Môi trường sinh thái dưới nhãn quan Thần học của Thông điệp Laudato si’

26/09/2020

Với Laudato Si’ (viết tắt: LS)Thông điệp về việc chăm sóc Ngôi nhà chung của chúng ta, Đức Phanxicô muốn gửi đến mọi người trên thế giới, cách riêng các tín hữu Công giáo, một lời mời gọi khẩn thiết về việc chăm sóc môi trường thiên nhiên đang bị hủy hoại bởi chính bàn tay con người. Sau chương I với tiêu đề: “Điều gì đang xảy ra cho ngôi nhà chung của chúng ta”, đề cập vắn tắt đến một số khía cạnh của cuộc khủng hoảng sinh thái hiện nay, Đức Phanxicô bắt đầu phần trọng tâm của Thông điệp bằng chương II, được coi như nền tảng thần học của chương trình bảo vệ môi trường sinh thái mà Thông điệp muốn nhắm đến: “Tôi sẽ suy xét một số nguyên tắc được lấy từ truyền thống Do thái – Kitô giáo là truyền thống có thể làm cho sự dấn thân của chúng ta đối với môi trường được thống nhất hơn” (LS 15).

Lý do của việc đưa ra nền tảng thần học này được ngài chia sẻ ở ngay phần đầu chương II: “Hơn thế nữa, dù Thông điệp này đón nhận việc đối thoại với mọi người để cùng nhau tìm kiếm những con đường giải thoát, tôi vẫn muốn ngay từ đầu cho thấy những xác tín có thể mang lại cho các Kitô hữu, và một số những người thuộc niềm tin khác nữa, động lực mạnh mẽ để chăm sóc thiên nhiên và những người yếu đuối nhất trong số những anh chị em của chúng ta” (LS 64).

Trong ý hướng đó, ngài đặt tiêu đề cho chương II là “Tin mừng về sáng tạo”, được mở đầu bằng thuật trình của sách Sáng Thế và kết thúc bằng giáo huấn của Đức Kitô trong các sách Tin Mừng. Nhờ nối kết sách Tin Mừng với sách Sáng Thế, chúng ta thấy “mầu nhiệm Đức Kitô là ánh sáng quyết định soi tỏ mầu nhiệm tạo dựng”.[1] Chính Thánh Phaolô cũng đã nhấn mạnh sự liên tục giữa Tin Mừng và Cựu Ước: Tin Mừng là sự mạc khải mầu nhiệm được ẩn giấu từ muôn đời, nhưng nay được tỏ hiện (x. Rm 16,25t). Thực vậy, phải chờ đến lúc Đức Kitô xuất hiện, thì mầu nhiệm Thiên Chúa tạo thành mới được mạc khải trọn vẹn (x. Ga 1 và Ep 1).

Dưới ánh sáng Tin Mừng, các mạc khải Thánh Kinh Cựu Ước về vũ trụ thiên nhiên được trở nên sáng tỏ, qua đó chúng ta có thể thấy rõ ràng chương trình sáng tạo và cứu độ thế giới đã, đang và sẽ được thực hiện như thế nào, và mỗi người trên thế giới được mời gọi cộng tác vào chương trình ấy, qua việc bảo tồn, phát triển và hoàn thiện môi trường thiên nhiên.

I. MẠC KHẢI THÁNH KINH VỀ CÔNG TRÌNH SÁNG TẠO

1. Vũ trụ được tạo thành bởi Đấng Tạo Hóa là Cha Tình Thương

Đây là tín điều đầu tiên và căn bản nhất trong bản tuyên xưng đức tin hay còn gọi là Kinh tin kính hay Tín biểu của Kitô giáo.[2] Thực vậy, lời tuyên tín đầu tiên trong Tín biểu của các Tông đồ là: “Tôi tin kính Đức Chúa Trời là Cha phép tắc vô cùng dựng nên trời đất”, và trong Tín biểu của Công đồng Nicea-Constantinopoli là: “Tôi tin kính một Thiên Chúa là Cha toàn năng, Đấng tạo thành trời đất muôn vật hữu hình và vô hình”. Cả hai lời tuyên tín căn bản này đều nói lên niềm tin vào Thiên Chúa vừa là Đấng Tạo Hóa toàn năng vừa là Cha.

Qua việc trích dẫn lần lượt các đoạn Thánh Kinh Cựu Ước và Tân Ước, Thông điệp Laudato Si’ đã dẫn đưa chúng ta đi từ một vị Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa đến một vị Thiên Chúa là Cha, rồi từ một vị Thiên Chúa là Cha theo nghĩa là Đấng tác sinh muôn vật đến một vị Thiên Chúa là Cha đầy tình thương đối với muôn loài, nhất là loài người.

“Các Thánh vịnh thường xuyên dạy chúng ta biết chúc tụng Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa, ‘Đấng trải mặt đất này trên làn nước bao la, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương’ (Tv 136,6). Các Thánh vịnh cũng mời gọi các loài thụ tạo khác hoà cùng chúng ta trong lời ca tụng này: ‘Ca tụng Chúa đi, này vầng ô bóng nguyệt, ca tụng Người, muôn tinh tú rạng soi. Ca tụng Chúa đi, hỡi cửu trùng cao vút, cả khối nước phía trên bầu trời. Nào ca tụng thánh danh Đức Chúa, vì Người ra lệnh, là hết thảy được tạo thành’ (Tv 148,3-5). Chúng ta không chỉ tồn tại nhờ quyền năng của Thiên Chúa; chúng ta còn sống với Người và bên cạnh Người. Đó là lý do vì sao chúng ta tôn thờ Người” (LS 72).

Khi nhấn mạnh đến quan niệm về một Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa đầy quyền năng, Thánh Kinh nhằm mục đích củng cố niềm tin của dân chúng trước những cám dỗ chạy theo các thần của dân ngoại. Trước mặt Thiên Chúa toàn năng, các thần của dân ngoại chỉ là hư vô và vô tích sự, có mắt mà không thể nhìn, có tai mà không thể nghe, có tay chân mà không thể sờ mó hay bước đi… (x. Tv 115,5-7).

Tiếp đến, các ngôn sứ trình bày khuôn mặt Thiên Chúa là Cha, nhưng với tư cách là Đấng Tạo Hóa: “Thế nhưng, lạy Đức Chúa, Ngài là Cha chúng con; chúng con là đất sét, còn thợ gốm là Ngài, chính tay Ngài đã làm ra tất cả chúng con” (Is 64,7). “Tất cả chúng ta chẳng có cùng một Cha sao? Chẳng phải cùng một Thiên Chúa đã dựng nên chúng ta sao?” (Ml 2,10).

Tuy nhiên mạc khải về Thiên Chúa vừa là Đấng Tạo Hóa vừa là Cha chỉ đạt đến ý nghĩa trọn vẹn khi trình bày Thiên Chúa tạo dựng muôn loài không chỉ bằng quyền năng mà còn bằng tình yêu. Trong ý nghĩa ấy, thông điệp Laudato Si’ đã viết: “Tình yêu của Thiên Chúa là sức mạnh chuyển động nền tảng trong tất cả mọi vật được tạo thành: ‘Quả thế, Chúa yêu thương mọi loài hiện hữu, không ghê tởm bất cứ loài nào Chúa đã làm ra, vì giả như Chúa ghét loài nào, thì đã chẳng dựng nên’ (Kn 11,24). Do đó, mọi loài thụ tạo là đối tượng của sự dịu dàng của Chúa Cha, Đấng đặt để nó ở một vị trí trong thế giới. Ngay cả sự sống thoáng qua của sinh vật nhỏ bé nhất cũng là đối tượng của tình yêu Người, và trong một vài giây hiện hữu, Thiên Chúa nâng niu nó bằng lòng trìu mến của Người. Thánh Basiliô Cả đã mô tả Đấng Tạo Hóa là ‘sự thiện hảo không thể đo lường’, trong khi thi sĩ Dante Alighieri nói về Người như ‘tình yêu làm chuyển động mặt trời và các tinh tú’. Do đó, chúng ta có thể đi từ những điều được tạo dựng ‘đến sự cao cả của Thiên Chúa và đến lòng xót thương từ ái của Người'[3] ” (LS 77).

Cuối cùng, sự hoàn tất mạc khải về Thiên Chúa vừa là Đấng Tạo Hóa vừa là Cha yêu thương đã được thể hiện nơi lời rao giảng của Chúa Giêsu: “Chúa Giêsu nhắc lại niềm tin Kinh Thánh vào Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa, Người nhấn mạnh một chân lý nền tảng: Thiên Chúa là Cha (x. Mt 11,25). Trong khi trò chuyện với các môn đệ, Chúa Giêsu mời gọi họ nhận biết mối tương quan phụ tử của Thiên Chúa với hết mọi loài thụ tạo. Người nhắc đến chúng với lòng trìu mến cảm thông vì mỗi loài đều quan trọng trong mắt của Thiên Chúa: ‘Năm con chim sẻ chỉ bán được hai hào phải không? Thế mà không một con nào bị bỏ quên trước mặt Thiên Chúa’ (Lc 12,6). ‘Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng’ (Mt 6,26)” (LS 96).
Từ quan niệm Thiên Chúa Tạo Hóa là một người Cha, Thánh Phanxicô Assisi đã coi mọi thụ tạo là anh chị em một nhà. Vì vậy, trong Bài ca vạn vật, ngài đã dâng lời ngợi khen Chúa vì anh Mặt trời, chị Mặt trăng và muôn tinh tú, chị Trái đất, anh Gió cùng với Không khí và Mây trời, anh Lửa, chị Nước, v.v. đã góp phần tạo nên vẻ đẹp của vũ trụ và phục vụ sự sống của muôn loài sinh vật.

2. Ý nghĩa thần học của các thụ tạo trong công trình sáng tạo của Thiên Chúa

Từ mạc khải Thánh Kinh về hình ảnh của một Đấng Tạo Hóa là Cha đầy tình thương, Laudato Si’ giúp chúng ta khám phá những ý nghĩa thần học của các thụ tạo như được trình bày qua các trang Thánh Kinh.

Trước hết là ý nghĩa tạo nên lý do hiện hữu của muôn loài, như lời Sách Giáo lý của Hội Thánh công giáo đã dạy: “Vấn đề không phải chỉ là tìm hiểu trần gian vật chất phát sinh khi nào và cách nào, và con người đã xuất hiện lúc nào, nhưng quan trọng hơn, chính là khám phá ra ý nghĩa của nguồn gốc đó: Phải chăng trần gian bị điều khiển bởi một sự ngẫu nhiên, một định mệnh mù quáng, một tất yếu vô danh, hay được điều khiển bởi một Hữu thể siêu việt, thông minh và tốt lành, được gọi là Thiên Chúa?”[4] Đặt ra câu hỏi như thế tức là đã trả lời. Tuy nhiên, để câu trả lời mang tính khẳng định hơn, Sách Giáo lý đã viết tiếp sau đó: “Trần gian không phải là sản phẩm của bất cứ một luật tất yếu, một định mệnh mù quáng hoặc một sự ngẫu nhiên nào. Chúng ta tin trần gian xuất phát từ ý muốn tự do của Thiên Chúa, Đấng đã muốn cho các thụ tạo được tham dự vào hữu thể, sự khôn ngoan và sự tốt lành của Người”.[5]

Thông điệp Laudato Si’ đã lấy lại giáo huấn trên đây và thêm vào đó một lời khẳng định rằng ý nghĩa căn bản nhất liên quan đến nguồn gốc của công trình sáng tạo chính là tình yêu của Thiên Chúa Tạo Hóa: ” ‘Một lời Chúa phán làm ra chín tầng trời’ (Tv 33,6). Lời này nói với chúng ta rằng thế giới xuất hiện như là kết quả của một quyết định, chứ không phải từ hỗn mang hay tình cờ, và lời này tán dương vũ trụ hơn hết. Lời tạo thành diễn tả một sự chọn lựa tự do. Vũ trụ không xuất hiện như kết quả của một quyền năng độc đoán, một sự phô bày sức mạnh hay một ý muốn tự khẳng định bản thân. Tạo thành là một trật tự của tình yêu” (LS 77). “Toàn bộ vũ trụ vật chất nói về tình yêu của Thiên Chúa, lòng trìu mến vô biên của Người dành cho chúng ta. Đất, nước, núi non: mọi thứ đều là một sự âu yếm của Thiên Chúa, như nó đã là” (LS 84).

Chính yếu tố tình yêu đã khiến cho vũ trụ không chỉ là một thế giới tự nhiên thuần túy, hay một thực tại tự nhiên mà có, nhưng là một quà tặng do chính Thiên Chúa tạo ra và ban cho con người và mọi loài: “Trong truyền thống Do-thái – Kitô giáo, từ ‘tạo thành’ có nghĩa rộng hơn từ ‘thiên nhiên’, vì nó có liên hệ với kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa mà trong đó mọi thụ tạo đều có giá trị và ý nghĩa riêng. Thiên nhiên thường được coi là một hệ thống có thể nghiên cứu được, hiểu được và kiểm soát được, trong khi tạo thành thì chỉ có thể hiểu được như một quà tặng từ cánh tay vươn ra của Thiên Chúa là Cha muôn loài, và như một thực tại được soi sáng bởi tình yêu mời gọi chúng ta cùng nhau đi vào sự hiệp thông hoàn vũ” (LS 76).

Cũng chính trong ý nghĩa đó mà các chiều kích của vũ trụ biểu lộ mầu nhiệm sâu thẳm của Thiên Chúa, từ đó toàn bộ lịch sử loài người xảy ra trong đó là một lịch sử thánh thiêng. Thiên Chúa thực hiện ý muốn mà Người có từ thuở đời đời: Người yêu thương loài người, đưa con người tới chỗ trưởng thành và qui tụ mọi người trong Chúa Kitô. Như vậy ý nghĩa thứ nhất của thụ tạo phát xuất từ ý nghĩa của danh hiệu “Thiên Chúa là Tình Yêu”.

Hơn nữa, các thụ tạo mang một ý nghĩa nhiệm mầu và thâm sâu không những vì chúng phát xuất từ tình yêu của Thiên Chúa, mà còn từ sự hiện hữu tuyệt đối của Người. Ở đây chúng ta thấy hai yếu tính quan trọng nhất nơi bản tính của Thiên Chúa được nối kết với nhau một cách chặt chẽ: đó là Tình yêu và Hiện hữu. Sự hiện hữu của muôn loài không thể tự chúng mà có, nhưng được Thiên Chúa trao ban, và do đó sự hiện hữu của chúng cũng là một cách tham dự vào sự hiện hữu tuyệt đối của Người, do đó ý nghĩa sự hiện hữu của chúng không hoàn toàn tùy thuộc vào thiện ích của con người, nhưng phát xuất từ danh hiệu “Thiên Chúa là Đấng Hiện Hữu”. “Chỉ bằng sự hiện hữu của mình, chúng đã ca tụng và tôn vinh Người”.[6] Sự hiện hữu của mọi vật nói riêng và sự hiện hữu của toàn thể tạo thành nói chung tự nó đã hàm chứa một ý nghĩa thâm sâu, ngay cả trước khi có sự khám phá và đánh giá của con người, vì nó gắn liền với Đấng Hiện Hữu.

Hai ý nghĩa thần học trên đây dẫn đến ý nghĩa thứ ba của vũ trụ tạo thành, đó là sự “mạc khải tự nhiên” về Thiên Chúa. Nếu Thánh Kinh là quyển sách chứa đựng những mạc khải siêu nhiên về Thiên Chúa do chính Người linh ứng để các tác giả thánh viết ra, thì vũ trụ thiên nhiên có thể được coi là quyển sách bằng hình ảnh cụ thể cũng do chính Người tạo ra để tự bày tỏ chính mình cho nhân loại và đồng thời để giáo huấn họ. Ý nghĩa này đã được Đức Phanxicô tổng hợp từ nhiều nguồn và trình bày trong thông điệp Laudato Si’ như sau:

“Thiên Chúa đã viết một cuốn sách quý, ‘những dòng chữ của cuốn sách ấy là vô số những vật được tạo thành hiện diện trong vũ trụ’.[7] Hội đồng Giám mục Canada đã chỉ ra cách đúng đắn rằng không có một thụ tạo nào bị loại trừ khỏi biểu hiện này của Thiên Chúa: ‘Từ những khung cảnh toàn diện đến dạng thức sống bé nhỏ nhất, thiên nhiên là một nguồn liên tục của điều kỳ diệu và đáng thán phục. Đó cũng là một sự mạc khải liên tục về Thiên Chúa’.[8] Về phần mình, Hội đồng Giám mục Nhật Bản đưa ra một sự quan sát gợi lên nhiều suy nghĩ: ‘Cảm nhận được mỗi thụ tạo đang hát bài ca hiện hữu là đang sống cách vui tươi trong tình yêu và hy vọng của Thiên Chúa’.[9] Chiêm ngắm công trình sáng tạo giúp chúng ta khám phá trong mỗi sự vật một giáo huấn mà Thiên Chúa muốn trao cho chúng ta, vì ‘đối với người tin, chiêm ngắm công trình sáng tạo là lắng nghe một thông điệp, một tiếng nói trái ngược và thầm lặng’.[10] Chúng ta có thể nói rằng ‘cùng với việc mạc khải chính danh được chứa đựng trong Kinh Thánh, có một sự thần hiện trong ánh sáng chói lọi của mặt trời và sự buông xuống của màn đêm’.[11] ” (LS 85).

3. Sự tốt đẹp và trật tự hài hòa của công trình tạo dựng

Sách Sáng Thế tường thuật công trình tạo dựng vũ trụ trong sáu ngày. Về công trình của mỗi ngày, Sách thánh viết: “Và Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp” (St 1,4.10.12.18.21.25). Đặc biệt, ngày thứ sáu, sau khi tạo dựng con người như chóp đỉnh của công trình tạo dựng vũ trụ, Sách thánh viết: “Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm ra quả là rất tốt đẹp” (St 1,31). Để giải thích về sự tốt lành này của công trình tạo dựng, thông điệp Laudato Si’ đã mượn lời của Sách Giáo lý Hội Thánh công giáo, số 339: “Mỗi loài thụ tạo sở hữu một sự tốt lành và hoàn hảo của riêng nó… Mỗi loài thụ tạo khác nhau, như đã được định trong hữu thể của nó, phản chiếu một tia khôn ngoan và tốt lành vô biên của Thiên Chúa theo cách của nó” (LS 69). “Vẻ đẹp của công trình tạo dựng phản chiếu vẻ đẹp vô biên của Đấng Tạo Hóa”.[12] Đặc biệt, con người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa, nên sự tốt đẹp của họ trổi vượt hơn mọi loài thụ tạo khác.

Sự tốt đẹp của các thụ tạo được nhận thấy không những nơi mỗi thụ tạo, mà còn nơi tổng thể công trình tạo dựng vô cùng phong phú với một trật tự hết sức hài hòa giữa các loài thụ tạo. Thiên Chúa tạo dựng có nghĩa là Người thiết lập một trật tự. Việc phân chia công trình tạo dựng thành sáu ngày nói lên một lịch trình, diễn tả một trật tự. Tất cả thụ tạo không ở trên cùng một bình diện, nhưng được phân chia theo cấp bậc, từ vật chất vô tri đến các loài thực vật, động vật và trên hết là con người. Tất cả đều xuất hiện đúng thời điểm của mình: các thụ tạo hoàn hảo hơn xuất hiện sau các thụ tạo thấp kém và con người xuất hiện sau cùng.

“Thiên Chúa một cách nào đó đã tự giới hạn chính Người khi tạo dựng nên một thế giới có nhu cầu phát triển, trong đó có nhiều thứ chúng ta xem là sự dữ, mối nguy hay nguồn đau khổ, trong thực tế lại có ý nghĩa như những nỗi đau khi sinh nở mà Chúa sử dụng để cuốn hút chúng ta vào trong hành động hợp tác với Đấng Tạo Hóa. Thiên Chúa hiện diện thiết thân với từng hữu thể, nhưng không tác động đến quyền tự chủ của thụ tạo, và điều này đưa đến sự tự trị chính đáng của các thực tại trần thế. Sự hiện diện thánh thiêng của Người đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của mỗi hữu thể được ‘tiếp tục công cuộc tạo dựng’.[13] Thần Khí Thiên Chúa bao phủ vũ trụ với các khả năng, do đó, từ cung lòng của mọi sự, một điều gì đó mới mẻ luôn luôn có thể nảy sinh: ‘Thiên nhiên không khác gì một loại hình nghệ thuật nhất định, có tên là nghệ thuật của Thiên Chúa, được ghi dấu ấn trên tất cả mọi sự, trong đó mọi sự được chuyển động đến một đích điểm xác định. Cũng như một người thợ đóng tàu có thể chọn đủ các loại gỗ để sắp xếp hình thành một chiếc tàu’.[14] ” (LS 80).

Đó không phải chỉ là một trật tự “tĩnh”, theo nghĩa mỗi vật đều có vị trí của mình, nhưng là một tương quan đa dạng, năng động và hỗ tương. Mặt trời và mặt trăng được tạo dựng không phải chỉ để soi sáng, mà còn để ấn định thời gian, phân chia năm tháng ngày giờ, khiến cho thời tiết xoay vần tạo nên tứ thời bát tiết tiếp nối và ảnh hưởng lẫn nhau. Các sinh vật, từ thảo mộc đến thú vật, mỗi loài sinh sôi nảy nở theo qui luật truyền sinh riêng của mình. Tuy nhiên “các thụ tạo tồn tại trong sự lệ thuộc vào nhau, để hoàn thiện lẫn nhau, phục vụ lẫn nhau”.[15]

“Toàn thể vũ trụ, trong tất cả các mối tương quan đa dạng của nó, cho thấy sự giàu có không bao giờ vơi cạn của Thiên Chúa. Thánh Tôma Aquinô nhấn mạnh cách khôn ngoan rằng sự đa dạng và khác nhau ‘xuất phát từ ý định của tác nhân đầu tiên’, Đấng muốn rằng ‘điều gì nơi một thụ tạo còn thiếu để bày tỏ sự thánh thiêng thì sẽ được bổ sung bởi một thụ tạo khác’,[16] như vậy, sự thiện hảo của Thiên Chúa ‘không thể có bất kỳ một thụ tạo nào đại diện bày tỏ hết được’.[17] Từ đó chúng ta cần phải nắm bắt sự khác nhau của mọi sự trong các mối tương quan đa dạng của chúng” (LS 86).

Trật tự và tương quan hài hòa này không những đã được Thiên Chúa thiết lập giữa các cá thể, các chủng loại, mà còn ở trên bình diện rộng lớn và cao hơn. Đó là mối tương quan giữa các thụ tạo với Thiên Chúa, giữa các loài vật với loài người, giữa loài người với nhau và với Thiên Chúa.

4. Vị trí và vai trò của con người

Thuật trình sáng tạo trình bày công trình tạo dựng con người với một cách thức khác biệt so với việc tạo dựng các thụ tạo khác. Thiên Chúa tạo ra con người đầu tiên bằng cách lấy đất nặn thành một hình người rồi thổi sinh khí vào lỗ mũi, đó là một hình ảnh có rất nhiều ý nghĩa. Đất là biểu tượng của yếu tố vật chất mà Thiên Chúa lấy từ các vật đã được tạo dựng trước. Như vậy nơi con người có một sự tổng hợp các yếu tố vật chất, và điều đặc biệt khác với các loài vật là Thiên Chúa đã nắn khối vật chất ấy thành hình người, với dáng dấp một con người theo thiết kế của Chúa. Sau đó Chúa ban linh hồn cho khối vật chất ấy và lập tức nó biến thành một con người có thể xác và tinh thần, một thụ tạo được tạo thành giống hình ảnh Thiên Chúa.

Với thể xác, con người có tương quan mật thiết với thế giới vật chất, nhưng với linh hồn, con người không còn là một sự vật hay con vật, nhưng là một chủ thể tinh thần có khả năng đối thoại với người khác và với Thiên Chúa, điều đó tạo nên căn tính của con người: “Mỗi người chúng ta có căn tính riêng và có khả năng đi vào việc đối thoại với người khác và với chính Thiên Chúa. Khả năng tư duy, lý luận, sáng kiến, giải thích thực tại và sáng tạo nghệ thuật, cùng với những khả năng chưa khám phá ra, là những dấu chỉ của một sự độc nhất trổi vượt phạm trù vật lý và sinh học” (LS 81).

Như vậy, con người đứng ở vị trí gạch nối giữa thế giới vật chất và thế giới tinh thần, giữa vũ trụ thiên nhiên và Thiên Chúa. Điều này được thể hiện qua dáng đứng của con người, chân đứng trên đất nhưng đầu hướng thẳng lên trời. Đó là tư thế độc đáo mà chỉ con người mới có.

Từ vị trí đặc biệt đó con người cũng được Thiên Chúa giao cho một trách nhiệm đặc biệt đối với vũ trụ tạo thành. Vì được tạo thành giống hình ảnh Thiên Chúa, nên con người được giao cho quyền làm chủ toàn thể công trình tạo dựng. “Thiên Chúa phán: ‘Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất” (St 1,26).

Theo đoạn Thánh Kinh trên, Thiên Chúa tạo ra con người giống hình ảnh Người với mục đích là để con người làm chủ những gì Người đã tạo thành, cũng giống như cha mẹ sinh con là để có người kế thừa vừa làm chủ vừa làm việc để phát triển gia nghiệp mình để lại. Trong bài báo tựa đề “L’éthique écologique de la Bible”, Jean-Paul Maréchal đã viết: “Thế giới đã được Thiên Chúa tạo thành và được giao phó cho con người để họ hoàn thành nó”.[18] Cũng một tư tưởng ấy, Jean Halpérin đã viết: “Lao động tự nó không phải là sự chúc dữ. Nó là một hệ quả tất nhiên của sự bất toàn của thế giới và sự cần thiết phải làm chủ và hoàn thiện nó mỗi ngày một hơn. Chính vì thế giới không được tạo thành trong sự hoàn hảo một lần dứt khoát, nên việc lao động của con người là một dữ kiện nền tảng. Và chính vì khả năng sai lầm và sự tự do của con người, là điều rõ ràng ngay từ những trang đầu tiên của sách Sáng Thế, mà yêu cầu trách nhiệm trở nên thật khẩn thiết”.[19]

Con người làm chủ vũ trụ, nhưng con người vẫn là một thành phần của vũ trụ. Trong chương trình sáng tạo của Thiên Chúa, mọi loài thụ tạo đều lệ thuộc nhau và tất cả đều lệ thuộc Thiên Chúa. “Đây là nền tảng cho xác tín của chúng ta, như một phần của vũ trụ, được Chúa Cha mời gọi đi vào trong hiện hữu, tất cả chúng ta được liên kết bởi những mối dây liên kết vô hình và cùng nhau tạo nên một gia đình đại đồng, một sự hiệp thông cao cả thúc đẩy trong chúng ta sự tôn trọng thánh thiêng, yêu thương và khiêm tốn” (LS 89). Do đó, “cuộc sống con người dựa trên ba mối tương quan căn bản có liên hệ mật thiết với nhau: tương quan với Thiên Chúa, tương quan với tha nhân và tương quan với trái đất” (LS 66).

II. TỘI LỖI CỦA CON NGƯỜI VÀ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI

“Theo Kinh Thánh, ba mối tương quan thiết yếu này đã bị phá vỡ, cả bên ngoài lẫn bên trong chúng ta. Sự tan vỡ này chính là tội lỗi” (LS 66).

1. Ảnh hưởng của nguyên tội đối với môi trường sinh thái

“Sự hoà hợp giữa Đấng Tạo Hóa, nhân loại và tạo thành đã bị đoạn tuyệt do con người muốn chiếm lấy vị trí của Thiên Chúa và khước từ nhìn nhận những giới hạn thụ tạo của mình. Điều này còn bóp méo lệnh truyền ‘làm bá chủ’ toàn thể trái đất (x. St 1,28), lệnh truyền ‘canh tác và gìn giữ trái đất’ (St 2,15). Hậu quả là mối tương quan hoà hợp nguyên thuỷ giữa con người và thiên nhiên trở nên xung đột (x. St 3,17-19)” (LS 66).

Khi phạm tội bất tuân lệnh Chúa, nguyên tổ của nhân loại đã tự ý phá hủy trật tự giữa mình với Thiên Chúa, đó là sự lệ thuộc của thụ tạo đối với Đấng Tạo Hóa. “Do ma quỉ cám dỗ, con người đã muốn trở nên ‘như Thiên Chúa’ (St 3,5) mà không cần Thiên Chúa, vượt qua Thiên Chúa, và không tuân theo Thiên Chúa” (Thánh Maximô).[20] Như thế, nguyên tổ đã muốn phủ nhận thân phận thụ tạo của mình và chiếm lấy vị trí của Thiên Chúa. Do sự lừa dối của ma quỉ, họ đã hiểu sai về mối tương quan giữa mình với Thiên Chúa, khi tạo ra một hình ảnh sai lầm về Người, coi Người như một vị thần ham hố các đặc quyền (x. St 3,5), một đối thủ tranh giành quyền lực với mình nên bắt mình phải phục tùng. Đó là sự rối loạn đầu tiên và căn bản nhất, là nguồn gốc của tất cả những rối loạn khác.

Hậu quả là sau khi phạm tội, nguyên tổ đã đánh mất tương quan hài hòa với Thiên Chúa là sự thánh thiện nguyên thủy (x. Rm 3,23). Họ đâm ra sợ hãi Thiên Chúa và phải trốn tránh Người (x. St 3,8). Hình ảnh Thiên Chúa nơi họ cũng bị tội lỗi làm tổn thương và bắt đầu có sự rối loạn nơi chính bản thân mình: khả năng làm chủ chính mình trở nên yếu ớt (x. St 3,7). Từ đó con người đánh mất sự hài hòa trong tương quan với môi trường chung quanh bao gồm tương quan giữa người với người và với vũ trụ thiên nhiên: mối quan hệ giữa người nam và người nữ trở nên căng thẳng (x. St 3,11-13), bị đánh dấu bằng ham muốn và thống trị (x. St 3,16). Sự hài hòa giữa con người với công trình tạo dựng bị phá vỡ: thế giới hữu hình trở nên xa lạ và thù nghịch với con người (x. St 3,17.19). Do tội của con người mà muôn loài phải lệ thuộc vào cảnh hư nát (x. Rm 8,20).[21]

Sau khi tạo dựng con người, Thiên Chúa nói: “Đây Ta ban cho các ngươi mọi thứ cỏ mang hạt giống trên khắp mặt đất và mọi thứ cây có trái mang hạt giống, để làm lương thực cho các ngươi” (St 1,29). Với những lời này, Thánh Kinh cho thấy một thế giới an bình, không bạo lực, trong đó các thú vật gần gũi với con người vì không sợ bị con người ăn thịt. Tuy nhiên sau khi con người phạm tội, Thiên Chúa đành phải nhượng bộ và cho con người được ăn thịt các thú vật và chúng khiếp sợ con người (x. St 9,2-3). Vì tội lỗi của con người, cảnh an bình hòa hợp giữa mọi loài thụ tạo không còn nữa.

2. Vấn đề phá hủy môi trường sinh thái trong thời hiện đại

Trong chương I với tiêu đề: “Điều đang xảy ra cho ngôi nhà chung của chúng ta”, Đức Phanxicô đã liệt kê một số thực trạng liên quan đến việc hủy hoại môi trường sinh thái hiện nay như: ô nhiễm và biến đổi khí hậu (các số 20-26), sự cạn kiệt nguồn nước (các số 27-31), đánh mất sự đa dạng sinh học (các số 32-42), suy giảm phẩm chất đời sống con người và suy thoái xã hội (các số 43-47), sự bất bình đẳng toàn cầu (các số 48-52). Từ những thực trạng ấy, trong chương II, việc phá hủy môi trường sinh thái hiện nay được nêu lên như một vấn đề quan trọng liên quan đến trách nhiệm của con người. Vấn đề này cần phải được tìm hiểu dưới ánh sáng của Thánh Kinh.

Có ý kiến cho rằng, theo Thánh Kinh, đâu phải đợi đến sau khi con người phạm tội mới có việc phá hủy môi sinh, bởi vì điều đó dường như Thiên Chúa đã ban phép cho con người ngay khi họ mới được tạo thành. Nếu như thế, thì việc phá hủy môi trường sinh thái phải được qui trách cho Thiên Chúa chứ đâu phải cho con người! Hoặc con người có thể đổ trách nhiệm cho truyền thống Do-thái – Kitô giáo, hay cụ thể hơn, cho các Kitô hữu. Có đúng như vậy không?

Cũng trong bài báo tựa đề “L’éthique écologique de la Bible”, Jean-Paul Maréchal đã viết: “Đối với nhiều nhà sinh thái học và đặc biệt đối với những người dựa vào khoa sinh thái học chiều sâu (écologie profonde),[22] nguyên nhân căn bản dẫn đến việc phá hủy hành tinh có lẽ bắt nguồn từ truyền thống Do thái – Kitô giáo, qua cuộc cách mạng khoa học, của thời hiện đại công nghệ kỹ thuật mang tính rất cướp bóc đối với môi trường thiên nhiên. Đặc biệt, Kitô giáo lại thấy mình đang đứng tại hàng ghế các bị cáo và, theo lối chú giải dài dòng câu hỏi của Thiên Chúa đối với Cain, Kitô giáo nhiều lần bị hỏi: “Ngươi đã làm gì đối với người anh em của ngươi là vũ trụ?”[23]

Vào khoản thập niên 60 của thế kỷ XX, một nhà nghiên cứu người Mỹ về thời Trung Cổ tên là Lynn White đã viết rằng chính Thiên Chúa muốn con người khai thác thiên nhiên cho mục đích riêng của mình và khi phá hủy tín ngưỡng vật linh của người ngoại giáo, Kitô giáo đã tạo điều kiện cho việc khai thác thiên nhiên bất kể những tâm tình đối với các vật tự nhiên.[24] Lập luận trên phát xuất từ cách giải thích Thánh Kinh sai lạc, như lời Đức Phanxicô trong Thông điệp Laudato Si’:

“Chúng ta không phải là Thiên Chúa. Trái đất đã có trước chúng ta và đã được ban tặng cho chúng ta. Điều này giúp chúng ta đáp trả vấn nạn mà theo tư tưởng Do thái – Kitô giáo, trên nền tảng của trình thuật Sáng Thế về việc con người ‘thống trị’ trên toàn trái đất (x. St 1,28), đã cổ võ một sự khai thác thiên nhiên không kiềm chế qua việc vẽ nên hình ảnh con người bị thiên nhiên thống trị và hủy diệt. Cách giải thích Kinh Thánh như thế không đúng với cách hiểu của Hội Thánh. Cho dù đôi khi các Kitô hữu giải thích Kinh Thánh không đúng, nhưng ngày nay chúng ta phải mạnh mẽ phủ nhận quan niệm này: hữu thể của chúng ta được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa và được trao quyền thống trị trên toàn cõi đất, và từ mệnh lệnh này, người ta có thể biện minh cho một sự thống trị tuyệt đối trên các loài thụ tạo khác. Các bản văn Kinh Thánh phải được đọc trong ngữ cảnh của nó, với một sự tường giải thích hợp, nhận biết rằng các bản văn này nói với chúng ta hãy ‘canh tác và gìn giữ’ khu vườn của thế giới (x. St 2,15)” (LS 67).

Như vậy, vấn đề phát xuất từ bối cảnh và ý nghĩa của quyền làm chủ vũ trụ mà Đấng Tạo Hóa đã ban cho con người. Bối cảnh biên soạn thuật trình Sáng tạo là dân Israel đang sống giữa dân ngoại và thường xuyên bị cám dỗ bỏ việc tôn thờ Thiên Chúa để theo đa thần giáo và phiếm thần của dân ngoại. Qua thuật trình Sáng tạo, mọi vật mọi loài đều là những thụ tạo của Thiên Chúa; mặt trời, mặt trăng, các tinh tú, dã thú, sức mạnh thiên nhiên… không phải là những thần thánh. Con người đỉnh cao của toàn thể công trình tạo dựng vì được Thiên Chúa tạo dựng giống hình ảnh Người và được Người trao quyền bá chủ trên toàn thể vũ trụ.

Vũ trụ có thể được coi như là một cuốn sách chứa đựng “mạc khải tự nhiên” của Thiên Chúa, bởi vì thiên nhiên mang dấu ấn của Đấng Tạo Hóa như lời thánh Phaolô ở đầu thư Rôma (x. Rm 1,19-20). Mạc khải tự nhiên này của Thiên Chúa nơi vạn vật chỉ là một phần, nhưng con người được tạo nên giống hình ảnh Thiên Chúa vẫn có thể nhận ra trong vũ trụ thiên nhiên dấu ấn của thiên tính. Do đó, thánh Phaolô nói rằng các dân ngoại vẫn có tội khi họ không tôn thờ Đấng Tạo Hóa mà đi tôn thờ tạo vật. Thay vì làm chủ trên cá biển, chim trời và muôn thú, con người lại thờ phượng các thụ tạo và coi chúng là thần thánh (x. Rm 1,21-23).

Ngoài bối cảnh biên soạn của thuật trình Sáng tạo, giờ đây đến lượt ý nghĩa thực sự của việc con người làm bá chủ trên vũ trụ thiên nhiên (x. St 1,26.28) là điều quan trọng.

Một số tôn giáo và hệ thống triết học dạy con người đừng can thiệp vào thiên nhiên, điều này được gợi hứng từ một chủ nghĩa duy tâm thần bí hay định mệnh thuyết, mà chúng ta có thể nhận thấy một số ảnh hưởng xấu trên các dân tộc trong suốt một thời gian dài, như bệnh tật, thiếu dinh dưỡng và sinh sản không hạn chế. Ngược lại, theo sách Sáng Thế, con người được Thiên Chúa trao quyền làm bá chủ vũ trụ thiên nhiên. Thực ra, chỉ Thiên Chúa mới là chủ tể duy nhất và đích thực, bởi vì chính Người đã tạo dựng vũ trụ, đã xếp đặt vũ trụ trong trật tự hài hòa, đã ban cho vũ trụ những qui luật để vận hành và phát triển, vì “Người ra lệnh, là hết thảy được tạo thành; Người định nơi cho tất cả đến muôn đời muôn thuở, ban truyền lề luật, luật đó chẳng hề qua” (Tv 148,5b-6). Con người được tham dự vào quyền chủ tể của Thiên Chúa bằng việc tôn trọng và phát huy trật tự hài hòa trong thiên nhiên, tôn trọng các qui luật mà Thiên Chúa đã xếp đặt trong vũ trụ. “Do đặc ân có phẩm giá độc nhất và món quà của trí thông minh, chúng ta được mời gọi tôn trọng tạo thành và các quy luật của nó, bởi ‘Ðức Chúa dùng khôn ngoan đặt nền cho trái đất’ (Cn 3,19)” (LS 69).

Theo Catherine Chalier, việc Thiên Chúa ban cho con người quyền bá chủ trên vũ trụ thiên nhiên không có nghĩa là con người được quyền “bắt trái đất phải chịu sức đẩy cuồng nhiệt từ các khát vọng của họ, tự ý biến đổi nó theo lòng tham vô độ đối với quyền lực và lợi ích, đồng thời con người cũng không được phép tàn xử thú vật theo ý muốn. Bởi lẽ việc bắt trái đất phục tùng và điều khiển thú vật chắc chắn đặt con người vào một vị trí đặc biệt đối với phần còn lại của các thụ tạo, nhưng một vị trí đặc biệt như thế phải được hiểu như một trách nhiệm vô biên đối với vũ trụ thụ tạo, chứ không được phép có những cách hành xử đầy khát vọng quyền lực sẽ sớm dẫn đến bạo quyền”.[25]

Theo sách Sáng Thế, con người được ban quyền làm chủ vũ trụ trong sự hiệp thông với Thiên Chúa, tức là với tình yêu, sự khôn ngoan và phân định mà Thiên Chúa soi sáng cho họ. Đây không phải là việc con người hành xử cách độc đoán trên các thụ tạo, nhưng đúng hơn là chăm sóc cho lợi ích của mọi thụ tạo và cho vinh quang của Thiên Chúa. Việc làm chủ vũ trụ thiên nhiên này cũng giống như việc con người làm chủ bản thân, để thực hiện trật tự hài hòa giữa các khả năng tinh thần và các bản năng thể lý. Rồi từ việc làm chủ bản thân, con người sẽ có thể làm chủ gia đình, làm chủ một quốc gia và làm chủ cả thế giới, theo phương châm của Nho giáo: “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”.

Như thế, việc làm chủ của con người đối với vũ trụ vừa là một quyền, vừa là một trách nhiệm. Con người có quyền sử dụng và xếp đặt các thụ tạo để chúng phục vụ sự sống và sự phát triển của mình: “Mỗi cộng đồng có thể lấy từ sự rộng lượng của trái đất bất cứ điều gì cần thiết cho sự tồn tại của mình, nhưng cộng đồng ấy cũng có nghĩa vụ bảo vệ trái đất và đảm bảo sự dồi dào phong phú của trái đất cho các thế hệ kế tiếp” (LS 67). Tuy nhiên con người cũng có trách nhiệm phải tôn trọng mọi loài thụ tạo, bởi vì chúng phản ánh sự khôn ngoan của Thiên Chúa, mỗi loài theo cách thức của mình, đồng thời cũng “phải tôn trọng các quy luật của tự nhiên và thế quân bình mỏng manh tồn tại giữa các loài thụ tạo của thế giới này” (LS 68).

Hơn nữa, ý nghĩa việc con người được đặt làm chủ vũ trụ thiên nhiên ở sách Sáng Thế 1,26 trở nên sáng tỏ hơn trong St 2,15: “Đức Chúa là Thiên Chúa đem con người đặt vào vườn Êđen, để cày cấy và canh giữ đất đai”. Con người được giao nhiệm vụ “canh giữ”, tức là gìn giữ, bảo vệ thiên nhiên, và “cày cấy” tức là làm cho thiên nhiên phát triển. “Điều này hàm chứa một mối tương quan có trách nhiệm hỗ tương giữa con người và thiên nhiên” (LS 67). Vũ trụ thụ tạo được Chúa dựng nên thì tốt đẹp và trật tự hài hòa, nhưng đó mới chỉ là bước đầu trên con đường phát triển và hoàn thiện qua thời gian. Chính con người nhận trách nhiệm từ Thiên Chúa để làm cho vũ trụ ngày càng hoàn thiện, tốt đẹp và phong phú hơn. Qua hoạt động của mình, con người đã in dấu trên vũ trụ thiên nhiên và làm cho vũ trụ được nhân hóa và tinh thần hóa.

Ngoài ra, trong tiếng Hipri, các động từ “canh tác” (‘avad) và “gìn giữ” (Samar) cũng có ý nghĩa tôn giáo: người ta giữ các điều răn của Chúa; các tư tế phải gìn giữ thánh điện và nhất là phải giữ nơi thánh khỏi mọi ô uế. Động từ canh tác, làm việc, có thể có nghĩa là phục vụ Thiên Chúa, chỉ hoạt động của các thầy Lêvi trong nhà tạm hay trong đền thờ. Luật nghỉ ngày thứ bảy buộc con người không được làm việc trong ngày ấy là dấu chỉ nói lên sự lệ thuộc của con người đối với Thiên Chúa. Điều này nhắc nhở họ rằng họ là những thụ tạo giới hạn trong không gian và thời gian và họ phải tôn trọng những giới hạn của họ cũng như những giới hạn của các loài thụ tạo. Hơn nữa “việc nghỉ ngơi vào ngày thứ bảy không chỉ có ý dành cho con người, mà còn ‘để bò lừa của ngươi được nghỉ ngơi’ (Xh 23,12). Rõ ràng, Kinh Thánh không có chỗ cho chủ nghĩa nhân chủng tàn bạo không quan tâm gì đến các loài thụ sinh khác” (LS 68). Ngay cả đất đai cũng phải được hưởng ngày hưu lễ, được nghỉ ngơi để trở nên phong phú hơn.

Nhờ được tạo nên giống hình ảnh Đấng Tạo Hóa và được ban quyền làm chủ, canh tác, gìn giữ vũ trụ thiên nhiên, mà con người qua các thời đại đã phát triển khoa học và kỹ thuật, làm cho vũ trụ được phát triển và hoàn thiện, đồng thời góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống con người. Tuy nhiên hậu quả của nguyên tội và tội lỗi của các thế hệ nhân loại đã làm cho con người vượt quá giới hạn của mình, giành quyền chủ tể của Thiên Chúa, cộng với tính tham lam của cải vật chất, từ đó họ đã làm đảo lộn phần nào trật tự vũ trụ, khiến cho kho tàng trái đất ngày càng trở nên kiệt quệ, của cải không được phân phối đồng đều cho mọi người theo như ý định của Thiên Chúa, khiến cho sự phân hóa giàu nghèo ngày càng trở nên gay gắt, từ đó dẫn đến chiến tranh, chết chóc và bệnh tật ngày càng gia tăng.

Tóm lại, con người ngày nay với một nhãn quan máy móc chỉ chấp nhận một thế giới không có Thiên Chúa, trong đó họ chỉ thấy một chuỗi nguyên nhân và hậu quả mà họ muốn nắm bắt để dễ dàng thống trị nó. Tuy nhiên, khi muốn thống trị vũ trụ để hưởng thụ hết sức có thể và ngay lập tức, họ đã làm cho vũ trụ thiên nhiên trở nên nghèo nàn đến độ báo động, bị ô nhiễm và biến dạng, mà chính họ không có khả năng làm chủ được những thay đổi đó, phần nào giống như tay phù thủy mới học việc! Từ việc chối bỏ Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa và Chủ Tể của toàn thể vũ trụ, con người đã khai thác thiên nhiên một cách vô trách nhiệm, để rồi khi bị phê phán thì họ lại qui trách cho truyền thống Thánh Kinh Do-thái – Kitô giáo!

III. CHƯƠNG TRÌNH PHỤC HỒI VẠN VẬT

Đứng trước sự tàn phá vũ trụ thiên nhiên do tội lỗi của con người gây ra qua các thế hệ, Thiên Chúa vẫn không bỏ mặc vũ trụ cho cảnh hư nát, một vũ trụ mà Người thấy là tốt đẹp và trật tự hài hòa như một tác phẩm nghệ thuật. Vì vậy, Người đã có kế hoạch phục hồi vạn vật trong chương trình cứu độ của Đức Kitô khi thời gian đến hồi viên mãn. Chương trình cứu độ của Đức Kitô không chỉ nhắm đến con người, mà còn nhắm đến toàn thể vũ trụ bị tội lỗi con người làm cho hư hỏng. Chương trình này đã được chuẩn bị từ trong thời Cựu Ước.

1. Được chuẩn bị và báo trước trong Cựu Ước

“Mặc dù ‘sự gian ác của con người quả là nhiều trên mặt đất’ (St 6,5) và Thiên Chúa ‘hối hận vì đã làm ra con người trên mặt đất’ (St 6,6), tuy nhiên, qua ông Nôe, một người vô tội và ngay chính, Thiên Chúa quyết định mở ra một con đường cứu độ. Bằng cách này Người đã ban cho nhân loại cơ hội một khởi đầu mới. Điều cần là một người tốt lành để khôi phục niềm hy vọng! Truyền thống Kinh Thánh cho thấy sự đổi mới này đi kèm với việc khôi phục và tôn trọng các nhịp điệu đã được bàn tay của Đấng Tạo Hóa khắc ghi trong thiên nhiên” (LS 71).

Thiên Chúa phán: “Ta sẽ không bao giờ nguyền rủa đất đai vì con người nữa… Bao lâu đất này còn, thì mùa gieo mùa gặt, trời lạnh và trời nóng, tiết hạ và tiết đông, ban ngày và ban đêm sẽ không ngừng đắp đổi” (St 8,21-22). Thiên Chúa không thể để cho những sai lầm của con người đưa vũ trụ trở về tình trạng hỗn mang. Để cho nhịp điệu sinh hoạt của con người và vũ trụ được điều hòa, Người đã truyền cho dân Israel phải bắt chước Người: một tuần làm việc trong sáu ngày, nhưng đến ngày thứ bảy thì nghỉ ngơi. Ngày đó gọi là ngày sabat, tức ngày hưu lễ (x.St 2,2-3; Xh 16,23; 20,10). Việc nghỉ ngơi không chỉ áp dụng cho con người mà còn cho các gia súc và đất đai, để phục hồi sinh lực. Rồi cứ mỗi bảy năm thì có năm sabat (x. Lv 25,1-7), và sau bảy tuần năm thì có Năm thánh (x. Lv 25,8-17), để cho con người, gia súc và đất đai được nghỉ ngơi hoàn toàn. “Luật này xuất hiện như một nỗ lực để đảm bảo sự quân bình và công bằng trong các mối tương quan của họ với người khác và với đất đai, nơi họ sống và làm việc. Đồng thời, đó cũng là ý thức về quà tặng của trái đất với các hoa trái của nó thuộc về mọi người. Những ai canh tác và gìn giữ đất đai buộc phải chia sẻ hoa trái, đặc biệt là với người nghèo, với các bà goá, các cô nhi và ngoại kiều ở ngay giữa họ” (LS 71).

Vì tội lỗi của con người gắn liền với sự đổ vỡ, mất trật tự hay biến chất trong môi trường thiên nhiên, nên khi loan báo về Đấng Cứu Thế và ơn cứu độ của Người trong tương lai, các ngôn sứ thời Cựu Ước thường dùng những hình ảnh của “một vườn địa đàng bị mất”, nhưng không phải để tiếc nuối về một quá khứ đã qua, mà để gợi lên nơi dân Chúa một niềm hy vọng hướng đến một tương lai còn tốt đẹp hơn nhiều. Niềm hy vọng đó được đặt vào Đấng Cứu Thế, tác giả của thế giới mới, cũng là Đấng Tạo Hóa thuở ban đầu. Đó là một Thiên Chúa toàn năng có khả năng tạo nên một sự đổi mới toàn diện. “Các bản văn của các ngôn sứ mời gọi chúng ta hãy tìm kiếm sức mạnh đổi mới trong những lúc thử thách bằng việc chiêm ngắm Thiên Chúa toàn năng, Đấng dựng nên vũ hoàn” (LS 73). “Thiên Chúa, Đấng tạo nên vũ trụ từ hư không cũng có thể can thiệp vào trong thế giới này và vượt thắng mọi hình thức sự dữ. Bất công không phải là bất khả chiến bại” (LS 74).

Vì vậy, để báo trước về thời kỳ Đấng Cứu Thế sẽ hoàn tất chương trình cứu độ loài người và phục hồi vạn vật, ngôn sứ Isaia đã mượn những hình ảnh của vườn địa đàng: “Từ gốc Giêsê sẽ đâm ra một nhánh nhỏ, từ cội rễ ấy sẽ mọc lên một mầm non… Bấy giờ sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ. Bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau, một cậu bé sẽ chăn dắt chúng. Bò cái kết thân cùng gấu cái, con của chúng nằm chung một chỗ, sư tử cũng ăn rơm như bò. Bé thơ còn đang bú giỡn chơi bên hang rắn lục, trẻ thơ vừa cai sữa thọc tay vào ổ rắn hổ mang. Sẽ không còn ai tác hại và tàn phá trên khắp núi thánh của Ta, vì sự hiểu biết Đức Chúa sẽ tràn ngập đất này, cũng như nước lấp đầy lòng biển” (Is 11,1.6-9).

2. Được thực hiện nơi Đức Kitô

Viễn tượng “tìm lại địa đàng đã mất” mà ngôn sứ Isaia tiên báo trên đây đã được thực hiện nơi Đức Kitô. “Định mệnh sau cùng của vũ trụ là ở trong sự viên mãn của Thiên Chúa, đã được Đức Kitô phục sinh đạt tới, Người là thước đo cho sự trưởng thành của tất cả mọi sự” (LS 83).

Trước hết, qua mầu nhiệm Nhập thể, Ngôi Lời đã từ trời bước vào thế giới và mang lấy một thân xác được cấu tạo từ những chất liệu của vũ trụ, và trở thành một thành phần của vũ trụ. Người chính là Ngôi Lời đã tạo dựng thế giới, giờ đây Người trở thành xác phàm giữa lòng thế giới. “Theo sự hiểu biết Kitô giáo về thế giới, định mệnh của tất cả mọi loài thụ tạo được tháp nhập với mầu nhiệm Đức Kitô, ngay từ thuở ban đầu: ‘vì trong Người, muôn vật được tạo thành’ (Cl 1,16).[26] Phần lời tựa của Tin Mừng Gioan (Ga 1,1-18) mạc khải công việc sáng tạo của Đức Kitô như là Ngôi Lời (Logos). Nhưng sau đó, lời tựa ấy bất ngờ nói cùng Lời ấy ‘đã trở thành xác phàm’ (Ga 1,14). Một Ngôi trong Ba Ngôi đi vào trong vũ trụ được tạo dựng, nhưng đặc biệt là ngang qua việc nhập thể, mầu nhiệm Đức Kitô đang hoạt động theo một cách kín ẩn trong toàn thể thế giới tự nhiên, mà không tác động đến tính tự chủ của nó” (LS 99).

Tiếp đến, cuộc sống tại thế của Người hòa hợp trọn vẹn với công trình sáng tạo. Người tiếp xúc hằng ngày với vật chất mà Thiên Chúa đã tạo thành để làm ra sản phẩm cung cấp cho những nhu cầu hằng ngày của cuộc sống của mình và những người xung quanh. Khi đi rao giảng Tin Mừng, Người thường xuyên hiện diện tại những khung cảnh thiên nhiên: bên bờ hồ, trên đồi núi, trên cánh đồng, trong hoang địa, tiếp xúc với những người đơn sơ chất phác. Người đưa vào các bài giảng của Người những hình ảnh chim trời, cá biển, hoa cỏ đồng nội, những nhân vật đời thường. Người dạy mọi người khám phá ý nghĩa và vẻ đẹp của những loài thụ tạo và sự chăm sóc đặc biệt của Thiên Chúa Cha đối với mọi loài, cho dù bé nhỏ như chim sẻ trên sân hay khóm hoa dại trên cánh đồng.

“Kinh Thánh Tân Ước không chỉ nói cho chúng ta về Chúa Giêsu trần thế, mối tương quan cụ thể và yêu thương của Người với thế giới. Kinh Thánh còn cho thấy Người đã sống lại và vinh hiển, Người hiện diện trong mọi thụ tạo với quyền Chủ Tể vũ hoàn: ‘Vì Thiên Chúa đã muốn làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện ở nơi Người, cũng như muốn nhờ Người mà làm cho muôn vật được hoà giải với mình. Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá’ (Cl 1,19-20). Điều này hướng tầm nhìn của chúng ta đến tận cùng của thời gian, khi Người Con sẽ trao hết mọi sự cho Chúa Cha, để ‘Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài’ (1Cr 15,28). Các loài thụ tạo của thế giới này không còn xuất hiện trước mắt chúng ta dưới dáng vẻ thuần tuý tự nhiên nữa, vì Đấng phục sinh sẽ bao phủ chúng cách nhiệm mầu và hướng chúng đến sự viên mãn tận cùng. Những bông hoa ngoài đồng và những cánh chim trời mà Người đã chiêm ngắm giờ đây được mặc lấy sự hiện diện đầy vẻ uy linh của Người” (LS 100).

Cuộc đời tại thế của Chúa Giêsu mở đầu với mầu nhiệm Nhập Thể và kết thúc với mầu nhiệm Thăng Thiên. Trong mầu nhiệm Nhập Thể, Ngôi Hai Thiên Chúa đã mang lấy xác phàm của con người được cấu tạo bằng những yếu tố của vũ trụ thiên nhiên. Trong mầu nhiệm Thăng Thiên, Ngôi Hai Thiên Chúa trở về trời cùng với thân xác ấy nhưng đã được biến đổi qua mầu nhiệm Phục sinh, và như thế những yếu tố của vũ trụ thiên nhiên mà Người đã đảm nhận trong chính bản thân Người đã được đưa vào thế giới thần linh cùng với thần tính của Người, mở đầu cho cuộc phục hưng và canh tân vạn vật sẽ được thực hiện trong sự kết hợp với Người.
Dưới một góc nhìn tương tự, Thánh Kinh bắt đầu bằng sách Sáng Thế và kết thúc bằng sách Khải Huyền. Cả hai đều liên quan đến vũ trụ tạo thành và Đức Kitô. Thật vậy, nếu trong phần đầu của sách Sáng Thế, toàn thể vũ trụ đã được tạo thành trong Đức Kitô, thì trong phần cuối của sách Khải Huyền, toàn thể vũ trụ cũng được tái tạo trong Đức Kitô, Người phán: “Này đây Ta đổi mới mọi sự… Ta là Alpha và Omega, là Khởi Nguyên và Tận Cùng” (Kh 21,5.6).

3. Với sự cộng tác của con người

Trong khi chờ đợi ngày Đức Kitô hoàn tất công trình phục hồi, canh tân vạn vật và làm cho chúng đạt đến sự viên mãn cuối cùng của “trời mới đất mới” để trao hết mọi sự cho Chúa Cha, thì con người được mời gọi tích cực cộng tác vào công trình ấy. “Đối với vũ trụ, mạc khải khẳng định rằng nhân loại và vũ trụ vật chất có chung một vận mệnh sâu xa: ‘Muôn loài thụ tạo những ngong ngóng đợi chờ ngày Thiên Chúa mạc khải vinh quang của con cái Người… Vẫn còn niềm trông cậy là có ngày cũng sẽ được giải thoát, không phải lệ thuộc vào cảnh hư nát… Thật vậy, chúng ta biết rằng: cho đến bây giờ, muôn loài thụ tạo cùng rên siết và quằn quại như sắp sinh nở. Không phải muôn loài mà thôi, cả chúng ta cũng rên siết trong lòng… khi trông đợi sự cứu chuộc thân xác chúng ta’ (Rm 8,19-23)”.[27]

Vì vậy Đức Phanxicô đã viết: “Con người được phú ban sự thông minh và tình yêu, được cuốn hút bởi sự viên mãn của Đức Kitô, được mời gọi để dẫn dắt mọi loài thụ tạo trở về với Đấng Tạo Hóa của chúng” (LS 83). Tuy nhiên, hơn ai hết, chính các Kitô hữu là những người đã được Đức Kitô trao cho sứ mạng ấy. Thật vậy, trước khi về trời, Đức Kitô đã nói với các tông đồ: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo” (Mc 16,15). Loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo là gì nếu không phải là làm cho sự cứu độ mà Đức Kitô đã thực hiện được thể hiện không những nơi con người, mà còn nơi toàn thể vũ trụ. Bởi lẽ nếu vì tội lỗi của con người và muôn loài bị hư hoại, thì khi con người được cứu độ, toàn thể vũ trụ cũng được cứu độ.

Việc con người cộng tác vào công trình cứu độ của Đức Kitô để phục hồi vạn vật phải được thực hiện dưới ánh sáng Tin Mừng của Đức Kitô, tức là theo giáo huấn và mẫu gương đời sống của Người, như chúng ta đã đề cập trên đây. Cũng chính trong ánh sáng Tin Mừng đó các Kitô hữu đọc lại tường thuật về công trình sáng tạo của sách Sáng Thế, để nhận ra ý nghĩa của toàn bộ công trình tạo dựng cũng như của mỗi loài thụ tạo, tái khám phá vẻ đẹp và trật tự hài hòa mà Thiên Chúa đã thiết lập trong vũ trụ thiên nhiên để trân trọng, giữ gìn và phát triển.

“Việc tái khám phá thiên nhiên có thể không bao giờ thực hiện được nếu không có sự tự do và trách nhiệm của con người, là một thành phần của thế giới, có nghĩa vụ phải vun trồng các khả năng của mình để bảo vệ thiên nhiên và phát triển hết tiềm năng của nó. Nếu chúng ta nhìn nhận giá trị và sự mong manh của thiên nhiên, cùng với những khả năng Thiên Chúa ban tặng cho chúng ta, chúng ta có thể bỏ lại phía sau huyền thoại hiện đại về sự tiến bộ vật chất vô hạn. Một thế giới mong manh, được Thiên Chúa uỷ thác cho sự chăm sóc của con người, đang thách đố chúng ta phát minh ra những cách thế thông minh của việc định hướng, phát triển và giới hạn sức mạnh của chúng ta” (LS 78). Nếu kỹ thuật từ lâu nay bị coi như có vai trò đáng trách trong việc phá hủy môi sinh, thì nay nó có thể trở thành một phương tiện tuyệt vời giúp con người tham dự vào việc cải tạo vũ trụ, nếu nó được áp dụng với tinh thần trách nhiệm.

Tuy nhiên, khi nói đến trách nhiệm của con người đối với vũ trụ thiên nhiên, thông điệp Laudato Si’ cũng đồng thời phủ nhận việc thần thánh hóa các vật thụ tạo, điều mà ngay từ bản tường thuật về việc sáng tạo trong sách Sáng Thế đã mặc nhiên phủ nhận: “Tư tưởng Do-thái – Kitô giáo giảm bớt đi chiều kích thần bí của thiên nhiên. Trong khi vẫn tiếp tục ngưỡng mộ thiên nhiên cao cả và bao la, tư tưởng này không coi thiên nhiên là thần thánh. Làm như vậy, nó nhấn mạnh trên hết tất cả là trách nhiệm của con người đối với thiên nhiên” (LS 78). Con người có nhiệm vụ “dẫn dắt mọi loài thụ tạo trở về với Đấng Tạo Hóa của chúng” (LS 83), chứ không phải để tôn thờ chúng mà quên mất Đấng đã tạo thành chúng.

Việc phục hồi vạn vật phải được gắn liền và lệ thuộc vào ơn cứu độ của con người. Vì vậy việc tôn trọng các thụ tạo phải đi liền với việc tôn trọng con người, vì theo trật tự của vũ trụ thụ tạo, phẩm giá của các loài vật khác không thể cao trọng hơn phẩm giá của con người. Tôn trọng thiên nhiên không đồng nghĩa với việc hạ thấp con người, đến độ nhiều lúc người ta nhiệt thành quá mức trong việc bảo vệ các chủng loại khác hơn là bảo vệ phẩm giá của con người được tạo thành giống hình ảnh Thiên Chúa và bình đẳng với nhau. Không thể tôn trọng sự sống của các sinh vật hoang dã, đồng thời coi thường sinh mạng của con người, như trong những vụ phá thai hay diệt chủng. Không thể đấu tranh chống lại nạn buôn bán các chủng loại đang gặp nguy cơ nhưng lại hoàn toàn thờ ơ với nạn buôn bán người. Cũng không thể đổ một khoản tiền lớn vào việc chăm sóc và bảo vệ thiên nhiên mà đồng thời lại tỏ ra dửng dưng hay bỏ quên những người nghèo khổ bệnh tật. Không thể tìm mọi cách để bảo vệ sự cân bằng sinh thái mà lại tạo ra những mất cân bằng trong các quan hệ xã hội loài người.

Thiên Chúa đã tạo nên vũ trụ cho muôn vật và mọi người hưởng dùng. Vì vậy quyền chung hưởng của cải trần thế là quyền căn bản của mọi người không phân biệt. “Do đó, mọi cách tiếp cận sinh thái cần phải phối hợp với góc độ xã hội, biết suy xét đến các quyền lợi nền tảng của người nghèo và người xấu số” (LS 93). Vì vậy, không ai được quyền độc chiếm tài sản thiên nhiên cho riêng mình mà không chịu chia sẻ cho người khác. Điều này tạo nên một sự mất cân bằng sinh thái quan trọng nhất, bởi lẽ con người không phải là một thụ tạo tách biệt khỏi môi trường sinh thái, nhưng cũng là một phần của môi trường sinh thái. Do đó, “công việc của Hội Thánh không chỉ là tìm cách nhắc nhớ mọi người về nghĩa vụ chăm sóc thiên nhiên, mà ‘Hội Thánh trên hết phải bảo vệ nhân loại khỏi sự tự huỷ diệt’.[28]” (LS 79).

Tóm lại, môi trường sinh thái là một tổng thể bao gồm không những các mối tương quan giữa các loài vật với nhau, mà còn những mối tương quan giữa chúng với con người và giữa con người với nhau. Vì vậy, việc phục hồi vạn vật phải là một công trình phục hồi, phát triển và hoàn thiện các mối tương quan ấy, bởi vì có một mối quan hệ hỗ tương giữa các mối tương quan ấy.

“Khi tâm hồn chúng ta mở ra cách đúng đắn cho sự hiệp thông hoàn vũ, cảm thức về tình huynh đệ này không loại trừ điều gì và bất cứ một ai. Sự thờ ơ hay sự tàn bạo của chúng ta đối với các thụ tạo của thế giới này sớm muộn gì cũng ảnh hưởng đến cách hành xử của chúng ta với những anh em đồng loại khác. Chúng ta chỉ có một trái tim, và cùng một nỗi khốn khổ làm chúng ta đối xử tệ bạc với một động vật không bao lâu sẽ thể hiện trong cách đối xử của chúng ta với người khác. Mọi hành vi tàn bạo hướng đến bất kì một thụ tạo nào đều ‘trái với phẩm giá con người’.[29] Thật khó chấp nhận rằng chúng ta đang yêu thương một cách trọn vẹn nếu chúng ta coi thường bất kì một khía cạnh nào của thực tại: ‘Hoà bình, công lý và sự bảo tồn tạo thành là ba chủ đề tuyệt đối liên hệ với nhau, không thể tách lìa và suy xét cách cá biệt mà không một lần nữa rơi vào chủ nghĩa giản lược’.[30] Mọi sự đều có liên hệ, và chúng ta là những con người hiệp nhất với nhau như anh chị em trên cuộc lữ hành kỳ diệu, đan dệt với nhau bằng tình yêu Thiên Chúa dành cho mỗi thụ tạo và tình yêu ấy cũng hiệp nhất chúng ta trong tình cảm trìu mến với anh mặt trời, chị mặt trăng, anh sông và mẹ đất” (LS 92). Đây cũng là thông điệp mà thánh Phanxicô Assisi gửi đến tất cả mọi người, để mỗi người cùng cộng tác vào chương trình phục hồi vạn vật của Đức Kitô.

KẾT LUẬN

Qua phần trình bày của toàn bộ chương hai trong thông điệp Laudato Si’, Đức Phanxicô đã dựa vào Thánh Kinh để giới thiệu với mọi người, cả Công giáo lẫn không Công giáo, một nhãn quan thần học về môi trường sinh thái, làm sáng tỏ một số điểm ngộ nhận hay quan điểm bất đồng vốn đã khơi mào cho rất nhiều cuộc tranh cãi, thậm chí kết án các Kitô hữu. Những bất đồng này phần lớn phát xuất từ những sự hiểu biết phiến diện hay sai lạc về Thánh Kinh.

Theo Thánh Kinh, toàn thể vũ trụ được tạo thành do Đấng Tạo Hóa toàn năng và tốt lành. Do đó, vũ trụ thiên nhiên là tác phẩm tuyệt vời của Thiên Chúa vì phản ánh sự tốt lành và khôn ngoan của Người. Tột đỉnh của tác phẩm ấy là con người được tạo nên giống hình ảnh Thiên Chúa và được Người cho tham dự vào quyền Chủ tể của Người để cộng tác với Người vào việc hoàn thiện vũ trụ. Đó là một vinh dự lớn lao, đồng thời cũng là một trách nhiệm nặng nề. Tuy nhiên, con người ngày nay quá tự hào về những thành quả khoa học kỹ thuật của mình, nên đã phủ nhận Thiên Chúa và chiếm lấy quyền Chủ tể của Người trên vũ trụ, đến độ tự ý khai thác thiên nhiên bất chấp những quy luật mà Đấng Tạo Hóa đã sắp đặt cho vũ trụ thiên nhiên được vận hành cách hài hòa và phát triển bền vững. Từ đó môi trường sinh thái ngày càng bị tàn phá đến độ báo động. Tuy nhiên, vấn đề sinh thái vẫn cứ lẩn quẩn không tìm ra một giải pháp thỏa đáng, bao lâu con người vẫn còn loay hoay trong sự tự hào về kiến thức khoa học của mình, mà không nhận ra rằng vấn đề sinh thái không chỉ đơn thuần là vấn đề khoa học, mà còn là vấn đề thần học cần phải được nhìn bằng một nhãn quan thần học và phải tìm kiếm những giải pháp dưới ánh sáng thần học.

Để kết luận, chúng ta có thể chọn một đoạn trong chương hai của chính Thông điệp Laudato Si’: “Một nền linh đạo lãng quên Thiên Chúa là Đấng toàn năng và là Đấng Tạo Hóa thì không thể chấp nhận được. Kết cục của nó sẽ là tôn thờ các quyền lực trần thế, hay chính bản thân chúng ta chiếm đoạt vị thế của Thiên Chúa, thậm chí đến mức công bố một quyền vô hạn để chà đạp lên công trình tạo dựng của Người. Cách tốt nhất để khôi phục người nam và người nữ về đúng vị trí của họ, là đặt dấu chấm hết cho sự công bố quyền thống trị tuyệt đối trên trái đất, là công bố thêm một lần nữa về hình tượng của Người Cha – Đấng Tạo Hóa và chỉ mình Người làm chủ thế giới này. Nếu không thì con người sẽ luôn tìm cách áp đặt luật lệ và lợi ích của họ trên thực tại” (LS 75).

Nguồn: gpquinhon.org 

[1] Sách Giáo lý của Hội Thánh công giáo, số 280.

[2] “Ngay từ đầu, Hội Thánh thời các Tông đồ đã diễn tả và lưu truyền đức tin của mình bằng những công thức ngắn và có giá trị chuẩn mực đối với mọi người (x. Rm 10,9; 1Cr 15, 3-5). Không lâu sau đó, Hội Thánh lại muốn thu thập những điểm cốt yếu của đức tin vào những bản tóm lược mạch lạc và rõ ràng, chủ yếu dành cho những người chuẩn bị lãnh nhận bí tích rửa tội” (Sách Giáo lý của Hội Thánh công giáo, số 186).
“Các bản tổng hợp đức tin đó được gọi là các ‘Bản tuyên xưng đức tin’, vì chúng tóm lược đức tin mà các Kitô hữu tuyên xưng. Chúng được gọi là ‘Kinh tin kính’ vì thường bắt đầu bằng thuật ngữ ‘Tôi tin kính’. Chúng cũng còn được gọi là các ‘Tín biểu’ (Symbola fidei)” (Sách Giáo lý của Hội Thánh công giáo, số 187).

[3] BÊNÊĐICTÔ XVI, Giáo lý (9.11.2005), 3: Giáo lý 1 (2005), 768.

[4] Sách Giáo lý của Hội Thánh công giáo, số 284.

[5] Sách Giáo lý của Hội Thánh công giáo, số 295.

[6] Sách Giáo lý của Hội Thánh công giáo, số 2416.

[7] GIOAN PHAOLÔ II, Giáo lý (30.01.2002), 6: Giáo lý 25/1 (2002), 140.

[8] HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC CANADA, ỦY BAN XÃ HỘI, Thư mục vụ Chúa yêu thương tất cả mọi loài hiện hữu… Mọi sự thuộc về Ngài, lạy Thiên Chúa của Sự Sống (4.10.2003), 1.

[9] HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC NHẬT BẢN, Tôn kính sự sống. Sứ điệp cho Thế Kỷ XXI (01.01.2000), 89.

[10] GIOAN PHAOLÔ II, Giáo lý (26.01.2000), 5: Giáo lý 23/1 (2000), 123.

[11] GIOAN PHAOLÔ II, Giáo lý (02.8.2000), 3: Giáo lý 23/2 (2000), 112.

[12] Sách Giáo lý của Hội Thánh công giáo, số 341.

[13] TÔMA AQUINÔ, Summa theologiae, I, q. 104, art 1-4.

[14] TÔMA AQUINÔ, In octo libros Physicorum Aristotelis expositio, Lib. II, lectio 14.

[15] Sách Giáo lý của Hội Thánh công giáo, số 340.

[16] TÔMA AQUINÔ, Summa theologiae, I, q. 47, art. 1.

[17] Ibid.

[18] JEAN-PAUL MARÉCHAL, “L’éthique écologique de la Bible”, trong Presses de Sciences Po, 2006/2, No. 33, tr. 196.

[19] JEAN HASPÉRIN, “Le Judaïsme”, trong Travail, cultures, religions, Anthropos, Paris, 1983, tr. 55.

[20] Sách Giáo lý của Hội Thánh công giáo, số 398.

[21] Sách Giáo lý của Hội Thánh công giáo, số 400.

[22] Sinh thái học chiều sâu hay triệt để là một triết thuyết về sinh thái của thời hiện đại, với đặc tính là bảo vệ giá trị nội tại của các sinh vật và thiên nhiên, tức là giá trị độc lập với lợi ích của chúng đối với con người. Arne Næss là người đã sáng tạo ra thuật ngữ này trong một bài báo xuất bản lần đầu tiên năm 1973 với tựa đề: “The Shallow and the Deep Long Range Ecology Movement”.
Xem https://fr.wikipedia.org/wiki/Écologie_profonde.

[23] JEAN-PAUL MARÉCHAL, “L’éthique écologique de la Bible”, Sđd., tr. 187.

[24] Xem LYNN WHITE Jr., “The Historical roots of our ecological crisis”, được trích dẫn trong JEAN-PAUL MARÉCHAL, “L’éthique écologique de la Bible”, Sđd., tr. 187.

[25] CATHERINE CHALIER, L’Alliance avec la nature, Cerf, coll. “La nuit surveillée”, Paris 1989, tr. 73.

[26] Thánh Giustinô nói về “hạt giống của Lời” trong thế giới: xem II Apologia 8,1-2; 13, 3-6.

[27] Sách Giáo lý của Hội Thánh công giáo, số 1046.

[28] BÊNÊĐICTÔ XVI, Thông điệp Caritas in Veritate (29.6.2009), số 51.

[29] Giáo lý của Hội Thánh công giáo, số 2418.

[30] HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC DOMINICA, Thư mục vụ Mối tương quan của con người với thiên nhiên (21.01.1987).

Nguồn: gpquinhon.org