Ngày thứ tư (11-08-2021) – Trang suy niệm

10/08/2021

Lời Chúa Hôm Nay

Thứ Tư Tuần XIX Mùa Thường Niên Năm lẻ

BÀI ĐỌC I: Đnl 34, 1-12

“Môsê qua đời tại đó như Chúa đã truyền dạy, và không còn tiên tri nào như ông đứng lên nữa”.

Trích sách Đệ Nhị Luật.

Trong những ngày ấy, ông Môsê từ đồng bằng Moab đi lên núi Nêbô, ngọn núi Phasga, ngay trước mặt thành Giêricô. Và Chúa cho ông thấy khắp xứ Galaad cho đến Đan, cả miền Nephtali, đất Ephraim và Manassê, cả xứ Giuđa cho đến Biển Tây, phần đất phía nam vùng đồng bằng rộng lớn Giêricô, là thành cây chà là, cho đến Sêgor. Chúa phán cùng ông rằng: “Đây là Đất Ta đã thề hứa với Abraham, Isaac và Giacóp bằng những lời này: ‘Ta sẽ ban nó cho con cháu ngươi’. Ta đã cho ngươi thấy tận mắt xứ ấy, nhưng ngươi sẽ không được qua đến đó”.

Môsê, tôi tớ của Chúa, đã qua đời tại đó, trên đất Moab, như Chúa đã truyền dạy. Ông được chôn cất trong thung lũng tại xứ Moab, ngay trước mặt thành Phegor. Mãi đến nay, không ai biết ngôi mộ của ông. Khi Môsê qua đời, ông được một trăm hai mươi tuổi: mắt vẫn chưa mờ và răng vẫn chưa lung lay. Con cái Israel thương khóc ông suốt ba mươi ngày trong đồng bằng Moab. Ngày thọ tang Môsê chấm dứt, thì Giosuê, con ông Nun, được đầy tinh thần khôn ngoan, vì Môsê đã đặt tay trên ông. Con cái Israel vâng lời ông, thi hành mệnh lệnh Chúa đã truyền cho Môsê.

Về sau, trong Israel không còn tiên tri nào như Môsê đứng lên nữa: ông là người Thiên Chúa từng quen mặt. Biết bao dấu lạ, kỳ công Chúa đã sai ông làm trong đất Ai-cập, chống lại Pharaon cùng tất cả triều thần và xứ sở vua ấy. Môsê đã tác oai và làm những việc kỳ diệu vĩ đại trước mắt toàn thể Israel. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 65, 1-3a. 5 và 8. 16-17

Đáp: Chúc tụng Chúa là Đấng đã ban cho linh hồn chúng tôi được sống (c. 20a & 9a).

Xướng:

1) Toàn thể đất nước, hãy reo mừng Thiên Chúa, hãy ca ngợi vinh quang danh Người; hãy kính dâng Người lời khen ngợi hiển vinh. Hãy thưa cùng Thiên Chúa: kinh ngạc thay sự nghiệp Chúa. – Đáp.

2) Hãy tới và nhìn coi sự nghiệp của Thiên Chúa. Người thi thố những chuyện kinh ngạc giữa con cái người ta! Hỡi chư dân, hãy chúc tụng Thiên Chúa chúng tôi, và loan truyền lời ca khen Người. – Đáp.

3) Phàm ai tôn sợ Chúa, hãy đến, hãy nghe tôi kể lại, Chúa đã làm cho linh hồn tôi những điều trọng đại biết bao. Tôi đã mở miệng kêu lên chính Chúa, và lưỡi tôi đã ngợi khen Người. – Đáp.

ALLELUIA: Gc 1, 21

Alleluia, alleluia! – Anh em hãy khiêm nhu nhận lãnh lời giao ước trong lòng, lời đó có thể cứu thoát linh hồn anh em. – Alleluia. 

PHÚC ÂM: Mt 18, 15-20

“Nếu nó nghe ngươi, thì ngươi đã lợi được người anh em”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Nếu anh em con lỗi phạm, hãy đi sửa dạy nó, riêng con và nó thôi. Nếu nó nghe con, thì con đã lợi được người anh em. Nếu nó không nghe lời con, hãy đem theo một hoặc hai người nữa, để mọi việc được giải quyết nhờ lời hai hoặc ba nhân chứng. Nếu nó không nghe họ, hãy trình với cộng đoàn. Và nếu nó cũng không nghe cộng đoàn, con hãy kể nó như người ngoại giáo và như người thu thuế.

“Thầy bảo thật các con, những gì các con cầm buộc dưới đất thì trên trời cũng cầm buộc, và những gì các con tháo gỡ dưới đất thì trên trời cũng tháo gỡ.

“Thầy cũng bảo thật các con, nếu hai người trong các con, ở dưới đất, mà hiệp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho họ điều đó. Vì ở đâu có hai hoặc ba người tụ họp nhân danh Thầy, thì Thầy ở giữa những người ấy”. Đó là lời Chúa.

(thanhlinh.net)

++++++++++++++++++

11/08/2021 – THỨ TƯ TUẦN 19 TN

Th. Cla-ra, trinh nữ

Mt 18,15-20

SỬA LỖI TRONG TÌNH MẾN

“Nếu Hội Thánh mà nó cũng chẳng nghe, thì hãy kể nó như một người ngoại hay một người thu thuế.” (Mt 18,17)

Suy niệm: Sửa lỗi người khác là một việc làm khó khăn, nhưng cũng là đòi buộc của đức ái Ki-tô giáo. Chúa Giê-su đề nghị tiến trình ba bước để sửa lỗi trong tình mến. Trước hết, gặp riêng để sửa lỗi cách kín đáo. Nếu không được thì hãy đem theo một hay hai người nữa. Trong trường hợp họ không chịu nghe theo thì mới đi trình Hội Thánh. Sau khi đã làm ba bước này rồi mà kẻ có lỗi vẫn nhất mực cố chấp, thì Chúa Giê-su nói “hãy kể họ như người ngoại hay người thu thuế.” Thật dễ lầm tưởng rằng Chúa bảo ta phủi tay hết trách nhiệm, không cần đếm xỉa tới hạng người lì lợm ấy nữa. Không phải vậy đâu! Trong các sách Tin Mừng, Chúa vẫn đối xử nhân hậu với người ngoại hay người thu thuế. Ngài lui tới ăn uống với họ vì họ là những người Chúa đến để tìm kiếm (Mt 9,10-13); và họ lại là những người được vào Nước Thiên Chúa trước (Mt 21,31).

Mời Bạn: Là những chi thể hiệp nhất với nhau trong Thân Thể Chúa Ki-tô, các môn đệ Chúa không hoàn toàn ‘vô tội’ trong những sai lỗi của người khác. Trái lại, họ liên đới trách nhiệm với những lầm lạc của anh chị em mình. Chúng ta được mời gọi “rửa chân cho nhau” với tấm lòng bác ái, nhẫn nại và bao dung như Chúa Giê-su đối với người thu thuế và dân ngoại.

Sống Lời Chúa: Đối xử nhẫn nại và bao dung với người đã được góp ý sửa lỗi nhiều lần nhưng vẫn chưa có kết quả.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, nếu con sống thánh thiện hơn thì anh chị em con đã không sa sút đến như vậy. Xin giúp con biết nhận ra phần trách nhiệm của mình nơi những sai hỏng của người khác và nhẫn nại giúp họ sửa đổi.

(5 Phút Lời Chúa)

++++++++++++++++++

Suy niệm và cầu nguyện

Suy niệm:

Trong Giáo hội ngay từ thuở ban đầu, đã có những người sai lỗi.
Nếu đó chỉ là những sai lỗi nhỏ giữa các cá nhân trong cộng đoàn
thì cần tha thứ cho nhau (Lc 17, 3-4).
Nhưng nếu đó là những sai lỗi nghiêm trọng đụng chạm đến cộng đoàn,
vô tình hay cố ý sống ngược với giáo huấn căn bản của Đức Giêsu,
thì cộng đoàn không thể nhắm mắt làm ngơ
mà không sửa sai cho người anh em phạm lỗi.

Bài Tin Mừng hôm nay phản ánh cách sửa lỗi trong cộng đoàn thánh Mátthêu.
Người phạm lỗi nặng ở đây vẫn được gọi là người anh em (c. 15).
Tiến trình sửa sai huynh đệ này diễn ra từ từ, từng bước một.
Bước này thất bại mới chuyển qua bước kế tiếp.
Bước một là cuộc gặp gỡ kín đáo giữa người sửa lỗi và người phạm lỗi.
Mục đích là để giúp người phạm lỗi biết lắng nghe lời góp ý chân tình,
nhận ra lỗi của mình và thay đổi cuộc sống cho phù hợp.
Bước hai diễn ra khi bước một thất bại, khi người phạm lỗi không chịu nghe.
Người sửa lỗi sẽ đem theo hai, ba người nữa để tăng sức thuyết phục.
Nếu người phạm lỗi vẫn khăng khăng không nghe,
thì bước kế tiếp là phải đưa chuyện này ra trước Giáo hội địa phương (c. 17).
Bước cuối cùng chỉ xảy ra khi người anh em ấy vẫn ngoan cố,
không muốn nghe tiếng nói của cộng đoàn Giáo hội,
nghĩa là tự đặt mình ra ngoài sự hiệp thông với cộng đoàn tín hữu,
thì Giáo hội đành lòng không nhận anh ấy như phần tử của Giáo hội nữa.

Có thể ngày nay Giáo hội có những cách sửa lỗi khác,
nhưng những nét dưới đây vẫn giữ nguyên giá trị:
coi người phạm lỗi như anh em và không muốn mất người ấy,
kiên trì đối thoại, cố gắng để người anh em ấy nghe ra và nhận lỗi,
kín đáo giữ thanh danh cho người ấy, đi từng bước trước khi quyết định.
Ngay cả khi Giáo hội đã đưa ra quyết định cuối cùng,
thì việc trở lại với cộng đoàn vẫn luôn mở ngỏ, nếu người ấy muốn làm hòa.
Đức Giêsu phục sinh đã cho Giáo hội dưới quyền thánh Phêrô
được quyền tháo cởi và ràng buộc (Mt 16, 19b; Ga 20, 23)
khi phải đưa ra các quyết định về những phần tử của mình (c. 18).

Sự hiện diện của những nhóm nhỏ trong cộng đoàn là điều có từ xưa.
Tuy nhóm chỉ có hai người, nhưng nếu họ đồng lòng xin một ơn nào đó,
thì Cha trên trời sẽ ban cho (c. 19).
Có nhóm hai hay ba người hội họp với nhau nhân danh Đức Giêsu,
thì Ngài có mặt ở trong cuộc gặp gỡ đó, và Ngài ở giữa họ (c. 20).
Đức Giêsu là Đấng Emmanuen, là Thiên Chúa ở cùng chúng ta (Mt 1, 23).
Đức Giêsu phục sinh cũng hứa ở với các môn đệ cho đến tận thế (Mt 28, 20).
Chính vì thế Ngài hiện diện một cách kín đáo, thầm lặng

Thiên Chúa đã đi với dân Ngài trong hoang địa.
Hôm nay Chúa Giêsu vẫn đồng hành với chúng ta khi ta để cho Ngài quy tụ.
Ngài vẫn hiện diện ở nơi nhóm bạn có chung một niềm tin và tình yêu.

Lời nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,
Cuộc đời chúng con
Diễn ra quanh những chiếc bàn,
Làm bằng những chất liệu khác nhau,
Kiểu dáng khác nhau, đặt ở những chỗ khác nhau.

Nơi bàn học,
Ngài mở trí tuệ chúng con
Trước những chân trời mới,
Và dạy chúng con học đạo làm người.
Nơi bàn ăn,
Ngài nuôi dưỡng thân xác chúng con
Để chúng con có sức phục vụ tha nhân
Nơi bàn làm việc,
Ngài cho chúng con được cộng tác với Ngài
Trong việc xây dựng thế giới đại đồng huynh đệ.
Nơi bàn thờ,
Ngài cho chúng con được hiệp thông với Ngài,
Và hiệp nhất với nhau qua một tấm bánh thánh.

 Lạy Chúa
Giờ đây chúng con ngồi quanh chiếc bàn này,
Để gặp gỡ, chia sẽ, để bàn bạc, thảo luận,
Để cùng nhau tìm ý Chúa và đem ra thực hành.
Xin thánh hóa những chiếc bàn chúng con sử dụng
Để tất cả trở nên con đường
Đưa chúng con đến hưởng bàn tiệc thiên quốc. Amen

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

(phutcaunguyen.net)

++++++++++++++++++

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

11 THÁNG TÁM

Thiên Chúa Đã Yêu Thế Giới Đến Nỗi …

“Thế giới ở đây là thế giới của con người, thế giới ấy, người Kitôhữu tin là đã được tình yêu của Đấng Tạo Hóa tác thành và bảo trì. Thế giới ấy, đã rơi vào ách nô lệ tội lỗi, nhưng, nhờ Chúa Kitô chịu đóng đinh và sống lại mà bẻ gãy uy quyền của Thần Dữ, đã được giải thoát để thay hình đổi dạng theo dự định của Thiên Chúa mà tiến tới sự viên mãn” (MV 2).

Định nghĩa ấy gồm tóm toàn bộ giáo thuyết về sự quan phòng, hiểu như kế hoạch vĩnh cửu của Thiên Chúa trong công trình sáng tạo, hoặc hiểu như sự hoàn thành chung cục của vũ trụ. Điều này đặc biệt đúng đối với thế giới con người theo như “được tiền định trong Đức Kitô”, Đấng là trung tâm và là nguồn gốc của mọi sự.

Bằng cách này, Vatican II làm cho sắc bén giáo huấn tín lý của Công Đồng Vatican I: “Thiên Chúa gìn giữ và điều khiển mọi loài Ngài đã dựng nên với sự quan phòng của Ngài, từ chân trời này tới chân trời kia (Kn 8,1). ‘Tất cả đều trần trụi và phơi bày trước mặt Ngài’ (Dt 4,13), ngay cả những gì xảy ra thông qua sáng kiến tự do của tạo vật” (Dei Filius, DS 3003).

Ngay từ đầu, Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng tập chú đến một vấn đề vừa liên quan với chủ đề của chúng ta ở đây vừa bức thiết với con người hiện đại: Bằng cách nào sự phát triển của Nuớc Thiên Chúa và sự phát triển của thế giới có thể hòa điệu với nhau?

– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –

Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác

LIFT UP YOUR HEARTS

Daily Meditations by Pope John Paul II

+++++++++++++++++

Lời Chúa Trong Gia Đình

NGÀY 11/8

Thánh Clara, trinh nữ

Đnl 34, 1-12; Mt 18, 15-20.

LỜI SUY NIỆM: “Thầy bảo thật anh em: nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho. Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ.”

          Đây là một trong những lời hứa của Chúa Giêsu, đồng thời cũng là lời mời gọi của Người đối với tất cả chúng ta. Đặc biệt trong lời hứa và mời gọi này Chúa Giêsu bày tỏ cho chúng ta thấy được hai đặc ân quan trọng và cần thiết, đó là: khi chúng ta thật tình họp lại với nhau cầu xin nhân danh Người thì được chính Chúa Cha ban cho điều chúng ta cầu xin; đồng thời được diễm phúc là có sự hiện diện của Người trong lời cầu xin của chúng ta.

          Lạy Chúa Giêsu, Chúa muốn tất cả chúng con, luôn biết kết hợp với nhau trong đời sống và cầu nguyện, để tất cả được gần gũi trong một tình yêu thương; xóa bỏ được mọi sự chia rẽ, ngăn cách, loại bỏ nhau. Xin cho mọi thành viên trong gia đình chúng con luôn biết tận dụng mọi cơ hội để sum họp chia sẻ và cầu nguyện cho nhau, cho Giáo Hội cũng như cho toàn xã hội chúng con.

Mạnh Phương

+++++++++++++++++

Gương Thánh Nhân

Ngày 11-08: Thánh CLARA

Đồng Trinh (1193 – 1253)

Thánh Clara sinh năm 1193 tại Assisi miền Umbria. Thuộc dòng họ danh gái Offreducciô. Người ta nói thánh nữ sinh ra với nụ cười trên môi và không bao giờ thấy Ngài khóc. Ngài dành nước mắt để tưới chân Chúa Giêsu chịu đóng dinh. Nghe biết một thanh niên giàu có đã trở nên người nghèo thành Assisi, người thiếu nữ danh giá cảm kích trước mẫu gương của thánh nhân. Trong khi gia đình nhắm cưới gả cho nàng, thì nàng chỉ nhắm đến cuộc sống sám hối khiêm hạ. Sau khi nghe bài giảng của thánh nhân, Ngài đã đi tới quyết định.

Khi ấy thánh Clara 18 tuổi. Vào ngày Lễ Lá, 18 tháng 3 năm 1212, thánh nữ ăn mặc sang trọng tới nhà thờ chính tòa dự lễ. Theo thói quen, các bà tiến lên nhận lá từ tay Đức giám mục. Hôm ấy Clara quá xúc động, khiến chính đức giám mục phải rồi ghế đưa lá đến cho Ngài. Chiều về, Ngài đã cùng với một người bạn lén bỏ nhà theo lối cửa hậu rồi theo ánh đuốc tới gặp thánh Phanxicô tại Porsiuncola…

Giai thoại thật cảm động, một cô gái 18 sang trọng đã bỏ tất cả những gì là quen thuộc và an toàn để đi theo Đấng vô hình, còn Phaxicô 30 tuổi không có lấy một xu dính túi đã nhận lấy trách nhiệm về cả tinh thần lẫn vật chất đối với cô. Giữa đêm xuân trong rừng cây và dưới ánh đuốc của đoàn anh em. Clara buông xõa mái tóc huyền trên bàn thờ cho Phanxicô cắt bỏ. Hành động hoàn toàn ngoại lệ và không với một chút quyền hạn theo giáo luật. Phanxicô đã lãnh bản ly dị của Clara đối với thế gian, rồi gởi đi vào một nữ tu viện Benedicto gần đó.

Biến cố nổ lớn làm cả thành phố xúc động. Thế gian kết án Clara. Ong Monaldo, cậu thánh nữ đến nhà dòng bắt thánh nữ về, nhưng Ngài ôm cứng chân bàn thờ quyết chọn Chúa mà thôi. Phanxicô dẫn thánh nữ tới một nữ tu tu viện Bênêdictô khác, cùng với em của mình là Anê. Sau cùng Phanxicô thiết lập cho Clara và cộng đoàn đã tăng số một tu viện tại San Damianô, nơi đây bà Ortolanta, mẹ của thánh nữ cũng nhập dòng. Trong một thời gian cộng đoàn độc lập như những người hành khất đầu tiên. Phanxicô viết cho cộng đoàn một bản luật sống vắn gọn, đòi kỷ luật gắt gao và chay tịnh khắc khổ.

Dầu vậy, Clara con người đi xa hơn cả ước muốn của thánh Phanxicô. Năm 1215 Phanxicô đặt Clara làm tu viện trưởng và có lẽ đã trao cho Ngài một bản luật dòng thánh Bênêdictô. Nhưng một mục chương nói rằng sự đơn sơ và nhiệt tình của chị em khiến cộng đoàn tăng số rất nhanh.

Vào những năm cuối đời thánh Phanxicô, mọi liên hệ với San Đômianô bị gián đoạn. Câu chuyện hay về bữa ăn tối với Clara không được chính xác lắm. Nhưng cơn đau cuối cùng Phanxicô đã được Clara cho trú ngụ trong một mái chòi bằng lá cây ở cổng tu viện Damianô, nơi Phaxicô trước tác bài ca mặt trời. Ngài ban phép lành cuối cho Clara rồi về Porziuncola và qua đời tại đó. Ngài cũng xin anh em đưa xác về Assisi qua ngã San Đamianô. Thánh Clara và chị em tiếp rước và có dịp chiêm ngưỡng các vết thương ở tay và chân Ngài.

Clara thực hiện đúng lý tưởng của người nghèo thành Assisi. Đức Innôcentê III đã đích thân ban phép cho Ngài được giữ đức nghèo khó tuyệt đối. Nhưng Đức Grêgôriô IX nguyên là hồng y Ugôlinô đã muốn cải sửa luật cho phép nhà dòng có đất đai nhà cửa. Clara cưỡng lại và năm 1228 đã được hưởng đặc ân như sở nguyện. Ngài đã thưa với Đức Grêgôriô: – Thưa Đức Cha, xin tha tội cho chúng con, nhưng đừng tha cho con khỏi theo lời Chúa.

Năm 1247, một lần nữa đức Innocentê IV kiểm soát lại luật thánh Phanxicô, muốn sống đời khó nghèo truyệt đối. Luật này được Đức Innocente chấp thuận vội vã, hai ngày trước khi thánh nữ qua đời. Năm 1893 người ta tìm thấy sắc chỉ nguyên thủy trong mộ thánh nữ.

Cuộc sống còn được ghi nhớ bởi cuộc tàn phá năm 1241 của vua Frêdêrico II, nhờ lời cầu nguyện đắc lực của Ngài. Trong cơn bệnh của Ngài, Đức hồng y Rainalđô, tức là đức giáo hoàng Alexandrô sau này, đã đến trao mình Chúa và khuyyên nhủ thánh nữ, thánh nữ trả lời: – Từ khi nếm thử chén đắng và cuộc tử nạn của Chúa, con thấy không còn gì làm con đau đớn nữa.

Sau khi chúc lành cho các nữ tu đến thăm, Ngài nói với mình: – Hãy an tâm, ngươi đã theo đúng đường, cứ tin tưởng vì Chúa tạo thành đã thánh hiến và không ngừng gìn giữ ngươi, đã yêu ngươi với tình mẹ thương con, ôi lạy Chúa xin chúc tụng Chúa vì đã dựng nên con.

Thánh nữ qua đời ngày 11 tháng năm 1253 và năm 1255 được tôn phong hiển thánh.

(daminhvn.net)

+++++++++++++++++

11 Tháng Tám

Cô Bạn Của Thánh Phanxicô Assisi

Một trong những cuốn phim có giá trị diễn tả về cuộc đời của thánh Phanxicô thành Assisi mới được thực hiện cách đây vài năm đa thi vị hóa vai trò của Clara, vị thánh Giáo Hội mừng kính hôm nay. Ðạo diễn của cuốn phim đã giới thiệu Clara qua hình ảnh một nữ tài tử trẻ đẹp với mái tóc vàng óng ả, thích tung tăng chạy nhảy giữa cánh đồng hoa hướng dương chạy dài mút mắt.

Trong thực tế, quãng đời thanh xuân của Clara đã cống hiến nhiều chi tiết có thể được sử dụng làm chất liệu để quay phim. Vào tuổi trăng tròn 15, Clara đã từ chối kết hôn vì tâm hồn của nàng bị xúc động mãnh liệt qua lời rao giảng có chiều sâu của Phanxicô. Từ đó cho đến lúc Clara trút hơi thở cuối cùng, Phanxicô là một người bạn tinh thần, một cha linh hướng của nàng.

Lúc lên 18 tuổi, Clara thoát ly gia đình và trong một buổi lễ đơn sơ cử hành vào đêm, nàng đã cởi bỏ những xiêm y đắt tiền để mặc lấy một chiếc áo dòng bằng vải thô, đã thay chiếc dây nịt quý giá bằng một sợi dây thắt lưng đơn sơ và đã để cho Phanxicô cắt mái tóc óng ả của mình tượng trưng cho tinh thần từ bỏ.

Khi một số thiếu nữ khác cùng một chí hướng, kể cả Agnes, em gái của Clara, theo chân nàng vào tu viện, họ đã bắt đầu một cuộc sống nghèo nàn, khổ hạnh và ẩn dật, cắt đứt mọi giao tiếp với thế giới bên ngoài. Họ đi chân không, ngủ trên nền nhà, không ăn thịt và giữ thinh lặng hầu như hoàn toàn. Ðó là những dấu hiệu bên ngoài biểu lộ ý hướng bên trong của họ muốn sống khó nghèo theo tinh thần Phúc Âm như Ðức Giêsu đã dạy.

Ðế sống cuộc đời từ bỏ, các nữ tu dòng thánh Clara khước từ quyền sở hữu của bất cứ của cải nào, kể cả với tính cách là của chung.

Nhu cầu lương thực hằng ngày được giải quyết bằng của bố thí. Khi Ðức Thánh Cha khuyên họ giảm bớt cách thực hành sống nghèo cách tuyệt đối như vậy, Clara đã khẳng khái trả lời: “Thưa Ðức Thánh Cha, chúng con cần cha tha tội, chứ chúng con không mong ước cha tha chúng con khỏi những bổn phận phải giữ để trung tín dõi theo chân Chúa Giêsu”.

Trong bốn bức tường tu viện tại San Ðamianô gần Assisi, Clara ân cần chăm sóc các bệnh nhân, khiêm nhượng hầu bàn và rửa chân cho các nữ tu sau khi họ đi cầu thực trở về và dành nhiều thời giờ để tâm hồn chìm sâu trong kinh nguyện. Các nữ tu đồng thời thuật lại rằng: Khi Clara cầu nguyện xong, mặt chị chiếu sáng làm chói mắt mọi người.

Trong 27 năm cuối đời, Clara bị đau ốm luôn, nhưng chị đã thu hút được nhiều Giám Mục, Hồng Y, kể cả các giáo chủ đến để tham khảo ý kiến của chị.

(Lẽ Sống)

++++++++++++++++++

Lời Chúa Mỗi Ngày

Thứ Tư – Tuần 19 – TN1 – Năm lẻ.  

Bài đọc: Deut 34:1-12; Mt 18:15-20.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Chiều kích cộng đoàn phải đặt trên chiều kích cá nhân.

            Thiên Chúa không sống một mình, Ngài hiệp thông với Ba Ngôi Thiên Chúa, với thiên thần, và với con người. Thiên Chúa có dư uy quyền để làm tất cả mọi sự; nhưng Ngài chọn để cộng tác với tất cả trong chương trình cứu độ của Ngài. Nếu Thiên Chúa chú trọng chiều kích cộng đoàn hơn chiều kích cá nhân, con người cũng phải làm như thế.

            Các Bài Đọc hôm nay đều muốn nêu bật tính cộng đoàn trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, tác giả Sách Đệ Nhị Luật nêu bật sự hy sinh và lãnh đạo của ông Moses trong việc đưa dân Chúa ra khỏi đất nô lệ của Ai-cập và vào Đất Hứa. Moses đã hoàn tất sứ vụ Thiên Chúa trao và trước khi qua đời, ông đã chuyển giao sứ vụ cho ông Joshua như ý Thiên Chúa muốn, để đưa dân vào Đất Hứa. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đưa ra một số điều phải làm để bảo vệ và lãnh đạo cộng đoàn: sửa lỗi huynh đệ, quyền cầm buộc và tháo cởi, và những giờ cầu nguyện chung.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Thiên Chúa gởi mỗi nhà lãnh đạo tới để hoàn tất một phần của chương trình cứu độ.

1.1/ Ông Moses hoàn tất trách nhiệm Thiên Chúa trao phó: Theo sự quan phòng của Thiên Chúa: những gì Thiên Chúa hứa, Ngài sẽ thực hiện; khi nào Ngài sẽ thực hiện, không ai biết được thời gian. Lịch sử cứu độ là bằng chứng của điều này. Ông Abraham không sống trên đời để nhìn thấy ngày con cháu của ông “đông như sao trên trời và như cát dưới biển” như ngày nay. Chúa Giêsu không sống trên dương gian đến ngày nhìn thấy Tin Mừng lan ra đến tận cùng bờ cõi trái đất. Và trong trình thuật hôm nay, Moses không sống để đưa con cái Israel vào miền đất mà Thiên Chúa hứa sẽ đem dân vào khi ông đưa dân ra khỏi Ai-cập; mặc dù Thiên Chúa đã đem ông lên núi Nebo để nhìn thấy trước vùng Đất Hứa này. Thiên Chúa dùng mỗi nhà lãnh đạo trong một thời gian, để thực thi một phần Kế Hoạch Cứu Độ của Ngài cho nhân loại.

1.2/ Con cái Israel nhìn lại cuộc đời ông Moses: Nước chảy đá mòn; để hoàn tất sứ vụ Thiên Chúa trao, ông Moses đã phải hy sinh đời mình cho con cái Israel đến hơi thở cuối cùng. Con cái Israel than khóc cái chết của ông Moses một phần vì hối hận đã đối xử không tốt với ông khi ông đồng hành với họ suốt 40 năm trong sa mạc, một phần vì thương tiếc cho ông đã không sống để được hưởng kết quả mà ông đã vất vả thực hiện.

            Ông Moses phải là mẫu gương cho các nhà lãnh đạo tinh thần: Mục đích của việc lãnh đạo là hoàn tất ý định của Thiên Chúa, chứ không phải để mưu cầu lợi ích cho bản thân mình. Những điều họ làm cho dân chúng không luôn được định giá và mang đến kết quả ngay, nhiều khi phải chờ đến lúc tạm biệt ra đi hay lúc chết, dân chúng mới nhìn thấy và ghi ơn những gì họ đã làm cho dân. Con cái Israel nhận ra tất cả những gì ông Moses đã làm cho họ:

            + Ông Moses đã chuẩn bị cho họ có nhà lãnh đạo mới: “Ông Joshua, con ông Nun, đã được đầy thần khí khôn ngoan, vì ông Moses đã đặt tay trên ông. Con cái Israel nghe ông và làm như Đức Chúa đã truyền cho ông Moses.” Sự nối tiếp giữa Moses và Joshua có thể so sánh với sự nối tiếp sứ vụ tiên tri giữa Elijah và Elisha. Việc đặt tay có ý muốn nói lên sự chuyển thông thần khí (spirit); đồng thời với việc chuyển giao sứ vụ.

            + Ông Moses là ngôn sứ cao trọng nhất: “Trong Israel, không còn xuất hiện một ngôn sứ nào như ông Moses, người mà Đức Chúa biết rõ, mặt giáp mặt.” Có nhiều ngôn sứ trong lịch sử Israel; nhưng họ chỉ được nghe tiếng của Thiên Chúa trong giấc mơ hay trong thị kiến, chỉ có ông Moses được đàm đạo với Thiên Chúa mặt đối mặt mà không phải chết.

2/ Phúc Âm: Hiệp nhất trong cộng đoàn

2.1/ Cách sửa lỗi anh/chị/em: Sửa lỗi người khác là một việc rất tế nhị, nhưng phải làm vì lợi ích của cộng đoàn. Để việc sửa lỗi có kết quả, Chúa Giêsu dạy chúng ta phải theo cẩn thận tiến trình như sau:

            (1) Giữa hai người mà thôi: “Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi. Nếu nó chịu nghe anh, thì anh đã chinh phục được người anh em.” Hai điều Chúa muốn chúng ta lưu ý: Thứ nhất, hầu hết chúng ta thường sửa lỗi đương sự trước mặt người thứ ba. Làm như thế sẽ không có kết quả hay đưa đến kết quả ngược lại điều chúng ta mong muốn, vì theo tâm lý chung, không ai muốn bị sửa lỗi trước mặt người khác, nhất là người đó lại là người thân thiết với đương sự. Thứ hai, mục đích của việc sửa lỗi là chinh phục đương sự, không phải là để thỏa mãn tính nóng giận.

            (2) Sự thật được chứng minh bởi hai hay ba nhân chứng: “Còn nếu nó không chịu nghe, thì hãy đem theo một hay hai người nữa, để mọi công việc được giải quyết, căn cứ vào lời hai hoặc ba chứng nhân.” Đây là điều rất khôn ngoan vì nó giúp cho cả hai tránh được cái nhìn chủ quan. Hầu hết các tòa án trong mọi quốc gia đều dựa vào lời của hai hoặc ba nhân chứng.

            (3) Can thiệp của cộng đoàn: “Nếu nó không nghe họ, thì hãy đi thưa Hội Thánh. Nếu Hội Thánh mà nó cũng chẳng nghe, thì hãy kể nó như một người ngoại hay một người thu thuế.” Cộng đoàn có thể là gia đình, đoàn thể, dòng tu, hay Giáo Hội. Đây chỉ là giải pháp sau cùng để bảo vệ lợi ích của cộng đoàn và tránh gương mù. Người ngoại hay người thu thuế là người không biết hay coi thường Lề Luật của Thiên Chúa. Tuy vậy, vẫn phải tha thứ khi họ biết ăn năn trở lại.

2.2/ Thiên Chúa hiện diện giữa cộng đoàn: Dĩ nhiên, chúng ta không phủ nhận việc Thiên Chúa cũng hiện diện trong cá nhân; nhưng sự hiện diện của Ngài trong cộng đoàn có một thứ tự ưu tiên hơn. Chúa Giêsu đưa ra hai ví dụ để chứng minh sự hiện diện của Thiên Chúa trong cộng đoàn:

            (1) Quyền cầm buộc và tháo cởi: “Thầy bảo thật anh em: dưới đất, anh em cầm buộc những điều gì, trên trời cũng cầm buộc như vậy; dưới đất, anh em tháo cởi những điều gì, trên trời cũng tháo cởi như vậy.” Trước tiên, quyền này áp dụng cho sự thật; chứ không cho sự sai lầm vì Thiên Chúa là sự thật. Thứ hai, Chúa muốn nhắc nhở những tội nhân: tuy họ chưa thấy những hậu quả xảy ra đời này, nhưng không có nghĩa họ có thể tránh được ở đời sau. Sau cùng, Giáo Hội dùng quyền này cho Bí-tích Hòa Giải, để tội nhân có thể làm lại cuộc đời.

            (2) Hiệp nhất trong lời cầu nguyện: “Thầy còn bảo thật anh em: nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho. Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ.” Lời hứa này không có nghĩa tất cả những gì con người cầu xin đều được Thiên Chúa chấp nhận. Để được Thiên Chúa nhận lời, con người phải tránh những lời cầu xin ích kỷ hay có hại cho người khác, mà là những lời đẹp lòng Thiên Chúa và sinh ích cho tha nhân. Thứ đến, khi Thiên Chúa nhận lời, không có nghĩa người xin sẽ được đúng điều mình mong muốn. Thiên Chúa biết điều tốt lành, Ngài sẽ ban những gì tốt lành cho tương lai con người. Sau cùng, Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh việc hiện diện của Ngài ngay cả khi ít người, chứ không phải chỉ những nơi có đông người tụ họp.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

            – Thiên Chúa không bao giờ muốn con người sống riêng lẻ. Ngài muốn con người sống quây quần thành đoàn thể, và chúc lành cho các công việc của cộng đoàn.

            – Mỗi khi có xung đột quyền lợi, chúng ta phải luôn luôn đặt quyền lợi của cộng đoàn lên trên lợi ích của cá nhân trong việc lãnh đạo, sửa lỗi, hay cầu nguyện.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

****************