Ngày thứ sáu (20-08-2021) – Trang suy niệm

19/08/2021

Lời Chúa Hôm Nay

Thứ Sáu Tuần XX Mùa Thường Niên Năm lẻ

Thánh Bênađô, Viện Phụ

BÀI ĐỌC I:   R 1, 1. 3-6. 14b-16. 22

“Bà Nôêmi cùng nàng dâu người Moab là bà Ruth, từ nơi di cư trở về thành Bêlem”.

Khởi đầu sách truyện Bà Ruth.

Khi các quan án cầm quyền, thì dưới thời một quan án kia, trong xứ xảy ra nạn đói kém. Có một người thành Bêlem, thuộc chi tộc Giuđa, đem vợ và hai con sang cư ngụ trong miền Môab.

Và Elimêlech, chồng bà Nôêmi, qua đời, để bà lại với hai con. Hai con bà cưới hai thiếu nữ Môab làm vợ: một tên là Orpha, còn người kia tên là Ruth. Họ chung sống ở đó được mười năm, thì cả hai người chồng là Mahalon và Kêlion cũng qua đời, còn lại mình bà Nôêmi không chồng con. Bấy giờ bà Nôêmi cùng với hai nàng dâu định bỏ đất Môab trở về quê hương, vì nghe nói Chúa thương dân Người, và ban cho họ lương thực.

Bà Orpha hôn mẹ chồng và ở lại đó. Còn bà Ruth thì đi theo mẹ chồng. Bà Nôêmi bảo bà Ruth rằng: “Kìa, chị dâu con đã ở lại với dân mình và các thần minh của họ, con hãy ở lại với chị con”. Bà Ruth thưa lại rằng: “Xin mẹ đừng bắt con bỏ mẹ mà ở lại, vì mẹ đi đâu thì con cũng đi theo đó. Dân tộc của mẹ là dân tộc của con, và Thiên Chúa của mẹ là Thiên Chúa của con”.

Vậy bà Nôêmi cùng nàng dâu người Môab là bà Ruth, từ nơi di cư trở về thành Bêlem, vào đầu mùa gặt lúa. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 145, 5-6. 7. 8-9a. 9bc-10

Đáp: Linh hồn tôi ơi, hãy ngợi khen Chúa (c. 2a).

Hoặc đọc: Alleluia.

Xướng:

1) Phúc thay người được Thiên Chúa nhà Giacóp phù trợ, người đặt hy vọng vào Chúa là Thiên Chúa của mình: Người là Đấng đã tạo thành trời đất, biển khơi và muôn vật chúng đang chứa đựng. – Đáp.

2)Người là Đấng trả lại quyền lợi cho người bị ức, và ban cho những người đói được cơm ăn. Thiên Chúa cứu gỡ những người tù tội. – Đáp.

3)Thiên Chúa mở mắt những kẻ đui mù. Thiên Chúa giải thoát những kẻ bị khòm lưng khuất phục, Thiên Chúa yêu quý các bậc hiền nhân, Thiên Chúa che chở những khách kiều cư. – Đáp.

4)Thiên Chúa nâng đỡ những người mồ côi quả phụ, và làm rối loạn đường lối đứa ác nhân. Thiên Chúa sẽ làm vua tới muôn đời. Sion hỡi, Thiên Chúa của ngươi sẽ làm vua tự đời này sang đời khác. – Đáp.

ALLELUIA: Mt 11, 25

Alleluia, alleluia! – Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã mạc khải những mầu nhiệm nước trời cho những kẻ bé mọn. – Alleluia. 

PHÚC ÂM: Mt 22, 34-40

“Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi, và yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, những người biệt phái nghe tiếng Chúa Giêsu đã làm cho những người Sađốc câm miệng, thì họp nhau lại. Đoạn một người thông luật trong nhóm họ hỏi thử Người rằng: “Thưa Thầy, trong lề luật, giới răn nào trọng nhất?” Chúa Giêsu phán cùng người ấy rằng: “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là giới răn thứ nhất và trọng nhất. Nhưng giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy, là: Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi. Toàn thể lề luật và sách các tiên tri đều tóm lại trong hai giới răn đó”. Đó là lời Chúa.

(thanhlinh.net)

++++++++++++++++++

20/08/2021 – THỨ SÁU TUẦN 21 TN

Th. Bê-na-đô, viện phụ, tiến sĩ HT

Mt 22,34-40

CHỈ MỘT GIỚI RĂN YÊU THƯƠNG

Chúa Giê-su đáp: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn lớn nhất và điều răn đứng đầu. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình.” (Mt 22,37-39)

Suy niệm: Nếu đã tin Đức Chúa là Thiên Chúa thì cũng dễ chấp nhận rằng yêu mến Người trên hết mọi sự là điều phải lẽ. Mặt khác, đạo lý “thương người như thể thương thân” không xa lạ gì với đạo làm người, cách riêng đối với dân tộc Việt Nam. Chúa Giê-su cũng dạy như thế. Nhưng điểm đặc biệt nơi giáo huấn của Ngài là Ngài đã nhập hai điều răn ấy thành một: hễ mến Chúa thì cũng phải yêu người, nếu không chỉ là nói dối (x. 1Ga 4,20-21).

Mời Bạn: Phải chăng đây là thách đố lớn nhất cho chúng ta để làm môn đệ chân chính của Thầy Giê-su? Làm sao có thể nhìn thấy Chúa nơi người khác để mà yêu thương khi họ thật khó thương? Khi họ đang gây ra cho mình biết bao điều khó chịu? Khi họ khinh bỉ, cư xử lạnh nhạt với mình? Khi họ vu khống, mạ lỵ, áp bức mình cách bất công? Bạn ơi, bí quyết để yêu người như chính mình là yêu người như Chúa yêu ta: Nếu như Chúa Cha yêu thương chúng ta khi Ngài nhìn chúng ta qua khuôn mặt Người Con Chí Ái chịu khổ nạn, thì chúng ta cũng phải nhìn người khác để yêu thương họ nơi dung mạo đau khổ của Đức Kitô chịu đóng đinh.

Sống Lời Chúa: Tìm một điểm đáng yêu, một lý do để yêu thương nơi người mà bạn cảm thấy khó thương nhất.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su đáng mến. Trên thập giá, Chúa đã tiêu diệt sự thù ghét. Xin cho con biết yêu thương mọi người ngay cả kẻ thù khi con chiêm ngắm Chúa chịu đóng đinh vì yêu họ.

(5 Phút Lời Chúa)

++++++++++++++++++

Suy niệm và cầu nguyện

Suy niệm

Theo truyền thống hội đường Do-thái, Luật gồm 613 điều răn.
365 điều cấm làm và 248 điều phải làm.
Giữa một rừng điều răn như thế, người thông luật đã hỏi Đức Giêsu:
“Điều răn nào trọng nhất trong Luật Môsê ?” (c. 36).
Đức Giêsu đã trả lời bằng một câu trong kinh Shema,
kinh mà người Do-thái phải đọc mỗi ngày.
“Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi,
với tất cả trái tim ngươi, tất cả linh hồn ngươi, tất cả trí khôn ngươi” (Tl 6, 5).
Và Ngài còn thêm một điều răn thứ hai nữa (c. 39).
“Ngươi phải yêu mến người thân cận như chính mình” (Lv 19, 18).
Tất cả Luật Môsê nằm trong hai điều răn đó.
Hai điều răn được gói trong một động từ yêu.
Mọi điều cấm làm và mọi điều buộc làm, đều bắt nguồn từ và qui về tình yêu.

Các bạn trẻ thường nghĩ yêu là chuyện dễ.
Nhưng yêu với tất cả trái tim, tất cả linh hồn, tất cả trí khôn, tất cả sức lực,
nghĩa là yêu với trọn cả con người mình, thì điều đó không dễ.
Đối với người Do-thái, trái tim là nơi phát sinh toàn bộ đời sống tinh thần.
Yêu mến Thiên Chúa bằng tất cả trái tim của mình
là để cho Ngài chi phối mọi tư tưởng, mọi ý muốn, mọi tình cảm.
Tất cả đều nhằm làm cho Ngài được mọi người nhận biết và tôn vinh.

Yêu người thân cận như chính mình cũng là điều rất khó.
Có bao người làm chúng ta đau khổ và bị xúc phạm.
Yêu thương và tôn trọng họ đòi một sự từ bỏ mình không nhỏ.
Nhưng chúng ta cũng dễ coi mình là trung tâm và qui tất cả về mình.
Chúng ta lạnh lùng trước nỗi đau, thiếu sẻ chia và độc đoán,
đôi khi dùng tha nhân như phương tiện lót đường để ta tiến thân.
Nói chung, dù yêu Chúa hay yêu người, chúng ta cũng phải ra khỏi mình,
trao đi chính mình và chấp nhận mọi hy sinh mà tình yêu đòi hỏi.

Đức Giêsu đã tóm Luật Môsê trong động từ yêu mến.
Và Ngài đã hoàn thiện Luật này bằng cách đẩy yêu mến đến cùng.
Kitô hữu chẳng những yêu mến Thiên Chúa với trọn con người mình,
mà còn được mời yêu mến Đức Giêsu trên mọi thụ tạo khác,
trên mọi của cải, trên những người ruột thịt, và trên cả mạng sống.
Kitô hữu là người mang mối tình sâu đậm với Đức Giêsu,
“Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Gl 2, 20),
đến nỗi họ có thể tuyên xưng như Phêrô : “Thầy biết con mến Thầy.”
Đức Giêsu cũng không chỉ đòi yêu tha nhân như chính mình.
Ngài còn đòi ta phải yêu như Ngài đã yêu (Ga 13, 34-35).
Một tình yêu tha thứ đến vô cùng, một tình yêu đối với cả kẻ thù,
một tình yêu phục vụ như người tôi tớ, một tình yêu dám hiến mạng.
Kitô hữu tự bản chất là người biết yêu và cuộc đời chỉ là tình yêu.
Tình yêu đích thực với Thiên Chúa thì đưa tôi về với anh em.
Tình yêu đối với anh em lại đòi tôi phải trở về với Thiên Chúa.
Chỉ mong đời tôi đong đưa giữa hai tình yêu đó, để chúng nên một tình yêu.

Lời nguyện

Con đã yêu Chúa quá muộn màng!
Ôi lạy Chúa là vẻ đẹp vừa cổ kính,
vừa luôn mới mẻ,
con đã yêu Chúa quá muộn màng!
Bấy giờ Chúa ở trong con
mà con thì ở ngoài,
con cứ chạy đi tìm Chúa ở ngoài.
Con thật hư hỏng,
khi chạy theo các thụ tạo xinh đẹp.
Bởi thế, bấy giờ Chúa ở với con
mà con lại không ở với Chúa.
Các thụ tạo xinh đẹp kia cứ giữ con ở xa Chúa,
trong khi chúng hiện hữu được là nhờ Chúa.

Chúa đã gọi con, đã gọi to
và phá tan sự điếc lác của con.
Chúa đã soi sáng
và xua đi sự mù lòa của con.
Chúa đã tỏa hương thơm ngát
để con được thưởng thức,
và giờ đây hối hả quay về với Chúa.
Con đã nếm thử Chúa
và giờ đây con đói khát Người.
Chúa đã chạm đến con,
nên giờ đây con nóng lòng
chạy đi tìm anh bình nơi Chúa.
Thánh Âu Tinh

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

(phutcaunguyen.net)

++++++++++++++++++

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

20 THÁNG TÁM

Hiệp Nhất: Sứ Mạng Cốt Thiết Của Giáo Hội

Công Đồng xác nhận những xác tín của các tín hữu khi tuyên bố rằng Giáo Hội nhìn nhận tất cả những điều thiện hảo có thể được tìm thấy trong trật tự xã hội ngày nay: nhất là, khát vọng hiệp nhất, sự phát triển của công cuộc “xã hội hóa y tế“ giữa các dân tộc, và một sự nhấn mạnh về “sự liên đới kinh tế và dân sự”. Thật vậy, “sự thăng tiến hiệp nhất tương ứng với sứ mạng cốt thiết của Giáo Hội, bởi trong Đức Kitô, Giáo Hội có sứ mạng trở thành một bí tích và một dấu chỉ của sự hiệp nhất với Thiên Chúa và của sự hiệp nhất toàn thể nhân loại… Năng lực mà Giáo Hội đóng góp cho xã hội con người hiện đại là năng lực đức tin và tình yêu được sống cụ thể, chứ không phải năng lực của một thế lực bên ngoài xuyên qua duy chỉ những phương tiện của con người” (MV 42).

Vì những lý do này, một mối gắn kết sâu sắc và thậm chí một sự đồng nhất nào đó được ghi nhận giữa -một đàng – sự phát triển và tiến bộ của con người trong xã hội và – đàng khác – lịch sử cứu độ. Kế hoạch cứu độ có gốc rễ của nó trong những ước vọng thực và trong những mối quan tâm sâu thẳm nhất của con người. Tiếng gọi đón nhận ơn cứu chuộc không ngừng được loan báo cho con người trong thế giới. Vì Giáo Hội luôn luôn đứng trước thế giới khi Giáo Hội đặt mình trước những ước vọng và những ưu tư của con người.

Vâng, lịch sử cứu độ diễn ra giữa lòng lịch sử thế giới, nhận lấy lịch sử thế giới làm lịch sử của chính mình theo một nghĩa nào đó. Nếu nói ngược lại cũng đúng. Những thành tựu vĩ đại của con người và những chiến thắng thật sự của lịch sử cũng chính là nền móng của triều đại Thiên Chúa trên trái đất này. Hiệp nhất chính là mục đích của kế hoạch Thiên Chúa, Đấng vừa vượt trên mọi sự vừa ở trong mọi sự.

– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –

Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác

LIFT UP YOUR HEARTS

Daily Meditations by Pope John Paul II

+++++++++++++++++

Lời Chúa Trong Gia Đình

NGÀY 20/8

Thánh Bênađô, viện phụ

Tiến sĩ Hội Thánh

R 1, 1.3-6.14b-16.22; Mt 22, 34-40.

LỜI SUY NIỆM: “Thưa Thầy, trong sách Luật Mô-sê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?”

          Với người thông Luật, họ đã nắm rõ về Mười Điều Răn, nhưng  người kinh sư này muốn biết quan niệm của Chúa Giêsu về Điều răn trọng nhất, nên đã hỏi Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, trong sách Luật Mô-sê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?”. Chính nhờ câu hỏi của người thông luật mà tất cả chúng ta đã được Chúa Giêsu cho biết:: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết linh hồn, và hết trí khôn ngươi…ngươi phải yêu người thân cận như chính mình.”

          Lạy Chúa Giêsu. Xin Chúa cho mọi thành viên trong gia đình chúng con luôn giữ trọn hai giới luật yêu thương mà Chúa đã truyền dạy cho chúng con.

Mạnh Phương

+++++++++++++++++

Gương Thánh Nhân

Ngày 20-08: Thánh BERNADÔ

Tu Viện Trưởng, Tiến Sĩ Hội Thánh (1090 – 1153)

Bernađô sinh năm 1090, tại lâu đài Phontaine gần Dijon. Cha Ngài là hiệp sĩ Tescelin khôn ngoan và đạo đức. Mẹ Ngài là bà Aleth Thánh thiện. Một đêm kia bà mơ thấy Bernađô đang nô đùa bỗng hoá thành con chó sủa vang. Giấc mơ này tiên báo Bernađô sẽ trở thành tông đồ, thành nhà giảng thuyết đại tài. Bernađô luôn luôn khẩn cầu Thiên Chúa cho lòng mình khỏi vướng tội nhơ. Một lần lỡ nhìn người phụ nữ, Ngài đã dìm mình xuống hồ giá lạnh cho tới tận cổ.

Năm 22 tuổi, cả một tương lai sáng mở ra rước mắt, tại triều đình, nơi quân ngũ, trong toà án, mỗi nơi có thể ao ước, Ngài đều có thể thành công. Nhưng một đêm Giáng sinh, Ngài được thị kiến thấy Chúa Giêsu âu yếm ẵm lấy Ngài, kỷ niệm này in dấu sâu đậm suốt đời Ngài. Một ngày khác vào thánh đường, tha thiết cầu xin Chúa cho Ngài biết thánh ý Chúa, cũng như xin Chúa ban ơn can đảm thi hành thánh ý ấy. Chỗi dậy, Ngài quyết định gia nhập dòng Citeax, một dòng tu nổi tiếng khắc khổ. Thế là giã từ danh vọng thế gian và các niềm vui giả tạo.

Một hiệp sĩ trẻ trung sắp chôn vùi đời mình trong tu viện. Sẽ hiến mình cầu nguyện liên lỉ, làm việc cực nhọc và hãm mình hết mực. Điều đặc biệt là Ngài đã chọn một tu viện xa nhà và nghèo khổ thay vì những tu viện Bênêdictô mà tặng vật và ảnh hưởng của gia đình có thể bảo đảm cho Ngài những chức vụ sáng giá.

Bernađô trình bày ý định với cha, Ngài đã bị phản đối, anh em trong gia đình cũng không chấp nhận được ý kiến này. Ngài nói: – Này hãy tin tôi đi, cuộc chinh phục linh hồn không được đáng giá sao ?

Cương quyết và nhiệt tình, Bernađô không những đã làm cho cha mẹ và anh em nhượng bộ, lại còn lôi cuốn họ vào dòng theo chân mình nữa. Lần kia em út Nivard đang ngồi chơi, Guy người anh cả nói: – Giã từ em nhé. Tất cả sản nghiệp thuộc về em, bằng lòng chứ ?

Người em út nói lớn: – Sao ? Trời cho các anh, còn đất cho em, phân chia chẳng đồng đều tý nào.

Rồi người em út cũng theo cha và các anh vào dòng. Ngoài ra ông cậu và các bạn của Bernađô, cả thẩy trên 30 người đã theo chân Ngài vào dòng.

Sự gia nhập đông đảo này đã tiêm một nhiệt huyết mới vào dòng Citeaux. Thái độ của Bernađô và của các bạn còn được một số đông các bạn trẻ noi theo. Đức viện phụ của dòng lúc ấy là thánh Têphanô Harding, một người gốc Anh, thánh hiện, khôn ngoan và uyên bác. Ngài sai từng nhóm nhỏ đi lập các tu viện mới rập theo khuôn mẫu của nhà mẹ. Ba năm sau, tới phiên Bernađô, Ngài dẫn đầu một nhóm tu sĩ 12 người đến một thung lũng gần Langres. Họ dựng chòi một nhà nguyện, nhà ăn, làm những cái hòm giống như quan tài để ngủ. Sự thánh thiện của các tu sĩ cũng như vùng thung lũng trở thành thung lũng ánh sáng hay là Claivaux.

Thánh Bernađô sẽ là đan viện phụ của tu viện này cho đến hết đời. Lúc đầu Ngài tỏ ra đòi hỏi gắt gao. Nhưng rồi về sau, Ngài đã hiểu và nhân hậu hơn. Danh tiếng Ngài lan rộng. Nhiều người từ xa đến xin Ngài giúp đỡ, hay xin Ngài phân xử cho những vụ tranh chấp. Việc này không được mọi người bằng lòng, vì Ngài không biết sợ ai cả. Ngày kia người nhận được một lá thư ngắn ngủi từ Roma, dạy đừng xen mình vào chuyện đời. Không gì làm Ngài vui mừng bằng được ở yên trong tu viện. Nhưng vì cảm thấy mình có liên hệ tới lợi ích của Giáo hội nên đã không ngại viết một lá thư hồi âm rất can đảm nhiệt tình.

Ngài là người ủng hộ nhiệt liệt cho những cải cách Hildebrand, nhưng Ngài nghĩ rằng: sự tập quyền trong Giáo hội đã đi quá xa. Khi nâng đỡ cho những đòi hỏi của toà thánh, Ngài không tin là phải phỉnh nịnh Đức giáo hoàng. Nhưng khi sự phân rẽ đe dọa làm rạn nứt Giáo hội, Ngài được triệu vời đến. Một cách rạng rỡ, Ngài đã đánh bại vị phản giáo hoàng. Lúc này danh tiếng Ngài lan rộng khắp Châu Au. Cả thế giới đều như muốn quay về Ngài để tìm ý kiến giúp đỡ. Không đến với Ngài được người ta viết thư và Ngài đã quyết hồi âm cho tất cả mọi người. Một phần nhỏ trong số thư tín khổng lồ này con sót lại, nhưng cũng là một trong những nguồn tài liệu lịch sử chính yếu về thời đó.

Như nhà dẫn đầu trong cuộc cải tổ dòng Citeaux, Ngài tranh luận với các tu sĩ dòng Bênêdictô thuộc cộng đoàn chung. Rất tôn trọng cách sống của họ, Ngài không thể tha thứ cho những lạm dụng đang thịnh hành trong một vài nhà dòng. Dầu vậy đối với Đan viện phụ Cluny, cha đáng kính Phêrô, Ngài vẫn giữ được một tình bạn nghĩa thiết. Nhưng sự chống đối của thánh Bernađô với Phêrô Abelardô mới thật nổi bật. Không những chống lại các chủ trương của ông, Ngài còn chống lại cả cách thức ông kiêu hãnh tranh luận về các vấn đề thánh nơi chợ búa. Thánh Bernađô luôn nghĩ tới đức tin của những người dân đơn sơ và đứng về phái bảo thủ, nhưng vẫn là bạn của người học thức đỡ đầu cho các học giả như Robertô Pullen và Gioan miền Sabisbury.

Đối với Đức Maria, thánh Bernađô có một lòng sùng kính đặc biệt. Một ngày kia tại nhà thờ chính tòa Sprine, khi nghe hát Kinh Lạy Vữ Vương, Ngài đã nhiệt tình thêm vào:
– Ôi khoan thay, nhân thay, dịu thay, Thánh Maria trọn đời đồng trinh.

Chính Ngài cũng Ngài viết thánh thư cảm động: Ave Maria Stella. Dường như Ngài cũng là tác giả kinh “Hãy nhớ” nữa.

Suốt thời gian làm đan viện phụ của thánh Bernađô dòng Clairvaux phát triển mạnh và sinh ra 60 nhà khác nữa rải rác khắp Âu Châu. Rất bận rộn công việc, Ngài không sao lãng việc chăm sóc cho các tu sĩ của mình. Suốt đời, Ngài là một tu sĩ và là một nhà thần bí. Ngài trước tác những bài chú giải sách Nhã Ca và nhiều tác phẩm thần học và thần bí khác nữa.
Những năm cuối cùng đời Ngài bị phủ mờ vì sự thất bại của đạo binh thánh giá thứ nhì. Đức giáo hoàng cậy Ngài cổ động cho đạo binh này. Nghe lời Ngài toàn Au Châu cầm khí giới lên đường. Nhưng khi xa khỏi ảnh hưởng của Ngài, các nghĩa binh thánh giá đã quên hẳn lý tưởng cao cả của mình mà làm vỡ cuộc viễn chinh vì đánh phạt nhau và vì các việc làmbất xứng với danh hiệu Kitô hữu.

Dầu không thể quy trách được cho thánh Bernađô, nhưng như các thánh nhân khác và như chính Chúa Kitô, Ngài đã qua đời ngày 20 tháng năm 1153, dưới bóng mây mù vì thất bại đã quá rõ ràng. Ngài nói với con cái Ngài : – Cha không phải giải quyết thế nào. Tình thương yêu con cái đời cha ở lại nhưng tình yêu Thiên Chúa kéo cha lên cao.

Cả Âu Châu thương tiếc Ngài. 21 năm sau, Đức Alexander III phong Ngài lên bậc hiển thánh. Năm 1830, Ngài được đặt làm tiến sĩ Hội Thánh. Ngài đã sống trước khi hình thành thuyết kinh viện và bởi vì giáo huấn của Ngài còn nằm trong truyền thống các giáo phụ, người ta thường coi Ngài là thánh giáo phụ cuối cùng.

(daminhvn.net)

+++++++++++++++++

20 Tháng Tám

Hai Vì Sao Mỉm Cười

Một vị ẩn sĩ nọ tịnh niệm và chay tịnh đến suốt ngày không động đến thức ăn và nước uống.Từ trên đỉnh núi cao, ai ai cũng thấy có một ngôi sao xuất hiện giữa ban ngày: đó là dấu hiệu trời cao chấp nhận của lễ hy sinh của ông.

Ngày nọ, vị ẩn sĩ quyết định leo lên núi cao. Ông muốn vươn lên cao hơn trong sự khổ chế. Vừa lúc ông đương leo núi, thì một cô bé trong làng chạy tới xin đi theo. Không thể từ chối được, vị ẩn sĩ đành để cho cô bé đi theo. Họ ra đi khi mặt trời vừa lên. Nhưng không mấy chốc, ánh nắng mỗi lúc một chói chang, cả vị ẩn sĩ lẫn cô bé gái đều cảm thấy khát nước. Vị ẩn sĩ vẫn cố gắng khắc phục cơn khát của mình, nhưng ông lại giục cô gái hãy uống nước. Cuối cùng, không ai chạm đến nước. Vị ẩn sĩ không uống nước vì lời thề của mình, còn cô gái không nỡ uống một mình. 

Họ càng đi, cơn khát càng dằn vặt. Ðến một lúc, vị ẩn sĩ không nỡ nhẫn tâm nhìn thấy cô bé phải quằn quại trong cơn khát. Cuối cùng, ông đành lỗi lời thề. Ông cầm lấy nước đưa lên miệng và lúc bấy giờ cô bé gái cũng mỉm cười uống nước với ông. Sau khi đã uống nước, vị ẩn sĩ không dám nhìn lên trời cao nữa. Ông cứ đinh ninh rằng vì sao hiện ra mỗi ngày như một chứng giám cho sự khổ chế của ông, giờ đây có lẽ đã biến mất. Thế nhưng, trước sự ngạc nhiên vỡ lở của ông, khi ông ngước mắt nhìn lên đỉnh núi, ông thấy có hai vì sao lấp lánh như đang mỉm cười với ông.

Ðể mặc khải cho chúng ta bộ mặt thông cảm, nhân từ, yêu thương của Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã không ngần ngại đến ngồi đồng bàn với những người thu thuế, những kẻ tội lỗi. Phúc Âm ghi lại rằng, khi đi qua dãy bàn thu thuế, Ngài đã nhìn thấy Matthêô. Ngài đã chọn ông vào số các tông đồ của Ngài. Trong bữa tiệc do Matthêô khoản đãi, những người bạn của ông ngồi cùng bàn với Chúa Giêsu. Thấy thế, những người biệt phái đã tỏ ra khó chịu. Chúa Giêsu đã nói với họ như sau: “Không phải những kẻ khỏe mạnh cần đến thầy thuốc, mà chính là những người đau ốm. Hãy đi học hiểu câu nói: Ta muốn lòng nhân từ chứ không phải của lễ”.

Qua thái độ và lời phát biểu trên đây, Chúa Giêsu muốn cho chúng ta thấy rằng cốt lõi của Tin Mừng, cốt lõi của Ðạo chính là tình thương. Thực thi bác ái là việc ăn chay có giá trị nhất, là của lễ cao đẹp nhất mà con người có thể dâng lên Thiên Chúa. Nếu chỉ có một vì sao mọc lên để chứng giám cho một hành động khổ chế, thì sẽ có hai vì sao hiện ra để xác nhận cho một hành động bác ái. Thật ra, bác ái đích thực cũng là một hành động khổ chế, bởi vì nó đòi hỏi con người phải chết cho bản thân, phải ra khỏi chính mình để đến với người khác. Một hành động bác ái đích thực phải là một cái chết dần chết mòn trong chính bản thân.

Nói như mẹ Têrêxa Calcutta: “Khi tôi chia sẻ, khi tôi trao ban cho người một điều gì làm tôi cảm thấy mát mát, đau khổ, thì sự chia sẻ của tôi mới có giá trị. Tôi không chia sẻ và trao ban của dư thừa, mà chính là trao ban chính tôi.

Khi tôi cố gắng chào hỏi một người tôi ghét cay ghét đắng, đó mới thật sự là một hành động bác ái. Khi tôi có thể đến sống nghèo, chia sẻ kiếp sống nghèo của người khác, đó mới là một hành động bác ái. Khi tôi có thể tha thứ cho những người xúc phạm đến tôi, đó mới là một hành động bác ái thực sự. Tôi đã chết đi một phần và cái chết ấy sẽ được Thiên Chúa của lòng nhân từ đón nhận như là lễ hy sinh đích thực”.

(Lẽ Sống)

++++++++++++++++++

Lời Chúa Mỗi Ngày

Thứ Sáu – Tuần 20 – TN1 – Năm lẻ.

Bài đọc: Ruth 1:1, 3-6, 14b-16, 22; Mt 22:34-40.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Mến Chúa, yêu người.

Ngày xưa, khi còn ở Việt-nam, các con dâu rất sợ mẹ chồng và sợ làm dâu cho gia đình chồng, vì có những bà mẹ chồng rất khắc nghiệt. Họ quan niệm phải trả thù con dâu, vì ngày xưa khi làm dâu, họ cũng từng bị đối xử như vậy. Ngày nay, bên các xứ Âu Mỹ này, các mẹ chồng lại sợ con dâu, và nhiều còn gọi là “bà dâu.” Họ sợ con dâu bầy ra những lý do để cho họ vào viện dưỡng lão, và nhất là sợ con dâu sẽ ly dị để con trai mình phải ở góa. Cả hai thái cực đều quá đáng, và cả mẹ chồng lẫn con dâu Công Giáo cần phải thay đổi thái độ. Khi đối xử với nhau xung khắc như thế, họ đã không giữ giới răn “mến Chúa yêu người” như Chúa dạy. Ngoài ra, họ còn đặt con trai hay người chồng của họ vào vị thế phải điên đầu chọn lựa giữa “bên tình, bên hiếu.” Chọn bên nào cũng không được vì Thiên Chúa đòi phải chọn cả hai.

Các Bài Đọc hôm nay cung cấp các chất liệu cho mọi người, cách riêng mẹ chồng con dâu, những chất liệu để suy tư. Trong Bài Đọc I, tác giả cho chúng ta một mẫu gương tuyệt vời về mối liên hệ giữa mẹ chồng Naomi và con dâu Ruth. Bà Naomi phải cư xử với con dâu đặc biệt thế nào, đến nỗi khi con trai của Bà chết rồi mà nàng Ruth có thể thưa với Bà: “Xin mẹ đừng ép con bỏ mẹ mà trở về không theo mẹ nữa, vì mẹ đi đâu, con đi đó, mẹ ở đâu, con ở đó, dân của mẹ là dân của con, Thiên Chúa của mẹ là Thiên Chúa của con.” Trong Phúc Âm, khi một kinh sư đến hỏi thử Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, trong sách Luật Moses, điều răn nào là điều răn trọng nhất?” Chúa Giêsu đã tuyên bố rõ ràng hai giới răn: Mến Chúa, yêu người.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Dân của mẹ là dân của con, Thiên Chúa của mẹ là Thiên Chúa của con.

1.1/ Hoàn cảnh đáng thương của bà Naomi: Tác giả kể: “Vào thời các thủ lãnh cai trị, một nạn đói xảy ra trong xứ. Có một người cùng với vợ và hai con trai bỏ Bethlehem miền Judah mà đến ở trong cánh đồng Moab. Rồi ông Elimelech, chồng bà Naomi, chết đi, còn lại bà Naomi và hai đứa con. Hai người này lấy vợ Moab, một người tên là Orpah, người kia tên là Ruth. Họ ở lại đó chừng mười năm. Rồi Mahlon và Chilion cả hai đều chết, còn lại bà Naomi mất chồng, mất con.”

Không thể sống trong cảnh góa bụa nơi đất khách quê người, bà Naomi quyết định bỏ cánh đồng Moab để trở về quê hương là Bethlehem, vì Bà nghe nói là Đức Chúa đã viếng thăm dân Người và cho họ có bánh ăn ở đó.

1.2/ Sự trung thành và kính mến mẹ chồng của bà Ruth.

(1) Lời khuyên của bà Naomi cho hai nàng dâu người Moab: Trước khi lên đường, bà Naomi gọi hai người con dâu tới mà nói với họ: vì hai con trai của Bà đã chết, và Bà cũng chẳng có người con trai nào nữa cho họ kết hôn; nên họ không có bổn phận phải đi theo Bà. Họ có thể ở lại quê hương của họ và tái hôn như lòng họ mong muốn.

(2) Phản ứng của hai nàng dâu ngoại quốc: Hai người con dâu lại oà lên khóc. Orpah ôm hôn từ giã mẹ chồng, còn Ruth thì cứ khắng khít theo bà. Bà Naomi nói: “Kìa chị dâu con trở về với dân tộc của nó và các thần của nó. Con cũng vậy, hãy theo chị dâu con mà về đi!” Ruth đáp: “Xin mẹ đừng ép con bỏ mẹ mà trở về, không theo mẹ nữa, vì mẹ đi đâu, con đi đó, mẹ ở đâu, con ở đó, dân của mẹ là dân của con, Thiên Chúa của mẹ là Thiên Chúa của con.”

Đây là một lời khuyên xứng đáng được người Do-thái cho vào lịch sử vì những lý do sau:

+ Tình cảm đặc biệt giữa mẹ chồng và nàng dâu: Mối liên hệ này thường không tốt đẹp. Để nàng Ruth có thể thốt lên những lời này, nhất là khi chồng nàng không còn nữa, đòi bà Naomi phải chiếm được cảm tình đặc biệt của con dâu mình.

+ Mối liên hệ giữa người Do-thái và người Moab: Truyền thống Do-thái có thói quen khinh thường mọi dân tộc khác; họ không muốn có liên hệ gì với những người dân ngoại. Để nàng Ruth có thể thốt lên câu “dân của mẹ là dân của con,” đòi bà Naomi đối xử với con dâu mình như một người Do-thái. Hơn nữa, đây cũng là điềm tiên báo khi Đấng Cứu Thế đến, sẽ không còn chia cách giữa người Do-thái và Dân Ngoại như thánh Phaolô mô tả.

+ Tình người giữa hai mẹ con dẫn nàng Ruth tới chỗ chấp nhận “Thiên Chúa của mẹ là Thiên Chúa của con.” Cuộc sống của bà Naomi đã trở nên gương sáng cho nàng Ruth biết và tin vào Thiên Chúa.

2/ Phúc Âm: Hai điều răn quan trọng nhất

2.1/ Kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự: Khi nghe tin Đức Giêsu đã làm cho nhóm Sadducees phải câm miệng, thì những người Pharisees họp nhau lại. Rồi một người thông luật trong nhóm hỏi Đức Giêsu để thử Người rằng: “Thưa Thầy, trong sách Luật Moses, điều răn nào là điều răn trọng nhất?” Đức Giêsu đáp: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất.”

Đây là điều răn thứ nhất trong Thập Giới mà Thiên Chúa ban cho người Do-thái qua ông Moses trên núi Sinai. Người Do-thái gọi điều răn này là Shema; và để cho khỏi quên, họ viết vào giấy rồi đeo nó trên đầu như thẻ kinh, và đựng vào hai cái hộp nhỏ để đeo trên hai cánh tay mỗi khi cầu nguyện. Ngoài ra họ còn dán trên cửa nhà và cửa thành, để nhắc nhở cho những ai qua lại phải nhớ. Một giới răn quan trọng và được dán khắp mọi nơi như thế, mà các kinh-sư và biệt-phái còn hỏi Chúa Giêsu! Chúng ta không tìm thấy lý do nào khác ngoài lý do họ khinh thường Chúa.

Điều răn này tuy dễ để nhớ, nhưng không dễ để thi hành, cho cả người Do-thái xưa lẫn các Kitô hữu ngày nay. Người Do-thái biết phải kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, nhưng vẫn đúc bê vàng để thờ hay chạy theo các thần ngoai bang khác. Người tín hữu ngày nay vẫn đặt các thứ thần khác lên trên Thiên Chúa như các thần: tiền, danh vọng, chức quyền, khoái lạc … Họ có thể bỏ lễ Chủ Nhật hay các việc thờ phượng để làm việc, coi football, đi du lịch …

2.2/ Yêu người thân cận như chính mình: “Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Moses và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy.” Hai luật “mến Chúa, yêu người” không thể tách rời nhau, nhưng bổ xung cho nhau. Thánh Gioan tuyên bố: Ai nói mình mến Chúa mà không yêu anh em là kẻ nói dối, và sự thực không có nơi người ấy.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Khi con dâu thương mẹ chồng là nàng thương chồng. Điều răn thứ tư dạy phải thảo hiếu cả bố mẹ ruột lẫn bố mẹ chồng; đừng ích kỷ chỉ biết thảo hiếu bố mẹ ruột của mình mà thôi.

– Khi mẹ chồng thương con dâu là thương con trai mình. Các bà mẹ đừng bao giờ để con trai mình phải chọn giữa mẹ và vợ. Thiên Chúa muốn con mình vừa phải thảo hiếu cha mẹ, vừa phải trung thành với vợ cho đến chết.

– Kính mến Thiên Chúa là phải yêu thương tha nhân và giữ các giới răn của Ngài.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

****************