Ngày thứ sáu (11-10-2019) – Trang suy niệm

10/10/2019

Lời Chúa Hôm Nay

Thứ Sáu Tuần XXVII Mùa Thường Niên Năm lẻ

BÀI ĐỌC I: Ge 1, 13-15; 2, 1-2

“Ngày của Chúa, ngày của u tối mù mịt”.

Trích sách Tiên tri Giôel.

Hỡi các tư tế, hãy thắt lưng và kêu khóc! Hỡi các thừa tác viên bàn thờ, hãy la lên! Hỡi các thừa tác viên của Thiên Chúa tôi, hãy tiến vào, hãy mặc áo vải gai mà thức suốt đêm, vì lễ chay, lễ quán bị cất khỏi đền thờ Thiên Chúa các ngươi.

Hãy công bố cuộc chay thánh. Hãy triệu tập đại hội. Hãy tụ họp các bô lão, tất cả những dân cư trong nước hiệp mặt lại trong đền thờ Thiên Chúa các ngươi và hãy kêu cầu Chúa: Ôi, ôi, ôi! ngày vô phúc, vì ngày của Chúa gần đến rồi, nó đến như cuộc tàn phá do Đấng Quyền Năng thực hiện.

Hãy thổi kèn tại Sion! Hãy la lối trên núi thánh của Ta! Tất cả dân cư trong nước hãy run sợ, vì ngày Chúa đã gần đến rồi, ngày u tối mù mịt, ngày mây đen bão táp: một dân tộc đông đảo và hùng mạnh như rạng đông giãi trên các núi đồi, từ cổ chí kim và bao thế hệ về sau cũng chẳng xảy ra giống như vậy. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 9, 2-3. 6 và 16. 8-9

Đáp: Chúa công minh thống trị địa cầu (c. 9a).

Xướng:

1) Lạy Chúa, con sẽ ca tụng Chúa hết lòng, con sẽ kể ra mọi điều lạ lùng của Chúa. Con sẽ mừng rỡ hân hoan trong Chúa, con sẽ đàn ca danh Ngài, lạy Đấng Tối Cao. – Đáp.

2) Chúa trách phạt chư dân, diệt vong đứa ác, bôi nhoà tên tuổi chúng tới muôn đời. Người chư dân rơi chìm xuống hố mà họ đã đào, chân họ mắc vào cái bẫy mà họ đã che. – Đáp.

3) Nhưng Chúa ngự trị tới muôn đời, Ngài dựng vững ngai vàng ngõ hầu cai trị. Ngài công minh thống trị địa cầu, Ngài chính trực xét xử chư dân. – Đáp. 

ALLELUIA: Lc 19, 38

Alleluia, alleluia! – Chúc tụng Đức Vua, Đấng nhân danh Chúa mà đến! Bình an trên trời, và vinh quang trên các tầng trời! – Alleluia. 

PHÚC ÂM: Lc 11, 15-26

“Nếu Ta nhờ ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, ắt là nước Thiên Chúa đã đến giữa các ngươi rồi”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. 

Khi ấy, (lúc Chúa Giêsu trừ quỷ), thì có mấy người trong dân chúng nói rằng: “Ông ta nhờ tướng quỷ Bêelgiêbút mà trừ quỷ”. Mấy kẻ khác muốn thử Người, nên xin Người một dấu lạ từ trời xuống.

Nhưng Người biết ý của họ, liền phán: “Nước nào tự chia rẽ, sẽ diệt vong, và nhà cửa sẽ sụp đổ chồng chất lên nhau. Vậy nếu Satan cũng tự chia rẽ, thì nước nó làm sao đứng vững được? Bởi các ngươi bảo Ta nhờ Bêelgiêbút mà trừ quỷ, vậy nếu Ta nhờ Bêelgiêbút mà trừ quỷ, thì con cái các ngươi nhờ ai mà trừ? Bởi đó chính con cái các ngươi sẽ xét xử các ngươi. Nhưng nếu Ta nhờ ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, ắt là nước Thiên Chúa đã đến giữa các ngươi rồi.

“Khi có người khoẻ mạnh và võ trang đầy đủ canh giữ nhà mình, thì của cải người đó được an toàn. Nhưng nếu có người mạnh hơn xông đến đánh bại hắn, thì sẽ tước hết khí giới hắn tin tưởng, và làm tiêu tán hết những gì đã tước đoạt. Ai không thuận với Ta là nghịch cùng Ta, và ai không thu góp với Ta là phân tán.

“Khi thần ô uế ra khỏi người nào, thì nó đi dông dài những nơi khô ráo, tìm chỗ nghỉ ngơi, nhưng không tìm được, nên nó nói rằng: ‘Ta sẽ trở lại nhà ta, nơi ta đã ra đi’. Khi đến nơi, nó thấy nhà đó đã được quét sạch và sắp đặt ngăn nắp. Bấy giờ nó đi rủ bảy tà thần khác hung ác hơn nó, chúng vào cư ngụ ở đó. Và tình trạng sau cùng của người ấy trở nên tệ hại hơn trước”. Đó là lời Chúa.

(thanhlinh.net)

++++++++++++++++++

11/10/2019 – THỨ SÁU TUẦN 27 TN

Th. Gio-an XXIII, giáo hoàng       

Lc 11,15-26

NGÓN TAY CỦA THIÊN CHÚA

“Nếu tôi dựa thế Bê-en-dê-bun mà trừ quỷ, thì con cái các ông dựa thế ai mà trừ ? Còn nếu tôi dùng ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, thì quả là Triều Đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông.” (Lc 11,19-20)

Suy niệm: Đừng hiểu cách nói “ngón tay của Thiên Chúa” một cách lệch lạc theo kiểu Maradona ghi bàn bằng tay của mình rồi nói “xiên xẹo” đó là “bàn tay của Chúa”! Lịch sử cứu độ đã coi việc Thiên Chúa giải thoát dân Do Thái khỏi ách nô lệ Ai-Cập là công cuộc kỳ diệu do “ngón tay Thiên Chúa” can thiệp, tay quyền năng và sức mạnh. Khi nói Đức Giê-su dùng “ngón tay Thiên Chúa” để trừ quỉ, thánh Lu-ca muốn tuyên xưng rằng Đức Giê-su là Đấng có quyền năng trên mọi thế lực ác thần, hôm nay đang tiếp tục dùng quyền năng Thiên Chúa cứu rỗi từng con người. Ngài giảng dạy và làm phép lạ cứu chữa để chứng minh Ngài là Đấng có quyền năng tha tội, quyền chỉ dành riêng cho Thiên Chúa.

Mời Bạn: Có bao giờ bạn ngồi nhìn lại một ngày sống qua để nhận biết bàn tay Chúa can dự vào cuộc đời bạn không? Ngày hôm nay, Thiên Chúa vẫn cho chúng ta dấu chỉ của thời đại. Chỉ khi dựa vào Lời Chúa, chúng ta mới tìm ra ý nghĩa trọn vẹn của những dấu chỉ đó, và nhờ đó nhận ra Thiên Chúa quyền năng đang hiện diện hôm nay, nơi này để tin yêu phó thác.

Chia sẻ: Bạn kể ra những việc Chúa làm hôm nay trong thế giới này.

Sống Lời Chúa: Giúp nhau nhận ra ơn Chúa giúp trong những việc chung đang làm để cảm tạ Chúa.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho tâm trí con sáng tỏ để nhận biết Chúa ở bên con không rời. Hơn thế, Chúa còn ở trong con bằng Thánh Thể Chúa. Ôi lạy Chúa của lòng con.

(5 Phút Lời Chúa)

++++++++++++++++++

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

11 THÁNG MƯỜI

Bài Sai Muôn Thuở

Lời Chúa Giêsu, Đấng Cứu Độ chúng ta, vẫn luôn vang vọng: ”Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm Phép Rửa cho họ nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và này đây, Thầy ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 19-20).

Đó là những lời sau cùng của Chúa trước khi Ngài rời bỏ mặt đất cách hữu hình để trở về với Cha. Những lời ấy, trong sức mạnh và hiệu năng của nó, cho thấy rõ căn tính của Giáo Hội – đó là một Giáo Hội được ủy thác kho tàng sự thật và ơn cứu độ thần linh không phải để giữ cho riêng mình nhưng là để thông chia cho mọi người khác nữa. Những lời ấy của bản văn Tin Mừng theo Thánh Matthêu là hiến pháp của Giáo Hội, vì Giáo Hội, tự bản chất của mình, là một cơ chế truyền giáo.

Loan báo Tin Mừng, đó là công bố cho toàn thế giới ơn cứu độ trong Đức Kitô Giêsu, Đấng đã chết và sống lại để làm Chúa của kẻ sống và người chết. Từ bối cảnh đó, chúng ta hiểu ý tưởng của Thánh Augustinô, như được Công Đồng Vatican II lặp lại: “Các Tông Đồ, là nền móng của Giáo Hội, bắt chước mẫu gương của Chúa Kitô, đã rao giảng lời chân lý và xây dựng các giáo đoàn” (AG, 1).

– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –

Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác

LIFT UP YOUR HEARTS

Daily Meditations by Pope John Paul II

+++++++++++++++++

Lời Chúa Trong Gia Đình

NGÀY 11/ 10

Thánh Gioan XXIII, giáo hoàng

Ge 1, 13-15; 2, 1-2; Lc 11, 15-26.

LỜI SUY NIỆM: “Còn nếu tôi dùng ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, thì quả là triều đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông.”

          Ngón tay. Chúa Giêsu “Dùng ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ”. Nếu là Luật Thiên Chúa được ghi trên các bia đá, do chính tay Thiên Chúa (Xh 31,18); thì “lá thư của Đức Kitô” được trao cho các Tông Đồ chăm sóc đã viết, bằng Thần Khí của Thiên Chúa hằng sống, không phải ghi trên những tấm bia bằng đá, nhưng trên những tâm hồn bằng thịt tức là lòng người.” (2Cr 3,3)

          Lạy Chúa Giêsu, Xin cho chúng con luôn biết cọng tác với Chúa qua Giáo Hội, để mưu cầu hạnh phúc cho con người.

Mạnh Phương

+++++++++++++++++

Gương Thánh Nhân

Ngày 11/10: Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII

Đức Gioan XXIII, sinh tại làng Sotto il Monte, thuộc tỉnh Bergamo, vào ngày 25.11.1881, con trai đầu của ông Giovanni Battista Roncalli và bà Marianna Mazzola.

Ngay buổi chiều hôm đó, trẻ sơ sinh được rửa tội, lấy tên là Angelo Giuseppe, người đỡ đầu là ông Zaverio Roncalli, một trong những người bác của ông bố Battista, rất đạo đức, ở độc thân, tự nhận lấy bổn phận dạy giáo lý cho nhiều đứa cháu. Sau này, Đức Gioan XXIII đã cảm động nhớ lại nhiều kỷ niệm và biết ơn về những lo lắng chăm sóc của ông.

Ngay từ thời thơ ấu, đã có một khuynh hướng nghiêm chỉnh về đời sống Giáo hội, nên sau khi học học bậc tiểu học, cậu chuẩn bị vào chủng viện giáo phận nhờ sự trợ giúp học thêm tiếng Ý và tiếng Latinh của một số linh mục trong khi theo học tại một trường có uy tín của Celana. Ngày 07.11.1892, cậu gia nhập chủng viện Bergamo, nơi đó cậu được xếp vào năm thứ ba của bậc trung học. Sau một khởi đầu khó khăn vì chưa được chuẩn bị đầy đủ, cậu tiến nhanh trong việc học tập và huấn luyện thiêng liêng, nhờ đó các bề trên đã chuẩn nhận trước khi kết thúc năm thứ mười bốn để thầy được lãnh nhận chức cắt tóc. Sau khi hoàn tất tốt đẹp năm thứ hai của thần học vào tháng Bảy năm 1900, thì vào tháng Giêng năm sau, thầy được gửi về Roma vào chủng viện Apollinare, nơi có một số học bổng cho hàng giáo sĩ thuộc giáo phận Bergamo. Tuy phải thi hành nghĩa vụ quân sự tại Bergamo từ ngày 30 Tháng 11/1901, việc huấn luyện chủng sinh cũng đặc biệt mang lại kết quả tốt đẹp.

Ngày 13 tháng 7 năm 1904, khi còn rất trẻ, mới hai mươi tuổi rưỡi, thầy đậu tiến sĩ thần học. Với sự nhận xét đặc biệt của các bề trên, ngày 10 tháng 8 năm 1904, thầy được thụ phong linh mục trong nhà thờ Đức Maria di Monte Santo; ngài cử hành Thánh Lễ đầu tiên vào ngày hôm sau trong Vương cung Thánh đường Thánh Phêrô, dịp này ngài quyết tâm tận hiến hoàn toàn cho Chúa Kitô và hết lòng trung thành với Giáo hội. Sau một thời gian ngắn về nghỉ tại quê nhà, vào tháng Mười, ngài bắt đầu theo học giáo luật tại Rôma, và rồi phải nghỉ học vào tháng Hai năm 1905, khi ngài được chọn làm thư ký của Giám Mục mới của giáo phận Bergamo, Đức cha Giacomo Radini Tedeschi. Mười năm làm việc hết mình bên cạnh một giám mục có thẩm quyền, rất năng động và đầy sáng kiến, giúp cho giáo phận Bergamo trở nên một mô hình cho Giáo Hội Ý.

Ngoài nhiệm vụ thư ký, ngài còn kiêm nhiệm nhiều công việc khác. Từ năm 1906, ngài còn đảm nhiệm giảng dạy nhiều môn học trong chủng viện: lịch sử giáo hội, giáo phụ và biện giáo; từ 1910, ngài cũng phụ trách môn thần học cơ bản. Ngoại trừ khoảng thời gian ngắn ngưng nghỉ, ngài vẫn tiếp tục làm những công việc đó đến năm 1914. Việc học hỏi về lịch sử đã giúp ngài viết một số nghiên cứu lịch sử địa phương, như xuất bản những chuyến viếng thăm mục vụ của thánh Carlo Bergamo (1575), một nỗ lực trong nhiều thập kỷ dài và tiếp tục cho đến những ngày trước cuộc bầu cử Giáo hoàng. Ngài cũng là chủ nhiệm tờ báo định kỳ của giáo phận “La Vita Diocesana” và kể từ năm 1910, ngài làm trợ úy cho Liên hiệp những Phụ nữ Công giáo.

Cái chết bất ngờ của Đức Giám mục Radini năm 1914 chấm dứt một kinh nghiệm mục vụ tuyệt vời của ngài, mặc dù gặp một vài đau khổ chẳng hạn như những lời buộc tội vô căn cứ chống lại ngài từ chủ nghĩa hiện đại, vị Giáo hoàng tương lai Gioan XXIII luôn xem như điểm quy chiếu chính qua các công việc được trao phó theo từng giai đoạn. Chiến tranh bùng nổ vào năm 1915, ngài làm tuyên úy hơn ba năm với cấp bậc trung sĩ trong việc chăm sóc thương binh tại các bệnh viện ở Bergamo, và ngài đã có những việc làm rất anh hùng. Vào tháng Bảy năm 1918, ngài sẵn sàng phục vụ cho những người lính bị bệnh lao, dù biết rằng có nguy cơ bị lây nhiễm.

Hoàn toàn bất ngờ với lời mời của Đức Giáo hoàng về phụ trách công việc của Bộ Truyền giáo tại Ý, trong khi ở Bergamo. ngài mới bắt đầu kinh nghiệm Nhà sinh viên, một nơi vừa nội trú, vừa học viện, và đồng thời ngài cũng làm linh hướng trong chủng viện. Sau nhiều do dự, ngài đã nhận lời và bắt đầu công việc cách thận trọng và tế nhị đối với những liên hệ với các tổ chức truyền giáo đã có. Ngài đã thực hiện một chuyến đi lâu dài ra ngoại quốc để thi hành kế hoạch của Tòa Thánh nhằm mang về Roma những tổ chức khác nhau để hỗ trợ cho công cuộc truyền giáo và viếng thăm một số giáo phận Ý để quyên góp nguồn tài trợ và giải thích về công việc mà ngài đang phụ trách.

Vào năm 1925, với sự bổ nhiệm làm Visitatore Apostolico tại Bulgaria, ngài đã bắt đầu giai đoạn phục vụ cho ngành ngoại giao của Tòa Thánh cho đến năm 1952. Sau lễ phong chức giám mục diễn ra tại Rome vào ngày 19 tháng 3 năm 1925, ngài khởi hành đi Bulgaria với nhiệm vụ giúp đỡ cho cộng đoàn Công giáo nhỏ bé và đang gặp nhiều khó khăn tại đó. Khởi đầu công việc và tiếp tục cả hàng chục năm, Đức cha Roncalli đã đặt nền móng cho việc thiết lập một Tông tòa mà ngài đã được bổ nhiệm làm vị đại diện đầu tiên vào năm 1931. Tuy gặp nhiều khó khăn, nhưng ngài đã tái tổ chức được Giáo Hội Công giáo, phục hồi được mối quan hệ thân thiện với Chính phủ và Hoàng gia Bulgaria, mặc dù có đôi chút trở ngại vì đám cưới theo nghi lễ chính thống của vua Boris với công chúa Giovanna của hoàng gia Savoia, và đó cũng là dịp để khởi động những mối quan hệ đại kết đầu tiên với Giáo hội Chính thống Bulgaria. Vào ngày 27 tháng 11.1934, ngài được bổ nhiệm làm Khâm sứ Tòa Thánh tại Thổ Nhĩ Kỳ và Hy Lạp, các nước này chưa có quan hệ ngoại giao với Vatican. Khác với Hy Lạp, nơi mà Đức Roncalli không mang lại một kết quả nào đáng kể, trái lại quan hệ với chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ dần dần có được một sự hiểu biết và sẵn sàng thể hiện được nhờ việc đón nhận những đường lối chính trị độc lập với tôn giáo của chính phủ. Với tính nhạy bén và năng động của mình, ngài đã tổ chức được một vài lần gặp gỡ chính thức với Đức Thượng phụ Constantinople, đó là những lần đầu tiên sau nhiều thế kỷ tách biệt với Giáo hội Công giáo.

Trong thời kỳ chiến tranh thế giới thứ hai, ngài đã giữ được một thái độ thận trọng của tính trung lập, nhờ vậy ngài mới thực hiện được một công việc thật hữu hiệu, là giúp cho cộng đoàn Do Thái, cả hàng ngàn người, khỏi bị diệt chủng, và giúp cho người Hy Lạp thoát khỏi nạn đói.

Thật bất ngờ với quyết định của Đức Piô XII, ngài được bổ nhiệm về làm Khâm sứ tại Paris, nơi ngài đặt chân đến với nhiều lo lắng vào 30 tháng 12 năm 1944. Một hoàn cảnh khá phức tạp đang chờ đợi ngài. Chính phủ lâm thời đòi phải thoái vị ba mươi giám mục, bị buộc tội hợp tác với chính phủ Vichy. Nhờ sự bình tĩnh và linh động của vị tân sứ thần, chỉ có ba vị bị bãi nhiệm. Phẩm chất con người của ngài đã mang lại sự kính nể trong bối cảnh ngoại giao và chính trị tại Paris, nơi mà Ngài đã thiết lập được những mối quan hệ thân thiện với một số chính khách của chính phủ Pháp. Hoạt động ngoại giao của ngài cũng mang một ý nghĩa mục vụ rõ ràng qua các lần viếng thăm tại nhiều giáo phận của nước Pháp, kể cả nước Algeria.

Tiếng vang và lòng nhiệt thành tông đồ của Giáo hội Pháp, qua kinh nghiệm của các linh mục thợ, làm cho Đức Roncalli phải chú ý như một nhà quan sát thận trọng và khôn ngoan, ngài cho rằng cần phải có một thời gian để xem xét trước khi có quyết định dứt khoát.

Với lối sống vâng phục của mình, ngài đã sẵn sàng vâng theo lời đề nghị thuyên chuyển về Venice, nơi ngài đã đến nhậm chức vào ngày 5 tháng 3 năm 1953, lúc mới được nâng lên tước vị Hồng y theo quyết định trong Công Nghị cuối cùng của Đức Piô XII. Thời gian làm giám mục của ngài được mọi người biết đến qua những nỗ lực làm việc và hoàn thành nhiệm vụ giám mục cách tốt đẹp như thăm viếng mục vụ và cử hành Công nghị giáo phận. Việc ôn lại lịch sử tôn giáo của Venezia giúp ngài thêm những sáng kiến mục vụ mới, chẳng hạn như kế hoạch làm cho các tín hữu gần gũi với Kinh Thánh, làm việc theo gương của vị giáo chủ kỳ cựu, thánh Lorenzo Giustiniani, mà ngài đã long trọng cử hành việc tưởng nhớ trong năm 1956.

Việc bầu một vị Giáo hoàng bảy mươi bảy tuổi vào ngày 28 tháng 10.1958, đó là Đức Hồng y Roncalli, kế vị Đức Piô XII, làm nhiều người nghĩ rằng đây chỉ là một triều đại chuyển tiếp. Nhưng ngay từ đầu, Đức Gioan XXIII đã chứng tỏ một lối sống đầy nhân bản và con người linh mục của mình đã chín muồi qua những kinh nghiệm ý nghĩa. Ngoài việc khôi phục lại các hoạt động đúng đắn trong các cơ quan của giáo triều, ngài còn hết lòng cho công việc mục vụ theo sứ mạng của mình, bằng cách nhấn mạnh đến bản chất giám mục với tư cách là Giám Mục Rôma. Xác tín rằng việc quan tâm trực tiếp đến giáo phận là một phần thiết yếu của sự vụ Giáo hoàng, nên ngài dành nhiều thời gian gặp gỡ các tín hữu qua việc viếng thăm các giáo xứ, bệnh viện và nhà tù. Qua việc triệu tập Công nghị giáo phận, ngài muốn bảo đảm chức năng hoạt động của các cơ cấu giáo phận bằng cách tăng cường các giáo hạt và bình thường hóa đời sống giáo xứ.

Sự đóng góp lớn nhất của Đức Gioan XXIII, chắc chắn là việc triệu tập Công đồng Vatican II, được loan báo trong Vương cung Thánh đường Thánh Phaolô vào ngày 25 tháng 01.1959. Đó là một quyết định mang tính cách cá nhân của Đức Giáo hoàng sau khi tham khảo ý kiến với một số vị thân cận và với vị Quốc vụ khanh, là Đức Hồng y Tardini. Các mục tiêu ban đầu của Công đồng được nêu rõ trong bài phát biểu vào lễ khai mạc ngày 11 tháng mười năm 1962: không phải là để xác định những chân lý mới, nhưng để xác định lại các học thuyết truyền thống phù hợp hơn với sự nhạy cảm hiện thời. Trong chiều hướng nhằm có được một sự cập nhật về tất cả đời sống của Giáo hội, Đức Giáo hoàng Gioan XXIII đã mời gọi hướng về lòng thương xót và ủng hộ việc đối thoại với thế giới, hơn là lên án và phản đối trong một nhận thức mới về sứ mệnh của Giáo Hội, đón nhận tất cả mọi người. Trong tinh thần cởi mở phổ quát ấy, không thể loại trừ các giáo hội Kitô khác, họ cũng được mời tham dự vào Công đồng để khởi đầu một tiến trình xích lại gần nhau hơn. Trong giai đoạn đầu tiên, người ta có thể nhận thấy rằng Đức Gioan XXIII muốn một Công đồng có tranh luận thật sự, biết tôn trọng các quyết định sau khi mọi tiếng nói đã được trình bày và thảo luận.

Vào mùa xuân năm 1963, ngài được trao giải thưởng Balzan về hòa bình, chứng tỏ những việc làm của ngài đối với hòa bình qua việc ban hành Thông điệp Mater et Magistra (1961) và Pacem in Terris (1963), cũng như việc nhất quyết can thiệp của ngài nhân cuộc khủng hoảng tại Cuba vào mùa thu năm 1962. Uy tín và sự ngưỡng mộ chung, người ta có thể thấy được trong những tuần lễ cuối đời ngài khi cả thế giới đều lo lắng hướng về quanh ngài lúc hấp hối và đau buồn nhận tin ngài qua đời vào tối ngày 3 tháng 6 năm 1963.

(tonggiaophanhanoi.org)

+++++++++++++++++

11 Tháng Mười

Một Cách Truyền Giáo 

Tuần báo Midnight-Globe xuất bản tại Hoa Kỳ, gần đây có thuật lại một phương thức làm việc tông đồ của một tín hữu Kitô như sau: mỗi ngày, trừ ngày Chúa Nhật, ông Jewel Pierce đều ra bờ sông Coosa, gần chỗ ông ở, tại bang Alabama. Ông ném xuống sông hai chai không, trong đó ông để một mảnh giấy ghi lại một câu kinh thánh nói về tình thương, hay một sứ điệp tương tự, kèm theo đó là lời đề nghị sẵn sàng giúp đỡ tất cả những ai cần đến sự giúp đỡ của ông về tinh thần cũng như vật chất. Những chai không đó được bít kín lại và theo dòng sông chạy ra biển khơi cách đó 15 cây số.

Trong vòng 40 năm, ông Jewel Pierce đã gửi đi được 27,000 sứ điệp tình thương Kitô như thế, kèm theo địa chỉ của ông. Ðã có hơn 2,000 người thuộc 30 quốc gia khác nhau đã viết thư trả lời và rất nhiều người đã đọc được những lời đầy hy vọng của sứ điệp Kitô.

Một vị giám mục Việt Nam đã thuật lại chứng từ sau đây. Tại một làng nhỏ ở miền thượng du Bắc Việt, toàn dân làng là người Công Giáo, nhưng từ 20 năm qua, họ không có linh mục coi sóc. Dù vậy, các tín hữu vẫn tổ chức các buổi đọc kinh và hát thánh ca tại nhà thờ. Ðây cũng là nơi họ tổ chức các lễ cưới và rửa tội một cách trọng thể. Dù gặp nhiều khó khăn, nhưng dân làng vẫn sống trong an vui và bình thản.

Tiếng đồn về niềm vui của dân làng này đến tai một làng sơn cước. Do đó, dân làng sơn cước này yêu cầu những người Công Giáo cho người đến dạy họ các bài kinh và thánh ca để họ cũng tìm được niềm vui.

Nhưng dân làng Công Giáo không tìm được ai: người lớn thì phải đi làm việc đồng áng, trẻ em thì phải đi học, còn người già cả thì không đủ sức băng rừng leo núi để đến giúp người sơn cước. Chỉ có một người thuộc kinh bổn, thánh ca và biết các nghi thức tôn giáo. Người đó lại là một người mù.

Sau khi bàn bạc với nhau, dân làng sơn cước đã đồng ý sai người dẫn hai con ngựa đi rước người mù. Người tín hữu tàn tật này đã ở lại với dân làng 4 tháng. Cứ mỗi tối, sau khi làm việc trở về, dân làng tụ họp với nhau, nay nhà này, mai nhà khác, để tập đọc kinh và hát thánh ca. Sau một thời gian, người giảng viên giáo lý mù khảo sát và làm phép rửa cho người dân làng đầu tiên. Và người tân tòng này lại rửa tội cho những người khác và cứ như thế cho đến người cuối cùng.

Phương pháp làm việc tông đồ của làng Công Giáo trên đây là phương pháp đơn sơ, nhưng cốt yếu của Kitô giáo: đó là rao giảng bằng chính chứng từ của cuộc sống, nhất là cuộc sống an bình và vui tươi.

(Lẽ Sống)

++++++++++++++++++

Lời Chúa Mỗi Ngày

Thứ Sáu Tuần 27 TN1, Năm lẻ.

Bài đọc: Joe 1:13-15, 2:1-2; Lk 11:15-26.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hãy luôn biết chuẩn bị sẵn sàng.

Làm việc gì con người cũng phải chuẩn bị thì mới có thành công được; nếu không chịu chuẩn bị, thất bại chắc chắn sẽ xảy ra. Việc càng lớn đòi hỏi con người càng phải chuẩn bị kỹ càng hơn. Đức Kitô luôn khuyên bảo các môn đệ phải biết tỉnh thức và chuẩn bị sẵn sàng cho Ngày Chúa đến lần thứ hai.

Các Bài Đọc hôm nay dạy mọi người phải luôn biết chuẩn bị. Trong Bài Đọc I, tiên-tri Joel kêu gọi toàn thể con cái Israel, từ tư tế đến dân chúng, phải rúc tù và long trọng tuyên bố mùa chay thánh để chuẩn bị đón Ngày mà Đấng Thiên Sai sẽ đến. Trong Phúc Âm, vì không chịu chuẩn bị nên một số người chẳng những không nhận ra Chúa Giêsu khi Ngài trục xuất một quỉ câm, lại còn mạ lỵ Ngài “dùng quyền năng của quỉ vương Beelzebul mà trừ quỉ.” Chúa Giêsu cũng cảnh cáo các môn đệ phải luôn biết chuẩn bị tâm hồn cho có Chúa; nếu không, quỉ thần sẽ kéo đến ngày càng nhiều và tình trạng tâm hồn sẽ càng ngày càng bi đát hơn.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Ôi, Ngày đáng sợ thay! Ngày của Đức Chúa quả đã gần kề!

1.1/ Hãy chuẩn bị cho Ngày Thiên Chúa đến: Sách tiên-tri Joel được viết sau Thời Lưu Đày (khoảng 400-350 BC). Đây là thời gian mà truyền thống Do-thái, dựa vào lời sấm của các tiên-tri, tin Ngày Đấng Thiên Sai sắp tới để tiêu diệt tất cả các quốc gia dám gây chiến với Israel, và lên ngôi cai trị họ. Để chuẩn bị cho Ngày trọng đại này, họ phải làm hai việc:

(1) Long trọng tuyên bố mùa chay thánh bắt đầu: Tiên-tri Joel truyền lệnh của Thiên Chúa: “Hãy ra lệnh giữ chay thánh, công bố mở cuộc họp long trọng, triệu tập các cụ già và toàn thể cư dân trong xứ tại Nhà Đức Chúa, Thiên Chúa các ngươi. Hãy kêu lên Đức Chúa.” Hàng năm, Giáo Hội cũng dùng những lời này trong ngày Thứ Tư Lễ Tro, để kêu gọi các tín hữu biết ăn năn và chuẩn bị tâm hồn để chuẩn bị đón Ngày Chúa đến lần thứ hai.

(2) Các việc phải làm trong mùa chay thánh: “Hỡi các tư tế, hãy mặc áo vải thô mà than van kêu khóc! Rú lên đi, hỡi những người phục vụ bàn thờ! Hãy đến, mặc áo vải thô mà thức suốt đêm, hỡi những người phục vụ Thiên Chúa.” Việc ăn chay, hãm mình, và cầu nguyện là ba việc phải làm để chuẩn bị đón chờ Ngày Chúa đến.

1.2/ Ngày của Thiên Chúa đến là Ngày đáng sợ: Truyền thống Do-thái tin Đấng Thiên Sai sẽ đến trong uy quyền; nhưng trước khi lên ngôi cai trị, Ngài sẽ thanh luyện và phán xét tất cả mọi người: con cái Israel cũng như các dân ngoại. Đó là lý do mà con cái Israel phải chuẩn bị tâm hồn. Tiên-tri Joel báo trước cho họ biết về Ngày này như sau: “Ôi, ngày đáng sợ thay! Ngày của Đức Chúa quả đã gần kề! Ngày sẽ đến tựa cơn tàn phá do lệnh Đấng Toàn Năng… Run lên đi, mọi cư dân trong xứ, vì Ngày của Đức Chúa sắp đến rồi, Ngày ấy đã kề bên. Ngày tối tăm u ám, Ngày mây mù tối đen.”

Sự kinh hoàng của Ngày này được tiên-tri Joel và các tiên-tri khác mô tả như: mặt trời, mặt trăng và các tinh tú sẽ không còn chiếu sáng; nạn châu chấu sẽ tiêu diệt mùa màng khiến con người không còn của ăn; chiến tranh sẽ xảy ra khắp nơi trên địa cầu … Sau cùng, chỉ những người công chính mới sống sót, và được sống hòa bình và hạnh phúc với Đấng Thiên Sai đến muôn đời.

2/ Phúc Âm: Nếu tôi dùng ngón tay Thiên Chúa trừ quỷ, thì quả là Triều Đại Thiên Chúa đã đến.

2.1/ Lòng ghen tị của con người: Khi chứng kiến Chúa Giêsu trục xuất quỉ ra khỏi người câm, đa số dân chúng đều kính sợ; nhưng trong số đó có mấy người lại bảo: “Ông ấy dựa thế quỷ vương Beelzebul mà trừ quỷ.” Đây là một lời tố cáo của những người ghen tị, khi thấy mình không làm được những gì người khác làm; họ tìm bất cứ một lý do nào, cho dù là vô lý, để giảm giá trị hành động tốt đẹp của người khác. Biết được tư tưởng ghen tị của họ, Chúa Giêsu vạch trần sự sai trá của lời tố cáo bằng hai chứng minh:

(1) Chia rẽ là tự hủy diệt: Để có thể tồn tại, con người cần đoàn kết với nhau; nếu con người chia năm xẻ bảy, họ sẽ bị tiêu diệt. Chúa Giêsu hỏi họ: ”Nếu Satan cũng tự chia rẽ chống lại chính mình, thì nước nó tồn tại sao được?” Satan phải bênh vực đồng bọn của mình; vì nếu Satan chống lại đồng bọn, làm sao vương quốc nó tồn tại được. Vì thế, điều họ tố cáo Chúa Giêsu dựa thế Beelzebul mà trừ quỷ là không hợp lý.

(2) Nhiều người Do-thái cũng trừ được quỉ: Truyền thống Do-thái từ thời Solomon tin họ có thể xua đuổi quỉ bằng cách đốt hoa cỏ và các cơ quan súc vật. Khói hương bay lên sẽ làm quỉ xuất khỏi người bị ám. Một trường hợp dẫn chứng là khi sứ thần Raphael bảo Tobia đốt tim và gan cá để đuổi quỉ ra khỏi Sarah trong đêm tân hôn của hai người (Tob 8:2-3). Chúa Giêsu thách thức họ: ”Nếu tôi dựa thế Beelzebul mà trừ quỷ, thì con cái các ông dựa thế ai mà trừ? Bởi vậy, chính họ sẽ xét xử các ông. Còn nếu tôi dùng ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, thì quả là Triều Đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông.”

2.2/ Chúa Giêsu có quyền trên ma quỉ: Để dẫn chứng Chúa có quyền trên ma quỉ, Ngài đưa ra một ví dụ mà mọi người đều hiểu được: ”Khi một người mạnh được vũ trang đầy đủ canh giữ lâu đài của mình, thì của cải người ấy được an toàn. Nhưng nếu có người mạnh thế hơn đột nhập và thắng được người ấy, thì sẽ tước lấy vũ khí mà người ấy vẫn tin tưởng và sẽ đem phân phát những gì đã lấy được.” Quỉ câm có thể được ví như người có vũ trang đầy đủ: nó có sức mạnh hơn người thanh niên nên khống chế anh ta được; nhưng khi Chúa dùng uy quyền Thiên Chúa mà đuổi quỉ câm ra khỏi anh ta, và làm cho anh ta bình phục, Ngài có uy quyền trên ma quỉ.

Trình thuật kế tiếp dẫn chứng nhu cầu phải luôn có Thiên Chúa trong tâm hồn: “Khi thần ô uế xuất khỏi một người, thì nó đi rảo qua những nơi khô cháy, tìm chốn nghỉ ngơi. Vì tìm không ra, nó nói: “Ta sẽ trở về nhà ta, nơi ta đã bỏ ra đi.” Khi đến nơi, nó thấy nhà được quét tước, dọn dẹp hẳn hoi. Nó liền đi kéo thêm bảy thần khác dữ hơn nó, và chúng vào ở đó. Rốt cuộc tình trạng của người ấy lại còn tệ hơn trước.” Thiên Chúa và ma quỉ không thể ở chung: chỗ nào có Thiên Chúa là không có ma quỉ, và ngược lại, chỗ nào có ma quỉ là không có Thiên Chúa. Nếu người Kitô hữu luôn để Đức Kitô ngự trị trong tâm hồn và sống theo sự hướng dẫn của Ngài; ma quỉ sẽ không khi nào có cơ hội xâm nhập.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Không lo xa, ắt có buồn gần. Chúng ta hãy dành thời giờ để chuẩn bị trước khi làm bất cứ việc gì, nhất là chuẩn bị tâm hồn cho luôn có Chúa và đón Ngài đến lần thứ hai. Khi Ngày đó bất thần tới, chỉ có những ai chuẩn bị mới được cứu thoát.

– Khi chứng kiến những việc tốt lành của người khác làm, chúng ta hãy thành thật khen ngợi tài năng và đức độ của họ. Đừng để tính kiêu ngạo ghen tương làm mờ mắt, khiến chúng ta khinh thường họ hay phủ nhận những gì họ đã làm.

– Chúng ta chỉ có thể chọn một trong hai: hoặc chọn Đức Kitô là vua cai trị tâm hồn, hoặc sống theo những cám dỗ của ma quỉ và làm nô lệ cho chúng.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

****************