Ngày thứ sáu (21-06-2019) – Trang suy niệm

20/06/2019

Lời Chúa Hôm Nay

Thứ Sáu Tuần XI Mùa Thường Niên Năm lẻ

BÀI ĐỌC I: 2 Cr 11, 18. 21b-30

“Không kể những việc bên ngoài, lại còn những việc thúc bách hằng ngày và mối lo lắng đến các Giáo hội”.

Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, vì có nhiều kẻ khoe khoang về xác thịt, thì tôi đây, tôi cũng sẽ tự khoe khoang. Tôi xin nói như điên dại rằng: ai tự phụ về điều gì, thì tôi cũng tự phụ như vậy. Họ là những người Do-thái, thì tôi cũng vậy; họ là những người Israel, thì tôi cũng vậy; họ là dòng dõi Abraham, thì tôi cũng vậy; họ là tôi tớ Đức Kitô, tôi xin nói như mê sảng rằng: tôi còn hơn họ nữa, tôi đã chịu khó nhọc hơn, năng bị tù hơn, chịu đòn vọt quá mức, liều mình chết nhiều lần, bị người Do-thái đánh đòn năm lần, mỗi lần kém một roi đầy bốn chục. Ba lần bị tra tấn, một lần bị ném đá, ba lần bị đắm tàu, và một ngày một đêm chơi vơi ngoài biển khơi. Hành trình thường xuyên, gặp nhiều nguy hiểm vì sông ngòi, nguy hiểm vì trộm cướp, nguy hiểm vì người đồng chủng, nguy hiểm vì người dân ngoại, nguy hiểm trong thành phố, nguy hiểm trên rừng, nguy hiểm ngoài biển cả, nguy hiểm bởi những anh em giả; chịu lao đao vất vả, hay phải thức khuya, đói khát, hay phải nhịn ăn, chịu lạnh rét, mình trần. Không kể những việc bên ngoài, lại còn những việc thúc bách hằng ngày, và mối lo lắng đến các giáo hội. Nào ai yếu đuối mà tôi không yếu đuối? Nào ai vấp phạm mà tôi chẳng xót xa? Nếu phải khoe khoang, thì tôi sẽ khoe khoang những yếu đuối của tôi. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 33, 2-3. 4-5. 6-7

Đáp: Thiên Chúa cứu người hiền đức khỏi mọi nỗi lo âu (x. c. 18b).

Xướng:

1) Tôi chúc tụng Chúa trong mọi lúc, miệng tôi hằng liên lỉ ngợi khen Người. Trong Chúa linh hồn tôi hãnh diện, bạn nghèo hãy nghe và hãy mừng vui. – Đáp.

2) Các bạn hãy cùng tôi ca ngợi Chúa, cùng nhau ta hãy tán tạ danh Người. Tôi cầu khẩn Chúa, Chúa đã nhậm lời, và Người đã cứu tôi khỏi mọi điều lo sợ. – Đáp.

3) Hãy nhìn về Chúa để các bạn vui tươi, và các bạn khỏi hổ ngươi bẽ mặt. Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe, và Người đã cứu họ khỏi mọi điều tai nạn. – Đáp.

ALLELUIA: Ga 8, 12

Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta, sẽ được ánh sáng ban sự sống”. – Alleluia. 

PHÚC ÂM: Mt 6, 19-23

“Kho tàng con ở đâu, thì lòng con cũng ở đó”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Các con đừng tích trữ cho mình kho tàng dưới đất: là nơi ten sét mối mọt sẽ làm hư nát, và trộm cướp sẽ đào ngạch lấy mất, nhưng các con hãy tích trữ cho mình kho tàng trên trời: là nơi không có ten sét, mối mọt không làm hư nát, trộm cướp không đào ngạch lấy mất: Vì kho tàng con ở đâu, thì lòng con cũng ở đó. Con mắt là đèn soi cho thân xác con. Nếu mắt con trong sáng, thì toàn thân con được sáng. Nhưng nếu mắt con xấu kém, thì toàn thân con phải tối tăm. Vậy nếu sự sáng trong con tối tăm, thì chính sự tối tăm, sẽ ra tối tăm biết chừng nào?”. Đó là lời Chúa.

(5 Phút Lời Chúa)

++++++++++++++++++

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

21 THÁNG SÁU

Thiên Chúa Can Thiệp Vì Ích Lợi Của Chúng Ta

Giáo Hội rao giảng về sự quan phòng của Thiên Chúa, không phải vì đó là sáng kiến của chính Giáo Hội, song bởi vì Thiên Chúa đã quyết định mạc khải chính Ngài. Chính Thiên Chúa là Đấng tự mạc khải chính Ngài và cứu độ dân Ngài, chính Ngài vén mở cho thấy kế hoạch cứu độ mà Ngài đã chuẩn bị từ đời đời. Trong ánh sáng này, Thánh Kinh là bản trình thuật vĩ đại nhất về sự quan phòng của Thiên Chúa, bởi vì Thánh Kinh cho thấy rằng Thiên Chúa đã sáng tạo nên mọi sự từ đầu và Ngài can thiệp một cách kỳ diệu xuyên qua lịch sử cứu độ. Đây chính là sự quan phòng của Thiên Chúa – sự quan phòng này làm cho chúng ta trở thành những tạo vật mới trong một thế giới đổi mới nhờ tình yêu của Thiên Chúa trong Đức Kitô.

Thánh Kinh đặc biệt nói về sự quan phòng thần linh trong các chương về sự sáng tạo và nhất là trong những chỗ qui chiếu đặc biệt đến công cuộc cứu độ trong Sách Sáng Thế và các Sách Ngôn Sứ, nhất là Sách Isaia. Thánh Phao-lô cũng có những suy tư sâu sắc về những kế hoạch khôn dò của Thiên Chúa diễn ra trong lịch sử, nhất là trong các Thư Ê-phê-sô và Cô-lô-sê. Trong các Sách khôn ngoan, các tác giả nhắm đến việc tái khám phá các kế hoạch và đường lối của Thiên Chúa. Tông Đồ Gio-an trong Sách Khải Huyền thì cố gắng khám phá lại ý nghĩa của các mục đích cứu độ của Thiên Chúa trong thế giới.

Xem ra quan điểm Kitô giáo về quan phòng không chỉ là một chương khác của triết lý tôn giáo. Vâng, Thiên Chúa trả lời cho những vấn nạn sừng sững của Gióp (và của mọi người giống như Gióp) với nhãn giới Thánh Kinh về sự trung thành và sự quan phòng của Thiên Chúa đối với con người. Đây là một thần học rõ ràng về sự trợ giúp và sự can thiệp có sức cứu độ của Thiên Chúa khi Dân của Ngài đáp lại Ngài trong đức tin.

– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –

Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác

LIFT UP YOUR HEARTS

Daily Meditations by Pope John Paul II

+++++++++++++++++

Lời Chúa Trong Gia Đình

NGÀY 21/6

Thánh Luy Gônzaga, tu sĩ

2Cr 11, 18. 21b-30; Mt 6, 19-23.

LỜI SUY NIỆM: “Anh em đừng tích trữ cho mình những kho tàng dưới đất, nơi mối mọt làm hư nát, và kẻ trộm khoét vách lấy đi. Nhưng hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư nát, và kẻ trộm không khoét vách lấy đi. Vì kho tàng của anh ở đâu, thì lòng trí anh ở đó.”

          Điều Chúa Giêsu nói với chúng ta hôm nay rất là cụ thể. Người nhắc mỗi một người trong chúng ta cần phải chiến đấu với chính mình mọi ngày trong ngày sống của mình; phải biết chế ngự các ham muốn trước những lời mời gọi của vật chất trần thế.

          Lạy Chúa Giêsu. Chúa biết rõ chúng con đang ở trong tình trạng phải chiến đấu. Xin Chúa ban thêm những ân sủng cần thiết để chúng con chế ngự được những ham muốn của chúng con.

Mạnh Phương

+++++++++++++++++

Gương Thánh Nhân

Ngày 21-06: Thánh LUY GONZAGA

Tu Sĩ (1568 – 1591)

Thánh Luy là con trưởng của Ferrante, bá tước lâu đài Castiglione miền Lombardic. Ông đã nhượng chức tổng chỉ huy cho hiệp sĩ của vua Henry VIII vì thích triều đình Tây Ban Nha hơn, tại Marid, Ferrante gặp Martha Tana đi theo hoàng hậu Isabelle. Ông lập gia đình với Martha năm 1566. Ngày 9 tháng 3 năm 1568, Luy chào đời.

Thân mẫu thánh nhân là người đạo đức. Bà đã dạy cho Luy biết kính sợ và yêu mến Chúa ngay từ hồi còn thơ ấu. Vì vậy, thánh nhân hay được gọi là “thiên thần con”. Thân phụ Ngài trái lại đã muốn hứơng dẫn con mình vào nghề binh đao. Hồi lên 4 tuổi, Ngài được dẫn tới Casal để dự cuộc duyệt binh. Thân phụ Ngài cho Ngài mặc như một sĩ quan và vui mừng khi thấy con dẫn đầu đoàn quân, với quân phục vừa tầm cậu. Luy sống ở đây nhiều tháng và có dịp nghe những lời tục tĩu của lính tráng, dầu không hiểu gì.

Một ngày kia,, khi binh sĩ đang ngủ, Luy ăn cắp thuốc nạp vào súng khai hóa và suýt chết vì súng giật. Bá tước định trừng phạt đứa con của mình nhưng nhờ binh sĩ can thiệp, cậu được thả. Tuy nhiên đây là một lỗi lầm mà Luy than khóc suốt đời.

Năm 1577, Luy cùng với em trai là là Rôđôlfo được gởi đi học tại Florence. Tại đây, Luy đã khấn giữ mình trinh khiết trước ảnh Đức Mẹ truyền tin nhà nguyện dòng Tôi Tớ Đức Mẹ. Chẳng bao lâu sau, Ngài trở về Castigliône, và quyết định hiến mình cho Thiên Chúa, Ngài tăng thêm việc đạo đức và coi đó như bổn phận: quỳ đọc kinh nhật tụng Đức Mẹ, các thánh vịnh sám hối và những kinh nguyện khác. Tại Castigilione, Đức Hồng y Carrôlô Borrômeô đã làm cho Luy rước lễ lần đầu. Đức hồng y đã ngạc nhiên trước nhiệt tình và sự khắc khổ của thánh nhân và thốt lên: “Đứa trẻ này có thể làm gương cho chính các tu sĩ”.

Bá tước Ferrante được đặt làm quan thị vệ của vua Tây Ban Nha, Luy trở thành thị đồng của hoàng tử, Luy nhiệt tình phục vụ hoàng tử Diogô, nhưng vẫn tìm cách sống tại triều đình như là sống trong tu viện. Nhưng rồi cái chết của Diegô dẫn Luy tới quyết định dứt khoát từ bỏ thế gian để gia nhập dòng Chúa Giêsu. Thân phụ Ngài bất mãn vì quyết định ấy và Luy phải đợi ba năm để được sự ưng thuận của thân phụ. Năm 18 tuổi, Ngài vui vẻ nhượng quyền thừa tự và bước vào đời sống tu trì.

Tại tu viện Luy muốn được hoàn toàn quên lãng. Ngài lo chuyện bếp núc, giúp đỡ người nghèo đeo bị đi ăn xin ngoài phố. Đối với gia đình, Ngài chỉ còn muốn nghĩ tới trong kinh nguyện mà thôi. Sau 2 năm trong dòng, ngày 25 tháng 11 năm 1587, Ngài tuyên khấn và lãnh phép cắt tóc gia nhập hàng giáo sĩ ít lâu sau đó.

Nhưng gia đình bỗng có chuyện tranh chấp sau khi thân phụ Ngài qua đời. Tháng 9 năm 1589, bề trên cho phép Luy về Castiglione để giàn xếp. Luy được tiếp đón như một thiên thần từ trời xuống. Mẹ Ngài không cầm mình nổi, đã quì xuống trước mặt con. Từ khắp ngả người ta nói với nhau: Chúng ta thấy Một Vị Thánh.

Cuộc dàn xếp ổn thỏa, Luy được lãnh giảng thuyết trước khi đi. Ngài đã diễn thuyết một cách kỳ diệu đến nỗi hơn 700 thính giả đã tới tòa cáo giải ngay.

Giã từ cha mẹ, Luy trở lại Milan ngày 22 tháng 3 năm 1590 để tiếp tục lớp thần học và được dời về Rôma ngay năm đó để diễn thuyết trước mặt nhiều giám mục nước Ý. Chính tại đây Ngài qua đời như là nạn nhân của lòng bác ái. Lúc ấy có một bệnh dịch tàn phá Rôma.

Thánh Luy hiến trọn xác hồn phục vụ các bệnh nhân, Ngài làm nhiệm vụ khuân vác giúp đỡ mọi người, có khi vác cả xác chết nữa. Tận tụy làm việc cho đến ngày 20 tháng 6 năm 1591 thì bị bất tỉnh. Hôm sau tỉnh dậy Ngài chào anh em, rước của ăn đàng rồi từ trần.

(daminhvn.net)

+++++++++++++++++

21 Tháng Sáu

Nhân Danh Thiên Chúa Ba Ngôi 

Christophoro Columbo, người đã khám phá ra Châu Mỹ vào những thập niên cuối cùng của thế kỷ 15, có lòng sùng kính Chúa Ba Ngôi cách đặc biệt. Trước mọi hoạt động, ông đều kêu cầu Chúa Ba Ngôi cũng như ông luôn khởi đầu những gì mình viết bằng dòng chữ: “Nhân danh Chúa Ba Ngôi cực thánh”.

Lần kia, khi Columbo trình bày về thuyết “Trái đất tròn” trước một nhóm học giả được gọi là Hội Ðồng Salamanca, một tổ chức quy tụ những nhà khoa học và thần học danh tiếng nhất thời bấy giờ, ông đã khởi đầu như sau: “Hôm nay tôi được hân hạnh đứng trước mặt các ngài nhân danh Chúa Ba Ngôi cực thánh, vì hoàng đế đã truyền lệnh cho tôi đệ trình lên sự khôn ngoan của quý vị một dự án mà tôi xác tín là Chúa Thánh Thần Ba Ngôi Thiên Chúa đã gợi hứng cho tôi”.

Trong cuộc hành trình thứ ba của ông khởi hành năm 1948, Columbo đã thề hứa sẽ hiến dâng cho Chúa Ba Ngôi phần đất nào ông khám phá ra đầu tiên, vì thế hòn đảo ông đặt chân xuống đầu tiên trong cuộc hành trình thám hiểm Tân thế giới ấy cho đến nay vẫn được gọi là “Trinidad”, tức là Chúa Ba Ngôi.

Trong suốt cuộc đời, người Kitô hữu chúng ta luôn kinh nghiệm sự gần gũi của Ba Ngôi Thiên Chúa: lúc vừa mở mắt chào đời, chúng ta được nhận lãnh Phép Rửa nhân danh Chúa Ba Ngôi. Trong suốt ngày sống, chúng ta thường ghi dấu thánh giá trên mình với lời chúc tụng nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, cũng như mỗi lần chúng ta dùng bữa hay khi khởi đầu mọi sinh hoạt.

Cộng vào đấy mỗi lần chúng ta vấp ngã và khiêm nhượng đi xưng thú những lỗi lầm trong tòa cáo giải, chúng ta được giao hòa lại với Thiên Chúa và cộng đoàn nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi và cũng nhân danh Người các đôi trai gái yêu nhau được nối kết để chung sống đời hôn nhân.

Rồi cả các bệnh nhân cũng được ban ơn sức mạnh nhờ danh Thiên Chúa Ba Ngôi để khi nhắm mắt xuôi tay, các Kitô hữu chúng ta cũng được tiễn đưa vào cuộc sống đời sau và được chôn cất nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.

Mặt khác, Chúa Ba Ngôi cũng là trung tâm và mục đích mọi hoạt động của những kẻ tin kính Người. Bởi thế chúng ta thường kết thúc nhiều Kinh và những sinh hoạt bằng câu: “Sáng danh Ðức Chúa Cha và Ðức Chúa Con và Ðức Chúa Thánh Thần”.

(Lẽ Sống)

++++++++++++++++++

Lời Chúa Mỗi Ngày

Thứ Sáu Tuần 11 TN1, Năm lẻ

Bài đọc2 Cor 11:18, 21-30; Mt 6:19-23.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải có mắt sáng và trí tuệ khôn ngoan để nhận ra sự thật.

Mắt dùng để nhìn hay để quan sát người hay các sự việc xảy ra chung quanh; nhưng nếu chỉ dùng mắt để quan sát rồi đưa đến kết luận ngay, con người sẽ lầm to, vì có những điều ẩn giấu bên trong con người hay sự vật mà một người không thể nhìn thấy. Để có kết luận khôn ngoan, con người cần dùng trí tuệ để suy xét cẩn thận về những điều đã nhìn thấy. Không phải ai có mắt cũng nhìn thấy; không phải ai có trí khôn cũng biết lựa chọn cách khôn ngoan. Nhiều người rất tự hào là họ khôn ngoan và sáng suốt, nhưng lại bị người khác đánh lừa để lấy đi tất cả những gì họ có. Nhiều cha mẹ tự hào là khôn ngoan, nhưng khi phải chọn vợ chồng cho con lại chọn những người chẳng mang lại hạnh phúc cho cuộc đời con của họ.

Các bài đọc hôm nay nhấn mạnh đến hai việc phải quan sát kỹ để nhìn thấy tất cả, và phải có sự khôn ngoan để lựa chọn những giá trị vĩnh cửu thay vì những giá trị hào nhoáng bên ngoài. Trong bài đọc I, thánh Phaolô phải dùng đến cách ngài không muốn, đó là tự hào kể công, để giúp các tín hữu Corintô nhận ra ai là người thương yêu và lo lắng cho họ thật lòng; chứ đừng vội theo những “tông đồ giả hiệu.” Họ có thể dùng cách ăn nói khôn ngoan và ngọt ngào của họ như của con cáo già, để mê hoặc các tín hữu non nớt ra khỏi tay của Phaolô và nhất là của Đức Kitô. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu cũng khuyên các môn đệ phải dùng mắt sáng và trí khôn ngoan để nhận ra đâu là những giá trị vĩnh cửu nên theo đuổi, và đâu là những giá trị hào nhoáng cần phải gạt đi.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Nếu phải tự hào, thì tôi sẽ tự hào về những yếu đuối của tôi.

1.1/ Có lắm kẻ tự hào theo tính xác thịt, thì tôi đây, tôi cũng tự hào: Sở dĩ có trình thuật hôm nay là vì có một số những người Do-thái, ngay cả các tín hữu Do-thái, luôn theo sau để phá đổ những công trình của Phaolô. Mỗi khi Phaolô đến một thành phố nào để rao giảng Tin Mừng, để thiết lập giáo hội địa phương, và rời bỏ nơi đó qua thành khác, là những người này theo sau để phá hoại công việc của Phaolô, bằng cách dèm pha, nói xấu đủ điều, và lạm dụng lòng tin của các tín hữu để tìm lợi nhuận cho riêng họ.

Các tín hữu Corintô còn non nớt trong đức tin, nên đã không nhận ra những thủ đoạn của hạng người này, và một số người đã rơi vào bẫy của họ. Phaolô không muốn tự hào hay kể công, nhưng vì để kéo các tín hữu Corintô về với sự thật mà ông buộc lòng phải biện minh. Ông cảm thấy khó chịu và nhục nhã khi phải làm những điều này. Chúng ta có thể tóm tắt những gì Phaolô cắt nghĩa vào 3 lãnh vực chính:

(1) Nguồn gốc dân tộc Israel: “Họ là người Do-thái ư? Tôi cũng vậy! Họ là người Israel ư? Tôi cũng vậy! Họ là dòng giống Abraham ư? Tôi cũng vậy!” Có lẽ địch thù của Phaolô cho ông sinh ra và lớn lên tại Tarsus, Asia Minor, nên không phải là người Do-thái chính hiệu ở Israel.

(2) Gian khổ phải chịu trên đường rao giảng Tin Mừng: “Họ là người phục vụ Đức Kitô ư? Tôi nói như người điên: tôi còn hơn họ nữa! Hơn nhiều vì công khó, hơn nhiều vì ở tù, hơn gấp bội vì chịu đòn, bao lần suýt chết. Năm lần tôi bị người Do-thái đánh bốn mươi roi bớt một; ba lần bị đánh đòn; một lần bị ném đá; ba lần bị đắm tàu; một đêm một ngày lênh đênh giữa biển khơi! Tôi còn hơn họ, vì phải thực hiện nhiều cuộc hành trình, gặp bao nguy hiểm trên sông, nguy hiểm do trộm cướp, nguy hiểm do đồng bào, nguy hiểm vì dân ngoại, nguy hiểm ở thành phố, trong sa mạc, ngoài biển khơi, nguy hiểm do những kẻ giả danh là anh em. Tôi còn phải vất vả mệt nhọc, thường phải thức đêm, bị đói khát, nhịn ăn nhịn uống và chịu rét mướt trần truồng.” (3) Mối lo lắng cho Hội Thánh mỗi ngày thêm tăng trưởng: “Không kể các điều khác, còn có nỗi ray rứt hằng ngày của tôi là mối bận tâm lo cho tất cả các Hội Thánh!” Không chỉ việc giúp niềm tin cho các giáo hội địa phương, Phaolô còn lo cho Hội Thánh được bành trướng khắp nơi, đến tận Rôma và Âu-châu. Điều này đối phương của Phaolô không thể so sánh.

1.2/ Nếu phải tự hào, thì tôi sẽ tự hào về những yếu đuối của tôi: Phaolô muốn cho các tín hữu biết lý do tại sao ông phải nói lên những điều này: thứ nhất là để họ nhận ra tình thương thật của ông dành cho họ; thứ hai là ông có thể vượt qua tất cả gian khổ không bằng sức mạnh của ông, nhưng bằng sức mạnh của Đức Kitô và của Thánh Thần đang hoạt động trong ông; sau cùng như một lời khích lệ tinh thần, nếu họ để cho Đức Kitô làm việc, họ cũng có sức mạnh để vượt qua những yếu đuối và giới hạn của con người.

2/ Phúc Âm: Kho tàng của anh ở đâu, thì lòng anh ở đó.

2.1/ Hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời: Con người có thói quen tích trữ; nhưng phải biết khôn ngoan để tích trữ những gì không hư hoại và vào nơi tích trữ an toàn không ai có thể động tới được. Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ so sánh về kho tàng dưới đất với kho tàng trên trời.

(1) Kho tàng dưới đất: Nhiều người nghĩ tiền là tiện nhất và nhẹ nhàng, nên họ cẩn thận bao bọc tiền có được đem chôn dưới đất. Ít lâu sau cần tiền họ đào đất mang lên, tiền đã mục nát và trở thành vô giá trị. Người khác lại cho chẳng gì bằng của ăn như: gạo, bột mì, khoai sắn; nên họ xây những vựa to để chứa thực phẩm. Vài năm sau ra thăm, họ thấy vựa đã bị chuột cắn phá, gạo và lúa mì bị tràn đầy mối mọt. Người khác rút kinh nghiệm và kết luận: chẳng gì bằng vàng bạc, vừa không mất giá, vừa không bị mối mọt, và họ yên trí cất giấu. Nhưng cất đâu cũng chẳng khỏi “tai vách, mặt rừng.” Họ bị kẻ trộm đến khoét vách lấy đi vàng bạc, và những đồ quí giá.

(2) Kho tàng trên trời: Những gì con người có thể làm và tích trữ trong kho tàng trên trời. Trước tiên là những việc lành phúc đức được thu tóm trong 7 mối thương phần xác và 7 mối thương phần linh hồn. Thứ đến, là những hiểu biết về Thiên Chúa và tình yêu dành cho Ngài. Hai điều này không thể tách rời vì chúng ta không thể yêu người ta không biết. Kiến thức về Thiên Chúa sẽ giúp chúng ta yêu Ngài mỗi ngày một hơn. Sau cùng, Thiên Chúa dựng nên con người giống hình ảnh của Ngài, và Ngài mời gọi chúng ta trở nên hoàn thiện giống như Ngài. Tiến trình nên hoàn thiện không phải chỉ dứt bỏ tội lỗi mà thôi; nhưng còn phải tập luyện các nhân đức nữa.

2.2/ Nếu mắt anh sáng, thì toàn thân anh sẽ sáng: Chúa Giêsu dạy: “Đèn của thân thể là con mắt. Vậy nếu mắt anh sáng, thì toàn thân anh sẽ sáng. Còn nếu mắt anh xấu, thì toàn thân anh sẽ tối. Vậy nếu ánh sáng nơi anh lại thành bóng tối, thì tối biết chừng nào!” Mắt sáng mới thấy đường. Mắt mù, loạn thị và loạn sắc sẽ ảnh hưởng trên tầm nhìn của con người. Người mù lòa sẽ khổ vô cùng vì cả vũ trụ đối với anh là một màu đen. Đi đâu anh cũng phải có người hướng dẫn, nếu không anh sẽ bị té ngã vì những đồ vật trước mặt.

Như mắt sáng cần cho thân thể thế nào, sự khôn ngoan cũng cần cho đời sống tinh thần như vậy. Ít người chịu để ý đến sự mù lòa của trí khôn và tâm hồn; nhưng ảnh hưởng của nó trên con người còn lớn hơn là sự mù lòa trên cơ thể. Trình thuật Chúa chữa người mù trong chương 9 của Gioan giúp chúng ta nhận ra có những người mù mà mắt vẫn sáng.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Chúng ta phải biết dùng con mắt để quan sát cẩn thận những việc xảy ra trong trời đất. Một sự quan sát cẩu thả sẽ dẫn tới việc không đủ chất liệu để làm một kết luận khôn ngoan.

– Chúng ta phải dùng trí tuệ, nhất là việc học hỏi Kinh Thánh, để biết phân biệt sự thật từ những sự gian tà, giá trị vĩnh cửu từ những giá trị tạm thời, người yêu mình thật từ những người chỉ biết lợi dụng để tìm kiếm lông chiên hay thịt chiên.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

****************