Ủy ban Giáo dân trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam
Ban Nghiên Huấn
THƯỜNG HUẤN GIÁO DÂN THÁNG 02/2025
BÀI 1 – MẦU NHIỆM GIÁO HỘI: DÂN THIÊN CHÚA, DÂN ĐƯỢC SAI ĐI
Dân Thiên Chúa là danh hiệu đặc thù và ưu tuyển được Công Đồng Vatican II dùng để chỉ về Giáo Hội. Hiến chế tín lý về Giáo Hội dành cả chương hai cho chủ đề này. Bởi Giáo Hội là một mầu nhiệm, nên lý trí loài người không thể am tường trực tiếp qua khái niệm trừu tượng được; vì thế, Công Đồng dùng những ẩn dụ hoặc hình bóng của Kinh Thánh để mô tả thực thể của Giáo Hội. Hình bóng thứ nhất là “Dân Thiên Chúa”.
1. Dân Thiên Chúa : Bình thường một người sinh ra đều có quốc tịch, nguồn cội. Họ có nghĩa vụ và quyền lợi của một công dân. Trong Giáo hội cũng thế, những ai được rửa tội thì được gọi là con cái của Thiên Chúa, hoặc người ấy thuộc về một cộng đoàn dân của Thiên Chúa. Thực ra thuật ngữ “dân Chúa” xuất hiện khá sớm trong Kinh Thánh. Trải qua dòng lịch sử thánh và phát triển của Giáo hội, thuật ngữ này mang nhiều ý nghĩa mỗi ngày một sâu sắc hơn. Khi gọi Giáo Hội là “dân” Thiên Chúa, Công Đồng Vaticanô II muốn nêu bật sự kiện Giáo Hội bén rễ vào cả trong lịch sử cứu độ lẫn trong lịch sử loài người: Giáo Hội cùng mang thân phận với con người, và sống trong tầm tác động của ảnh hưởng hỗ tương với loài người. “Bụi trần của lịch sử” đã để lại trong Giáo Hội những di sản vinh quang cũng không thiếu mà đen tối cũng quả là nhiều, và Giáo Hội nhận trách nhiệm về mọi điều tốt xấu đã do mình tạo ra. Mang tính lịch sử, Giáo Hội đang từng bước hình thành, chưa hoàn tất; đã, đang, và sẽ tiếp tục biến đổi; đàng khác, Giáo Hội sống cộng sinh với xã hội loài người: Công Đồng Vatican II nhận định rằng “Giáo Hội biết mình đã nhận được rất nhiều từ nơi lịch sử và đà tiến hóa của nhân loại”; giữa Giáo Hội và các nền văn hóa bao giờ cũng có một quan hệ trao đổi hỗ tương, với kết quả là “Giáo Hội có thể được phong phú thêm và thực sự đang được giàu có thêm nhờ đà tiến hóa của cuộc sống xã hội nhân loại”. (Công Đồng Vatican II, Hiến chế Gaudium et Spes, số 44.) Ðể rời riêng một mình thì khái niệm “dân Thiên Chúa” khó mà hiểu được, vì thế cần phải được bổ túc bằng khái niệm “thân thể Ðức Kitô” và Dân Thiên Sai.
2. Giáo Hội, Nhiệm Thể Đức Kitô (GLHT 789 – 793): Vì mọi người trong Giáo Hội được Chúa Thánh Thần liên kết với Đức Kitô và với nhau, tạo thành một thân thể duy nhất mà Đức Kitô là Đầu. Việc so sánh Giáo Hội với một thân thể làm sáng tỏ sự ràng buộc thân mật giữa Giáo Hội và Đức Kitô. Giáo Hội không chỉ được quy tụ quanh Đức Kitô; Hội Thánh được nên một trong Người, trong Thân Thể của Người. Khi đáp lại Lời Thiên Chúa và trở nên chi thể của Thân Thể Đức Kitô, các tín hữu được kết hợp mật thiết với Đức Kitô: “Trong thân thể đó, sự sống của Đức Kitô được truyền thông cho các tín hữu là những kẻ, nhờ các bí tích, đã được kết hợp một cách bí nhiệm và thật sự với Đức Kitô chịu nạn và được tôn vinh.” Sự hợp nhất trong Thân Thể không làm mất tính đa dạng của các chi thể: “Trong việc xây dựng Thân Thể của Đức Kitô, có sự đa dạng của các chi thể và các phận vụ. Chỉ có một Thần Khí, Đấng phân phát các hồng ân khác nhau của Ngài, theo sự phong phú của Ngài và theo nhu cầu của các thừa tác vụ để mang lại lợi ích cho Hội Thánh.” Sự hợp nhất của Nhiệm Thể làm phát sinh và cổ võ đức mến giữa các tín hữu. “Từ đó, nếu một chi thể đau khổ, thì tất cả các chi thể đều đau khổ; còn nếu một chi thể được vinh dự, thì tất cả các chi thể đều chung vui.” Sau cùng, sự hợp nhất của Thân Thể Đức Kitô chiến thắng mọi chia rẽ nhân loại: “Quả thế, bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy để thuộc về Đức Kitô, đều mặc lấy Đức Kitô; không còn chuyện phân biệt Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Kitô” (Gl 3,27-28).
3. Dân Thiên Sai : Hiến chế Lumen Gentium gọi Giáo Hội là “Dân Thiên sai”,(Công Đồng Vatican II, Hiến chế Lumen Gentium, số 9b) nghĩa là dân của Ðấng Thiên sai, của Ðức Kitô. Dân tộc này ở vào “thời đại cuối cùng”, đang tiến bước giữa lòng lịch sử loài người với sứ mạng của Ðức Kitô, cũng như đang sống thân phận lữ hành hướng tới thời hoàn tất cánh chung (Congar, Y.,Le peuple Messianique, Paris 1975). Thiên sai” có nghĩa là gì? Ðó thành ngữ dịch từ “Mêsia” (Hipri) hoặc “Khristós” (Hy Lạp), tức là “Kitô”, có nghĩa là được “xức dầu”, và chỉ về nhà vua Israel trong tư thế là vị đại diện của Yahweh (x. 1Sm 9:16). Những lúc gặp khủng hoảng, dân Israel hằng hy vọng Chúa Yahweh sẽ sai một “Vị được xức dầu” (Thiên sai) để phục hồi tình trạng thịnh vượng an bình; niềm hy vọng ấy biểu hiện qua nhiều hình thức khác nhau. Giáo Hội là thân thể của Ðấng được xức dầu (Mêsia, Thiên sai), tức là Dân thiên sai vậy. Ðược xức dầu do chính Thần Khí xuống trên nhóm tông đồ (x. Cv 2), và mọi phần tử cũng đều được xức dầu qua các bí tích Rửa Tội và Thêm Sức. Mãi cho đến ngày Cánh chung, Giáo Hội có bổn phận phải tiếp tục thực thi sứ mạng Ðức Kitô đã trao phó.
Trước hết, Dân Thiên sai mang trong mình một niềm hy vọng. Trong một thế giới lộ rõ thất vọng, lạc mất hướng, lẫn lộn giá trị nhân văn với siêu việt, dân Kitô phải xác tín làm chứng cho những giá trị ấy. Như thế nào? Sắc lệnh về Tông Đồ Giáo Dân nhận định: “Tự bản chất của chúng, một số công việc có thể biểu lộ tình yêu cách sống động. Chúa Kitô đã muốn những việc đó làm dấu chỉ cho sứ mệnh thiên sai (x. Mt 11:4-5)”;(Công Đồng Vatican II, Sắc lệnh Apostolicam Actuositatem, số 8a.) Sắc lệnh về đời sống linh mục xác định cụ thể hơn: Chúa Kitô lấy “việc rao giảng Tin Mừng cho những người nghèo khổ và yếu đuối làm biểu chứng cho công tác thiên sai”.(Công Đồng Vatican II, Sắc lệnh Presbyterorum Ordinis, số 6c) Là Dân thiên sai, Giáo Hội có bổn phận trở nên “một dân cho muôn dân”, nghĩa là dấn thân cho mọi người được sống như Thiên Chúa muốn; hoặc nói cách khác, cho vương quyền Thiên Chúa đến được với họ. Bởi là Dân thiên sai “tự bản tính, Giáo Hội lữ hành là truyền giáo”.(Công Đồng Vatican II, Sắc lệnh Ad Gentes, số 2a) Phải cất cao tiếng rao truyền cho thiên hạ nghe biết Tin Mừng cứu độ. Kinh Thánh gọi Ðấng Thiên sai là “niềm hy vọng của muôn dân” (Mt 12:21; Rm 15:12); giờ đây Dân thiên sai phải quyết tâm sống và hành động làm sao để có thể đưa Ðức Kitô đến với những ai “không có niềm hy vọng” (1Tx 4:13). Ðức Kitô muốn Giáo Hội phải là niềm hy vọng cho thế giới; nhưng thực tế cho thấy là nhiều người trong thế giới không còn tín nhiệm Giáo Hội; chính vì thế, dân Kitô càng cần phải cải thiện không ngừng. Dân thiên sai lữ hành sẽ về tới vương quốc cánh chung, lúc mà Thiên Chúa hoàn tất việc đổi mới mọi sự.
Như thế, nhờ tin vào Đức Ki-tô, qua Phép Rửa, chúng ta được gia nhập Dân thánh này, một Dân Có Thủ lãnh, có Đấng làm đầu là Đức Ki-tô (Cl 1, 18). Có phẩm giá là được làm con cái Thiên Chúa, là anh em của Đức Ki-tô (Ga 20, 17), là Đền thờ Chúa Thánh Thần (Eph 2, 22).Có giới luật là yêu thương (Ga 13, 34; 15, 12). |Có sứ mạng làm muối ướp mặn, và làm ánh sáng soi dẫn trần gian (Mt 5, 13-16) qua sứ mạng Loan Báo Tin Mừng.
Câu Hỏi Thảo Luận
1. Vì sao gọi Giáo Hội là Dân Thiên Chúa?
2. Là chi thể trong thân thể Đức Kitô anh chị em đã xây dựng sự Hiệp nhất yêu thương như thế nào trong gia đình và trong cộng đoàn?
3. Thuộc về Đức Kitô, là dân được sai đi, anh chị em có nghĩ mình phải thực hiện sứ mạng Loan Báo Tin Mừng không?
Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng