Ngày thứ tư (05-06-2024) – Trang suy niệm

04/06/2024

Lời Chúa Hôm Nay

Thứ Tư tuần 9 Thường Niên. Thánh Bôniphát

BÀI ĐỌC I: 2 Tm 1, 1-3. 6-12

“Con hãy làm sống lại ơn Thiên Chúa trong con qua việc đặt tay của cha”.

Khởi đầu thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi cho Timôthêu.

Phaolô, tông đồ của Đức Giêsu Kitô, bởi ý định của Thiên Chúa, thể theo lời hứa ban sự sống trong Đức Giêsu Kitô, gởi lời hỏi thăm Timôthêu, người con yêu dấu. Nguyện chúc ân sủng, lòng từ bi và bình an của Thiên Chúa Cha và Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ở cùng con. Cha cảm tạ ơn Thiên Chúa, Đấng cha phụng thờ như tổ tiên cha đã làm, với một lương tâm trong sạch, ngày đêm cha luôn luôn nhớ đến con, khi cha cầu nguyện. Vì thế, cha khuyên con hãy làm sống lại ơn Thiên Chúa đã ban cho con do việc đặt tay của cha. Vì chưng, Thiên Chúa không ban cho chúng ta một thần trí nhát sợ, mà là thần trí dũng mạnh, bác ái và tiết độ. Vậy con, con chớ hổ thẹn làm chứng cho Chúa chúng ta, và cho cha nữa, là tù nhân của Người, nhưng con hãy đồng lao cộng tác với cha vì Tin Mừng, nhờ quyền năng của Thiên Chúa, Đấng đã giải thoát và kêu mời chúng ta bằng ơn thiên triệu thánh của Người, không phải do công việc chúng ta làm, mà là do sự dự định và ân sủng đã ban cho chúng ta từ trước muôn đời trong Đức Giêsu Kitô, nhưng bây giờ mới tỏ bày bằng sự xuất hiện của Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Chuộc chúng ta. Người đã dùng Tin Mừng tiêu diệt sự chết và chiếu soi sự sống, và sự không hư nát được tỏ rạng. Cha đã được đặt làm kẻ rao giảng, làm tông đồ và làm thầy dạy các dân ngoại. Cũng do đó, cha phải chịu những thử thách này, nhưng cha không hổ thẹn, vì cha biết cha tin vào Đấng nào, và cha chắc chắn rằng Người có quyền phép gìn giữ kho tàng của cha cho đến ngày đó.

Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 122, 1-2a. 2bcd

Đáp: Lạy Chúa, con ngước mắt nhìn lên Chúa (c. 1a).

1) Con ngước mắt nhìn lên Chúa, Ngài ngự trị ở cõi cao xanh. Kìa, như mắt những người nam tôi tớ nhìn vào tay các vị chủ ông.

2) Như mắt của những người tỳ nữ nhìn vào tay các vị chủ bà, mắt chúng tôi cũng nhìn vào Chúa là Thiên Chúa của chúng tôi như thế, cho tới khi Ngài thương xót chúng tôi.

ALLELUIA: Tv 129, 5

All. All. – Con hy vọng rất nhiều vào Chúa, linh hồn con trông cậy ở lời Chúa. – All.

PHÚC ÂM: Mc 12, 18-27

“Người không phải là Thiên Chúa kẻ chết, mà là Thiên Chúa kẻ sống”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, có ít người phái Sađốc đến cùng Chúa Giêsu; phái này không tin có sự sống lại và họ hỏi Người rằng: “Thưa Thầy, luật Môsê đã truyền cho chúng tôi thế này: Nếu ai có anh em chết đi, để lại một người vợ không con, thì hãy cưới lấy người vợ goá đó để gây dòng dõi cho anh em mình. Vậy có bảy anh em: người thứ nhất cưới vợ rồi chết không con. Người thứ hai lấy người vợ goá và cũng chết không con, và người thứ ba cũng vậy, và cả bảy người không ai có con. Sau cùng người đàn bà ấy cũng chết. Vậy ngày sống lại, khi họ cùng sống lại, thì người đàn bà đó sẽ là vợ của người nào? Vì cả bảy anh em đã cưới người đó làm vợ”. Chúa Giêsu trả lời rằng: “Các ông không hiểu biết Kinh Thánh, cũng chẳng hiểu biết quyền phép của Thiên Chúa, như vậy các ông chẳng lầm lắm sao? Bởi khi người chết sống lại, thì không lấy vợ lấy chồng, nhưng sống như các thiên thần ở trên trời. Còn về sự kẻ chết sống lại, nào các ông đã chẳng đọc trong sách Môsê chỗ nói về bụi gai, lời Thiên Chúa phán cùng Môsê rằng: “Ta là Chúa Abraham, Chúa Isaac và Chúa Giacóp”. Người không phải là Thiên Chúa kẻ chết, mà là Thiên Chúa kẻ sống. Vậy các ông thật lầm lạc”.

Đó là lời Chúa.

(Nguồn: UBPV/HĐGMVN, ấn bản 1973)

++++++++++++++++++

05/06/2024 – THỨ TƯ ĐẦU THÁNG TUẦN 9 TN

Th. Bô-ni-phát, giám mục, tử đạo

Mc 12,18-27

CHÚA CỦA KẺ SỐNG

“Người phán : ‘Ta là Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, và Thiên Chúa của Gia-cóp’. Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống. Các ông lầm to!” (Mc 12, 26-27)

Suy niệm: Đối với nhiều người, sống chỉ là cố gắng duy trì hơi thở trong thân xác này; nếu chỉ sống như thế thì không khác gì họ đã chết. B. Franklin nói về họ rằng: “Một số người chết ở tuổi 25 nhưng mãi đến 75 tuổi mới được chôn cất.” Ngược lại, có những người bước vào cuộc sống vĩnh cửu mà những người thuộc nhóm Xa-đốc lại chối bỏ vì họ “chủ trương không có sự sống lại”. Chúa Giê-su phản bác họ cách mạnh mẽ: “Các ông đã lầm to!” bởi vì Thiên Chúa mà họ tôn thờ là Chúa của Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp, Ngài là Đấng hằng sống và là “Chúa của kẻ sống chứ không phải của kẻ chết”, điều đó có nghĩa là các tổ phụ của họ vẫn đang sống.

Mời Bạn: Đối với người Ki-tô hữu hôm nay, sự sống đích thực không chỉ được nhận biết ở người còn thở, tim còn đập mà là sự sống thần linh của Đức Ki-tô phục sinh mà họ lãnh nhận trong bí tích Rửa tội, như lời thánh Phao-lô nói: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi” (Gl 2,20). Nếu bạn đã mang trong mình sự sống đó, thì đừng đánh mất nó vì tội lỗi; trái lại hãy nuôi dưỡng sự sống ấy bằng Lời Chúa Ki-tô và chính Mình Máu Ngài để nhờ đó bạn “được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10).

Sống Lời Chúa: Hôm nay, mỗi khi làm việc gì, chúng ta hãy ý thức Chúa đang thực sự sống trong ta.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, Đấng ban sự sống, xin cho con luôn nhớ Chúa đang sống trong con, để con luôn sống cho Chúa mọi phút giây đời con. Amen.

(5 Phút Lời Chúa)

++++++++++++++++++

Suy niệm và cầu nguyện

Suy Niệm

Khi được Quí Lộ hỏi về sự chết,
Đức Khổng Tử đã trả lời: “Vị tri sinh, yên tri tử.”
Sự sống còn chưa biết, sao biết được sự chết (Luận Ngữ, thiên 11, 11).
Nhưng chuyện đời sau vẫn là thao thức muôn thuở của con người.
Con người muốn biết sau cái chết, mình sẽ đi về đâu.
Đi mà không rõ đích đến thì sẽ đi lông bông vô định.
Tiếc là có người đã tin rằng chẳng có gì sau cái chết!

Nhóm Xađốc cũng thuộc hạng người trên.
Họ là những tư tế Do Thái giáo bảo thủ,
không chấp nhận các ý tưởng mới như chuyện người chết sống lại
hay sự hiện hữu của các Thiên Thần.
Trong Kinh Thánh, họ chỉ dựa vào Ngũ Thư, trong đó có sách Đệ nhị luật.
Sách này có nói đến chuyện một người trong họ hàng gần (Đnl 25, 5-10),
phải lấy bà vợ góa không con của anh em mình, để có người nối dõi.
Nhóm Xađốc đã đưa ra một trường hợp hãn hữu và buồn cười (cc. 20-23),
để cho thấy chuyện sống lại là vô lý, và Môsê cũng chẳng tin chuyện đó.
“Khi sống lại, bà ấy sẽ là vợ của ai?
Vì cả bảy người đều đã lấy bà làm vợ.”

Đức Giêsu đã nặng lời chê các tư tế trong nhóm này (c. 24).
Họ đã hiểu cuộc sống đời sau như một thứ kéo dài cuộc sống hiện tại,
nơi đó người ta vẫn cưới vợ, lấy chồng, vẫn sinh con đẻ cái.
Đức Giêsu cho thấy một bộ mặt khác hẳn của đời sau.
Người được sống lại là người bước vào cuộc sống hoàn toàn mới.
Họ sống “như các Thiên Thần trên trời” (c. 25),
nghĩa là sống trọn vẹn cho việc phụng sự Thiên Chúa,
với một thân xác đã được biến đổi nên giống thân xác Đấng Phục Sinh.

Nhưng đừng hiểu thiên đàng là nơi mất đi sự ấm áp của tình người.
“Hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng” (Lc 23, 43).
“Thầy đi dọn chỗ cho anh em, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14,3).
Tình yêu với Thầy Giêsu và những mối dây thân ái giữa người với người,
chẳng có gì bị phá vỡ, nhưng trở nên hoàn hảo vững bền.
Người ta sẽ không cưới hỏi hay sinh con,
nhưng tình nghĩa vợ chồng được nâng lên một bình diện mới.

Đức Giêsu trưng dẫn sách Xuất hành để minh chứng có sự sống lại.
Thiên Chúa nhận mình là Thiên Chúa của các tổ phụ Ítraen (Xh 3,15).
Mà người Do Thái tin là Ngài không gắn mình với các anh hùng đã chết.
Vậy Abraham, Isaác và Giacóp phải là những người đang sống,
nghĩa là những người đã chết và đã được phục sinh.

Chúng ta tuyên xưng có sự sống đời sau qua kinh Tin Kính.
Nhưng sống niềm tin ấy giữa thế giới vật chất và vô tín là điều không dễ.
Chỉ xin cho vất vả lo toan đời này không làm ta quên đời sau.

 

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu,

giàu sang, danh vọng, khoái lạc

là những điều hấp dẫn chúng con.

Chúng trói buộc chúng con

và không cho chúng con tự do ngước lên cao

để sống cho những giá trị tốt đẹp hơn.

Xin giải phóng chúng con

khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới đất,

nhờ cảm nghiệm được phần nào

sự phong phú của kho tàng trên trời.

Ước gì chúng con mau mắn và vui tươi

bán tất cả những gì chúng con có,

để mua được viên ngọc quý là Nước Trời.

Và ước gì chúng con không bao giờ quay lưng

trước những lời mời gọi của Chúa,

không bao giờ ngoảnh mặt

để tránh cái nhìn yêu thương

Chúa dành cho từng người trong chúng con. Amen.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

(phutcaunguyen.net)

++++++++++++++++++

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

5 THÁNG SÁU

Mạc Khải Và Thuyết Tiến Hóa

Trong thời hiện đại của chúng ta, giáo thuyết mạc khải rằng con người được tạo dựng như một hữu thể gồm cả hồn lẫn xác đã gặp một khó khăn đặc biệt do thuyết tiến hóa dấy lên. Nhiều nhà khoa học nghiên cứu nguồn gốc con người chủ trương rằng không những có một mối liên kết giữa con người và toàn bộ thế giới tự nhiên mà, hơn nữa, con người đã tiến hóa từ các động vật thượng đẳng. Vấn đề nguồn gốc con người đã taọ ra sự tranh luận công khai và rộng rãi. Nó đã trở thành mối quan tâm chủ yếu của nhiều nhà khoa học trong hơn một thế kỷ nay.

Câu trả lời của huấn quyền được tìm thấy trong Thông Điệp Humani generis (1950) của Đức Piô XII: “Huấn quyền Giáo Hội không có gì chống lại học thuyết tiến hóa, trong mức độ mà thuyết tiến hóa tìm kiếm nguồn gốc của thân xác con người nơi một chất thể sống động và hiện hữu trước – vì đức tin Công Giáo khẳng định rằng linh hồn người ta do Thiên Chúa trực tiếp tạo dựng…” (DS 3896).

Vì thế, từ quan điểm giáo thuyết, không có gì trở ngại để tin rằng thân xác con người đã tiến hóa từ các loài động vật thượng đẳng. Song cũng cần phải nhớ rằng thuyết tiến hóa cũng chỉ là một giả thuyết. Nó nêu lên một khả tính rằng một điều gì đó có thể đúng. Nó không phải là một sự chắc chắn về mặt khoa học. Đàng khác, giáo huấn đức tin dạy chúng ta một cách chắc chắn rằng linh hồn thiêng liêng của con người được Thiên Chúa trực tiếp tạo dựng.

Nói vậy có nghĩa là thân xác con người có thể đã được chuẩn bị từng bước cho con người, theo một thứ tự do Đấng Tạo Hóa vạch định. Nhưng, linh hồn con người không thể phát xuất từ vật chất, vì linh hồn có bản tính thiêng liêng. Và chính linh hồn là yếu tố quyết định định mệnh cuối cùng của con người.

– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –

Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác

LIFT UP YOUR HEARTS

Daily Meditations by Pope John Paul II

+++++++++++++++++

Lời Chúa Trong Gia Đình

Ngày 05/6

Thánh Bônifatiô, Giám mục tử đạo

2Tm 1, 1-3. 6-12; Mc 12, 18-27.

Lời suy niệm: Đức Giêsu nói: “Chẳng phải vì không biết Kinh Thánh và quyền năng Thiên Chúa mà các ông lầm sao? Quả vậy, khi người ta từ cõi chết sống lại, thì chẳng còn lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như thiên thần trên trời/” (Mc 12,24-25)

          Qua việc nhóm người Sađốc họ có chủ trương không tin có sự sống lại đời sau, họ đã dưa ra một câu chuyện không tưởng để họ bảo vệ lập luận của họ khi đối thoại với Chúa Giêsu. Chính nhờ câu chuyện này chúng ta được Chúa Giêsu giải thích cho họ, và cả chúng ta hôm nay đó là: Khi sự sống lại xảy ra, và một người đã thực sự sống lại, thì các định luật của sự sống thể xác không còn giá trị nữa: “Khi người ta từ cõi chết sống lại, thì chẳng còn lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần.” Và đối với những ai tin vào Kinh Thánh, thì Chúa Giêsu đã dùng đoạn kinh Thánh trong Sách Xuất Hành khi Thiên Chúa nói với Môsê: “Ta là Thiên Chúa của Ápraham, Thiên Chúa của Isaác và Thiên Chúa của Giacóp.” Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống”.

          Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn được vui hưởng như lời Thánh Vịnh 73 trình bày: “Thật con ở với Chúa luôn, tay con Ngài nắm chẳng buông chẳng rời, dắt dìu khuyên nhủ bao lời, một mai đưa tới rạng ngời vinh quang.” (Tv 73,23-24). Amen.

Mạnh Phương

+++++++++++++++++

Gương Thánh Nhân

Ngày 05-06: Thánh BÔNIFACIÔ

Giám Mục Tử Đạo (673 – 754)

Thánh Bônifaciô có tên sơ khởi là Winfrid. Ngài là người Saxon miền nam, sinh ở Creditôn gần Exêter, năm 673, thời đó, phong trào truyền giáo rất mạnh mẽ ở nước Anh. Gia đình Ngài thường là nơi dừng chân của rất nhiều nhà truyền giáo. Winfrid rất thích gần gũi ở những con người thánh thiện này và không bỏ mất một lời nào các Ngài kể lại và năng hỏi thăm về những chân lý các Ngài rao giảng. Một ngày kia Winfrid hỏi các Ngài phải làm gì để được cứu rỗi ? Các vị thừa sai trả lời: – Phải nỗ lực để nên tốt lành với mọi người và đừng nghĩ đến mình.

Nghe những lời này, Winfrid muốn lên đường ngay để rao giảng Tin Mừng cho lương dân. Ngài đã xin cha đi tu nhưng cha Ngài đã từ chối. Ngài ngã bệnh khiến cha Ngài hốt hoảng và đã chấp nhận.

Winfrid nhập dòng ở Exeter và vì thiện chí học hỏi của Ngài, người ta gởi Ngài tới Nursling để học kinh thánh, thơ văn và văn phạm, năm 717, Winfrid đã trở thành một giáo sĩ nổi bật của miền nam Saxon và được đề nghị làm tu viện trưỏng tu viện Nursling. Nhưng Ngài đã quyết định gia nhập nhóm truyền giáo. Angle-saxon lên đường tới Frisia. Vẫn quan tâm đến các công việc của nước Anh cho đến hết đời, Ngài giữ liên lạc thư từ rất thường xuyên nhưng không hề viếng nước Anh lần nào nữa.

Miền đất Winfrid muốn đến rao giảng Tin Mừng là một vùng thuộc nước Đức và nằm giữa hai giòng sông Rhin và Danube. Cả người Rôma lẫn người Pháp đã không thuần hoá được dân chúng hung dữ của miền này. Nhưng một cuộc chiến bùng nổ giữa bá ước Ratborol và Charles Martel, khiến Ngài không cập bến được. Ngài hướng về Roma với một nhóm hành hương và xin sự chẩn nhận của Đức giáo hoàng. Đức Thánh cha Grêgoriô II đã chúc lành cho tu sĩ này và ban cho mọi người quyền hạn để mang Nước Chúa đến cho dân Đức còn đang thờ ngẫu tượng.

Rời Rôma, Người rảo qua các miền Lombardie, Baviere và Thuringia học hiểu ngôn ngữ và giữ các phong tục địa phương của đám dân. Ngài muốn truyền bá Tin Mừng. Ngài đã đến Frisia, đến giữa nước Đức, và lập được nên một nhà nguyện, một tu viện ở Hambourg. Thành quả này làm phấn khởi cũng như thúc đẩy tình yêu nơi vị tông đồ. Những cuộc trở lại đạo này ngày một nhiều.

Năm 722 Đức giáo hoàng gọi Winfrid về Roma và tấn phong Ngài làm giám mục. Đức Giáo hoàng nói: – Từ nay con sẽ mang tên là Bônifaciô, nghĩa là “người thi ân”. Đây là lần đầu tiên một tòa giám mục ở xa đã theo thực hành địa phương của Italia và đã tỏ bày sự tuân phục đối với Đức Giáo hoàng .

Bônifaciô lại lên đường truyền giáo với tư cách giám mục. Ngài sẽ không ở Frisia dưới quyền Willibord, nhưng muốn mở ra một lãnh địa mới ở Tây Đức. Ngài đã bắt đầu ở Hesse miền Thuringia là nơi Ngài đã đến đốn một cây sồi cổ thụ. Dân chúng đặt tên cho cây sồi này là “sức mạnh thần Jupiter”. Thánh nhân đã triệt hạ cây cổ thụ cách dễ dàng lạ lùng rồi dùng cây dựng nhà thờ kính thánh Phêrô. Dân chúng thờ ngẫu thần đã giận dữ vì sợ bị thần minh oán phạt. Họ tuốn đến đe dọa thánh nhân. Nhưng khi nghe Ngài nói rất hay và đầy tình đầy nghĩa, nhiều người đã trở lại đạo.

Charles Martel lúc ấy sẵn sàng đem binh lực phục vụ Kitô giáo. Tuy nhiên Đức Giám mục Bônifacio đã không muốn cậy dựa vào sức mạnh mà chỉ dùng tình thương để cải hóa các tâm hồn. Ngài đã thiết lập nhiều tu viện và kêu gọi sự trợ giúp từ nước Anh gởi tới. Đã có nhiều linh mục, nghệ sĩ, văn sĩ, tới góp công và nhiều người khác đóng góp của cải cho việc truyền giáo. Cứ như thế mà thánh Bônifacio đã có thể trao phó cộng đoàn nhỏ bé và mới mẻ cho các tu sĩ coi sóc rồi lại lên đường tiếp tục mở mang nước Chúa.

Đức giáo hoàng Gregoriô III phong đức Bônifacio lên chức Tổng giám mục và trao cho trách nhiệm thiết lập các toà giám mục ở nước Đức. Sau cuộc viếng thăm Rôma lần thứ ba, Ngài nhận sứ mệnh tổ chức Giáo hội ở hữu ngạn sông Rhin. Suốt 7 năm đi rao giảng Tin Mừng ở Hesse, Ngài đi vào khu rừng phân cách Hesse và Thuringia. May mắn, nhà truyền giáo được hứơng dẫn tiến về thung lũng Fuloda. Cùng với các tu sĩ, Ngài phá rừng đào đất và xây dựng tu viện Fulda. Tu viện này sẽ trở nên thành trì của đời sống tôn giáo trí thức của dân man rợ thời Trung Cổ.

Đức Tổng giám mục Bônifacio chọn Mayence làm toà tổng giám mục. Carlôan con của Charles martel chọn đời sống tu trì và nhường quyền kế vị cho Pépin. Ông này muốn được một đức giám mục lớn phong vương. Trong một lễ nghi long trọng ở Soissons, vị tông đồ đã đặt vương miện lên đầu Pépin le Brej. Sau đó không kể gì đến tuổi già, Ngài lại lên đường truyền giáo.

Ngài xuống thuyền với 50 người tùy tùng gồm có các linh mục, tu sĩ và các sinh viên. Đoàn thuyền tới giữa các cánh đồng lầy lội. Cư dân của vùng này còn sống rất hoang dại. Các nhà truyền giáo rao giảng Tin Mừng cho họ. Đức cha Bônifacio hẹn các tân tòng ở Dokum, gần bờ bể, ngày 5 tháng 6 năm 756, hôm ấy là lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Lúc vừa cử hành thánh lễ thì một đoàn người mang khí giới xông tới, Bônifacio quay về với các bạn và nói: – Can đảm lên, khí giới này không làmgì được linh hồn.

Các lương dân xông vào sát hại các nhà truyền giáo. Một nhát búa bổ xuống Đức Tổng giám mục và cuốn Phúc âm Ngài đang cầm trong tay.

Xác thánh nhân được đưa về chôn cất ở nhà thờ chánh tòa Fulda. Thư viện còn lưu giữ được cuốn sách bị chặt đứt của thánh nhân.

(daminhvn.net)

+++++++++++++++++

05 Tháng Sáu

Hãy Cho Một Nụ Cười 

Một bệnh nhân nọ được đưa vào một bệnh viện do các tu sĩ điều khiển. Người ta không để cho anh nằm điều trị trong một căn phòng riêng rẽ mà lại đặt anh nằm chung với các bệnh nhân khác trong một phòng lớn. Vừa mới được khiêng vào căn phòng, người đàn ông đã bị các bệnh nhân khác tuôn đến bao xung quanh. Người thì kéo chăn, kẻ nắm áo, kẻ bứt tóc. Không mấy chốc, anh bị quăng xuống khỏi giường giữa những tiếng cười đùa của các bệnh nhân khác.

Không chịu đựng nổi trò chơi quái ác của các bệnh nhân, người đàn ông mới la hét để kêu cầu vị phụ trách. Anh trình như sau: “Tại sao ông lại đưa tôi vào đây. Tất cả các bệnh nhân xung quanh tôi đều cười đùa, nghịch ngợm như một đám con nít. Hẳn họ không đau yếu như tôi”.

Vị phụ trách mỉm cười đáp: “Họ còn đau yếu hơn cả anh. Nhưng tất cả đều khám phá ra một bí quyết, một bí quyết mà ít người ngày nay biết đến hoặc có biết đến, họ cũng không tin”.

Người đàn ông muốn biết bí quyết ấy. Vị phụ trách bệnh viện mới lấy một cái cân có hai đĩa ở hai đầu. Ngài lấy một hòn đá đặt vào một đĩa cân, đĩa cân ở đầu bên kia liền được nhắc lên… Ngài giải thích như sau: Tôi vừa trình bày cho ông một bí quyết của các bệnh nhân ở đây. Chiếc cân này là biểu trưng của tình liên đới giữa con người với nhau. Hòn đá biểu hiện cho nỗi đau khổ của ông. Khi đau khổ đè nặng trên ông, thì ở đầu cân bên kia, niềm vui có thể đến với một người nào đó. Niềm vui và nỗi khổ thường sánh vai với nhau. Nhưng nỗi khổ cần phải được đón nhận và dâng hiến, chứ không phải để giữ riêng cho mình. Hãy làm cho những người khác trở thành trẻ thơ, hãy làm cho nụ cười được chớm nở trên môi của người khác cho dẫu ta đang hấp hối”.

Cái chết của Ðức Kitô là cái chết của một người cho tất cả mọi người. Ðó là Tình Yêu được dâng hiến cho tất cả mọi người. Ðó là Hy Sinh cho tất cả mọi người. Ðó là Lý Tưởng của một người sống và chết cho mọi người.

Nhìn ngắm Ðức Kitô trên thập giá, chúng ta thấy được định nghĩa đích thực về con người: con người chỉ có thể thể hiện được trọn vẹn tính người khi sống cho người khác. Càng sống cho tha nhân, con người càng tìm lại được chính bản thân. Càng chia sẻ với người khác, con người càng trở nên phong phú…

Có của cải, có thì giờ, có niềm vui để chia sẻ đã đành, nhưng con người còn có cả một kho tàng khác để chia sẻ cho người khác: đó là nỗi đau khổ, sự bất hạnh, những hy sinh âm thầm của mình. 

Âm thầm đón nhận một đau khổ mà không than trách, không phàn nàn, nhưng luôn để lộ trên khuôn mặt sự vui tươi, tinh thần lạc quan: đó là một trong những chia sẻ cao độ nhất mà chúng ta có thể dành cho người khác.

Vác lấy khổ đau để trở thành gánh nặng cho người khác: đó là một trong những chia sẻ cao quý nhất mà chúng ta có thể dành cho người khác.

Dâng từng khổ đau, hy sinh và âm thầm phục vụ từng ngày để cầu nguyện cho tha nhân: đó là một trong những chia sẻ cao đẹp nhất, bởi vì chỉ có Chúa mới thấy được giá trị của sự chia sẻ ấy.

(Lẽ Sống)

++++++++++++++++++

Lời Chúa Mỗi Ngày

Thứ Tư – Tuần 9 – TN2 – Năm Chẵn

Bài đọc: 2 Tim 1:1-3, 6-12; Mk 12:18-27.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Tin Mừng cắt nghĩa rõ ràng phúc trường sinh bất tử.

Sự sống đời đời hay phúc trường sinh bất tử là yếu tố quyết định làm con người sống thế nào trong cuộc sống đời này. Nếu một người không tin có sự sống đời đời, người đó sẽ làm mọi cách để hưởng thụ cuộc sống ngắn ngủi đời này, vì đó là quãng thời gian duy nhất họ có để hưởng thụ. Họ sợ đau khổ, sợ mất những gì họ có, và nhất là sợ chết vì chết là mất tất cả. Ngược lại, nếu một người tin có cuộc sống trường sinh bất tử, người đó sẽ làm mọi cách cho được hưởng cuộc sống hạnh phúc đời sau cho dẫu phải hy sinh chịu đau khổ ở đời này. Họ sẽ không quan tâm lắm đến việc hưởng thụ cuộc sống đời này vì họ biết còn cả một cuộc sống đời đời để hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa.

Các bài đọc hôm nay muốn nêu bật câu hỏi có cuộc sống trường sinh bất tử không và làm thế nào để đạt được cuộc sống ấy. Trong bài đọc I, thánh Phaolô nhắn nhủ Timothy, người môn đệ yêu quí của mình hãy nhớ lại Kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa dành cho mọi người và sự cần thiết của việc rao giảng Tin Mừng để mọi người biết Thiên Chúa muốn họ được hưởng sự sống đời đời qua việc sai Người Con xuống trần để chuộc tội cho họ. Trong Phúc Âm, một số người Sadducees, những người không tin có sự sống lại, dựa vào Luật Moses bày ra một câu hỏi để chứng minh với Chúa Giêsu không có sự sống lại. Chúa Giêsu mắng họ đã sai lầm vì không hiểu Kinh Thánh: Thiên Chúa không phải là của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Chính Đức Kitô đã tiêu diệt thần chết, và đã dùng Tin Mừng mà làm sáng tỏ phúc trường sinh bất tử.

1.1/ Sự hiểu biết về cuộc sống đời đời qua các thời đại: Sự hiểu biết về sự sống lại và cuộc sống đời sau tuy đã được nói tới trong Cựu Ước; nhưng chưa rõ nét lắm. Đa số dân chúng vẫn tin cuộc sống hạnh phúc chỉ ở đời này, ai làm lành sẽ được Thiên Chúa cho sống lâu, cho nhiều con cháu, và cho của cải vật chất.

Đến thế kỷ thứ 2 BC, tiên tri Daniel là một trong số người đầu tiên nói về sự sống lại, sự phán xét và sự sống đời sau: “Trong số những kẻ an nghỉ trong bụi đất, nhiều người sẽ trỗi dậy: người thì để hưởng phúc trường sinh, kẻ thì để chịu ô nhục và bị ghê tởm muôn đời. Các hiền sĩ sẽ chói lọi như bầu trời rực rỡ, những ai làm cho người người nên công chính, sẽ chiếu sáng muôn đời như những vì sao” (Dan 12:2-3). Bà mẹ và bảy anh em nhà Maccabees sẵn sàng chết để tuân giữ luật của cha ông, vì họ tin Thiên Chúa sẽ trả lại thân xác và linh hồn cho họ. Bà mẹ khuyên người con út bằng những lời tin tưởng sau đây: “Mẹ không rõ các con đã thành hình trong lòng mẹ thế nào. Không phải mẹ ban cho các con hơi thở và sự sống. Cũng không phải mẹ sắp đặt các phần cơ thể cho mỗi người trong các con. Chính Đấng Tạo Hoá càn khôn đã nắn đúc nên loài người, và đã sáng tạo nguồn gốc muôn loài. Chính Người do lòng thương xót, cũng sẽ trả lại cho các con hơi thở và sự sống, bởi vì bây giờ các con trọng Luật Lệ của Người hơn bản thân mình” (2 Mac 7:22-23).

Đến thời Chúa Giêsu, Ngài mặc khải cho con người rõ ràng sự sống đời đời nằm trong Kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, và Ngài chính là Đấng mang phúc trường sinh bất tử cho con người qua cái chết và sự phục sinh vinh hiển của Ngài. Đây chính là cốt lõi của Tin Mừng mà Phaolô rao giảng và Ngài nhắc nhở cho môn đệ yêu quí là Timothy hôm nay: Phải đem Tin Mừng này cho mọi người để họ cũng nhận được phúc trường sinh bất tử đó.

1.2/ Làm sao con người đạt được phúc trường sinh bất tử: Đại đa số những người Do-thái thời Chúa Giêsu tin, họ có thể đạt được cuộc sống đời sau bằng việc giữ cẩn thận các Lề Luật của Moses. Khi Chúa Giêsu đến, Ngài mặc khải cho họ biết Lề Luật không có sức làm cho họ được cuộc sống trường sinh bất tử; nhưng họ phải tin và làm những gì Ngài truyền dạy. Thánh Phaolô là một ví dụ cho sự thay đổi này vì Ngài tin vào sức mạnh của Lề Luật cho tới khi bị ngã ngựa trên đường đi Damascus. Ngài dạy rõ ràng trong Thư Roma và Thư Galat: con người được công chính hóa (điều kiện để có ơn cứu độ) là do bởi niềm tin vào Đức Kitô, chứ không do bởi việc giữ Luật vì không ai có thể giữ trọn vẹn Luật. Ngài lặp lại điều đó với Timothy hôm nay: “Người đã cứu độ và kêu gọi chúng ta vào dân thánh của Người, không phải vì công kia việc nọ chúng ta đã làm, nhưng là do kế hoạch và ân sủng của Người. Ân sủng đó, Người đã ban cho chúng ta từ muôn thuở trong Đức Giêsu Kitô, nhưng giờ đây mới được biểu lộ, vì Đấng cứu độ chúng ta là Đức Giêsu Kitô đã xuất hiện. Chính Đức Kitô đã tiêu diệt thần chết, và đã dùng Tin Mừng mà làm sáng tỏ phúc trường sinh bất tử.”

2/ Phúc Âm: Chúa Giêsu mặc khải về sự sống đời đời

2.1/ Khi người ta từ cõi chết sống lại, thì chẳng còn lấy vợ lấy chồng: Trình thuật hôm nay nói về cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu và những người thuộc phái Sadducees. Nhóm này chủ trương không có sự sống lại. Họ là những người thuộc phái lãnh đạo và là thành phần giàu có, nhiều người trong số họ là tư tế hay thượng tế. Khi họ đã có quyền hành, danh vọng, giầu có ở đời này, họ không cần đến sự sống đời sau nữa!

Họ dựa vào Luật (Deut 25:5) để chứng minh với Chúa Giêsu là “không có sự sống lại;” vì người vợ đó không thể thuộc về cả bảy người nếu có sự sống lại. Chúa Giêsu trả lời họ thẳng thắn: “Chẳng phải vì không biết Kinh Thánh và quyền năng Thiên Chúa mà các ông lầm sao? Quả vậy, khi người ta từ cõi chết sống lại, thì chẳng còn lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời” (cf. Lk 20:35-36).

2.2/ Thiên Chúa không phải của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống: Chúa Giêsu nói họ không hiểu Kinh Thánh đúng đắn, vì Kinh Thánh đã nói về sự sống lại rồi. Khi Thiên Chúa hứa với Abraham sẽ ban cho ông một dòng dõi và đất làm gia sản. Ngài hứa cho Abraham, chứ không phải chỉ cho dòng dõi của ông. Abraham phải sống để nhìn thấy dòng dõi và hưởng đất làm gia sản; nếu không, ông làm sao biết lời hứa của Thiên Chúa được thực hiện. Lý luận tương tự như thế cho những lời Thiên Chúa hứa với Isaac, Jacob, và vua David.

Trong trình thuật hôm nay, Chúa Giêsu dẫn chứng lời Thiên Chúa nói với Moses trong đoạn nói về bụi gai: “Ta là Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, và Thiên Chúa của Jacob.” Động từ “là” được dùng ở thời hiện tại để chỉ Người luôn luôn là Thiên Chúa của Abraham, Isaac và Jacob. Điều này có nghĩa các tổ phụ đó phải đang sống. Chúa Giêsu kết luận: “Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống. Các ông lầm to!”

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Hiểu biết mặc khải của Thiên Chúa về phúc trường sinh bất tử là kiến thức không thể thiếu cho chúng ta và cho tất cả mọi người, vì biết làm sao sẽ sống như vậy.

– Phúc trường sinh bất tử là do bởi tình thương Thiên Chúa. Chúng ta không thể dựa vào bất cứ lý do gì ngoài việc tin tưởng Đức Kitô và giữ những gì Ngài truyền dạy.

– Chúng ta đừng mô tả Thiên Đàng theo trí tưởng tượng và sở thích con người, nhưng phải học hỏi Kinh Thánh để biết cách đúng đắn về cuộc sống đời sau.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

****************