lên xin chữa lành, và Ngài đã cho anh nhìn thấy.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Những điều mắt thấy, tôi sẽ kể lại.

1.1/ Sự tạo dựng tuyệt vời của Thiên Chúa: Rất nhiều tác giả của Kinh Thánh đã buộc tội con người khi họ có mắt nhìn mà vẫn không tin Thiên Chúa như tác giả của Thánh Vịnh, Isaiah, Job… Thánh Phaolô cáo buộc những người không tin như sau: “Những gì người ta có thể biết về Thiên Chúa, thì thật là hiển nhiên trước mắt họ, vì chính Thiên Chúa đã cho họ thấy rõ. Quả vậy, những gì người ta không thể nhìn thấy được nơi Thiên Chúa, tức là quyền năng vĩnh cửu và thần tính của Người, thì từ khi Thiên Chúa tạo thành vũ trụ, trí khôn con người có thể nhìn thấy được qua những công trình của Người. Do đó, họ không thể tự bào chữa được, vì tuy biết Thiên Chúa, họ đã không tôn vinh hay cảm tạ Người cho phải đạo. Trái lại, đầu óc họ suy luận viển vông và tâm trí ngu si của họ hoá ra mê muội. Họ khoe mình khôn ngoan, nhưng đã trở nên điên rồ” (Rom 1:18-22). Tác giả Sách Huấn Ca bày tỏ niềm tin tương tự: “Tôi sẽ nhắc lại những công trình của Đức Chúa, những điều mắt thấy, tôi sẽ kể lại. Do lời Đức Chúa mà có những công trình của Người.”

1.2/ Sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa: Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ cách tuyệt vời như thế, Ngài còn quan phòng mọi sự cách kỳ diệu hơn nữa. Tác giả liệt kê một số những điều quan sát thấy:

(1) Thiên Chúa biết tất cả mọi sự xảy ra trong trời đất, ngay cả những ý nghĩ sâu thẳm trong tâm hồn con người: “Người dò thấu vực thẳm và cõi lòng nhân thế, hiểu rõ toan tính của con người… Không một ý nghĩ nào Người không thấu suốt, chẳng một lời nào là bí ẩn đối với Người.”

(2) Thiên Chúa không những biết hiện tại, mà còn thấu suốt mọi dĩ vãng, tương lai: “Người công bố dĩ vãng và tương lai, và mặc khải dấu vết của những điều bí ẩn.” Vì đối với Thiên Chúa, mọi sự đều xảy ra trong hiện tại.

(3) Thiên Chúa quan phòng mọi sự cách khôn ngoan: Trong sự quan phòng, Ngài chẳng cần phải thay đổi điều chi cả, và cũng chẳng cần ai làm cố vấn cho Ngài. Thiên Chúa điều khiển mọi sự xảy ra trong vũ trụ, những gì con người có thể thấy hay hiểu và những gì con người không thể thấu hiểu. Tất cả mọi sự đều vâng phục Ngài. Tác giả cho chúng ta hai ví dụ về sự quan phòng khôn ngoan của Thiên Chúa: Thứ nhất, Thiên Chúa dựng nên các sinh vật đều có đôi để truyền sinh, để bổ túc cho nhau, và để giúp nhau tìm được niềm vui. Thứ hai, là sự hòa điệu nhịp nhàng của muôn vật trong vũ trụ: “Vật này làm tôn vẻ đẹp của vật kia, nhìn ngắm vinh quang của Người, ai mà chán được?”

2/ Phúc Âm: “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được.”

2.1/ Niềm tin vững chắc của anh mù Bartimê: Trình thuật Marcô cho ta biết những đức tính của anh.

(1) Anh biết nhu cầu của mình: Mù lòa là sống trong tăm tối, nhìn đâu cũng toàn thấy một màu đen, đi đâu cũng phải có người dắt. Còn gì khổ hơn người suốt đời không nhìn thấy ánh sáng. Vì mù lòa nên anh không thể tự kiếm ăn, anh phải ăn xin vệ đường và chịu mọi người khinh bỉ. Mù lòa thể xác dẫn tới mù lòa trí tuệ và tinh thần, những mù lòa này còn khổ hơn vì phải sống trong sự giả trá sai lạc. Mù lòa thiêng liêng chỉ có thể được soi sáng bằng những sự thật đến từ Thiên Chúa. Chỉ có Ngài mới có thể cất đi mù lòa và soi sáng tâm hồn. Chúa Giêsu từng xác nhận: “Ta là ánh sáng thế gian… Ta là Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống.” Còn gì khổ hơn người suốt đời không biết sự thật, nhất là sự thật về đích điểm của cuộc đời. Anh biết mình cần được sáng mắt; vì thế khi được Chúa Giêsu hỏi: “Anh muốn Ta làm gì cho anh?” Anh không chút ngần ngại trả lời: “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được.”

(2) Anh biết người nào có thể chữa mình: Bartimê mù chứ không điếc, anh để ý nghe ngóng những gì người ta đồn thổi. Qua sự nghe ngóng, anh tin chỉ có Chúa Giêsu mới có thể chữa anh khỏi mù. Khi cơ hội gặp Chúa Giêsu đến, anh nhất định không chịu bỏ qua.

(3) Anh không để bất cứ một trở ngại nào ngăn cản mình đến với thầy thuốc: Khi Chúa Giêsu đi ngang qua, anh mù gọi Chúa hai lần, lần thứ hai to hơn lần thứ nhất dù đã bị đám đông ngăn cấm. Khi biết Chúa gọi mình, anh tung áo choàng, bỏ tất cả mọi của cải anh có, đứng phắt dậy và chạy đến với Ngài. Người đang sống trong mù lòa đường thiêng liêng cũng cần có thái độ tương tự như anh. Đừng bỏ lỡ cơ hội học hỏi về Chúa, vì biết đâu khi cơ hội đã qua, nó sẽ không bao giờ trở lại nữa.

(4) Anh là người biết ơn và trả ơn Thiên Chúa: Sau khi được chữa lành, anh không bỏ đi như 9 người phong hủi; anh tung tăng đi theo Chúa Giêsu, có lẽ để ca tụng tình thương của Ngài đã dành cho anh cho mọi người được biết.

2.2/ Lòng thương xót của Chúa Giêsu: Thiên Chúa không bao giờ từ chối con cái vững lòng trông cậy nơi Ngài. Chúa Giêsu ban ánh sáng cho người mù vì Ngài nhìn thấy khát vọng được có ánh sáng và niềm tin của anh. Người nói: “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!” Tức khắc, anh ta nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi.

Thiên Chúa chắc chắn không để những người muốn tìm hiểu về Ngài phải thất vọng. Ngài ban cho mọi người có rất nhiều cơ hội để học hỏi về Ngài và về Đức Kitô, qua việc gởi các sứ giả đến rao giảng Tin Mừng bên ngoài và gởi Thánh Thần làm việc bên trong tâm hồn con người. Ai thành tâm đi tìm Ngài, chắc chắn sẽ được Ngài cho gặp.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Đôi mắt là cửa sổ của linh hồn, chúng ta hãy biết dùng đôi mắt để nhận ra những điều kỳ diệu Thiên Chúa đã làm và tin vào Ngài.

– Người mù phần xác đã khổ, người mù về tâm linh còn khổ hơn. Chúng ta đừng nhìn những gì Thiên Chúa tạo dựng cách thờ ơ, lãnh đạm; nhưng phải biết suy nghĩ để nhận ra Người đã tạo dựng nên chúng và tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

****************