Hội đồng Giám mục Việt Nam
Ủy ban Giáo dân
THƯỜNG HUẤN THÁNG 11/2024:
GIÁO HỘI TRONG THẾ GIỚI HIỆN ĐẠI
BÀI 2: GIÁO DÂN THAM GIA VÀO CÁC VẤN ĐỀ ĐƯƠNG ĐẠI
Trong thông điệp Populorum Progession thánh Giáo hoàng Phaolô VI đã kêu gọi: “Chúng tôi khẩn khoản kêu gọi tất cả con cái chúng tôi. Bởi vì trong những nước kém mở mang cũng như trong những nước khác, giáo dân có bổn phận phải cải thiện đời sống xã hội của mình. Nếu vai trò của hàng Giáo phẩm là giảng dạy và giải thích, với thẩm quyền, các nguyên tắc luân lý phải theo trong lãnh vực này, thì phần của các giáo dân, là nhờ những sáng kiến tự do của họ và không vòng tay ngồi đợi mệnh lệnh và chỉ thị, đưa tinh thần Chúa Kitô vào trong não trạng và phong tục, luật lệ và cơ cấu của cộng đồng mình sống” (số 81)[2].
Thật vậy người giáo dân không thể thờ ơ trước khát vọng của con người hôm nay về cuộc sống, nói như Thánh Giáo hoàng Phaolô VI “Giáo hội sống giữa loài người, nên phải tìm hiểu những dấu chỉ của thời đại và giải thích những dấu chỉ ấy theo ánh sáng của phúc âm. Những khát vọng đẹp đẽ nhất của con người cũng là của Giáo hội, nên Giáo hội đau buồn khi thấy những khát vọng ấy không được toại nguyện. Vì thế nên Giáo hội muốn giúp họ đạt tới sự phát triển đầy đủ của họ, đề nghị với họ điều mà Giáo hội có được, là một cái nhìn toàn diện về con người và nhân loại” (số 13). Điều đó cũng có nghĩa là mỗi người giáo dân phải mang lấy trong mình khát vọng về một cuộc sống đẹp đẽ, và dùng hết khả năng để làm sao cho khát vọng đó được thực hiện. Công đồng Vat. II đã nói:
“Giáo dân, do chính ơn gọi đặc biệt của mình, có bổn phận tìm kiếm vương quốc Thiên Chúa bằng cách dấn thân vào các việc trần thế và xếp đặt chúng theo ý Thiên Chúa. Họ sống giữa trần thế, nghĩa là giữa tất cả và từng nghề nghiệp cũng như công việc trần thế, trong môi trường thông thường của cuộc sống gia đình và xã hội, tất cả những điều đó như thể dệt thành cuộc sống của họ. Trong khung cảnh đó, họ đã được Thiên Chúa mời gọi để nhờ việc chu toàn những bổn phận riêng của mình và được tinh thần Tin Mừng hướng dẫn, họ trở nên như nắm men góp phần vào việc thánh hóa thế giới từ bên trong, và như thế, họ làm cho người khác nhận biết Đức Kitô, đặc biệt bằng chứng từ đời sống tỏa sáng đức tin, cậy, mến. Như vậy, họ có một phương thức đặc biệt để soi chiếu và đặt định các thực tại trần thế luôn gắn liền với cuộc sống, sao cho các thực tại ấy không ngừng trở nên như Đức Kitô muốn và luôn phát triển để nên lời ca ngợi Đấng Tạo Hóa và Đấng Cứu Chuộc” (LG số 31).
Vì vậy, việc tham gia vào các vấn đề đương đại người giáo dân thực thi sứ vụ của mình đã nhận lãnh qua Bí tích Rửa tội và Thêm sức, đó là làm cho mọi người nhận ra tình yêu của Thiên Chúa dành để cho con người. Bởi khi tham gia như thế người giáo dân nói lên rằng: “Giáo Hội bày tỏ cho thế giới biết, sự hợp nhất bên ngoài trong lãnh vực xã hội bắt nguồn từ sự hợp nhất trong trí não và con tim, nghĩa là từ đức tin và đức mến, vốn là cơ sở cho sự hợp nhất bất khả phân ly của Giáo Hội trong Chúa Thánh Thần. Nguồn sức mạnh mà Giáo Hội có thể chuyển thông cho xã hội nhân loại ngày nay, dựa trên chính đức tin và đức mến, được thể hiện trong cuộc sống chứ không phải dựa vào thế lực nào khác bên ngoài với những phương thế hoàn toàn nhân loại” (GS số 42).
Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong tông huấn ‘Christifideles Laici’ đã đề xuất “ba hướng hành động dành cho giáo dân: 1. Vượt qua sự rạn nứt giữa Phúc âm và cuộc sống của chính mình để đạt được sự hiệp nhất được Phúc âm truyền cảm hứng. 2. Cam kết với lòng can đảm và sự sáng tạo trong nỗ lực giải quyết các vấn đề xã hội. 3. Làm công việc của mình cách trung thành với năng lực chuyên môn của mình, vì đây là con đường dẫn đến sự thánh hóa của chính họ. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nhấn mạnh: “Khi đón nhận và loan báo Tin Mừng trong sức mạnh của Chúa Thánh Thần, Giáo Hội trở thành một cộng đồng được Phúc-âm-hóa và ra đi Phúc-âm-hóa, do đó Giáo Hội trở thành đầy tớ của mọi người. Trong lòng Giáo Hội, người giáo dân tham gia vào sứ vụ phục vụ con người và xã hội. Chắc chắn mục đích cuối cùng của Giáo Hội là Nước Thiên Chúa… Nhưng Nước Thiên Chúa là nguồn mạch của sự giải phóng hoàn toàn và ơn cứu độ trọn vẹn cho con người: Giáo Hội tiến bước với con người, liên đới toàn diện và mật thiết với lịch sử của con người”[3].
Hai vấn đề đương đại mà người giáo dân cần tham gia tích cực để gieo niềm hy vọng trong ánh sáng của Tin Mừng.
Bảo vệ môi sinh
Vào ngày 4-10-2023, nhân dịp lễ thánh Phanxico Assisi Đức Thánh cha Phanxico ban hành tông huấn Laudate Deum, như một hành động thúc giục mạnh mẽ kêu gọi mọi người hãy giơ tay ra cứu lấy trái đất, ngài viết: “Tôi mong muốn chia sẻ với tất cả các anh chị em trên hành tinh đau khổ của chúng ta những mối quan tâm sâu sắc của tôi liên quan đến việc bảo vệ Ngôi nhà chung. Tuy nhiên, thời gian trôi qua, tôi nhận thấy rằng, chúng ta không có đủ phản ứng, trong khi thế giới quanh ta đang sụp đổ và có lẽ đang tiến đến điểm tan vỡ. Ngoài khả năng này, không còn nghi ngờ gì nữa, tác động của biến đổi khí hậu sẽ ngày càng gây tổn hại đến cuộc sống và gia đình của nhiều người. Chúng ta sẽ cảm nhận được tác động của nó trong các lĩnh vực sức khỏe, nguồn công ăn việc làm, khả năng tiếp cận các nguồn lực, nhà ở, di cư bắt buộc, v.v…”[4].
Giáo Hội, tuy là một cộng đoàn được Chúa qui tụ, mang đặc tính mầu nhiệm, nhưng Giáo Hội cũng là một cộng đoàn hữu hình, đang sống trên trái đất và cùng mang lấy “niềm vui và hy vọng, ưu sầu và lo âu của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và của bất cứ ai đang đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo âu của các môn đệ Chúa Kitô, và không có gì thực sự là của con người mà họ lại không cảm nhận trong đáy lòng họ”[5]. Vì thế Giáo Hội cũng có trách nhiệm giơ tay ra để cứu lấy trái đất theo đúng bản chất của mình, không chỉ có thế, Giáo Hội còn phải nỗ lực kiến tạo cho mình một không gian xanh sạch đẹp ngay chính trong sự hiện hữu của mình.
Trả lại màu xanh cho trái đất là trách nhiệm của chúng ta, bởi “Từ ban đầu, Thiên Chúa đã trao trái đất và các tài nguyên của nó cho nhân loại quản lý chung”[6]. “Thiên Chúa đã yêu cầu chúng ta cai trị trái đất nhân danh Người, bằng cách trồng trọt và chăm sóc nó như một khu vườn, khu vườn của mọi người. Trong khi ‘canh tác’ có nghĩa là cày xới hoặc làm việc […], ‘canh giữ’ có nghĩa là bảo vệ [và] giữ gìn. Chúng ta nhận được từ công trình sáng tạo và đến lượt chúng ta cho đi. Mỗi cộng đồng có thể nhận lấy từ sự tốt lành của trái đất những gì họ cần cho sự tồn tại của chính mình, nhưng họ cũng có nhiệm vụ bảo vệ nó”.[7]
Vì thế mỗi một tín hữu cần được giáo dục về lòng yêu mến thiên nhiên, và cần được hướng dẫn để thay đổi những thói quen, đặc biệt thói quen hưởng thụ ích kỷ, làm sao mỗi một tín hữu hình thành một thói quen biết bảo vệ môi sinh qua các sinh hoạt hàng ngày. Đức Phanxicô nhắn nhủ: “Các gia đình phải nỗ lực nhằm giảm ô nhiễm, giảm rác thải, tiêu dùng điều độ đã tạo ra một văn hóa mới. Thực tế đơn giản về việc thay đổi thói quen cá nhân, gia đình và cộng đồng đã làm dấy lên mối lo ngại về các thành phần chính trị đã không đảm nhận phần trách nhiệm của họ, họ phẫn nộ trước sự vô tư của những người có quyền lực. Vì thế, chúng tôi nhận thấy, dù điều này không có tác động đáng chú ý về lượng, thì nó vẫn giúp chúng ta đưa ra các quá trình chuyển đổi lớn vận hành từ sâu thẳm xã hội”[8]. Để thay đổi một thói quen hưởng thụ ích kỷ đến một thói quen hưởng thụ có trách nhiệm với môi sinh, mỗi người Kitô hữu cần phải cũng cố đức tin của mình, bởi chỉ có đức tin mới có thể giúp chúng ta nhìn thấy sự hiện của Chúa trong các công trình do tay Ngài tạo dựng. Nói như Đức Phanxicô: “Chúng ta cần phải nhìn vào các thành phố của chúng ta với một cái nhìn chiêm niệm, một cái nhìn đức tin thấy Thiên Chúa cư ngụ trong các ngôi nhà, các đường phố, các công viên. Sự hiện diện của Thiên Chúa nâng đỡ các cố gắng của các cá nhân và tập thể để tìm được sự khích lệ và ý nghĩa trong đời họ”[9] Ngài còn minh định rằng: “Đối với các Kitô hữu, niềm tin vào một Thiên Chúa, Đấng là sự hiệp thông Ba Ngôi, gợi lên trong chúng ta suy nghĩ về tất cả thực tại chứa đựng trong nội tâm của Người là một dấu chứng rõ ràng cho Ba Ngôi Thiên Chúa. Con người có thể nhận ra vinh quang của Thiên Chúa Ba Ngôi trong thiên nhiên”[10], thánh Bonaventura cũng đã dạy: “Mỗi thụ tạo mang trong mình một cấu trúc rõ ràng về Ba Ngôi”[11].
Hành động cứu trái đất phải khỏi sự từ một trái tim đầy ắp yêu thương, một tình yêu được Thiên Chúa khởi xướng ngay trong công trình tạo dựng của Ngài. Thiên Chúa tạo dựng muôn loài từ tình yêu của Ngài, Ngài đã gắn kết muôn loài với nhau cách mật thiết, và con người được ban cho trí thông minh để cai quản muôn loại trong trật tự của tình yêu. “Con người có khả năng nhận thức về mình, làm chủ mình, tự do để ban phát và bước vào liên hệ với những người khác”[12] , và thánh Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II nhắc nhớ rằng, tình yêu hoàn toàn đặc biệt mà Đấng Sáng Tạo dành cho từng con người, đã trao cho họ phẩm giá cao sang vô cùng[13]
Chăm lo người nghèo
Công đồng Vat.II đã nói: “Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo âu của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và của bất cứ ai đang đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo âu của các môn đệ Chúa Kitô, và không có gì thực sự là của con người mà họ lại không cảm nhận trong đáy lòng họ (GS số 1), điều đó trở thành trọng tâm học thuyết xã hội của Giáo Hội Công giáo: ưu tiên cho người nghèo.
Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã minh định: Giáo Hội đặc biệt đề cao lòng thương xót đối với người nghèo đói, bệnh tật, cũng như những công cuộc mệnh danh là từ thiện và tương trợ để xoa dịu mọi nỗi thống khổ của nhân loại. Đức ái đối với người thân cận, dưới hình thức cổ xưa và luôn mới mẻ của các công việc từ thiện nhằm giúp đỡ thể xác lẫn tinh thần, đức ái ấy luôn bày tỏ nội dung trực tiếp nhất, phổ biến và thông thường nhất của việc đem đạo vào đời, là hoạt động tạo nên sự dấn thân chuyên biệt của giáo dân[14].
Phục vụ cho người nghèo không là một công việc thuần túy xã hội, nhưng chủ yếu phạm trù mang yếu tố thần học Thiên Chúa tỏ “lòng thương xót của Người trước tiên” cho những người nghèo. Sự ưu ái này của Thiên Chúa có những hệ quả cho đời sống đức tin của người Kitô hữu, vì chúng ta được kêu gọi để có “tâm tình như Chúa Giêsu Kitô” (Pl 2, 5). Được gợi hứng bởi điều này, Hội Thánh đã có sự chọn lựa vì người nghèo, được hiểu như là một “hình thức đặc biệt của vị trí hàng đầu trong việc thực thi bác ái Kitô giáo mà toàn thể truyền thống của Hội Thánh luôn làm chứng”[15].
Qua việc phục vụ cho người nghèo, người Kitô hữu gặp gỡ Đức Kitô, người nghèo là những người mang Tin Mừng mà cả cộng đoàn cần được nghe. Giáo hội có điều gì đó để học hỏi và tiếp nhận từ “Chúng ta được kêu gọi tìm thấy Đức Kitô nơi họ, lên tiếng bênh vực mục đích của họ, nhưng đồng thời cũng là bạn của họ, nghe họ, nói với họ và ôm ấp sự khôn ngoan mầu nhiệm mà Thiên Chúa muốn chia sẻ với chúng ta thông qua họ”[16].
Vì vậy, khi người giáo dân tham gia vào các vấn đề đương đại chính là dấn thân trong việc thăng tiến con người, đó được xem như là thực thi sứ mạng loan báo Tin Mừng của mình. Giáo hội cổ võ việc dấn thân nhằm thăng tiến con người qua những hành động nhằm bảo vệ phẩm giá con người, vì con người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa. Đặc biệt “khi tìm cách thăng tiến nhân phẩm, Giáo Hội bày tỏ một tình yêu ưu tiên dành cho người nghèo và những kẻ không có tiếng nói, bởi vì Chúa đã đồng hóa với họ một cách đặc biệt. Tình yêu không loại trừ ai, nhưng có một ưu tiên phục vụ mà toàn thể truyền thống Kitô giáo minh chứng. Tình yêu ưu tiên dành cho người nghèo đó, cùng với những quyết định mà nó gợi hứng trong ta, không thể không ôm ấp đám đông những người đói khát, thiếu thốn, những người vô gia cư, những kẻ không được chăm sóc thuốc men và, trên hết, những kẻ không hy vọng có được một tương lai tốt đẹp hơn”[17]. Vì khi tỏ tình liên đới với kẻ nghèo chúng ta làm cho lương dân dễ tin hơn, “nếu chính các Kitô hữu sống giản dị, theo gương Đức Giêsu. Sự đơn giản trong cách sống, đức tin sâu xa và tình yêu không giả dối đối với mọi người, nhất là người nghèo và bị loại trừ, là những dấu chỉ sáng chói của Tin Mừng bằng hành động”[18].
Giáo Hội sẽ mãi là mùa xuân khi người giáo dân nhiệt tình dấn thân trong việc loan báo Tin Mừng cho thế giới qua sự đóng góp của mình vào các vấn đề đương đại. Toàn thể giáo dân là nguồn dự trữ năng lượng quyết định to lớn trong mọi thời đại… Ngày nay, có lẽ hơn bao giờ hết, giáo dân được kêu gọi cống hiến hết mình nhờ những năng lượng mà họ kín mức từ Giáo Hội. Quả thật người giáo dân trong sứ mệnh của Giáo Hội cần phải khám phá trong ơn gọi của mình, họ có một vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, người giáo dân cần ý thức trách nhiệm mang ánh sáng Tin Mừng đến cho thế giới từ chính nơi mình sinh sống, đó phải là phải là mục tiêu của đạo đức xã hội Kitô giáo. Đối với giáo dân, họ phải là “linh hồn của thế giới’. Sự hiện diện của người giáo dân trong cộng đồng xã hội là phương tiện đưa Giáo Hội xuống với cuộc sống hàng ngày và làm cho những mối quan tâm của mọi người nơi họ tìm được lời giải đáp trong ánh sáng của Tin Mừng. Qua người giáo dân Giáo Hội hiện thân bằng xương bằng thịt trong hoàn cảnh sống của con người.
Tài Liệu Làm Việc (Instrumentum Laboris) Cho Khoá Họp Thứ Nhất Của Đại Hội Thượng Hội Đồng Giám Mục (Tháng 10/2023) đã đưa ra những chỉ dẫn cho sự cộng tác của người giáo dân vào các vấn đề đương đại:
a) Trong một Giáo Hội hiệp hành, người nghèo, theo nghĩa trước hết là những người sống trong điều kiện nghèo nàn về vật chất và bị xã hội loại trừ, chiếm một vị trí trung tâm. Họ là những người đón nhận sự chăm sóc, nhưng trên hết, họ là những người mang Tin Mừng mà cả cộng đoàn cần được nghe. Giáo Hội có điều gì đó để học hỏi và tiếp nhận từ họ. Một Giáo Hội hiệp hành nhìn nhận và trân trọng vai trò trung tâm của họ.
b) Việc quan tâm đến Ngôi nhà chung của chúng ta kêu gọi hành động chung. Giải pháp cho nhiều vấn đề, như sự biến đổi khí hậu, đòi hỏi sự dấn thân của toàn thể gia đình nhân loại. Việc cùng nhau làm việc để chăm sóc Ngôi nhà chung của chúng ta tạo ra một bối cảnh cho sự gặp gỡ và hợp tác với thành viên của các Giáo Hội và các Cộng đoàn Giáo hội khác, với tín đồ của các tôn giáo khác, và với mọi người thiện chí. Sự dấn thân này đòi hỏi chúng ta phải hành động đồng thời trên nhiều bình diện: công việc huấn giáo và mục vụ, việc thúc đẩy những lối sống tốt hơn, việc quản lý tài sản của Giáo Hội (bất động sản và tài chính).
e) “Mỗi cá nhân Kitô hữu và mỗi cộng đoàn được mời gọi trở thành khí cụ của Thiên Chúa để giải phóng và thăng tiến người nghèo. Điều này hàm ý sẵn sàng đứng về phía những người bị gạt bỏ nhất trong các cuộc tranh luận công khai, góp tiếng nói bênh vực họ cũng như tố cáo các tình huống bất công và phân biệt đối xử, đồng thời tìm cách tránh thỏa hiệp với những kẻ gây ra sự bất công.[19]
Lm. Antôn Hà Văn Minh
Nguồn: hdgmvietnam.com