Ngày thứ tư (18-09-2024) – Trang suy niệm

17/09/2024

Lời Chúa Hôm Nay

Thứ Tư tuần 24 Thường Niên – Năm B

BÀI ĐỌC I: 1 Cr 12, 31 – 13, 13

“Ðức tin, đức cậy, đức mến vẫn tồn tại, nhưng đức mến là trọng hơn cả”.

Bài trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, anh em hãy cầu mong những ơn cao trọng hơn. Và tôi chỉ bảo anh em một con đường hoàn hảo nhất. Nếu tôi nói được các tiếng của loài người và thiên thần, mà tôi không có bác ái, thì tôi chỉ là tiếng đồng la vang dội hoặc não bạt vang động. Và nếu tôi được nói tiên tri, thông biết mọi mầu nhiệm và mọi khoa học; nếu tôi có đầy lòng tin, đến nỗi chuyển dời được núi non, mà không có bác ái, thì tôi vẫn là không. Nếu tôi phân phát hết gia tài để nuôi kẻ nghèo khó, nếu tôi nộp mình để chịu thiêu đốt, mà tôi không có bác ái, thì không làm ích gì cho tôi. Bác ái thì kiên tâm, nhân hậu. Bác ái không đố kỵ, không khoác lác, không kiêu hãnh, không ích kỷ, không nổi giận, không suy tưởng điều xấu, không vui mừng trước bất công, nhưng chia vui cùng chân lý. Bác ái tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, trông cậy tất cả, chịu đựng tất cả. Bác ái không khi nào qua đi, ơn tiên tri sẽ bị huỷ diệt, ơn ngôn ngữ sẽ chấm dứt, ơn thông minh sẽ biến mất. Vì chưng chúng ta hiểu biết có giới hạn, chúng ta nói tiên tri có giới hạn, nhưng khi điều vẹn toàn đến, thì điều có giới hạn sẽ biến đi. Khi còn bé nhỏ, tôi nói như trẻ nhỏ, suy tưởng như trẻ nhỏ, lý luận như trẻ nhỏ; nhưng khi tôi đã trưởng thành, tôi loại bỏ những gì là trẻ nhỏ. Hiện giờ, chúng ta thấy mờ mịt qua tấm gương, nhưng lúc bấy giờ, diện đối diện. Hiện giờ, tôi biết có giới hạn, nhưng lúc bấy giờ, tôi sẽ biết như tôi được biết. Hiện giờ, đức tin, đức cậy, đức mến, tất cả ba đều tồn tại, nhưng trong ba nhân đức, đức mến là trọng hơn cả.

Ðó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 32, 2-3. 4-5. 12 và 22

Ðáp: Phúc thay dân tộc mà Chúa chọn làm cơ nghiệp riêng mình (c. 12b).

1) Hãy ngợi khen Chúa với cây đàn cầm, với đàn mười dây, hãy xướng ca mừng Chúa. Hãy ca mừng Người bài ca mới, hát mừng Người với tiếng râm ran.

2) Vì lời Chúa là lời chân chính, bao việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu chuộng điều công minh chính trực, địa cầu đầy ân sủng Chúa.

3) Phúc thay quốc gia mà Chúa là Chúa tể, dân tộc mà Chúa chọn làm cơ nghiệp riêng mình. Lạy Chúa, xin đổ lòng từ bi xuống trên chúng con, theo như chúng con tin cậy ở nơi Ngài.

ALLELUIA: Tv 147, 12a và 15a

All. All. – Giêrusalem, hãy ngợi khen Chúa, Ðấng đã sai lời Người xuống cõi trần ai. – All.

PHÚC ÂM: Lc 7, 31-35

“Chúng tôi đã thổi sáo mà các anh không nhảy múa, chúng tôi đã hát những điệu bi ai mà các anh không khóc”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: “Ta sẽ phải nói những người của thế hệ này giống ai đây? Họ giống ai? Họ giống như những đứa trẻ ngồi ngoài đường phố gọi và nói với nhau rằng: “Chúng tôi đã thổi sáo cho các anh, mà các anh không nhảy múa. “Chúng tôi đã hát những điệu bi ai, mà các anh không khóc”. Bởi vì khi Gioan Tẩy Giả đến, không ăn bánh, không uống rượu, thì các ngươi bảo: “Người bị quỷ ám”. Khi Con Người đến có ăn có uống, thì các ngươi lại nói: “Kìa con người mê ăn tham uống, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi”. Nhưng sự khôn ngoan đã được minh chính bởi tất cả con cái mình”.

Ðó là lời Chúa.

(Nguồn: UBPV/HĐGMVN, ấn bản 1973)

++++++++++++++++++

18/09/2024 – THỨ TƯ TUẦN 24 TN

Lc 7,31-35

VỊ THA LÀ TRƯỞNG THÀNH

“Tôi phải ví thế hệ này với ai… Họ giống như lũ trẻ ngồi ngoài chợ.” (Lc 7,31-32)

Suy niệm: Đám trẻ ngồi chơi ngoài chợ luôn có lý do để từ chối trò chơi do bên kia đưa ra: chúng tôi không vui nên không thích chơi trò đám cưới; nhưng chúng tôi cũng có buồn đâu mà chơi trò đám tang! Chúng luôn tìm lý lẽ để bắt bẻ đối thủ của mình. Người đương thời với Chúa Giê-su cũng hành xử cách ‘trẻ con’ như vậy: ăn chay khắc khổ, cô tịch trong hoang địa như Gio-an Tẩy Giả thì bị họ cho là quỷ ám; sống như Chúa Giê-su dấn thân hoà mình với những người bị gạt bên lề xã hội thì bị gán là tay ăn nhậu, kẻ phóng túng! Tuy nhiên, Chúa Giê-su cho họ thấy sự thật không tùy thuộc nơi những chỉ trích, ‘chụp mũ’ cách ‘trẻ con” của họ, nhưng nơi hiệu quả của việc làm. Gio-an Tẩy Giả đã thúc đẩy phong trào sám hối nơi dân Chúa, cũng như Chúa Giê-su đã tạo nên một cung cách tương quan mới mẻ, tốt đẹp với Thiên Chúa và với con người.

Mời Bạn: Nếu chỉ suy nghĩ, hành động theo bản năng hoặc theo sự ích kỷ, chai lì, bạn có thể rơi vào cung cách ‘trẻ con’ như người Do Thái trên đây. Để ra khỏi thái độ ‘trẻ con’ Bạn cần lắng nghe Lời Chúa dạy, biết nghĩ đến người khác thay vì chỉ thu vén cho bản thân cho phe nhóm mình.

Chia sẻ: Tôi có nổi nóng khi người khác phản đối ý kiến của tôi, hoặc đánh đập con cái trong khi nóng giận không? Đó có phải là thái độ ‘trẻ con’ không?

Sống Lời Chúa:  Thay vì tìm mọi lý do để chỉ trích người khác, tôi luôn tìm cách để nhìn thấy yếu tố tích cực nơi họ.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, cách cư xử ‘trẻ con’ đã giam hãm, không cho con lớn lên về mặt thiêng liêng. Xin lay động tâm hồn để con mở lòng đón nhận lời cứu độ của Chúa. Amen.

(5 Phút Lời Chúa)

++++++++++++++++++

Suy niệm và cầu nguyện

Suy niệm:

Đức Giêsu ví những người thuộc thế hệ của Ngài
với lũ trẻ ngồi chơi ngoài chợ (cc. 31-32).
Các nhóm chơi với nhau, í ới gọi nhau.
Một nhóm bày ra trò chơi đám cưới,
thổi sáo, thổi kèn để mong nhóm kia nhảy múa.
Nhưng nhóm kia đã không tham gia.
Sau đó nhóm này bèn chơi trò đám ma, hát những bài ca buồn não nuột.
Nhưng nhóm kia vẫn chẳng khóc than thương tiếc.
Hẳn là chẳng vui gì khi có sự thụ động, lạnh nhạt như vậy.
Dụ ngôn trên đây nói đến một số người khó chiều, bướng bỉnh.
Dù thế nào thì họ cũng đứng ngoài, không chịu nhập vào cuộc chơi.
Họ chẳng thích cả trò đám ma lẫn đám cưới.

Qua dụ ngôn này, Đức Giêsu muốn nói đến những người ở thời của Ngài.
Họ có nét tương tự như lũ trẻ ngồi ngoài chợ.
Khi Gioan Tẩy giả đến mời gọi họ sám hối ăn năn,
đời sống khổ hạnh của vị ngôn sứ này đã khiến họ từ khước (Lc 7, 30).
Đơn giản vì họ không thích khóc than hay hoán cải.
Gioan ăn chay nên không ăn bánh, không uống rượu (c. 33).
Lối sống của ông phù hợp với lời ông giảng về việc Nước Trời gần đến.
Nhưng lối sống khác thường ấy lại bị xem là một triệu chứng tâm thần.
Người ta đã coi ông là bị quỷ ám,
nên ít người tin vào lời giảng của một người như thế.

Khi Đức Giêsu đến với thế hệ này,
Ngài đã không mang dáng dấp của một ẩn sĩ nơi hoang địa.
Ngài đã sống như một người bình thường, ăn uống bình thường.
Lối sống của Ngài phản ánh Tin Mừng Ngài rao giảng,
một Tin Mừng đem lại niềm vui và sự giải phóng.
Những bữa ăn trong đời Ngài đóng một vai trò quan trọng.
Ngài ngồi ăn với những người bị xã hội loại trừ như người thu thuế.
Ngài đón nhận vào bàn ăn cả những tội nhân cần tránh xa.
Chính trong bầu khí vui tươi, ấm áp của bữa ăn
mà họ cảm nhận được tình thương tha thứ của Thiên Chúa.
Tiếc thay, Ngài cũng bị từ khước như Gioan,
bị coi là kẻ chỉ biết ăn với nhậu (c. 34).

Cả Gioan lẫn Đức Giêsu đều bó tay trước sự cố chấp của thế hệ này.
Cả hai người, với hai lối sống nghịch nhau, cũng không chiều được họ.
Khi sợ thay đổi chính mình, ai cũng có thể tìm ra được lý do để biện minh.
Khi cố chấp và ngụy biện để khỏi phải đối diện với chân lý,
con người chẳng được tự do.
Nguy cơ của con người mọi thời vẫn là ở lại trong tình trạng trẻ con ấu trĩ.
Làm sao để con người hôm nay có thể nghe được tiếng kêu của Gioan,
mời gọi người ta thay đổi cuộc sống bằng cách chia sẻ (Lc 3, 10-14)?
Làm sao thái độ bao dung của Đức Giêsu
ảnh hưởng trên một thế giới còn nhiều hận thù, chia rẽ, loại trừ nhau?

Lời nguyện:

Lạy Cha,
xin dạy chúng con biết cộng tác với nhau
trong việc xây dựng Nước Trời ở trần gian.

Xin cho chúng con đến với nhau
không chút thành kiến,
và tin tưởng vào thiện chí của nhau.

Khi cộng tác với nhau,
xin cho chúng con cảm thấy Cha hiện diện,
nhờ đó chúng con vượt qua
những tự ái nhỏ nhen,
những tham vọng ích kỷ
và những định kiến cằn cỗi.

Ước gì chúng con dám từ bỏ mình,
để tìm kiếm chân lý
ở mọi nơi và mọi người,
nhất là nơi những ai khác quan điểm.

Lạy Cha,
xin sai Thánh Thần đến trên chúng con,
để chúng con biết lắng nghe nhau bằng quả tim,
và hiểu nhau ngay trong những dị biệt.

Nhờ sống mầu nhiệm cộng tác,
xin cho chúng con được triển nở không ngừng
và Thánh Ý Cha được thể hiện trên mặt đất. Amen.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

(phutcaunguyen.net)

++++++++++++++++++

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

18 THÁNG CHÍN

Niềm Hy Vọng Vinh Quang

Trong sứ vụ cứu rỗi phổ quát của mình, Hội Thánh không ngừng được Thánh Thần của Chúa Phục Sinh thúc đẩy. Hội Thánh thiết tha mong muốn đưa dẫn mọi người đến niềm hạnh phúc trên trời – hạnh phúc mà các thánh đang vui hưởng. Trong thành đô trên trời ấy, các thánh thi hành phần vụ của mình là cầu bầu cho Hội Thánh lữ hành dưới đất. Về phần mình, Hội Thánh hướng nhìn với đôi mắt đức tin về Giêrusalem trên trời và tìm thấy nơi đó ánh sáng và hy vọng mà Hội Thánh cần trong hành trình tiến tới và chia sẻ con đường cứu rỗi và nên thánh với thế giới này.

Bởi đó, Hội Thánh giữa lòng thế giới dẫn dắt nhân loại tiến tới đền thờ vĩnh cửu trong Thành Thánh muôn đời, như ta đọc thấy trong Sách Khải Huyền của Thánh Gioan. “Tôi không thấy đền thờ nào trong thành, vì đền thờ của thành chính là Đức Chúa toàn năng và là Con Chiên” (Kh 21,22).

Thành Giêrusalem thiên quốc – khác với Hội Thánh dưới thế này – hoàn toàn tinh tuyền và thánh thiện. Thành ấy được thánh hiến hoàn toàn cho Thiên Chúa. Trong Thành đó không có một chút gì phàm tục cần phải tách ra khỏi những sự thánh thiêng của Thiên Chúa. Trong Thành đó không có đền thờ, bởi vì không cần phải có một hình thức hiện diện trung gian. Không, mọi sự trên trời đều biểu hiện vẻ rạng ngời của Thiên Chúa Ba Ngôi. Nói cách khác, Thiên Chúa hiện diện một cách vĩnh hằng trong đền thờ là trong chính mọi sự mọi người trên thiên quốc.

Thiên Chúa cũng thực sự hiện diện nơi Hội Thánh dưới đất này. Nhưng Ngài hiện diện một cách giấu ẩn trong đức tin kiên định và đức cậy dạt dào của dân Thiên Chúa. Và vì thế, chúng ta không nhìn thấy vinh quang của Đức Kitô rõ ràng như Hội Thánh trên trời, nhưng chúng ta khắc khoải chờ mong cuộc quang lâm của Đức Kitô và sự sống lại của những người đã chết. Bấy giờ, Hội Thánh sẽ hoàn toàn hiệp nhất trên trời với Đức Kitô.

Ôi tuyệt diệu! Đấy sẽ là Hội Thánh trong vinh quang sung mãn của mình. Đấy sẽ là Hội Thánh như Thánh Gioan đã thị kiến trong Sách Khải Huyền.

– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –

Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác

LIFT UP YOUR HEARTS

Daily Meditations by Pope John Paul II

+++++++++++++++++

18 Tháng Chín

Những Giọt Nước Mắt Của Sám Hối

Người Hồi Giáo thường nói đến ý nghĩa và giá trị của lòng sám hối qua câu chuyện tưởng tượng như sau:

Một hôm Allah, Ðấng Khôn Ngoan, truyền cho một sứ thần xuống trần gian để tìm cho được điều tốt đẹp nhất và mang về Thiên quốc.

Vị sứ thần đáp ngay xuống một trận chiến nơi máu của những vị anh hùng đang chảy lai láng. Vị sứ thần thu nhặt một ít máu và mang về trình cho Ðấng Allah. Nhưng Ðấng Allah xem ra không hài lòng mấy. Ngài nói: “Máu đổ ra cho tổ quốc và tôn giáo là một điều quý giá, nhưng vẫn chưa phải là điều tốt đẹp nhất dưới trần gian”.

Vị sứ thần đành phải giáng trần một lần nữa. Lần này, ngài gặp ngay một đám tang của một người giàu có, nhưng rất quảng đại. Vô số người nghèo đi đằng sau quan tài, vừa đi vừa khóc lóc, vừa xông hương để biểu lộ lòng biết ơn của họ đối với vị ân nhân. Vị sứ thần bèn thu nhặt hương thơm ngào ngạt và mang về trời. Lần này, Ðấng Allah mỉm cười đón lấy mùi thơm ngào ngạt. Nhưng xem ra Ngài vẫn chưa hài lòng. Ngài nói: “Dĩ nhiên, lòng biết ơn là một trong những điều tốt đẹp và hiếm có dưới trần gian. Nhưng ta nghĩ rằng còn có một cái gì khác tốt đẹp hơn”.

Lại một lần nữa, vị sứ thần đành phải vâng lệnh Allah để trở lại trần gian. Phải mất một thời gian lâu, sau khi đã đi rảo khắp bốn phương, vị sứ thần mới tìm được điều mong mỏi. Một buổi chiều nọ, ngồi nghỉ mệt bên vệ đường, ngài bỗng thấy một người đàn ông bên cạnh khóc sướt mướt. Vị sứ thần được người đàn ông giải thích như sau: “Tô đã chiều theo cơn cám dỗ để phạm tội… Giờ đây, nước mắt là cơm bữa hằng ngày của tôi”. Vị sứ thần bèn đưa tay hứng lấy những giọt nước mắt còn nóng hổi và vội vã bay về trời. Ðấng Allah nhìn thật lâu vào những giọt nước mắt và mỉm cười nói với vị sứ thần:

“Thế là người đã hoàn thành tốt sứ mệnh. Quả thật dưới trần gian, không có gì đẹp và hữu ích cho bằng lòng sám hối, bởi vì nó có sức canh tân cuộc sống. Tuy nhiên, người đã thấy đó, trước khi vui mừng, ta đã nhìn thật kỹ xuyên qua những giọt nước mắt. Một lòng sám hối giả dối không có ích lợi gì cả. Một sự sám hối thành thật có sức biến đổi mùa đông giá rét của lòng người thành mùa xuân của Tình Yêu”.

Trong Tin Mừng theo thánh Luca ở đoạn 15 câu 7, Chúa Giêsu đã nói: “Trên trời sẽ vui mừng gấp bội khi có một người tội lỗi ăn năn hối cải hơn là 99 người công chính không ăn năn hối cải”.

Vinh quang của Thiên Chúa, niềm vui của Thiên Chúa chính là con người được sống. Và sự sung mãn, sự sống đích thực chính là ân sủng, là sự sống của Thiên Chúa trong tâm hồn con người. Sự sống ấy chỉ có thể đến trong tâm hồn con người, nếu con người biết mở rộng cửa tâm hồn để đón nhận Thiên Chúa… Những giọt nước mắt sám hối chính là sức đẩy để mở tung cánh cửa tâm hồn vậy.

(Lẽ Sống)

++++++++++++++++++

Lời Chúa Mỗi Ngày

Thứ Tư – Tuần 24 – TN2

Bài đọc: I Cor 12:31-13:13; Lk 7:31-35.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sự quan trọng của đức mến.

Tình yêu là một đề tài vô tận của các văn sĩ, thi sĩ. Các tuyệt tác có được là nhờ những cảm hứng đến từ nguồn tình yêu của Thiên Chúa, tổ quốc, cha mẹ, anh chị em, và tha nhân. Chương 13 trong Thư thánh Phaolô gởi cho các tín hữu Corintô là một chương phân tích tuyệt vời về tình yêu. Ngược lại, khi con người không có tình yêu, tất cả sẽ trở nên vô nghĩa và ngay cả trở thành hỏa ngục như triết gia hiện sinh J.P. Sartre nhân định: “Con người là hỏa ngục cho nhau.” Một tìm hiểu chi tiết về các Bài đọc hôm nay sẽ giúp chúng ta nhận ra giá trị quan trọng của tình yêu và mong muốn tập luyện để có được tình yêu. Khi có được tình yêu, chúng ta sẽ dễ dàng tránh khỏi những tật xấu như các Biệt-phái và Kinh-sư mà Chúa Giêsu trách hôm nay.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Đức mến thì cao trọng hơn cả.

1.1/ Sự quan trọng của đức mến: Biết con người có khuynh hướng tìm những gì cao trọng nhất, thánh Phaolô khuyên: “Trong các ân huệ của Thiên Chúa, anh em cứ tha thiết tìm những ơn cao trọng nhất. Nhưng đây tôi xin chỉ cho anh em con đường trổi vượt hơn cả.” Con đường này là con đường yêu mến mà thánh Thêrêxa Hài Đồng cũng xác nhận: “Ơn gọi của con là Yêu.” Có nhiều nghĩa của chữ “yêu,” nhưng thánh Phaolô dùng chữ “đức mến” để nói lên tình yêu trong khuôn khổ của Kitô Giáo. Ngài so sánh sự quan trọng của “đức mến” với một số ơn cao trọng khác:

– Với ơn nói tiếng lạ: “Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì” Biết các thứ tiếng là một chuyện nhưng biết dùng những thứ tiếng đó để mưu ích cho tha nhân là chuyện khác. Nếu không biết dùng ơn nói tiếng lạ thì có khác gì chiếc “thùng rỗng kêu to” hay nói như thánh Phaolô: “thanh la phèng phèng, chũm choẹ xoang xoảng.”

– Với ơn nói tiên tri, ơn hiểu biết, và ơn đức tin: “Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì.” Tiên tri là nói thay cho Chúa để hướng dẫn và đem con người về với Chúa. Có những tiên tri ghét người đến độ không muốn kẻ thù trở về để được cứu (trường hợp của tiên tri Jonah). Điều nguy hiểm thường thấy nơi những người học cao hiểu rộng là tính tự kiêu, cho mình là hơn người và khinh thường tất cả những người khác. Rất nhiều người hiểu biết đã từ chối Thiên Chúa! Người có một đức tin mạnh cũng thế, họ nghĩ ai cũng phải có một đức tin mạnh như họ và bắt mọi người cũng phải làm những việc như họ làm; nhưng họ quên để có một đức tin như thế, họ đã phải dùng nhiều thời gian và trải qua biết bao sa ngã!

– Với những việc bác ái và anh hùng: “Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi.” Việc tốt lành thôi cũng chưa đủ, cần có những ý hướng tốt lành nữa. Có những người đem cho hết gia tài chỉ để mua danh tiếng, chứ không cho vì thương người. Có những người tìm tử đạo để giải thóat cuộc đời đau khổ của mình chứ không để làm chứng nhân cho Chúa.

1.2/ Định nghĩa về đức mến:

– Đức mến thì nhẫn nhục và nhân hậu: Tiếng Hy-Lạp có hai phân từ dùng cho kiên nhẫn: kiên nhẫn đợi cơ may tới và kiên nhẫn với con người. Phân từ kiên nhẫn (makrothumein) xử dụng bởi các thánh ký trong Tân-Ước luôn hàm chứa sự kiên nhẫn với con người. Thánh John Chrysostom cắt nghĩa: Phân từ này được dùng cho người bị đối xử cách sai trái; tuy ông có quyền và có cơ hội để trả thù nhưng đã không làm. Trái lại, ông muốn tự người đó nhận ra sự sai trái của họ bằng những việc tốt lành ông làm cho họ.

Chúa Giêsu cũng đã từng dạy các môn đệ hãy có sự kiên nhẫn này qua việc yêu thương và làm ơn cho kẻ thù, cầu nguyện cho những người bắt bớ… để có thể trở nên hòan thiện như Cha trên trời. Kiên nhẫn như thế không phải là yếu đuối nhưng là sức mạnh, không phải là thua cuộc nhưng là cách tốt nhất để chinh phục kẻ thù. Lịch sử có nhiều người đã dùng cách thức này và không ai dùng cách hiệu quả hơn Chúa Giêsu trên Thập Giá. Nhiều người Công Giáo có đức tin vững mạnh và cuộc đời liêm chính nhưng chưa đủ để chinh phục người khác về cho Chúa vì thiếu tính thương người. Họ dễ dàng đứng về phía kẻ mạnh để áp bức người cô thân cô thế.

– Đức mến không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc: Người đời thường nói: “Chỉ có hai hạng người trên thế gian: triệu phú và muốn thành triệu phú.” Có hai lọai ghen tương: vì ham muốn tài sản của người khác và vì muốn họ phải mất những gì họ đang có. Lọai ghen tương thứ nhất có thể hiểu vì là tính con người. Lọai ghen tương thứ hai là do bởi sự xui dục của ma quỉ: muốn tha nhân phải chịu đau khổ để mình được thỏa mãn. Ví dụ: một học sinh muốn được điểm A như những học sinh giỏi là điều thông thường; nhưng lại muốn khi mình được điểm A thì các học sinh khác phải không được A như mình! Có những người khi có những gì người khác không có hay được quyền cao chức trọng thì kiêu hãnh tự đắc, coi mình như cái rốn của vũ trụ. Họ khoe khoang để mọi người được biết, bắt người khác phải quỵ lụy mình, và khinh thường tha nhân. Các Kinh-sư và Biệt-phái trong Phúc Âm là những tiêu biểu cho mẫu người này.

– Đức mến không cư xử bất xứng (làm điều bất chính), không tìm tư lợi: Trong tiếng Hy-Lạp, từ cư xử bất xứng (avschmone,w) có hai nghĩa: (1) một hành động ngược lại với những tiêu chuẩn luân lý như lối sống vô luân (1 Cor 7:36); (2) một hành động ngược lại với những tiêu chuẩn xã hội như cách cư xử vô lễ, bất lịch sự, hay không đúng phép xã giao (1 Cor 13:5). Ở đây, thánh Phaolô có lẽ nhấn mạnh vào nghĩa thứ hai hơn. Nhiều người cũng nhận xét có hai lọai người trên thế gian: một lọai chỉ tìm lợi lộc cá nhân, luôn đòi được hưởng đặc quyền và một lọai chỉ để ý đến bổn phận phải đóng góp để tiếp tục phát triển. Để xây dựng xã quốc gia, có người đã đề nghị: Đừng đòi hỏi quốc gia phải làm gì cho bạn, nhưng hãy tự hỏi bạn có thể làm gì để xây dựng quốc gia. Cũng thế, để xây dựng Nhiệm Thể Chúa Kitô, chúng ta đừng đòi hỏi Giáo Hội phải làm gì cho mình, nhưng hãy tự hỏi mình có thể làm gì để xây dựng Giáo Hội.

– Đức mến không nóng giận, không nuôi hận thù: Nóng giận là không làm chủ được con người mình, là thiếu kiên nhẫn. Nóng giận có thể vi phạm trầm trọng đức mến trong lời nói cũng như trong hành động. Bác ái thì xây dựng trong khi nóng giận có thể phá hủy tất cả những gì mà mình và người khác đã xây dựng lâu năm. Động từ “nuôi” trong tiếng Hy-Lạp là động từ dùng trong lãnh vực kế tóan (logizeshthai): phải vào sổ sách tất cả để đừng quên sót. Một trong những nghệ thuật sống là học để quên, nhưng nhiều người luôn nhớ rành mạch tất cả những gì xấu người khác đã đối xử với mình. Có những cha mẹ khi đánh con là đánh và kể luôn tất cả mọi tội con đã phạm từ khi bắt đầu bị đánh tới giờ! Nhớ tất cả các tội của người khác là cách hiệu quả nhất để giết chính mình và giết tha nhân.

– Đức mến không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật: Nhiều người lại có khuynh hướng ngược lại: mừng khi thấy điều dữ xảy ra cho người mình không thích và không vui khi thấy họ được mọi sự lành bằng an. Khi đọc, nghe, hay xem tin tức trên các phương tiện truyền thông, nếu không thấy những điều dữ xảy ra là kết luận tin tức hôm nay chẳng có gì đặc biệt cả. Các con buôn muốn bão cấp 2 sẽ trở thành bão cấp 5 để có thể kiếm lời bằng cách tăng giá những gì dân chúng cần, vì họ biết bão sẽ chẳng làm thiệt hại gì đến họ.

– Đức mến che chở tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, và chịu đựng tất cả: Động từ “che chở” được dịch từ tiếng Hy-Lạp “ste,gw” đến từ danh từ “ste,gh” có nghĩa là mái nhà. Động từ được dùng cho việc lợp mái nhà để giữ những người trong nhà khỏi mưa nắng. Có lẽ thánh Phaolô muốn dùng từ này ở đây để nói lên rằng một khi có đức mến, con người có thể tìm mọi cách để che chở khuyết điểm của tha nhân, không để tội lỗi họ bị phơi bày ra cho người khác thấy. Tin tưởng tất cả có hai chiều kích: Trước tiên, tin tưởng nơi Thiên Chúa là Đấng có thể làm được mọi sự. Sau đó, tin tưởng nơi tha nhân có khuynh hướng tôn trọng Sự Thật, yêu những gì tốt lành, và quí mến mọi sự tốt đẹp. Với niềm tin như thế, con người có quyền hy vọng những gì họ mong đợi sẽ đến và sẽ không ngần ngại kiên trì hy sinh chịu đựng đau khổ để tha nhân được sống. Như những nhà nông, người có đức mến sẽ làm tất cả những gì họ có thể làm được, chịu dầm mưa giãi nắng; sau đó, họ đặt trọn niềm tin tưởng vào Trời sẽ ban cho một mùa gặt tốt đẹp.

1.3/ Tại sao đức mến quan trọng? Thánh Phaolô trả lời bằng cách so sánh đức mến với các ơn gọi khác về tính thời gian, sự hòan hảo, và sự cao trọng tuyệt đối. Sau khi so sánh, Ngài kết luận: “Đức mến không bao giờ mất được.”

– Về tính thời gian: Ơn nói tiên tri cũng chỉ nhất thời. Khi Chúa cần phải sửa dạy dân chúng, Ngài sẽ dùng các tiên tri. Nhưng khi những gì Chúa muốn đã đạt được, Ngài không cần đến vị tiên tri đó nữa. Ơn nói các tiếng lạ cũng có ngày sẽ hết như ơn tiên tri. Khi về trời, hoặc tất cả chỉ xử dụng một ngôn ngữ hoặc tất cả sẽ được Chúa ban ơn để hiểu mọi thứ tiếng.

– Về sự hiểu biết: Ơn hiểu biết cũng chỉ nhất thời và giới hạn vì sự hiểu biết thì có ngần; khi cái hoàn hảo tới, thì cái có ngần có hạn sẽ biến đi. Thánh Phaolô dùng hai hình ảnh để dẫn chứng sự bất tòan của ơn hiểu biết:

* So sánh sự hiểu biết của trẻ con và của người trưởng thành: Cũng như khi tôi còn là trẻ con, tôi nói năng như trẻ con, hiểu biết như trẻ con, suy nghĩ như trẻ con; nhưng khi tôi đã thành người lớn, thì tôi bỏ tất cả những gì là trẻ con. Sự hiểu biết ở thế gian này cũng bất tòan như sự hiểu biết của con trẻ; một khi đã về hưởng hạnh phúc với Chúa thì sự hiểu biết sẽ hòan hảo như sự hiểu biết của người đã trưởng thành.

* So sánh sự hiểu biết qua gương và qua người thật: Bây giờ chúng ta thấy lờ mờ như trong một tấm gương, mai sau sẽ được gặp Thiên Chúa mặt giáp mặt. Bây giờ tôi biết chỉ có ngần có hạn, mai sau tôi sẽ được biết hết, như Thiên Chúa biết tôi.

– Về sự tòan hảo: Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến. Đức tin cần thiết khi chưa gặp được Chúa; một khi đã gặp được Ngài, đức tin sẽ không cần thiết nữa. Đức cậy là hy vọng những gì mình chưa có; một khi đã có rồi, đức cậy cũng sẽ không cần thiết. Chỉ có đức mến là tồn tại, một khi đã yêu rồi thì cứ tiếp tục yêu; nồng độ của tình yêu sẽ thắm thiết hơn và hòan hảo hơn.

2/ Phúc Âm: Thói quen phê bình, chỉ trích

Một trong những đặc tính của trẻ là chúng sống theo cảm xúc nhất thời: khi nào muốn ăn là ăn, muốn chơi là chơi. Chúng không cần biết những ước muốn của chúng có hợp lý không cho tới khi bị cha mẹ ngăn cấm và tập cho chúng biết sống kỷ luật. Nếu không được cha mẹ tập để sống theo kỷ luật, đứa trẻ sẽ tiếp tục những thói quen đó dầu chúng đã trở thành người lớn. Chúa Giêsu ví các Kinh-sư và Biệt-phái như những đứa trẻ này vì họ không chịu sống theo đường lối của Thiên Chúa đã họach định mà cứ ngoan cố sống theo sở thích mình: “Họ giống như lũ trẻ ngồi ngoài chợ gọi nhau mà nói: “Tụi tôi thổi sáo cho các anh, mà các anh không nhảy múa; tụi tôi hát bài đưa đám, mà các anh không khóc than.”

Vì các Kinh-sư và Biệt-phái lấy mình làm tiêu chuẩn để phê bình người khác nên họ không thỏa mãn với bất cứ ai có lối sống khác họ. Họ phê bình Gioan Tẩy Giả là bị quỷ ám vì ông không ăn bánh, không uống rượu như họ. Khi Chúa Giêsu đến, cũng ăn cũng uống như ai, thì họ lại bảo: “Đây là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi.”

Tuy vậy, kế họach của Thiên Chúa không vì họ mà phải thay đổi vì vẫn có những người sống theo Đức Khôn ngoan chỉ dẫn. Vẫn có những người nghe theo lời giảng của Gioan Tẩy Giả, bỏ đường tội lỗi, và quay trở về với Chúa. Những người này sẽ là bằng chứng hùng hồn cho sự khôn ngoan và kế họach của Thiên Chúa. Các Kinh-sư và Biệt-phái có thể làm trở ngại, nhưng không thể thắng vuợt được Đức Khôn Ngoan của Ngài.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Đức mến có thể ví như máu lưu thông trong cơ thể. Máu cần cho sự sống không phải chỉ cho thân thể mà còn tất cả các chi thể. Chi thể nào mà máu không vận chuyển tới sẽ bị đau và nếu không được chữa trị kịp thời sẽ chết. Cũng vậy, tình yêu là động lực cho tất cả mọi hành động của con người: vì yêu Chúa và yêu tha nhân, con người dám hy sinh chịu đựng đau khổ để tòan Thân Thể của Chúa Kitô được lành mạnh. Không có tình yêu mọi công việc sẽ bị đình trệ và dần dần tắt hẳn và cuộc sống sẽ trở nên vô nghĩa. Như lời Thánh Thêrêxa Hài Đồng nói: “Không có tình yêu Giáo Hội sẽ không còn và máu tử đạo cũng sẽ hết.”

– Khi thiếu vắng tình yêu, con người sẽ trở nên cau có, gắt gỏng, khó chịu. Họ sẽ không hài lòng về bất cứ những gì xảy ra, và sẽ luôn tìm những điều xấu của tha nhân để có lý do phê bình. Ngược lại, một khi được ở trong tình yêu, con người sẽ dễ dàng thông cảm và tha thứ mọi khuyết điểm của tha nhân, đúng như lời ca dao Việt-Nam:

Yêu nhau yêu cả đường đi – Ghét nhau ghét cả tông ti họ hàng.

Yêu nhau biết mấy cho vừa – Một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

****************