Chia sẻ Đức tin qua lời nói và việc làm

25/08/2024

THƯỜNG HUẤN DÀNH CHO GIÁO DÂN THÁNG 8-2024

CHỦ ĐỀ: CÙNG NHAU LOAN BÁO TIN MỪNG 

Bài 2: CHIA SẺ ĐỨC TIN QUA LỜI NÓI VÀ VIỆC LÀM

Đức tin là gì? Đức tin trước hết là quà tặng của Thiên Chúa trao ban cách nhưng không cho con người qua Hội Thánh. Quà tặng đó chính là tình yêu, đã được tỏ bày và trao ban qua Người Con duy nhất của Ngài. Theo Đức Bênêđictô XVI: “Tin là một cuộc gặp gỡ với con người Giêsu, và qua cuộc gặp gỡ đó mà nhận ra rằng, ý nghĩa của thế giới là một con người, một Ngôi vị sống động”[5]. Cuộc gặp gỡ này được gọi là đức tin vì con người mà chúng ta gặp gỡ đó không đơn thuần là một con người trần thế, nhưng đó là “vị Thiên Chúa làm người”, là Logos: Lời vĩnh cửu của Thiên Chúa, và là chính Thiên Chúa, Logos đó “đã trở nên người phàm” (Ga 1, 14).

Đức tin chúng ta nhận lãnh, nói như Đức Phanxicô, “đó không phải là một ‘bài hát ru’ ru chúng ta chìm vào giấc ngủ, mà là một ngọn lửa sống để giữ cho chúng ta tỉnh táo và năng động thậm chí ngay cả vào ban đêm”[6]. Đức tin phải là ngọn lửa thôi thúc chúng ta luôn tìm cách gặp gỡ Chúa qua cầu nguyện, qua các hành vi bác ái, và làm nảy nở trong chúng ta niềm vui khôn tả, để qua đó chúng ta muốn lan tỏa nó ra khắp thế giới, “mang nó đến với mọi người, để mỗi người có thể khám phá sự dịu dàng của Chúa Cha và cảm nghiệm được niềm vui của Chúa Giêsu, điều này làm cho tâm hồn được rộng mở – và Chúa Giêsu mở rộng con tim của chúng ta – và làm cho cuộc sống trở nên tươi đẹp”[7].

Chúng ta không giữ niềm vui đức tin mang lại cho riêng mình, nhưng chúng ta phải làm cho niềm vui đó được lan tỏa. Hành vi đó được gọi là thông truyền đức tin. Chúng ta thông truyền đức tin bằng chính lời nói và việc làm.

Bằng lời nói

Lời thông truyền đức tin đến người nghe phải là lời nói chan chứa niềm vọng được đâm rễ sâu từ một tâm hồn cảm nghiệm thâm sâu về cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu. Điều đó đòi hỏi mỗi người tín hữu chúng ta phải Phúc âm hóa chính mình. Có nghĩa là mỗi người phải thực hiện cuộc canh tân chính đời sống kitô hữu của mình để theo yêu cầu của Tin Mừng nhờ đó đức tin của mình thực sự trở thành sức hấp dẫn. Canh tân trước tiên là thực hiện cuộc hoán cải để “tái khám phá niềm vui đức tin và tìm lại sự hăng say thông truyền đức tin. Việc dấn thân truyền giáo của các tín hữu – vốn là điều không thể thiếu – kín múc được sức mạnh và năng lực trong sự khám phá hằng ngày tình yêu của Chúa. Thực vậy, đức tin tăng trưởng khi được sống như một cảm nghiệm về tình yêu đã nhận lãnh và khi được thông truyền như một kinh nghiệm về ơn thánh và niềm vui. Đức tin phong phú hóa, vì mở rộng con tim trong niềm hy vọng và giúp mang lại một chứng tá có khả năng sinh sản: nó mở rộng tâm trí của những người lắng nghe và đón nhận lời Chúa, mời gọi gắn bó với Lời Ngài để trở thành môn đệ của Ngài”[8].

Thông truyền đức tin chính là nói về Chúa Giêsu, lời chuyển tải đức tin được cất vang lên từ sự hiệp thông với Chúa Giêsu cách thâm sâu. Chính trong sự hiệp thông này đã thắp lên trong chúng ta ngọn lửa yêu mến thúc bách chúng ta (x. 2Cr 5,14) nói về Chúa Giêsu với sự xác tín rằng: không nhận biết Tin Mừng là một thiếu sót không có chi bù đắp được, vì chỉ có Tin Mừng mới mang lại sự sống đích thật. Nói về Chúa Giêsu không là kể về một nhân vật, một câu chuyện, nhưng là trình bày một khuôn mặt sống động nơi mỗi người kitô hữu, một Đức Kitô luôn quan tâm đến nỗi bất hạnh của người khác về thể xác cũng như tinh thần, một Đức Kitô đầy lòng trắc ẩn, không bao giờ bỏ qua lời van xin chữa lành, một Đức Kitô ngập tràn tình yêu và lòng khoan dung để thứ tha, để bênh đỡ chở che cho những người cô thân cô thế, một Đức Kitô không mệt mỏi trên đường tìm kiếm những con chiên lạc đường chính lộ…

Việc thông truyền đức tin trước tiên phải khởi đi từ việc tùy thuộc vào sự kết hợp sống động của chính họ với Chúa Kitô, Đấng đã phán: “Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, người ấy sinh được nhiều hoa trái, vì không có Thầy các con chẳng làm gì được” (Ga 15,5). Công đồng Vatican II đã dạy: “Đời sống kết hợp mật thiết với Chúa Kitô trong Giáo Hội, được nuôi dưỡng bằng lương thực thiêng liêng chung cho mọi tín hữu, nhất là bằng việc tham dự tích cực vào Phụng Vụ thánh, để khi hưởng dùng lương thực đó, trong khi chu toàn tốt đẹp các nhiệm vụ trần thế nơi những hoàn cảnh sống thường ngày, người giáo dân không để cuộc sống bị tách rời, trái lại luôn tăng triển trong sự kết hợp với Chúa Kitô qua việc chu toàn bổn phận theo ý Thiên Chúa. Bằng cách đó, người giáo dân sẽ tiến tới trong sự thánh thiện với niềm vui và lòng hăng hái, cố gắng vượt qua các khó khăn không thể tránh khỏi với sự khôn ngoan và lòng kiên nhẫn” [9].

Như vậy, lời thông truyền đức tin là lời thấm đẫm Tin Mừng, lời được cất lên từ trái tim yêu của Chúa Giêsu, nên lời đó là lời loan báo về niềm vui và hạnh phúc. Như Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Chúng ta không thể nói về Chúa Giêsu mà không có niềm vui, bởi vì đức tin là một câu chuyện tình yêu tuyệt vời để chia sẻ”. Không có niềm vui, việc loan báo Tin Mừng là vô ích. Đức Thánh Cha nói: Nhưng làm chứng cho Chúa Giêsu, với niềm vui, thực hiện những hành động nhân danh Người, với niềm vui, là để chứng tỏ rằng: “Chúng ta đã nhận được một món quà quá đẹp đến nỗi không lời nào có thể diễn tả được[10]. Đó là lý do để chúng ta thấy tại sao những người tin không bao giờ đơn độc cả, và tại sao đức tin có khuynh hướng truyền lan, vì nó mời gọi người khác chia sẻ niềm vui của nó. Những ai tiếp nhận đức tin đều khám phá ra rằng các chân trời của họ mở rộng như mới và nhiều liên hệ làm người ta phong phú được phát sinh.[11]

Việc thông truyền đức tin bằng lời còn hướng tới việc dạy Giáo lý. Đức Gioan Phaolô II trong tông huấn Catechesi tradendae đã nói: Việc dạy giáo lý được tái đề nghị như phần thiết yếu của công cuộc giáo dục đức tin, mà nó bắt đầu với lời công bố Tin Mừng đầu tiên (kerygma) nhằm mục đích khơi dậy đức tin[12].

Đặc biệt, gia đình là môi trường lý tưởng để cha mẹ thông truyền đức tin cho con cái. Đức Phanxicô nhấn mạnh: “Trong gia đình, đức tin đi cùng với mọi lứa tuổi của cuộc đời, bắt đầu với tuổi ấu thơ: trẻ em học cách tin tưởng vào tình yêu của cha mẹ. Đó là lý do tại sao điều rất quan trọng trong gia đình là cha mẹ khuyến khích chia sẻ đức tin để có thể giúp trẻ em từ từ trưởng thành trong đức tin của chúng. Đặc biệt là người trẻ, đang trải qua một giai đoạn trong cuộc sống rất phức tạp, phong phú và quan trọng đối với đức tin của các em. Các em cần phải cảm thấy sự gần gũi và nâng đỡ thường xuyên của gia đình và Hội Thánh trong cuộc hành trình đức tin của các em”[13].

Bằng việc làm

Thánh Giáo hoàng Phaolô VI trong tông huấn Loan báo Tin Mừng (Evangelii Nuntiandi) đã nói: “Trước tiên Tin Mừng phải được công bố bằng chứng tá. Chẳng hạn giữa cộng đoàn nhân loại mà họ đang sống, một Kitô hữu hay một nhóm Kitô hữu, biểu lộ khả năng cảm thông và đón nhận, chia sẻ đời sống và số phận với những người khác, tỏ tình liên đới trong những nỗ lực chung nhằm đạt được những gì là cao quý và tốt đẹp nhất. Hoặc là, một cách thực đơn giản và tự nhiên, họ chiếu tỏa niềm tin của mình nơi những giá trị vượt xa những giá trị thông thường, niềm trông cậy vào điều mà người khác không thấy và có lẽ không dám mơ tưởng tới. Nhờ chứng tá không lời này, Kitô hữu gợi lên những vấn nạn bất khả kháng trong tâm hồn những kẻ trông thấy họ sống: Tại sao họ là những người như thế? Tại sao họ sống như vậy? Cái gì hoặc ai đã thôi thúc họ? Tại sao họ ở giữa chúng ta? Một chứng tá như vậy đã là sự công bố Tin Mừng tuy thầm lặng nhưng rất mãnh liệt và hiệu nghiệm”[14]. Và ngài nhấn mạnh: Người đương thời sẵn sàng lắng nghe những nhân chứng hơn là những thầy dạy, hoặc nếu họ có nghe thầy dậy, thì bởi vì chính thầy dạy cũng là những nhân chứng”[15]. Thánh Giáo hoàng chỉ tiếp việc mà chúng ta phải làm, để thông truyền đức tin chính là cách xử thế trong mối giao tiếp hàng ngày, “bằng đời sống mà Giáo Hội sẽ rao giảng Tin Mừng cho thế giới, nghĩa là bằng chứng tá đời sống trung thành với Đức Kitô, sống nghèo khó và từ bỏ, sống không lệ thuộc vào các quyền lực thế gian, tắt một lời, chính bằng đời sống thánh thiện mà Giáo Hội rao giảng Tin Mừng”[16].

Mọi Kitô hữu đều được kêu gọi thông truyền đức tin bằng chính đời sống của mình, qua những việc làm phát xuất từ lòng đạo đức được nuôi dưỡng bằng những giáo huấn Tin Mừng, cụ thể qua Lời Chúa và Thánh Thể. Mọi hành động loan báo Tin Mừng được kín múc từ hai yếu tố nền tảng này, bởi trọng tâm của đức tin là chính Chúa Kitô, và việc thông truyền đức tin không gì hơn là làm cho mọi người nhận biết Đức Kitô bằng chính đời sống của mình, một đời sống được biến đổi nên giống Chúa nhờ Lời và Thánh Thể. Đức Phanxicô đã nói: Các tín hữu học cách nhìn chính mình theo đức tin mà họ tuyên xưng: Hình ảnh của Đức Kitô là tấm kính mà ở đó họ tìm thấy hình ảnh riêng của họ được thể hiện[17].

Và như đức Kitô, chúng ta thông truyền đức tin bằng chính những hành vi yêu thương mà Chúa đã dạy: “Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”. Yêu thương như Thầy là làm một cuộc canh tân đi ra khỏi chính mình, khỏi một lối sống ích kỷ, một thái độ đề cao cá nhân và loại trừ tha nhân. Thông truyền đức tin trước tiên là biểu tỏ một kết nối với mọi người. “Đức tin không kéo chúng ta ra khỏi thế gian hoặc tỏ ra xa lạ với những quan tâm cụ thể của con người thời đại. Nếu không có một tình yêu đáng tin cậy, thì không có gì thực sự có thể làm cho con người thực lòng hợp nhất với nhau”[18]. Sự kết nối mà đức tin của người Kitô hữu thể hiện, được xây dựng trên tinh thần mọi người đều là anh chị em với nhau, và chỉ mong muốn sự thiện hảo cho nhau.

Ánh sáng đức tin cũng không làm cho chúng ta quên đi những đau khổ của thế giới này. Sự đau khổ nhắc nhở chúng ta rằng việc phục vụ công ích của đức tin luôn luôn là việc phục vụ của hy vọng. Vì thế, việc thông truyền đức tin phải thể hiện một thái độ phục vụ một niềm hy vọng nhìn về phía trước, trong khi biết rằng xã hội của chúng ta chỉ có thể tìm thấy nền tảng vững chắc và lâu dài của nó từ Thiên Chúa, từ một tương lai đến từ Chúa Giêsu Phục Sinh mà thôi. Do đó, đức tin được thông truyền là đức tin sống động, không là một đức tin của một công thức. Đức tin phải được thắp sáng bằng hành động từ những điều chúng ta tuyên xưng. Lời nói phải đi đôi với việc làm, lời tuyên xưng phải được minh chứng bằng những hành động cụ thể. Có như thế, việc thông truyền đức tin đích thật là một hành vi trao ban điều mà chúng ta xác tin, chúng ta sống và chúng ta làm chứng.

Thánh Giáo hoàng Phaolô VI trong tông huấn Evangelii Nuntiandi đã nói về mối tương quan giữa lời nói và chứng tá trong việc thông truyền đức tin: “Chứng tá không chưa đủ, vì chứng tá cho dù đẹp đẽ nhất sẽ trở nên vô hiệu theo thời gian, nếu nó không được soi sáng, chứng minh, nghĩa là theo thánh Phêrô “đưa ra những lý lẽ cậy trông” (1Pr 3,15) và nếu nó không được diễn đạt bằng một sự loan báo rõ ràng, không mập mờ về Đức Kitô. Tin Mừng đã được công bố nhờ chứng tá đời sống, sớm hay muộn phải được công bố bằng Lời hằng sống. Không có Phúc âm hóa thật nếu danh tánh, lời giảng dạy, đời sống, lời hứa, vương quốc và mầu nhiệm của Đức Giêsu Nazarét không được công bố”[19].

Như vậy, việc thông truyền đức tin bao gồm lời nói và hành động, hai việc này không thể tách rời và luôn gắn chặt với nhau, Đức Phanxicô còn khẳng định: “Một cộng đoàn loan báo Tin Mừng dấn mình vào đời sống hằng ngày của dân chúng bằng lời nói và hành động; Công đoàn ấy vượt qua các khoảng cách, sẵn sàng hạ mình khi cần, và ôm ấp đời sống con người, chạm vào thân thể đau khổ của Đức Kitô nơi người khác”[20].

Lm. Antôn Hà Văn Minh

Nguồn: hdgmvietnam.com