Ủy ban Giáo dân – Tháng 03/2025: Bài 2 – Mục vụ gia đình: Loan Báo Tin Mừng…

09/03/2025

Ủy ban Giáo dân trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam

Ban Nghiên Huấn

**********

THƯỜNG HUẤN GIÁO DÂN THÁNG 03/2025

Chủ đề: Loan báo Tin Mừng, từ cộng đoàn đến vùng ngoại biên

BÀI 2 – MỤC VỤ GIA ĐÌNH: LOAN BÁO TIN MỪNG QUA CÁC GIÁ TRỊ GIA ĐÌNH KITÔ GIÁO 

Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II thường nói về một “cuộc truyền giáo mới” cho Thiên niên kỷ mới. Ngài đề cập đến nhiệm vụ khó khăn là tái truyền giáo cho các xã hội đang bị tục hóa mãnh liệt, một xã hội đang cố gắng chôn vùi niềm tin Kitô giáo đến nỗi có thể gọi xã hội hôm nay là xã hội thời “hậu Kitô giáo”, như đang thống trị thế giới ngày nay. Vì thế việc loan báo Tin mừng đòi hỏi phải có sách lược mới, một trong những sách lược đó cần phải quan tâm, đó là môi trường truyền giáo của gia đình. Có thể nói việc loan báo Tin mừng không thể tách rời khỏi việc truyền giáo thông qua gia đình. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã minh định: “Cả đức tin và sứ mạng Tin mừng hóa của gia đình Kitô hữu cũng có cái hơi thở thừa sai công giáo như thế. Khi Bí tích Hôn phối lấy lại và nêu lên một lần nữa bổn phận đã ăn rễ từ trong Bí tích Rửa tội và Thêm sức là phải bảo vệ và truyền bá đức tin, Bí tích ấy biến đôi bạn và cha mẹ Kitô hữu thành chứng nhân của Đức Kitô ‘cho đến tận cùng trái đất’, thành những vị ‘thừa sai’ đích thực của tình yêu và sự sống”[1]. Quả thật, gia đình là chủ thể, là nơi tiếp nhận Tin mừng, cũng như là tác nhân để công bố và truyền bá Tin mừng.

1. Gia đình truyền giáo qua đức tin của cha mẹ

Gia đình là cộng đồng đức tin nhỏ nhất, “giáo hội tại gia”. Công đồng Vatican II Gia đình là tế bào sống cơ bản của xã hội là Dân Chúa, Giáo hội, cũng như luôn là tế bào sống cơ bản của xã hội loài người, một nguyên tắc của học thuyết xã hội Công giáo dựa trên trật tự tự nhiên và luật tự nhiên[2]. Trong giáo hội nhỏ này, đức tin được truyền trực tiếp, thông qua lời nói và gương mẫu, và gián tiếp, thông qua tất cả những điều nhỏ nhặt tạo nên đời sống gia đình Kitô giáo.

Đức tin của gia đình bắt đầu từ sự đồng ý Bí tích Hôn nhân. Như Đức Thánh Cha đã nói: “Việc cử hành Bí tích Hôn nhân là khoảnh khắc cơ bản của đức tin của cặp đôi. Bí tích này, về bản chất, là lời công bố trong Giáo hội về Tin mừng liên quan đến tình yêu hôn nhân, gia đình liên tục cần phải tự truyền giáo, để khám phá tiềm năng của mình, “năng lượng to lớn” của mình”[3]. Do đó, gia đình là chủ thể của việc truyền giáo. Trước tiên, gia đình được kêu gọi trở thành một gia đình tin tưởng vì chỉ khi đó, gia đình mới có thể là một tác nhân, một cộng đồng truyền giáo, như Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II giải thích: “Giây phút quyết liệt mà đôi bạn trong tư cách là đôi bạn bày tỏ đức tin là lúc họ cử hành Bí tích Hôn nhân; do bản chất sâu xa của nó, việc cử hành này là một sự công bố trong Hội thánh về Tin mừng của tình yêu hôn nhân: nó là Lời Chúa ‘mặc khải’ và ‘hoàn tất’ dự phóng đầy khôn ngoan và yêu thương mà Thiên Chúa đã có đối với đôi bạn khi dẫn họ tới chỗ tham dự một cách nhiệm mầu nhưng thực sự vào chính tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người. Nếu việc cử hành Bí tích Hôn nhân tự nó là việc công bố Lời Chúa, thì tất cả những người đang chủ động và cử hành bí tích ấy, với những danh hiệu khác nhau, đều phải biến đó thành một việc ‘tuyên xưng đức tin’ trong lòng Hội thánh và cùng với Hội thánh, tức là cộng đồng các tín hữu. Việc tuyên xưng đức tin này đòi hỏi phải được kéo dài suốt cuộc đời của đôi bạn và gia đình”[4], từ đó thánh Giáo hoàng minh định: “Gia đình, giống như Giáo hội, phải là nơi mà Tin mừng được truyền tải và từ đó Tin mừng tỏa sáng”[5].

Về phần cha mẹ phải là những người tiên phong dấn thân trong việc chuyển giao đức tin bằng một sự nhận thức về đức tin cách sâu xa và luôn thắp sáng ngọn lửa đức tin qua việc cầu nguyện và đón nhận Bí tích Giao hòa và Thánh Thể, và đồng hành với con cái. Kinh nghiệm hàng ngàn năm của Giáo hội chứng minh rằng, hình thức đạo đức trong gia đình và nơi quần chúng đã mang lại những kết quả phong phú của đời sống Kitô hữu. Từ kinh nghiệm này và dưới ánh sáng của Chúa Thánh Thần, Giáo hội tin rằng, lòng đạo đức này có thể mãi luôn mang lại một sự đóng góp lớn lao cho việc thể hiện đức tin hội nhập văn hóa đích thật phù hợp với sự đa dạng của các dân tộc và các đại lục.

Giáo hội luôn khẳng định: việc loan báo Tin mừng trước tiên chính là chuyển giao đức tin và giáo dục đức tin cho con cái, “những bậc làm cha mẹ, những kẻ tham dự vào tình phụ tử của Thiên Chúa, là những kẻ đầu tiên chịu trách nhiệm giáo dục con cái và là những kẻ đầu tiên rao giảng đức tin cho con cái. Cha mẹ có bổn phận yêu thương và tôn trọng con cái như là những nhân vị và như là những con cái của Thiên Chúa. Ðặc biệt, các ngài có sứ mạng giáo dục chúng sống đức tin Kitô”[6] . Việc chuyển giao đức tin không chỉ đơn thuần là xin con cái được lãnh nhận Bí tích Rửa tội, nhưng còn trao ban cho con cái mẫu gương sống đạo của người mẹ. Người mẹ định hình đời sống đức tin cho con cái qua đời sống đức tin của chính mình. Vì vậy, người mẹ luôn nỗ lực tự hoàn thiện chính mình để thực sự trở thành khuôn mẫu hoàn hảo nắn đúc đời sống đạo đức cho con cái. Trên hết mọi sự, người mẹ phải là người mang lại nụ cười hạnh phúc trong gia đình. Đời sống đức tin không chỉ đóng khung trong những thói quen đạo đức như đọc kinh đi lễ, nhưng đức tin cần phải là nguồn mạch tuôn chảy niềm vui trong gia đình. Vì vậy, trong việc sống đức tin, người mẹ cần vượt thắng những khó khăn trong đời để nụ cười luôn nở trên môi. Đối diện với những âu lo buồn bực trên khuôn mặt người mẹ vẫn thể hiện nét tươi sáng. Nụ cười của người mẹ là nụ cười của sự tín thác vào tình yêu của Thiên Chúa. Đó là bài học đầu tiên cho con cái về đức tin. Nếu con cái nhìn thấy rằng cha mẹ của mình – và cách chung những người lớn xung quanh – sống cuộc đời cách vui tươi và hăng say, cả khi gặp những khó khăn, thì con cái sẽ dễ dàng tăng triển niềm vui sống sâu xa; và niềm vui sống này sẽ giúp cho con cái thành công vượt qua được những trở ngại có thể và vượt qua được những nghịch cảnh của đời sống con người”[7].

2. Gia đình truyền giáo qua việc chiếu tỏa điều răn thứ tư: Thảo kính cha mẹ

Gia đình được ví là cái nôi, trường học đầu tiên giáo dục đạo đức và nhân cách cho mỗi thành viên của gia đình. Trong gia đình, bài học con cái được hấp thụ trước tiên chính là lòng thảo hiếu đối với ông bà, cha mẹ. Đây không chỉ dừng lại trên phạm thuộc nếp sống nhân bản nhưng, truyền thống văn hóa Việt đã nâng một lối sống trở thành “đạo”, và được gọi là “Đạo hiếu”. Đạo hiếu là một trong những giá trị đạo đức tốt đẹp, sợi dây liên kết các thành viên trong gia đình, qua nhiều thế hệ. Trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, Đạo hiếu đóng vai trò nền tảng của đời sống tinh thần, giữ vị trí quan trọng và quyết định quan hệ gia đình, quan hệ xã hội.

Đạo hiếu trong văn hóa truyền thống Việt đã được nâng lên trong một tầm vóc cao hơn dưới ánh sáng của Tin mừng. Đạo hiếu không chỉ dùng lại trong mối tương giao mang tính nhân bản, nhưng còn diễn tả mối tương giao giữa con người với Thiên Chúa, một mối tương giao được Thiên Chúa ban hành thành điều luật: “Ngươi hãy thảo kính cha mẹ ngươi”. Đây không chỉ điều luật để tuân giữ, nhưng điều răn này còn là lối đường dẫn tới Đức Kitô, qua Người chúng ta khám phá nguồn gốc sự sống mà chúng ta được đón nhận, điều mà Chúa Giêsu khẳng định: sự sống được trao ban bởi ơn trên (x. Ga 3,3-8). Quả thật, điều bí ẩn của đời sống chúng ta được soi sáng khi chúng ta khám phá ra rằng Thiên Chúa luôn chuẩn bị cho ta một cuộc đời làm con của Ngài, trong cuộc đời ấy, mỗi hành động của chúng ta là một sứ vụ lãnh nhận từ nơi Ngài.

Vì thế, đạo hiếu trong văn hóa truyền thống dân tộc Việt được mặc một chiếc áo mới lộng lẫy khi người Kitô hữu đưa vào thực thi trong đời sống của mình trong việc chu tất điều răn thứ tư: Ngươi hãy thảo kính cha mẹ người. Việc thảo kính cha mẹ không còn chỉ dừng lại ở bổn phận và trách nhiệm của con cái đối với cha mẹ, nhưng đó còn là con đường kiến tạo hạnh phúc trong cuộc sống. Sách Huấn ca đã ca tụng về lòng thảo hiếu: “2 Đức Chúa làm cho người cha được vẻ vang vì con cái, cho người mẹ thêm uy quyền đối với các con. 3 Ai thờ cha thì bù đắp lỗi lầm, 4 ai kính mẹ thì tích trữ kho báu. 5 Ai thờ cha sẽ được vui mừng vì con cái, khi cầu nguyện, họ sẽ được lắng nghe. 6 Ai tôn vinh cha sẽ được trường thọ, ai vâng lệnh Đức Chúa sẽ làm cho mẹ an lòng. 11 Quả thật, người ta chỉ được vẻ vang lúc cha mình được tôn kính; và con cái phải ô nhục khi mẹ mình bị khinh chê. 12 Con ơi, hãy săn sóc cha con, khi người đến tuổi già; bao lâu người còn sống, chớ làm người buồn tủi. 13 Người có lú lẫn, con cũng phải cảm thông, chớ cậy mình sung sức mà khinh dể người. 14 Vì lòng hiếu nghĩa đối với cha sẽ không bị quên lãng, và sẽ đền bù tội lỗi cho con. 16 Ai bỏ rơi cha mình thì khác nào kẻ lộng ngôn, ai chọc giận mẹ mình, sẽ bị Đức Chúa nguyền rủa” (Hc 3, 2-6.11-14.16).

Chu tất điều răn thứ tư: “Ngươi hãy thảo kính cha mẹ ngươi” cách chỉnh chu, là con đường kiến tạo các cuộc gặp gỡ với anh chị em lương dân cách thuận lợi, và làm cho anh chị em lương dân nhận ra vẻ đẹp của Đạo hiếu trong đời sống của các Kitô hữu.

Một hiểu lầm in đậm trong tâm não của lương dân: theo đạo Công giáo là bỏ ông bà cha mẹ, vì người Công giáo không cho cúng giỗ. Các gia đình Công giáo phải thực thi lòng thảo hiếu đối với tổ tiên ông bà trong các giỗ theo cách thế Giáo hội tại Việt Nam cho phép và khuyến khích cử hành để xóa bỏ sự hiểu lầm này. Cụ thể ngày 14/11/1974 tại Thành phố Nha Trang, Hội đồng Giám mục Việt Nam đã ban hành quyết nghị về Lễ nghi tôn kính ông bà tổ tiên[8] và vào ngày 07/10/2019, Đức cha Chủ tịch Ủy ban Văn hóa trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt nam đã ký văn bản hướng dẫn việc kính nhớ tổ tiên theo văn hóa Việt Nam[9], theo đó Hội đồng Giám mục Việt nam khuyến khích mỗi gia đình Công giáo nên lập bàn thờ gia tiên để kính nhớ ông bà tổ tiên. Bàn thờ gia tiên được đặt dưới bàn thờ Chúa trong gia đình. Trên bàn thờ có thể treo di ảnh ông bà hoặc họ hàng thân thuộc, nhưng không bày biện những gì có tính cách mê tín. Việc đốt nhang hương, đèn nến trên bàn thờ gia tiên và vái lạy trước bàn thờ, giường thờ tổ tiên, là những cử chỉ thái độ hiếu thảo tôn kính, được phép làm. Ngày giỗ cũng là ngày “kỵ nhật” được “cúng giỗ” trong gia đình theo phong tục địa phương miễn là loại bỏ những gì là dị đoan mê tín, như đốt vàng mã, và giảm thiểu cùng canh cải những lễ vật biểu dương đúng ý nghĩa thành kính biết ơn ông bà, như dâng hoa trái, hương đèn. Trong tang lễ được vái lạy trước thi hài người quá cố, đốt hương vái theo phong tục địa phương để tỏ lòng cung kính người đã khuất cũng như Giáo hội cho đốt nến, xông hương nghiêng mình trước thi hài người quá cố.

3. Gia đình truyền giáo qua tình yêu giữa các viên trong gia đình cách tín trung

Công đồng Vatican II đã khẳng định: Tình yêu hôn nhân “có đặc tính nhân linh cao cả vì từ một nhân vị hướng đến một nhân vị khác bằng một tình cảm tự ý, nên bao gồm hạnh phúc toàn diện của con người, do đó tình vợ chồng có thể đem lại một phẩm giá đặc biệt cho những biểu lộ của thể xác và tâm hồn, và khiến chúng trở nên cao quí như những yếu tố và dấu hiệu đặc thù của tình yêu đôi bạ” (GS số 49), chính “Chúa Kitô ban dồi dào ơn phúc cho tình yêu đa dạng ấy, một tình yêu phát xuất từ nguồn mạch tình yêu Thiên Chúa và được tác thành theo gương kết hợp giữa Chúa Kitô và Giáo hội” (GS số 48). Vì thế tình yêu trong hôn nhân và cuộc sống gia đình của người Kitô hữu biểu tỏ tình yêu Chúa Kitô, một tình yêu tự hiến chính mạng sống của mình cho người mình yêu. Có thể nói tình yêu hôn nhân gia đình là một tình yêu tự hiến mạnh mẽ, chỉ có thể thực hiện được nhờ ân sủng tái sinh của Thiên Chúa. Bất kỳ gia đình nào có tình yêu thương như vậy sẽ trở thành tác nhân của công cuộc truyền giáo sâu sắc hơn.

Khi các bậc cha mẹ trong gia đình đáp lại lời kêu gọi sống trọn hảo ân sủng của Bí tích Hôn phối bất kể phải trả giá như thế nào, thì đây quả thật là nguồn động lực và truyền cảm hứng để thúc đẩy con cái, cũng như bạn bè và gia đình của họ cũng thể hiện tình yêu như thế. Một gia đình sống trọn vẹn tình yêu mà Bí tích Hôn nhân đòi hỏi, họ biến gia đình của mình thành một ngôi lều lý tưởng để cho các thành viên bị tổn thương của những gia đình tan vỡ tìm đến và gặp được sự an ủi, sự nâng đỡ và bình yên, nơi những thiếu niên đang bị khủng hoảng nhìn thấy điều gì đó khác biệt, một cái nhìn mới, và tìm gặp một hy vọng. Vâng tình yêu hôn nhân được tỏ bày cách chỉnh chu theo đúng bản chất của Bí tích Hôn nhân sẽ là nguồn động lực thúc đẩy con người thời đại tìm đến gặp gỡ và đón nhận Tin mừng.

Nếu một gia đình lương dân gặp được một gia đình Kitô giáo mà trong đó tình yêu của người mẹ, tình yêu của người cha và tình yêu của những đứa con được thể hiện trong sự hài hòa, làm gia đình trở thành tổ ấm đích thật, chắc chắn gia đình lương dân đó đang tìm gặp một ánh sáng hy vọng trong một xã hội đang đánh mất dần vẻ đẹp của đời sống gia đình bởi lối sống ích kỷ, hưởng thụ và thiếu tinh thần trách nhiệm. Đó chính là kiểu mẫu gia đình Kitô giáo gợi hứng cho công việc loan báo Tin mừng. Đây là những ngôi nhà mà mọi người muốn nán lại.

Quả thật, tình yêu xua tan nỗi sợ hãi. Một gia đình tràn ngập yêu thương, gia đình đó là nơi chốn mà nhiều người muốn tìm đến, bởi tình yêu có thể vượt qua mọi cản trở để kiến tạo những cuộc gặp gỡ, đối thoại và nhờ đó dẫn đưa tới sự cảm thông, nảy sinh tình bằng hữu, đó là con đường gieo vãi hạt giống Tin mừng tốt nhất. Thật vậy, trong một xã hội, con người đang càng ngày càng bị cô lập bởi sự phát triển của nền công nghiệp, trạng thái cô đơn như đang nhấn chìm các mối tương giao của con người, cho nên hơn bao giờ hết người ta càng ngày càng có nhu cầu giao tiếp để đi ra khỏi nỗi cô đơn, chán nản và thất vọng. Một gia đình tràn ngập tiếng cười yêu thương, và hiếu khách thì quả thật nơi đó trở thành điểm gặp gỡ để loan báo về tinh thương yêu của Thiên Chúa.

Đức Thánh Cha Phanxicô trong “Diễn văn dành cho Hội nghị Thế giới về Tình huynh đệ Nhân loại “Không đơn độc”, ngày mùng 10/06/2023” đã yêu cầu các Kitô hữu và tất cả mọi người nam nữ thiện chí đừng làm ngơ trước tiếng kêu thấu đến Thiên Chúa từ thế giới này của chúng ta. Những bài phát biểu thôi thì chưa đủ; mà cần phải có “những hành vi cụ thể” và “những lựa chọn chung” nhằm xây dựng một nền văn hóa hòa bình nơi mỗi người chúng ta thấy mình đang sống: “Hòa giải với các thành viên trong gia đình, bạn bè và hàng xóm, cầu nguyện cho những người làm tổn thương chúng ta, nhận ra và giúp đỡ những người túng thiếu, nói những lời bình an ở trường học, đại học hoặc trong xã hội, “xức dầu” cho những người cảm thấy cô đơn bằng sự gần gũi của chúng ta”. Đây là con đường mà mọi người đều có thể đi, và Giáo hội không bao giờ mệt mỏi khuyến khích chúng ta dấn thân trên lộ trình này, và kiên cường thực hành đức tính nhân bản và Kitô cao cả này[10].

Tình yêu thúc đẩy và khuyến khích chúng ta thực thi công việc loan báo Tin mừng, tình yêu đó trước tiên phải được kín múc từ tinh yêu Chúa Giêsu. Đỉnh cao và nguồn gốc của tình yêu Chúa Giêsu là Bí tích Thánh Thể, do đó, sự tham gia trọn vẹn của gia đình vào Bí tích Thánh Thể là mục tiêu thiết thực của mọi công cuộc truyền giáo, bởi “các hành vi yêu thương tha nhân – với sự từ bỏ, quên mình, những đau khổ và cố gắng mà chúng đòi hỏi – chỉ có thể chân thực khi chúng được nuôi dưỡng bằng tình yêu của chính Chúa Kitô”[11]. Tình yêu này được ghi dấu ấn từ sự biến đổi khi chịu Phép Rửa tội, được củng cố bởi ấn tín của Chúa Thánh Thần trong Bí tích Thêm sức và Bí tích Sám hối. Các bí tích này thực sự tạo nên Giáo hội hiệp thông trong tình yêu và được trao ban qua Giáo hội. Tất cả chúng đều được cử hành trong cuộc sống Giáo hội tại gia tức gia đình đồng thời là nguồn ân sủng trong việc thi hành sứ vụ truyền giáo của cộng đồng giáo xứ và giáo phận.

Một yếu tố quan trọng mà các gia đình Kitô hữu cần phải quan tâm tuân giữ đó là: “Ngươi không được ngoại tình”. Đây cũng là yếu tố mang giá trị loan báo Tin mừng có hiệu quả đối với dân ngoại. Quả thật, đối với truyền thống văn hóa Việt nam, sự trung tín thủy chung trong tình yêu vợ chồng rất quan trọng, là nền tảng để giữ gìn hạnh phúc gia đình, từ đó con cái sẽ được sống trong một mái ấm tràn đầy yêu thương , và chính từ đó con cái sẽ được hấp thụ những giá trị đạo đức tốt đẹp, hiểu được vẻ đẹp của tình yêu và tinh thần trách nhiệm. Có thể nói sự trung tín trong tình yêu vợ chồng Kitô giáo không chỉ là điều luật nhưng đó là dấu hiệu của sự hiệp nhất yêu thương giữa Chúa Giêsu Kitô và Giáo hội của Người, mà nó còn trình bày tất cả mầu nhiệm hiệp nhất này bằng cách thực hiện nó và chứng tỏ nó trong cuộc sống thường ngày. Chính trong sự hiệp thông vợ chồng, Chúa hiện diện giữa họ, làm cho tình yêu của họ không còn là một biểu tỏ mang yếu tố tự nhiên, nhưng đó còn diễn tả yếu tố siêu nhiên. Vợ chồng yêu nhau, như Chúa Kitô yêu thương Giáo hội (Ep 5, 25). Hơn bao giờ hết giữa một thế giới tục hóa, hưởng thụ ích kỷ, người ta đang hạ thấp giá trị tình yêu thủy chung của vợ chồng, Giáo hội thiết tha kêu gọi các cặp vợ chồng Kitô hữu hãy thắp sáng niềm tin của mình qua đời sống trung tin trong tình yêu, để trở thành ánh sáng chiếu tỏ tình yêu của Chúa, hãy gieo vài giá trị Tin mừng ngày chính trong đời sống thủy chung của vợ chồng.

 Kết

Trong một thế giới mà nhiều gia đình đang tan vỡ, các gia đình Kitô giáo hãy trở thành ngọn hải đăng chiếu tỏa trên đồi cao, bằng cách mạnh dạn tuyên xưng đức tin của mình qua việc tôn thờ Chúa trên hết mọi sự và dạy con cái chúng ta hãy kiên vững trong đời sống đức tin, hãy làm cho gia đình của mình thành môi trường truyền giáo qua việc kiến tạo gia đình thành ngọn hải đăng chiếu tỏa ánh sáng Tin mừng từ một tình yêu chân thành giữa vợ chồng và con cái, những viên gạch làm nên ngọn hải đăng là sự thủy chung trong tình yêu hôn nhân giữa vợ chồng, và sự tôn kính đối với cha mẹ của con cái. Phát triển mối tương giao bằng hữu với các gia đình khác ngay trong môi trường mình sống và cầu nguyện cho tình bằng hữu nầy là con đường gieo vãi Tin mừng mà không cần những bài thuyết giảng dài dòng về cách thế truyền giáo. Giữ gìn và củng cố truyền thống gia đình Kitô hữu là cách thế để loan báo Tin mừng cách hữu hiệu có thể thay thế cho những cuộc họp để lên các kế hoạch truyền giáo cách công phu mà không đạt tới hiệu quả mong muốn.

Đức thánh cha Phanxicô trong Thông điệp Dilexit nos đã nhắc nhở: “Trong một thế giới mà mọi thứ đều được mua và bán, cảm thức của người ta về giá trị của mình xem ra ngày càng phụ thuộc vào những gì họ có thể tích lũy được bằng sức mạnh của đồng tiền. Chúng ta liên tục bị thúc đẩy để tiếp tục mua sắm, tiêu thụ và phân tán tâm trí mình, bị khống chế trong một hệ thống hạ cấp không cho phép chúng ta nhìn xa hơn những nhu cầu trước mắt và nhỏ nhặt của mình. Tình yêu Chúa Kitô không có chỗ trong cơ chế hư hỏng này, thế mà chỉ có tình yêu đó mới có thể giải thoát chúng ta khỏi sự theo đuổi điên cuồng không còn chỗ cho một tình yêu nhưng không. Tình yêu của Chúa Kitô có thể trao cho thế giới chúng ta một trái tim, và làm hồi sinh tình yêu ở bất cứ nơi nào chúng ta nghĩ rằng khả năng yêu thương đã hoàn toàn không còn”[12], với tâm tình đó, gia đình Kitô hữu chúng ta cần phải củng cố tình yêu, thắp sáng tình yêu và làm lan tỏa tình yêu Chúa đến cho mọi người, để cho nhân loại nhận ra giá trị đích thật về cuộc sống hiện tại hôm nay.

– – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – –

[1] Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, Tông huân Familiaris Consortio (Gia đình Kitô hữu), số 54

[2] Nt số 42

[3] Nt số 63

[4] Nt số 51

[5] Nt số 63

[6] Đức Bênêđictô XVI. Diễn văn bế mạc Đại hội Gia đình Thế giới lần V. tại Valencia, Tây Ban Nha, 9.7.2006

[7] Nt

[8] Nguồn: https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/cong-bo-van-kien-huong-dan-viec-ton-kinh-to-tien-35500#_Toc119355179

[9] Nguồn: https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/cong-bo-van-kien-huong-dan-viec-ton-kinh-to-tien-35500#_Toc119355156

[10] Nguồn: https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/su-diep-cua-duc-thanh-cha-phanxico-gui-dai-hoi-tinh-bang-huu-giua-cac-dan-toc-nam-2023-52429

[11] Đức Phanxicô, Thông điệp Dilexit nos, số 203

[12] Nt số 218.

Lm. Antôn Hà Văn Minh

Nguồn: hdgmvietnam.com